Thần Đô Huyền Nhiệm – Lánh nạn sang Ai Cập

Mục Lục

Phần Thứ Hai: CUỘC ĐỜI CÔNG KHAI

 

22. LÁNH NẠN SANG AI CẬP

Sau lễ dâng Chúa Hài Nhi, Mẹ Maria có ý định ở lại Giêrusalem chín ngày để cầu nguyện, và để nhớ lại ơn làm Mẹ Thiên Chúa, cũng như chín tháng Mẹ cưu mang Thai Nhi Thiên Chúa như một Đền Tạm của Ngôi Lời: Hằng ngày, cùng với Thánh Giuse và Chúa Hài Nhi, Mẹ lên Đền Thờ và ở lại đó từ chín giờ sáng cho tới chiều, tại một nơi thấp hạ nhất. Ở đó, nhiều ân huệ mới đã đến làm dịu niềm chua xót của linh hồn Mẹ.

Một hôm, Chúa Hài Nhi Giêsu nói với Mẹ: “Mẹ rất yêu dấu của Con, Mẹ hãy lau khô nước mắt đi, vì thánh ý Cha Con muốn Con phải chịu chết trên Thánh giá và Mẹ đồng công đau khổ với Con. Con muốn chịu đau khổ để đem những linh hồn là hình ảnh Con vào thiên đàng. Mẹ cũng muốn thế mà” Đức Nữ Trinh rất quảng đại trả lời: “Ôi Con rất yêu đương là Tình Yêu dịu ngọt của Mẹ, nếu Mẹ được chết với Con Mẹ còn được an ủi hơn nữa: nỗi đau khổ cực khốn nhất của Mẹ là Con phải sống khi Con đã chết rồi”.

Một hôm khác, Mẹ Maria kêu lên trong lòng rằng: “Lạy Chúa, này con là chút bụi đất hèn mạt được Chúa ban đầy ân huệ. Hư vô như con biết lấy gì trả lại cho Chúa được? Con đã dâng cho Chúa tất cả hữu thể con; con không còn gì để dâng Chúa nữa? A! con phấn khởi hân hoan lắm, con xin dâng Chúa Người Con chí ái của Chúa, không những thay cho con, mà còn thay cho toàn thể loài người nữa, loài người mà Con Chúa đã trở nên anh em với họ trong con”.

Đến ngày thứ năm, trong một thị kiến, Chúa phán với Mẹ: “Con không thể bế mạc tuần chín ngày đâu, để cứu Con của con khỏi bị Hêrôđê tìm giết, con phải cùng với Giuse đem Ngài sang Aicập”. Mặc dầu tin đó thật kỳ lạ, nhưng Mẹ Maria cứ luôn bình thản và tuân phục trả lời: “Lạy Chúa, này con là nữ tì Chúa, xin cứ dùng con làm điều Chúa muốn. Con chỉ xin lòng Chúa nhân từ bao la để mình con phải chịu đau khổ, mà tránh cho Con của con thôi”.

Chúa bảo Mẹ cứ trở về nhà trọ với Thánh Giuse. Từ Đền Thờ về, nghĩ đến những khổ sở Chúa Hài Nhi sắp phải chịu, Mẹ đau đớn không sao cầm được nước mắt, nhưng không nói cho Thánh Giuse biết tại lý do nào. Thánh Cả chân thật, nghĩ rằng: Bạn mình đau khổ là tại nhớ đến lời tiên tri của ông Simeon. Song không nghĩ vậy rồi thôi, trái lại, Thánh Cả cũng rầu rĩ hết tâm hồn vì thấy Đức Nữ Trinh phải khổ, nhất là không biết rõ Mẹ phải khổ vì lý do nào. Đêm hôm đó, Thánh Giuse trằn trọc mãi mới thiếp ngủ được một chút, một thiên thần đến giải thích cho Ngài biết duyên cớ làm Mẹ Maria phải đau khổ. Thiên thần này là Đức Tổng Thần Gabrie lần trước đã đến báo mộng cho Thánh Cả hồi thấy Đức Nữ mang thai. Đức Tổng Thần nói với Ngài trong mộng: “Dậy mau đi. Dậy đem Chúa Hài Nhi và Mẹ Ngài sang Aicập lánh nạn. Và cứ ở lại đó cho tới khi nào tôi đến báo hãy về, vì Hêrôđê đang cho tìm giết Chúa Hài Nhi”. Ngay lúc đó, Thánh Giuse thức dậy với một tâm trạng vừa bàng hoàng vừa cẩn trọng; Ngài đến báo tin đó cho Đức Nữ Trinh. Lúc ấy Mẹ đang trầm mặc chiêm niệm. Ngài lại hỏi ý kiến Mẹ, xin Mẹ chỉ cho biết phải làm gì để Chúa Hài Nhi và Mẹ bớt phải khổ trong cuộc hành trình gian nan và dài dặc sang nước lạ sắp tới này. Ngài tự nhận mình có hữu thể và có sự sống là chỉ cốt dùng để phục vụ Chúa và Mẹ thôi. Phần Mẹ nhìn nhận rằng: đã được Chúa hậu đãi nhiều ân huệ lắm rồi, nên Đôi Bạn Thánh cứ phải vui tươi mà chấp nhận đau khổ mới đúng nghĩa tôi trung. Mẹ cũng nói: “Chúng ta mang cả Đấng Sáng Tạo vũ trụ đi theo. Có Ngài đâu còn phải là lưu đầy, là lánh nạn nữa: Ngài chính là quê hương của chúng ta”.

Rồi, cùng với Thánh Cả Giuse, Mẹ nhẹ chân bước đến bên nôi Chúa Hài Nhi Giêsu đang ngủ. Mẹ dịu dàng nhỏ nhẹ nói: “Ôi Con của Mẹ, Con là Con Chiên rất hiền từ, ai là người có thể chắc sẽ giết được Con! Con có quyền huỷ diệt người đó ra hư vô? Nhưng ai mà hiểu được những bí nhiệm của Chúa Quan Phòng? Xin Con cho phép Mẹ cắt ngang giấc ngủ của Con”. Mẹ quỳ xuống trước mặt Chúa Hài Nhi, đánh thức và bế lên tay. Hài Nhi Thiên Chúa khóc ré lên, làm cho đôi tình phụ mẫu càng thêm se thắt, song được nhiều công trạng hơn. Nhưng khi Mẹ xin Ngài ban phép lành cho trước khi lên đường, Ngài nín khóc, và rõ ràng giơ tay ban phép lành cho Mẹ và Thánh Giuse, để trợ lực như hai Đấng vừa xin. Lúc ấy đã quá nửa đêm một chút, Thánh Gia tức tốc lên đường, đem theo cả con lừa nhỏ đã mượn từ Naxarét. Mười nghìn thiên thần hiện ra thành hình người tháp tùng ngay; ánh sáng của họ đổi đêm khuya tối đen thành một ngày quang đãng. Ra khỏi Giêrusalem, họ thờ lạy Chúa Hài Nhi trên tay Mẹ và, một lần nữa, quyết tâm phục vụ Thánh Gia.

Đức Trinh Nữ Rất Thánh muốn ghé qua Belem để một lần nữa thăm hang đá, nhưng các thiên thần dẫn đi vòng quanh lối khác, vì thủ hạ của Hêrôđê đang dò xét tông tích Ấu Chúa ở vùng này. Bù vào đó, để mang cho Mẹ một niềm an ủi, thiên thần hộ thủ của hang đá Belem đã mặc hình người đến gặp Mẹ, nói với Mẹ về nơi thánh đó, và thờ lạy Thiên Chúa làm Người đang nằm trên tay Mẹ. Theo lối thiên thần dẫn đưa, Mẹ nhắm thẳng đường qua Hebron. Tại nơi đây gia đình ông Giacaria và bà Elisave có một trang trại lớn. Ông bà đã rời hẳn thành nhỏ Giuđa về định cư tại đây, sau khi sinh hạ Gioan Tiền hô. Mẹ có ý tưởng rẽ vào Hebron cách đường đi không xa lắm để thăm người chị họ. Nhưng Thánh Cả Giuse, vừa cẩn trọng vừa e ngại không muốn chậm đường kẻo rơi vào nguy hiểm. Mẹ Maria vâng ý Ngài và xin phép Ngài được phái một thiên thần hầu cận vào gặp thánh nữ Elisave, để báo tin biến cố đang diễn ra và khuyên bà cẩn trọng bảo toàn sinh mạng Gioan.

Được tin, thánh nữ Elisave rất cảm động và tri ân Mẹ. Bà muốn ra gặp Thánh Gia trên đường; nhưng thiên thần cho biết Thánh Gia đã đi khá xa. Thánh nữ liền nhờ thiên thần chào mừng Chúa Hài Nhi và Mẹ Ngài. Mặt khác bà còn sai ngay một gia nhân cấp tốc mang lương thực, vải vóc và tiền bạc theo đường Thánh Gia đi ngay để dâng tặng. Người đó gặp Thánh Gia tại nơi cách Giêrusalem hai mươi giờ đường bộ, trên sông Besor, gần Địa Trung Hải. Thánh Gia tạm dừng chân tại đây hai ngày, vì Thánh Giuse đã khá mệt, và con lừa nhỏ cũng không còn sức đi được nữa. Mẹ Maria đầy lòng tri ân nhận quà tặng của bà chị họ. Nhưng vì vốn thương xót người nghèo, nên Mẹ đem ngay lương thực và tiền bạc phân phát cho họ. Còn vải Mẹ lấy may cho Chúa Hài Nhi một khăn bọc và cho Thánh Giuse một áo choàng. Trong hai ngày tạm dừng chân tại Gaza, Mẹ cũng làm một vài việc lạ: chữa cho hai người bệnh đã nguy tử được lành mạnh, và trị khỏi một phụ nữ bất toại. Nhất là Mẹ cầu xin Chúa ban nhiều ơn lành xuống linh hồn những người đến tiếp xúc với Mẹ.

Trong cuộc hành trình ngàn dặm này, Mẹ và Con trao đổi với nhau biết bao nhiêu tâm sự êm đềm, xướng lên biết bao khúc ca ca tụng Thiên Chúa, và Mẹ được biết bao thị kiến trong trí, nhận được càng ngày càng nhiều những mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Luôn luôn lo lắng đến Con Chí Thánh mình, Mẹ hay thủ thỉ với Chúa Hài Nhi: “Ôi sự sống chí ái của linh hồn Mẹ, Con có mệt nhọc không? Mẹ làm gì được để an ủi Con bây giờ?” Hài Nhi Giêsu thưa lại: “Mẹ ơi, tất cả mọi lao khổ Con đều chịu cả vì Thiên Chúa và vì loài người, nên đều nhẹ nhàng sung sướng, nhất là khi Con chịu cùng với Mẹ như thế này”. Đôi lần Chúa Hài Nhi đã khóc một cách u trầm bình thản như một người đứng tuổi. Mẹ Maria rất xúc động. Mẹ nhìn thấy trong tâm hồn Con Mẹ duyên cớ của tiếng khóc ấy chỉ là những vong ân của loài người, nên Mẹ cũng than khóc cùng với Chúa, nựng yêu Chúa, hôn kính Chúa vừa thiết tha vừa tôn kính.

Cứ như thế, Thánh Gia vượt qua hơn sáu mươi dặm đường cô quạnh, không một bóng nhà hay một bóng người, trước khi đến thành Hêliôpôli mà ngày nay gọi là Cairô, thủ đô Aicập. Thánh Gia đã phải chịu rất nhiều đau khổ trong cuộc hành trình này. Tất nhiên là ban đêm phải ngủ ở ngoài trời, không một mái che. Bấy giờ còn là mùa đông, sau lễ dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thánh. Đêm đầu tiên, Thánh Gia gặp trong vùng cô liêu hoang vắng mênh mông thật buồn thảm. Thánh Gia bắt buộc phải dừng lại dưới chân một quả đồi. Thánh Giuse lấy áo choàng và mấy cái gậy dựng lên một túp lều nhỏ cho Mẹ và Chúa Hài Nhi tạm trú. Mẹ ẵm Chúa ngồi xuống đất; Chúa Hài Nhi ngủ được một chút, còn Mẹ thức trắng đêm. Thánh Giuse nằm ngay dưới đất, gối đầu trên gói hành lý nhỏ. Các thiên thần mặc hình người đứng vòng quanh hai Mẹ Con rất thánh trong đêm ấy.
Thiên Chúa cũng để cho khí hậu gay gắt xảy ra cộng thêm với nỗi mệt nhọc dặm trường. Một hôm, trong lúc Thánh Gia còn đang rong ruổi hành trình, một trận bão tố rất mạnh nổi lên. Gió và mưa ào ạt quật lên ba Đấng Thánh hành nhân đến điếc tai mờ mắt. Mặc dầu Mẹ và Thánh Giuse đã đề phòng che đỡ hết cách, Chúa Hài Nhi vẫn bị bão gió hành hạ, đến nỗi Ngài run cầm cập và khóc thét lên y như một trẻ thơ thường khi gặp tai nạn ấy. Trước cảnh tượng não lòng đó, Mẹ Maria phải dùng đến quyền năng Chúa ban. Mẹ ra lệnh cho bão gió không được gây ảnh hưởng nào đến Thơ Nhi Sáng Tạo, mà cứ quật xuống thân mình. Để thưởng công Mẹ vì tình cảm thương ấy, Chúa Hài Nhi Giêsu lại truyền cho các thiên thần phải che cho Mẹ. Ngay bấy giờ, các thiên thần làm nên một vòm cầu sáng láng che cho Thánh gia, bão gió không chạm tới được. Thánh Gia ở trong vòng cầu đó an toàn và hạnh phúc hơn ở trong một cung điện lộng lẫy nhất. Ơn trợ giúp diệu kỳ này còn tái diễn trong nhiều cơ hội khác nữa.

Rồi lương thực cũng cạn hết mà không biết sắm liệu ở đâu. Lúc đó, Mẹ Maria lấy hết lòng cậy trông khiêm nhượng trao phó mặc Chúa Quan Phòng. Các thiên thần liền đem ra nào nước uống, nào bánh thơm, nào quả ngọt. Trong khi phục vụ Mẹ và Thánh Giuse, các vị xướng lên những bài ca tụng Chúa đã xử tình nghĩa sâu đậm với Đôi Bạn Thánh nhường ấy. Để Đôi Bạn Thánh quên mệt nhọc bởi đường xa và cảnh sa mạc buồn chán, các thiên thần lùa từ núi xa đến những đàn chim vừa có bộ lông sặc sỡ đủ mầu, vừa có giọng hót du dương êm ái. Chim đỗ trên vai rồi trên tay Thánh Nữ Đồng Trinh. Chúng vâng lời Mẹ khi Mẹ dậy chúng cảm tạ Thiên Chúa vì đã cho chúng có mặt trong vũ trụ và còn ban của ăn nuôi chúng, mặc dầu chúng không phải làm lụng gì. Chính Mẹ cũng ca lên nhiều ca khúc rất êm ngọt để giải khuây cho Con chí thánh Mẹ, nhìn nhận Ngài là Đấng làm nên tất cả những vẻ đẹp đẽ tráng lệ đó. Các thiên thần còn lần lượt thay nhau hợp giọng với Nữ Vương họ và với loài chim, hoặc cùng nhau tấu vang những khúc nhạc nhịp nhàng, hoà điệu trầm bổng véo von, vừa du dương tâm thần vừa mơn man giác cảm.

Thánh Giuse được tham hưởng tất cả những nguồn an ủi đó. Thỉnh thoảng, Mẹ Maria còn ý tứ trao Chúa Hài Nhi cho Thánh Cả bồng ẵm, để tăng thêm an ủi cho Ngài. Ngài ghì Chúa Hài Nhi sát vào trái tim, hôn kính chân Chúa và xin Chúa ban phép lành.

Sau nhiều ngày rong ruổi dặm đường trường, Thánh Gia tới đến biên giới Ai Cập. Nơi đây đã có người ở. Nhưng thay vì đưa Thánh Gia thẳng tới Hêliôpôli, các thiên thần lại vâng lệnh Thiên Chúa dẫn vòng quanh nhiều khúc, để Thánh Gia đem đến cho nhiều nơi quan trọng những ân huệ lạ lùng. Vì lý do đó, Thánh Gia phải đi mất hơn năm mươi ngày qua hai trăm dặm đường.

Khi Thánh Gia vào tới một thị trấn nhỏ nọ, Chúa Hài Nhi từ trên tay Mẹ, ngước mắt lên trời, chắp tay lại, cầu xin Cha hằng hữu ban ơn cứu độ cho nhân dân cư ngụ tại đó, những người từng làm nô lệ ma quỷ, thờ những ngẫu tượng dị đoan. Những ngẫu tượng ấy vẫn có quỷ nhập, nói ra điều này điều nọ cho người ta sợ mà tin. Chúa Hài Nhi đã đuổi xua những ma quỷ ấy xuống vực sâu tối tăm hoả ngục, phá đổ các ngẫu tượng, các bàn thờ và cả đền thờ chúng. Mẹ Maria, Đấng Đồng Công tổng quát trong ơn Cứu Chuộc nhân loại, cũng hợp lời cầu nguyện với Chúa để thi hành việc phá đổ ấy; còn Thánh Giuse tán tụng Đấng Tối Cao có quyền phá huỷ việc sùng phụng ma quỷ. Trước hiện tượng đó, người Ai Cập hết sức kinh ngạc. Có rất nhiều người hoảng hốt, chạy ngược chạy xuôi để tìm ra cớ sự. Biết có mấy người ngoại quốc là Thánh Gia vừa đến, họ chạy lại kể lại sự tình. Mẹ Maria là Mẹ Đấng Khôn Ngoan liền lợi dụng cơ hội đó giảng giải cho họ biết về một Thiên Chúa chân thật mọi người phải tôn thờ, và sự giả dối của những ngẫu tượng dị đoan họ thờ kính. Lời Mẹ nói rất hùng hồn, phong thái của Mẹ rất nhã nhặn, và ân sủng Con của Mẹ ban rất hiệu nghiệm, nên có nhiều người bỏ dị đoan mà quay về tôn thờ Thiên Chúa. Ma quỷ không những bị xua đuổi ra khỏi ngẫu tượng, còn ra khỏi cả những người nó nhập ám nữa. Một số rất đông bệnh nhân được chữa lành.

Khi tới thành phố Hêliôpôli (thành phố Mặt Trời), trên biên giới vùng Thêbaiđa, Thánh Gia cũng đánh dấu bằng một quyền năng từ thiện của mình. Ngay lối vào thành, có một cây cổ thụ rất vĩ đại, rườm rà cành lá; người ta rất quý trọng cây đó vì vừa lâu đời vừa đẹp. Ma quỷ lợi dụng, nên đã phái một tên quỷ ở đó để tác quái tác oai. Chúa Hài Nhi vừa xuất hiện, không những tên quỷ đó phải xô xuống hoả ngục bất thình lình như một quả bóng bị đá mạnh và nhanh như chớp, mà cây cổ thụ đó còn cúi rạp xuống tận đất để chào kính Thánh Gia. Từ đó, lá và hoa quả cây ấy chữa được nhiều người bệnh tật. Nhiều cây khác cũng tỏ lòng tôn kính Đấng Sáng Tạo nó như vậy. Những sự lạ tương tự như vậy còn xảy ra ở nhiều nơi khác, như nhiều tác giả đã nói đến. Chẳng hạn như ở gần Cairô có một cái giếng, Mẹ Đồng Trinh vẫn ra đó kín nước. Nên từ đó, dân chúng trong thành ăn nước giếng đó đã được hưởng rất nhiều ân huệ phần xác.

Khắp nơi trên đất Ai Cập, ma quỷ đều bị khủng bố. Luxiphe hoảng lên vì những tên quỷ bị đuổi về hoả ngục lên tới một số quá đông. Căm hờn nung nấu, y lò mò từ hoả ngục lên rảo quanh khắp Ai Cập để tìm cho ra duyên cớ mối nhục nhã đó. Y chẳng thấy một ai đáng mặt cho y nể, ngoài Đức Maria khủng khiếp từng đánh cho y thất bại nhiều phen. Y trở về kêu gọi chúng quỷ lên giáp chiến một trận với “tên nữ tặc” đó, như chúng vẫn gọi Mẹ. Nhiều quân đoàn quỷ ào ào kéo lên tấn công Mẹ, nhưng chúng hãi hùng khiếp đảm vì không sao đến gần Mẹ được. Một sức mạnh vô địch đã kìm chân chúng cách xa Mẹ ngoài ba cây số. Tuy nhiên, Luxiphe và chúng quỷ cứ ngoan cố quyết đánh, nên một lần nữa chúng lại bị xô nhanh xuống hoả ngục.

LỜI MẸ HUẤN DỤ

Hỡi con, muốn bổ túc cho sự con bất lực không làm gì trả lại cho Thiên Chúa xứng với ân huệ Ngài ban, con hãy dâng lên Ngài Bánh Thánh sống động là Người Con Nhập Thể của Ngài, nhất là khi Ngài ngự trong lòng con dưới hình Thánh Thể. Dâng Bánh Thánh ấy rồi, con lại dâng cho Ngài cuộc sống đau khổ của con nữa, rất vui lòng Ngài. Chính những của lễ ấy làm cho con có thể cộng tác vào việc mở rộng nước Ngài, chinh phục cho Ngài nhiều linh hồn, mà không chán nản khi thất bại. Chính Con Mẹ đã cầu nguyện cho kẻ tìm bắt Ngài khi còn nhỏ bé. Vua dữ Hêrôđê đã bị trầm luân, nhưng hình phạt của ông ta đã được giảm bớt vì lời cầu nguyện ấy.

Biến cố trên đời xảy ra thế nào đi nữa, con cũng phải luôn luôn tin cậy vào Thiên Chúa. Nếu người ta chỉ cần ao ước những gì thật cần thiết thôi. Thật là điên dại khi tin tưởng vào những thụ tạo hèn yếu, chứ không vào Đấng Quan Phòng đã nuôi cả loài chim bé nhỏ. Vì thâm tín như vậy, nên Mẹ không ngại một chút nào trong cuộc hành trình dài sang Ai Cập. Thật là một an ủi lớn lao khi nghĩ rằng ta được phụng sự Đấng duy nhất có quyền tuyệt đối cai trị hết mọi thụ tạo. Cho nên, hỡi con, con hãy yêu thích luôn luôn nói lại lời này: Ai như Thiên Chúa ngự trên nơi cao thẳm mà vẫn nhìn xuống chỗ thấp nhất dưới đất được? Ai như Đấng toàn năng không lệ thuộc một ai, Đấng luôn luôn toàn thắng kẻ thù và giam cầm ma quỷ trong hoả ngục?

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *