Bài hát và suy niệm (09.10.2022 – Chúa Nhật XXVIII Thường Niên năm C)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

NL: NHỮNG KẺ TÌM CHÚA

ĐC: THÁNH VỊNH 97

Chúa đã  công bố ơn cứu độ trước mặt chư dân.

DL: TÌNH YÊU MẾN

HL: CHÚA ĐÃ YÊU CON

KL: ĐỀN TẠ MẸ

Lời Chúa: 2V 5,14-17; 2Tm 2,8-13; Lc 17,11-19

Bài đọc 1: 2 V 5,14-17

Bài trích sách các Vua quyển thứ hai.

Thời ấy, ông Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua nước A-ram, mắc bệnh phong hủi. Vậy ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.

Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông vào, đứng trước mặt ông ấy và nói : “Nay tôi biết rằng : trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây.”  Ông Ê-li-sa nói : “Có Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả.” Ông Na-a-man nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối.  Ông Na-a-man nói : “Nếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.”

Bài đọc 2: 2 Tm 2,8-13

Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-mô-thê.

Anh thân mến, anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít, như tôi vẫn nói trong Tin Mừng tôi loan báo.  Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích !  Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Ki-tô Giê-su, và được hưởng vinh quang muôn đời.

Đây là lời đáng tin cậy :

Nếu ta cùng chết với Người,
ta sẽ cùng sống với Người.
Nếu ta kiên tâm chịu đựng,
ta sẽ cùng hiển trị với Người.
Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.
Nếu ta không trung tín,
Người vẫn một lòng trung tín,
vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (Lc 17,11-19)

11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê.12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa13 và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi! “14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch.15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri.17 Đức Giê-su mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này? “.19 Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”

 

Vinh quang cho lòng tri ân

Phận người! Phận người!

Tướng Na-a-man giận dữ đòi bỏ đi, vì ngôn sứ Ê-li-sa bảo ông xuống sông Gio-đan tắm bảy lần. Ông hậm hực nghĩ và so sánh “Ta cứ nghĩ bụng là thế nào ông ấy cũng đích thân đi ra, rồi đứng mà cầu khẩn danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông ta. Ông ta sẽ quơ tay lên đúng chỗ phung hủi mà chữa khỏi. Nước các sông A-va-na và Pác-pa ở Đa-mát chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Ít-ra-en sao? Ta lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch hay sao?” Ông quay lưng lại và tức tối ra đi.” (2V 5,11-12) Chẳng phải vô tình Thánh Kinh ghi lại lời tâm tư của tướng Na-a-man, Thánh Thần muốn cho chúng ta một lần nữa nhận ra phần lý trí thường thắng đức tin ở trong ta, làm nên sự tăm tối, tầm thường và yếu đuối ở nơi ta. Một bài học thường xảy ra trong cuộc sống, trước lời răn bảo bởi người của Thiên Chúa, chúng ta giống như Na-a-man thay vì dễ dàng vâng phục trọn hảo lại đem lý trí của phàm nhân để phân tích và chọn lựa.

Nhưng ở đây, phúc thay cho ông Na-a-man có những đầy tớ trung thành và đơn sơ “ Bấy giờ, các tôi tớ của ông đến gần và nói: “Cha ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó, chẳng lẽ cha lại không làm? Phương chi ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch!” (2V 5,13) Tướng Na-a-man làm theo lời khuyên của đầy tớ và được sạch. Bài học này, hữu ý trong Thánh Thần, chúng ta có cơ hội để thấy những tâm hồn đơn sơ ít học với đức vâng phục đã thắng được học thức, mưu trí và dũng mãnh của tướng Na-a-man. Cũng đúng theo lời Chúa Giê-su đã ca tụng Chúa Cha “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Lc 10,21)

Mặc dù vậy, khi đã có chỗ đứng cho đức tin mình, ông Na-a-man thốt lên một lời xác tín hết sức cảm động “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en… vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài ĐỨC CHÚA.” Một lời tuyên xưng làm lay động trái tim ta, một đức tin mới mẽ mà chân thành và mạnh bạo dường nào! Thử hỏi các con thỉnh thoảng có phát ra được một tâm nguyện tương tự như thế không? Nếu có, thật phúc cho các con. Nếu không, đức tin các con còn xa Chúa lắm lắm!

Đó là những bài học bên lề của lời Chúa hôm nay, còn ý chính: Na-a-man đã được Thiên Chúa chữa lành một căn bệnh nan y thời đó, qua lời chuyển cầu của ngôn sứ Ê-li-sa. Người của Thiên Chúa không đòi buộc tướng Na-a-man làm điều cả thể lớn lao, nhưng đòi vâng phục trọn hảo. Bảy lần tắm dưới sông Gio-đan, bảy lần vâng phục liền được tắm trong ân sủng của trời cao. Thần Khí muốn chúng ta hãy sống vâng phục trọn hảo để được Chúa thanh tẩy mọi tì ố của linh hồn!

Từ đức vâng phục ấy xây nền móng cho cuộc đời đức tin, nhờ đó chúng ta sẽ hiểu được cách thấu đáo giá trị của lời dạy thánh Phao-lô dành cho môn đệ Ti-mô-thê của ngài. Bài đọc hai, một lời khuyên mang nội dung “bản tường trình đức tin” về Đức Ki-tô và cách sống tốt đẹp cho niềm tin ấy.

“Đây là lời đáng tin cậy:
Nếu ta cùng chết với Người,
ta sẽ cùng sống với Người.

Nếu ta kiên tâm chịu đựng,
ta sẽ cùng hiển trị với Người.”

Có được mấy người tin Chúa đến mức dám “cùng chết với Người”? Một thực tế đầy trăn trở, thật hiếm hoi mới có được một người dám dấn thân trọn vẹn cho Chúa, vì Chúa. Dám yêu Chúa và yêu cả nỗi niềm đau thập tự của Người, tránh xa không bước vào lối mòn Tông đồ trưởng Phê-rô từng để lại: vì nỗi sợ Phê-rô đã chối Thầy. Cố theo Thầy để rồi chối Thầy, cho dù Thầy đã báo trước cho con! Không phải phũ phàng tình Thầy lắm sao con?

Đa số, chẳng phải dù tin Chúa vẫn vụ lợi cho cuộc sống ở đời này, cầu nguyện với Người nghe tha thiết lắm! Nhưng xét lại lời cầu nguyện ấy chứa vô số những lời cầu xin: xin cho con… Xin cho được để thỏa lòng con, theo như con muốn thế này hay thế kia, tính toán cho giữ được phần lợi nào đó theo ý riêng mình. Trong lúc đó, chẳng hề đoái hoài đến tâm trạng của Chúa, không biết Người có muốn điều ta xin hay không nữa? Thậm chí nhiều khi còn xin những thứ lợi lộc cho bản thân theo tâm lý thường tình thế tục khiến Chúa phải buồn. Hỏi nhân gian, biết tìm đâu ra thứ tình mến

“Em ôm lấy thi hài đang lạnh giá

Ghì vết thương chằng chịt khắp châu thân,

Hôn lên tim vỡ toát bởi nhân trần

Đau đớn gọi: “Ôi tình yêu đã chết!”

Em ve vuốt máu tóc Chàng bê bết

Khẽ nâng niu vết thủng cả tay chân,

Đôi tay ấy từng ban phát ân cần

Nguồn mạch sống muôn đời cho nhân loại!

Ôm xác chàng, con tim đau quặn thắt

Huyệt mộ sâu, còn chỉ có em thôi!

Ôi tình yêu! Máu lạnh ngắt môi côi

Hôn thương tích làm linh hồn vỡ lệ.

Chàng có biết tình nương đau xiết kể

Dòng châu sương nức nở chẳng ngừng rơi,

“Hỡi tình yêu! Em trân trọng một đời

Sao bỏ em cô đơn nơi huyệt thế!”

Thơ run rẩy lau vết thương bằng lệ

Bằng tơ vàng ánh thỏ ngọc chơi vơi,

Bằng nhạc tình thỏ thẻ khóc hoa rơi

Tràn âu yếm ngỡ ngàng “tình yêu chết!”

Mùa đông em, tình yêu ơi, chưa hết!

Ôm ấp chàng, tẩm liệm thật cao sang,

Đây nhụy thơ và những cánh hoa vàng

Hương tình ái chứa chan xây mộ ngọc!

Hỡi tình yêu, chàng mau mau chỗi dậy

Kẻo nhân gian thoi thóp đứt hơi tàn,

Xuân giẫy chết, hoa ruồng rẫy hương tan

Và ánh sáng rẩy run tù huyệt lạnh!

Em mím môi, siết con tim cô quạnh

Khóc vấn tang lên hồn vỡ câu thơ,

Nhạc rã rời, rơi từng nốt ngẩn ngơ

Người yêu nhỏ chín sầu đêm canh thức.

(Thứ Bảy Tuần Thánh 19.4.2014)

Xây được nền móng đức tin và tình yêu mạnh mẽ ấy, chúng ta có thể xây lên lâu đài sủng ân thần khí tráng lệ như mong muốn của Thánh Thần nơi ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay: Một đức tin có thể sinh ra hoa trái cho lòng tri ân thơm ngát cả thiên đàng. Bởi vì trong thực thế, như lời trình thuật của Tin Mừng, mười người phung hủi được Chúa Giê-su chữa lành. Nhưng chỉ có một người quay lại thể hiện lòng tri ân. Thật chua chát cho xác suất có được lòng tri ân từ giữa những người đã tin. Đúng vậy, cả mười người họ đều tin và vâng theo lời Chúa Giê-su, họ mới được chữa lành. Thế mà, chỉ có một người quay lại tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa.

Sự thật cuộc sống đức tin người tín hữu, trong đời thực hôm nay cũng có khác chi đâu. Bởi không có lòng tri ân nên có vô số người đã phản bội Chúa bằng cách tự cho phép mình phạm tội trọng, dù đó là tội giết con hay đồng tính, tà dâm hay phạm thánh… Nhân loại đồng loạt phũ phàng lên nỗi đau cùng tột của Chúa Chiên Lành.

Nếu xác tín mình là con của Chúa, các con ơi, hãy dứt lòng tránh xa tội lỗi, bỏ đam mê ham hố sự thế trần. Có như thế các con mới mở được mắt linh hồn để chiêm ngưỡng những điều cao diệu mà thánh Phê-rô từng nói “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1Pr 1,7) “Đức tin quý hơn vàng gấp bội” chân lý này mang lại sự sống đời đời và vinh quang vĩnh cửu, các con hãy theo đuổi và chăm sóc cho đức tin mình ngày càng lớn lên mới không phụ ân tình cứu chuộc của Chúa Giê-su.

Hãy biết sống đức tin với lòng tri ân Thánh Tâm Thương Xót Vô Biên Chúa Ba Ngôi, tri ân thật sâu sắc các con ơi!

Tình Yêu Hoa Cỏ

Lòng tin vâng phục và biết ơn

Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari (đất của dân ngoại) và Galilê. Khi Người vào làng, có mười người phong hủi (cả người Do Thái và Samari) đón gặp Người, nhưng họ dừng lại từ đằng xa vì thân phận cùi, rồi đồng thanh kêu to: “Lạy Thầy Giêsu, xin rủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17,13). Chuyện hay ở đây là cả người Do Thái và người ngoại cùng biết chạy đến với Thầy Giêsu. Họ bị cùng một bệnh, cùng đau khổ, cùng bị loại trừ… Sự hiệp tâm này xóa đi hàng rào ngăn cách với dân ngoại. Họ biết thương nhau, ở chung với nhau, chia sẻ với nhau, cùng “kêu lớn tiếng” với Người.

Đức Giêsu chưa chữa lành ngay, nhưng giục họ đi trình diện tư tế. Họ liền vâng nghe và làm theo ý Chúa. Quả nhiên đang trên đường đi trình diện tư tế thì họ được sạch chứng bệnh quái ác đó. Nhưng câu chuyện Tin Mừng không kết ở đây, mà xảy ra là anh dân ngoại được khỏi lập tức quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Chúa. Anh chỉ biết sấp mình phủ phục dưới chân Chúa mà tạ ơn, có lẽ với hết cả tấm lòng, hết sức. Lòng tin, sự vâng phục, lòng chân thành biết ơn của anh thật đáng nể. Cảnh chênh lệch thái độ giữa hai hạng người làm Chúa phải nghĩ ngợi mà thốt lên: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17,17-18).

Có lẽ chín người kia đi trình diện tư tế, được nhập lại cộng đoàn sinh hoạt vui vẻ, hết khổ đau tủi nhục lại an nhiên mà quên người đã mang lại tự do hạnh phúc cho mình. Còn anh ngoại giáo sẵn lòng tin mến biết ơn, cảm nhận rõ tình thương của Chúa, nên anh quay trở lại để “gặp gỡ” Đấng đã làm cho anh được sạch. Người khích lệ anh: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” và Người khẳng định rằng: “Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông”. (Lc 17,19). Phút gặp gỡ này đem lại cho anh  niềm vui hạnh phúc lớn hơn cả ơn được khỏi bệnh nữa. Gặp gỡ được Đấng thi ân thì hạnh phúc còn lớn lao hơn những gì mình đã được. Anh tôn vinh vì anh nhận thấy tình thương còn lớn lao hơn những thứ khác. Chính Chúa đã chứng nhận lòng anh, phút gặp gỡ này này đã làm nên lịch sử và làm cho cuộc đời anh đổi thay. Anh sẵn sàng tuyên xưng Chúa và sẽ thành lời tạ ơn suốt cả cuộc đời. Những người không nhận ra những ơn mình đã nhận được thì không biết tạ ơn. Còn ai nhận ra và biết cám ơn thì càng thấy mình hạnh phúc hơn gấp bội. Bởi vì lời tạ ơn chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng được tạ ơn lại là hồng phúc để đem lại ơn cứu độ cho chúng con.

Đức tin luôn khởi đi từ lòng khát khao ước muốn cách mãnh liệt, sẵn sàng tìm kiếm và làm theo lời dạy của Chúa. Câu chuyện của anh Samari hôm nay thật giống chuyện của ông Na-a-man, ông quan lớn nhất trong triều đình ngoại giáo trong bài đọc I. Ông vâng phục người của Chúa, kiên trì xuống tắm sông bảy lần rồi được khỏi. Ông đã trở lại gặp người của Chúa để tạ ơn và ông đã tuyên xưng đức tin vững vàng một cách công khai: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đâyNếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa”. (2V 5,15.17). Trong niềm vui hạnh phúc nên người cho kẻ nhận “giành nhau” mà từ chối. Ân thiêng nhận được còn lớn hơn gấp bội, chứ không dừng lại ở vật chất hay được cái này, cái kia.

Trong bài đọc II, thánh Phaolô cũng quả quyết: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.” (2Tm 2,11-13).

Lạy Chúa, tình thương Chúa bao la, trải rộng trên hết mọi người không trừ ai. Xin Chúa cho con luôn biết nhìn vào những gì chúng con đang có, mà cảm nhận, tạ ơn Chúa với lòng biết ơn chân thành của những người con luôn được Cha bảo bọc yêu thương trong từng phút giây. Ước gì cả đời con sẽ trở thành một bài ca, thành lời tạ ơn không ngừng dâng lên Thiên Chúa tình thương. Amen.

 Én Nhỏ

“Thi ân mặc niệm, thọ ân mặc vong”

 

1. Ghi Nhớ:

“Không phải mười người đều được sạch sao?Thế thì chín người kia đâu?Sao không thấy ho trở lai tôn vinh Thiên Chúa?”

2. Suy Niệm:

Một người hành nghề lái xe taxi.Chiều hôm đó ông trở về nhà với bộ dạng mệt mỏi và buồn rầu! Ông tâm sự với vợ con. Hôm nay sau khi đưa rước khách xong, định trở về nhà, thì phát hiện có chiếc ví mà một người khách nào đó đã để quên lại trên xe.

Ông phải lái xe chạy lòng vòng để tìm kiếm nhà người chủ của nó. Khi kiếm được nhà rồi, ông vào gõ cửa. Một người đàn bà ra mở, ông nói: “Cái ví này có phải là của bà không? Tôi thấy nó trên xe,nên mang trả lại”.

Người đàn bà nhận lấy cái ví mở ra xem, rồi nói:  Phải, nó chính là của tôi. Chào ông. Rồi đóng cửa đi vào nhà! Kể xong, câu chuyện, ông than rằng: “Phải chi sau khi nhận lại đồ đã mất, bà ấy cho tôi được một lời cám ơn.”

Thường thì khi làm ơn cho ai,người làm ơn nhớ mãi. Nhưng khi nhận ơn của một ai đó thì họ lại hay quên! Vì thế nên cổ nhân đã dạy “Thi ân mặc niệm, thọ ân mặc vong” (Làm ơn thì đừng nên nhớ, thọ ơn đừng nên quên.)

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho mười người mắc bệnh cùi, nhưng sau khi lành sạch, chỉ có một người trong số họ trở lại tìm Chúa để cảm tạ và tôn vinh Ngài mà thôi !

Cũng giống như những người bị bệnh kia, Trong cuộc đời của mình, chúng ta đã nhận lãnh được rất nhiều ân huệ của Thiên Chúa, của Mẹ Maria, các Thiên Thần và các Thánh, cũng như đã nhận được bao công ơn của cha mẹ, anh em, họ hàng và những người chung quanh. Vậy chúng ta đã có thái độ và tâm tình gì với những ân tình đó?

Đối với người trần, với quyết tâm, thiện chí và nỗ lực, thì chúng ta có thể bằng cách này hay cách khác đền đáp được phần nào những ân nghĩa đó! Nhưng đối với Thiên Chúa, Đức Mẹ và các Thánh thì chúng ta chẳng có gì mà đáp đền cho được cả!

Việc duy nhất chúng ta có thể làm để bày tỏ tấm lòng tri ân và cảm tạ là sống thực hành lời Chúa dạy và siêng năng tham dự thánh lễ hàng ngày.

Như việc trở lại tạ ơn Thiên Chúa của người Samaria, thì anh lại nhận thêm được một hồng ân nữa: đó là sự lành sạch trong tâm hồn, mà 9 người kia vì vô ơn nên họ chẳng nhận được, thì việc tham dự thánh lễ  cũng vậy: chúng ta cùng với chủ tế dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa Cha qua hy lễ hiến tế của chính Con Một Ngài là Đức Giêsu để cứu chuộc nhân loại, trong đó có cả chúng ta.

Như vậy, chúng ta vừa tạ ơn Thiên Chúa vừa được nhận lãnh bao ơn lành mà Thiên Chúa thông ban qua việc sôt sắng tham dự thánh lễ, như lời kinh tiền tụng IV diễn tả: “Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng. Nhưng việc chúng con tạ ơn Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”.

3. Cầu Nguyện:

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra  bao ơn lành Chúa đã tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng con dù chúng con bất xứng, chẳng có công trạng gì. Xin ban cho chúng con biết dùng cả cuộc đời mình để sống  trong tâm tình ca tụng và tri ân. Xin Chúa trả ơn cho những người mà chúng con đã thọ ơn mà vì sự giới hạn và bất lực của mình mà chúng con không thể nào đền đáp được. Xin tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ. Amen.

4. Thực Hành Lời Chúa:

Mỗi ngày cố gắng đi tham dự thánh lễ. Sau khi thức dậy,và trước khi đi ngủ tạ ơn Chúa bằng việc đọc một kinh cám ơn.

ĐA MINH TRẦN VĂN CHÍNH

 

Mục lục

1. Lòng biết ơn.  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Đừng quên cám ơn  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Lời cám ơn và tạ ơn (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Mười người phong cùi (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Ca tụng Chúa  (Lm. Vũ Đình Tường)

6. Đón gặp Chúa  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Vượt lên chính mình (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Lòng biết ơn và lòng tin (Teresa Tuyết Ngọc, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

9. Biết ơn-  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Vô ơn, biết ơn  (Lm. Giacobe Phạm Văn Phượng)

11. Tạ ơn là một biểu hiệu của lòng tin  (Lm. Đỗ Bá Công)

12. Tán tụng hồng ân  (Lm. Vũ Minh Nghiễm)

13. Sống tri ân  (Lm. Bùi Quang Tuấn)

14. Mười người phong cùi. (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

15. Một trên mười  (Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)

16. Lòng biết ơn-  (An Phong)

17. Ơn người, ơn đời  (PM. Cao Huy Hoàng)

18. Sao không quay lại để tạ ơn?  (Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

19. Thể hiện lòng biết ơn (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

20. Mười người phong cùi- (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

21. Chứng trầm kha  (Trầm Thiên Thu)

22. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 28 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

23. Gặp Đấng Kitô  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

24. Hãy là người biết ơn (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

25. -Lòng biết ơn  (Lm. John Nguyễn)

26. “Mắc nợ!” (Lm. Giuse Nguyễn)

27. Sống tâm tình cảm tạ Thiên Chúa  (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

28. Bệnh phong cùi  (Jos. Hồng Ân)

29. Ý nghĩa của phép lạ (Phêrô Nguyễn Văn Hương)


LÒNG BIẾT ƠN.

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Ở đời, người ta nhận ơn thì nhiều và cám ơn thì chẳng mấy khi. Khi chọn các Bài đọc Lời Chúa cho các Thánh lễ tạ ơn, mới thấy trong Kinh Thánh rất ít đoạn nói tới việc người đã nhận ơn mà biết tạ ơn Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong số ít ỏi đó, mà nội dung cũng cho thấy tỷ lệ rất thấp (1/10) những người tạ ơn, vì trong số mười người được chữa lành, chỉ có một người trở lại nói lời cám ơn vì đã được khỏi bệnh. Lòng biết ơn hiếm hoi là vậy, ngay cả trong mối tương quan giữa con người với nhau. Người ta dễ quên những điều tốt đẹp người khác làm cho mình. Trong khi đó, những sơ suất, những xúc phạm thì lại nhớ rất lâu và biến thành “thù dai”, đợi cơ hội trả thù.

Naaman là một tướng lĩnh người Syria, tức là người “ngoại đạo” theo cái nhìn của người Do Thái. Câu chuyện ông được chữa lành cũng nhiều rắc rối gian truân. Ông đã qua bao nhiêu thày mà chẳng khỏi bệnh cùi. Trong khi đó, tương lai và sự nghiệp của ông có nguy cơ bị tiêu tan do chứng bệnh nan y này. Hành trình đến gặp ngôn sứ Elisê, người của Thiên Chúa, cũng gian truân không kém. Vị ngôn sứ xem ra không mặn mà, trong khi “bệnh nhân” nghĩ mình phải được ưu tiên trọng vọng và chăm sóc đặc biệt. Người của Thiên Chúa chỉ có một lời chỉ dẫn duy nhất: ra tắm bảy lần nước sông Giođan. Sau nhiều phản ứng dữ dội, vị tướng người Syria đã chấp nhận lời khuyên này và ông đã đạt được kết quả như lòng mong muốn. Da thịt ông trở nên như da thịt của đứa trẻ. Ông trở lại tôn vinh Thiên Chúa. Dưới ngòi bút của tác giả sách Các Vua, không chỉ cá nhân ông Naaman nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, nhưng còn cả dân ngoại. Vị tướng người Syria đại diện cho các dân ngoại tuyên xưng: “Thật, tôi không biết có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israen”. Naaman đã bày tỏ lòng biết ơn đối với Chúa, là Đấng đã chữa lành ông. Nếu vị Ngôn sứ ra đón tiếp ông nồng hậu và dùng phương pháp trần gian để chữa ông lành bệnh cùi, chưa chắc ông đã nhận ra quyền năng của Chúa, mà sự thán phục chỉ dừng lại nơi một con người là vị Ngôn sứ mà thôi. Việc Naaman xin đất chở về quê, cho thấy niềm tin tuyệt đối của Ông vào Thiên Chúa, để rồi từ nay, ông sẽ chỉ tôn thờ một mình Ngài.

Niềm tin vào Thiên Chúa được củng cố khi người tin nhận ra những điều kỳ diệu Ngài đã làm. Phaolô là một chứng nhân về điều này, qua việc ông bị giam tù. Mặc dù thân xác ông bị xiềng xích, nhưng Lời Chúa không bao giờ bị xiềng xích. Ông khẳng định điều ấy, vì thấy Chúa vẫn thực hiện những điều kỳ diệu qua lời rao giảng của Ông. Lời Chúa vẫn tiếp tục sinh hoa kết trái, ngay trong chính cảnh tù đày. Vì vậy, Phaolô khuyên nhủ người môn sinh của mình là Timôthê hãy noi gương ông mà kiên trì, đồng thời nhận ra: giữa những đau khổ thân xác, tâm hồn vẫn chan chứa niềm vui và hy vọng. Như Đức Giêsu đã chịu khổ hình và đã sống lại vinh quang, nếu ai chịu khổ hình với Người thì cũng sẽ được vinh quang với Người.

Cũng như Naaman là một người ngoại, người cùi được chữa lành trong Tin Mừng cũng là người Samari. Người Do Thái thường nhìn người Samari một cách khinh bỉ và coi thường. Ấy vậy mà anh lại nhận ra quyền năng của Đấng vừa chữa mình khỏi bệnh, để rồi trở lại sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người. Cử chỉ sấp mình nói lên sự thờ phượng kính tôn. Khi diễn tả chi tiết này, tác giả Luca muốn nói với chúng ta: người được chữa lành tuy là người ngoại, mà anh lại tôn thờ Đức Giêsu và tôn xưng Người là Đấng Tối cao. Sự tôn thờ cũng được thể hiện trong lời van xin của mười người cùi: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!”. Đó cũng chính là lời van xin của chúng ta khi sám hối khởi đầu phụng vụ Thánh Thể. Thánh sử Luca cũng nói với chúng ta: đừng nhìn người khác với cái nhìn thành kiến, nhưng hãy thấy cái tâm và lòng tốt của họ.

Mỗi phút giây trong cuộc đời, chúng ta đều đón nhận những ơn lành Chúa ban. Người vô tín không nhận ra điều đó và họ cho là ngẫu nhiên. William Arthur Ward đã viết: “Ngày hôm nay Chúa đã cho bạn món quà là 86,400 giây. Bạn đã dùng giây nào để nói ‘cảm ơn’ chưa?”.  Nhân vật người cùi trong Tin Mừng, như một lời nhắc nhở chúng ta hãy nhận ra ơn của Chúa để cảm tạ Ngài. Tạ ơn và tôn vinh Chúa còn giúp chúng ta đón nhận thêm những ơn khác Chúa ban.

Cám ơn Chúa, chúng ta cũng biết nói lời cám ơn đối với nhau. Bởi lẽ con người sống trên trần gian không phải là những ốc đảo riêng biệt, nhưng liên đới và phụ thuộc vào nhau. Ý thức điều đó sẽ giúp chúng ta sống hài hoà với tha nhân, tôn trọng những khác biệt để xây dựng cuộc sống nhân ái hoà bình.

“Trái tim không biết ơn sẽ không tìm được sự hạnh phúc. Khi có lòng biết ơn, chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc từng giờ” ( Henry Ward Beecher).

 

.

ĐỪNG QUÊN CÁM ƠN

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Một lần, trong dịp kỷ niệm chịu chức của 1 linh mục bạn, tôi thấy ấn tượng  về lời cám ơn cuối lễ, một lời cám ơn thật chân thành, đầy cảm xúc. Cha ấy nói: “Hôm nay, tôi xin cảm ơn tất cả anh chị em trong ban hành giáo giáo xứ, vì trong thời gian qua đã nhiệt thành cống hiến hết sức mình cho giáo xứ và cá nhân tôi, thành quả giáo xứ có được như hôm nay có sự đóng góp công sức của tất cả mọi người”. Cha còn tâm sự riêng: “Giáo xứ của tôi có nhiều người giỏi lắm, giỏi hơn tôi nhiều”! Câu chuyện trên đối với nhiều người không có gì là mới, nhưng có mấy lãnh đạo đã nhớ cám ơn cộng sự viên của mình.

Ở đời người lãnh đạo thường nghĩ mình là “người giỏi nhất”, là bề trên thì nghiễm nhiên công lao về mình. Đã là “giỏi nhất” thì thành quả hay công lao chỉ thuộc về lãnh đạo tạo ra. Đã là “giỏi nhất” thì chỉ nghe bề dưới “ca tụng”. Đã là “bề trên” thì bề dưới phải phục tùng, nên đâu cần phải cảm ơn kẻ dưới quyền mình.  Đây là nguyên nhân cho  sự kiêu ngạo, độc đoán, gia trưởng trong con người, thích được tung hô và không biết phải khiêm nhu cám ơn mọi người. Đây là nguyên nhân khiến nhiều lần chúng ta cũng quên cám ơn người nhỏ bé hơn chúng ta. Bề trên không cám ơn bề dưới. Cha mẹ không cám ơn con cái. Ông chủ không cám ơn người giúp việc. Khách dự tiệc không cám ơn người dọn cỗ . . . Xem ra người bé mọn luôn thiệt thòi mọi sự, kể cả mong đợi lời cảm ơn cũng không?

Xem ra muốn cám ơn phải biết khiêm nhường. Khiêm nhường để thấy mình nhỏ bé, đáng thương. Khiêm nhường để thấy được quà tặng thật cao quý. Khiêm nhường để thấy hạnh phúc khi được người khác trao ban. Khiêm nhường để nói lời cám ơn với những ai đã giúp đỡ mình, dù là việc nhỏ nhặt nhất nhưng dầu sao họ cũng vì ta mà hy sinh.

Bài phúc âm hôm nay nói tới những 9 người quên cám ơn. Con số quên cám ơn nhiều hơn số biết ơn. Họ không cám ơn, có thể vì nghĩ rằng đây là bổn phận mà Chúa phải làm? Họ không cám ơn, có thể vì thói quen chỉ biết đòi hỏi mà không cần báo đáp? Họ không cám ơn, có thể họ quá tự cao nên không dám cúi xuống nhận ơn và cám ơn.

Rất may trong 10 người vẫn còn 1 người có lòng khiêm hạ để quay lại cám ơn. Lòng biết ơn của anh hôm nay không dừng lại ở việc cám ơn mà điều quan yếu là anh quay đầu lại sấp mình thờ lạy và tôn vinh Chúa. Dù rằng chín người kia đã không quay lại, nhưng số đông không là tất cả. Lương tâm và lòng khiêm hạ đã mách bảo anh quay trở lại để cảm tạ tri ân người đã cứu giúp anh. Chín người kia họ có thể ngại ngùng khi phải cảm ơn, nhưng lòng khiêm hạ nơi anh là nhịp cầu để anh đến với Chúa trong niềm tri ân.

Hóa ra trong cuộc sống lời tri ân cần có sự khiêm hạ. Không có sự khiêm hạ con người sẽ không nhìn thấy sự trợ giúp của tha nhân cũng như của Thiên Chúa để biết sống trong tâm tình tạ ơn. Sự kiêu căng khiến con người chỉ nhìn thấy tài năng của mình, chỉ nhìn thấy công lao của mình mà quên đi sự đóng góp của tha nhân và nhất là tình thương quan phòng của Thiên Chúa.

Thế nên, trong mọi sự hãy biết cám ơn Chúa, cám ơn nhau. Vợ chồng hãy cám ơn nhau vì đã là một phần của nhau để có thể chia sẻ ngọt bùi với nhau. Cha mẹ hãy cám ơn con cái, vì con cái đã luôn ngoan ngoãn vâng lời. Con cái hãy cám ơn cha mẹ, vì cả đời cha mẹ đã hy sinh cho ta. Ước gì chúng ta cũng biết khiêm tốn sấp mình thờ lạy cám tạ Thiên Chúa đã rộng ban cho chúng ta muôn vàn ân phúc. Amen

 

.

LỜI CÁM ƠN VÀ TẠ ƠN

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Lời cám ơn mang đến cho con người những điều tốt đẹp trong tương qua với nhau. Lời tạ ơn đối với Thiên Chúa cũng làm cho con người được thấy sự phong phú của Thiên Chúa ở giữa loài người. Câu truyện Tin Mừng ghi lại chỉ có một người đến tạ ơn, còn chín người kia đâu? Cũng đặt ra cho con người một câu hỏi.

Lời cám ơn giữa con người với nhau.

Lời cám ơn bày tỏ con người khiêm cung, biết trân trọng những việc người khác đã làm cho mình. Lời cám ơn chân thành, không sáo ngữ, rút ngắn được những khoảng cách giữa người và người.

Người nhận cũng vui và người cho cũng vui, khi trao nhau những lời cám ơn thật thà. Con người sống với nhau đâu cần những lớn lao, chỉ một nụ cười, một câu nói nhân từ, một lời cám ơn, một ánh mắt nhìn dễ thương, cũng đủ làm cho cuộc sống thêm phần vui tươi.

Lời cám ơn làm cuộc sống dễ dàng xua đi căng thẳng giữa những công việc, êm đi giữa những bộn bề lo âu, giảm bớt những đau khổ cuộc sống. Hạnh phúc đơn sơ với lời cám ơn thật thà.

Đôi khi cũng cần cám ơn những nghịch cảnh đến vì nhờ đó con người được thêm kinh nghiệm và mạnh sức tiến lên. Không có gì đến với con người mà vô ích nếu nhận ra đó một cơ hội sửa sai và tiến lên phía trước.

Tạ ơn

Hầu như quốc gia nào, dân tộc nào cũng có lễ tạ ơn. Tạ ơn mang một ý nghĩa đặc biệt để nhắc tới một ơn huệ lớn lao của trời, của thượng đế hay Thiên Chúa hoặc tổ tiên đã ban cho dân tộc, quê hương xứ sở mình.

Thông thường đã gọi là lễ lúc nào cũng có phần trang trọng để kính nhớ và hoài tưởng. Khi hoài tưởng những ký ức về những gì đã qua trong quá khứ, người ta muốn nhắc lại cho con cháu sự kiện ghi nhớ về cội nguồn, đồng thời cũng sống lại những ký ức ấy trong hiện tại và cùng ước mong ơn lành đó tiếp tục để được sống tâm tình tạ ơn.

Trong khi chữa lành mười người phong hủi, chỉ có một người đến tạ ơn, lại là người dân ngoại. Câu hỏi chín người kia đâu? Gợi lên biết bao điều đã vô tình bỏ qua trong đời sống.

Thiếu tạ ơn. Cuộc sống đôi khi con người đang sống mất đi ý nghĩa của đời sống, sống như một cỗ máy: ăn, làm, hưởng thụ, nghỉ ngơi, cứ vậy ngày qua ngày. Không thấy gì mới, không cảm nghiệm gì vui, sống như trả nợ từng ngày sống, cứ vui chóng qua rồi lại tiếp tục sống. Vui là mấy mà toàn là buồn sầu, khổ đau!

Không biết tạ ơn. Không bao giờ bằng lòng với cuộc sống mình đang có. Lúc nào cũng cảm thấy thua kém người khác, lúc nào cũng cảm thấy chẳng đủ đầy. Cứ vất vả ngược xuôi, cứ cày sâu, cuốc bẫm trong công việc. Cuộc đời buồn tênh theo con nước trôi, hơn thua nhau giữa đời.

Không cám ơn, chẳng thấy gì mới, không nhận ra điều hay, cứ nghĩ do mình gặp may, do mình tài khéo, hoặc do mình đã cố gắng. Không nhận ra được dấu ấn từ Trời ban cho, nên con người chỉ thấy trách nhiệm hoặc chỉ thấy mình đáng thương trong cuộc sống, nên cứ mãi xin lòng xót thương.

Cám ơn và tạ ơn luôn làm nên đời sống phong phú, nối gần các tương quan với Chúa với anh chị em và quan trọng nhất là mình “đón nhận nhiều hơn những gì mình kiến tạo”.

“Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh” (1Cr 4, 7)

 

.

MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta được đưa đi từ ngạc nhiên này tới bất ngờ khác. Có những câu chuyện làm ta thú vị. có những dụ ngôn làm ta dở mếu dở khóc. Có những thí dụ làm ta nực cười.Có những dụ ngôn gây ấn tượng sâu xa trong cuộc đời con người.Có những chuyện làm ta suy nghĩ nát óc. Vâng, Chúa Giêsu khi đi rao giảng, loan báo Nước Trời, Ngài đã dùng những hình ảnh, những sự việc, những câu chuyện thực trong xã hội Do Thái thời Ngài sống để nói lên Đạo lý, giới răn, luật lệ mà Chúa Giêsu dạy dỗ nhân loại, con người, chúng ta hiểu, nhận ra Thiên Chúa là ai ? Nước Trời ở đâu ? Dụ ngôn mười người phong cùi được Chúa chữa lành nhưng chỉ có một người trở lại tạ ơn Ngài mà người ấy lại là người ngoại giáo khiến chúng ta vô cùng suy nghĩ…

Tin Mừng của thánh Luca 17,11-19 thuật lai cho chúng ta về việc mười người bị mắc bệnh phong được Chúa chữa lành.Cai trớ trêu của du ngôn này là trong mười người phong cùi đã có chín người có đạo, có nghĩa là tin Chúa, còn một người bị xếp vào lại vô đạo, đứng ngoài và chưa biết Chúa. Tất cả những người này đều nghe danh Đức Kitô, đều một cách nào đó tin rằng chỉ mình Đức Kitô mới có thể chữa lanh cho họ được. Bệnh phong là bệnh nan y, bệnh truyền nhiễm lây lan. Họ bị tách ra khỏi xã hội loài người, họ không được đến gần người nào. Từ xa họ đã phải la to lên họ là cùi hủi, hãy tránh xa họ. Họ tủi nhục sống không được như con vật. Họ bị xã hội ruồng bỏ, gia đình ruồng rẫy và mọi người xa tránh. Họ sống nhưng giống như đã chết. Do đó, gặp được Đức Giêsu là niềm mong ước sâu xa của những người bị bệnh phong cùi này. Nghe tin Đức Giêsu sẽ đi ngang qua đó, họ đứng xa xa trông chờ Ngài đi qua để họ van nài Ngài ban ơn huệ chữa lành cho họ. Đứng xa vì họ sợ làm lây nhiễm, làm ô uế kẻ khác.Luật không cho phép họ được tới gần ai. Luật không cho phép họ được tiếp cận với ai.   Cho nên,từ rất xa họ đã lớn tiếng kêu la :” Lạy Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót chúng tôi “. Chúa đã làm cho cả mười người phong được lành sạch.Ngài trả lại sự sống cho họ, đưa họ trở lại đời sống bình thường và cho họ nhập vào xã hội con người…Chúa truyền cho họ phải đi trình diện với các tư tế vì mình đã được lành sạch, để các tư tế xác nhận và cho họ nhập vào, sinh hoạt với tập thể, với xã hội mà lâu nay họ đã bị đẩy xa.

Sau khi được chữa lành và đã trình diện với các tư tế thì chỉ có một người ngoại đạo trở lại tạ ơn Chúa Giêsu. Cái nghịch thường, trớ  trêu nằm ở chỗ :” Chín người được lành sạch có đạo lại không biết ơn Chúa mà chỉ có một người ngoại đạo đã trở lại để cám tạ ơn  Chúa vì tình thương bao la của Ngài “. Vô ơn thường xẩy ra nơi con người. Sự dí dỏm, ngạc nhiên đến ngỡ ngàng khi Chúa hỏi người ngoại giáo :” Không phải cả mười người đều được lành sạch sao, mà chỉ có một mình anh trở lại cám ơn Ta ? “. Xem ra con người dễ vô ơn bội nghĩa. Biết ơn ai một chút cũng phải trả ơn, cũng phải cám ơn . Con người thường ích kỷ muốn người khác biết ơn mình, nhưng mình không cần biết ơn ai. Đáng lẽ con người phải “Uống nước nhớ nguồn “,nhưng thường con người hay “ Vắt chanh bỏ vỏ hay ăn cháo đá bát vv và vv…”. Trường hợp của chín người phong cùi trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng thế . Khi chưa được Chúa chữa lành, họ chỉ ước mong gặp Chúa để xin Chúa thi ân cho họ, nhưng khi được lành bệnh, sạch sẽ rồi, họ lại “ Ăn mật trả gừng “. Họ thật vô ơn đối với Đấng thi ân giáng phúc cho họ,yêu thương, chữa lành bệnh nan y cho họ. Thật thế, người ta dễ vô ơn đối với người khác khi ai cũng hàm ơn nhau.

Vâng, lời của Chúa hôm nay dạy chúng ta bài học thật rõ ràng :

1.Chúng ta luôn phải biết ơn Chúa và cảm tạ tri ân Chúa.

2.Biết ơn Chúa và tạ ơn Chúa, đó là điều ai cũng phải làm vì Chúa chính là Đấng dựng nên ta, ban cho ta sự sống và Ngài tiếp tục dưỡng nuôi ta, đồng thời chúng ta phải biết ơn nhau vì chúng ta   người cách này hay cách khác đều hàm ơn nhau.

Biết ơn và cám ơn nói lên lòng nghĩa thiết của con người vì thiếu những điều này con người sẽ sống ích kỷ và chai đá, như thế sẽ không đi đúng đường lối của Chúa bởi Chúa luôn sống hiếu thảo, luôn biết tạ ơn và biết ơn Chúa Cha. Chúa Giêsu là mẫu gương của sự biết ơn và tạ ơn.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương bắt chước Chúa, luôn biết nói lời biết ơn và cám ơn anh chị em của chúng con. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao những người phong không được tiếp xúc với xã hội, với người khác ?

2.Biết ơn là gì và vô ơn là gì ?

3.Tại sao chỉ có một người phong cùi ngoại giáo được Chúa chữa lành lại biết quay trở lại để cảm tạ Chúa ?

 

.

CA TỤNG CHÚA

Lm Vũđình Tường

Thời xưa mắc chứng cùi hủi là một đại hoạ không những cho cá nhân người đó mà còn cho cả gia đình nạn nhân. Nạn nhân bị xua đuổi ra khỏi cộng đoàn, xóm làng. Thân nhân nạn nhân bị cấm, không được tự do thăm nom, nuôi nấng. Khi xuất hiện nơi công cộng nạn nhân luôn phải hô to ‘dơ bẩn, dơ bẩn’. Kẻ cùng hoạn nạn tụ nhau để vừa nâng đỡ, an ủi để sống còn. Nhóm mười người phong hủi sống ở biên giới vùng Samaria và Galilê may mắn gặp Đức Kitô. Họ cùng lớn tiếng nài van Ngài cứu chữa họ. Chạnh lòng thương Đức Kitô nói với họ. Đi trình diện với vị tư tế để thầy tư tế giúp họ trở lại cộng đoàn, sống cuộc sống bình thường như trước. Lời yêu cầu trên thật là khó, bởi khi gặp thầy tư tế họ biết ăn nói làm sao, ngoài việc nói Đức Kitô bảo họ đến gặp. Bệnh của họ chưa khỏi, da trên cơ thể còn sần sùi, bệnh phong cùi vẫn còn. Khi bị chất vấn lấy đâu ra bằng chứng cho thầy tư tế biết họ đã khỏi bệnh. Biết là khó khăn, họ vẫn tin vào lời Đức Kitô, và họ ra đi. Trên đường đi cả nhóm nhận biết da họ sạch sẽ, tươi mát, không còn bị ngứa như trước. Một trong số đó lập tức quay trở về gặp Đức Kitô và dâng lời cảm ta, ca tụng kì công của Thiên Chúa. Người đó là dân ngoại thành Samaria. Chín người kia cũng khỏi bệnh nhưng không trở lại dâng lời tạ ơn. Thấy thế, Đức Kitô nói với người Samaria. Không phải cả nhóm mười người đều khỏi bệnh sao? Bạn anh đâu, không trở lại tạ ơn Thiên Chúa mà chỉ có một mình anh. Người trở lại tạ ơn Đức Kitô được chữa lành cả bệnh thể xác lẫn tâm hồn, bởi chính Đức Kitô nói với anh.

Đứng dậy mà đi. Đức tin anh đã cứu anh c.19

Chín người kia nhận ơn mà không biết tạ ơn. Họ khỏi bệnh thể xác, họ tin vào điều Đức Kitô nói, nhưng không thực hiện việc tạ ơn. Nhận ơn mà không mang trong lòng tâm tình cảm tạ là một thiếu sót lớn trong đời. Cách hành xử của chín người nhắc nhở chúng ta tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Kitô hữu thiếu dâng lời tạ ơn Thiên Chúa mỗi ngày là một thiếu sót, đó chính là hành động của chín người phong cùi khỏi bệnh. Dâng lời cầu xin và dâng lời cảm tạ là điều không thể thiếu trong đời sống tâm linh. Thực ra, cầu xin là lo cho nhu cầu nơi trần thế; dâng lời cảm tạ là là làm Sáng Danh Chúa. Đây chính là điều Đức Kitô dậy chúng ta khi cầu nguyện. Câu đầu tiên trong kinh Lậy Cha chính là xin cho Danh Cha cả sáng. Như thế dâng lời tạ ơn là làm Sáng Danh Chúa. Làm thế nào để cuộc sống hàng ngày của các Kitô hữu làm cho người khác nhận biết và ca tụng Danh Chúa. Theo tinh thần của kinh Lậy Cha thì việc làm Sáng Danh Chúa chính là lời cầu quan trọng và cần thiết. Xét kĩ hơn sẽ thấy cầu nguyện tồn tại nơi cuộc sống trần gian; ca tụng Thánh Danh Chúa là cuộc sống nơi Thiên Quốc. Khi vào thiên đàng sẽ không còn cầu nguyện. Các thánh nơi thiên quốc, ngoài việc ca tụng Thánh Danh Chúa, các ngài làm công việc chuyển lời cầu của ta lên Thiên Chúa. Ca tụng Danh Chúa vì những kì công Ngài thực hiện cho muôn dân. Ngoài việc tạo dựng vũ trụ, sông ngòi, biển cả, trời cao, núi thẳm, Thiên Chúa còn tạo dựng nên ta, ban cho nhiều đặc ân giúp ta sống an vui, hạnh phúc. Thiên Chúa ban cho ngay cả những điều chính ta cũng không biết để xin nhưng Ngài vẫn ban.

Mười người phong hủi đến với Đức Kitô trong ốm đau, bệnh tật, dơ bẩn nhưng Đức Kitô không chê bai, chỉ trích trái lại còn giúp chữa bệnh cho họ. Chúng ta cũng đến với Đức Kitô với tất cả lòng thành, với đau khổ, bệnh tật và cả tội của ta, phơi bày tra trước mặt Thiên Chúa, xin Ngài thánh hoá, thanh tẩy, chữa lành. Đức tin và tình yêu giúp mở tim và tâm hồn ta ca tụng Thiên Chúa để đón nhận ân sủng Ngài ban. Bởi tình yêu Chúa chứa đựng ơn thánh hoá và ơn tha thứ. Không phải chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn Chúa mà chính là Thiên Chúa không quản ngại dơ bẩn, tội lỗi ta mà ban cho ta làm con cái Chúa. Tình yêu Chúa ban cho tất cả, không trừ một ai. Bất cứ ai thành tâm đến với Ngài đều nhận được ơn Ngài ban; phần chúng ta đừng bao giờ quên dâng lời cảm tạ, bởi dâng lời cảm tạ có lợi cho phần rỗi linh hồn ta.

 

.

ĐÓN GẶP CHÚA

Bông hồng nhỏ

Khi biết mình mắc bệnh, nhất là những bệnh nan y, ai cũng mong mỏi gặp thầy gặp thuốc để được chữa lành. Mắc bệnh đã khổ, bị người thân xa tránh lại càng khổ tâm hơn gấp ngàn lần, bị gạt ra bên lề xã hội thì xem như đã chết. Đó là trường hợp của mười người phong mà thánh sử Luca hôm nay kể lại. Điều đặc biệt hơn là, cả mười người mắc bệnh phong ấy đã không rơi vào cái gọi là “bất cần”, tất cả đều được nhen nhúm trong lòng niềm hy vọng được chữa lành. Niềm hy vọng của họ đặt trọn vào Đức Giêsu.

Khi biết tin Thầy Giêsu vào làng, cả mười người phong đã đồng tâm nhất trí đón gặp Người. Chắc hẳn họ đã phải nương tựa vào nhau trong suốt quãng thời gian mắc bệnh và ngay lúc này đây, họ cùng nhau vượt qua đoạn đường đầy khó khăn để gặp được Thầy. Tiếng kêu của một người thì yếu ớt nhưng cả mười người hợp lực thì tiếng kêu xin không chỉ lớn tiếng hơn mà còn tha thiết hơn nữa. Thầy Giêsu đã chỉ nói: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17, 14) và cả mười người đã lên đường đang khi vẫn còn mắc bệnh. Trong cuộc sống, nhiều lúc, bản thân ta cũng nhận được một lời mời gọi của Chúa, lời mọi gọi lên đường với một niềm tin mạnh mẽ và sâu xa. Quả thật, như mười người phong hôm nay, ta nhận được lệnh truyền nhưng tay chưa chạm tới điều ta mong ước. Chỉ khi dám can đảm lên  đường, bất chấp những khó khăn sẽ xảy đến mà ta vẫn một lòng tín thác nơi tình thương và quyền năng của Thiên Chúa, phép lạ sẽ xảy ra. Đang khi đi trình diện với các tư tế thì cả mười người phong đã được chữa lành. Niềm vui của một người được chia sẻ sẽ được tăng thêm, niềm vui của mười người như một thì quả là tuyệt vời. Trong số họ, có một người đã quay trở lại, anh tìm gặp Đấng đã chữa anh lành bệnh. Những người còn lại, họ tiếp tục đoạn đường.

Điều gì đã thôi thúc con người này quay trở lại gặp Thầy Giêsu? Anh có thuyết phục các bạn mình quay trở lại gặp Người không? Cuộc sống có nhiều lúc đặt ta trước những chọn lựa khó khăn: Chọn đi theo tiếng lương tâm mách bảo hay chọn đi theo quyết định của đám đông. Có lẽ, khi quyết định quay trở lại gặp Thầy Giêsu, anh cũng đã gặp sự phản đối của các bạn. Anh cần đến trình diện với các tư tế để được chứng nhận đã lành bệnh, sẽ trở về báo tin vui cho người thân biết hơn là quay trở lại gặp Thầy Giêsu. Liệu rằng khi quay trở lại, anh có còn gặp được Thầy nữa chăng? Biết bao nhiêu điều cản trở nhưng anh đã một mình vượt qua tất cả chỉ để được gặp gỡ Thầy, để tỏ lòng biết ơn, để tôn vinh Thiên Chúa. Có nhiều khi, ta cũng đi trên con đường Thánh Ý vạch ra và đường ấy lắm lúc là đường đi một mình.

Lạy Chúa Giêsu! Mỗi ngày xin Chúa đặt để trong con niềm thôi thúc mãnh liệt được gặp Chúa. Quả thật, nếu “qua mỗi ngày đời con không gặp Chúa thì ước mơ ươm thơ để làm chi” (bài hát Mỗi ngày đời con- Lm. Thái Nguyên). Mỗi lần gặp Chúa, con tin rằng con được nhận lãnh một nguồn sức mạnh vô biên và được thỏa nỗi khát khao. Xin Chúa cũng giúp con nhận ra những ơn mà con được nhận lãnh từ bàn tay quan phòng của Chúa, những ơn con nhìn thấy và cả những ơn mà con chưa ý thức đó là ơn, con cũng xin tạ ơn Chúa. Amen.

 

.

VƯỢT LÊN CHÍNH MÌNH

Anna Cỏ may

Đã là người, chúng ta không tránh khỏi bệnh tật. Có người đang trên đường thành công, bất chợt biết mình mắc bệnh ở giai đoạn cuối thì thường họ rất khó để đón nhận. Họ vùi mình trong sự rên xiết và than trách số phận của mình. Ngược lại cũng có không ít người vui vẻ và cố gắng vượt qua chính mình mỗi ngày.

Trong Tin Mừng Luca thuật lại câu chuyện mười người mắc bệnh phong cùi đã tìm đến với Thầy Giêsu và được chữa lành. Khi mắc bệnh, họ đã bị mọi người xa lánh và khinh chê. Tuy nhiên, trong thâm tâm, họ vẫn khát khao được khỏi bệnh, được sống và được yêu như bao người khác. Họ chưa từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Họ chỉ được nghe người khác nói cho hay về quyền năng của Ngài. Vậy mà, khi nghe tin Chúa Giêsu đi ngang qua, họ liền đón Ngài từ xa và kêu xin một cách khẩn thiết: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17,13). Trước lời kêu xin tha thiết, Chúa Giêsu đã động lòng thương xót họ. Lòng thương xót ấy không chỉ được thể hiện qua việc Ngài chữa lành bệnh tật về thể xác mà còn tăng thêm niềm tin và đổ tràn niềm vui nơi tâm hồn các ông. Ngài bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17,14). Lời Chúa Giêsu nói có vẻ không liên quan đến việc các ông sẽ được chữa, nhưng họ vẫn lên đường như lời đã nói. Bởi vì trong lòng họ đã đặt niềm tin và sự hy vọng vào Chúa Giêsu. Nhờ niềm tin ấy, họ đã được sạch trên đường đi. Trong số người được sạch, chỉ có một người thay vì đi gặp tư tế, anh đã quay lại tìm Đấng đã chữa mình. Hành động quay lại của anh biểu hiện một con người biết sống tâm tình biết ơn, biết quên đi niềm vui bên ngoài mà đi tìm niềm vui bên trong. Anh nhận ra niềm vui ấy xuất phát từ Chúa Giêsu, nên không gì hơn là anh quay lại tìm Ngài. Anh trở lại lòng tràn đầy hân hoan và tôn vinh Thiên Chúa. Anh sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn. Bây giờ, Chúa Giêsu nói với anh: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17,19). Anh đã hoàn toàn được chữa lành.

Nhìn lại mình, mỗi người chúng ta đang mắc bệnh gì? Chúng ta đang sống với bệnh của mình ra sao? Với tinh thần thế nào? Cha Casaigne và thi sĩ Hàn Mạc Tử là những người mắc bệnh phong cùi. Các ngài không được chữa lành về phần xác nhưng được ban ơn đức tin cách lạ lùng. Các ngài tôn vinh Thiên Chúa bằng cả cuộc đời mình, chấp nhận sống chung với bệnh tật. Với Đức Cha Lambert, Đấng Đại Diện Tông Toà đầu tiên của Đàng Ngoài Việt Nam, trong những ngày cuối đời trên giường bệnh, môi miệng ngài không ngớt nài xin: “Xin thêm nỗi đau khổ, xin thêm lòng kiên nhẫn”. Ngài muốn trở nên giống Chúa Giêsu trên Thánh Giá.

Là Kitô hữu, chúng ta được sống trong lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta có điểm tựa là Chúa Giêsu, tại sao chúng ta không đến kêu xin, không đến lắng nghe và làm theo lời Ngài nói? Đến với Ngài, chúng ta sẽ có được sự bình an, niềm vui và được chữa lành. Chúa Giêsu hằng đứng đó lắng nghe và sẵn sàng ban cho những ai đặt niềm tin vào Ngài. Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy đến với Ngài.

Lạy Chúa! Chúa biết chúng con đang mang trong mình bệnh tật nào. Xin Chúa chữa lành và giúp chúng con nhận ra hồng ân Chúa ban cho chúng con, để chúng con phụng sự Chúa cho xứng đáng ngay trong cuộc sống này. Amen.

 

.

LÒNG BIẾT ƠN VÀ LÒNG TIN

Têrêsa Tuyết Ngọc

Trong cuộc sống, những câu chuyện về sự vô ơn bất hiếu vẫn xảy ra hằng ngày, hằng giờ ngay bên cạnh chúng ta, khiến nhiều người vẫn cho rằng trong xã hội hiện nay đã lãng quên lòng biết ơn, vì người ta chỉ sống với nhau bằng sự sòng phẳng mà không còn liên đới với nhau bằng lòng biết ơn chân thành nữa. Vậy biết ơn là một thái độ mà con người cần phải có, cần học biết để bày tỏ lòng biết ơn với những người đã làm ơn cách vô vị lợi cho chúng ta. Đó là một nghĩa cử cao đẹp mà Chúa đã nhắn gửi cho chúng ta trong bài Tin mừng Chúa Nhật XXVIII TN.

Lời Chúa mời gọi chúng ta phải có một thái độ biết ơn chân thành, phát xuất từ tận đáy lòng mình đối với Thiên Chúa. Thánh Luca đã kể lại câu chuyện về mười người phong cùi đến cầu xin Đức Giêsu: “Lạy Thầy Giêsu, xin rủ lòng thương chúng tôi!” (Lc17, 13) và họ được truyền đi trình diện tư tế, trên đường đi thì cả mười người đều được sạch, nhưng chỉ có một người biết quay lại để cảm ơn và tôn vinh Thiên Chúa, còn chín người kia thì nhanh chóng quên ơn. Có thể họ cho rằng việc họ được sạch là một chuyện tự nhiên chứ không hẳn là nhờ vào quyền năng của Đức Giêsu. Người Samaria là dân ngoại nhưng đã nhận ra Đức Giêsu và bày tỏ lòng biết ơn với Người, Đấng đã chữa lành bệnh cho mình; còn chính những người Israel là dân của Thiên Chúa thì lại tỏ ra vô ơn với Người.

Người Samaria bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Giêsu bằng cách lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Người để tạ ơn Người. Đức Giêsu đã đón nhận lòng biết ơn của anh và trách chín người kia: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy trở lại mà tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này?” (Lc17, 17) Đáng lẽ ra chín người Israel kia là những người phải nhận ra ơn Chúa và bày tỏ lòng biết ơn của họ với Người hơn cả người Samaria này, nhưng đáng buồn thay là họ lại vô ơn mà ngoảnh mặt đi.

Đức Giêsu còn nói với người Samaria: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứ chữa anh.” (Lc17, 19) Lời ấy như đã gội mát tâm hồn anh, anh không chỉ được chữa lành bệnh về thể xác mà còn được chữa cả căn bệnh ở trong tâm hồn và được biến đổi bản thân mà đón nhận ơn đức tin. Thế nên, nếu chúng ta biết nhận ra ơn Chúa ban và biết bày tỏ lòng biết ơn cách chân thành thì Thiên Chúa lại tiếp tục ban ơn cũng như cho ta nhận ra sự hiện hữu và quyền năng của Người.

Hơn hai ngàn năm đã qua kể từ ngày Chúa kể câu chuyện về mười người phong cùi nhưng nhìn vào cuộc sống hôm nay, chúng ta vẫn thấy vấn nạn ấy lặp lại không ít. Đó là thái độ sống vô ơn với Thiên Chúa, với cha mẹ, với anh chị em và với những người xung quanh. Nhiều người tự kiêu, tự mãn cho rằng họ có khả năng làm được mọi sự mà không cần nhờ đến ai, họ quên rằng nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa thì họ sẽ không làm được gì cả, họ quên đi mọi sự đều là ân huệ của Thiên Chúa.

Nhiều lúc chúng ta tỏ lòng biết ơn và cảm mến đối với một người nào đó đã làm ơn cho mình, dù là một việc nhỏ nhoi, nhưng chúng ta lại quên đi những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta lớn lao biết nhường nào. Nhiều người không quan tâm đến việc bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa qua việc thờ phượng Người và đã không cảm tạ Người mỗi khi được nhìn thấy một ngày mới tươi đệp. Lại có người không dám nói cho người khác về Thiên Chúa và về ơn mà Người ban cho chúng ta. Cũng có người biết ơn sự giúp đỡ tận tình của bạn bè hay một ai đó, mà lại không hề biết cảm động và bày tỏ lòng biết ơn đối với ông bà, cha mẹ hay anh chị em mình. Thật là những nghịch lý không đẹp lòng Chúa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra ơn ban của Chúa và biết bày tỏ lòng biết ơn của mình. Trước hết là với Chúa qua việc thờ phượng và tôn vinh Người; sau nữa là biết ơn đối với những bậc sinh thành đã được Chúa ban cho để dạy dỗ chúng con. Xin đừng để chúng con có thái độ vô ơn như chín người Israel trong bài Tin Mừng hôm nay nhưng xin giúp chúng con sống xứng đáng với ân huệ Chúa ban trong từng giây phút trong đời. Amen.

 

.

BIẾT ƠN-

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mười người phong hủi đứng xa,
Cầu xin thương xót, thứ tha tội đời.
Khổ đau gặm nhấm một thời,
Thương thay số phận, ơn trời khấn xin.
Chúa truyền trình diện báo tin,
Nơi đền tư tế, niềm tin tỏ bày.
Đi đường khỏi bệnh thấy ngay,
Một người ngoại giáo, giang tay khấu đầu.
Trở về cảm tạ tình sâu,
Ơn trên đã cứu, con tâu thưa Ngài.
Tạ ơn Thiên Chúa sớm mai,
Đã thương giải thoát, thiên sai phụng thờ.
Chín người lành sạch không ngờ,
Vui mừng hoan hỉ, hững hờ ơn ban.
Quên ơn phụ nghĩa thiên an,
Quay đi chẳng nhớ, vạn ngàn hồng ân.
Xót thương Chúa chữa toàn thân,
Phong cùi sạch sẽ, tinh thần trắng tinh.
Tôn vinh Thiên Chúa hết mình,
Tri ân nhắc nhớ, thật tình mến yêu.

Lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi. Đây là lời van xin của những người phong cùi. Chúa thương xót và đã chữa lành cho họ. Cả mười người phong cùi đều được khỏi bệnh, nhưng có một chi tiết rất hay là chỉ có một người ngoại giáo trở lại chúc tụng và tạ ơn Chúa. Chúa hỏi: Còn chín người kia đâu? Chúng ta thấy nhột nhạt, hình như Chúa đang hỏi mỗi người chúng ta. Còn chín người kia đâu không thấy trở lại tạ ơn Thiên Chúa.

Đời chúng ta là một chuỗi những nhận ơn, nhưng mấy người biết tạ ơn Thiên Chúa. Trong phúc âm kể rằng mười người được chữa lành có một người trở lại cám ơn Chúa. Có cả ngàn người được Chúa thi ân, nhưng khi Chúa vác thánh giá lên núi sọ, chỉ có một người ngoại vác đỡ thánh giá Chúa. Cả một dân tộc chịu ơn, nhưng khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá, chỉ có một người ăn trộm dám công khai lên tiếng bênh đỡ Chúa. Kẻ muốn được ơn thì nhiều, kẻ biết ơn thì quá ít. Làm ơn có thể không cần được trả ơn, nhưng khi đã nhận ơn, chúng ta phải biết cám ơn. Cũng như cho đi có thể không mong đáp đền, nhưng đã nhận ơn, chúng ta có bổn phận phải đền ơn đáp nghĩa.

Đời của chúng ta là một liên đới chập chùng của sự chịu ơn. Muôn vàn hồng ân mà chúng ta đã lãnh nhận từng giây phút trong đời, từ ơn sự sống đến ơn được làm người và được ơn làm con cái Chúa. Trong đời, chúng ta chẳng cho đi bao nhiêu, nhưng đã nhận quá nhiều. Nếu thử một ngày chúng ta ngưng nhận được các mối giây liên lạc, sự giúp đỡ tương trợ, sự yêu thương nâng đỡ và các nhu cầu cung cấp cho cuộc sống thì chúng ta sẽ lập tức trở thành bơ vơ , lạc lõng, nghèo nàn và khốn đốn.

Truyện kể: Có một Rabbi và học trò đi dạo, đang đi đường, gặp một người ăn xin. Anh cho người đó một chút tiền, rồi tiếp tục đi, trong lòng rất sung sướng. Sau một lát, anh cảm thấy bực bội trong người. Khi chợt nhớ lại hồi nãy, người ăn xin không cám ơn anh. Anh đem truyện kể cho thầy Rabbi nghe. Rabbi chăm chú nghe, rồi Rabbi hỏi anh: Khi anh cho tiền người ăn xin, anh cảm thấy sao? Anh thưa: Con thấy rất vui. Rabbi nói: Thế là phần thưởng của con rồi đó. Anh trả lời: Nhưng dù sao họ cũng phải cám ơn con chứ. Rabbi: Thế sao con không cám ơn Chúa. Anh nói: Tại sao con phải cám ơn Chúa. Rabbi tiếp: Vì Chúa cho con cơ hội thể hiện tình thương của Ngài với người khốn khó.

Chúng ta hãy dâng lời tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc suốt cả đời, vì không có giây phút nào chúng ta không nhận lãnh hồng ân Chúa. Càng biết tạ ơn, chúng ta càng trở nên người hơn.

 

.

VÔ ƠN, BIẾT ƠN

Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng

Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, theo thánh Lu-ca. đây là lần thứ ba Chúa đến đây và cũng gần tới ngày Chúa chịu nạn. Khi đi tới gần biên giới Samari và Ga-li-lê, thì gặp 10 người phong hủi van xin Chúa cứu chữa. Chúa không chữa ngay, nhưng bảo họ đi trình diện các tư tế. Đây là luật của người Do Thái, không phải các tư tế làm cho họ khỏi bệnh, nhưng là để xác nhận họ đã khỏi bệnh. Nghe lời Chúa, họ ra đi, và khi đi dọc đường, cả 10 người đều được khỏi, nhưng chỉ có một người trở lại cám ơn Chúa, tỉ lệ một phần mười, thật là đáng buồn. Đây cũng là điều chúng ta chú ý tìm hiểu và suy nghĩ: vô ơn và biết ơn.

Có người nói: “Con người thường hay ích kỷ: muốn người khác phải trả ơn mình, biết ơn mình, còn mình không để ý cám ơn ai”. Hơn nữa, người ta dễ quên ơn hoặc mau quên ơn, cũng như cả năm ngàn người được ăn bánh hóa nhiều lần thứ nhất và bốn ngàn người lần thứ hai; bao nhiêu người được hưởng sóng gió yên lặng, mẻ cá lạ, được chữa lành bệnh tật…Nhưng đến khi Chúa vác thập giá thì chỉ có một người vác đỡ Chúa, đó là ông Si-mon, nhưng là do quân lính bắt vác chứ không phải ông tự nguyện; chỉ có một phụ nữ cảm thương trao khăn cho Chúa lau mặt, đó là bà Vê-rô-ni-ca; rồi khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá thì chỉ có một người dám lên tiếng xưng đức tin, biện hộ cho Chúa là vô tội, đó là một người ăn trộm.

Đời là thế. Lẽ ra phải “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”, “có đi có lại mới toại lòng nhau”, lẽ ra phải “ăn cây nào rào cây ấy”, “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”… Đó là phép xã giao, lịch sự, tế nhị tối thiểu, bình thường, và phải cư xử như vậy mới là người biết điều. Lẽ ra phải như vậy, thì lại “ăn cháo đá bát”, “vắt chanh bỏ vỏ”, “có trăng phụ đèn”, “ăn mật trả gừng”, “ăn sung trả ngải”… Kẻ muốn được ơn thì quá nhiều, kẻ biết ơn, hàm ơn thì lại quá ít, đếm số người biết ơn thì dễ hơn số người vô ơn, vì số người này quá lớn, có những con cháu vô ơn, có những học trò vô ơn, có đủ thứ người vô ơn, thậm chí có người nói một cách chua chát: “Ném cho con chó một khúc xương, nó vẫy đuôi tỏ vẻ cám ơn, còn làm ơn cho một người, thì rồi bạn sẽ thấy người ấy làm gì cho bạn?”.

Chúng ta nhìn nhận rằng: làm ơn thì không đòi trả nghĩa, nhưng đã chịu ơn thì phải biết ơn: “có đi có lại mới toại lòng nhau”. Tuy nhiên, nếu làm ơn mà mong người sẽ trả ơn lại mình thì đó chỉ là một việc bình thường và tầm thường, nếu không muốn nói là xấu, tính toán, ích kỷ và vụ lợi. Nhưng nếu làm ơn mà không đòi trả nghĩa thì đó mới là tấm lòng vàng, cao quý, cao thượng.

Ngược lại, nếu đã chịu ơn thì phải biết ơn. Bổn phận biết ơn không có nghĩa là đổi chác, bồi hoàn, nhưng là một sự bày tỏ điều mình nhận biết về giá trị tinh thần và vật chất đã nhận được. Một món quà chúng ta nhận được, không những có một giá trị vật chất bằng tiền của trong đó, nhưng còn gói ghém bao tình thương, tình cảm quý mến và hy sinh của người cho hay tặng món quà ấy. Có những món quà mà vật chất chỉ là vỏ, còn ruột là tình yêu. Nhận ra được như thế, hiểu được như thế mới thấy, mới biết ơn huệ là gì. Dĩ nhiên, chúng ta đừng chỉ coi những gì lớn lao mới là ơn, bất cứ những gì người khác đem lại cho chúng ta: một niềm vui, một sự bình an, một sự thăm hỏi…đều là ơn và chúng ta phải biết ơn. Chúng ta hãy nhớ: biết ơn người khác làm cho tấm lòng họ càng mở rộng thêm ra, đúng như câu nói: “một lần cám ơn là hai lần xin ơn”, một lời cám ơn được nói ra, không mất mát gì, không tốn kém gì, nhưng sẽ làm phát sinh nơi người làm ơn cũng như người thụ ơn một niềm vui lan tỏa. Một câu cám ơn trên môi miệng có giá trị như vậy, nên nếu chúng ta không biết ơn thì giá trị con người chúng ta chẳng hơn gì chín người phong hủi kia: “ai mà phụ nghĩa quên công, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”. Biết ơn là một tập quán mà mọi người phải học tập, có nghĩa là chúng ta quý mến những gì người khác làm cho chúng ta và không coi chúng là những chuyện dĩ nhiên phải thế, không nhận nhưng không. Khi người khác làm gì cho chúng ta, nhất là những việc chúng ta không có quyền hy vọng được làm, thì việc tối thiểu chúng ta phải làm là nói “cám ơn”. Những người phong hủi không có quyền được chữa lành, nhưng chỉ có một người tỏ ra biết điều trở lại cám ơn Chúa.

Sống với nhau, chúng ta còn phải biết đối xử với nhau như thế, còn phải biết ơn người làm ơn cho mình, thì chúng ta lại càng phải biết ơn Thiên Chúa nhiều hơn nữa. Lòng biết ơn Thiên Chúa là thái độ làm con mà Chúa Giêsu đã làm gương, Ngài luôn luôn cảm tạ Chúa Cha thay cho chúng ta; thánh Phao-lô không ngừng tạ ơn Thiên Chúa thay cho các tín hữu và kêu gọi họ sống tâm tình biết ơn này. Lòng biết ơn Thiên Chúa còn là thái độ sâu xa nhất của lòng tin, đồng thời làm tăng thêm lòng tin vào Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ: tạ ơn Chúa là dấu tỏ lộ lòng tin vào Thiên Chúa, là tuyên xưng lòng tin của mình.

Tóm lại, đời chúng ta là kết tinh của bao công ơn, chúng ta phải biết ơn, cám ơn mọi người có liên hệ gần xa với chúng ta, tất cả đều là những ân nhân của chúng ta. Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải biết ơn và cảm tạ Chúa luôn luôn, bởi vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là những ơn Chúa ban. Cảm tạ Chúa là một sự công bằng, hợp lý, không bao giờ đủ, cả đời sống dương thế để mà tạ ơn Chúa cũng không đủ, huống chi chúng ta chỉ thỉnh thoảng cám ơn, thậm chí quên bẵng luôn những việc tạ ơn, thì thật là bất hiếu, bất kính biết bao.

 

.

TẠ ƠN LÀ MỘT BIỂU HIỆU CỦA LÒNG TIN

Lm. Đỗ Bá Công

Một thi sĩ đã tả lại một giấc mơ thế này: Thiên Chúa mở đại hội “trăm hoa đua nở”. Tất cả các loại hoa trên mặt đất đều gởi đại biểu đến tham dự. Thật là một rừng hoa tươi thắm muôn màu, xông hương khoe sắc trước nhan Chúa. Các đại biểu hoa, tay bắt mặt mừng chào hỏi thăm nhau, duy chỉ có hai loại hoa không buồn giáp mặt nhau. Đó là hoa Thi ơn và hoa Nhớ ơn.

Giấc mơ chỉ vắn vỏi chừng ấy, nhưng thật có ích cho ta, vì nó mô tả trung thực sự kiện xảy trong bài Tin Mừng: mười người phong hủi đã được Chúa chữa lành, nhưng chỉ một người trở lại tạ ơn Chúa. Cũng như ở đời có lắm người thi ân mà có ít người nhớ ơn. Ta hãy cùng nhau suy niệm:

– Con số thống kê một trên mười nói lên những điều gì?

– Khi ta đã ý thức tạ ơn là một biểu hiệu của lòng tin, ta phải tạ ơn thế nào?

“Chỉ một trên mười người phong hủi được lành đến tạ ơn, nói lên chẳng những là sự vô ơn, mà một cách sâu xa hơn, là sự thiếu lòng tin”. Với câu hỏi của Chúa Giêsu trên người phong hủi biết ơn đang sụp dưới chân Ngài: “Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Cha Féder giải rằng: “Chúa ngạc nhiên khi thấy chỉ có một người quay trở lại mà lên tiếng tôn vinh Chúa, nên Ngài cảm phục lòng tin tưởng đầy biết ơn của người Samari đó.”

Vâng, chính đức tin đã thúc giục người phong hủi trở lại tạ ơn Chúa. Bởi lẽ, việc Chúa chữa mười người phong hủi này khác hẳn với trường hợp khác. Khi thấy Chúa đi qua, mười người phong hủi đứng xa và la lớn rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con”. Chúa không đến với họ, nhưng Ngài cũng từ xa lớn tiếng trả lời: “Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế”. Thế là vâng theo lời Chúa dạy, mang thương tích mà đi. Và chỉ khi đã đi một đoạn đường xa, họ mới thấy mình lành mạnh. Như thế, Chúa Giêsu đã khuất bóng họ và có lẽ họ có cảm tưởng rằng, việc họ được sạch là một việc tình cờ chăng? Hơn nữa, có tạ ơn hay không, họ cũng đã sạch phong hủi rồi. Vì thế, việc đầu tiên của họ là đi trình tư tế, hầu được cấp giấy trở về với làng họ, với bà con. Duy chỉ người Samaria nghĩ khác mà trở lại cảm tạ Chúa.

Vâng, chỉ để ra một giây phút suy tư, một nháy mắt quan sát, ta có thể thấy đời ta tràn ngập hồng ân Thiên Chúa: Đây bầu không khí trong lành ta đang thở. Đây bát cơm ta đang ăn, chén nước ta đang uống. Đây tiếng chim thánh thót ta đang nghe, hương sắc những cánh hoa ta đang hưởng, tất cả đều nói cho ta hay tình yêu vô biên của Chúa chan hoà đời sống chúng ta.

Khi ta đã ý thức tạ ơn là một biểu hiệu của lòng tin, ta phải tạ ơn thế nào? Cái nhìn đức tin ấy có hướng chúng ta tới Thánh Thể để tạ ơn Chúa không?

Ta hãy đưa con người tướng quân Naaman được mô tả trong bài đọc I để làm gương sáng cho chúng ta. Khi Naaman đã xuống tắm bảy lần ở sông Giođan theo lời tiên tri dạy, da thịt ông lại trở nên hồng hào như da thịt đứa trẻ, thì việc trước tiên là ông và đoàn tùy tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông không cảm tạ Elisê, nhưng ông lớn tiếng và ngước mắt lên trời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa và tạ ơn Ngài. Nói xong Naaman mới lấy của lễ dâng Elisê. Elisê không nhận, Naaman cố nài ép nhưng tiên tri nhất định từ chối. Sự từ chối của Elisê đã mạc khải cho Naaman rằng: Chúa không muốn nhận của lễ vật chất và chỉ nhất thời, nhưng phải là một của lễ thiêng liêng và trường tồn hơn. Chính trong lúc ấy, Naaman nảy ra một sáng kiến. Ông nói: “Vậy xin ngài ban phép cho tôi được chở một xe đất đem về nước tôi, để dựng tế đàn trên đất ấy mà dâng lễ tế cho Yavê, vì tôi tớ ngài đây sẽ không còn dâng thượng hiến và tế lễ cho một thần linh nào khác.” Sáng kiến ấy được tiên tri Elisê tán thành.

Như thế, nếu việc tạ ơn đẹp lòng Chúa hơn hết trong Cựu ước là mỗi ngày dâng lễ toàn thiêu hoặc hy lễ lên Yavê Thiên Chúa, thì ngày nay trong Tân Ước việc tạ ơn đẹp lòng Chúa hơn hết cũng phải hướng về Thánh Thể – tức là Thánh lễ Misa, một của lễ cao quí dâng lên hằng giây phúc “để từ Đông sang Tây có một hiến lễ trong sạch dâng lên Chúa” (Kinh nguyện Thánh Thể III).

Vậy Thánh lễ có một tầm quan trọng như thế bởi vì chỉ trong Thánh lễ, chúng ta mới tìm được một Tư tế xứng đáng, một bàn thờ trong sạch và một của lễ vẹn toàn. Vị Tư tế ấy, bàn thờ ấy, của lễ ấy chính là Chúa Giêsu. Nói đến đây, xin mọi người hãy tự vấn lương tâm coi thử chúng ta có thấy triệt cái tầm quan trọng của Thánh Lễ chăng? Ta có hối hận chăng vì đã bỏ lễ ngày Chúa Nhật? Chúng ta nghĩ xem: ai sẽ thay thế chúng ta để cảm tạ Thiên Chúa về những ơn lành mà Ngài đã ban cho chúng ta trong bảy này qua? Bởi vì “nhận ơn thì đừng quên ơn”. Rồi ai sẽ thay thế chúng ta để xin ơn Chúa cho bảy ngày tới? Bởi vì không có Chúa, ta không làm gì được”.

Như thế, hôm nay đây trước nhan Chúa, chúng ta hãy cùng nhau đoan hứa quyết dốc lòng luôn cảm tạ Thiên Chúa với một niềm tin chân thành.

 

.

TÁN TỤNG HỒNG ÂN

Lm. Vũ Minh Nghiễm

Cách đây không lâu, trong kỳ nghỉ hè, một thanh niên Trung học tình nguyện đi làm việc xã hội ở Nicaragua. Chàng đi theo một nhóm y tế đến một làng nhỏ trên miền núi để chích thuốc ngừa bệnh tê liệt, bệnh đậu mùa, cho các trẻ em nghèo ở đó. Chàng thuật lại rằng:

“Cuối tuần đầu, tôi cảm thấy rất chán nản, nhớ nhà, nhớ bạn. Tôi đi ra ngoài trời, ngồi ủ rủ trong bóng tối và tự hỏi: Tại sao tôi lại tình nguyện đi tới một nơi xa lạ nghèo khổ như thế nầy? Bỗng tôi nghe có tiếng người nói trong đêm tối. Đó chính là José Santos, một giáo viên cũng là gia trưởng của gia đình tôi trọ. Ông kéo ghế ngồi gần bên tôi, mắt ngước lên nhìn trời.

Sau một phút thinh lặng, ông José bắt đầu nói:

“Thật là hùng vĩ”

Tôi hỏi:

– Thưa Thầy, Thầy nói gì vậy?

Ông José lại nói:

“Thật là hùng vĩ!”

“Đôi mắt ông vẫn ngước nhìn lên trời. Tôi cũng nhìn lên trời theo. Thì ra tôi đã không để ý rằng trên đầu tôi, hằng hà sa số những ngôi sao lung linh nhấp nháy, một quang cảnh rực rỡ vô cùng. Chúng tôi cứ ngồi đó mãi, mắt nhìn lên trời hoài, thưởng ngoạn sự huy hoàng của muôn vì sao trên không trung lồng lộng.”

Cảm nghiệm hôm đó, không bao giờ tôi có thể quên được. Sáng hôm sau, tôi đi tới một ngọn suối để tắm. Chung quanh tôi, cỏ cây mơn mởn tươi xanh. Vạn vật điều yên tĩnh, trừ ra tiếng nước chảy róc rách, hòa với tiếng bầy chim ca hát líu lo trên ngọn cây. Bây giờ tôi nhớ lại lời ông José nói trong đêm vừa rồi: “Thật là hùng vĩ!” Những cảnh tượng Thiên Chúa ban cho chúng ta thật là hùng vĩ. Và tôi cảm thấy tâm hồn sảng khoái lạ thường. Chưa bao giờ tôi cảm nghiệm được lòng biết ơn đối với Chúa sâu sa như vậy. Chưa bao giờ tôi cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương tôi bao la như vậy. Khi trở lại chích ngừa cho các em trong làng, tôi luôn luôn vui cười, từ đầu chí cuối, đến nỗi đau cả hai gò má.”

Câu chuyện nầy nhắc chúng ta nhớ đến hai hạng người mà Chúa Giêsu nói đến trong Phúc âm hôm nay. Hạng người biết tri ân đối với những ơn Thiên Chúa đã ban cho mình. Và hạng người vô ơn bội nghĩa.

Câu chuyện trên cũng cho chúng ta thấy rằng: Các em nào lớn lên mà hay vô ơn, là vì các em đó đã không được ai chỉ vẽ cho biết cách tri ân. Cậu sinh viên Trung học nói trên, sở dĩ học biết lòng tri ân đối với các ơn Thiên Chúa ban cho là nhờ có ông giáo viên José Santos dạy bảo cho.

Một hôm nà Ann Landers nhận được một bài do người nào đó cắt trong báo Wall Street Journal gởi cho bà. Bài đó như sau:

“Một hôm, có người hỏi một người miền Nam Hoa-kỳ rằng:

– Ranh giới miền Nam thực sự bắt đầu từ chỗ nào?

Người miền Nam kia đáp lại cách kiêu hãnh:

– Ranh giới miền Nam bắt đầu từ chỗ người ta thấy các trẻ em biết nói: ‘Dạ, thưa ông có’. ‘Dạ, thưa không’.

Thật ra, bài báo nói tiếp, phép lịch sự không phải là vấn đề địa dư. Nhưng phép lịch sự đó, các học được nơi cha mẹ, không phải nơi con dấu của bưu điện.”

Bài báo vừa rồi nhắc nhở cha mẹ có bổn phận dạy bảo con cái biết ăn nói lịch sự. Nhưng ăn nói lịch sự và có lòng biết ơn cũng là một. Chỉ có những ai lịch sự mới biết nói: “Cảm ơn”. Không phải bất cứ lời cám ơn nào, nhưng là lời cám ơn chân thành.

Một trong những phương pháp hữu hiệu để dạy con phải có lòng biết ơn, là phương pháp của José Santos dạy cậu học sinh Trung học Chicago nói trên. Đó là chia sẻ những lý do thúc đẩy mình biết ơn Thiên Chúa về những ơn lành Ngài đã ban cho.

Ông Byron, một người sinh trưởng tại Nebraska, nói: “Khi lên 8 tuổi, tôi có một con ngựa nhỏ tên Frisky. Một buổi sáng, khi tôi đang ngồi trên lưng, bỗng nó lồng lên, chạy nhảy như điên khùng. Tôi hết hồn hết vía, nhắm mắt cố ghì chặt lấy lưng ngựa. Sau cùng, may quá, tôi được thoát nạn, an toàn. Tối đó, trước giờ đi ngủ, ba tôi lên phòng, bảo tôi quì xuống đất bên cạnh người, rồi người lớn tiếng chúc tụng tạ ơn Chúa vì đã cho tôi được qua tai qua nạn khỏi. Đến nay đã 55 năm rồi, tôi vẫn nhớ mãi đêm đó. Đêm mà ba tôi dạy tôi biết tạ ơn Thiên Chúa về ơn lành Ngài đã ban cho tôi như thế nào. Và từ đó, tôi coi việc tán tụng hồng ân Thiên Chúa là bổn vụ thường xuyên hằng ngày của cuộc đời tôi.”

Trở lại với Phúc âm hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi mình: Tôi thuộc hạng người nào? Tri ân hay phụ ân?

Nếu là phụ huynh, là cha mẹ, tôi có lo dạy bảo con em biết tạ ơn Chúa về các ơn lành Chúa ban cho không?

Bài Phúc âm hôm nay nói trong số mười người được chữa khỏi bệnh phong cùi, thì chỉ có một người biết tạơn Chúa thôi. Mà người nầy lại là người ngoại giáo. Còn chín người thuộc dân riêng Chúa đều phụ ơn.

Trước cảnh tượng nầy, Chúa Giêsu lấy làm buồn, hỏi:

“Không phải tất cả mười người đều được lành sạch cả sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang nầy?

Chúa buồn không phải buồn vì bị phụ ơn, cho bằng buồn vì thấy trong 10 người, chỉ có một người hiểu biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt Thiên Chúa.

Bệnh phong cùi là thứ bệnh nan y thời bấy giờ. Chỉ có một phép lạ do quyền năng của Thiên Chúa mới chữa lành được. Vậy việc Đức Giêsu chữa họ khỏi bệnh phong cùi là một lời tuyên bố Ngài là ai. Ngài là Đấng Thiên Sai đã được các tiên tri loan báo từ lâu đời về trước. Ngài đến để thuyên chữa các tật bệnh, đem hy vọng tới cho những người tuyệt vọng, những tù nhân.

Trong mười người chỉ có một đến tạ ơn Thiên Chúa, vì nhận biết rằng loài người trước mặt Ngài chỉ là những hành khất, những người đi xin bố thí. Và người đó là người dân ngoại. Còn chín người kia, những người thuộc dân Chúa chọn, thì vô ơn, coi ân huệ Chúa ban cho họ như tất nhiên. Như cha mẹ sinh con ra, tất nhiên phải lo gầy dựng cho con cái. Họ là những người mù lòa thiêng liêng, không nhìn thấy tình trạng thấp kém nghèo hèn của mình trước mặt Thiên Chúa. Chính sự mù lòa thiêng liêng của họ đây hơn là sự họ phụ ơn Ngài, làm cho Đức Giêsu phải buồn rầu.

Chúng ta biết rằng lòng biết ơn là một nhân đức trong đạo. Người Việt Nam gọi là hiếu nghĩa, hay là chữ Hiếu. Điều răn thứ IV dạy chúng ta phải có hiếu, phải biết ơn cha mẹ, ông bà tổ tiên, và trên hết là biết ơn.

Chúa Trời, Đấng tạo thành vạn vật. Thánh lễ, trung tâm điểm của việc thờ phượng Chúa mà chúng ta đang cử hành trong giờ nầy, là do tiếng Eucharistia, một danh từ trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là Tạ Ơn.

Dâng thánh lễ hay là dâng lời Tạ Ơn Thiên Chúa cũng là một. Thể theo lời truyền dạy của Chúa trong đêm Tiệc Ly, Giáo Hội dạy chúng ta năng đi dâng lễ, tối thiểu một tuần một lần trong ngày Chúa nhựt, hầu nhớ lại những ơn lành hồn xác Ngài ban cho chúng ta là những người mắc bệnh phong cùi một cách nào đó, là những người thực sự đi ăn xin bố thí trước cửa nhà Chúa.

Hội Thánh dạy chúng ta năng đi dâng lễ là để Tạ ơn Chúa. Thánh lễ là trung tâm điểm của việc thờ phượng Chúa. Cảm tạ hồng ân Chúa cũng phải là trung tâm điểm của đời sống tín hữu của chúng ta.

Để tóm lược: nhân bài Phúc Âm có giọng điệu u buồn hôm nay, mỗi một người trong chúng ta hãy tự xét mình:

Trước hết, tôi thuộc về hạng người nào trong hai hạng người của Phúc Âm. Hạng người biết ơn như người ngoại bang Samari? Hay hạng người vô ơn bội nghĩa cùng Chúa như chín người Do-thái kia?

Sau nữa, nếu là cha mẹ, phụ huynh, tôi có lo dạy vẽ cho con em biết cách xử thế lịch sự cùng mọi người, biết tạ ơn Chúa về những ơn Ngài đã ban cho, ít nhứt trước khi lên giường nằm ngủ, như cụ thân sinh của ông Byron nói trên chăng?

 

.

SỐNG TRI ÂN

Lm. Bùi quang Tuấn

“Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu?” (Lc 17:17)

Cách đây không lâu, giới điện ảnh Hollywood có phát hành một cuốn phim mang tựa đề Schindler’s List dựa trên một câu chuyện có thật thời Đệ Nhị Thế Chiến.

Schindler là một nhà kinh doanh giàu có người Đức. Khi gặp cảnh những người Do thái bị ức hiếp, giết hại, ông đã tìm cách cứu họ qua việc mua chuộc các sĩ quan Đức để được phép chiêu mộ nhân công Do thái cho các cơ xưởng của ông. Việc này nếu bị bại lộ thì không những gia sản bị tước đoạt mà mạng sống của ông cũng chẳng còn, vì Hitler sẽ không dung thứ cho kẻ nào dám bao che hay bênh vực dân Do thái.

Cuốn phim được kết thúc không bằng cảnh quân đội đồng minh tiến vào giải phóng người Do thái, nhưng là cảnh Schindler phải chạy trốn vì bị tố cáo có chân trong Đảng Quốc xã. Lúc chia tay với các nhân công, ông đã bật khóc. Người ta tò mò hỏi tại sao ông khóc? Ông cho hay: “Tôi hối tiếc vì đã không cứu được nhiều người Dothái.” Không ít người ngạc nhiên hỏi lại: “Thế nhưng ông đã cứu được hàng ngàn người Do thái chúng tôi cơ mà?”

Sau lúc dằn nén cảm xúc, Schindler trả lời: “Nếu tôi bớt được tính ích kỷ thêm một chút nữa thì có lẽ nhiều người Do thái đã không phải chết oan. Nếu những chiếc đồng hồ, cà rá trên tay tôi được bán đi sớm hơn một chút thì tôi đã cứu thêm được vài người. Nếu tôi không dùng chiếc xe quá sang trọng kia thì có lẽ tôi đã giải thoát thêm được ít là 10 người Do thái nữa rồi.”

Câu nói của Schindler, người mà sau này dân Do thái vinh danh như một anh hùng, đáng cho con người hôm nay suy nghĩ: Làm việc thiện nhưng không nghĩ đến trục lợi. Lo cứu người đến độ không quản ngại tài sản, địa vị, và tính mạng của mình. Làm nhiều việc thiện, cứu được nhiều người mà vẫn còn cảm thấy như chưa thực hiện được bao nhiêu.

Thử hỏi động lực nào đã thúc đẩy Schindler ra tay cứu mạng người Do thái như thế? Phải chăng vì lợi nhuận? Hay mưu đồ riêng tư? Hay phải thi hành một sự báo đáp nào đó?

Không một động lực hay lôi cuốn lớn lao nào đã khiến cho Schindler dám trả giá mạng sống, địa vị, và tài sản mình có để cứu “kẻ thù của dân tộc Đức,” ngoại trừ lòng xác tín vào một chân lý: chỉ mình Thượng Đế mới có toàn quyền trên sự sống con người; còn con người là phải biết tôn trọng và bảo vệ sự sống đó cho nhau.

Việc tôn trọng, bênh vực và làm thăng hoa chân lý đó, cộng với thái độ dám hy sinh của cải, sức lực và an toàn cá nhân chính là hành động biết ơn và tôn vinh Đấng ban sự sống cho mình cách chân thành và sâu xa nhất.

Trong sách Các Vua có nhắc đến chuyện ông Naaman, một người dân ngoại đang bị chứng phong cùi bào mòn sự sống. Ông được chữa lành sau khi nghe lời tiên tri Elisa đi tắm tại sông Giođan. Thế rồi, trước khi về lại quê hương, Naaman đã tuyên bố trước mặt vị tiên tri: “Từ nay, ngoài Chúa ra, tôi tớ ngài sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy tế tôn vinh bất cứ thần minh nào khác.” Tâm tình biết ơn và tự nguyện vinh danh Thiên Chúa này đã được Đức Giêsu nhắc lại sau khi chữa lành cho 10 người phong cùi, nhưng chỉ có một người biết trở lại để tri ân và tôn vinh. Đức Giêsu phải thốt lên: “Còn chín người kia đâu? Chớ thì không phải họ đã được lành sạch hết sao? Tại sao chỉ có một người ngoại giáo này?”

Không phải Đức Giêsu cần đến lòng tri ân và lời ca ngợi chúc vinh của con người, nhưng bởi những ai biết ơn, kẻ đó sẽ nhận ra ơn mới. Một con người có lòng tri ân sẽ không bao giờ thiếu vắng hạnh phúc, vì nhận thức mình luôn được yêu thương và tặng ban. Chính điều này làm cho sức sống nơi họ thêm phong phú và tràn đầy. Sức sống đó sẽ giúp họ thêm quảng đại, cảm thương, và trao ban cho tha nhân. Đây chính là điều Đức Giêsu muốn nhìn thấy nơi con người, và đây cũng chính là điều mà Schindler đã thực thi.

Đức Giêsu muốn con người nhận ra ơn Chúa trong đời mình để tri ân và đáp đền qua việc bảo vệ và làm thăng hoa cho sự sống của người xung quanh. Biết ơn sẽ làm cho đời người thêm hạnh phúc.

Tôi muốn tri ân Thiên Chúa đã ban cho tôi sự sống, biết ơn Ngài vẫn hằng tuôn đổ ân thiêng từ trời cao, biết ơn những ai giúp làm phong phú đời mình, cả thể xác lẫn tinh thần, chính là thái độ cần có nơi những người mang danh Kitô hữu.

Có tâm tình biết ơn như vậy, tôi mới dám vượt trên danh dự cá nhân, gia đình để bảo vệ sự sống thay vì huỷ diệt.

Có biết ơn như vậy, tôi mới tích cực dùng khả năng, thời gian, sức lực, của cải vào việc giáo dục dạy dỗ, củng cố niềm tin, và gia tăng sức sống của tha nhân.

Và có biết ơn như vậy, tôi mới có thể đi sâu hơn vào ý nghĩa của Hiến lễ Tạ ơn–trung tâm điểm của đời sống Kitô hữu–nơi đó tôi tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa qua Đức Giêsu, và cũng nơi đó tôi đón nhận chính Ngài để làm phong phú cho sức sống của tâm hồn, gia đình, và xã hội.

 

.

MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI.

Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Vào thời Đức Giêsu, phong cùi là bệnh truyền nhiễm ghê tởm và đáng sợ nhất, không thuốc nào chữa được. Người mắc bệnh coi như đã chết, bị loại ra khỏi cộng đoàn không chỉ vì lý do vệ sinh, nhưng còn vì lý do thiêng liêng nữa. Sách Đệ Nhị Luật viết: “Nếu ngươi không nghe lời Giavê, Thiên Chúa của ngươi, mà tuân hành mọi giới luật Ngài ban… Giavê sẽ giáng xuống ngươi bệnh lở lói kinh khủng nơi đầu gối và chân, ăn từ bàn chân đến đỉnh đầu không sao chữa nổi” (Đnl 28,15-35).

Giavê đã trừng phạt, cộng đoàn cũng xa cách. Người phong cùi được phép vào các làng, nhưng không được đi vào đô thị có tường thành chung quanh. Do đó, họ càng không được vào thành Giêrusalem, không được đến gần các người khác. Người mắc bệnh phong cùi phải mặc quần áo rách rưới, râu dài tua tủa, phải sống biệt lập trên bãi tha ma, đi đến đâu phải cầm chuông lắc cho người ta tránh và phải la lên: Ô uế! Ô uế! Bao lâu còn mắc chứng bệnh ấy, bấy lâu còn bị ô uế.

Sách ký sự ghi lại Osias, vua Giêrusalem, bị phong cùi, thầy tư tế tức tốc trục xuất ông ta khỏi thành và chính ông cũng vội vã ra đi, vì thấy mình bị Thiên Chúa ruồng bỏ (II Ký sự 26, 19-21).

Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Luca kể: “Đức Giêsu từ Galilê tiến về Giêrusalem, khi đến Samaria, lúc Người vào một làng kia, có mười Người phong cùi đón gặp Người”. Trong miền đất bị chúc dữ này, đây là những ngời bị chúc dữ nhiều nhất. Thật lạ lùng khi nhóm này gồm cả người Dothái lẫn người Samaria. Đau khổ và bệnh tật làm con người xích lại gần nhau, quên đi mối thù truyền kiếp giữa người Dothái và người Samaria. Biết thân phận mời người phong cùi đứng đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi”. Họ gọi Đức Giêsu bằng tên Người, một sự kiện tương đối hiếm trong Tin mừng.

Trong ngôn ngữ Aramêen, Jeshouah có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Kitô hữu gọi kinh cầu Chúa Giêsu, chính là lời cầu xin ấy được lặp lại nhiều lần: Lạy Chúa Giêsu xin thương xót chúng con… Trong thánh lễ chúng ta cũng lặp lại kinh này lúc đầu lễ Kyrie Eleison: Lậy Chúa xin thương xót.

Thay vì chữa họ lành ngay tức khắc, Đức Giêsu muốn thử thách lòng tin của họ. Cũng như ngày xưa ngôn sứ Êlisê sai môn đệ nói với quan Naaman người Siri :”Quan hãy đi tắm ở sông Giođan bảy lần”. Đức Giêsu cũng bảo mười người phong cùi: “Hãy đi trình diện với các tư tế”.

Vào thời đó, các Thầy tư tế có quyền chẩn đoán và quyết định người nào bị mắc, người nào khỏi. Ai mắc bệnh được thầy tư tế công bố là khỏi, người ấy sẽ được tái nhập vào cộng đoàn (Lv 14,3).

Khi truyền cho mười người phong cùi đi trình diện các thầy tư tế, Đức Giêsu đòi họ phải biết vâng lời trong đức tin. Ngài muốn hành vi tín thác đó phải được thể hiện bằng việc tuân phục lề luật. Đối với Đức Giêsu lề luật và ngôn sứ là khuôn vàng thước ngọc giúp người ta thực hiện ơn cứu rỗi, như Người đã đề cập trong dụ ngôn người phú hộ xấu bụng và Ladarô nghèo khó.

Khác với vị tướng lãnh Siri, mười người phong cùi tức tốc thi hành, không mảy may chần chừ. Đang khi đi, họ được sạch. “Một người trong bọn thấy mình được khỏi liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.” Thật kì lạ, Người quay lại cám ơn Chúa lại là một người ngoại, một người Samari. Nhưng đó chẳng phải là điều vẫn thường xảy ra đó sao? “Kẻ ở ngoài” coi mọi sự như quà tặng, “kẻ ở trong” coi mọi sự đều là hiển nhiên.

Người Dothái cho, mình thuộc tuyển dân có quyền đòi Thiên Chúa thi ân, không cần tỏ lòng biết ơn Người. Họ quên, cám ơn là một trong những tính nhân bản của con người. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Biết ơn là kí ức của tâm hồn”. Lời đầu tiên người Mỹ dạy con: “Thank You – Cám ơn”.

Mỗi khi nhận được ơn từ ai, ta phải biết nói lời cám ơn. Đó là điều tốt đẹp cho ta, nó thúc dục ta nhận ra sự hàm ơn người khác và làm cho người cho cảm nhận rõ giá trị của việc họ làm. Người không biết ơn trong việc nhỏ, sẽ không biết ơn trong việc lớn. Điều quan trọng là phải có lòng biết ơn.

Thánh Inhaxiô nói : “Tội lớn hơn cả là tội vô ơn”. Chín người Dothái không biết cám ơn, chỉ được khỏi bệnh phong cùi thể xác. Người Samaria biết cám ơn, khỏi phong cùi cả phần hồn là tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, anh đã sấp mình dưới chân Đức Giêsu tạ ơn Người, một cử chỉ người ta chỉ dành cho Thiên Chúa.

Thiên Chúa không cần ta cám ơn, ta phải cám ơn Chúa vì mọi sự trong cuộc đời:

Hồng ân Thiên Chúa bao la.

Muôn đời con sẽ ngợi ca danh Người.

 

.

MỘT TRÊN MƯỜI

Lm Giuse Nguyễn Cao Luật

Đảo lộn trật tự bình thường

Câu chuyện được thuật lại cách giản dị, tự nhiên, nhưng hết sức linh động. Tất cả dường như đều diễn ra bình thường, hợp lề luật. Những người mắc bệnh phong ở riêng một nơi: họ là những người ô uế, nên phải ở ngoài làng. Đức Giêsu cư xử đúng đắn như một người chữa bệnh. Người tôn trọng Lề Luật (x. Lv 13,46 ; 14,2-3) khi truyền cho những người bệnh đi trình diện các tư tế.

Điều bất ngờ là danh xưng mà các người phung hủi sử dụng để thưa với Đức Giêsu: “Lạy Thầy Giêsu.” Đây là lần duy nhất Đức Giêsu được những người không phải môn đệ gọi là Thầy.

Điều bất ngờ hơn và là trọng tâm của tường thuật là: “Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari.”

“Người Samari” đổng nghĩa với “người nước ngoài”, “người ngoại đạo”, tức là không thuộc dân Ít-ra-en, không được Thiên Chúa yêu thương cứu vớt.

Người ta có thể nghĩ rằng, đối với 9 người kia, câu chuyện diễn tiến theo Lề Luật: sau khi được các tư tế chứng nhận là đã khỏi bệnh, họ được tái gia nhập cộng đoàn.

Chỉ có một người làm đảo lộn trật tự bình thường. Có lẽ người Samari không hiểu lệnh truyền của Đức Giêsu. Hoặc anh ta đã quên. Hay đúng hơn, vì không phải là người Ít-ra-en, anh không để ý đến tầm quan trọng của Lề Luật. Anh đã trở lại gặp Đức Giêsu để tạ ơn.

Những người kia ở lại trong chế độ lề luật, họ đã không bước vào thế giới ân sủng, thế giới của việc tặng ban và tạ ơn. Như vậy, phải chăng người ở ngoài dân được tuyển chọn mới có thể hiểu điều này? Vậy mà, đối với một số người, việc thuộc về dân của lời hứa lại không tạo nên một thứ bảo đảm giả tạo đó sao? Họ coi đó như một quyền lợi hơn là một sự ban tặng.

“Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc lại những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Đức Giêsu sẽ lên Giêrusalem và sẽ ra mắt các tư tế. Nhưng tại đó, Người sẽ phá tung trật tự của họ. Tại đó, Người sẽ mặc khải, sẽ tỏ bày tình thương do Chúa Cha ban tặng, tình thương làm cho sống. Và điều ấy, hôm nay, người Samari, đã loan báo.

Lời bộc bạch của người Samari

“Tôi bị bệnh phung hủi. Tôi rất mặc cảm, không những vì cái bệnh khốn khỗ nơi thân xác, mà còn về cả cái gốc gác lý lịch không được sạch trước mắt đạo Do-thái. Như thói quen thời ấy, những người phung hủi chúng tôi phải sống ở bên ngoài làng, không được giao tiếp với những người bên trong, vì chúng tôi là những người dơ bẩn, còn những người khác là người sạch.

“Tôi vẫn nghĩ rằng mình sẽ phải mang cái bệnh khốn khỗ đó cho đến chết, và mình sẽ sống cô đơn suốt đời, cô đơn cho đến chết. Chẳng có tài nào chữa được thứ bệnh quái ác này, và tôi sẽ cứ phải sống chui, sống nhủi. Chỉ có cái chết mới giải thoát được, còn bây giờ thì cứ sống mà như không phải là người.

“Khi nghe tin ông Giêsu của người Do-thái đi ngang qua, những người phung hủi chúng tôi đến xin ông cứu giúp, bởi vì chúng tôi đã được nghe nói về ông, và chúng tôi hy vọng ông sẽ chữa chúng tôi lành bệnh như ông đã làm cho nhiều người. Tuy thế, tôi vẫn sợ rằng mình không phải là người Do-thái nên ông sẽ loại tôi ra. Nhưng không, lời ông nói đã làm cho chúng tôi được sạch, những vết phung hủi biến đâu mất, và chúng tôi thấy mình lành lặn. Những người Do-thái, theo như lời ông Giêsu nói, đã đi trình diện các tư tế theo đúng Lề Luật của họ. Còn tôi, tôi là người Samari, tôi đâu có lề luật, mà các tư tế cũng đâu có chứng nhận cho tôi. Tôi biết trình diện với ai bây giờ? Ai chứng nhận cho tôi, tôi đâu có thuộc quyền ai?

“Bởi vậy, không có gì hay hơn là tôi trở lại với chính người đã cứu tôi, đã chữa tôi lành bệnh. Ông ấy không coi thường tôi, không xét đến lý lịch gốc gác của tôi, và tôi thấy mình hạnh phúc, hạnh phúc hơn cả những người Do-thái. Tôi đã trở lại với ông Giêsu, trở lại để cám ơn, vì ơn đó quá lớn, chẳng thể nào tin nỗi.

“Đúng thế, ân huệ đó quá lớn lao. Những mặc cảm, những bất hạnh của tôi đã được xoá bỏ. Từ nay tôi được vào một đời sống mới, tôi được công nhận là người như mọi người khác. Và vì thế, tôi đã trở lại với Đấng đã làm ơn cho tôi, trở lại để bày tỏ tấm lòng của tôi, và cũng để công bố cho mọi người biết, Đấng làm ơn cho tôi có tấm lòng yêu thương vô biên.”

Người ấy, có phải là chúng ta?

Những người phung hủi ấy tượng trưng cho chúng ta. Khi mọi sự yên ỗn, sức khoẻ, công việc làm ăn đều tiến triển tốt đẹp, chúng ta nghĩ rằng chúng ta có quyền hưởng những thành quả ấy đúng như sự khôn khéo và hiểu biết của mình. Chỉ cần một chút thông minh, một chút mánh lới là chúng ta sẽ tránh được những điều tệ hại. Chúng ta chẳng cần phải cầu xin: “Xin dủ lòng thương chúng con.” Chúng ta không cảm thấy mình bệnh hoạn, thiếu thốn, và khi ấy, Thiên Chúa không thể làm gì được.

Nhưng khi mắc phải bệnh phung hủi, khi tai hoạ ập xuống, khi xảy ra những nguy hiểm, những cám dỗ, những tật bệnh … khi bất thình lình, cuộc đời chúng ta thay đỗi, lúc ấy, một cách tự nhiên, chúng ta chạy đến với Đấng có thể cứu thoát và thưa: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng con.” Đó là tiếng kêu của ân sủng. Mặc dù có những lúc dường như Thiên Chúa không đáp lại, nhưng Người vẫn luôn nghe thấy. Không có tiếng kêu nào của con người bị bỏ quên, không có tiếng kêu nào của con người mà Thiên Chúa lại không nghe thấy. Người sẽ chữa lành, chữa lành toàn diện.

Như thế, chúng ta phải nhận thấy mình mắc bệnh và cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Và khi đã phó thác, đã đặt niềm tin tưởng nơi Người, chắc chắn Người sẽ nhận lời, sẽ chữa lành, dù chúng ta thế nào chăng nữa. Thiên Chúa không xét chúng ta là ai, chúng ta như thế nào, Người chỉ cần lòng tin của chúng ta.

Và cũng như người Samari, chúng ta sẽ phải trở lại để tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn nhận Đấng đã làm ơn cho mình, không chỉ là biết nhận ân huệ, nhưng còn phải nhận ra Đấng đã thi ân. Chính điều đó làm cho chúng ta nhận được thêm những ân huệ khác.

Người Samari đã vượt ra khỏi giới hạn của Lề Luật để bước vào thế giới ân sủng, bởi vì anh có tấm lòng. Nhận thức rõ ân huệ mình đã lãnh nhận, anh đã cư xử như nhận thức đó thúc đẩy, không theo một quy tắc nào cả. Không phải ai cũng có được tấm lòng như thế: Trong mười người, chỉ có một người trở lại mà thôi. Chúng ta có phải là người ấy?

* * *

“Ngay khi đọc câu chuyện chín người được chữa lành và mất dạng trong Tin Mừng, tôi liền khám phá ra nơi họ khuôn mặt của các cộng đoàn chúng ta, vẫn thường có tính hay quên và vô ân. Tôi cũng nhận thấy nơi người Samari trở lại để tạ ơn Đức Giêsu hình ảnh dân mới của Thiên Chúa. Con người mới này, con người xa lạ với Tin Mừng, con người không có thái độ chán ngán trước Lời Chúa, đã được Tin Mừng biến đỗi và đã làm cho Đức Giêsu phải ngạc nhiên.

Này đây Lời đã chết nơi những con người được coi là đạo đức, nay đang tái sinh ở ngoài họ, nơi một con người xa lạ với mọi nghi lễ tôn giáo của họ. Này đây Tin Mừng đang trỗi vượt lên cách bất ngờ bên ngoài mọi truyền thống và thói quen.

Chỉ một mình người lạ này, người đã trở lại để tạ ơn Thiên Chúa, là tất cả niềm hy vọng của Ít-ra-en, là lời mời gọi nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Đức Ki-tô giữa trần gian. Đó chính là nét độc đáo của Tân Ước: Xưa kia, Cựu Ước kêu mời dân ngoại nhìn vào dân Ít-ra-en, còn giờ đây, Tân Ước kêu mời những người nhiệt thành hãy nhìn và lắng nghe sự thật đang được Đức Ki-tô bày tỏ giữa trần gian.” (theo G. Casalis)

 

.

LÒNG BIẾT ƠN-

An Phong

Tin mừng hôm nay là trình thuật Đức Giêsu chữa lành cho mười người phong cùi. Sau đó, chỉ có một người “quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người…”. Bối cảnh của câu chuyện hôm nay là Đức Giêsu cùng các môn đệ đang trên đường rao giảng Tin mừng từ thành này đến thành khác, từ làng này đến làng khác. Đức Giêsu đã gặp nhóm người phong cùi này tại một trong số những làng mà Người ghé qua. Đây là nhóm gồm có người Do Thái và người Samari (người Do Thái và người Samari vốn thù địch nhau). Bệnh tật và sự khốn khổ đã kéo họ lại gần nhau.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn nói đến dân Do Thái là dân đặc tuyển của Thiên Chúa. Họ đã nhận được nhiều ân huệ lớn lao như giao ước, luật Môsê, các ngôn sứ, đất hứa… Nhưng, như những người Do Thái bị phong cùi được Chúa chữa lành đã không biết trở lại cám ơn Đức Giêsu, dân Do Thái cũng không biết bày tỏ lòng biết ơn với Thiên Chúa vì những ân huệ lớn lao Người ban cho. Từ đó, những ân huệ lớn lao không còn chỉ dành riêng cho dân Do Thái, nhưng cho tất cả nhân loại. Đức Giêsu là ân huệ lớn lao nhất của Thiên Chúa gởi cho nhân loại.

Bệnh cùi không phải là một thứ bệnh như các thứ bệnh khác, nhưng nó là một hình phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi quá khứ, là dấu chỉ sự thẩm phán của Thiên Chúa. Người cùi là người không còn được coi là con Thiên Chúa, họ bị loại ra khỏi cộng đoàn những người tin. Như thế, bệnh cùi là biểu tượng của một căn bệnh thiêng liêng của nhân loại vắng bóng Thiên Chúa, vắng bóng sự hiệp thông với cộng đoàn những người tin. Khi chữa lành cho mười người phong cùi, Chúa Giêsu cho thấy Người muốn tái tạo lại tất cả chúng ta – ít nhiều là những người mắc bệnh phong cùi thiêng liêng – thành những con cái đích thực của Thiên Chúa, đồng thời có được sự hiệp thông huynh đệ với nhau và với cộng đoàn những người tin. Đức Giêsu luôn là Đấng cứu độ chúng ta, Người muốn chữa lành tất cả những căn bệnh thiêng liêng của chúng ta, đó là “tham, sân, si, mạn, nghi, thâm kiến”, đó là mọi thứ tội lỗi đẩy Thiên Chúa ra khỏi trần gian này, đó là phá đổ sự hiệp thông huynh đệ…

Chắc hẳn Đức Giêsu không chờ những người được chữa lành trở lại cám ơn Người. Người ghi nhận chỉ có một người trở lại cám ơn. Một người duy nhất là tiêu biểu con số quá ít ỏi. Dường như chỉ thiểu số nhân loại thuộc về con số ít ỏi này?

Có lẽ mỗi người chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự vô ơn dưới hình thức này hay hình thức khác. Có thể là chúng ta đã làm điều tốt cho một ai đó, nhưng họ không biết cám ơn chúng ta. Có thể là chúng ta không biết cám ơn vì những ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta. Được làm người, được làm con cái Thiên Chúa không phải là những ân huệ Thiên Chúa ban sao?

Đời sống kitô hữu là một bài ca chúc tụng ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta trở thành những thành viên trong cộng đoàn những người tin – Giáo hội. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể – bí tích hy tế của Đức Giêsu và bí tích Tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa trao ban chính Đức Giêsu. Chúng ta cần trao ban lại – tạ ơn Thiên Chúa. Là kitô hữu tức là luôn tạ ơn, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa. Là kitô hữu tức là được đón nhận một Tin mừng lớn lao – Đức Giêsu Kitô.

Phải chăng cuộc đời chúng ta là một bài ca ngợi khen chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa?

Lạy Chúa Giêsu, Ngài là Đấng khoan dung và nhân từ.

Chúng con xin tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa ban.

Xin cho lòng con bình an đón nhận một ngày mới.

Xin giúp con luôn nương tựa vào ý Ngài.

Xin hướng dẫn con tìm ra ý Ngài trong mỗi giờ mỗi phút của ngày hôm nay.

Xin chúc lành cách đối nhân xử thế của con.

Xin dạy con đón nhận mọi cái bất ngờ trong ngày hôm nay với một tâm hồn thanh thản.

Xin cho con sức mạnh để chịu đựng những mệt nhọc của ngày hôm nay.

Xin biến đổi cuộc đời chúng con thành một bài thần ca ngợi khen, tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Amen.

 

.

ƠN NGƯỜI, ƠN ĐỜI

PM. Cao Huy Hoàng

Nhờ ơn người, nhờ ơn đời

Có vẻ như chữ “nhơn” do chữ “nhờ ơn” mà thành. Là người, ai cũng nhờ ơn:

– ơn Cha Mẹ sinh thành dưỡng dục trong suốt một cuộc đời lam lũ nghèo khó;

– ơn giáo hội qua các bí tích để tôi được gọi là Thiên Chúa là Cha, và tôi là nghĩa tử của Ngài;

– ơn Thầy cô miệt mài hun đúc tôi từ chữ đến nghĩa, từ học đến hành;

– ơn người thân- bà con, anh em- thương yêu đùm bọc nâng niu giúp đỡ;

– ơn người dưng nước lã cho tôi nghĩa tình quê hương, nhân loại;

– ơn người đạo đức mỗi ngày cầu nguyện hy sinh cho mọi người, trong đó có tôi, được bình an;

– ơn người lành cho tôi bao bài học phải giữ;

– ơn kẻ dữ cho tôi bao bài học phải tránh;

– ơn người trung tín, ơn người phản bội, ơn người yêu, ơn người ghét, ơn người dối trá, ơn người thành thật, ơn người có đạo, ơn người vô thần, ơn người cho vay, ơn người đòi nợ, ơn người mắng nhiếc sỉ nhục, ơn người an ủi cảm thông, ơn ốm đau bệnh tật, ơn tai nạn bất ngờ, kể cả sự chết…

Làm sao kể hết những ơn lộc mà tôi đã nhận được qua những con người, những biến cố. Vì thế, có thể nói, mỗi người quanh tôi, gần tôi, xa tôi, người biết tôi, chưa biết tôi,  người ở Texas, người ở Cali, người ở tận châu Phi, có người ở Sài gòn, có người Hà Nội…có người giàu có, cũng có người  nghèo khó… tất cả đều là ân nhân của tôi một cách nào đó.

Mỗi người trở nên một phần trong cuộc sống của nhau, không thể thiếu.

Mỗi biến cố cũng vậy, dù tốt hay xấu, dù có lợi hay không có lợi, tôi cũng nhận được một ơn đặc biệt. “Thất bại là mẹ thành công”. Chẳng hạn, nếu không có một cái nhìn mới mẻ dưới ánh sáng đức tin, thì tôi không thể chấp nhận sự thua thiệt, cảnh tang thương hay thất bại là một ân huệ. Và đợi đến lúc tôi cảm nghiệm được rằng: tôi đã nhờ ơn đau khổ mà thành nhơn, thì tôi không còn đủ thời gian để xin lỗi những đau khổ vì đã nặng lời trách móc.

Vì thế, tôi muốn xác tín rằng: mỗi con người đang là cánh tay của Thiên Chúa nối dài để thi ân; mỗi biến cố là công cụ, là phương cách Chúa đã dùng  để ban ơn cho  tôi, cho mọi người.

Quả thật đời sống con người cần có nhau để tô đẹp cho nhau và cho cuộc đời, như có người nói:

“Nói với lá rằng hoa chưa đẹp nhất,

nếu không chen vào giữa lá nhung xanh,

nói với anh rằng em chưa đẹp nhất,

nếu không chen vào giữa trái tim anh”.

Hoa đẹp nhờ có lá, tôi đẹp nhờ có người xấu. Tôi biết tôi giàu nhờ có người nghèo quanh tôi. Tôi biết tôi mạnh khỏe nhờ có người đau yếu…

Hãy mở lòng ra để đón nhận nhau, chấp nhận nhờ ơn nhau, như một người cần có trái tim để sống.

Bác Trần Duy Nhiên trong thư gửi các cháu mổ tim có đoạn “một trái tim bị mổ, ngàn trái tim mở ra.  Ngàn trái tim mở ra,  vì có Một Trái Tim đã mở toang ra vì yêu nhân loại”.

Vâng, sống trong cuộc sống là sống với, sống vì, sống cho người khác sống. Tôi có thể cảm nhận trái tim tôi đập được là nhờ trái tim của nhiều người khác.Vâng, tất cả chúng ta đang “nhờ ơn” mà thành “nhơn”.

Nguồn ơn ấy, chính là sự quan phòng tuyệt vời của Thiên Chúa tình yêu.  

Biết ơn  

Biết mình cần “nhờ ơn” người khác là một điều đã khó; biết ơn người khác lại là một điều khó hơn. Để biết ơn, phải cảm nhận được ơn mình đã nhận. Và đối với tín hữu của Chúa, để cảm nhận được ân huệ của Thiên Chúa qua các biến cố, qua tha nhân, nhất thiết người thọ ơn phải có lòng khiêm tốn sâu xa và một đức tin chân thành mà sâu sắc.

Tướng Naaman trong sách các vua 5,14-17 quả thật đã có một niềm tin khiêm tốn sâu thẳm, nên mới có được một niềm xác tín vững chắc để nghe lời của Tiên tri Elise mà đi dìm mình bảy lần trong sông Giodan Cũng vậy, mười người phung hủi trong Tin Mừng Lc 17,11-14 có niềm tin khiêm tốn sâu thẳm, nghe lời Đức Giêsu mà đi trình diện các tư tế.

Cả một đất nước Aram không có con sông nào sạch sao và chắc gì sông Giodan sạch bằng? Hoặc có thầy thuốc nào bảo chỉ cần đi trình diện với ông nầy ông kia thì sẽ được khỏi bệnh?

Quả là một điều lý trí không thể chấp nhận được. Nhưng điều lý trí không chấp nhận được ấy lại là đức tin.

Như vậy sự khiêm tốn ở đây chính là bằng lòng hy sinh lý trí, hy sinh cái suy luận theo tài năng hiểu biết của mình, để đón nhận điều sẽ xảy ra với lòng tin tưởng tuyệt đối. Việc chấp nhận dìm mình trong song Giodan của Naaman cũng như chuyện chấp nhận thực hiện điều trái ý, chấp nhận điều chẳng lành trong cuộc đời, không dễ dàng tí nào đối với người không có đức tin.

Việc chấp nhận đến với Giodan còn mang một ý nghĩa khác,  là chấp nhận đến với Đất Nước của Thiên Chúa, đến với Giáo Hội.

Cũng vậy, “đi trình diện với các tư tế” trong trình thuật Luca 17,11-19  cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận đến với những người của Thiên Chúa, trong Giáo Hội.  Và khi đến, phải khiêm tốn và xác tín rằng, tôi đến là tôi sẽ được nhận ơn.

“Trong khi đi trình diện với các tư tế, họ đã được sạch phung hủi”. Điểm nầy, tôi liên tưởng đến người có lòng khao khát được sạch những vết phung hủi của tâm hồn do tội lỗi, trên đường đi đến tòa cáo giải với lòng khiêm tốn và đức tin, thiết nghĩ, họ đã được sạch tội rồi nếu họ chết khi chưa kịp xưng thú các tội.

Chấp nhận dìm mình trong dòng sông Giodan  hay đến với Đức Giêsu để nhận được ơn sự sống đòi hỏi một đức tin cao nhất, như Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta cùng kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm 2,11-12)

Rất tiếc, rất tiếc, vẫn còn có nhiều người luôn tuyên bố: “Từ nhỏ đến giờ tôi chẳng nhờ ơn ai cả, tôi tự lập mà nên”. Có người không chấp nhận nhờ vả vì sỉ diện, một cách tránh né do lòng kiêu ngạo. Vậy, không chấp nhận nhờ ơn thì làm gì nói đến chuyện biết ơn.

Ngay cả đối với sự hiện hữu tốt đẹp của chính mình trên trần gian, có người theo chủ nghĩa duy vật vô thần không đủ khiêm tốn để chấp nhận đó là một ơn huệ, còn to tiếng phủ nhận; và cho là một việc tự nhiên do chuyện giải trí của cha mẹ mà có! Thế thì làm gì có lòng biết ơn ai! Rồi từ đó, kéo theo một thế hệ con cháu vô ơn với trời đất, với tổ tiên, với nòi giống. Cái chủ nghĩa duy vật dạy cho họ cuộc sống con người bắt đầu từ con vật, sống và lớn lên như con vật, rồi chết đi như con vật.

Và khái niệm đó đóng khung lý trí của họ mà họ xem như một chân lý. Họ không thể khiêm tốn hy sinh cái lý trí què quặt ấy để đón nhận ánh sáng của đức tin. Họ không chấp nhận dìm mình trong dòng sông cứu rỗi mà người của Thiên Chúa giới thiệu. Họ cố tình không biết những ơn cao trọng mà dòng sông cứu rỗi mang lại. Chẳng trách gì mà họ không những không khiêm tốn đến với Chúa Giêsu mà còn không muốn ai đến với Ngài.

Rất tiếc hơn nữa, những con cái của Chúa cũng không thiếu những con người vô ơn như vậy. Khi cuộc sống vất vả, đau yếu, bệnh tật, nghèo túng thì sốt sằng tìm đến Chúa để kêu la cầu cứu; đến khi có của ăn của để, nhà cao cửa rộng, phương tiện  tiện nghi đầy đủ thì xem tất cả những gì mình có là do sức mình, rồi tỏ ra bất cần đến Thiên Chúa nữa, bất cần đến ơn cao trọng hơn cả là ơn cứu rỗi, tự gieo mình vào một cuộc sống mỗi ngày thêm sa đọa. Chúa Giêsu nói: “không phải cả mười người đều được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”(Lc.17,17-18)

Với tôi, bài học của tướng Naaman và mười người phung hủi, cho thấy sự cần thiết của lòng khiêm tốn, của một đức tin vững chắc để đón nhận và biết ơn Thiên Chúa đang tràn lan trong đời mình qua mọi người và qua mọi biến cố.

Hãy khiêm tốn đến với dòng sông Bí tích, dòng sông Giodan ngày xưa, và dòng sông của Đức Giêsu hôm nay, trong dó có dòng sông của bí tích hòa giải với xác tín chính Chúa Giêsu cũng đang nói với ta “Đức tin con đã chữa con” mọi thứ bệnh trầm kha nhất của tâm hồn. Và rồi,  hãy thể hiện lòng biết ơn cách cụ thể qua việc đền đáp công ơn của Người.  

Đền ơn 

Đối với người Việt Nam, có thể nói  có lòng biết ơn là đã đủ sống với đạo làm người, vì có những ơn Trời ban mà con người không bao giờ đáp đền cho cân xứng.

Với chúng ta, sống tâm tình biết ơn, thiết nghĩ, là chưa đủ. Phải thiết thực đáp đền ơn Chúa bằng việc thờ phượng tôn vinh Thiên Chúa cho xứng đáng. Biết việc đền ơn không phải là lễ vật như “món quà” của Naaman dâng cho Thiên Chúa qua Elise. Naaman đã chọn cách đền ơn bằng việc “chở một ít đất ở Giodan về mà lập bàn thờ Thiên Chúa trên đất ấy”.(2V 5,15-17). Cũng như người Samari “thấy mình được khỏi, liền quay trở lại mà lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn” (Lc 17,15-16).

Như vậy, đáp đền ơn Thiên Chúa là tôn vinh Thiên Chúa bằng cách:

– sống trọn tình con thảo trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa quan phòng, tin tưởng vào Chúa Giêsu và Giáo Hội của Ngài“hãy trình diện với các tư tế”.

Về điểm nầy, tôi không đồng tình với quan điểm “Giêsu-Yes”, “Giáo Hội- No”. Vì như thế là chúng ta tự mâu thuẫn với đức tin của mình. Chúng ta đã nhận muôn ơn Chúa qua Giáo Hội. Phủ nhận Giáo hội cũng chính là phủ nhận đức tin vào Thiên Chúa. Ta vẫn tuyên tín “ tôi tin Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” kia mà. Hãy tin tưởng vào Giáo Hội của Chúa. Không vì một vài phần tử bội tín hoặc phá phách trong giáo hội mà ta phủ nhận sự thánh thiện của Giáo Hội, rồi trở thành người vô ơn một cách oan uổng. Hãy tin tưởng Giáo Hội.

– sống và trở nên nguồn sống cho tha nhân – nguồn sống ấy có thể là một nụ cười, một niềm vui, một chia sẻ như làm cánh tay nối dài của Thiên Chúa. Ta vẫn thường nhận ơn của một người và không bao giờ đáp trả nổi, nhưng ta lại thi ân cho người khác như một nghĩa cử đền đáp  cho người mình đã nhận. Hãy sống chứng nhân tôn vinh thờ phượng Chúa bằng đức bác ái. 

Để kết

Tôi có nghe các em mổ tim nhờ Hội Bác ái Phanxicô hỗ trợ- sau khi mổ tim thành công, hát mấy câu trọn vẹn ba ý nghĩa: nhờ ơn, biết ơn và đền ơn, như sau:

“Em có một trái tim nhưng là trái tim của nhiều người

Em sống nhờ trái tim, nhờ tình yêu thương người mọi nơi

Em suốt đời biết ơn người cho em sự sống nầy

Sẽ sống và sẻ chia tình yêu thương cho muôn người.”

Lạy Chúa xin cho chúng con lòng khiêm tốn và đức tin vững chắc, để đón nhận tất cả là hồng ân Chúa.  Và xin cho chúng con biết sẻ chia sự sống cho tha nhân. A men.

 

.

SAO KHÔNG QUAY LẠI ĐỂ TẠ ƠN?

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Chúng ta vẫn còn nhớ vào ngày 11 tháng 3 năm 2012, kỷ niệm tròn 1 năm thảm họa sóng thần ập đến với nhân dân Nhật Bản. Sau đại họa đó, Nhật Bản đã hồi sinh nhanh chóng, một phần nhờ vào sự tương trợ của các nước trên thế giới. Vì thế, nhân dịp kỷ niệm này, khoảng 500 em học sinh từ thành phố Ishinomaki thuộc tỉnh Miyagi đã đồng ca bài hát mang tên “Arigato” (Cảm ơn) để tri ân thế giới. Hành động này đã làm cho thế giới nghiêng mình kính phục trước hệ thống giáo dục của nước Nhật.

Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu chữa lành mười người phong cùi, tuy nhiên, sau đó chỉ có một người quay lại để tạ ơn Chúa mà thôi. Vậy, tại sao lại có sự chữa lành đó và thái độ tạ ơn của người Samaria đã đem lại cho anh ta những gì?

  1. Ý Nghĩa Lời Chúa

Trước tiên, chúng ta tìm hiểu về quan niệm của người Do Thái đối với người bị bệnh phong cùi:

Theo lối suy nghĩ của người Do Thái thời bấy giờ, bệnh phong cùi là một thứ bệnh dơ bẩn, ô uế. Vì thế, người mắc bệnh này chắc chắn bị cô lập. Họ không được sống một cuộc sống bình thường như mọi người, và lẽ đương nhiên bị người cùng thời khinh bỉ. Cuộc sống của họ thường ở ngoại ô, hay nơi vùng sâu vùng xa, nơi ít người qua lại. Nhưng có lẽ khổ tâm hơn cả, chính là họ bị mọi người coi mình như là dấu chỉ bị Thiên Chúa trừng phạt. Những ai mắc bệnh này thì kể như là kẻ bị chúc dữ.

Quả thật sách Lêvi cũng đã trình bày sự phân biệt và kỳ thị đối với người bị bệnh phong thời bấy giờ như sau: “Người phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó còn ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,45-46).

Tuy nhiên, hôm nay Đức Giêsu đã làm cho mọi người phải ngỡ ngàng vì Ngài có một trái tim rộng lớn, Ngài đã “chạnh lòng thương” để vượt lên trên lề luật, ra khỏi quan niệm của dân chúng để cứu giúp những người đau khổ.

Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu đi đến một làng kia, và có mười người phong cùi biết tin Ngài đi qua, nên đã đến để xin Ngài chữa lành cho mình: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Lc 17, 13 ). Câu nói này thể hiện niềm tin của họ vào Đức Giêsu cách tuyệt đối. Vì tin, nên những người bệnh này cũng đã phá tan hàng rào kỳ thị của dân chúng xưa nay cũng như lòng tự ti của chính mình để miễn sao gặp được Chúa và mong ước được Chúa yêu thương, chữa lành. Và, khi nghe thấy họ kêu xin mình như vậy, Đức Giêsu đã “chạnh lòng thương” và, Ngài đã ra tay cứu giúp khi nói: “Hãy đi trình diện với các tư tế. Ðang khi đi thì họ đã được sạch” ( Lc 17, 14 ). Qua hành vi chữa lành bệnh tật này, Đức Giêsu thể hiện lòng thương xót, nhân từ của Thiên Chúa cho nhân loại.

Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả chính là Đức Giêsu đã giải thoát họ về mặt tinh thần. Từ nay họ không còn bị xã hội xa lánh, khinh miệt và nguyền rủa nữa. Cũng kể từ nay, họ được hòa nhập với xã hội và người thân. Đây có lẽ là điều hạnh phúc nhất của họ.

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong bài tin mừng hôm nay đó là đức tin và lòng biết ơn:

Trước tiên, vì tin, những người phong cùi mới kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17, 14). Vì tin, họ mới nghe lời Đức Giêsu để đến trình diện tư tế khi chưa lành bệnh. Và, kết quả là nhờ lòng tin, họ đã được lành sạch khi đang trên đường đi trình diện các Tư Tế.

Thứ đến, là lòng biết ơn. Tất cả mười người đều được lành sạch cả, nhưng chỉ có một người trong nhóm họ đến tạ ơn Đức Giêsu mà thôi. Thật chớ trêu thay, người đó lại là người Samaria dân ngoại, còn những người Do Thái thì có những thái độ ngược lại. Thấy vậy, Đức Giêsu mới hỏi: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 18-19). Câu hỏi này vừa nói lên sự ngỡ ngàng và chua chát của Đức Giêsu với người Do Thái, vốn được coi là dân riêng của Thiên Chúa, nhưng đã không hề chân nhận những ơn lành mà Ngài đã thi ân. Thái độ này của họ đã được Đức Giêsu cảnh báo: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.

Cuối cùng, nhờ lòng biết ơn, người Samaria này đã sinh hoa trái về đàng thiêng liêng cho chính mình. Người này được sạch cả bên trong lẫn bên ngoài, còn những người Do Thái thì tuy bên ngoài đã sạch, nhưng tâm hồn của họ vẫn bị thứ bệnh phong cùi vô hình làm cho họ mất cảm thức về ơn cứu độ.

  1. Sống Lời Chúa Hôm Nay

Hôm nay chúng ta được nghe tường thuật bài Tin Mừng Chúa chữa mười người phong cùi về mặt thể lý, và điểm then chốt mà sứ điệp lời Chúa hôm nay muốn nhấn mạnh đó là cần phải có niềm tin và lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Đồng thời cũng muốn cho mỗi chúng ta ý thức được mình cũng là người tội lỗi cần được Chúa thứ tha.

Đã nhiều lần ta nghe đâu đó, hay chính chúng ta đã hứa với Chúa: “lạy Chúa, xin cho gia đình con được bình an, hạnh phúc, được nhiều người giúp đỡ. Con cái ngoan hiền, thi cử đỗ đạt, gia đình có công ăn việc làm, buôn bán được thuận lợi”, rồi sau đó hứa với Chúa là sẽ thay đổi như: bỏ rượu, cờ bạc, trai gái và chăm chỉ đi lễ nhà thờ, lần hạt, chia sẻ bác ái…. Nhưng khi đạt được rồi thì bỏ luôn không còn nhớ gì hay nếu có nhớ thì cũng làm ngơ không để ý đến lời thề của mình với Chúa, Đức Mẹ và các thánh nữa. Vẫn còn đó câu ngạn ngữ: “Hết rên, quên thầy”; “được chim bẻ ná, được cá quăng nơm”; “chắp tay lạy Đức Chúa Trời, cho con lấy vợ con thôi nhà thờ”.

Mong thay, mỗi người chúng ta hãy có một đức tin mạnh mẽ và luôn mang trong mình tâm tình tạ ơn Chúa để được cứu độ. Hồng ân này đã được kinh Tiền tụng Thánh Thể IV diễn tả: “Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được ca tụng Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”.

Lạy Chúa, xin cho con biết tin tưởng vào Chúa như những người phong cùi khi xưa, và xin cho con có thái độ biết ơn như người Samarria trong bài Tin Mừng hôm nay. Ước gì lời tạ ơn của chúng con được Chúa chúc lành và ban ơn cứu độ. Amen.

 

.

THỂ HIỆN LÒNG BIẾT ƠN

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A-. DẪN NHẬP.

Người ta hay nói :”Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất”. Câu nói ấy có ý chỉ trích thói vô ơn của nhiều người. Theo thói thường, người ta chỉ muốn nhận chứ không muốn cho đi. Nếu nhận được một ân huệ nào của ngưới khác thì dễ quên đối với vị ân nhân, còn khi mình làm ơn cho ai thì nhớ rất dai và muốn người ta phải thể hiện lòng biết ơn đó. Bài Tin mừng hôm nay cho biết Đức Giêsu đã chữa lành cho mười người phong cùi mà chỉ có một người dân ngoại Samaria trở lại ca tụng hồng ân Thiên Chúa, còn chín người Do thái kia bỏ đi luôn không nghĩ gì đến hồng ân đã lãnh nhận. Những người này không tỏ lòng biết ơn vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa thi ân. Họ là những người vô ơn.

Người đời thường nói :”Uống nước nhớ nguồn” hay “An quả nhớ kẻ trồng cây”. Biết ơn là một chuyện xem ra rất bình thường nhưng cũng là một bổn phận mà ít người làm trọn. Ngày nay người ta ít dùng hai tiếng “cám ơn”, người ta rất hà tiện trong việc dùng hai tiếng đó. Ngạn ngữ Pháp có câu :”Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”, vì con tim cảm nghiệm được điều tốt người khác làm cho mình, nên người biết ơn người khác phải là người đạo đức, có văn hóa, có giáo dục. Vì vậy, chúng ta có thể nói : biết ơn là một việc khó, và thể hiện lòng biết ơn bằng những việc làm cụ thể lại càng khó hơn.

Cuộc đời của chúng ta được đan dệt bằng những hồng ân của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói:”Tất cả là hồng ân”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng nói như thế. Đối với người chịu ơn thì phải tỏ lòng biết ơn đối với người làm ơn. Đối với Thiên Chúa, lời cảm tạ của chúng ta không cần thiết vì nó chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng nó lại cần thiết cho chúng ta vì đem lại lợi ích cho chúng ta. Chúng ta phải có tâm tình tạ ơn Chúa như ông Naaman đối với tiên tri Elisê và người phong cùi Samaria đối với Chúa. Cách thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa không gì tốt hơn là Thánh Thể và Thánh lễ, vì Thánh Thể và Thánh lễ đều là tạ ơn.  Đi tham dự Thánh lễ là đi tạ ơn Chúa. Ngoài ra, tinh thần biết ơn ấy còn phải được thể hiện bằng sự chia sẻ với những người khác về tinh thần cũng như vật chất.

B-. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+  Bài đọc 1 : 2V 5,14-17.

Ông Naaman là tổng tư lệnh quân đội Syria bị mắc bệnh phong cùi. Nghe tin bên Israel có ông Elisê có thể chữa được, nên ông đã đến xin tiên tri Elisê chữa cho ông.

Tiên tri Elisê bảo ông hãy xuống sống Giorđan tắm 7 lần thì khỏi. Ông thấy đây là phương pháp quá tầm thường và nước sông ở đây cũng không hơn gì nuớc sông ở xứ sở mình. Lúc đầu ông không chịu, nhưng do một người hầu gái thuyết phục, ông đã đi tắm 7 lần và sau đó ông được khỏi bệnh cùi.

Sau khi khỏi bệnh, ông Naaman muốn tạ ơn tiên tri Elisê nhưng ông nhất định từ chối, vì ông muốn quan chỉ cám tạ ơn Thiên Chúa mà thôi.

+  Bài đọc 2 : 2Tm 2,8-13. 

Lúc đó, thánh Phaolô đang bị giam cầm tại Rôma lần thứ hai.  Ngài viết cho Timôthêô những lời di huấn : hãy chịu đau khổ và chết với Đức Kitô để được cùng sống lại và hiển trị với Ngài.  Còn riêng với thánh Phaolô, mặc dầu đang chịu khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết tâm trung kiên với Ngài.

+  Bài Tin mừng : Lc 17,11-19. 

Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành ba đoạn nhỏ :

a) Nhận biết phận mình: Mười người phong cùi đến với Đức Giêsu xin Ngài cứu chữa. Nhận biết phận mình là những người bị xã hội loại bỏ nên không dám đến gần Đức Giêsu mà chỉ “đứng đàng xa” mà kêu xin.

b) Đức Giêsu thử thách họ: Ngài không chữa cho họ ngay mà chỉ bảo họ :”Hãy đi trình diện với các tư tế”. Nếu có đức tin thì họ sẽ đi ngay và sẽ được khỏi. Trường hợp này họ có đức tin vì đang đi trên đường thì họ được khỏi.

c) Kết quả: Mười người đều được khỏi bệnh : 9 người cùi Do thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Còn người cùi xứ Samariatrở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.

C-. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. CHỮA LÀNH MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI.

  1. Hoàn cảnh :

Trên đường tiến về Giêrusalem, nơi Đức Giêsu thực hiện công trình cứu độ bằng việc chịu thương khó, chịu chết và sống lại. Thánh Luca thuật lại cho chúng ta một biến cố xẩy ra trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, đồng thời cũng là một phép lạ : Chúa chữa lành mười người phong cùi ở biên giới Samaria và Galilêa.

  1. Mười người phong cùi xin cứu giúp.

Bệnh phong cùi vẫn được giới y học cho là phát sinh từ Ai cập truyền qua Palestine, An độ rồi hai đế quốc La Hy. Sau đó truyền sang Au châu.  Phong cùi là một bệnh nan y nhơ nhớp, người bệnh phải sống cách biệt với người lành và vì thế họ không được ở trong thành, chỉ được sống ở những làng mạc chung quanh thành. Vì thế, trước khi vào Giêrusalem. Đức Giêsu đi qua làng thì gặp mười người phong cùi.

Phong cùi là một bệnh khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Đức Giêsu, nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ. Luật của Maisen thật là hà khắc nhằm tránh dịch bệnh lan truyền : người mắc bệnh phong cùi  phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên :”Ô uế ! Ô uế !”. Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên bị cấm  đến ở những nơi dân cư và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phượng.

Mười người phong cùi này sống chung với nhau lẫn lộn cả Samaria và Do thái,  không còn phân biệt như trong các cộng đồng của họ ở trước. Họ sống vui vẻ hòa hợp. Chính đau khổ đã đưa con người đến tình liên đới nhân loại. Khi họ bị loại ra khỏi xã hội con người, họ đã trở thành một xã hội đầy tình người hơn.

Theo luật Maisen, họ không được đến gần, phải đứng đàng xa mà kêu xin :”Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Đức Giêsu không chữa lành họ tức khắc mà chỉ bảo họ  hãy đi trình diện với các tư tế. Những người phong cùi phải đến trình diện thầy tư tế, không phải để được khỏi bệnh nhưng để xác nhận là đã khỏi bệnh. Ở đây ra lệnh cho người bệnh đi trình diện khi chưa khỏi bệnh là để thử luyện lòng tin của họ, vì theo luật khi khỏi bệnh mới đi trình diện các thầy tư tế.

  1. Đức Giêsu đã chữa lành họ.

Để được khỏi bệnh, Đức Giêsu đòi hỏi phải có lòng tin. Những người cùi này đã tỏ bầy lòng tin vào Đức Giêsu khi họ tuyên xưng Đức Giêsu là Thầy và xin Ngài thương xót, đồng thời họ cũng đã tỏ lòng tin ấy  bằng hành động : vâng lời Chúa đi trình diện ngay với các vị tư tế mà không chờ một hành động gì khác để chữa bệnh. Việc này cũng làm cho chúng ta  nghĩ đến thử thách lòng tin mà tiên tri Elisê bắt ông Naaman, người gốc Syria  phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một biện pháp… điều này làm ông ta nổi giận. Vì thế, hiệu quả của lòng tin ấy làm họ thấy mình được khỏi bệnh trên đường đi trình diện theo Luật.

  1. Lời tạ ơn sau khi được lành.

Trong khi đi trình diện, cả mười người đều được lành sạch. Chúng ta nhận thấy trong khi 9 người tiếp tục đi “trình diện với các tư tế”, thì riêng có một người, thay vì vâng lệnh Chúa và Luật dạy, “liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”. Thật ngạc nhiên, chỉ đến lúc này, lúc mà cách xử sự của anh đã gây ấn tượng tốt nơi chúng ta, thì chúng ta mới biết anh thuộc dòng tộc nào : anh là người Samaria. Đối với anh, tuy đã khỏi bệnh cùi, nhưng vẫn phải mang thân phận của người bị khinh khi vì lạc đạo, nên không có vấn đề đi đến đền thờ… hơn nữa, anh đã gặp Đấng Thiên Sai trên đường, Đấng vừa cứu chữa anh, như rồi đây ta sẽ thấy : chính nơi Đức Giêsu mà ta tôn vinh Thiên Chúa.

Cử chỉ anh làm là một cử chỉ trong phụng vụ,”anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn”. Anh nghĩ chắc hẳn đó là cách tuyên xưng công khai Đức Giêsu là người gần gũi với Thiên Chúa.  Roland Meynet chú giải :”Người Samaria vừa khỏi bệnh đã kết hợp Thiên Chúa với Đức Giêsu trong cùng một lời ngợi khen và tạ ơn. Ơn cứu độ vừa đón nhận được anh công bố cho mọi người biết, đó là công trình của Thiên Chúa và của Đức Giêsu. Lòng tin của anh không phân biệt hai Đấng ấy, và anh sấp mình dưới chân Đấng  đã làm cho anh nên sạch, như sấp mình dưới chân Đức Chúa” (Fiches dominicales C, tr 328-329).

Chớ thì không phải cả mười người được lành sao” ? Đức Giêsu đợi tất cả mọi người đến tôn vinh Thiên chúa qua trung gian của Ngài. Những người Do thái không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa thi ân. Ở đây Chúa có ý ám chỉ đến người Do thái, đến riêng các biệt phái, luật sĩ là những người ỷ lại vào danh nghĩa (con cái Israel) dân riêng của Chúa, mà tự phụ kiêu căng, khép kín không tin nhận vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Đang khi ấy chỉ có người dân ngoại là ngườiSamaria đã tỏ bày lòng biết ơn bằng cách trở lại tôn vinh Thiên Chúa.

II. HAI TIẾNG “CÁM ƠN” TRONG ĐỜI THƯỜNG.

  1.  Biết ơn, một chuyện bình thường.

Trên bình diện con người thì biết ơn rất ư là chuyện bình thường. Khi chịu ơn ai thì tỏ lòng biết ơn qua một hình thức nào đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp vì người ta thường nói :

Uống nước nhớ nguồn

Hoặc

An quả nhớ kẻ trồng cây,

An cơm nhớ kẻ đâm, say , giã, sàng. 

Thế nên lòng biết ơn thường là “có đi có lại”. Dĩ nhiên cũng có người chỉ muốn cho đi mà không muốn nhận lại, dù chỉ là lời cám ơn. Nhưng quả là hiếm !

Ngày nay, hai tiếng “cám ơn” hình như càng ngày càng thiếu vắng trong cuộc sống hiện nay. Chúng ta ngày hôm nay, ngần ngại khi phải nói tiếng “cám ơn”. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy hai tiếng “cám ơn” hình như bớt dần đi với tuổi tác. Càng lớn tuổi, người ta càng khó nói tiếng “cám ơn”. Nhưng nếu chỉ hai tiếng “cám ơn” mà chúng ta không nói được, thì cho thấy tình trạng luân lý của xã hội đang tuột dốc một cách nguy hiểm.

  1. Biết ơn, là trí nhớ của trái tim.

Người Pháp có câu ngạn ngữ :”Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”. Vì con tim cảm nghiệm được điều tốt người khác đã làm cho mình, nên người biết ơn người khác phải là người đạo đức, có văn hóa, và có giáo dục. Thi sĩ người Anh, Samuel Johnson, đã nói rằng :”Lòng biết ơn là một hoa trái của công trình rèn luyện cao quí, bạn không tìm thấy nó ở những kẻ thô lỗ”.

Còn Chu Văn, tác giả Chuyện Tử Tế thì chia sẻ với chúng ta :”Một tiếng nói cám ơn với tất cả thành thật, một cử chỉ biết ơn  đối với những ai đã làm ơn cho chúng ta cách này hay cách khác, một thái độ như thế không những làm cho chúng ta được nên người hơn, mà là thể hiện của một niềm tin sâu sắc nữa. Có lẽ không gì tử tế bằng khi hai tiếngcám ơn luôn được thốt lên với tất cả chân thành và trân trọng”.

Công ai một chút chớ quên,

Phiền ai một chút để bên cạnh lòng.

Truyện : Anh lính biết ơn. 

Kurt Emmerich, một bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể câu chuyện sau đây về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới Nga sô. Hàng ngàn thương binh đã được ông giải phẫu tại bệnh viện dã chiến, nhưng chỉ có một trường hợp làm ông không bao giờ quên. Người lính trẻ đó được đưa vào bệnh viện với một khuôn mặt bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc rất nhiều ngày để sửa lại khuôn mặt của anh với tất cả nỗ lực có thể được qua hàng loạt những phẫu thuật cấy và ghép da.

Trong lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết  toàn thể các phần còn lại với nhau ở khóe miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh, “Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi muốn nghe anh phát biểu một điều gì với môi miệng mới của anh”.

Anh thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một cách rất cẩn thận, và rồi với nụ cười mỉm chi đầu tiên của anh, miệng anh uốn theo những chữ :”Cám ơn”(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa… năm C, tr 343).

  1. Biết ơn là một việc khó.

Đừng tưởng việc biết ơn, nhớ ơn, biết nói lời cám ơn là một chuyện dễ dàng, không mấy khó khăn. Nếu nghĩ như thế là lầm vừa chưa biết cám ơn bao giờ vì qua cách sống của mỗi người và qua thực tế như bài Tin mừng hôm nay trình bầy cho chúng ta thấy rằng : nhận ơn thì ai cũng muốn, còn nhớ ơn lại rất ít người làm hoặc cho ai cái gì người ta nhớ rất dai, còn khi nhận được cái gì thì lại quên mau chóng. Như thế, chỉ những ai có tâm hồn đạo đức, một lòng trí trong sáng mới có thể biết ơn ân nhân của mình cách đúng đắn.

Nếu biết năng dùng hai tiếng “cám ơn” thì nó cũng sẽ giúp người ta rất nhiều :

– Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sằn sàng giúp ta nữa.

– Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.

Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn các em học trò, chủ cám ơn tớ…

Nhưng tại sao người ta cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn người nhà”(Frank Mihalic).

  1. Làm ơn đừng nhớ, chịu ơn đừng quên

Bài đọc 1 đưa ra cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp : Tướng của Syria là Naaman bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với tiên tri Elisê một cách cụ thể bằng lễ vật mà ông tha thiết xin tiên tri nhận cho. Còn Elisê thì kiên quyết từ chối, mặc dù lễ vật ấy chắc chắn sẽ giúp ngài sống đỡ thiếu thốn, và nhất là – theo cách suy nghĩ bình thường của người đời – có thể tạo cho ngài nhiều phương tiện hơn để thi hành sứ mạng của mình.

Cả hai thái độ tốt đẹp trên có thể làm chúng ta suy nghĩ và xét lại thái độ của chúng ta khi chịu ơn ai hoặc làm ơn cho ai. Thông thường người ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra  những điều tốt người khác làm cho mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho người khác. Không những thế, mình còn mong họ nhớ ơn và trả ơn mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì ta buồn phiền, oán trách, thậm chí sẵn sàng lên tiếng chê bai :

Những người phụ nghĩa quên công,

Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.

Truyện : Không ai cám ơn tôi cả. 

Cách đây đã lâu, một con tầu bị đắm vì giông bão trong vùng Ngũ Đại Hồ, Hoa kỳ. Những toán cấp cứu được phái đến giúp đỡ, trong đó có một nhóm sinh viên của trườngNorthwestern University ở Chicago. Một sinh viên trẻ tuổi, tên là Edward  Spencer, đã cứu được 16 người từ con tầu đang bị chìm. Anh làm việc hăng say cho đến khi gần kiệt sức. Khi được phỏng vấn, anh còn lúng túng e ngại  vì sợ rằng vẫn chưa làm hết sức mình :”Tôi đã làm việc hết sức chưa ? Quý vị có nghĩ rằng  tôi đã làm việc hết mình không”?

Nhiều năm sau đó, trong buổi họp mặt của các cựu sinh viên, một thuyết trình viên đã nhắc lại hành động anh hùng này. Bỗng nhiên có một người la lớn rằng Edward Spencer đang hiện diện ở đây. Thế là Spencer được mời lên bàn cử tọa. Bây giờ ông đã già, tóc bạc, buớc lên bục đài giữa tiếng hoan hô vỗ tay của khán giả. Thuyết trình viên hỏi ông :”Trong biến cố đó, sự kiện nào đáng ông ghi nhớ nhất” ? Ông cụ bèn trả lời:”Chỉ có một điều này làm tôi nhớ mãi, khoảng 16 hay 17 người đã được tôi cứu vớt, không một người nào đã cám ơn tôi cả”. 

  1. Biết ơn là thái độ sống căn bản.

Thái độ biết ơn Thiên Chúa là một thái độ căn bản của các tạo vật và chỉ con người mới ý thức và nói lên được hai tiếng cám ơn. Trong Cựu ước, dân Israel đã dâng các lễ vật đầu mùa để cám ơn Thiên Chúa (Đnl 26, 1-10). Trong Tân ước, một hành động cảm ơn trọn vẹn và xứng đáng nhất là phép Thánh Thể thường được gọi là Lễ Tạ Ơn. Sách Talmud nói:”Một ngày kia khi mọi lời nguyện sẽ im bặt trên môi miệng con người, ngoại trừ kinh nguyện tạ ơn”.

Thánh Bênađo đã nói:”Anh em, tôi xin anh em điều này là hãy xa tránh một nết xấu lớn lao là sự vô ơn. Chớ gì đời ta là một đời sống, một lời cám ơn liên lỉ. Chúng ta đừng cảm ơn suông bằng môi bằng miệng, nhưng bằng các việc làm và bằng chân lý của đời ta : đừng nói cám ơn, nhưng hãy thực hành việc cám ơn. Đó là điều mà Chúa mọi ơn lành đòi hỏi chúng ta”. 

III. THỂ HIỆN TÂM TÌNH BIẾT ƠN.

  1.  Tất cả đều là hồng ân.

Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng “cám ơn”, hoặc chẳng bao giơ bầy tỏ tấm lòng tri ân.

Chúa cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công,

Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh,

Chúa cho con đôi môi, con hé mở nụ cười,

Chúa cho con hai tay,  bưng chén cơm, cầm bút,

Chúa cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường,

Chúa cho con khối óc, phân biệt điều thực hư,

Những điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật cao cả.

Mà đã lần nào  con nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa.

Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con mới nhận ra những thứ ấy thật cao quí.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban cho chúng con một điều nữa là cho chúng con biết luôn nhận ra những ân huệ Chúa mà không ngừng cảm tạ tri ân.

Amen .  (Hosanna).

Truyện : Hồng ân Chúa quá nhiều. 

Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây : Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói :”Bố ơi, con sẽ đếm sao trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai  và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123,124,125… Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi :”Bố ơi, con không dè trên trời  lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là  thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa :”Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi :”Lạy Chúa, con không dè đời con  lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế”(Phạm văn Phượng).

2Có nhiều cách tỏ lòng biết ơn.

Tâm tình biết ơn thường được gói ghém trong hai tiếng “Cám ơn”. Cám ơn không những là một bổn phận mà còn là một nhân đức bởi vì người ta rất hà tiện trong việc cám ơn. Người ta có muôn vàn cách để cám ơn. Có rất nhiều chuyện mà người ta không thể cám ơn bằng tiền bạc được, người ta có thể cám ơn bằng nụ cười, một thoáng quan tâm, một tiếng cám ơn. Những ngưởi bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy hàng của họ thế này:”Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông hoa”. Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm  tình của mình ra nhờ những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền trà nước, đó là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bầy tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.

  1. Hãy tạ ơn Chúa về mọi sự trong cuộc đời.

Về việc thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần những lời cám ơn của chúng ta, nhưng chúng ta cần cám ơn Thiên Chúa. Điều ấy nhắc chúng ta rằng mọi việc mà chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cám ơn Thiên Chúa về điều xẩy đến cho chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố gắng biết ơn về trọn cả cuộc đời mình : điều xấu cũng như điều tốt, những niềm vui và nỗi buồn, những thành công và thất bại. Đó không phải là một việc dễ dàng. Chúng ta chỉ thực sự gọi mình là những người có lòng biết ơn khi chúng ta có thể nói lời cám ơn về mọi việc đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri ân này làm chúng ta có khả năng cải tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta  và coi nó như là con đường cụ thể trong đó Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta đến giây phút này.

  1. Cám ơn Chúa trong Thánh Lễ

Ngay từ ban đầu khi thành lập Giáo hội, các tín hữu đã qui tụ nhau lại hằng tuần để cử hành tiệc “Thánh Thể” (Cv 2,42). Chữ Eucharistia – “Thánh Thể” dịch từ tiếng Hy lạp “Eucharistos”, có nghĩa là “Biết ơn – Tạ ơn”.  Vì thế ngay từ hồi Giáo hội sơ khai, người Kitô giáo đã ý thức về nhu cầu tạ ơn Thiên Chúa, và họ nhận thức rằng một cách tốt nhất để tạ ơn  là việc dâng lễ. Khi mọi người tín hũu thời Giáo hội sơ khai đi dâng lễ, cái ý nghĩ và tâm tình của họ dựa trên cái ý niệm tạ ơn. Thánh lễ, theo tiếng Hy lạp, có nghĩa là tạ ơn. Vậy đi lễ là đi tạ ơn Thiên Chúa.

Trong Thánh lễ, ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa bằng lời tạ ơn và tâm tình biết ơn. Bằng một biểu hiệu tạ ơn và biết ơn, ta dâng lên Thiên Chúa bánh rượu là do kết quả của sức lao công hằng ngày, được trở thành Mình và Máu thánh Chúa do lời truyền phép của Linh mục tế lễ. Do đó lễ vật tạ ơn của ta được hiệp nhất với Mình Máu Thánh Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội, ca tụng và cảm tạ.

Để kết thúc, chúng ta có thể nói rằng Chúa không cần chúng ta phải cảm ơn nhưng lại cần cho chúng ta,  bởi vì việc đó có lợi cho chúng ta như kinh Tiền tụng Thánh Thể IV đã nói:”Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được ca tụng Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”.

Truyện : Cám ơn. 

Thi sĩ Lamartine, người Pháp có kể lại một giai thoại như sau : một hôm ông tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kỳ lạ : cứ sau một tiếng búa đập vào đá lại vang lên một tiếng cám ơn ! Đến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhìn thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa vào phiến đá, ông lại thốt ra hai tiếng “cám ơn”.

Thi sĩ nấn ná đến hỏi chuyện, ngưởi thợ đá mới giải thích :”Tôi tạ ơn Chúa” ! Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ, lầm than hơn nhiều người, thi sĩ bảo :

– Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng “cám ơn”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần duy nhất, đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không ngó ngàng gì tới bác nữa, thế thì tại sao  bác lại mỏi miệng cám ơn Ngài ?

– Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao ?

– Dĩ nhiên – Lamartine thách thức – Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần thôi !

Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, náo nức thốt lên :

– Tôi nghĩ điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và chỉ một lần thôi, vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao ? Vậy, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa !

Nói xong, người thợ đá đã bỏ mặc cho ông thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông : vừa đập đá vừa cám ơn Chúa.

Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,

Chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103,2)

 

.

MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI-

Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

1. Đây là lần thứ ba (x. 9,51; 13,22; và c.11 chương này) Lc nói đến việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Ngài đã “đi ngang qua Samaria và Galilea”. Các dòng chữ này từ lâu đã gây nhiều khó khăn trong các thủ bản và các sách Chú giải. Có 2 cách giải thích:

a/ “Đi ngang qua Samaria và Galilea” có nghĩa “đi ngang giữa Samaria và Galilea”, nghĩa là đi giữa đường ranh giới ngăn cách 2 tỉnh. Có lẽ Chúa Giêsu đã đi theo lộ trình đó để đến thung lũng sông Giodan miền Scythopolis và từ đó xuống Giêrico (18,35) để lên Giêrusalem. Việc đi gần Samaria đó cắt nghĩa sự có mặt của một người Samaritanô trong nhóm mười người phong cùi. Xét về văn phạm, lối chú giải này xem ra vững chắc, vì chữ meson không có mạo từ và ở accusatif, thay vì ở cas ghénitif (vd 4,30). Xét về địa dư, lối chú giải này càng vững, vì nếu đi về Giêrusalem, Chúa Giêsu phải đi từ bắc xuống Nam; còn nói “đi ngang qua Samaria và Galilea”, có lẽ phải đi từ nam ra bắc.

b/ Tuy nhiên có lẽ ở đây Lc đứng trên bình diện thần học hơn là địa dư. Do đó, vì đứng từ Giêrusalem nhìn lui đoạn đường đã đi, ông đã nhắc Samaria trước Galilea, vì thế ông viết “đi ngang qua Samaria và Galilea”. Lộ trình và hành động của Chúa Giêsu đều bị Giêrusalem chi phối, đến độ khi nhìn lại đoạn đường đã đi, cũng phải tính từ đích điểm là Giêrusalem. Chỉ có thể hiểu lộ trình và hành động của Chúa Giêsu dựa trên cơ sở Giêrusalem, là nơi Ngài sắp được nâng lên. Trình thuật về chuyến đi của Ngài đã bắt đầu với biến cố có nhắc đến Samaria. Samaria là chiếc cầu nhờ đó nhờ đó lời chúa đi từ Galilea sang Giêrusalem, rồi từ Giêrusalem đến với các dân ngoại. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu sẽ uỷ thác cho môn đệ Ngài sứ mệnh: “các con sẽ là chứng nhân cho Ta tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cvsđ 1,8). Chúa Giêsu đi trước vạch đường cho giáo hội theo lộ trình của giáo hội là hậu kết lộ trình của Chúa Giêsu.

Lối chú giải thứ hai, xét về phương diện ngữ học, có thể được chấp nhận: chữ địa với túc từ chỉ nơi chốn ở cas accusatif, dù trong Tân ước chỉ dùng một lần ở đây mà thôi, nhưng trong tiếng Hy lạp sau này, được người ta dùng rất nhiều.

Thật khó mà chọn một trong hai lối chú giải này. Tôi thiết nghĩ, nếu muốn nói “giữa ranh giới Samaria và Galiela” (BJ) hay “dọc theo biên giới Samaria và Galilea”, có lẽ Lc đã viết như thế. Có lẽ bản dịch TOB tự nhiên hơn (“Ngài đi ngang qua Samaria và Galilea”). Dù lối chú giải thứ hai có vẻ hơi bị ép theo nghĩa thần học, nhưng vẫn thích ứng với chủ tâm của Lc, là người thích nói đến điạ dư trong viễn cảnh thần học. Vì thế tôi tạm thì theo lối chú giải thứ hai.

Chúa Giêsu và các môn đệ đi từ thành này sang thành nọ, từ làng này đến làng kia (13,22), nên đã gặp nhóm người phong cùi khi vào một trong các làng đó. Thật lạ lùng khi nhóm này gồm cả người Do thái lẫn người Samaritanô. Đau khổ và bệnh tật làm cho con người xích lại gần nhau, quên đi mối thù truyền kiếp giữa người Do thái và Samaritanô (x.9,53; Gio 4,4-9). Chúng tôi không biết nhóm người phong cùi, ngoài một người Samaritanô, được nhắc đến trong phúc âm hôm nay, còn có thêm người Samaritanô nào nữa chăng. Chắc là không, vì nếu có những người Samaritanô khác nữa, có lẽ họ sẽ đi theo người đồng hương, đồng đạo đến cảm ơn Chúa Giêsu, hơn là ở lại với các người phong cùi Do thái khác. Nhưng đây chỉ là một phỏng đoán. Việc Chúa Giêsu đối chiếu “người ngoại bang này” (c.18) với “chín người kia” (c.17) làm cho vững chắc lời phỏng đoán chỉ có một người Samaritanô thôi.

Người phong cùi được phép vào các làng, nhưng không được vào đô thị có xây tường, thành chung quanh; do đó họ càng không được vào thành thánh Giêrusalem, không được đến gần các người khác: “người mắc bệnh phong cùi phải mặc quần áo rách rưới, tóc bờm xờm, râu dài tua tủa và phải la lên: ô uế, ô uế ! Bao lâu còn mắc chứng bệnh này, bấy lâu bị ô uế, và phải ở riêng biệt, xa chỗ dân chúng ở” (Lv 13,45). Vì thế những người phong cùi đó phải đứng ở đàng xa.

Ở đây Chúa Giêsu được gọi là thày. Cho đến nay, chỉ có các tông đồ là những người cảm kích quyền năng của Ngài, mới gọi Ngài là Thày (5,5; 9,49); các ông đã gọi Ngài là thày khi sững sờ vì vinh quang của Ngài (9,33) hay khi lo âu sợ hãi, phải xin Ngài giúp đỡ (8,24). Không những gọi: “Thày”, các người phong cùi còn van xin Ngài dủ tình thương xót. Đối với họ, Chúa Giêsu không chỉ là một thày rabbi thông luật, mà còn là một đấng quyền năng và nhân hậu. Vương quốc Thiên Chúa đã tỏ hiện trong Ngài, một vương quốc luôn xót thương mọi người.

Chúa Giêsu dạy các người phong cùi chấp hành luật thanh tẩy: “Đây là luật dành cho người phong cùi một khi được lành bệnh: phải được dẫn đến thày tư tế” (Lv 14,2). Chúa Giêsu không chữa lành họ ngay tức khắc, nhưng ra lệnh cho họ, việc họ tuân lệnh giả thiết họ sắp được chữa lành. Quả thế theo lề luật, người phong cùi phải đến trình diện thày tư tế, không phải để được lành bệnh, nhưng để ông ta xác nhận đã lành bệnh. Vậy khi ra lệnh cho các người phong cùi chấp hành lề luật như thể họ đã được lành bệnh rồi, Chúa Giêsu đòi họ phải biết vâng lời trong đức tin; và Ngài muốn hành vi tín thác đó phải được thể hiện bằng việc tuân phục lề luật. Như Lc vừa nhắc lại trong dụ ngôn Ladaro nghèo khó và nhà phú hộ xấu bụng, rằng người tuân nghe Môisen và các tiên tri sẽ được cứu rỗi (16,29). Người Samaritanô cũng được lành bệnh khi đi cùng con đường đó (trình thuật không nói rõ: y đã đến trình diện các tư tế Samaritanô ở núi Garizim hay trình diện tại Giêrusalem). Ơn cứu rỗi đến với người Samaritanô – và với tất cả dân ngoại – nhờ Chúa Giêsu, vì “ơn cứu rỗi đến từ dân Do thái” (Gio 4,22) trong người Chúa Giêsu.

2. Phép lành chữa lành bệnh đã xảy ra khi họ đang trên đường đi trình diện thày tư tế (c.14). Một người trong nhóm mới được chữa lành liền quay trở lại, lớn tiếng “tôn vinh Thiên Chúa”. Chính Thiên Chúa hành động qua Chúa Giêsu. Người vừa người chữa lành ngợi khen Thiên Chúa trước mặt Chúa Giêsu, đồng thời sấp mình xuống dưới chân Ngài. Thiên Chúa cứu rỗi nhờ Chúa Giêsu. Hồng ân Thiên Chúa đã xuất hiện trong Ngài. Cách tạ ơn của người phong cùi đã nói lên điều đó.

Việc Thiên Chúa thường làm phát sinh một cảm xúc sâu xa đích thực. Những ai cảm nghiệm điều đó đều “hô lớn tiếng”: ma quỉ (4,33; 8,28), dân chúng dịp tiến vào Giêrusalem (19,37), Chúa Giêsu khi tắt thở (23,23), Stêphanô khi sinh thì (Cvsđ 7,60). Những người thờ lạy Thiên Chúa đang đến gần họ trong con người Chúa Giêsu cũng “sấp mặt xuống đất”: cha của cô bé hấp hối (8,41), người phong cùi xin chữa lành (5,12)… Quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa tỏ hiện trong con người Chúa Giêsu. Quả thực Ngài là “sự thần hiển của Thiên Chúa”. Chính vương quốc của Thiên Chúa đã đến trong Ngài.

Bệnh nhân được chữa lành và đến tạ ơn Chúa Giêsu là một người Samaritanô (c.16). Cũng như người Samaritanô nhân lành qua việc thương xót săn sóc cho người bị rơi vào tay bọn cướp trong dụ ngôn (Lc 10,30tt), người Samaritanô hôm nay cũng đang đi trên con đường của phúc âm và vương quốc Thiên Chúa qua việc ông tỏ lòng biết ơn. Các đức tính nhân bản đích thực, đi kèm theo lòng khiêm nhu và tâm hồn đại lượng, là đường đưa đến ơn cứu rỗi, với điều kiện là các đức tính đó được liên kết với niềm tin vào lời Chúa Giêsu (một khi đã nghe lời Ngài),là lời tóm kết lề luật và các tiên tri. Lời sẽ sinh hoa trái, khi gặp được một “tâm hồn tốt lành và thiện hảo” (8,15). Trong bản thân người Samaritanô, chúng ta thấy vẽ lên con đường mà phúc âm sẽ dùng để đến với dân ngoại.

Chúa Giêsu đợi tất cả mọi người đến tôn vinh Thiên Chúa, qua trung gian của Ngài. Chính nhờ Ngài mà ân sủng của Thiên Chúa đến với chúng ta và cũng chính nhờ Ngài mà lời chúng ta tôn vinh thấu đến Thiên Chúa. “không có ơn cứu rỗi nhờ một Danh hiệu nào khác” (Cvsđ 4,12). Vì “chỉ có một đấng trung gian độc nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1Tm 2,5). Nhưng chỉ có người ngoại bang đến bên Chúa Giêsu. Với tư cách là người ngoại quốc, người Samaritanô không thuộc về cộng đoàn con cái Israel, nên không có quyền kêu xin Thiên Chúa điều gì. Mọi thứ y nhận được đều là do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, do đó y đã tỏ lòng biết ơn sâu xa. Người Do thái không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là người Do thái, nên có quyền đòi hỏi Thiên Chúa thi ân. Họ thiếu thái độ căn bản để có thể đón nhận ơn cứu rỗi. Trái lại, người ngoại bang đã tỏ ra có các dự kiện đưa y đến ơn cứu rỗi: lòng biết ơn, lời ngợi khen, việc ý thức thân phân nghèo hèn của mình trước mặt Thiên Chúa. Đường cứu rỗi đã được chuẩn bị cho mọi người, cho cả “người ngoại bang”, người tội lỗi, lương dân. yếu tố cứu rỗi, chính là niềm tin, sự quyết tâm phó thác vào lời Chúa Giêsu và hành động cứu rỗi của Thiên Chúa thực hiện nhờ Chúa Giêsu.

KẾT LUẬN

Các người Do thái lẫn Samatitanô đều đã tin vào Chúa Giêsu. Họ đã tin vào lời hứa sẽ chữa lành tiềm tàng trong mệnh lệnh Chúa Giêsu. Nhưng một khi được phép lạ, chỉ một người trở lại tạ ơn. Các người khác xem việc họ được chữa lành như là một quyền lợi đáng được. Chỉ có một người duy nhất trở lại, hoán cải và nhìn nhận mình là kẻ thụ ân, mắc nợ Thiên Chúa. Chỉ có một người cảm thấy mình còn tươi trẻ để sững sờ trước ân huệ nhận được, để tiếp tục lên đường tìm gặp đấng đã thi ân. Chỉ có một người đã biết vượt qua niềm tin vào người chữa bệnh để tin vào Thiên Chúa cứu độ.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Phong cùi là bệnh truyền nhiễm và ghê tởm, nhất là vào thời Đức Kitô. Người mắc bệnh bị loại ra khỏi cộng đoàn, vì lý do vệ sinh dĩ nhiên, nhưng cũng vì lý do thiêng liêng nữa. Bệnh này không chỉ đau đớn và ghê sợ, nhưng đối với người Do thái còn là dấu chỉ phán xét của Thiên Chúa; Quả thực, thời đó người ta tưởng rằng bệnh nhân mắc bệnh đó là vì tội lỗi cá nhân của y bị Thiên Chúa trừng phạt, nên không được tham dự vào đời sống của cộng đoàn. Quan niệm đó được rút từ kinh thánh, ví dụ trong sách Đệ-nhị-luật: “Nếu ngươi không nghe lời Giavê, Thiên Chúa của ngươi, mà tuân hành mọi giới luật Ngài ban… Giavê sẽ giáng xuống ngươi bệnh lở lói kinh khủng nơi đầu gối và chân, ăn từ bàn chân đến đỉnh đầu không sao chữa nổi (Đnl 28,15.35).

2-. Đối với người Samatitanô cũng như người Do thái, phong cùi không phải là một thứ bệnh thông thường, mà là dấu chỉ của tội lỗi, của hình phạt Thiên Chúa giáng xuống; nó làm bệnh nhân mất phẩm cách con cái Thiên Chúa và loại họ ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Khi thấy nhóm người phong cùi van xin mình, Chúa Giêsu chỉ phán một lời (mà giờ chúng ta đã quán triệt): “Hãy đi trình diện với các thày tư tế…. Họ sẽ chính thức cho thấy họ không còn bị phạt nữa nhưng đã được giao hòa với Chúa và nhờ đó sẽ được tái nhập cộng đoàn. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu cho thấy chương trình cứu rỗi của Ngài nhằm làm con người trở thành con cái Thiên Chúa, cũng như thành anh em với mọi người khác trong sự hiệp thông huynh đệ. Số lượng bệnh nhân được chữa lành thật đông đảo, cũng là dấu chỉ cho thấy tất cả mọi người đều được Chúa cứu thoát, không phân biệt quốc tịch, chủng tộc…

3. Người Samatitanô quay trở lại gặp Chúa Giêsu. Tất cả các người phong cùi đều được chữa lành, đều được Chúa ân cần săn sóc yêu thương, cũng thế mọi người đều được tình yêu liên lỉ của Chúa nâng đỡ chở che. Không ai bị loại ra khỏi phạm vi hoạt động của Đức Kitô. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Nhưng thử hỏi trong số 10 người đã có người nào biết và nhận ra Chúa? Chính chúng ta, trong 10 lần thử hỏi đã cám ơn Chúa lần nào chưa? Không chắc. Cám ơn không phải là dễ.

4. Người Samatitanô đã biết Chúa đang hành động trong Chúa Giêsu; việc đi gặp Chúa Giêsu sau khi lành bệnh, chứng tỏ anh đã nhận ra Chúa của anh, vì thế anh đã sấp mặt xuống đất và tạ ơn. Chính bấy giờ Chúa Giêsu với anh lời lạ lùng này: “Hãy chỗi dậy mà đi, lòng tin của anh đã cứu anh”. Sau khi được chữa lành, anh trở lại bên Chúa Giêsu, cám ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Cách cư xử của anh làm anh đáng được cứu thoát. Chúa Giêsu không nói: Ta cứu anh, nhưng nói: lòng tin của anh đã cứu anh. Anh đã nhận ra hành động của Chúa, đã vui vẻ chấp nhận và dâng lại cho Ngài. Trái lại, 9 người kia không được cứu thoát, dù đã được yêu thương như người Samatitanô. Họ đòi hỏi và đã nhận được, nhưng họ chỉ giữ lại ơn Chúa cho riêng họ, vì tư lợi của họ. Họ chỉ yêu thích chính mình; nên dù được Chúa thương mến điều đó không sinh ích gì cho họ.

5. Phần thứ hai bổ túc phần thứ nhất của đoạn phúc âm hôm nay. Nếu mỗi người có thể được Đức Kitô cứu rỗi và chỉ nhờ một mình Ngài mà thôi, thì hành động của Chúa chỉ có hiệu quả, nếu chúng ta biết cởi mở dâng lại mọi sự cho Ngài.

6. Bí tích Thánh Thể chúng ta đang tham dự hôm nay, thực hiện tất cả những gì chúng ta mới khám phá. Là hành động nhờ đó Đức Kitô đã cứu rỗi và biến đổi chúng ta. Thánh Thể cũng là phương tiện nhờ đó chúng ta ta ơn Chúa, vì mọi điều Ngài đã ban cho chúng ta, và nhờ đó chúng ta dâng lại cho Ngài mọi hồng ân Ngài đã ban. Hãy sốt sắng thông hiệp và tham dự thánh lễ đang được cử hành.

 

.

CHỨNG TRẦM KHA

Trầm Thiên Thu

Một trong các nỗi khổ của con người là bệnh tật. Đau đâu khốn đó, dù chỉ là nhức răng. Bệnh càng nặng càng khổ, khổ đủ thứ, khổ mình mà cũng khổ cả người khác.

Bệnh nặng gọi là “trầm kha”. Đó là bệnh trạng nghiêm trọng, kéo dài, khó chữa. Theo Hán Việt: “Trầm” là chìm, đắm, lặn, nặng; “Kha” là bệnh tật, ốm đau. Ngày nay, chữ “trầm kha” cũng thường được hiểu theo nghĩa bóng, dùng để nói về các dạng tình trạng trầm trọng, khó giải quyết, mãn tính,… liên quan nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, đặc biệt là các thói xấu. Chứng kinh niên đã thành “thói quen” thì thật đáng sợ, nguy hiểm hơn cả chứng ung thư!

Một trong các chứng bệnh nan y là bệnh phong [còn gọi là (phong) cùi hoặc (phung) hủi] do vi khuẩn Hansen gây ra, nhất là ngày xưa, ngày nay đã giảm bớt – cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bệnh nhân phong trông rất “kỳ dị” (sần sùi, lở loét, rụng tóc, mất ngón chân, ngón tay), và tất nhiên họ rất đau khổ – không chỉ thể lý mà cả tinh thần, vì bị người ta xa lánh.

Ngày nay, khoa học đã có thể chữa trị được bệnh phong nhưng di chứng phong sẽ không bao giờ có thể chữa khỏi. Các nhà nghiên cứu phân ra ba loại bệnh phong:

[1] Thể Củ: dạng nhẹ, ít nghiêm trọng và ít lây hơn. Những người mắc bệnh này chỉ xuất hiện một hoặc vài mảng da phẳng, màu nhợt nhạt. Vùng da bị ảnh hưởng có thể cảm thấy tê liệt do các dây thần kinh bên dưới bị tổn thương.

[2] Thể U: dạng nghiêm trọng và dễ lây hơn. Người mắc bệnh bị u da và nổi ban (đa cùi phiến), tê và yếu cơ.

[3] Thể Trung Gian: dạng này có các triệu chứng của cả hai dạng thể củ và thể u.

Chắc hẳn ai cũng biết rằng trại phong Di Linh (Djiring), thuộc GP Đà-lạt, tỉnh Lâm Đồng, do ĐGM Jean Cassaigne sáng lập. Ngài là một chủ chiên vì đoàn chiên, như Đức Kitô xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13) Thật “ăn khớp” với khẩu hiệu giám mục của ngài: “Caritas et Amor” (Bác Ái và Yêu Thương). Câu nói đáng nhớ của ngài nhắn nhủ những người phong cùi: “Suốt 47 năm dài (1926-1973), cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây cha không còn tiếc gì về sự dâng hiến toàn diện ấy. Việt Nam chính là quê hương thứ hai của cha, bởi vì Chúa muốn như vậy. Khi về với Chúa, cha vẫn ở với các con, các con đừng lo…” Chính ngài cũng bị lây nhiễm và qua đời ngày 31-10-1973.

Tại Việt Nam, trong số các bệnh nhân phong có một bệnh nhân đặc biệt: Hàn Mặc Tử (Phanxicô Nguyễn Trọng Trí, 1912-1940), thi sĩ Công giáo nổi tiếng và có lòng sùng kính Đức Mẹ. Trong thi phẩm “Trăng Vàng Trăng Ngọc”, ông đã thốt lên: “Ai mua trăng tôi bán trăng cho.” Tại sao ông đòi bán trăng vậy? Vào những mùa trăng, các bệnh nhân phong càng đau đớn hơn, đêm nào trăng càng sáng thì họ càng khổ sở, bởi vì vi trùng đục khoét các vết thương và gây nhức buốt nhiều hơn.

Thời Cựu Ước, bất cứ người nào mắc bệnh phong cũng bị coi là “ô uế” – có thể ngày nay quan niệm của người ta cũng chẳng khác. Người ta coi các bệnh nhân phong là BẨN, ngụ ý tự nhận mình là SẠCH. Có lẽ nên nhớ lại lời Chúa Giêsu đã có lần xác định: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7:15) Quả thật, ai dám chê người khác bẩn mà nhận mình sạch thì đều là kẻ mạo nhận, ảo tưởng, giả đối, giả hình, có “máu” Pharisêu, thậm chí là bất công và nhẫn tâm – bởi vì không bác ái, thiếu yêu thương.

Giả gì cũng nguy hiểm, dù là vật chất hay tinh thần. Đề cập thói giả dối, Thánh Giacôbê nói: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão. Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.” (Gc 1:26-27) Miệng lưỡi không đơn giản: “Ách của cái lưỡi là ách sắt, và xiềng của nó là xiềng đồng.” (Hc 28:20) Tiền nhân Việt Nam cũng đã cảnh báo: “Cười người hôm trước, hôm sau người cười.” Thật là thấm thía, nhưng thú vị và chí lý. Vẫn thường xảy ra đúng y như vậy!

Ngày xửa ngày xưa, ông Naaman mắc bệnh phung hủi, ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Giođan, theo lời người của Thiên Chúa là ông Êlisa. Lạ thay, da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Vậy là ông đã được sạch. Ông cùng với đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa để cảm ơn. Ông vào, đứng trước mặt ông ấy và nói: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ítraen. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây.” (2 V 5:15) Tục ngữ Việt Nam dạy về lòng biết ơn qua cách nói giản dị nhưng cụ thể với hàm ý sâu sắc: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.”

Ngay sau khi thấy mình được sạch, ông Naaman trở lại để cảm ơn nhưng ông Êlisa nói: “Có Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả.” (2 V 5:16) Ông Êlisa chí công, vô tư, thanh liêm và chính trực. Ngôn hành song song, ông không nói suông hoặc nói một đàng làm một nẻo. Ông Naaman cố nài ép nhưng ông Êlisa vẫn một mực từ chối, nhất quyết không nhận gì, bởi vì ông sống khiêm nhường và mặc nhiên tự nhận mình vô dụng. Ông Naaman năn nỉ: “Nếu ngài từ chối, xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.” (2 V 5:17) Cả người thi ân và thụ ân đều chân thành, đơn giản là vì cả hai đều có lòng kính sợ Thiên Chúa – Đấng mà họ hết lòng tôn thờ.

Trong cuộc đời con người, không ai lại không hàm ân – từ hồng ân của Thiên Chúa đến tình nghĩa của tha nhân. Vì thế, lòng biết ơn rất cần thiết, như người Việt nói: “Ăn cây nào rào cây nấy.” Đối với Thiên Chúa thì chúng ta lại càng phải biết ơn. Hồng ân đơn giản nhất nhưng lại cần thiết nhất cho sự sống, đó là không khí – cụ thể nhưng không thể thấy hoặc sờ, chỉ có thể cảm nhận. Vô cùng kỳ lạ! Vì vậy, không thể không tạ ơn Chúa từng phút, từng giây, ngay từ mỗi sớm mai mở mắt ra thì chúng ta phải biết tạ ơn Ngài rồi. Tại sao vậy? Bởi vì “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.” (Tv 104:29)

Chính xác như vậy, thế nên Thánh Vịnh gia đã lên tiếng – vừa mời gọi vừa động viên: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người.” (Tv 98:1) Thiên Chúa muốn chúng ta nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất nên Ngài “đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân” (Tv 98:2) để chúng ta có thể chân nhận Ngài và chỉ tôn thờ một mình Ngài mà thôi. Điều đó vừa là bổn phận vừa là sự công bằng mà chúng ta phải dành riêng cho Ngài.

Có điều kỳ diệu là chúng ta chúc tụng, tôn vinh và kính thờ Ngài thì chúng ta lại hưởng lợi, chứ chúng ta không hề thêm chút gì cho Ngài. Thiên Chúa là Đấng trung tín tuyệt đối, chính Ngài đã “nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ítraen” – và cũng là chúng ta, thế nên “toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.” (Tv 98:3) Vâng, “Thiên Chúa của chúng ta” chứ không của ai khác, chúng ta vui mừng được tuyên tín như vậy. Đúng vậy, không một quốc gia nào lại không có những nhân chứng sống động của Ngài, bằng cách này hoặc cách khác, vì Tin Mừng đã lan rộng khắp thế giới, tới tận các hang cùng, hẻm cụt, và từ đời nọ đến đời kia.

Bất cứ ai là tín nhân cũng có bổn phận đem Chúa đến với người khác, đồng thời phải thể hiện lòng thương xót đối với mọi người. Nhờ vậy chúng ta mới khả dĩ đồng thanh: “Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát.” (Tv 98:4) Đó là điệp khúc tuyên tín của mọi Kitô hữu.

Thánh Phaolô nói rõ ràng với đệ tử Timôthê: “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đavít. Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích! Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời.” (2 Tm 2:8-10) Đó là những lời tâm huyết mà Thánh Phaolô trút cả lòng mình nhân danh Đức Kitô, cho chúng ta thấy rằng không ai có thể sung sướng hưởng nhàn khi chấp nhận theo bước Đức Kitô, ai sống ung dung tự tại thì không thể xứng đáng là môn đệ của Ngài. Chắc chắn như thế!

Với cách nói rạch ròi hơn, Thánh Phaolô xác định: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.” (2 Tm 2:11-13) Một chuỗi chữ “nếu” vô cùng quan trọng. NẾU là một giả định, nhưng ở đây là một giả-định-có-thật, đồng thời cũng ngụ ý rằng trong đó có sự tự do. Thiên Chúa cho phép tùy ý mỗi người chọn cách sống, chứ Ngài không ép buộc, không muốn ai miễn cưỡng thi hành. Khó là chỗ đó.

Trong hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. Khi Ngài vào một làng kia, có mười người phong hủi đón gặp Ngài. Họ không dám đến gần, vì sợ luật. Họ dừng lại từ đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17:13) Họ thực sự tin Ngài nên mới cầu xin như thế. Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17:14). Thật lạ lùng, Chúa không làm gì để chữa họ mà chỉ bảo họ “đi trình diện các tư tế”. Có điều ngạc nhiên là họ cũng không hề thắc mắc chi cả, chứng tỏ họ đã thực sự tin sẽ khỏi dù thân thể họ lúc đó vẫn đau nhức vì các vết lở loét. Và niềm tin của họ đã được như ý muốn: Họ được sạch khi đang trên đường đi. Việc “đi trình diện các tư tế” chỉ là quy ước phần đời thời đó để được công nhận là sạch, vì luật buộc phải làm như vậy.

Ngay khi thấy thân thể mình sạch boong, một người trong bọn liền quay trở lại (dù chưa trình diện các tư tế) và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sụp lạy dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Có điều đáng quan ngại: Anh ta là người Samari – người ngoại giáo. Người Việt có cách ví von: “Khi vui chẳng nhớ đến ai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ.” Khi cầu xin điều gì thì ai cũng đều muốn được thỏa nguyện, không được thì “ấm ức”, được rồi thì “qua đò rút ván.” Trở tay hoặc phủi tay là điều dễ làm nhất, sẵn sàng “ăn cháo đá bát” mà không cần đắn đo gì. Làm toán trừ luôn dễ hơn các loại toán khác. Có lẽ chúng ta vẫn thường ảo tưởng mà mạo nhận mình là người “biết điều” – biết trước, biết sau, có tình, có nghĩa. Ôi, thấy ngại ghê đi!

Chắc chắn rằng bẩn ngoại tại không đáng lo, bẩn nội tại mới đáng sợ. Chứng phong cùi thân xác chưa nguy hiểm, phong cùi tâm hồn mới thực sự khủng khiếp và đáng sợ. Chứng phung hủi tâm linh nguy hiểm biết bao! Có khi chính mình bẩn mà lại tỏ ra ghê tởm người khác, chính mình mắc chứng phong cùi nặng mà không biết, thế mà lại dè bỉu và xa lánh người khác vì sự nọ hoặc lẽ kia. Cố ý bới bèo ra bọ vì tự tin hão huyền: “Tôi tự thấy tinh tuyền” – nhóm 5T thật đáng sợ!

Chỉ thấy một người trở lại, còn chín người kia biết mất, Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17:17-18) Một câu hỏi nhẹ nhàng nhưng có thể xoáy sâu vào tâm khảm. Sự thật rõ ràng quá! Sự vô ơn đáng trách quá! Vấn đề nhức nhối quá! Đã không ít lần chính mình vô ơn với Thiên Chúa, bạc nghĩa bạc tình với tha nhân, thế mà lại cứ tưởng mình là người có lối sống đạo đức và tốt lành. Chúa Giêsu hỏi vậy là để mỗi người tự rà soát lương tâm, bởi vì điều tiên quyết phải là “tu thân” rồi mới có thể tính chuyện khác. Không vượt lên chính mình thì đừng mong vượt được gì. Cuối cùng, Chúa Giêsu ôn tồn nói với người-cùi-được-sạch: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc 17:19) Và Ngài minh định rằng Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa họ, và cũng ở giữa chính chúng ta ngày nay.

Khi nghe Chúa Giêsu nói vậy, những người Biệt Phái hỏi về thời gian Triều Đại Thiên Chúa sẽ đến. Đúng là Pharisêu (Phái Rởm Xạo), chỉ tìm cớ để mai mỉa xỉa xói người khác, tìm cách làm hại người khác, cố ý chèn ép và chà đạp người khác. Trong cuộc sống – cả đời và đạo, thậm chí cả trong các cộng đoàn tu trì, vẫn thấy có các “phong cách” Biệt Phái như vậy. Và rồi Chúa Giêsu trả lời thẳng thắn: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được.” (Lc 17:20) Đó cũng là lời nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức luôn luôn – mọi nơi và mọi lúc, kẻo không kịp nhảy khi nước đã chạm đến chân!

Kinh Thánh xác định và cảnh báo: “Trong ngày thịnh nộ, của cải ích lợi chi, chỉ Đức Công Chính mới cứu khỏi tử thần.” (Cn 11:4) Và Chúa Giêsu cũng đã nói rõ: “Đến Ngày Phán Xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi ĐIỀU VÔ ÍCH mình ĐÃ NÓI. Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án.” (Mt 12:36-37) Chỉ là lời nói mà gió cũng không thể thổi bay mất đâu!

Lạy Thiên Chúa, xin ban ơn soi sáng để chúng con khả dĩ nhận biết mình ô uế với chứng bệnh trầm kha nguy hiểm, xin giúp chúng con tìm liệu pháp hiệu quả nhất để thanh tẩy và triệt mọi di căn, nhờ đó mà chúng con nên “thanh sạch”, không dám liếc xéo hoặc buông lời sắc bén làm tổn thương người khác. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 28 TN_C

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVIII Thường Niên Năm C nêu lên cho chúng ta một bài học: Con đường đức tin là tâm tình cảm tạ và tri ân. Con đường này rộng mở cho hết mọi người.

2V 5: 14-17

Sách Các Vua quyển thứ hai thuật lại chuyện một quan đại thần ngoại bang, kẻ thù của dân Ít-ra-en, ông Na-a-man xứ Xy-ri-a, được chữa lành bệnh phong hủi, nhờ sự can thiệp của ngôn sứ Ê-li-sa. Ông Na-a-man nhận ra hành động của Thiên Chúa Ít-ra-en và bày tỏ tấm lòng cảm tạ tri ân bằng lời tuyên xưng đức tin của mình.

2Tm 2: 8-13

Trong những lời tâm huyết của ngài cho người môn đệ thân tín của mình, là ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô nhắc nhở ông rằng đức tin được đặt trên sự kiện vững chắc: cuộc Phục Sinh của Chúa Giê-su. Những ai chia sẻ đau khổ và cái chết của Chúa Ki-tô, sẽ được sống lại với Ngài.

Lc 17: 11-19

Tin Mừng là chuyện Chúa Giê-su chữa lành mười người phong hủi. Chỉ một người duy nhất, một người Sa-ma-ri, trở lại bày tỏ tấm lòng cảm tạ tri ân. Tâm tình cảm tạ tri ân này mở ra cho anh con đường đức tin và cứu độ.

BÀI ĐỌC I (2V 5: 14-17)

Hai sách Các Vua ghi lại các triều đại của mười chín vị vua Ít-ra-en (vương quốc miền Bắc) và của hai mươi vị vua Giu-đa (vương quốc miền Nam). Hai sách này cũng dành một vai trò quan trọng cho các vị ngôn sứ: Ê-li-a, Ê-li-sa và I-sai-a.

Hai cuốn sách này chứa đựng một số lượng những giai thoại vừa mang tính lịch sử vừa có tính dân gian. Giai thoại về việc chữa lành bệnh phong hủi của quan đại thần Na-a-man xứ Xy-ri-a không phải là không có cơ sở lịch sử. Công trình biên soạn sau cùng của hai tác phẩm này được đặt vào niên biểu cuối thế kỷ thứ sáu, nhưng những chứng liệu và truyền thống cổ xưa lại được nhà biên soạn sử dụng. Tên Na-a-man được chứng thực trong những bản văn ngoài Kinh Thánh.

  1. Quan đại thần Na-a-man xứ Xy-ri-a

Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ của ngôn sứ Ê-li-a. Như thầy mình, ông thi hành sứ vụ của mình ở vương quốc miền Bắc, mà kinh đô là Sa-ma-ri, vào giữa thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên.

Ông Na-a-man là tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram (miền Đa-mát). Danh tính của vị vua này chưa được xác định. Vị tướng này đã lừng danh trong cuộc chiến thắng quân đội Ít-ra-en. Nhưng ông lại mắc bệnh phong hủi. Cốt yếu là chứng bệnh phong hủi nào? Sách Lê-vi đặt dưới tên gọi này những chứng bệnh ngoài da khác nhau (Lv 13: 14). Người ta có thể nghi vấn về chứng bệnh của quan đại thần Na-a-man, vì nếu như ông mắc bệnh phong hủi thật sự chắc chắn ông không thể nào dẫn quân đánh trận từ nước này sang nước khác được.

  1. Cuộc vận động của quan đại thần Na-a-man

Đoạn trích hôm nay chỉ nói đến tình tiết chính yếu về việc quan đại thần của vua A-ram được chữa lành. Những chi tiết trước đó thì rất ý nhị không thể bỏ qua. Trong những cuộc xuất chinh vào đất Ít-ra-en, quân đội A-ram đã bắt đưa về nhiều tù nhân. Vì thế, bà vợ của quan đại thần Na-a-man có một tớ gái người Ít-ra-en giúp việc. Người tớ gái này gợi ý với bà chủ: “Ôi, phải chi ông chủ con được giáp mặt vị ngôn sứ ở Sa-ma-ri, thì chắc ngôn sứ sẽ chữa ông khỏi bệnh phong hủi” (5: 3).

Sau nhiều diễn biến ngoại giao, quan đại thần Na-a-man đến kinh đô Sa-ma-ri để mong được ngôn sứ Ê-li-sa chữa lành bệnh cho mình. Ngôn sứ Ê-li-sa không đích thân ra đón tiếp quan đại thần Na-a-man mà chỉ sai sứ giả đến nói với ông Na-a-man là đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan thì ông sẽ được khỏi bệnh. Quan đại thần không ngờ cách tiếp đón và cách chữa trị như thế nên ông đã nổi giận và tức giận bỏ đi. Bấy giờ, các tôi tớ của ông khuyên ông cứ thử thi hành đều ngôn sứ chỉ dạy xem sao. Đại thần Na-a-man bình tâm lại, xuống tắm bảy lần trong dòng sông Gio-đan như lời ngôn sứ truyền và ông được lành sạch.

  1. Niềm tin của quan đại thần Na-a-man

Chính ở đây bắt đầu chuyện tích về việc ông Na-a-man được chữa lành mà chúng ta đọc hôm nay. Ở nơi chuyện tích này, tác giả đã biết nêu bật những yếu tố tinh thần. Quan đại thần Na-a-man nhận ra hành động của Thiên Chúa Ít-ra-en và tuyên xưng rằng: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en”. Để tỏ lòng tôn kính và tạ ơn, ông muốn dâng những lễ vật cho vị ngôn sứ. Nhưng vị ngôn sứ nhất quyết từ chối, bởi vì mình chỉ là người trung gian. Chủ đích của vị ngôn sứ chính là hướng tất cả tâm tình cảm tạ và tri ân của quan đại thần Na-a-man về tác giả duy nhất, Đấng đã chữa lành ông, đó là Đức Chúa. Nước sông Gio-đan chỉ là yếu tố vật chất, yếu tố “bí tích”. Phải nói rằng Đức Chúa đón nhận tấm lòng thành tín và ban ân huệ cả cho những người ngoại bang lẫn cho con cái Ít-ra-en.

Quan đại thần Na-a-man không chỉ tuyên xưng đức tin của mình mà còn làm một cử chỉ thật ý nghĩa: ông xin được đem về quê hương của ông một số đất Ít-ra-en để xây dựng cho mình một bàn thờ dâng hy lễ kính Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Dưới nhãn quang của ông, đất xứ sở ông không là đất thánh.

Chúng ta nên đọc quá khuôn khổ đoạn trích hôm nay, vì những chi tiết tiếp liền sau đó đáng quan tâm: quan đại thần Na-a-man rất cẩn trọng: ông biết rằng khi trở về quê hương ông, vì những chức vụ ông đảm nhận, ông buộc phải tham dự vào những nghi thức tôn kính các vị thần linh của đất nước ông. Vì thế, ông ngỏ lời với ngôn sứ Ê-li-sa: “Xin Đức Chúa tha thứ điều ấy cho tôi tớ ngài”. Lúc đó, ngôn sứ Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, cầu chúc cho ông một cách giản dị: “Ông đi bằng an”. Với câu chuyện này, chúng ta sống rồi trong bầu khí Tin Mừng.

BÀI ĐỌC II (2Tm 2: 8-13)

Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gửi cho người môn đệ, đồng thời cũng là cộng tác viên của thánh nhân, là ông Ti-mô-thê.

  1. Bối cảnh

Thánh Phao-lô, lúc đó đang bị giam cầm và biết rằng cái chết của mình sắp gần kề, gửi cho ông Ti-mô-thê những lời tâm huyết của mình. Trong đoạn trích tuần trước, thánh nhân đã khuyên người môn đệ của mình hãy can đảm và kiên vững; trong đoạn trích tuần này, thánh nhân kêu mời người môn đệ hãy cậy trông. Đức Giê-su đã chết và sống lại, vì thế những ai chia sẻ đau khổ và cái chết của Ngài, thì cũng được dự phần vào vinh quang Phục Sinh của Ngài.

Chúng ta có thể khảo sát những lời tâm huyết này trong bố cục của đoạn văn: phần mở (2: 8) và phần kết (2: 11-13) có cung giọng phụng vụ. Ngoài ra, phần kết chắc chắn là một bài thánh thi về phép Rửa. Chúng ta cũng có thể khảo sát những lời tâm huyết này trong khía cạnh tín lý: biến cố Phục Sinh là trọng tâm giáo huấn của thánh nhân. Cuộc Tử Nạn cứu độ khai mở ánh sáng và vinh quang của biến cố Phục Sinh và đặt nền tảng đức cậy trông của Ki-tô giáo. Nhưng chúng ta cũng có thể đọc đoạn trích này khi để cho mình thấm nhuần niềm xúc cảm của một bức thư vĩnh biệt và cố gắng nhận thức rõ nhân cách của một con người kề cận với cái chết.

  1. Lòng nhiệt thành đối với ơn gọi

Lời tâm huyết đầu tiên là lòng nhiệt thành của thánh Phao-lô đối với ơn gọi của ngài. Lời tâm huyết ấy hiện rõ trong tiếng kêu “Tin Mừng” mà thánh nhân không ngừng loan báo bằng cả mạng sống mình. Thánh nhân đã nhận lãnh một sứ mạng đặc biệt, chính vì sứ mạng ấy mà thánh nhân đã tận hiến trọn cuộc đời mình không một chút đắn đo dè sẻn.

Ngoài ra, chúng ta đọc thấy ở đây tiềm ẩn kỷ niệm mà thánh nhân đã kinh qua trên đường đi Đa-mát: Đấng Phục Sinh đã tỏ mình ra cho thánh nhân. Thánh Phao-lô đã trở nên sứ giả của Đấng Phục Sinh, đúng hơn, chứng nhân của Đấng Phục Sinh: “Anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít”. Đây là tín điều đầu tiên, tín điều đặt nền tảng cho đức cậy.

  1. Giá trị của những đau khổ

Biến cố Phục Sinh khởi đi từ cuộc Thương Khó và Tử Nạn. Thánh Phao-lô chịu đau khổ trong cảnh giam cầm, ở đó thánh nhân “còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi”, dụng ngữ này cũng là dụng ngữ chỉ những tên gian phi bị đóng đinh với Đức Giê-su; nghĩa là thánh Phao-lô đã trở thành người đồng chịu đau khổ với Chúa Ki-tô. Thánh nhân cho rằng những đau khổ này ngang bằng giá trị với lời loan báo: “Lời Thiên Chúa không thể bị xiềng xích”. Như vậy, đối với thánh nhân, đau khổ là một cách thức khác để loan truyền ơn cứu độ, vì những gian nan thử thách mà thánh nhân phải chịu sinh nhiều ơn ích, như thánh nhân nói trong thư gửi cho các tín hữu Cô-lô-xê: “Bấy giờ, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đúng mức, vì lợi ích cho thân thể Ngài là Hội Thánh” (Cl 1: 24). Đây thật là một bài học quý giá cho ông Ti-mô-thê, hiện nay ông cũng đang chịu trăm chiều gian nan thử thách.

  1. Đức cậy trông của Ki-tô giáo

Đức cậy trông của Ki-tô giáo là niềm hy vọng vào vinh quang đời đời. Thánh Phao-lô đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại điều này; nhưng vào lúc cái chết cận kề, thánh nhân nhắc lại điều đó khi áp dụng vào chính bản thân mình: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người”. Trước đây, thánh nhân đã khai triển tư tưởng này trong thư gửi các tín hữu Cô-lô-xê và trong thư gửi các tín hữu Rô-ma. Lúc đó, tư tưởng này mặc lấy cường độ bi thảm hơn: “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8: 17).

Đoạn kết bằng văn xuôi có vần có điệu xem ra là một bài thánh thi thịnh hành trong Giáo Hội tiên khởi, chắc hẳn là lời tuyên xưng đức tin vào dịp lãnh nhận phép Rửa. Câu cuối cùng khai mở lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa: “Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình”.

TIN MỪNG (Lc 17: 11-19)

Câu chuyện chữa lành mười người phong hủi là nguồn riêng của Tin Mừng Lu-ca. Như thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, thánh Lu-ca đã tường thuật rồi câu chuyện Chúa Giê-su chữa lành một người phong hủi vào lúc khởi đầu sứ vụ của Ngài (Lc 5: 14; Mt 8: 2-4; Mc 1: 40-41). Trong câu chuyện mới này, thánh Lu-ca mời gọi người đọc chú ý đến thái độ của một người trong số họ, người Sa-ma-ri, hơn là số lượng những bệnh nhân được chữa lành.

  1. Chúa Giê-su ưu ái những người phong hủi

Nhiều lần Chúa Giê-su bày tỏ tấm lòng ưu ái của Ngài đối với những người phong hủi. Ngài đã trả lời cho những sứ giả Gioan Tẩy Giả sai đến: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn đệ Ngài sai đi thi hành sứ vụ, Ngài vạch ra như một chương trình: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh…” (Mt 10: 7-8).  Hơn bất kỳ bệnh nhân nào khác, bệnh nhân phong hủi này, được xem như nhũng người tội lỗi, cần đến lòng xót thương của Đức Ki-tô. Họ bị xem như đồ ô uế, vì thế cấm mọi hình thức tiếp xúc. Ấy vậy, Chúa Giê-su không ngừng công bố rằng sự ô uế không đến từ bên ngoài; chỉ những tư tưởng gian tà phát xuất từ lòng con người mới gây nên ô uế đích thật.

  1. Lộ trình lên Giê-ru-sa-lem

Thánh Lu-ca nhắc lại rằng Chúa Giê-su đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem. Đây là lần thứ ba thánh nhân kể ra việc Chúa Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem như mục đích tối hậu sứ mạng của Ngài (x. 9: 51; 13: 22). Dường như thay vì băng qua miền Sa-ma-ri để lên Giê-ru-sa-lem, thì Đức Giê-su lại rẽ qua hướng Đông, giữa Ga-li-lê và Sa-ma-ri, đến thung lũng sông Gio-đan, xuống thành Giê-ri-cô, và từ đó đi lên Giê-ru-sa-lem. Vì thế, mười người phong hủi mới có thể gặp Ngài ở nơi hoang vắng này, vì họ không được vào bất cứ nơi nào có đông dân chúng sinh sống. Tuy nhiên, thánh ký không định rõ lộ trình địa lý; chỉ lộ trình tinh thần mới là mối bận lòng của thánh ký. Từ tình tiết mà thánh nhân sắp thuật lại những bài học sẽ được rút ra.

  1. Lời khẩn cầu của những người phong hủi

Một nhóm mười người phong hủi đến gặp Đức Giê-su. Họ đứng cách xa như Luật quy định và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!”. Việc kêu cứu Ngài bằng tên thì họa hiếm trong các sách Tin Mừng. Tại Tin Mừng Lu-ca việc gọi tên Ngài như vậy chỉ được gặp thấy ở nơi tiếng kêu cứu của người mù thành Giê-ri-cô (18: 38) và của người gian phí sám hối cùng chịu đóng đinh với Ngài (23: 42); nhưng trong sách Công Vụ, danh xưng này được dùng thường hơn, các Tông Đồ sẽ công bố: “Chính nhờ danh Giê-su mà ơn cứu độ được thực hiện”.

Còn đối với tước vị “Thầy”, chung chung chỉ các môn đệ mới gọi Ngài như thế. Đây là một trường hợp hi hữu khi thánh Lu-ca đặt tước vị này trên môi miệng của những người phong hủi như lời tuyên xưng niềm tin của họ vào quyền năng chữa lành của Chúa Giê-su.

  1. Lệnh truyền của Đức Giê-su

Đáp lại lời kêu cứu của họ, Chúa Giê-su truyền lệnh: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Theo tâm thức thời đó, mọi bệnh hoạn đều được cho là do tội lỗi. Bệnh phong hủi, vì ấn tượng ghê tởm mà bệnh gây nên nơi thân xác, lại càng chứng tỏ tình trạng tội lỗi bị Thiên Chúa giáng phạt (Đnl 28: 27-35); thế nên, việc lành bệnh thuộc lãnh vực tôn giáo và phải được các tư tế kiểm nghiệm (Lv 14: 1-32). Vì thế, Chúa Giê-su mới ra lệnh cho mười người phong hủi: “Hãy đi trình diện với các tư tế”.

Nhưng các tư tế can dự chỉ để chứng thực là bệnh đã được lành và nhận hy lễ thanh tẩy; chỉ như thế người được lành bệnh mới có thể được tái nhập vào đời sống xã hội. Trước đây, trong trường hợp một người phong hủi, Chúa Giê-su đã ra lệnh cho người ấy đi trình diện tư tế chỉ sau khi đã chữa lành bệnh cho anh ta. Ở đây, Chúa Giê-su lại truyền cho mười người phong hủi đi trình diện tư tế trong khi họ chưa được lành bệnh. Xem ra Chúa Giê-su muốn thử thách đức tin của họ.

  1. Một trong số họ quay trở lại, một người xứ Sa-ma-ri

Tất cả giá trị của câu chuyện cốt ở nơi phần khai triển sau cùng này. “Đang khi đi thì họ đã được sạch”, chỉ một người quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su”, đây là cử chỉ thờ lạy vì đối với anh chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành chứng bệnh khủng khiếp này. Và anh bày tỏ tấm lòng biết ơn đối với vị ân nhân đã thi ân giáng phúc cho mình.

Chỉ vào lúc này, thánh Lu-ca mới chỉ ra “anh ta lại là người Sa-ma-ri”. Người Do thái xem người Sa-ma-ri như tên ngoại bang đáng nguyền rủa, kẻ lạc giáo đáng khinh bỉ. Một lần nữa, chính qua cách hành xử của người Sa-ma-ri mà Chúa Giê-su đưa ra một bài học cho đám đông, cho những người Pha-ri-sêu, và cho tất cả môn đệ Ngài. Ơn cứu độ được dâng hiến cho người ngoại bang này vì đức tin ở nơi anh còn lớn hơn nơi chín người Do thái kia. Trước những đồng hương Na-da-rét cứng lòng tin của Ngài, Chúa Giê-su cũng đã trích dẫn cho họ hai mẫu gương của hai người ngoại bang, mà niềm tin của họ còn lớn hơn những đồng hương của Ngài: bà góa xứ Xa-rép-ta và ông Na-a-man, người phong hủi xứ Xy-ri-a (4: 25-27).

  1. Đền Thờ đích thật: con người của Đức Giê-su

“Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?”. Chín người kia là những người Do thái, họ tiếp tục con đường lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để chu toàn những nghi lễ thanh tẩy. Bản văn không nói điều này, nhưng lời Chúa Giê-su hàm chứa như vậy: “Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa?”.

Tôn vinh Thiên Chúa chính là ngỏ lời với Đức Giê-su. Từ nay chính qua con người của Ngài mà người ta đến với Chúa Cha. Đền Thờ đích thật không còn là Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hay Đền Thờ Ga-ri-dim. Chúa Giê-su đã loan báo điều này cho người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không ở trên núi này (Đền Thờ Ga-ri-dim) hay tại Giê-ru-sa-lem… (Ga 4: 21), Và Ngài cũng đã công bố: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2: 19). Thánh Gioan giải thích: “Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người” (Ga 2: 21).

Người Sa-ma-ri nhận ra ở nơi Đức Giê-su chính là Thiên Chúa hiện thân. Với người Sa-ma-ri này và chỉ một mình anh, Chúa Giê-su không chỉ chữa lành thân xác của anh, nhưng Ngài còn ban cho anh ơn cứu độ: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Đức Giê-su đến để cứu thoát con người khỏi chứng bệnh phong hủi của tội lỗi.

 

.

GẶP ĐẤNG KITÔ

Lm. Jos. DĐH.

Chỉ một giây phút tình cờ, ý tưởng tuôn trào, người nhạc sĩ có thể “sinh ra” các nhạc phẩm để đời. Có những thông tin rất đỗi bình thường, lại là cơ duyên mang đến cho anh chị em chúng ta việc làm ổn định, không gì hạnh phúc hơn cảnh: anh hùng gặp mỹ nhân. Có những tiếng nổ không gây thiệt hại đến vật chất, tính mạng, vậy mà chúng có thể làm tê tái nhiều tâm hồn, các chuyên gia gọi đó là tiếng sét ái tình, đầy thú vị. Trong khi đó, cụ Nguyễn Du lại gieo lên những vần thơ đầy ai oán: người ơi gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không ? Cũng không thiếu những bất ngờ xung quanh ta đang phát sinh nhiều điều kỳ diệu, có cả những cuộc gặp gỡ vô tình, để lại nhiều cảm xúc: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, mặt trời chân lý chói qua tim, hồn tôi là một vườn hoa lá, rất đậm hương và rộn tiếng chim … (Tố Hữu)

Hành trình đi Giêrusalem năm xưa, Thầy trò Đức Giêsu tình cờ đã gặp, đã thấy, đã nghe, những thanh âm thật khẩn thiết: “lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi” ! Từ những lời kêu xin của 10 người mắc bênh nan y hôm đó, chúng ta không thấy xuất hiện một bản nhạc hay “trình làng” ; không tạo nên cơ hội làm giầu cho ai, không thấy trái tim đơn phương của bạn trẻ nào phải tê tái, nhưng tâm hồn một người ngoại giáo trở lại gặp Đức Giêsu để tôn vinh Thiên Chúa. Kinh nghiệm của tiền nhân: tiếng lành đồn xa, thực tế Đức Giêsu vẫn đang chứng minh: giầu nghèo, ốm đau, khoẻ mạnh, người tốt kẻ xấu, đều là đối tượng lòng thương xót Chúa, ai cũng xứng đáng để tận hưởng hồng ơn cứu độ. Thầy Giêsu được 10 người mắc bệnh phong biết đến là do danh tiếng Ngài là thầy thuốc, chữa được các loại tật bệnh, xa hơn nữa, người đương thời và muôn thế hệ sẽ còn nhận ra Đức Giêsu dạt dào tình yêu thương và là Thiên Chúa cứu độ.

Ngày hôm nay, chúng ta gặp Đức Giêsu không phải vì dư luận, không phải vì mắt thấy tai nghe, nhưng là bằng sự tự do của con tim và khối óc, bằng thao thức của tin yêu và hành động trong tin yêu. Ngày hôm nay, biết bao người được ơn gặp thầy gặp thuốc và khỏi bệnh, không dừng lại ở việc được chữa bệnh thể xác, Đấng Kitô còn cho thấy Ngài có sứ mạng làm cho mọi người mọi thời tin nhận lòng thương xót của Chúa là Thiên Chúa cứu chữa cả xác hồn. 10 người mắc bệnh phong không xin được khỏi bệnh, họ xin lòng thương xót của Đấng mà họ đặt niềm tin tưởng, Đức Giêsu đã hào phóng đáp ứng cả hai điều: được Chúa xót thương, được khỏi bệnh nan y. Những con người tội nghiệp ấy mong muốn được chia sẻ, cảm thông hoàn cảnh khổ đau, cùng cực của họ, Đức Giêsu đã gián tiếp, trực tiếp, dủ lòng xót thương từ khi họ khẩn cầu cho tới lúc đi trình diện các tư tế.

Phép lạ chữa lành giải thoát khỏi khổ đau bệnh tật, không cho biết có bao nhiêu người đạo gốc đạo theo, câu truyện nhắc đến chỉ có một người trở lại tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn Đức Giêsu, mà anh ta lại là người ngoại giáo. Đức Giêsu không hối tiếc về việc thực thi lòng thương xót Chúa, chữa lành, Ngài có ý nhắc cho mọi người biết rằng 10 người mắc bệnh phong đều được khỏi, nhưng người lành sạch cả xác hồn chính là người biết tạ ơn Thiên Chúa. Gặp gỡ người tài giỏi là cơ duyên giữa tình người với nhau, gặp thầy gặp thuốc là do phúc đức tiền nhân để lại. Gặp gỡ Đức Kitô là do tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, và được cứu độ hệ tại nơi mỗi người biết thể hiện niềm tin Đức Giêsu kitô là Thiên Chúa như thế nào ?

Tục ngữ có câu: trẻ cậy cha, già cậy con, thông thường chúng ta vẫn hiểu là tiền nhân có ý nhắn nhủ về dấu chỉ tình yêu thương giữa đấng bậc sinh thành và con cháu ; sâu xa hơn mỗi người phải biết đến tình liên đới trách nhiệm mà ai cũng phải chu toàn. Tâm lý chung, người thiếu tiền sẽ tìm tiền, người thiếu tình sẽ lưu ý đến tình đến nghĩa, tuy nhiên, đối tượng nào cũng cần được niềm vui hạnh phúc. Đức Giêsu tìm gặp thánh ý Chúa Cha và Ngài dành hết ưu tiên để chia sẻ tình yêu thương cho mọi đối tượng không phân biệt, không kỳ thị. 10 người phong cùi tìm gặp lòng thương xót nơi thầy thuốc Giêsu thì “quá chuẩn”, nhưng chính Đấng Kitô là niềm tin, là tình yêu, sẽ chữa lành cả xác hồn mà ai cũng phải thể hiện và bày tỏ niềm tin của mình.

Xưa hay nay gì thì Đức Kitô vẫn là Thiên Chúa yêu thương, mỗi người gặp Đấng kitô trong hoàn cảnh khác nhau: từ lúc lọt lòng mẹ, từ ốm đau bệnh tật, từ thành công, thất bại, tất cả đều là cơ hội, là dịp để được gọt giũa, biến đổi, hầu đáng được dự phần vào mầu nhiệm cứu độ của Con Thiên Chúa. Cơ hội gặp Đấng kitô với người thời nay luôn rộng lớn, Đấng kitô luôn hiện diện nơi cha mẹ ông bà, nơi giáo hội, nơi anh chị em mình là sự thật. Xin tình yêu của Đấng đã chết vì tội lỗi nhân loại, tiếp tục hiện diện và giúp từng tâm hồn anh chị em xung quanh chúng con nhận ra phép lạ Chúa sẽ chữa lành hồn xác chúng con. Amen.

 

.

HÃY LÀ NGƯỜI BIẾT ƠN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập đến lòng biết ơn và sự vô ơn của con người. Naaman, quan lãnh binh của vua xứ Syria thời Êlisê được chữa lành bệnh phong cùi nhờ nghe người của Thiên Chúa xuống tắm bẩy lần ở sông Gio đan. Ông trở lại tôn vinh Thiên Chúa (x.2 V 5, 14-17).

Mười người phong cùi thời Chúa Giêsu thì sao ? Biết Chúa Giêsu đi ngang qua, họ đồng thanh cất tiếng kêu xin, tiếng họ kêu to mang theo niềm hy vọng được Chúa chữa lành : “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi !” (Lc 17, 13). Tiếng kêu của họ vượt qua không gian, phá vỡ ngăn cách, nhất là vọng thấu tới tai Chúa Giêsu là Đấng cứu chữa cả phần hồn lẫn phần xác, cả mười người đã được chữa lành, nhưng chỉ có một người quay trở lại cám ơn Chúa Giêsu; mà người đó lại là một người Samaria dân ngoại!

Vậy là chỉ có một người biết ơn, còn chín người kia không biết có quên ơn không, hay mừng quá về nhà ăn khao, chưa kịp trở lại tạ ơn Đấng chữa lành. Chúa Giêsu phải thốt lên : “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này” (Lc 17,17-18).

Ngày nay, đạo đức xã hội đang ngày càng bị xói mòn. Trên mặt báo và xung quanh ta, thấy những câu chuyện đau lòng như con phụ công cha, quên ơn mẹ, bỏ nhà ra đi, đánh đuổi cha mẹ, ấy chưa nói đến có người coi trời bằng vung, hoặc sống như thể không có Thiên Chúa, giết cha, hại mẹ nữa. Phải chăng lòng biết ơn đang bị lu mà trong tâm khảm con người.

Tại sao lại vô ơn? Có nhiều lý do : vì người ta không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có ; họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn, vì thế, họ quên ơn.

Lòng biến ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác. Hầu hết chúng ta thức dậy với tâm trí lơ đãng. Thay vào đó, chúng ta hãy bắt đầu một ngày mới với lòng biết ơn. Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng chẳng bỏ con, chẳng để con hư không đời đời mà lại sinh ra con cho con được làm người… lại gìn giữ con hôm nay được mọi sự lành.v.v..

Biết ơn là xứng đáng để tiếp tục được Thiên Chúa ban ơn. Còn biết bao nhiêu ơn lớn lao và trọng thể khác Chúa dành sẵn cho những người biết ơn. Vô ơn là tự đào hố để vùi chôn cuộc đời mình, là đứng vào hàng ngũ của ma quỉ. Tạ ơn là lời cầu nguyện tốt nhất bất cứ ai cũng có thể làm. Lời tạ ơn thể hiện lòng biết ơn, sự khiêm tốn và hiểu biết.

Biết ơn” là một cụm từ rất quen thuộc với mọi người chúng ta. Tạ ơn Chúa, cám ơn người, cám ơn đời, biết ơn ông bà, cha mẹ, biết ơn những người bao bọc, giúp đỡ mình những khi mình gặp khó khăn….Biết ơn là sự ghi nhớ và trân trọng những gì mình nhận được từ người khác.

Lòng biết ơn có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta. Hạnh phúc và thành công đều tạo dựng từ lòng biết ơn. Cho nên từ xưa đến nay, cha ông ta vẫn luôn căn dặn thế hệ mai sau “uống nước nhớ nguồn”, phải luôn khắc ghi công ơn của những người đã cho ta cuộc sống này. Như thế, lòng biết ơn luôn hiện diện xung quanh cuộc đời ta, chỉ là chúng ta không để ýnhận ra thôi. Đừng bao giờ quá bận rộn đến quên nói lời “làm ơn” hay “cảm ơn”. Sống mà không có lòng biết ơn là một cuộc sống vô nghĩa. Nếu đời chỉ là chuỗi những lời oán than về bất công và thua thiệt mà ta đã gặp phải, mà không nhớ đến những may mắn đã từng đến với ta, thì chắc chắn là chúng ta sẽ bị trầm cảm, một căn bệnh thường gặp trong xã hội ngày nay.

Biết ơn là xứng đáng để tiếp tục được Thiên Chúa ban ơn. Còn biết bao nhiêu ơn lớn lao và trọng thể Chúa dành sẵn cho những người biết ơn. Người đời thường phê phán những kẻ “ăn cháo đá bát”, “có mới nới cũ”, lừa thầy phản bạn, bất hiếu với mẹ cha. Vô ơn là tự đào hố để vùi chôn cuộc đời mình, là đứng vào hàng ngũ của ma quỉ.

Đến với Thánh Lễ Tạ Ơn hôm nay, noi gương người Samaria chúng ta cùng tạ ơn Chúa, cám ơn những người làm ơn cho chúng ta, nhất là xin Chúa biến ta trở nên người luôn biết ơn. Amen.

 

.

-LÒNG BIẾT ƠN

Lm. John Nguyễn

Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một ngày nọ, cậu bé chỉ còn một đồng trong túi, mà bụng thì đang đói, cậu ta đi đến nhà bên cạnh để ăn xin. Một phụ nữ trẻ đẹp, nhìn thấy cậu bé. Cô ta đoán là cậu đang đói bụng, nên cô mang cho cậu một ly sữa lớn. Cậu chầm chậm uống sữa, rồi hỏi: Cháu phải trả cho cô bao nhiêu tiền? Người phụ nữ trả lời: Cháu không nợ cô cái gì cả.

Mẹ cô dạy rằng, không bao giờ nhận tiền cho lòng tốt. Cậu bé cảm động nói: Cháu sẽ luôn biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim của cháu. Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe mạnh hơn và niềm tin của cậu vào con người càng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu như muốn đầu hàng với số phận.

Nhiều năm sau đó, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương không thể chữa được. Họ chuyển bà đến một thành phố lớn, nhờ các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ này. Lúc ấy, tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Ngay lập tức, ông khoác áo choàng và đi đến phòng bệnh nhân. Ông nhận ra ngay người ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng, ông quyết tâm hết sức lực để cứu sống bệnh nhân này.

Sau đó, tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân nhân để xem lại. Ông viết vài hàng chữ và chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa đơn thầm nghĩ rằng, bà phải thanh toán nó cho đến hết đời cũng chưa xong. Bỗng nhiên, có gì đó khác thường, bà nhìn thấy ngay dòng chữ: “Trị giá hóa đơn = một ly sữa.” (câu chuyện tiến sỹ Howard Kelly).

Qua câu chuyện này, chúng ta đều nhận ra ý nghĩa của nó, chính là lòng biết ơn. Bác sỹ Howard Kelly là một mẫu gương cho chúng ta. Lòng tốt luôn được đền đáp. Người mang ơn thì phải biết trả ơn. Con thì phải biết ơn cha mẹ, vì cha mẹ đã sinh ra, nuôi dưỡng, dạy dỗ ta nên người. Học trò phải biết ơn thầy cô vì họ dạy chúng ta, và chúng ta cũng phải biết ơn người giúp đỡ ta trong cuộc sống. Đó là đạo làm người. Khi ta sống đúng với đạo lý làm người, là ta sống đạo tốt.Ngay cả Chúa Giêsu cũng dạy và đặt câu hỏi với mười người bị bệnh phong cùi được Chúa chữa lành bệnh.

Họ đến van xin Chúa chữa cho họ, nhưng đến khi hết bệnh, họ lại quay lưng bỏ đi, không nói một lời cám ơn hay tạ ơn Thiên Chúa. Trong khi đó, chỉ có một người Samaria, anh ta là người ngoại bang, là người dân ngoại đến tạ ơn Chúa. Chúa Giêsu nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”

Chúng ta nghĩ gì về chín người bỏ đi kia. Được Chúa Giêsu chữa hết bệnh phong cùi là một điều vui sướng và hạnh phúc, họ không còn bị mọi nguời xa lánh, ruồng bỏ, họ được hội nhập vào xã hội và trở thành những con người mới. Ấy thế mà họ lại vô ơn. Con người dễ vô ơn với Chúa khi họ đạt được mục đích. Con người ngày nay khi gặp hoạn nạn, bệnh tật, ốm đau thì van xin Chúa đủ điều, nhưng khi được rồi thì lại quay lưng. Đó là căn bệnh của thời đại.

Chín người bệnh được chữa lành bệnh hôm nay là con số đại diện cho con những người chúng ta hôm nay cũng đang vô tâm bạc bẽo với Thiên Chúa. Có bao giờ chúng ta nghĩ rằng, chúng ta sống được là do Thiên Chúa cho ban không? Chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí. Mọi sinh vật trên trái đất này, Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng. Vậy có bao giờ chúng ta nhớ đến Chúa hay nói lời cám ơn Chúa không? Thật ra, lòng biết ơn của chúng ta chẳng mang lại gì cho Chúa, nhưng Chúa muốn chúng ta phải biết nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa dành mỗi nguời chúng ta trong cuộc sống này.

Lạy Chúa, xin Ngài dạy con lòng biết ơn:
Biết ơn Chúa cho con có cha có mẹ.
Biết ơn Chúa cho con được sinh ra.
Biết ơn Chúa cho con đức tin.
Biết ơn Chúa cho con đức mến.
Biết ơn Chúa cho con hơi thở.
Biết ơn Chúa cho con mạnh khỏe.
Biết ơn Chúa cho con hạnh phúc.
Biết ơn Chúa cho con điều tốt lành.
Biết ơn Chúa cho con biết chia sẻ.
Biết ơn Chúa cho con biết sống yêu thương.
Biết ơn Chúa cho con thành công.
Biết ơn Chúa vì Ngài yêu con.
Tất cả là hồng ân Chúa ban cho con. Amen.

 

.

“MẮC NỢ!”

Lm. Giuse Nguyễn

Khi đọc các bài đọc lời Chúa hôm nay, tôi nhớ đến hình ảnh một chàng trai khiếm thị mà báo Mực Tím đăng cách đây đã hơn 20 năm. Anh ta bị mù, nhưng anh không hề oán hận cuộc sống, ngược lại anh còn cảm thấy mình mắc nợ cuộc đời, mắc nợ những người xung quanh, và mắc nợ những thứ mà những người sáng mắt chưa từng nghĩ là mình mắc nợ. Từ tâm tình đó anh đã sáng tác một bài thơ, rồi phổ nhạc. Bài hát này đã một thời làm cho nhiều người xúc động ngay từ cái tên của nó. Đó là tác phẩm Mắc Nợ của Nguyễn Vân Thiên:

“Ta nợ mùa thu một bài thơ lá rụng sương mù

Ta mắc nợ ai bao năm rồi vẫn chưa trả nổi

Nợ quê hương một chùm khế ngọt

Nợ cuộc đời một lần đắng cay

Nợ cơn mưa một lần ướt áo

Nợ trời quê một cánh diều bay

Ta nợ lời ru mẹ ầu ơ bên cánh võng năm nào

Nợ bạn bè lần hẹn hò cuối phố

Nợ trường xưa nét chữ ban đầu

Cả cuộc đời trả mãi – chắc chi xong!”

Có những món nợ chúng ta trả được, nhưng có những món nợ “Cả cuộc đời trả mãi – chắc chi xong!”. Phụng vụ lời Chúa hôm nay còn chúng ta thấy một món nợ mà dường như chúng ta chưa từng nghe bao giờ, đó là nợ Thánh Ân. Đối với món nợ này, chúng ta chỉ có thể đáp đáp trả bằng lòng biết ơn mà thôi.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: 2 V 5, 14-17

Đoạn sách này kể về việc tướng Naaman của nước ngoại giáo Aram được tiên tri Êlisê chữa cho khỏi bệnh cùi. Ông đã quay trở lại để cám ơn người của Thiên Chúa. Ông đòi tặng cho tiên tri Êlisê nhiều vàng bạc, châu báu, nhưng tiên tri Êlisa từ chối: “Tôi thề sẽ không nhận gì cả” (2V 5, 16).

Điều chúng ta chú ý là để tỏ lòng biết ơn bằng của cải vật chất không được, tướng chỉ huy Naaman đã xin “mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở” (2V 5, 17). Lý do mà tướng Naaman nêu ra là: “Vì tôi tớ Ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa”. (2V 5, 17).

Chúng ta phải biết rằng ông là vị tướng của nước Aram, một nhân vật có thế giá trong triều đình. Vì vậy mọi nghi lễ của đất nước ông phải tham dự. Và theo nghi thức thì đương nhiên ông cũng phải sụp lạy trước các tượng thần của đất nước ông. Nhưng từ nay nó chỉ đơn thuần là một nghi thức, chứ trong lòng ông đã có Đức Chúa của Israel, Đấng đã cứu chữa ông. Từ nay ông sẽ quỳ trên mãnh đất mà ông đã xin về từ đất nước Do Thái, đặt trang trọng trong căn phòng của ông để thờ lạy Đức Chúa. Đó là thái độ biết ơn vô cùng sâu xa, vượt sức con người. Ông biết món nợ này ông không thể trả được, chỉ có lòng biết ơn, thái độ suy phục mới có thể làm cho lương tâm ông yên ổn. Và đó là nợ Thánh Ân.

  1. Tin Mừng: Lc 17, 11-19

Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem. Hôm nay Ngài đi ngang qua biên giới của người Samaria và Galilêa. Đây là vùng đất mà nếu một người giữ đạo đàng hoàng thì tốt nhất đừng nên đi vào. Ấy vậy mà chính tại nơi đây, chính tại vùng đất bị người Do Thái khinh rẽ lại xảy ra một phép lạ, mà phép lạ chẳng những cho một người, nhưng cho mười người. Đó là cho họ được khỏi bệnh phong cùi. Người Do Thái không chấp nhận cho người cùi sống chung trong làng. Họ phải sống cô lập ngoài sa mạc, xa xôi ngoài cánh đồng. Trong đoạn Tin Mừng này thánh Luca cũng cho biết là “Họ dừng lại đằng xa” (Lc 17, 12) chứ không dám lại gần Đức Giêsu. Họ bị coi là những kẻ tội lỗi, những người bị Thiên Chúa phạt. Hiểu như thế chúng ta cảm được nỗi đau của những người cùi, đau đớn về thể xác và nhất là khổ sở về tinh thần.

Chính vì vậy khi vừa nghe tiếng họ kêu cứu: “Lạy Thầy Giêsu xin dủ lòng thương chúng tôi” (Lc 17, 13), Đức Giêsu đã dừng lại. Chỉ sự dừng lại của Chúa thôi cũng đã làm cho họ được an ủi phần nào, cũng làm họ phải “mắc nợ” suốt đời, vì những người bình thường thấy họ là lo chạy nhanh, chạy xa như tránh một thứ độc hại. Chẳng những dừng lại mà Ngài còn làm nhiều hơn sự mong chờ của họ là cho họ được sạch. “Đang khi họ đi thì họ được sạch” (Lc 17, 14).

Nghĩ cũng lạ, họ đâu xin Chúa cho được sạch đâu, chỉ “xin dủ lòng thương”. Chúa cũng đâu nói với họ đi trình diện tư tế là sẽ được sạch đâu? Vậy mà đang khi đi họ được sạch. Qua những câu ngắn ngủi của Tin Mừng, chúng ta cảm nhận dường như họ đọc được nỗi niềm của nhau, biết được suy nghĩ của nhau.

Chúng ta cần để ý đến việc chữa lành thể xác và chữa lành tâm hồn. Cả 10 người cùi đều được chữa lành thể xác, vì khi đang đi trình diện tư tế thì họ được khỏi. Nhưng chỉ duy nhất người cùi xứ Samari là được chữa lành tâm hồn, được ơn cứu độ. Tại sao vậy? Thưa bởi vì anh ta biết ơn và quay trở lại để được gặp gỡ người làm ơn cho mình.

Niềm tin đã thúc đẩy cả 10 người cùi đi trình diện các tư tế. Nhưng dấn thân để có một liên hệ mật thiết với Đức Kitô mới đem đến ơn cứu độ mà thôi, và đó là niềm tin trọn vẹn nơi anh cùi xứ Samari. Niềm tin đó khởi sự từ lòng biết ơn.

II. SUY TƯ

Từ đoạn Tin Mừng này xin chia sẻ 2 suy tư.

  1. Nợ nhau

Suy tư thứ nhất là trong đau khổ người ta sẽ dễ yêu thương nhau hơn. Đó là hình ảnh rất đẹp nơi 10 người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Nếu những người Do Thái bình thường thì không bao giờ được phép gần gũi, gặp gỡ, sống chung với người ngoại giáo. Vậy mà trong nhóm người cùi này có một người ngoại giáo. Họ đi chung một con đường để tiến đến gặp gỡ Đức Kitô. Đẹp quá một hình ảnh như thế! Họ đi chung một con đường vì không còn đường nào khác. Họ đi chung một con đường vì những đường khác đã bị “kéo dây chì”. Họ đi chung một con đường vì đường khác đã dành cho những người lành lặn… Biết nương tựa vào ai đây ngoài những người cùng cảnh ngộ. Từ nay cùi đi với cùi, cùi chơi với cùi, cùi sống với cùi thôi chứ biết đi, biết chơi, biết sống với ai đây?

Thực trạng của xã hội Do Thái vẫn là thực trạng của xã hội hôm nay. Chỉ những ai cùng chung cảnh ngộ mới dễ thông cảm cho nhau. Cùng chung một nghề nghiệp, cùng chung một hoàn cảnh, cùng chung một tâm trạng, cùng chung một trình độ, thậm chí là cùng chung tội lỗi nữa…

Nhà thơ Chính Hữu đã mô tả tình đồng chí rất đẹp: “Áo anh rách vai, quần tôi có hai miếng vá, miệng cười buốt giá chân không giày, thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Trong những lúc gian khổ, “hột muối cắn làm đôi”, người ta dễ yêu thương nhau. Nhưng biết đâu mai kia có một người làm lãnh đạo, có chức, có quyền trong xã hội, không biết có còn nhớ đến thằng đồng chí mặc quần rách không?

Hay có những cặp vợ chồng đùm bọc nhau khi nghèo khó: “Râu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”; cùng đẩy chiếc xe bán hàng rong, cùng chèo chiếc ghe bán hàng bông… có gian khổ nhưng sao thấy hạnh phúc quá chừng… Bỗng dưng trúng số độc đắc nên đổi đời, và vì thế cũng đổi lòng đổi dạ, không còn yêu thương nhau, không còn những ngày xưa thân ái nữa.

Chín người cùi kia sau khi được lành sạch liệu có còn sống chung với người cùi xứ Samaria không? Chắc chắn là không!

Tình đời, tình người là thế. Vì vậy chúng ta hãy biết quý trọng tình nghĩa, dù là lúc gian khổ hay lúc sướng vui. Trong tất cả, chữ tình là trên hết. Đó là món nợ mà mỗi người chúng ta còn thiếu. Hãy thiếu hoài, thiếu mãi đừng bao giờ trả, vì nếu có trả, trả cũng không xong. Thánh Phaolô nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái”.

  1. Nợ Thánh Ân

Thiết nghĩ 9 người cùi kia không quay trở lại là vì nghĩ rằng họ không mắc nợ, mà chuyện được chữa lành là lẽ đương nhiên khi họ tin Chúa. Họ nghĩ Chúa là Cha thì phải có trách nhiệm lo cho con cái. Cha mà không lo lắng cho con cái là một người cha không tốt. Sống đạo họ chỉ cần giữ những gì luật dạy chứ không giữ tâm tình với Chúa.

Suy nghĩ của họ hoàn toàn phàm tục. Thiên Chúa không phải là người cha theo kiểu trần gian, mà là Đấng Thánh. Trước Đấng Thánh thì thái độ của con người là suy phục, thờ lạy chứ không phải là đòi hỏi và công bằng, vì con người thì không có quyền đòi hỏi thần minh, cũng như cái bình không có quyền đòi hỏi người nắn ra nó phải làm theo hình dáng nó muốn.

Thụ tạo phải luôn luôn có tâm tình cám ơn vì mỗi một nét họa trong cuộc đời là một hồng ân của Thiên Chúa, cho dù đó là đẹp hay xấu (theo kiểu nghĩ con người); còn đối với Chúa thì luôn luôn là tốt cho chúng ta.

Vì vậy họ tưởng trong những lúc họ bị cùi là Chúa không thương họ, Chúa không đúng, giờ Chúa cho họ được sạch là chuyện đương nhiên Chúa phải làm. Họ nghĩ mình không mắc nợ.

Còn anh cùi Samari thì không thể tưởng tượng được ơn lành này. Chúa kêu anh đến trình diện tư tế, anh cũng đi. Nhưng khi anh được sạch thì anh biết các tư tế không thể làm cho mình được sạch, mà chỉ có Thiên Chúa mới cho mình được sạch thôi. Vì vậy anh đã quay trở lại để cám ơn Chúa. 9 người kia đến với các tư tế là theo luật. Còn anh trở lại với Chúa Giêsu là theo lòng biết ơn phát xuất từ con tim. Anh biết mình mắc nợ, món nợ không thể nào trả được. Món nợ Thánh Ân.

Đời sống của chúng ta quá bộn bề với những lo lắng, bon chen, khiến chúng ta đôi khi, thậm chí là thường khi ít nghĩ đến món nợ Thánh Ân. Chúng ta cứ tưởng mình hiện hữu ở trên đời này là chuyện bình thường, mình có đạo là điều tự nhiên, thậm chí có người còn cho là mình “lỡ có đạo”. Chúng ta nghĩ rằng Chúa đương nhiên phải lo liệu cho tôi theo như những gì tôi muốn. Chúa không cho thì tôi không đến với Chúa nữa là chuyện bình thường. Một lối sống đạo hết sức sai lầm. Chúng ta phải nhớ đức tin là đặt mình trước sự hướng dẫn của một vị Thiên Chúa. Vì vậy món nợ Thánh Ân không khi nào ta trả nỗi. Thái độ tốt nhất là cám ơn bằng cách gắn kết đời mình với Đức Giêsu như anh cùi Samari trong bài Tin Mừng hôm nay.

Xin Chúa cho mỗi người chúng con luôn có tâm tình biết ơn, biết ơn những con người đã, đang và sẽ đi ngang qua cuộc đời chúng con. Cám ơn Chúa vì món nợ Thánh Ân mà chúng con không bao giờ trả được. Chính thái độ biết ơn sẽ làm cho chúng con gắn kết với Chúa và với anh chị em.

 

.

SỐNG TÂM TÌNH CẢM TẠ THIÊN CHÚA

         Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (2 V 5:14-17;  2 Tm 2:8-13;  Lc 17:11-19)

Thỉnh thoảng tôi có dịp nghe giới thiệu trên TV công việc của Hội “Bạn những người cùi ở Việt Nam”.   Những người cùi vừa vỗ tay (dù bàn tay không còn ngón nào cả!) vừa cất tiếng hát:  “Xin tạ Ơn Trên, người vẫn thương người”.  Nghe mà cảm động làm sao!  Họ cảm tạ Chúa vì vẫn có những tấm lòng quảng đại đã giúp đỡ họ qua Hội.  Đó là câu chuyện ngày nay.  Nhưng ngày xưa cũng có nhiều câu chuyện như thế, cụ thể là chuyện ông Na-a-man trong sách Vua quyển thứ 2 và chuyện Mười người phong hủi được Chúa Giê-su chữa lành theo sách Tin Mừng Lu-ca.  Cả hai câu chuyện không nhấn mạnh đến việc chữa lành, nhưng chuyển sang chủ đề tạ ơn Thiên Chúa.  Trước khi trở về quê nhà là nước A-ram, ông Na-a-man đã quay lại cám ơn ngôn sứ Ê-li-sa và tuyên xưng Thiên Chúa của Ít-ra-en.  Trong số mười người phong hủi được chữa lành, chỉ có người ngoại bang Sa-ma-ri trở lại cảm tạ Chúa Giê-su, còn chín người Do-thái thì không ai tỏ lòng biết ơn Chúa.  Hai câu chuyện này khiến những người tự hào là con cái Chúa, là người “có đạo” phải nghĩ lại về thái độ vô ơn của mình.

Tạ ơn Thiên Chúa là một điệp khúc được lập đi lập lại trong Cựu Ước, nhất là sách Thánh Vịnh.  Tác giả Thánh Vịnh kêu gọi mọi người hãy cảm tạ Chúa vì những ơn lành Người ban.  Lời ca tạ ơn được cất lên từ mọi hạng người, thứ dân cho đến hàng vua chúa.  Lý do để tạ ơn Chúa thì lại càng nhiều không sao kể hết.  Có thể nói, cứ cách vài ba Thánh Vịnh, chúng ta lại gặp một Thánh Vịnh chứa đựng những lời cảm tạ Chúa.  Câu chuyện ngôn sứ Ê-li-sa bảo tướng Na-a-man xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan thì sẽ khỏi bệnh phong hủi.  Chúng ta thử tưởng tượng mình đóng vai ông tướng Na-a-man để hiểu được tâm trạng bất mãn của ông.  Ông là một danh tướng nước A-ram, hạ mình đến để cầu xin ngôn sứ người Ít-ra-en chữa bệnh phong cùi cho ông.  Nhưng ngôn sứ không tự tay chữa lành ông, mà chỉ bảo ông làm một việc hết sức vô nghĩa:  dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan.  Mà nước sông Gio-đan có hơn gì những dòng sông tại quê hương ông đâu!  Nhưng cuối cùng, ông cũng hạ mình thêm một lần nữa, làm theo điều ngôn sứ nói.  Ông được lành bệnh, da thịt lại trở nên giống như trẻ nhỏ.  Được khỏi bệnh, ông mừng lắm.  Nhưng ông không quên điều phải làm là cùng đoàn tùy tùng quay lại cám ơn ngôn sứ Ê-li-sa, nhất là để tạ ơn Thiên Chúa của dân Ít-ra-en.  Ông còn xin ngôn sứ cho ông đưa một ít đất của nước Ít-ra-en về nhà.  Để làm gì với mấy bao đất ấy?  Để ông được tiếp tục đứng trên miền đất Ít-ra-en mà “dâng lễ toàn thiêu và hy lễ” tạ ơn Thiên Chúa của Ít-ra-en.  Ông quyết tâm từ bỏ bất cứ thần nào khác để phụng thờ duy một mình Thiên Chúa mà thôi.  Đây là một cách tạ ơn Chúa thật tuyệt vời.  Chúng ta đừng quên ông Na-a-man là người ngoại giáo, tức không phải người Do-thái.

Một câu chuyện tạ ơn khác được thánh sử Lu-ca kể lại.  Chúa Giê-su và các môn đệ từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem.  Khi các ngài đi tới biên giới Ga-li-lê và Sa-ma-ri thì có mười người phong hủi ra đón gặp Chúa.  Chắc chắn họ đã nghe nói về Chúa Giê-su.  Nhưng theo luật thanh tẩy, họ phải đứng ở đằng xa và kêu lớn tiếng, xin Chúa thương xót họ.  Đấng giầu lòng thương xót bảo họ cứ đi trình diện tư tế, vì theo luật, người phong hủi sau khi lành bệnh phải trình diện tư tế để được nhận lại vào trong cộng đồng.  Thánh Lu-ca kể rõ ràng:  “Đang khi đi thì họ được sạch”.  Tiếp theo, bằng giọng văn khá mỉa mai, ngài kể tiếp:  “Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.  Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn.  Anh ta lại là người Sa-ma-ri”.  Đó là lời kể của Lu-ca.  Nhưng chúng ta hãy đọc thật chậm những lời chua xót của Chúa Giê-su để thấy được Người muốn nhấn mạnh đến tâm tình tạ ơn Thiên Chúa:  “Không phải cả mười người đều được sạch sao?  Thế thì chín người kia đâu?  Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”  Vô cùng chua xót chứ!  Không biết giọng của Chúa như thế nào khi Người hỏi:  Thế thì chín người kia đâu?  Phải, chín người là đồng bào của Người, là những người được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương, vậy mà họ lại là những kẻ vô ơn, thua xa người ngoại bang Sa-ma-ri kia.  Chúa Giê-su đâu cần họ phải cám ơn Người, nhưng Người chỉ muốn họ hãy “trở lại tôn vinh Thiên Chúa” mà thôi!  Chắc chắn trong cuộc đời Ki-tô hữu, nhiều lần chính chúng ta cũng phải giật mình khi thấy mình ở trong số chín người này đấy.  Người Sa-ma-ri đã làm một cử chỉ đầy ý nghĩa:  anh sấp mình dưới chân Chúa Giê-su mà tạ ơn.  Sấp mình là cử chỉ thờ lạy dành riêng cho việc thờ lạy Thiên Chúa.  Vậy anh đã nhận Chúa Giê-su là Thiên Chúa của anh rồi.  Chúa Giê-su chấp nhận lòng tin của anh khi Người bảo:  “Đứng dậy về đi!  Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.  Thế là anh vừa được Chúa cứu thể xác vừa được Chúa cứu phần linh hồn.

Sống sứ điệp Lời Chúa

Một lần nữa, thánh Phao-lô lại khéo léo dạy môn đệ Ti-mô-thê bài học cảm tạ Thiên Chúa.  Ngài khuyên anh bắt chước ngài mà “nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô”.  Tạ ơn là nhớ đến.  Phao-lô nhớ đến Chúa Giê-su vì Chúa đã làm cho ngài thật nhiều.  Cho nên ngài nhớ đến thì ngài muốn nói cho người khác biết về Chúa, về lời Chúa và về ơn cứu độ Chúa ban cho ngài và cho chúng ta nữa.

 

.

BỆNH PHONG CÙI

Jos. Hồng Ân

Bệnh phong, còn gọi là bệnh hủi, cùi hay bệnh Hansen, do vi khuẩn Mycobacterium leprae gây ra. Da thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét. Khi nặng hơn vết thương lõm vào da thịt.

Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp. Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần. Vi trùng bệnh cùi làm cho thân thể bệnh nhân bị đau đớn cả trong xương thịt, nhất là ban đêm, mà còn tấn công các chỗ xương sụn. Vì thế tai mũi và các khớp xương bị ăn mòn. Tai sưng lên rồi biến mất dần dần, mũi cũng biến đi để lại giữa mặt một hố mủ máu hôi thối. Các ngón tay rụng dần. Đàng khác bệnh nhân mất cảm giác, nên có bị phỏng, vết thương cũng không thấy đau, vì thế có khi cầm thanh củi cháy đến tay cũng không cảm thấy nóng, nên dễ bị thương nặng, có thể chết mà không biết.

Ở Việt Nam người bị nhiễm bệnh phong chịu thành kiến, chịu sự hắt hủi, xa lánh của cộng đồng, thậm chí bị ngược đãi cho trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ǎn thịt.

Trong Cựu Ước, nếu một người bị tình nghi mắc bệnh phong cùi thì người ta dẫn người ấy đến một vị tư tế có kinh nghiệm chuyên môn về bệnh này. Vị tư tế sẽ cho người ấy sống cách ly với cộng đoàn bảy ngày, sau đó tái khám, nếu không thấy dấu vết phong cùi ra nặng thì họ được về với gia đình. Nếu có những dấu bệnh lây lan thì vị ấy tuyên bố công khai người ấy quả đã bị phong cùi. Tức khắc người ấy bị đuổi ra khỏi làng, dù cha mẹ hay con cái có thương cũng không dám che giấu, vì ai ai cũng sợ bị lây. Mà lây bệnh cùi thì không còn phương dược nào chữa được.

Nếu bị tư tế kết luận là đã mắc bệnh phong, người bệnh buộc phải theo quy chế là: “mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế, ô uế” (Lv 13,45). Khi xác định là mắc bệnh phong thì người bệnh bị đuổi ra khỏi nhà, bị tách biệt khỏi cộng đồng, phải sống lang thang vất vưởng ở những nơi hoang vắng, rừng núi, chui rúc trong các hang hốc để che mưa tránh nắng. “Bao lâu còn mắc bệnh phong thì nó ô uế, nó ô uế nó phải ở riêng ra. Chỗ ở của nó là một nơi bên  ngoài trại” (Lv 13,46).

Theo luật Do Thái thời xưa, người mắc bệnh phung phải ở cách xa người không mắc bệnh (kể cả thân thích ruột thịt) khoảng 1,8 mét; nếu có gió thổi, thì khoảng cách phải là 45 mét (x. http://www.gotquestions.org/Bible-leprosy.html). Vì vậy, người bệnh phong phải sống chung với người đồng cảnh ngộ cho tới khi chết, nếu bệnh không thuyên giảm. Đây là biện pháp thi hành ở Do Thái thời xưa để ngăn ngừa bệnh lây lan.

Vào thời của Chúa Giêsu cũng vậy, những người mắc bệnh phong cùi bị xã hội đối xử rất tồi tệ, có thể nói là tàn ác nữa. Vì bệnh phong là một căn bệnh nan y, không có thuốc, cũng không có cách nào, không ai có thể chữa trị được.

Tin Mừng Thánh Luca hôm nay mô tả Chúa Giêsu đang đi “Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người”. (Lc 17,12). Họ là những người đang mắc bệnh phong, theo luật họ không được đến gần người khác không mắc bệnh, khi có người không mắc bệnh đến gần họ phải kêu lên Ô uế, ô uế” (x.Lv 13, 45). Để cho mọi người biết mà tránh xa.

Trong lúc cùng cực của sự đau khổ cả về thể xác và tinh thần. Họ nghe tin Đức Giêsu có tài chữa bệnh, hôm này Ngài đi ngang qua nơi đó, họ không dám lại gần chỉ đứng đàng xa mà kêu xin: “Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi” (Lc 17,13-14). Đức Giêsu thấy vậy Ngài thương xót và chữa lành cho họ. Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17,14a). Bởi vì chính các tư tế khám cho họ và xác định là họ mắc bệnh phong và bị ô uế, nên để xác định là được khỏi bệnh thì họ phải trình diện các tư tế, để các tư tế khám và xác định họ được lành sạch và cho phép họ về nhà, hòa nhập với cộng đồng. Nhưng “Đang khi đi thì họ được sạch” (Lc 17, 14b).

Mười người phong cùi đã được chữa lành nhưng chỉ có một người trở lại cảm ơn Chúa, người này lại là người Samari, bởi anh ta chân thành cảm tạ Chúa từ trong đáy lòng. Trong khi các người kia thì lo sao để các tư tế khám và công nhận mình được lành sạch và cho phép họ trở về sống giữa gia đình và xã hội, thì riêng anh, anh muốn ngay lập tức cảm tạ Thiên Chúa ở chính nơi mà ơn của Người đến với anh, lòng tin đã cứu thoát và biến đổi con người anh.

Chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn” (Lc 17,16). Chúa Giêsu thấy rõ con người của họ, sự vô ơn, bạc nghĩa của họ Ngài đã phải thốt lên “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18).

Về đàng thiêng liêng, tội lỗi được ví như một thứ bệnh phong hủi tôn hồn. Phong hủi là hình bóng của tội lỗi: thân thể người phong hủi bị hư nát dần dần, trước ngoài da, sau đến thịt, rồi đến xương thật là ghê tởm! Bệnh phong hủi làm cho thân xác mất mọi vẻ đẹp bên ngoài, nơi mặt, mắt, mũi, miệng, tay chân …

Tội lỗi cũng làm cho linh hồn ra ô uế, mất mọi vẻ đẹp bên trong, người mắc bệnh hủi tâm hồn thì: so đo tính toán, ích kỷ hẹp hòi, ghen ăn tức ở, tham lam gian dối, mưu mô giảo quyệt, nói năng tục tĩu, cho vay nặng lãi, đặt điều bịa chuyện, tâm trí hèn hạ, tâm tình đê tiện, bên ngoài thơn thớt nói cười, bên trong nham hiểm giết người không dao, hay miệng thì nam mô, bụng bồ dao găm… Nói tóm lại là bao nhiêu thứ xấu xa, tội lỗi đều đổ cho hủi, người đời vẫn thường gán cho những kẻ xấu, ở bẩn, lười, tham lam: xấu như hủi, bẩn như hủi, lười như hủi, tham như hủi…

Bệnh phong hủi làm cho mọi người lánh xa, còn bệnh hủi tâm hồn làm chúng ta xa Chúa. Bệnh phong hủi gây đau khổ cho người bệnh, lây lan đến mọi người chung quanh. Tội lỗi là thứ bệnh hủi tâm hồn gây ra gương xấu, lôi kéo nhiều người phạm tội, chạy theo ma quỷ.

Để chữa trị thứ bệnh phong hủi tâm hồn thì người bệnh phải nhận ra mình ô uế, chạy đến với Chúa và kêu xin người cứu chữa, nếu không thì suốt đời mang căn bệnh nan y, sống trong đau khổ và tủi nhục, bị mọi người xa lánh.

 

.

Ý NGHĨA CỦA PHÉP LẠ

Phêrô Nguyễn Văn Hương

Khi Chúa Giêsu trên đường lên Giêrusalem, có mười người phong cùi đến gặp Người tại cửa vào một làng. Họ đứng từ đàng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Chúa Giêsu động lòng thương và nói với họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Khi đi gặp các tư tế, cả mười người phong cùi nhận thấy mình được khỏi bệnh. Một người trong số họ quay trở lại tạ ơn Chúa Giêsu, người đó lại là người Samari. Đây là phép lạ Chúa Giêsu chữa lành những người phong cùi được thánh Luca trình thuật trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe.

1- Các phép lạ trong Kinh Thánh

Bài đọc I cũng nói về việc tiên tri Êlisa chữa lành một cách lạ lùng cho một người phong cùi, đó là Naaman, người Syria.

Rõ ràng ý hướng chủ đạo của phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về ý nghĩa của phép lạ chữa lành người phong cùi.

Thật vậy, Kinh Thánh cho thấy dân chúng rất trông chờ Chúa Giêsu làm những phép lạ trong sứ vụ của Người. Đối với họ, ý tưởng nổi bật nhất mà họ quan niệm về Người là Đấng có quyền năng thực hiện nhiều phép lạ. Người ta thích thú hình ảnh này hơn hình ảnh Chúa Giêsu như là vị ngôn sứ. Một cách nào đó, chính Chúa Giêsu nhìn nhận và xác thực về sứ mạng cứu độ của Người khi nói rằng: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5). Nếu các phép lại bị xóa bỏ khỏi cuộc đời Chúa Giêsu thì cốt lõi của toàn bộ Tin Mừng cũng bị phá hủy.

Trong Tin Mừng, các phép lạ thường được đón nhận cách khác nhau. Đôi khi chúng được nhìn cách tích cực và đôi khi trở thành tiêu cực. Tích cực, khi chúng được đón nhận với lòng biết ơn và niềm vui, khi chúng đánh thức đức tin vào Chúa Kitô và hy vọng vào một thế giới tương lai không có bệnh tật và chết chóc; tiêu cực, khi người ta chạy theo phép lạ, chỉ tìm kiếm phép lạ hoặc đòi Chúa làm phép lạ rồi mới tin, như trong cuộc hội thoại giữa Chúa và người Do Thái: “Đâu là dấu chỉ ông làm để chúng tôi có thể tin vào ông?” (Ga 6,30). Chúa Giêsu luôn từ chối làm phép lạ nếu họ thiếu niềm tin và vì mục đích này.

2- Sự bất cập hoặc thái quá khi nói về phép lạ

Ngày hôm nay, tính hiếu kỳ và thói chạy theo dấu lạ vẫn cứ tiếp tục trong dân chúng dưới muôn vàn hình thức khác nhau. Một đàng, có những người thích tìm kiếm phép lạ, tìm kiếm những chuyện ngoại thường xảy ra, rồi nhẹ dạ cả tin vì được chứng kiến tận mắt những hình ảnh, cảnh tượng như việc Đức Mẹ chảy dầu, tượng Chúa chảy mồ hôi, ảnh Lòng Thương Xót Chúa trổ hoa v.v… trong khi phép lạ Thánh Thể mỗi ngày diễn ra trên bàn thờ nơi thánh lễ thì họ rất ít quan tâm và đến tham dự…

Đàng khác, có những người lại phủ nhận hoàn toàn các phép lạ trong cuộc sống. Quả thế, họ nhìn phép lạ với một thái độ khó chịu nào đó và cho rằng những chuyện như thế là hoàn toàn bịa đặt. Theo họ, phép lạ như một lệch lạc của niềm tin tôn giáo, hay là do sự ngu muội, chủ quan, dốt nát, cả tin. Tuy nhiên, họ không nhìn nhận rằng trong lịch sử và trong cuộc sống, có những điều kỳ diệu xảy ra mà chỉ có đức tin mới lý giải được, đó là những can thiệp của Thiên Chúa, là dấu chỉ tình yêu Chúa dành cho con người khi chữa lành, hay cứu vớt một ai đó. Chẳng hạn như những trường hợp bệnh nhân được chữa lành ở Lộ Đức, hay trường hợp một người phụ nữ không có con ngươi, nhưng khi tiếp xúc với cha Piô Năm Dấu, thì bà nhìn thấy được.

3- Tiêu chuẩn để phân định

Cùng với những tường thuật về các phép lạ, Kinh Thánh cho chúng ta những tiêu chuẩn để phân định tính xác thực và mục đích của các phép lạ.

Trong Kinh Thánh, phép lạ tự thân không bao giờ là mục đích; phép lạ chỉ là một phương tiện để dẫn người ta đến với Thiên Chúa; Chúa Giêsu không làm phép lạ với ý định đề cao mình hay để chứng tỏ cho mọi người thấy quyền năng ngoại thường trổi vượt của mình. Người không giống như hầu hết những nhà phù thủy khi chữa bệnh, họ thường quảng cáo về mình. Đúng hơn, phép lạ được thực hiện như là sự khích lệ và phần thưởng của Đức tin. Phép lạ là một dấu chỉ giúp con người hướng tới ý nghĩa cao cả hơn của cuộc sống. Tự bản chất, phép lạ là “dấu chỉ” hướng đến Thiên Chúa và cũng dẫn con người đến Người. Thiên Chúa tự tỏ mình trong quyền năng yêu thương qua các phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu và của các Tông Đồ. Chữa lành là một chiều kích chính yếu của sứ vụ Tông Đồ và của niềm tin Kitô giáo nói chung. Trong ý nghĩa đó, Kitô giáo được gọi là “tôn giáo chữa lành.” Ơn cứu độ xét cho cùng đó chính là sự chữa lành. Ai thực sự muốn chữa lành, người đó phải nhìn nhận rằng việc cứu chữa cuối cùng chỉ có thể đến từ tình yêu Thiên Chúa.

Bởi thế, chúng ta cần phải tránh rơi vào hai thái cực, hoặc là chạy theo tìm kiếm dấu lạ, hoặc là phủ nhận hoàn toàn các dấu lạ của cuộc sống, nhưng phải biết đón nhận những phép lạ với một thái độ biết ơn và cảm tạ Thiên Chúa. Con người thường thích nhận quà mà quên người tặng quà. Nên chúng ta cần học thái độ biết ơn của người phong ở Samari.

Xin Chúa giúp chúng ta có cặp mắt đức tin trong suốt để chúng ta thấy được những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa thực hiện trong cuộc sống, nhờ đó chúng ta biết ngạc nhiên, tạ ơn và thực thi thánh ý của Thiên Chúa qua những phép lạ Người làm. Amen!