Ng�y 8 th�ng 11
Th�nh Phaol� NGUYỄN NG�N
Linh mục - (1790 – 1840)

Điều bận t�m nhất trong đời linh mục của th�nh Phaol� Ng�n l� theo gương Đức Gi�su, vị mục tử nh�n hiền. Trong thời b�ch hại, cha thường than với mọi người rằng: "chủ chăn kh� đi t�m chi�n lạc, kh� biết tin từng con một qu�…". Cha thường tỏ ra tiếc v� ho�n cảnh kh�ng săn s�c kỹ lưỡng từngn t�n hữu của m�nh được. Phaol� Nguyễn Ng�n sinh năm 1790 tại họ Cự Khanh, tỉnh Thanh H�a. Cậu đi tu từ nhỏ, đến khi v�o chủng viện th� học c�ng lớp với cha Nghi. Sau khi thụ phong linh mục, cha về gi�p xứ Ph�c Nhạc, phu6 tr�ch lu�n họ Duy�n Mậu v� c�c họ lẻ chung quanh. Được �t l�u cha bị sốt r�t n�n phải nghỉ v� dạy học ở chủng viện Vĩnh Trị được bẩy năm. Khi khỏi bệnh, cha phụ tr�ch xứ Tr�nh Xuy�n ba năm nữa. Cuối c�ng về l�m ph� xứ Kẻ B�ng gi�p cha Nghi mới được khoảng một năm th� bị bắt.


Th�nh Giuse NGUYỄN Đ�NH NGHI
Linh mục - (1793 – 1840)

Đọc lại cuộc tử nạn của Ch�a Gi�su theo th�nh Gioan, ta thấy : khi thuộc hạ c�c thượng tế đến bắt Đức ch�a Gi�su trong vườn C�y Dầu, ng�i n�i với họ : "T�i đ� bảo với c�c anh l� ch�nh t�i đ�y. Vậy nếu c�c anh t�m bắt t�i th� h�y để cho những người n�y đi".

Thế l� ứng nghiệm lời Ng�i đ� n�i : "Những người cha đ� trao ph� cho con, con kh�ng để thất lạc một ai"(Ga. 18, 8-9). Đ� l� điều cha Giuse Nguyễn Đ�nh Nghi hằng suy niệm trong thời b�ch hại. L�c n�o trong người cha cũng mang sẵn một v�i n�n bạc, để nếu bị bắt ở nh� người kh�c th� c� tiền chuộc chủ nh�. Cha sẵn s�ng hy sinh tử đạo nhưng kh�ng muốn li�n lụy đến ai.

Giuse Nguyễn Đ�nh Nghi sinh năm 1793 tại xứ Kẻ Vồi, huyện Thượng Ph�c, nay thuộc H� Nội, trong một gia đ�nh trung lưu. Ngay từ nhỏ, cậu Nghi đ� d�ng m�nh cho Ch�a, sống với cha Li�m ở xứ Kẻ Vồi. Học xong trường th�y giảng, th�y lại trở về gi�p xứ nh�. C�c cha thấy th�y th�ng minh hiền hậu, n�n cho theo thần học, v� năm 30 tuổi, th�y Nghi thụ phong linh mục. Đức cha Havard Du bổ nhiệm cha l�m ph� xứ Sơn Mi�ng một năm, ph� xứ Kẻ Vạc bốn năm, rồi phụ gi�p cha Khoan ở xứ Ph�c Nhạc. Do khả năng quản trị, ng�i được về l�m cha sở xứ Đa Phạn khoảng mười năm. Cuối c�ng đang l�m cha xứ Kẻ B�ng th� bị bắt.

Cha Nghi c� nếp sống rất đạo hạnh, chuy�n chăm việc giảng dạy v� si�ng năng ngồi t�a giải tội. Cha c� biệt t�i gi�p tội nh�n thống hối, ho�n cải. Cha ăn chay nhiều ng�y c�ch nghi�m ngặt, cha th�y giảng lo cho sức khỏe, phải can gi�n cha nhiều lần. T�nh t�nh cha h�a nh� vui vẻ, nhanh nhẹn hoạt b�t, nhất l� th�ng thạo luật đạo đời, n�n trong giao tế, cha được mọi người k�nh trọng mến y�u. Lương d�n chung quanh thường đồn đ�i với nhau l�: Nếu �ng n�y kh�ng đi tu chắc l�m quan lớn lắm…

Trong những năm vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm mong ước tử đạo, nhưng ng�i n�i: "T�i mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để kh�ng hại đến anh chị em t�n hữu". Khi đi l�m mục vụ, cha cẩn thận mang theo �t tiền để chuộc chủ nh�, nếu kh�ng may bị bắt.


Th�nh Martin� TẠ ĐỨC THỊNH
Linh mục - (1760 – 1840)

Sau 80 năm phụng sự Ch�a, t�c đ� bạc, ch�n mỏi, sức hầu cạn, cộng với cơn bệnh đang dằn vặt trong m�nh, cha Martin� Thịnh vẫn cảm thấy phải d�ng hiến cho Ch�a phần c�n lại l� ch�nh mạng sống để l�m chứng cho Người. tuy c� thể tho�t th�n trong cuộc truy l�ng, cha đ� trả lời cho người l�nh hỏi: "�ng c� phải l� đạo trưởng kh�ng", bằng lời x�c nhận "Phải t�i đ�y". Lời x�c nhận đ� đưa cha đến chỗ chết, nhưng cũng đưa cha l�n đ�i vinh quang cho mu�n đời noi gương.

Martin� Tạ Đức Thịnh sinh năm 1760 tại l�ng Kẻ S�t, huyện Thanh Tr�, nay thuộc khu vực H� Nội, trong một gia đ�nh nề nếp. Năm 18 tuổi, gia đ�nh định cho anh kết duy�n với một thiếu nữ th�y mỵ, duy�n d�ng v� đạo hạnh, nhưng anh xin h�n lại để suy nghĩ, v� cuối c�ng quyết định xin đi tu d�ng m�nh cho Ch�a.

Th�y Thịnh thụ phong linh mục trong thời Cảnh Thịnh cấm đạo. Cha l�m b� thư cho Đức cha Giac�b� Longer Gia một thời gian, đ� th�p t�ng Đức cha đến yết kiến vua Gia Long về đăng quang tại Thăng Long năm 1803.

Theo sự bổ nhiệm của Đức Gi�m mục, cha phục vụ tại nhiều gi�o xứ: trước ti�n l� Cửa Bạng rồi Đồng Chuối, sau về xứ Nam Sang phục vụ hai mươi năm liền. cuối c�ng, l�m cha sở xứ Kẻ Tr�nh khi đ� cha đ� 80 tuổi. ng�i l� một người cha gi�, đạo đức, hiền l�nh, được tất cả c�c t�n hữu k�nh nể v� y�u mến.

Một h�m cha bị nhọt ở m�, rồi lở miệng, nửa h�m răng bị mưng mủ v� đau nhức kh�n tả. �ng Cỏn l�n thăm, thấy t�nh cảnh cha như vậy liền rước cha về nh� ch�u ở xứ Kẻ B�ng để chăm s�c chữa trị. Được độ t�m th�ng, cha bị bắt c�ng hai cha Nghi v� Ng�n.

Tai họa cho l�ng Kẻ B�ng.

Tổng đốc Trịnh Quang Khanh l� một c�ng t�c vi�n đắc lực nhất của vua Minh Mạng trong việc b�ch hại đạo C�ng Gi�o. Trong v�ng ba năm, �ng ph� hủy hơn 400 nh� thờ, tu viện v� chủng viện. �ng cho ph�ng th�ch một tội nh�n phạm tội h�nh sự đang bị giam ở Nam Định, để anh ta đến l�ng Kẻ B�ng do th�m, lập c�ng chuộc tội. Anh n�y tuy kh�ng trong đạo, nhưng quen biết nhiều, n�n ra v�o v� gặp gỡ c�c gi�o hữu dễ d�ng. Khi biết chắc trong l�ng c� ba linh mục, anh liền đi tố gi�c với quan.

Ng�y 30.5.1840, theo tin mật b�o, quan Tổng đốc liền đem 1000 qu�n đến v�y l�ng Kẻ B�ng. Rồi �ng cho ph�t loa k�u gọi d�n ra đ�nh điển danh. Tất cả đ�n �ng, thanh ni�n tr�n 15 tuổi đều bị tr�i lại v� tập trung ở một chỗ, qu�n l�nh canh g�c cẩn thận. Họ bắt cứ phải ngồi vậy phơi nắng, phơi sương suốt hai ng�y. Anh chị em phụ nữ lo cơm nước tiếp tế cho l�nh v� th�n nh�n. đồng thời quan sai l�nh đi lục so�t tất cải "hang c�ng ng� hẻm". Ng�y đầu ti�n kh�ng t�m thấy linh mục n�o, �ng nản l�ng định r�t qu�n, nhưng người tố gi�c cứ nhất quyết, lấy đầu ra m� thề, n�n �ng lại cho lục so�t tiếp.

Ng�y thứ ba, quan ra lệnh ph� c�c v�ch dầy trong l�ng th� quả thật bắt được cha Nghi đang ẩn giữa hai lớp v�ch nh� b� Duy�n. Quan cho gọi b� ra bước qua Th�nh Gi�, nhưng may mắn qu�n l�nh nghe lộn ra b� Do�n, b� n�y ngoại gi�o n�n sẵn s�ng bớc qua, nhờ đ� b� Duy�n tho�t mạng. Khoảng giữa trưa th� qu�n l�nh bắt được cha Ng�n đang ẩn ở nh� �ng Thọ v� cha bị bắt tr�i, điệu ra chỗ cha Nghi ngo�i đ�nh.

Về cha Thịnh th� giả điếc nằm ngay v�ng nh� �ng Chiền l� ch�u �ng Cỏn, qu�n l�nh đi ngang thấy cụ gi� nh� qu� bệnh tật, n�n chẳng nghi ngờ g�. Nếu c� hỏi th� co Thanh, một nữ tu họ Kẻ Tr�nh đi theo phục vụ cha khai l� : "Bố t�i đấy, �ng bị bệnh nặng n�n kh�ng ra điểm danh được". Đến khi nghe tin cha Nghi v� Ng�n bị bắt, cha Thịnh kh�ngh muốn im lặng nữa. Nh�n một cai đội họi cụ : "�ng c� phải l� đạo trưởng kh�ng ?" Cha liền đ�p: "Phải t�i đ�y". Thế l� cha Thịnh đồng số phận bị bắt với hai cha bạn c�ng ch� hướng. Lợi dụng cơ hội n�y, qu�n l�nh �a v�o l�ng cướp tiền của, th�c l�a, tr�u b�… Họ vừa đập ph�, vừa reo h� chiến thắng vang dậy cả l�ng. Sau đ� quan cho đ�ng g�ng v� �p giải ba linh mục, �ng Thọ, �ng Cỏn v� 20 t�n hữu Kẻ B�ng về nh� lao Nam Định.

Vững v�ng tuy�n t�n…

Suốt một th�ng đầu, ba cha, ng�y mang g�ng xiềng, tối bị c�m ch�n, nhưng chưa phải ra t�a. Đến đầu th�ng bẩy, quan gọi ra c�ng đường, bắt bước qua Thập Gi�, c�c cha đều can đảm từ chối. Cha Thịnh l�n tiếng: "T�i đ� bằng n�y tuổi đầu m� c�n sợ chết nữa sao ? T�i kh�ng thể l�m theo lời quan được". Quan lại hỏi về t�n v� chỗ ở của c�c thừa sai, nhưng c�c cha đều chối kh�ng biết. Quan liền truyền tr�i ba vị bắt quỳ giang nắng suốt ng�y kh�ng cho ăn uống nước.

Ba ng�y sau (06.7), Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lại cho gọi ba cha v� n�i : "Nếu c�c �ng kh�ng đạp l�n Thập Tự, c�c �ng sẽ phải chết". Cha Nghi trả lời: "Thưa quan, nếu quan thương ch�ng t�i nhờ; nếu kh�ng thương ch�ng t�i cũng xanh r� nấm mộ, c�n bước qua Thập Gi�, ch�ng t�i kh�ng d�m". Quan liền cho đ�nh mỗi người 50 roi. Thấy kh�ng hiệu quả, �ng cho đ�nh cha gi� Thịnh th�m 10 roi nữa, v� nghĩ tuổi gi� sức yếu, cha sẽ chịu khuất phục. Nhưng �ng kh�ng ngờ cha Thịnh mạnh mẽ can đảm chịu đ�n c�ch vui vẻ. Tức giận, quan lại bắt ba vị ra phơi nắng một ng�y nữa.

Hạnh ph�c thi�n thu.

Thấm tho�t ba cha ở trong ngục được năm th�ng. Với nhiều trận đ�n ch� tử, nhiều ng�y giang nắng ngo�i trời…, c�c vị vẫn kh�ng nản l�ng, cứ một mực tuy�n xưng niềm tin v�o Đấng chịu khổ nạn. C�c quan thấy c�c ng�i cương quyết giữ vững lập trường, liền l�m �n gửi về kinh đ�. Vua Minh Mạng ph� chuẩn v� ra lệnh thi h�nh. Được tin ấy, ba cha hớn hở vui mừng, giải tội cho nhau v� chuẩn bị t�m hồn sốt sắng l�nh nhận triều thi�n tử đạo.

Ng�y 08.11.1840, cha Thịnh, cha Ng�n, cha Nghi, �ng Thọ, �ng Cỏn bị đo�n l�nh 500 người điệu ra ph�p trường Bẩy Mẫu. Đến nơi, tất cả c�c ng�i quỳ xuống cầu nguyện một l�t, rồi ra hiệu đ� sẵn s�ng. Theo lệnh quan, l� h�nh ch�m rơi đầu năm chiến sĩ đức tin, kết thức cuộc đời dương thế v� khai mở cuộc sống vĩnh hằng tr�n Thi�n Quốc.

Thi thể hai cha Nghi v� Ng�n được đưa về Kẻ B�ng. C�n cha Thịnh được mai t�ng ở xứ Vũ Điện, sau đưa về qu� hương ng�i l� Kẻ S�t, H� Nội.

Đức L�o XIII suy t�n ba linh mục Giuse Nguyễn Đ�nh Nghi, Phaol� Nguyễn Ng�n v� Martin� Tạ Đức Thịnh l�n bậc Ch�n Phước ng�y 27.05.1900. Ng�y 19-06-1988, Đức Gioan Phaol� II suy t�n c�c ng�i l�n h�ng Hiển th�nh.