Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Samuel quyển thứ 1 và 2

Tuần 24: Sách Samuel 1
(chương 1-15)

I. TỔNG QUÁT

1. Tác phẩm

Ở nguồn gốc, sách Samuel 1 & 2 chỉ là một nhưng khi dịch Thánh Kinh từ tiếng Do thái sang tiếng Hi Lạp (bản 70) thì sách được chia ra làm hai. Các bản dịch sang tiếng La Tinh và các ngôn ngữ khác cũng theo sự phân chia này.

https://youtu.be/j6CoRcqNX9A

Sách Samuel là tập hợp các bài tường thuật về lịch sử Israel từ khi dân vào đất Canaan (thế kỷ 12) đến thời lưu đày (587 trước Công nguyên). Sứ điệp chính của tác phẩm là Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng, và qua Môsê đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và đã ký kết giao ước với họ. Lời Thiên Chúa ban qua Môsê vẫn tiếp tục hướng dẫn Dân Chúa cũng như các vị lãnh đạo dân. Nếu dân trung thành với luật giao ước thì sẽ thịnh vượng và bình an; ngược lại, họ sẽ phải chịu hình phạt từ những tai họa thiên nhiên đến sự xâm lăng của quân thù và cả sự lưu đày.

Sách Samuel không phải là sách lịch sử theo nghĩa hiện đại cho bằng trình bày thần học về lịch sử, nghĩa là nói đến mối quan hệ của Thiên Chúa với dân Người.

2. Nhân vật

Ba nhân vật chính trong sách: Samuel và hai vị vua đầu tiên trong lịch sử Israel: Saulê và Davít. Những bài tường thuật về việc sinh hạ Samuel cũng như các nhân vật khác cho thấy Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử để cứu độ dân. Saulê là vị vua đầu tiên trong lịch sử Israel. Ơng được Thiên Chúa tuyển chọn nhưng sau đó lại bị ruồng bỏ vì không trung thành. Sự nghiệp của Saulê kết thúc trong cuộc chiến chống lại người Philitinh (1 Sam 31). Davít được phong vương từ rất sớm (1 Sam 16) nhưng ông phải trải qua nhiều thử thách và đau khổ mới thực sự nắm trọn vương quyền. Ơng được xem như vị minh quân mẫu mực của dân Israel và cuộc đời ông chất chứa nhiều bài học sống động cho đời sống đức tin của ta.

3. Dàn bài tổng quát

Phần I (1 Sam 1-3) : Samuel và nhà Eli
Phần II (1 Sam 4-7) : Hòm bia Giao ước
Phần III (1 Sam 8-15) : Vua Saulê
Phần IV (1 Sam 16-31) : Saulê và Davít
Phần V (2 Sam 1-8) : Chiến đấu giành
vương quốc
Phần VI (2 Sam 9-20): Vua Davít
Phần VII (2 Sam 21-24): Phụ lục

II. SAMUEL

1. Sinh hạ Samuel

Trong lời cầu của bà Hanna (1,9-19a), bà hứa với Chúa là nếu bà sinh con trai, bà sẽ dâng con cho Chúa như một nadia (nazir) (x. Ds 6). Samson (Tl 13-16) cũng có lời khấn nazir nhưng do sứ thần đòi hỏi chứ không do mẹ ông hứa.

Tên của Samuel có nghĩa là “người đến từ Thiên Chúa.” Tên gọi này vừa nói lên sự đáp trả của Thiên Chúa trước lời khấn xin tha thiết của bà mẹ vừa cho thấy sứ mạng của Samuel.

Bài ca tạ ơn của bà Hanna (2,1-10) tương đương với Kinh Ngợi Khen của Mẹ Maria (Lc 1,46-55). Cả hai bài ca đều diễn tả niềm vui khi sinh con, đều chúc tụng quyền năng Thiên Chúa, đều nói đến việc hạ bệ kẻ giàu có và nâng cao người nghèo khó.

2. Ơn gọi của Samuel

Hình ảnh thầy cả Eli với cặp mắt đã mờ (3,2) diễn tả đời sống đức tin của Israel lúc đó: ngọn đèn của Chúa, tức là Lời Chúa, đã bị dập tắt vì lối sống buông thả của hàng tư tế.

Thiên Chúa lên tiếng gọi Samuel nhưng cậu bé chỉ nhận ra tiếng Chúa gọi nhờ sự hướng dẫn của thầy cả Eli. Sự kiện này cho thấy tầm quan trọng của việc phân định thiêng liêng trong đời sống đức tin của ta.

“Này con đây”: lời đáp trả của Samuel gợi nhớ lời đáp trả của Abraham khi Chúa gọi ông hiến dâng Isaac (St 22,1-12). Thái độ sẵn sàng của Samuel tương phản với sự trì trệ của hàng tư tế không muốn lắng nghe Lời Chúa (2,25). Samuel là vị tư tế trung tín, được Chúa chọn để thay thế cho hàng tư tế bất trung.

3. Samuel thi hành sứ vụ

Tại Mizpah, dân Israel cử hành sám hối gồm việc đổ nước, ăn chay, và xưng thú tội lỗi. Samuel chính thức thi hành sứ vụ. Việc Samuel dựng bàn thờ kính Chúa nằm trong truyền thống lâu đời của Nôê (St 8,20), Abraham (St 12,7; 22,9), Isaac (St 26,25), Giacop (St 35,7), Môsê (Xh 17,15)…
Samuel là khuôn mặt duy nhất trong Thánh Kinh vừa là tư tế vừa là tiên tri và thẩm phán (thủ lãnh). Từ sau thời của ông, ơn gọi tiên tri và tư tế bắt đầu tách rời ra.

Sách Samuel 1
(Chương 16-31)

I. ĐAVÍT ĐƯỢC XỨC DẦU PHONG VƯƠNG (đọc 16, 4-13)

1. Cách thế tuyển chọn của Thiên Chúa

Samuel được Thiên Chúa sai đến xức dầu phong vương cho một người con trai của ông Giesê. Thế nhưng những người mà Samuel nghĩ rằng Chúa sẽ chọn lại không phải là người Chúa muốn. Và Người phán: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (16,7).

2. Học cách nhìn của Chúa

Ở mọi thời đại, cách riêng trong thời đại ngày nay, người ta chú trọng rất nhiều đến dáng vẻ bên ngoài: trong sản xuất kinh doanh, trong việc đánh giá con người, kể cả trong đường hướng giáo dục, ví dụ chủ nghĩa thành tích dẫn đến bao nhiêu gian dối trong môi trường học đường.

Càng sống trong một môi trường như thế, người Kitô hữu càng cần phải tập sống chiều sâu nội tâm, trau giồi con người bên trong, hơn là chỉ quan tâm đến những hình thức bên ngoài.

II. ĐAVÍT CHIẾN ĐẤU CHỐNG GOLIÁT (đọc 17, 40-47)

Nhìn từ bên ngoài, cuộc chiến giữa Đavít và Goliát quả là cuộc chiến không cân sức. Tương tự như thế là cuộc chiến giữa Giáo Hội và thế gian. Thế nhưng trong cuộc chiến khốc liệt đó, Đavít đã chiến thắng. Vậy bí quyết chiến thắng của Đavít ở đâu? Lời tuyên bố của Đavít đã nói lên tất cả, “Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Israel mà mày thách thức” (17,47).

Cũng thế, trong cuộc chiến đấu với thế gian, khi nào Giáo Hội chỉ tìm nương tựa vào sức mạnh quân sự hay kinh tế của người đời, Giáo Hội sẽ thất bại. Ngược lại, khi Giáo Hội thực sự nương tựa vào Chúa thì Giáo Hội sẽ chiến thắng. Đó không phải là chiến thắng theo nghĩa lợi lộc cá nhân nhưng là chiến thắng của tình yêu và chân lý.

Mỗi Kitô hữu cũng cần ghi nhớ bài học này cho đời sống thiêng liêng của mình, nhất là khi phải chiến đấu chống lại tội lỗi.

III. VUA SAUL VÀ TÍNH GHEN TỊ

1. Sự kiện
Sau khi Đavít chiến thắng tên Philitinh, dân chúng hò reo ca tụng Đavít, và Sách Thánh ghi nhận rằng “Từ ngày đó về sau, vua Saul nhìn Đavít với con mắt ghen tị” (18, 6-9). Sự ghen tị đó đã thúc đẩy Saul nhiều lần tìm cách giết Đavít (x. 18, 10-12; 19,8-10)

2. Ghen tị

Nguồn gốc của sự ghen tị là tính ích kỷ, không nhìn thấy ích chung, chỉ thấy quyền lợi và địa vị của mình. Từ đó, tìm cách hạ thấp thành công của người khác và vui mừng trước thất bại của người khác. Khi không kềm chế được, sự ghen tị còn có thể dẫn người ta đến chỗ phạm nhiều tội ác khác.

Ghen tị là một thói xấu có mặt nơi mỗi người và có thể gây nhiều tác hại cho đời sống chung cũng như công việc chung, kể cả việc tông đồ. Điều quan trọng là phải ý thức và cố gắng vượt qua. Để chữa trị thứ bệnh phổ biến này, cần tập nhìn vào ích chung và chương trình của Chúa hơn là chỉ nghĩ đến quyền lợi và sở thích riêng của mình. Nếu ta thực sự tha thiết với công trình của Chúa và ích lợi chung của mọi người, ta sẽ vui mừng đón nhận và cộng tác với bất cứ ai phục vụ ích lợi chung và công trình của Chúa.

IV. SỰ QUẢNG ĐẠI CỦA ĐAVÍT

Đối lại sự ghen tị của Saul, Sách Thánh làm nổi bật lòng quảng đại của Đavít. Đavít đã sẵn lòng tha thứ cho kẻ làm hại mình (24,1-8). Động lực của lòng quảng đại này không chỉ là những lý do tự nhiên nhưng sâu xa hơn, chính là tầm nhìn đức tin của Đavít. Ông nhìn Saul là người được Chúa xức dầu, và vì thế không thể ra tay sát hại (24,7).

Tấm gương của Đavít làm nổi bật lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Hãy để Chúa xét xử mỗi người theo việc họ làm. Hãy tập đặt mình vào hoàn cảnh người khác để có thể cảm thông và chia sẻ hơn là lên án và trả thù.

Sách Samuel 2
(chương 1-12) 

I. THÁNH THIỆN VÀ TỘI LỖI

Vua Đavít được gọi là vua thánh Đavít nhưng trong thân phận con người, nhà vua cũng đã phạm những lầm lỗi nặng nề. Trình thuật Thánh Kinh về tội của Đavít soi sáng cho ta nhiều điều về ý nghĩa của tội lỗi cũng như đưa ra những cảnh giác cụ thể về mối nguy hiểm của tội.

1. Sự kiện tội lỗi (11,1-5)

Vua Đavít say mê bà Bathsêba, vợ của tướng Uria, và tìm cách chiếm đoạt bà: “Vua sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô uế. Rồi nàng trở về nhà. Nàng đã thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua Đavít rằng: “Tôi có thai.”

2. Sự tàn phá của tội (11,6-26)

Tội này lôi kéo theo tội khác. Khi nghe tin Bathsêba đã có thai, nhà vua phải tìm cách che giấu tội lỗi của mình. Trước hết, vua cho gọi Uria, chồng bà về gặp vua, rồi ra lệnh cho ông về nhà nghỉ ngơi. Nếu Uria về thăm gia đình và sau đó bà Bathsêba có thai, âu cũng là chuyện bình thường. Nhưng “Uria nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông, và ông không xuống nhà mình,” và lý do ông đưa ra thật đáng khâm phục, “Hòm Bia cũng như Israel và Giuđa đang ở lều, chủ tướng tôi là ông Gioap và các bề tôi của chúa thượng đang đóng trại ở ngoài đồng trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao?” (11,11). Nhưng vua Đavít phải tìm mọi cách che giấu tội lỗi của mình nên khi sử dụng trò gian dối không thành, nhà vua phải dùng đến thủ đoạn tàn ác nhất. Oâng viết thư cho tướng Goap, căn dặn rằng: “Hãy đặt Uria ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết” (11,15). Oái ăm thay, chính Uria lại là người cầm bản án tử cho mình để nộp cho Gioap (11,14). Và Đavít đã toại nguyện. Bà Bathsêba làm tang lễ cho chồng, sau đó vua Đavít đón bà về làm vợ mình (11,23-27).

Như thế, trong trường hợp của vua Đavít, gian dâm dẫn đến gian dối rồi dẫn đến sát nhân. Tội này kéo theo tội khác. Đây cũng là thực tế trong đời sống mỗi người, có điều nhiều khi ta không đủ can đảm và khiêm tốn nhận ra sự thật này. Và vì không thấy đúng sự thật nên không thấy rõ sự tàn phá của tội, cũng không đủ quyết tâm để xa tránh tội.

3. Dịp tội

Khi mô tả tội của Đavít, Sách Thánh ghi nhận, “Vào một buổi chiều, vua Đavít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng có nhan sắc tuyệt vời” (11,2). Sau đó nhà vua cho vời người phụ nữ đó vào cung.

Như thế, tội của Đavít khơi nguồn từ chỗ “nhìn thấy người phụ nữ đang tắm.” Giác quan là cánh cửa cho tâm hồn mở ra với thế giới bên ngoài, nhờ đó nhận biết thế giới, thiết lập tương giao, và làm cho đời sống thêm phong phú. Chính vì thế, bị mất đi một giác quan, vd. khiếm thị hay khiếm thính, đều làm cho cuộc sống trở thành nghèo nàn và khó khăn hơn. Tuy nhiên thế giới giác quan cũng có thể trở thành cửa ngõ cho những ham muốn tội lỗi. Vì thế, các nhà đạo đức mới nói đến việc canh chừng ngũ quan.

Xa hơn, phải nói đến những dịp tội. Không phải vô lý khi trong kinh Aên năn tội, người Công giáo nói đến quyết tâm xa tránh dịp tội, vì bất cứ tội nào ta phạm cũng đều có dịp của nó. Không xa tránh dịp tội, sẽ khó lòng tránh được chính tội lỗi. Một người nghiện rượu sẽ khó tránh được chuyện uống rượu nếu hẹn hò với bạn bè trong quán nhậu. Hai bạn trẻ sẽ khó tránh được quan hệ xác thịt khi hẹn nhau nơi tăm tối và kín đáo. Quyết tâm không chỉ là những ý hướng tốt chung chung, nhưng một quyết tâm chân thành hàm chứa nỗ lực xa tránh dịp tội, nhờ đó có thể giữ mình khỏi tội lỗi.

Vua Đavít được gọi là vua thánh, và quả thật, cuộc đời ông là tấm gương sáng cho các nhà lãnh đạo cũng như cho từng người tín hữu về nhiều phương diện. Thế nhưng con người tốt lành đó cũng đã có những giây phút sa ngã trầm trọng, từ một đam mê nhất thời dẫn đến nhiều hậu quả trầm trọng. Aâu cũng là lời nhắc nhớ cho ta về sự thật hiển nhiên mà Chúa Giêsu đã dạy, “Tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41). Ý thức đó sẽ giúp ta khiêm tốn hơn, nhờ đó biết cảnh giác trước những cám dỗ trong đời sống đức tin.

Sách Samuel 2
(Chương 13-24)

I. SÁM HỐI

1. Biết mình: khởi điểm của hành trình sám hối (12,1-15)

Đavít phạm tội và tìm cách che giấu tội lỗi. Có lẽ ông đã thành công vì âm mưu của ông khéo léo quá và vì ông là vua nên không ai dám đụng tới. Nhưng hành động của ông không thể qua mắt Thiên Chúa (11,27). Ngài sai tiên tri Natan đến để giúp Đavít nhận ra sự thật mà ông đang tìm cách che giấu.

“Bạn hãy biết chính mình.” Người Hi Lạp coi đây là khởi điểm của triết học, và thực sự đây là chân lý căn bản nhất trong đời người nhưng cũng lại là chân lý bị lãng quên nhiều nhất. Đavít cũng không dễ dàng nhận ra sự thật về chính mình. Oâng vẫn tỏ ra là một vị minh quân sáng suốt và đầy tình nhân ái. Vì thế khi nghe tiên tri Natan kể chuyện về một người giàu cóù đã ức hiếp người nghèo đến độ bắt cả con chiên duy nhất của người nghèo mà làm tiệc đãi khách của mình, Đavít đã hùng hồn tuyên bố, “Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết” (12,5). Nhưng trong khi ông sáng suốt nhận diện sự bất công mà tên nhà giàu gây ra cho đồng loại, thì ông vẫn không nhận ra sự bất công trầm trọng chính ông đã gây ra. Trong khi ông hùng hồn lên án tên nhà giàu, ông không biết rằng ông đang tuyên án chính mình! Chỉ đến khi tiên tri Natan thẳng thắn công bố, “Kẻ đó chính là ngài” (12,7), ông mới ngỡ ngàng.

Đavít đã không thể biết mình khi chỉ dựa trên dư luận. Ơng chỉ nhận ra sự thật khi đối diện với Thiên Chúa và Lời của Ngài. Cũng vậy, người Công giáo có thói quen xét mình để nhận ra sự thật về mình. Nhưng ta sẽ không nhận ra sự thật đó khi xét mình dựa vào dư luận xã hội, dựa vào sự đánh giá của người đời, hoặc tự so sánh mình với người khác. Ta chỉ có thể biết rõ về mình khi đối diện với Thiên Chúa và Lời của Ngài : “Lạy Chúa, trong ánh sáng Chúa, chúng con nhìn thấy ánh sáng.”

2. Đền tội

Khi nghe tiên tri Natan kể về một trường hợp bất công, Đavít đã tuyên án: “Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót” (12,6). Lời tuyên án này báo trước chính hình phạt ông phải chịu, tức là mất bốn người con. Đau đớn nhất cho Đavít là ở chỗ những cái chết này lại do chính anh em trong nhà sát hại lẫn nhau:
– 12,18 : con bà Bathsheba chết,
– 13,28 : Amnon chết dưới tay Absalom,
– 18,15 : Absalom chết dưới tay quân sĩ của Đavít,
– 1V 2,24-25 : Adonijah chết dưới tay Salomon.

Theo lẽ công bằng, nếu tội lỗi đã gây ra những bất công trầm trọng cho tha nhân, thì người phạm tội cũng phải chịu hình phạt cho cân xứng. Phải chăng sự trừng phạt của Thiên Chúa cũng chỉ nhẳm tái lập sự công bằng? Chắc chắn là thế nhưng còn hơn thế. Từng bước một, Thiên Chúa giúp Đavít khám phá dung nhan đích thực của Thiên Chúa giàu lòng thương xót.

3. Đỉnh cao: khám phá lòng thương xót

Absalom là đứa con phản loạn. Anh ta đã giết Amnon (13,23-29) cho dù với lý do xem ra chính đáng là để báo thù cho em gái mình đã bị Amnon làm nhục! Sau đó, dù đã được vua Đavít tha thứ, anh ta vẫn tìm cách tạo vây cánh (15,1-5) và làm loạn chống lại chính vua cha (15,7-12) đến độ vua Đavít phải bỏ cả hoàng cung mà chạy trốn. Absalom còn làm những hành vi xúc phạm trầm trọng đến cha già (16,20-22).

Dù con cái ngỗ nghịch như thế, vua Đavít vẫn một niềm tha thứ. Đavít đã chấp nhận cho Absalom trở về sau khi anh ta đã giết Ammon(14,1-21). Hơn thế nữa, dù Absalom làm loạn khiến Đavít phải bỏ cả hoàng cung mà chạy, ông vẫn không muốn giết con. Ơng yêu cầu các tướng sĩ của mình nương tay với Absalom (18,5). Đến khi được tin Absalom tử trận, không những ông không vui mừng mà còn than lan khóc lóc, đòi được chết thay cho con: “Vua Đavít run rẩy, đi lên lầu trên cửa thành và khóc. Vua vừa đi vừa nói: Abasalom con ơi, Abasalom con ơi! Phải chi cha chết thay cho con!” (19,1-5).

Đây quả là đỉnh cao của câu chuyện thương tâm và cũng là đỉnh cao của tình phụ tử. Nhưng cũng chính từ kinh nghiệm làm cha như thế, vua Đavít khám phá dung nhan đích thực của Thiên Chúa là Cha. Trước kia, Đavít có lẽ chỉ thấy được một Thiên Chúa công bằng vì tuy Người tha thứ nhưng vẫn bắt đền tội nặng nề cho xứng với tội nhà vua đã phạm. Thế nhưng kinh nghiệm ông có trước cái chết của Abasalom đã giúp ông khám phá dung mạo đích thực của Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Mặc cho ông ngỗ nghịch đến đâu, mặc cho ông tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn một niềm thương xót. Tình thương của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi con người đã phạm.

Và đối với người Kitô hữu, kinh nghiệm này lại chẳng trở thành chân lý sống động nơi thập giá Chúa Giêsu đó sao? Ở đó, Thiên Chúa không chỉ nói, “Con ơi, phải chi Cha chết thay cho con,” nhưng là “Này đây, Cha chấp nhận chết thay cho con.” Bạn có cảm nhận được điều đó khi chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh?

 

 

One comment

  1. Đỗ Thị Thu Thảo

    Xin Chúa soi sáng cho con hiểu được ý Chúa qua Kinh Thánh.
    Khi nghe đọc và nghe giảng về các bài đọc của sách Samuel, nhất là về Davit, lúc nào con cũng thắc mắc: Chúa ơi, Chúa là đấng công bằng, sao Chúa lại vì đã chọn Davit mà tha thứ cho, đã vậy vì tội lỗi của ông mà CHúa lại cất mạng sống của người khác (đứa con của Davit và vợ của Uria bị chết đâu có tội gì ạ). Con được nghe cha giảng về tội phá thai, ngay cả khi có thai vì bị cưỡng hiếp cũng không được, cha giảng nói người bố của đứa trẻ có tội chứ đứa trẻ đâu có tội gì, muốn phạt phải phạt cho đúng người.
    Con sợ suy nghĩ của con không phải được dẫn dắt từ Chúa. Con xin được hướng dẫn …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *