Thần Đô Huyền Nhiệm – Tiếp Kiến Ba Đạo Sĩ

Mục Lục

Phần Thứ Hai: CUỘC ĐỜI CÔNG KHAI

 

20. TIẾP KIẾN BA ĐẠO SĨ

Sau khi Chúa Hài Nhi chịu cắt bì, Thánh Giuse đề nghị với Mẹ Maria bỏ hang đá, vì những bất tiện của nó gây cho Chúa và cho chính Mẹ rất nhiều đau khổ. Mẹ đã biết sẽ có ba nhà Đạo sĩ Vương tước đến thờ lạy Chúa tại hang đá. Từng đọc Thánh Kinh và được mạc khải riêng, Mẹ biết rằng những Đạo sĩ đó sắp đến rồi. Nhưng tính vốn cẩn trọng và luôn luôn tuân phục, Mẹ trả lời Thánh Giuse: “Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì Thầy ra lệnh, và sẽ theo Thầy đi bất cứ nơi nào Thầy muốn. Xin Thầy cứ quyết định như Thầy đã xét là đúng”. Câu trả lời lưng chừng vừa khôn ngoan vừa thánh đức đó đã làm cho Thánh Giuse rất bối rối. Ngài đã thuộc tính Bạn mình rồi: hễ Mẹ đã nói điều gì trung lập là bao giờ cũng hàm chứa một mầu nhiệm. Nhưng Đức Micae và Gabrie lúc đó đang phục dịch Chúa Hài Nhi và Mẹ Ngài, đã đưa ra ý kiến là: “Thiên Chúa muốn cho ba vị Vương tước phương Đông đến thờ lạy Vua trời đất, Đấng Ngôi Lời Nhập Thể, ở ngay hang đá này. Họ lên đường đã mười ngày rồi. Họ sắp sửa tới nơi, theo các lời tiên tri đã báo trước về họ”.

Như vậy không còn gì nghi ngờ nữa: phải ở lại hang đá là việc chắc chắn rồi. Để đón tiếp các Vương tước Đạo sĩ, Mẹ Maria chuẩn bị chu đáo hợp với một hang đá nghèo nàn nhất là Mẹ cẩn phòng tránh cho Chúa Giêsu khỏi tiết đông giá lạnh. Những lúc không tuyệt đối phải lìa Con, Mẹ luôn luôn ẵm bế Chúa, và ra lệnh cho khí đông lạnh không được làm khổ Chúa, nhưng phần Mẹ vẫn chịu giá rét. Vâng lệnh Mẹ, gió, mưa và tuyết ngừng lại cách xa chừng mười thước. Khí hậu chung quanh Chúa Hài Nhi ấm áp dễ chịu, còn Mẹ Maria dầu ẵm Chúa trên lòng, nhưng vẫn chịu mọi giá lạnh thời tiết. Thánh Giuse cũng được hưởng sự ấm áp lạ đó, nhưng không biết duyên cớ tại đâu.

Thêm vào sự ân cần ấy, Mẹ còn tỏ ra một tình yêu tha thiết nhất, cung kính nhất đối với Chúa Hài Nhi. Thường thường, khi ẵm Chúa trên tay, Mẹ hay quỳ gối để thờ lạy Chúa và nếu cần phải ngồi, Mẹ xin phép Chúa trước. Mẹ hôn kính chân Chúa rất nhiều lần, nhưng khi muốn hôn mặt Mẹ thường dò ý xem Chúa có vui lòng không. Chúa Con rất hiền từ cũng đáp ứng lại những nâng niu của tình Mẹ, không những Chúa nhận với một dung thái đáng yêu, mặc dầu uy nghi, mà còn bằng những cử chỉ thông thường của trẻ thơ nữa. Ngài rất thường dựa vào ngực Mẹ, trên vai Mẹ và giơ vòng tay nhỏ xíu ôm vòng lấy cổ Mẹ. Ngài cũng hay nói với Mẹ một giọng rõ ràng và dịu dàng, nhưng Thánh Giuse không được nghe thấy. Chúa càng trìu mến Mẹ, Mẹ càng khiêm nhượng hạ mình. Mẹ nói với Chúa: “Ôi Tình Yêu, ôi Sự Sống của linh hồn Mẹ, Con là ai, mà Mẹ là Nữ tì của Con đây có thể làm được gì để tỏ lòng biết ơn Con không? Lúc nào Con cũng đại lượng và thương xót các thụ tạo của Con vô cùng: thụ tạo chúng con nhìn nhận thật chúng con thua kém Con vô biên, chỉ còn cách là chìm sâu vào cát bụi, là tùng phục uy quyền của Con và tôn vinh danh thánh Con thôi”. Thánh Giuse cũng được Chúa thơ nhỏ tỏ lòng trìu mến, những lúc đó, Thánh Cả cảm thấy được nhiều hiệu quả siêu nhiên của lòng trìu mến ấy. Nhưng Ngài không năng được Chúa Hài Nhi tỏ lòng thương yêu rất nhiều như Mẹ Maria.

Thánh Gia đợi chờ các Đạo sĩ đến trong những mối tương giao tha thiết êm ngọt thần linh ấy. Gọi ba vị Vương tước đó là Đạo sĩ, vì họ có khá nhiều kiến thức, mà kiến thức cao quý nhất là hiểu biết Thánh Kinh của dân riêng Chúa. Họ nguyên quán ở Ba tư, Arập và Saba. Mỗi vị làm vua cai trị một xứ nho nhỏ. Lãnh thổ của họ giáp ranh giới nhau, nên họ thường qua lại thăm viếng nhau, trao đổi đức tính cũng như kiến thức. Họ có một ý niệm xác thực về Đấng Cứu Thế. Khi Ngài sinh hạ tại Belem, thiên thần hộ thủ của họ được một thiên thần ở hang Belem đến báo tin mừng ấy. Thiên thần hộ thủ của họ báo lại tin này cho họ trong một giấc mộng. Họ đã nhận thức một cách rõ ràng Chúa Cứu Thế đã giáng sinh rồi, và thấy mình có trách vụ phải đi thờ lạy Ngài, theo sự hướng dẫn của một ngôi sao mà Balaam đã tiên báo trước kia. Khi thức dậy, họ phủ phục, dâng niềm kính tôn lên Ngôi Lời Nhập Thể. Ngay hôm đó, họ chuẩn bị hành lý và được một ơn soi động, họ mang theo vàng, nhũ hương và mộc dược làm tiến lễ.

Cũng trong thời gian đó, vị thiên thần ở Belem đã dồn không khí lại làm nên một vì sao rất sáng, tuy không lớn bằng những ngôi sao trên trời. Sao đó ở độ cao vừa tầm để thi hành mục đích của nó. Ánh sáng cũng khác ánh sáng những vì sao khác. Nó làm đuốc soi ban đêm, nhưng ban ngày người ta cũng nhìn thấy nó. Các Đạo sĩ vừa ra khỏi nhà đã nhìn thấy sao lạ ấy. Họ cứ theo sao mà đi và gặp nhau dưới ánh sáng của sao. Sau khi tỏ cho nhau biết ơn soi sáng và ý định của nhau, họ vừa tán tụng Thiên Chúa vừa cùng với nhau chung một đường đi tìm Chúa Hài Nhi Cứu Thế.

Sao biến mất ở Giêrusalem, nên ba Đạo sĩ mới ngờ là Đấng Cứu Thế giáng sinh trong thành này. Họ vào thành, và họ lớn tiếng hỏi xem Ngài sinh hạ ở nơi nào: “Ở phương Đông, chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài hiện ra, nên chúng tôi tìm đến để bái lạy Ngài”. Dân chúng ở Giêrusalem nhốn nháo lên vì lời các Đạo sĩ. Họ đến báo tin cho Hêrôđê. Ông vua này là một ông vua hữu danh vô thực, rất quỷ quyệt gian ác. Nghe nói một vị vua mới sinh, sợ bị mất quyền, nên ông quyết định giết ngay đi để đề phòng hậu hoạn. Ông cho gọi các thượng tế và luật sĩ vào đền, để hỏi cho biết Thánh Kinh nói thế nào về vị Ấu Chúa mới sinh đó. Họ cho nhà vua biết, theo tiên tri Mikêa vị vua ấy sinh tại Belem, trên phần đất Giuđa. Hêrôđê bí mật cho mời các Đạo sĩ đến, và với một giọng giả bộ tốt lành, ông ta nói với họ: “Quí vị cứ đi Belem tìm hiểu kỹ về Ấu Chúa. Khi trở về, hãy ghé qua đây báo tin cho ta, để ta cũng đi bái yết Ngài”.

Thâm ý của ông là nắm chắc để diệt đúng. Nhưng ba Đạo sĩ kia làm sao biết được ác ý ấy! Ra khỏi Giêrusalem, ba Đạo sĩ lại nhìn thấy sao lạ với một niềm hân hoan tận cùng. Ánh sao dẫn họ đến hang đá Belem, rồi hạ thấp dần xuống, thu nhỏ hình lại, băng vào trong hang đá, đỗ trên đầu Chúa Hài Nhi và toả ánh rực rỡ che phủ Ngài, rồi tan dần thành không khí như cũ. Chúa Hài Nhi đã nói cho Mẹ biết là ba Đạo sĩ sắp vào hang. Mẹ liền báo cho Thánh Giuse và mời Ngài đứng ở bênh cạnh giả cách coi thường, vì ba đạo sĩ theo Thánh Kinh biết Đấng Cứu Thế phải sinh ra do một Nữ Trinh. Lúc ấy, Mẹ tỏ ra một đức đoan chính, một vẻ mĩ lệ khôn sánh, và một vẻ uy nghi siêu nhiên: gương mặt Mẹ toả hào quang nghiêm chỉnh. Ánh huy hoàng của Chúa Hài Nhi Mẹ ẵm trên tay còn rực rỡ hơn nữa. Từ toàn thân khả tôn của Chúa giãi ra một vùng sáng dịu dàng tráng lệ, biến hang đá nên một thiên đàng dưới thế.

Khi các Đạo sĩ vừa vào hang, các ông đã phải ngỡ ngàng thán phục khi nhìn thấy Chúa Hài Nhi và Đức Mẹ. Họ sấp mình trước mặt Hài Nhi Thiên Chúa mà thờ lạy Ngài là Đấng Cứu Thế. Họ lại được ơn trên soi sáng và nhìn thấy cả các thiên thần đứng thành hàng ngũ với hết niềm tôn kính sâu xa quanh Đức Vua muôn vua. Sau khi đã tôn thờ Chúa Hài Nhi, họ chúc tụng Mẹ. tỏ niềm kính tôn Mẹ, bái quỳ trước mặt Mẹ và xin được hôn kính tay Mẹ theo tục lệ của quê hương họ đối với những vị nữ hoàng. Nhưng Mẹ vừa đưa tay Chúa Giêsu cho họ vừa nói: “Linh hồn tôi ca tụng Thiên Chúa, và mừng vui trong Ngài, vì trong tất cả các dân nước, Ngài chọn quý vị đến viếng thăm Ngôi Lời Nhập Thể. Chúng ta hãy cùng nhau ca tụng Ngài và cúi hôn đất nơi mà Ngài đã hiện diện để thánh hoá”. Sau khi đã phủ phục một lần nữa để nhiệt liệt tôn thờ, các Đạo sĩ chúc mừng Thánh Giuse vì đã được làm Bạn Đường của Đức Nữ Trinh Mẹ Thiên Chúa. Cuộc triều bái của họ kéo dài ba giờ rồi, nên họ xin phép Đức Nữ Vương để đi tìm một nơi tạm trú trong thành.

Đêm hôm đó, các Đạo sĩ thức rất lâu để đàm đạo với nhau về Chúa Giêsu, tình yêu mến Ngài đã thiêu đốt họ; họ cũng trao đổi với nhau về Mẹ Maria: họ cảm phục đức đoan chính hoàn thiện của Mẹ hết lời; họ lại không quên Thánh Giuse mà họ biết là người thánh thiện. Những niềm vui ấy không làm họ quên sự nghèo túng họ đã nhận thấy nơi Thánh Gia. Họ sai người mang nhiều lễ vật đến tặng dâng Đức Mẹ. Mẹ tri ân họ và giữ lại để phân chia cho những người nghèo mà đức ái và lời nói duyên sắc của Mẹ thường lôi cuốn đến. Sau đó, trong giấc ngủ, các Đạo sĩ được thiên thần đến báo phải đi đường khác mà trở về, đừng quay lại với Hêrôđê nữa. Bình minh hôm sau, họ lại ra hang đá, và qua trung gian Mẹ Maria, họ tiến dâng Chúa Hài Nhi những lễ vật quý giá xứng với vương quyền Chúa Cứu Thế là: vàng, nhũ hương và mộc dược. Chúa Hài Nhi nở một nụ cười chứng tỏ Ngài vui lòng nhận lễ. Họ lại hỏi han và xin Mẹ Maria giải thích cho họ về những mầu nhiệm đức tin, những bổn phận lương tâm cũng như cách trị nước, và dâng cho Mẹ nhiều nữ trang cao giá. Mẹ đã khiêm nhượng và hoà nhã từ chối; nhưng Mẹ rất vui lòng giảng giải cho họ về những vấn đề họ hỏi. Các Đạo sĩ còn xin Mẹ cho một vật gì làm kỷ niêm. Để an ủi, Mẹ tặng cho họ một vài khăn lót Chúa Giêsu. Trong niềm tri ân hứng thú, họ dâng lên Mẹ một đề nghị, nếu Mẹ muốn ở lại Belem, họ xin cúng kinh phí để xây một ngôi nhà và kính biếu tất cả nhu cầu thường nhật. Tất nhiên là Mẹ cảm ơn họ chân thành, nhưng từ chối không nhận đề nghị của họ. Cuối cùng, sau khi xin phép lành của Chúa Giêsu, của Mẹ và của Thánh Cả Giuse, họ giã biệt với biết bao niềm luyến tiếc ái mộ, đến nỗi tâm hồn họ như tan vỡ thành những tiếng xụt xùi và nước mắt. Khi ra khỏi Belem, một ngôi sao khác lại dẫn họ theo đường khác cho tới chỗ họ đã gặp nhau lúc ra đi. Trở về xứ sở mình, họ thành những tông đồ rao giảng Chúa Cứu Thế. Trợ lực mạnh mẽ của họ là mấy tấm khăn lót kỷ niệm tăng thêm nhiệt tâm của họ. Họ đã cho làm một hộp gỗ quý, cẩn nhiều đá ngọc vàng bạc, để giữ gìn kỷ niệm ấy. Từ nơi hộp đó thoát ra một mùi hương rất đậm, đứng xa một dặm đường cũng còn thưởng thức được; nhưng chỉ những ai có đức tin mới được hưởng thôi. Các Đạo sĩ đã dùng những tấm khăn lót đó để làm nhiều phép lạ. Cả ba vị đều lìa trần sau một cuộc sống vừa nhiều tuổi vừa nhiều công nghiệp.

Mẹ Maria và Thánh Giuse sốt sắng đàm đạo với nhau về những mầu nhiệm ấy và ca lên chúc tụng Thiên Chúa nhiều bài ca mới, có các thiên thần cùng chung tiếng. Sau đó, Đôi Bạn Thánh chia những lễ vật ba Đạo sĩ dâng tặng ra ba phần. Nhũ hương, mộc dược và một phần vàng dòng để hiến dâng vào Đền Thờ Giêrusalem; một phần vàng khác dâng tặng vị tư tế đã cắt bì cho Chúa Hài Nhi để phục vụ ông và hội đường; còn phần vàng thứ ba chia cho người nghèo.

Sau khi các đạo sĩ thờ lạy Chúa Hài Nhi, Thánh Gia không còn lý do nào để ở lại hang đá nữa. Cho nên ngay hôm sau ngày họ ra đi, Thiên Chúa đã soi sáng cho một phụ nữ đạo hạnh trong vùng dâng cho Mẹ Maria căn nhà của bà, một căn nhà cũng nghèo như chính bà. Căn nhà này ở bên tường thành phía ngoài, không xa hang đá mấy. Mẹ Maria nói việc ấy với Thánh Giuse. Về phía dân chúng, vì nghe biết có ba vị Vương tước với đoàn tuỳ tùng đông đảo đến thờ kính Chúa Hài Nhi ở hang đá, nên họ cũng lũ lượt đến xem. Hang đá trở nên bất tiện. Đôi Bạn Thánh, vì thế, đã chấp nhận đề nghị của phụ nữ ấy, vào tạm trú ít lâu trong nhà bà, để chờ đợi ngày lên Giêrusalem dâng Chúa vào Đền Thờ. Đức Nữ Trinh và Thánh Cả bỏ hang đá mà lòng không khỏi luyến tiếc ngậm ngùi. Hai Đấng vừa ra khỏi, các thiên thần mặc hình người hiện diện ra tháp tùng ngay. Đoàn thiên thần này, mỗi khi Thánh Gia trở lại thăm hang đá, cũng đều đi theo như vậy. Nơi hang đá được chúc phúc ấy, Thiên Chúa đặt một thiên thần cầm gươm lửa canh giữ, không cho một con vật nào được vào đó bao giờ nữa.

Tại nơi tạm trú mới, thỉnh thoảng có một số người hầu hết là nghèo đến thăm viếng Mẹ. Họ được Mẹ tiếp đón ân cần và nhất là huấn luyện cho họ có đức tin vào Đấng Cứu Thế, và luyện tập nhân đức. Đôi ba lần, họ nêu ra những thắc mắc rất kỳ cục, rất ấu trĩ về mấy vấn đề tôn giáo, làm cho Thánh Giuse là người ngay thật cũng phải mỉm cười; nhưng Mẹ lại rất nhẫn nại, hiền hoà, khiêm nhượng và nghiêm trang trả lời cho họ thoả ý, khiến vị Thánh Cả của chúng ta hết tâm cảm phục.

LỜI MẸ HUẤN DỤ

Hỡi con, qua những vực thẳm ở ven bờ đời sống con người con đừng tham vọng, đừng tìm kiếm một sự vật hữu hình nào, mặc dầu xem ra nó cần thiết và hợp pháp. Cả những sự vật rất cần thiết thật, con cũng hãy chỉ sử dụng vì đức tuân phục thôi.

Con cũng chớ quên lãng việc bắt chước lòng nhiệt thành mau mắn và sự khiêm nhượng sâu xa của các vị Vương tước Đạo sĩ. Họ đã xứng đáng với ân huệ Chúa ban cho họ, vừa vì họ mau mắn ứng đáp ân sủng đầu tiên, vừa vì họ thực hành hết mọi nhân đức, trong khi Hêrôđê trái lại, đã rơi xuống hết tật hư này đến nết xấu khác với manh tâm giết Đấng Cứu Chuộc thế gian ngay khi Ngài còn thơ ấu.
Tặng vật ba Đạo sĩ dâng cho Con chí thánh Mẹ thật quý giá, nhưng tình yêu mến của họ còn quý giá hơn nữa. Nên lễ vật họ dâng rất đẹp lòng Ngài. Phần con, con cũng hãy dâng Ngài vàng đức ái, hương nguyện cầu và mộc dược nhẫn nại hãm mình, dâng cách mau mắn.

Mẹ quá rõ cái khốn nạn của sự giầu sang trần thế, nên không thể nào để mình vướng vào những kho tàng các Đạo sĩ mang tặng. Tuy nhiên, để thực hiện đức khiêm nhượng và đức tuân phục, Mẹ không muốn giữ riêng cho mình, cũng không chia cho người khác. Mẹ để mặc ý Bạn Thánh của Mẹ định liệu, vì Mẹ vẫn nhận mình là nữ tì của Người. Lưu luyến của cải trần gian, lưu luyến phú quý danh vọng thật là một việc đáng trách và rất nguy hiểm, vì nguyên do sự lưu luyến ấy chỉ là một tham vọng bỉ ổi, một ham mê phóng túng hay một hợm hĩnh khoe khoang.

Sau cùng, khi được một ai quảng đại bố thí cho, người ta đừng chỉ ngưng lòng lại nơi bàn tay bố thí đó. Phải nâng lòng lên cao tới Thiên Chúa, Đấng đã hướng dẫn bàn tay ấy, mới là phải đạo. Nhất là phải cảm tạ Thiên Chúa trước hết, sau mới cảm ơn người làm ơn cho mình.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *