HOME

 

T�m theo mẫu tự

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

TH�NG MƯỜI HAI

 


Ng�y
03 Th�nh Phanxic� Xavie, Lm

04 Th�nh Gioan Damasc�n�, Ts

06 Th�nh Nic�la, Gm

07 Th�nh Ambrosi�, Gm

08 Đức Mẹ V� Nhiễm

11 Th�nh Đamas� I, Gh

12 Th�nh Gioanna Chantal

13 Th�nh Lucia, Tntđ


Ng�y
14 Th�nh Gioan Th�nh Gi�, Lm

21 Th�nh Ph�r� Canisi�, Lm, Ts

23 Th�nh Gioan Kenty, Lm

26 Th�nh St�phan�, Pt

27 Th�nh Gioan T�ng Đồ

28 Th�nh C�c th�nh Anh H�i Tđ

29 Th�nh T�ma Becket, Gm Tđ

31 Th�nh Sylvestr�, Gh

 


Ng�y 03-12

Th�nh PHANXIC� XAVI�
T�ng Đồ Ấn Độ v� Nhật Bản
(1506 - 1552)

Phanxic� ra đời tại l�u đ�i Xavi� thuộc vương quốc Navarre ng�y 7 th�ng 4 năm 1506. Cha Ng�i l� cố vấn của nh� vua miền Navarre v� l� thẩm ph�n. Anh em Ng�i theo binh nghiệp. Ri�ng Phanxic� ham th�ch học h�nh. Năm 19 tuổi, Ng�i theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi c�n ở học viện th�nh Barbe, Ng�i được ph�c trọ c�ng ph�ng với Ph�r� Faure, người sau n�y sẽ nhập d�ng T�n v� được phong ch�n phước. Bốn năm sau, Ng�i lại c� được người bạn học giả l� Inhatio th�nh Loyola.

Người học tr� mẫn c�n đ� trở th�nh gi�o sư. Ng�i dạy triết học. Th�nh c�ng l�m cho Ng�i th�nh con người tham vọng. Inhaxi� n�i với Ng�i về một hội d�ng m� th�nh nh�n muốn th�nh lập. Nhưng Phanxic� mơ tới danh vọng, Ng�i chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống ngh�o tự nguyện của bạn m�nh. Inhaxi� vui vẻ đ�n nhận những lời ch�m biếm, nhưng lặp lại rằng : - "Lời l�i cả thế gian m� mất linh hồn n�o �ch lợi g�"

Cuối c�ng, Phanxic� đ� bị ảnh hưởng. Inhaxi� c�n đưa ra những lời cao đẹp hơn: - "Một t�m hồn cao cả như anh, kh�ng hề chỉ g� b� với c�i vinh dự thế trần được. Vinh quang tr�n trời mới đ�ng với cao vọng của anh. Thật v� l�, khi ưa chuộng một thứ m�y kh�i ch�ng t�n hơn l� những của cải tồn tại đời đời".

Phanxic� bắt đầu thấy được c�i hư kh�ng của những sự cao trọng của thế nh�n v� hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ng�i chống lại t�nh ki�u căng bằng mọi loại s�m hối. Ng�i quyết định theo s�t Ph�c �m, v�ng theo c�ch cư xử của người bạn th�nh thiện v� xin được khi�m tốn h�m n�nh. Ng�i chỉ c�n ch� t�m cứu rỗi c�c linh hồn.

Ng�y lễ M�ng triệu năm 1533, trong một nh� nguuyện tại Monmartres, tr�n mộ bia th�nh D�nis, Phanxic�, Inhaxi� v� 5 bạn kh�c đ� hiến m�nh cho Ch�a. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, h�nh hương th�nh địa, l�m việc để cải h�a lương d�n v� ho�n to�n đặt m�nh dưới sự điều động của Đức Th�nh Cha để phục vụ Hội Th�nh. Phanxic� c�n học thần học hai năm nữa, rồi c�ng s�u bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn kinh th�nh v� s�ch nguyện trong bị, cổ đeo tr�ng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng kh�ng l�m họ sợ h�i. Tr�i lại, Phanxic� lại c�n cảm thấy qu� �m �i nhẹ nh�ng, n�n một ng�y kia đ� cột gi�y thừng v�o ch�n, khiến gi�y đ� ăn v�o thịt v� ngay việc được khỏi bệnh đ� cũng đ� l� một ph�p lạ.

Đo�n qu�n b� nhỏ đ� tới Venitia chống lại qu�n Thổ. Thế l� họ phải bỏ cu�c h�nh hương đi th�nh địa. Đức th�nh cha đ� ch�c l�nh cho nh�m bạn cũng như dự định của họ. Phanxic� v� Inhati� thụ phong linh mục ng�y 16 th�ng 6 năm 1537. Phanxic� đ� chuẩn bị th�nh lễ mở tay bằng cuộc s�m hối k�o d�i 40 ng�y trong một t�p lều tranh bỏ hoang v� sống bằng của ăn xin.

Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện c�ng việc vĩ đại của m�nh, Ng�i rao giảng v� săn s�c cho người ngh�o trong c�c nh� thương. Ng�i c�n phải chiến thắng ch�nh m�nh nữa, chẳng hạn khi băng b� c�c vết thương lở lo�t. Ng�i lu�n đi ăn xin thực phẩm.

Khi Phanxic� được 35 tuổi, vua nước Bồ B�o Nha xin Đức Th�nh cha gửi c�c thừa sai sang Ấn Độ. Phanxic� rất vui mừng khi được chỉ định.

Ng�i bộc lộ cho một người bạn : "Anh c� nhớ rằng, khi ở nh� thương tại Roma, một đ�m kia, anh đ� nghe t�i la : "C�n nữa, lạy Ch�a, c�n nữa" kh�ng ? T�i đ� thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Ch�a Gi�su Kit�. Trước mặt t�i l� những hoang đảo, những miền đất b�o cho t�i biết trước cơn đ�i, cơn kh�t v� cả đến c�i chết dưới h�ng ng�n h�nh thức. T�i ao ước được chịu khổ h�nh hơn nữa".

Chỉ c�n 24 giờ để chuẩn bị l�n đường. Nhưng thế đ� qu� đủ để xếp đặt h�nh trang. Với v�i bộ đồ cũ. Một th�nh gi�, một cuốn s�ch nguyện v� một cuốn s�ch thi�ng li�ng. Ng�i đ�p t�u. Cuộc h�nh tr�nh cực khổ v� say s�ng. Đau bệnh, Ng�i vẫn săn s�c c�c bệnh nh�n. những thủy thủ hư hỏng dường như l� đo�n chi�n đầu ti�n Ng�i phải đưa về cho Ch�a. Ng�i rao giảng cho họ bằng ch�nh việc chia sẻ cuộc sống với họ.

Sau bảy th�ng h�nh tr�nh, người ta dừng lại bến Mozambique. Kh� trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang ho�nh h�nh nơi đ�y. Phanxic� lại săn s�c c�c bệnh nh�n v� muốn sống đời cực khổ nhất. Ng�i lặp lại : "T�i khấn sống ngh�o kh�, t�i muốn sống v� chết giữa người ngh�o".

Sau một năm h�nh tr�nh, Phanxic� cặp bến Goa, thủ đ� miền Ấn Độ thuộc Bồ Đ�o Nha v�o th�ng 5 năm 1542. Ng�i ph�t kh�c v� vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất l� phải l�m cho những người chinh phục Bồ Đ�o Nha giữ đạo đ�. Những tật xấu v� t�nh hung hăng của họ l�m � danh Kit� gi�o. C�n d�n An th� thờ ngẫu tượng. Họ vặn đ� c� con để tế lễ. Vị t�ng đồ l�m thầy thuốc, thẩm ph�n, gi�o vi�n. Ng�i học tiếng một c�ch kh� khăn, thời gian của Ng�i d�nh cho c�c nh� thương, nh� t�, người ngh�o v� việc dạy gi�o l�. Rảo qua đường phố, Ng�i rung chu�ng tập họp trẻ em v� d�n n� lệ lại, với sự nhẫn nại v� bờ, Ng�i ghi khắc t�nh y�u Ch�a v�o l�ng họ. C�c trẻ em tham dự lại trở th�nh c�c nh� truyền gi�o cho cha mẹ v� th�y dạy của ch�ng. Ch�ng mang th�nh gi� của "�ng cha" cho c�c bệnh nh�n. Ch�ng trở n�n hung hăng với c�c ngẫu tượng. B�y giờ, c�c c�nh đồng l�a vang l�n được b�i th�nh ca. Dần dần, đời sống Kit� gi�o đ� vững v�ng trong l�ng c�c gia đ�nh.

Phanxic� nghe n�i tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề m� ngọc trai. Muốn loan b�o Tin Mừng cho họ, th�nh nh�n học ng�n ngữ mới, vượt mọi kh� khăn để phổ biến đức �i v� ch�n l�. Rồi Ng�i lại qua c�c l�ng kh�c. Cứ như thế Ng�i đi khắp Ấn Độ. Trong 15 th�ng trời, Ng�i đ� rửa tội cho một số đ�ng đảo người Kit� hữu, khiến "xu�i tay v� mệt mỏi". Người n�i : "Mọi ng�y t�i đều thấy t�i diễn những ph�p lạ thời Gi�o hội sơ khai".

Ng�i ngủ �t, đ�m thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho c�c tội nh�n. Ng�i chăm ch� đ�o tạo c�c t�m hồn thanh thiếu ni�n địa phương để sai đi l�m t�ng đồ truyền gi�o cho c�c người đồng hương của họ.

Ở tỉnh Travancore, trong v�ng một th�ng, th�nh nh�n đ� rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ s�t Ng�i, nhưng Ng�i đ� giữ được mạng sống một c�ch lạ l�ng dưới cơn mưa t�n. Ở vương quốc Travance, khi nh�m người man-di muốn tr�n ngập, Phanxic� cầm th�nh gi� trong tay với một số �t t�n hữu đ� l�m cho họ phải th�o lui. Ng�i mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. C�c đảo Molluques vang danh v� sự hung tợn của họ, nhất l� đảo của d�n More ở ph�a Bắc...

Ng�i nhắm tới đảo n�y, Ng�i muốn bị d�n cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trứơc đ�y sao ?

Người ta ngăn kh�ng cho t�u b� chở Ng�i đi. Phanxic� đ�p lại : - "Th� t�i bơi tới vậy".

- Nhưng Ng�i sẽ bị đầu độc th� sao ?

Ng�i n�i : - "Niềm tin tưởng ở Thi�n Ch�a l� thuốc kh�ng độc.

Rồi Ng�i th�m : "�i, nếu như hy vọng t�m được gỗ qu� hay v�ng bạc, c�c Kit� hữu đổ x� tới ngay. Nhưng lại chỉ c� c�c linh hồn cần được cứu rỗi. T�i sẽ chịu khổ gấp ng�n lần để cứu lấy một linh hồn th�i".

Phanxic� đ� viết thư xin vua Bồ Đ�o Nha v� th�nh Inhati� gởi c�c linh mục tới săn s�c cho c�c cộng đo�n Kit� hữu Ng�i để lại. Sự kh� khăn v� chậm chạp về thư t�n l�m cho đời Ng�i th�m nhiều phiền phức. Ng�i phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Roma. Dầu giữa c�c kh� khăn mệt nhọc, th�nh nh�n kh�ng để mất t�nh hiền hậu v� khi�m tốn.

Năm 1549, một người Nhật được Ng�i rửa tội ở Malacca đ� thu h�t Ng�i tới h�n đảo v� danh, chưa c� người Kit� hữu n�o. Lời cầu nguyện v� đời sống h�m m�nh củng cố l�ng can đảm của Ng�i. Kh�ng để m�nh bị ch�n nản do ng�n ngữ kh� học hay bởi nội chiến. Ng�i đ� c� thể tạo lập được một cộng đo�n Kit� hữu nhỏ như Ng�i mơ ước. C�c ph�p lạ củng cố lời giảng dạy của Ng�i, nhưng d�n ch�ng bị đ�nh động nhiều hơn bởi đức tin v� l�ng can đảm của người ngoại quốc n�y đ� từ xa đến để loan b�o cho họ ch�n l� duy nhất.

Được hai năm, nh� truyền gi�o lại ra đi, để lại tại miền đất xa n�y những cộng đồng Kit� hữu đứng kh� vững trong nhiều thế kỷ, d� kh�ng c� linh mục cai quản .

Phanxic� trở lại Ấn Độ. Ng�i đ� rảo qua gần 100.000 c�y số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa �m ảnh t�m hồn Ng�i. Ng�i đ�p t�u, nhưng kh�ng bao giờ tới được quốc gia rộng lớn n�y. V�o cuối th�ng 11 năm 1552, tr�n đảo Ho�ng Ch�u, Ng�i bị l�n cơn sốt r�t. Giữa cơn đau, Ng�i đ� lập lại : - Lạy Ch�a Gi�su, con vua David, xin thương x�t con, xin thương đến c�c tội con.

Ng�i dứt tiếng v� kh�ng nhận ra được c�c bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ng�i lại k�u cầu Ch�a Ba Ng�i, Ch�a Gi�su v� n�i xin Đức Mẹ : "Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thi�n Ch�a, xin h�y nhớ đến con".

Một người Trung Hoa thấy Ng�i hấp hối th� đặt v�o tay Ng�i một c�y nến. Phanxic� qua đời ng�y 03 th�ng 12 năm 1552. �t tuần sau, người ta t�m thấy x�c Ng�i vẫn nguy�n vẹn v� chở về Goa. D�n ch�ng tại đ�y nhiệt t�nh t�n k�nh Ng�i, v� đ� coi Ng�i như một vị th�nh.

Năm 1619, Đức Paul� V đ� suy t�n ng�i l�n bậc ch�n phước. Năm 1622, Đức Gr�g�ri� XV suy t�n l�n bậc hiển th�nh phong th�nh c�ng với th�nh Inhaxi� v� đặt l�m bổn mạng c�c xứ truyền gi�o.

 


Ng�y 04-12

Th�nh GIOAN DAMASC�N�
Tiến Sĩ Hội Th�nh (676 - 754)

GIOAN ch�o đời v�o l�c th�nh phố Damas sinh qu�n của Ng�i, đang dưới quyền của người Ả Rập. Cha Ng�i l� Sergi� được vị Calife (người kế vị của Mahomet) mến chuộng. Đến nỗi dầu l� người Kito hữu, �ng cũng được đặt l�m kẻ thừa h�nh. Ong quan t�m bảo vệ c�c t�n hữu bị �p bức, hy sinh tiền bạc để chuộc họ. Ng�y kia, giữa đ�m người bất hạnh bị điệu ra nơi c�ng cộng, �ng thấy c�c tử tội q�i xuống dưới ch�n một người trong nh�m họ xin cầu nguyện... �ng biết được rằng người được khẩn n�i đ� t�n l� Cosma, một tu sĩ Italia rất th�ng th�i. Sergi� liền chạy tới vị Calife, xin được lưu giữ Cosma l�m thầy dạy cho con m�nh l� Gioan.

Cosma trở th�nh bạn của Sergi�, đồng thời l� th�y dạy của Gioan v� của một đứa trẻ Gi�rusalem kh�c m� Sergi� nhận nu�i. Khi kết th�c chu kỳ dậy dỗ, Cosma xin r�t lui v�o một tu viện. Gioan đ� n�n lừng danh nhờ tr� kh�n ngoan v� sự hiểu biết của m�nh v� được gởi về triều đ�nh của vị vua Calife. Khi cha Ng�i qua đời, ho�ng tử người Ả Rập đặt Ng�i đứng đầu hội đồng cố vấn v� l�m thừa tướng v�ng Damas. Thế l� định mệnh đổi thay của một tu sĩ được cứu mạng, đ� khiến cho những hiểu biết của Hy lạp v� Roma được đưa v�o triều đ�nh của c�c vị Califes.

Đế quốc Đ�ng phương l�c ấy do L�o, người Isauria cai quản. �ng l� một con người b�ch hại c�c Kit� hữu. Gioan c� thế gi� nơi vị Calife kh�ng sợ h�i g� m� lại c�n viết thư th�c đẩy c�c Kit� hữu can đảm trong đức tin. Ho�ng đế biết điều đ�, liền giận dữ. Kh�ng l�m g� được, �ng đ� d�ng đến một mưu m� khả ố. �ng cho người giả mạo chữ của Gioan để viết một bức thư bội phản, trong đ�, người được vị Calife bảo vệ, t�nh trao nộp Damas cho vua Byzance. Rồi Leo, người Isauria, b�o cho vị Calife biết c� một kẻ thừa h�nh bội phản. V� c�u chuyện thật kỳ diệu đến nỗi c�c văn phẩm thời đ� c�n kể lại. Vị Calife đ�i Gioan đến. Dầu biện minh cho sự v� tội của m�nh, Gioan vẫn bị chặt tay phải.

Gioan mang c�nh tay bị chặt về nh� v� khấn n�i Đức Trinh Nữ ho�n lại c�nh tay m� từ nay Ng�i sẽ chỉ d�ng để viết c�c th�nh thi ca tụng Con Mẹ. Gioan đi ngủ v� mơ thấy Đức Trinh Nữ chữa l�nh cho m�nh. Thức dậy, c�nh tay đ� được nối liền v� chỉ c�n để lại một đường m�u đỏ. Trước ph�p lạ n�y, vị Calife kh�ng c�n nghi ngờ g� về sự v� tội của Gioan nữa v� đ� t�i lập Ng�i l�m nh� cầm quyền. Nhưng đối với Gioan Damasc�n�, thời danh gi� đ� qua rồi. Ng�i muốn hiến th�n cho Thi�n Ch�a.

Ng�i ph�n ph�t của cải cho người ngh�o v� đến tu viện th�nh Sabas, nơi th�y m�nh đang sống v� người em nu�i cũng đ� tới đ� trước. Nhưng kh�ng ai d�m huấn luyện quan thừa tướng b�i nhiệm theo đường Th�nh thiện cả. Cuối c�ng bề tr�n trao Ng�i cho một tu sĩ gi� kh� t�nh, th� gh�t với tất cả những g� l� �m �i đối với Gioan như thơ ph� v� �m nhạc.

Nếu kh�ng tự � v�ng phục như một bằng chứng của t�nh y�u, th� cuộc sống Ng�i sẽ cay đắng đến thế n�o. Ng�i đ� bị tước bỏ mọi niềm vui cao đẹp, cả đến việc giữ lời hứa l� viết c�c th�nh thi. �ng th�y c�n sai người đ� cai trị Damas đi b�n giỏ sọt với gi� cắt cổ, khiến c�c lời chế nhạo đổ xuống như mưa. Gioan vẫn �m thầm v�ng phục v� chịu đựng, sau khi đ� thử th�ch qu� l�u người tập sinh như thế, vị tu sĩ gi� để cho Người được tự do học hỏi v� t�m hứng. L�c ấy, tự đ�y l�ng Gioan đ� khơi dậy những kh�c th�nh thi đ�ng kh�m phục, c�ng với sự cộng t�c của người em nu�i, cho tới khi �ng ta được đặt l�m gi�m mục Palestina.

Gioan Damasc�n� chỉ rời tu viện để đi giảng tại c�c th�nh đường. L�c về gi�, Ng�i sửa chữa c�c bản văn, đ�i khi tự tr�ch l� b�t ph�p qu� khởi sắc, Ng�i nghi�n cứu học hỏi kh�ng ngừng v� đ� tr�nh b�y thần học một c�ch li�n tục đ�ng kể.

Một b� nhiệm bao quanh những năm cuối đời th�nh nh�n. C� người tin rằng: Ng�i đ� qua đời trong thinh lặng tại tu viện, người kh�c lại nghĩ rằng, Ng�i đ� rảo qua c�c tỉnh Đ�ng phương để n�ng đỡ c�c t�n hữu đang bị nh�m ph� ảnh tượng b�ch hại, rồi chết v� đạo. L� triết gia, thần học gia, nh� h�ng biện, thi sĩ, th�nh Gioan được danh hiệu l� tiến sĩ Hội Th�nh.


Ng�y 06-12

Th�nh NIC�LA
Gi�m Mục - (Thế kỷ IV)

Th�nh Nic�la, vị đại th�nh b�nh d�n, nhưng chỉ t�m được tiểu sử 200 năm sau khi Ng�i chết. Người ta c� thể n�i rằng: Ng�i đ�ch thực l� gi�m mục Myra, đ� hiện ra với vua Constantin� trong một giấc mơ. Sau đ� dường như c�c nh� ch�p sữ lại lẫn lộn với Nicola người Simon đ� bị t� dưới thời Diocletian�, đ� x�y một tu viện v� được ch�n cất tại vương cung th�nh đường th�nh Myra. Trừ sự kiện tr�n, nảy sinh ra nhiều huyền thoại v� hơn ngh�n năm sau, th�nh Nic�la nh�n hậu đ� th�nh danh tiếng khắp thế giới.

Huyền thoại kể lại rằng, ở Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng gi�u c� Anna v� Euph�mi� v� kh�ng con đ� cố gắng t�m an ủi trong c�ng việc từ thiện. Thi�n Ch�a ch�c l�nh cho l�ng b�c �i của họ. Cuối c�ng họ c� được một mụn con v� đăt t�n cho con l� Nic�la, c� nghĩa l� "sự chiến thắng của d�n". Đ�y cũng l� t�n cậu Ng�i, vị gi�m mục Myra.

�ng cậu đ� ti�n đo�n rằng: Nic�la sẽ l� "Mặt trời soi chiếu thế gian". Khi mới tắm rửa lần đầu, con trẻ đặc biệt n�y đ� chắp tay, đứng trong thau nước hai giờ liền, mắt hướng về trời. Thứ tư v� thứ s�u, Ng�i kh�ng chịu b� cho tới chiều để ăn chay. Chị v� nu�i sợ Ng�i chết, nhưng tr�i lại, Ng�i đ� trở n�n một con trẻ ki�u h�ng.

Nic�la c� nhiều đức t�nh tốt như một trẻ em gương mẫu. Cha mẹ mất sớm. Nic�la thừa hưởng một gia t�i kếch x�. Nhưng Ng�i lại coi tất cả t�i sản n�y như của Ch�a cho vay. Người ph�n ph�t cho những người bất hạnh v� thực hiện đức b�c �i như một sự tế nhị dễ thương. Chẳng hạn một người cha c� ba c� con g�i, �ng t�nh cho con l�m nghề bất lương để c� tiền cưới hỏi. Nhưng rồi đ�m kia, �ng thấy ba t�i v�ng chuyển qua cửa sổ, v� c� thể l�m lễ cưới hỏi c�ch lương thiện cho c�c c�. Khi biết được người cho, �ng đến xin th�nh Nic�la cầu cho ơn tha thứ cho dự t�nh đ�ng ch�c dữ của m�nh. Rồi bất kể sự ngăn cấm của th�nh nh�n, �ng đ� kể lại khắp nơi cử chỉ b�c �i của th�nh nh�n đ� thực hiện để cứu 3 người phụ nữ khỏi cảnh bất lương như thế n�o.

Nic�la đ� ao ước hiến đời m�nh cho Thi�n Ch�a. �ng cậu gi�m mục của Ng�i khi sắp chết đ� truyền chức v� đặt Ng�i l�m bề tr�n tu viện th�nh Sion. Khi Ng�i du h�nh qua Th�nh địa, cơn b�o nổi l�n, c�c h�nh kh�ch run sợ, Nic�la cầu nguyện cho họ v� c�c cơn s�ng dịu xuống, con t�u �m đềm theo đuổi cuộc h�nh tr�nh. Những cuộc can thiệp kh�c nữa l�m cho th�nh Nic�la trở th�nh Đấng bảo trợ những người vượt biển. C�c thủy thủ l�m chứng rằng khi bị đắm ch�m, nhớ cầu tới Ng�i l� thấy Ng�i đến cầm tay l�i đưa tới cảng, rồi biến đi...

Khi những người tho�t nạn tới nh� nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc nhi�n v� thấy vị cứu tinh của m�nh đang ch�m đắm trong kinh nguyện như kh�ng hề rời bỏ nơi n�y. Họ kh�ng cầm nổi những lời t�n tụng biết ơn xuất ph�t tự c�i l�ng, nhưng th�nh nh�n bảo họ : "H�y chỉ n�n ngợi khen Ch�a về cuộc cứu tho�t n�y, bởi v� đối với t�i, t�i chỉ l� một tội nh�n v� một đầy tớ v� dụng".

V� Ng�i đ� cho biết rằng, nguy hiểm họ vừa trải qua l� h�nh phạt v� c�c tội k�n, cũng như sự hối lỗi của c�c thủy thủ đ� cứu tho�t họ.

Nic�la xuống Alexandria l� nơi Ng�i đ� chữa l�nh c�c bệnh nh�n, rồi đi thăm th�nh Ant�n ở Ai cập. Sau c�ng, Ng�i đến Gi�rusalem k�nh c�c nơi th�nh v� trải qua �t tuần trong hang m� Th�nh Gia đ� dừng lại khi trốn qua Ai cập. Nơi đ�y, sẽ x�y cất một th�nh đường th�nh Nic�la. Vừa mới trở về Myra, nơi c�c tu sĩ đang n�ng l�ng chờ đợi cha họ trở về, Ng�i đ� tăng gấp một c�ch lạ l�ng đống b�nh cho cả trăm người ăn.

Gi�m mục Myra qua đời, c�c gi�m mục miền Lycia c�n nhắc để chọn vị mục tử mới. Một sứ giả từ trời xuống b�o tin cho vị ni�n trưởng biết, người được chọn l� linh mục Nic�la ng�y mai sẽ tới mh� thờ trước hết. Trời vừa s�ng, Nic�la tới nh� thờ theo l�ng sốt sắng v� nghe loan b�o m�nh l�m gi�m mục. Ng�i muốn chạy trốn, nhưng phải theo � nguyện của Đấng Cao Cả hơn m�nh, trời cao ch�c l�nh cho Ng�i: dịp lễ đầu tay, th�nh Nic�la đ� l�m cho một em b� bị phỏng sống lại. Từ kỷ niệm n�y, người ta hay k�u cầu th�nh nh�n những khi gặp nguy hiểm v� lửa.

Trở th�nh mục tử cả d�n, th�nh nh�n rất cưng chiều những người bị �p bức, mồ c�i, b�nh hoạn v� t� tội hơn. Ban đ�m, Ng�i cầu nguyện, nghỉ một ch�t tr�n đất, ăn ng�y một bữa, mặc �o quần khi�m tốn kh�c với h�nh ảnh ng�y nay nhiều. Những y phục lộng lẫy theo h�nh vẽ ấy, Ng�i chỉ mặc v�o những ng�y đại lễ.

Đời sống t�n hữu x�o trộn v� những cuộc b�ch hại: vị gi�m mục bị lưu đ�y, đ�nh đập. Cuộc trở lại của vua Constantin� đem lại tự do. Tr�n đường về, Ng�i rao giảng Ch�a Kit�, cải h�a lương d�n, ph� đổ c�c đền thờ v� ngẫu tượng. Ng�i l�m nhiều ph�p lạ như mưa. C�c thế hệ tương lai, c�n kể lại huyền thoại của ba đứa trẻ bị một đồ tể tham lam độc �c cắt cổ v� để trong th�ng muối ướp thịt đ� sống lại nhờ lời cầu nguyện của th�nh Nic�la.

C�c truyện c� nhiều th�m thắt như : Truyện người gian giảo c� c�y gậy đầy v�ng, truyện đứa trẻ bị quỉ giả bộ ăn xin b�p cổ, nhưng đ� được th�nh nh�n cứu sống, truyện th�nh nh�n d�n xếp giữa th�y thuốc với bệnh nh�n hiếm muộn con c�i, hứa tặng ch�n v�ng m� khi được lại kh�ng giữ lời hứa. Gần với sự thực hơn l� việc c�c nh� bu�n l�a gạo ở Sycily nhờ sự bao bọc lạ l�ng của gi�m mục đ� nu�i những người đ�i m� kh�ng giảm thiểu của dự trữ. Vua Constantin� cũng mơ thấy th�nh nh�n đến gặp để cứu cuộc xử tội bất c�ng của ba vi�n chức. Sau đ� c�c người bị giữ k�u cầu Ng�i giải cứu v� được nhận lời bằng một ph�p lạ. Thế l� c�c nạn nh�n bị xử oan hay k�u cầu Ng�i.

Sau khi ho�n tất bao nhi�u việc l�nh thi�ng li�ng lẫn vật chất, th�nh Nic�la muốn v�o c�i đời đời. Bảo vệ gi�o thuyết c�ng gi�o tinh tuyền, Ng�i đ� chống lại lạc gi�o tham dự cộng đồng Nicea. Khi thấy sắp kết th�c cuộc đời. Ng�i muốn lui về tu viện, nơi m� buổi thiếu thời Ng�i đ� tự hiến cho Thi�n Ch�a, v� ch�nh tại nơi đ�y, Ng�i ph� d�ng linh hồn trong tay Ch�a.

Năm 1087, Myra rơi v�o tay người Thổ, người ta vội đưa h�i cốt vị th�nh về Bari gần Naples. Từ đ�, huyền thoại đời Ng�i lại lan rộng. Mỗi miền n�i theo c�ch của m�nh. D�n ca Đ�ng phương coi Ng�i như một vị Ch�a tr�n trời. Đối với người Nga, Ng�i l� thừa kế thần linh lo chuyện gặt h�i. Siberia cho Ng�i l� người chế tạo rượu "bia".

C�c vua nước Ph�p s�ng k�nh Ng�i. C�c chủ tịch luật sư đo�n cầm gậy c� h�nh th�nh Nic�la. B�n t�y phương, lễ th�nh Nic�la trở th�nh lễ của thiếu nhi v� l�m sao c�c em lại kh�ng y�u mến vị th�nh nh�n hậu đ� cứu ba đứa trẻ đi m�t lứa được ? Vị gi�m mục đầy huyền b� n�y sau c�ng đ� trở th�nh �ng gi� Noel ng�y nay .


Ng�y 07-12

Th�nh AMBR�SI�
G�am mục v� tiến sĩ Hội Th�nh
(339 - 397)

Th�nh Ambr�si� ch�o đời khoảng năm 339 tại Augusta Trevororum. Cha Ng�i, �ng Aurlio Ambr�si� l�m tổng trấn xứ Gauules v� l� nghị sĩ viện qu� tộc. Nhưng �ng chết sớm, mẹ Ng�i trở về Roma với 3 người con: Ambrosi�. Marcellina v� Satyra, cả 3 đều n�n th�nh.

Ambr�si� chưa l�nh ph�p rửa tội như th�i quen thời ấy hay chần chừ, sợ mất ơn ph�p rửa tội, nhưng Ng�i đ� sống tuổi thơ ấu đạo đức. Lớn l�n, Ng�i tỏ ra th�ng minh đặc biệt, nổi tiếng về thơ văn, t�i h�ng biện v� luật ph�p. Thuộc d�ng qu� tộc, Ambr�si� được đặt l�m l�nh sự tỉnh Emilia v� Liguria với thị trấn l� Milan. Probus, vị tổng trấn theo Kit� gi�o đ� khuy�n Ng�i : - "H�y đi v� h�nh động như một gi�m mục hơn l� quan �n".

V� người ta th�n phục nh� qu� tộc Kit� gi�o v� sự kh�n ngoan tỉnh thức v� hiền hậu của Ng�i. Gi�m mục Milan qua đời, một cộng đo�n tập hợp trong nh� thờ, người ta g�y ồn �o x�o trộn tại đ� v� chiahai phe: phe c�ng gi�o v� phe theo Ari�. Ambr�si� với tư c�ch l� nh� cầm quyền đ� đến d�n xếp. Ng�i diễn thuyết k�u gọi ho� b�nh v� khuy�n d�n ch�ng kh�n ngoan chọn lựa, Ng�i n�i một c�ch đ�ng phục đến nỗi mọi t�n hữu đều một tiếng k�u lớn : "Ambr�si� l�m gi�m mục".

Hết c�n ph�n ly, người ta �m nhau kh�c v� vui mừng. Ho�ng đế Valentin� đ� chuẩn nhận việc tuyển chọn bất ngờ n�y.

L�c ấy, Ambr�si� c�n l� một dự t�ng, n�n cảm thấy m�nh bất xứng để l�m cha linh hồn của cả đo�n d�n Ng�i. Ng�i đ� c� lần trốn tho�t đến nỗi c�n muốn g�y cớ x�c phạm để tỏ ra bất xứng, nhưng vẫn kh�ng đ�nh lừa nổi ai. Ng�i c�n viết thư cho c�c gi�m mục v� ho�ng để xin c�o lui, nhưng ho�ng đế c�n b�y tỏ l�ng th�n phục : - "Kh�ng c� một tinh thần n�o ngay ch�nh hơn, đ�y l� một tay l�i kh�ng thể uốn cong được".

Ambr�si� d�nh nhiều miễn cưỡng chấp nhận. Ng�y 24 th�ng 11 Ng�i chịu ph�p Rửa tội. Ng�y 07 th�ng 12 năm 374 Ng�i đ� thụ phong linh mục v� được th�nh hiến gi�m mục. Ng�i n�i : - "T�i bắt đầu dạy dỗ điều m� t�i kh�ng được học".

Ambr�si� kh�ng coi m�nh như người thuộc thế gian nữa, Ng�i ph�n ph�t của cải cho người ngh�o v� d�ng đất đai cho Gi�o hội. Một phần đ�m khuya d�nh để cầu nguyện v� học hỏi. Ng�i học c�c t�c phẩm Kit� gi�o, nhất bằng tiếng Hy Lạp v� đ�o s�u thần học. Buổi rạng đ�ng, d�ng lễ rồi v�o b�n l�m việc. Ng�i rao giảng để t�i hồi gi�o phận bị x�o trộn bởi ph�i Ari�. Ng�i mở rộng cửa tiếp đ�n mọi người cần đến m�nh. Th�nh Augustin� m� Ng�i g�p phần cải h�a đ� gọi Ng�i l� thầy. Khi dạy dỗ, Ng�i tỏ ra hiền hậu m� người ta gọi l� "sự ngọt ng�o của Ambr�si�".

Khi ngồi t�a, Ng�i đ� kh�c như ch�nh m�nh l� tội nh�n. Kh�ng c� giờ ăn, Ng�i như chay tịnh li�n tiếp. Việc mục vụ nặng nề kh�ng ngăn cản Ng�i tỏ ra l� một thủ l�nh quyết bảo vệ đức tin c�ng gi�o. Ở Roma, tại cung điện nữ ho�ng Justina theo Ari�, muốn chiếm nh� thờ Milan, gi�m mục chống lại v� quyết bảo vệ th�nh đường. Từ Ch�a nhật lễ l� tới thứ năm tuần th�nh, một đo�n người c�ng h�m th�nh đường. Ambr�si� d�ng việc giảng dạy v� th�nh ca để giữ t�n hữu. Những người y�u mến Ng�i l�m th�nh một h�ng r�o bao quanh Ng�i. Cuối c�ng, chiến thắng về tay Ambr�si�. Ng�i vẫn lu�n tỏ th�i độ cương quyết như thế.

Đế quốc rơi v�o tay Theodosi�. Vị T�n ho�ng đế rất qu� chuộng v� k�nh trọng gi�m mục. Đức gi�m mục cũng y�u mến �ng bằng t�nh phụ tử, nhưng kh�ng v� thế m� th�nh ra yếu đuối bất c�ng. Theodosi� tr�n đ�i vinh quang, để trừng phạt cuộc nổi loạn ở Thesalonica, đ� ra lệnh t�n s�t d� man. Th�nh Ambr�si� viết thư quở tr�ch, bắt �ng hối cải v� cấm v�o th�nh đường. �t l�u sau, Theodosi� chiến thắng trở về Milan với binh sĩ muốn v�o th�nh đường, đức gi�m mục đứng ở cưả ngăn �ng lại v� tr�ch cứ �ng. Ho�ng đế lui về ho�ng cung thống hối trong t�m th�ng. Ng�y lễ Gi�ng sinh, �ng kh�c l�c xin tha tội. �ng cởi �o b�o, phục dưới thềm nh� thờ v� xếp h�ng giữa đ�m tội nh�n c�ng khai. Kh�ng bao giờ �ng c�n chiếm chỗ danh dự nơi cung th�nh nữa. D�n Milan rất th�n phục vị vua đ� đền tội c�ch quảng đại như vậy.

Về sau, �ng lại đi dẹp một cuộc nổi loạn mới. Th�nh Ambr�si� lại viết cho �ng : - "Chiến thắng của vua sẽ bất to�n nếu vua kh�ng tha cho c�c kẻ nổi loạn".

Vua đ� tha. Trở về, Ambr�si� �m �ng v� kh�c v� vui mừng. Vua đ� qua đời trong tay vị gi�m mục. Với ho�ng tử kế vị. Th�nh Ambr�si� n�i : -"�ng kh�ng phải l�m vua để phục vụ lợi �ch gia đ�nh m�nh th�i, nhưng l� để cai quản mọi người".

V� đối với vị vua băng h�, th�nh Ambr�si� n�i : - "T�i y�u mến con người n�y, v� đ� ưa người quở tr�ch m�nh hơn bọn nịnh thần. Ho�ng đế đ� kh�ng mắc cỡ khi ho�n tất việc thống hối c�ng khai v� kh�ng ng�y n�o m� kh�ng kh�c lỗi lầm m�nh".

Th�nh Ambr�si� c�n sống th�m hai năm sau c�i chết của vua Theodosi�. Nghe loan b�o về cơn bệnh của Ng�i, một vi�n chức của nh� vua tuy�n bố : - "Con người n�y m� chết đi th� Italia sẽ bị đe dọa t�n ph� đến nơi".

Danh tiếng của Ng�i vang dội đến nỗi rợ d�n đ� kh�ng d�m chống lại Ng�i. C� những thủ l�nh tin rằng: Ng�i c� thể ngưng mặt trời lại. Ng�i đ� hạnh ph�c d�ng thư t�n m� cải ho� được nữ ho�ng Marc�mans. Trước khi qua đời ng�y 4 th�ng 4 năm 379 Ng�i đ� tổ chức c�c t�a gi�m mục miền bắc Italia. Theo một tường thuật, Ng�i đ� nằm, tay ch�o lại như h�nh Th�nh gi� v� người ta c� thể thấy như m�i Ng�i vẫn cầu nguyện kh�ng ngừng.

Gần mộ Ng�i sẽ đặt phần mộ Marcellina, người em m� Ng�i y�u q�i hơn cả. Con người v� sự sống của th�nh nữ ch�nh nhờ sự dẫn dắt của Ng�i đ� hiến m�nh cho Thi�n Ch�a. Th�nh Ambr�si� đ� để lại một c�ng tr�nh đ�ng kể.


Ng�y 08-12

ĐỨC MARIA
V� NHIỄM NGUY�N TỘI

Một trong những lễ đẹp l�ng tr�i tim Mẹ Maria nhất, chắc chắn l� lễ v� nhiễm nguy�n tội. Th�nh lễ n�y nhằm t�n k�nh đặc �n ri�ng cho mẹ l� đ� được thụ thai trong l�ng th�nh Anna một c�ch tinh tuyền kh�ng vương t� ố. Thi�n Ch�a đ� giữ g�n Mẹ khỏi tội tổ t�ng, tội m� v� mọi người ch�ng ta khi sinh ra đều vướng mắc v� thuộc d�ng giống Adam. Đức Maria, do một đặc �n duy nhất, từ l�c h�nh thai, vẫn lu�n tinh tuyền xinh đẹp trước mặt Ch�a. Bởi vậy, do ơn th�nh v� do cuộc sống, Mẹ lu�n l� đối tượng đẹp mắt Ch�a, theo như lời th�nh kinh đ� được quy về Mẹ: - Mẹ tuyệt mỹ, kh�ng hề vương vấn tội t�nh.

Người ta c� thể tự hỏi, l�m sao lại c� đặc �n n�y ? Để trả lời cho trường hợp đặc biệt n�y, ch�ng ta chạy đến ơn ph�c của Ch�a Gi�su Kit�. Ơn cứu chuộc của Ch�a Kit� đ� c� sức mạnh to�n năng để cứu nh�n loại khỏi tội nguy�n tổ, cũng đ� giữ g�n cho Mẹ khỏi tội tổ t�ng. Chắc chắn đ�y l� một ph�p lạ, nhưng ph�p lạ n�y kh�ng lạ l�ng hơn c�c điều kỳ diệu trong cuộc đời Đức Mẹ. Hơn nữa, c�c dặc �n kh�c Đức Mẹ thụ hưởng m� ch�ng ta chấp nhận sễ d�ng, đều l� hiệu quả của ơn v� nhiễm nguy�n tội v� giả thuyết ơn huệ n�y, nếu chối bỏ ơn V� Nhiễm nguy�n tội, mỗi biến cố trong cuộc đời Đức Maria đều giả thiết một ph�p lạ mới, nhưng với ơn v� nhiễm nguy�n tội, mọi điều đều c� thể giải th�ch được dễ d�ng, v� kh�ng vương mắc tội nguy�n, Mẹ Maria vượt qua tất cả những g� l� hiệu quả v� h�nh phạt do tội g�y n�n, như t�nh tư dục, thống khổ v� tan rữa sau khi chết. Con người kh�ng mắc tội nguy�n tổ l� một b� ẩn kh�ng thể giải th�ch nổi. Đức Maria, nếu mắc tội nguy�n tổ lại c�n l� một b� ẩn kh� giải th�ch hơn nữa.

Niềm tin v�o sự v� nhiễm nguy�n tội của Mẹ Maria l� một niềm tin kh�ng thễ thay đổi. C�c nh� thần học đ� chứng minh điều đ�, c�c gi�o phụ giảng dạy, c�c nh� giảng thuyết phổ biến... nhưng thời đại của ch�ng ta được thấy sự vinh quang cao cả n�y trở th�nh t�n điều trong đức tin Kit� gi�o, ng�y 8 th�ng 12 năm 1854, trước sự hiện diện của 54 hồng y, 42 Đức Tổng gi�m mục v� 92 Đức Gi�m mục c�ng đo�n người đ�ng đảo, vị đại diện Ch�a Kit� đ� tuy�n bố t�n điều từ bao thế kỷ đợi tr�ng. Ch�ng ta kể ra một v�i l� do khiến Gi�o hội c�ng bố t�n điều : Đức Trinh Nữ Maria V� Nhiễm Nguy�n Tội.

1. Ch�a Gi�su Kit�, v� sự th�nh thiện của Ng�i, phải được sinh ra bởi người mẹ V� Nhiễm Nguy�n tội. Đấng thấy cả t� vết nơi c�c thi�n thần, lại chịu sinh ra từ một th�n thể bị nhơ nhớp v� tội lỗi được sao ? Th�n x�c của Ch�a Kit� l� x�c th�n bởi Mẹ Maria. Vậy nếu Mẹ Maria thụ thai trong tội, hẳn Ng�i đ� th�ng truyền cho Ch�a Gi�su một x�c thể bị nhơ uế v� tội lỗi. Quả l� một điều � nhục cho Ch�a Gi�su một x�c thể bị nhơ uế v� tội lỗi. Quả l� một điều � nhục cho Ch�a !

2. Vinh quang của Ch�a Gi�su phải giữ cho Mẹ Người khỏi vết nhơ tội nguy�n. Mục đ�ch của Ch�a Con khi xuống trần gian n�y l� để hủy diệt sự uy quyền của quỉ dữ v� tội lỗi. Người đ� thắng ma quỉ khi nhờ ph�p rửa tội, đưa c�c Kit� hữu ra hỏi v�ng tội lỗi, thanh tẩy c�c tội nh�n nhờ ph�p giải tội. Người đ� thắng ma quỉ cả trước khi Người sinh ra, như khi th�nh h�a từ l�ng mẹ ti�n tri Gi�r�mia, th�nh Gioan tẩy giả, th�nh Giuse bạn Đức Trinh Nữ.

Nhưng những chiến thắng n�y chưa ho�n to�n. C�n một l�c m� quyền lực hỏa ngục khoe khoang rằng: c� thể l�m cho ơn th�nh bị v� hiệu, đ� l� l�c thụ thai. Vậy sự chiến thắng sẽ ho�n hảo nếu Mẹ Maria được ơn v� nhiễm nguy�n tội, đặc �n n�y thể hiện lời hứa đ� được loan b�o từ trước: - Ta sẽ đặt hận th� giữa ngươi v� người đ�n b�, giữa gi�ng giống ngươi v� d�ng giống n�. D�ng giống n� sẽ đạp n�t đầu ngươi, c�n ngươi sẽ t�p lại g�t ch�n" (St 3,15).

Niềm tin v�o ơn v� nhiễm nguy�n tội của Đức Maria đ� được ch�nh Đức Mẹ chứng thực. Năm 1858, nghĩa l� chỉ bốn năm sau ng�y tuy�n bố t�n điều, Mẹ đ� hiện ra tại Lộ Đức v� tuy�n bố : - Ta l� Đấng v� nhiễm nguy�n tội ngay từ buổi đầu thai.

Việc mừng trọng thể lễ Đức Trinh nữ Maria V� nhiễm nguy�n tội v�o m�a vọng c� một � nghĩa đặc biệt, như mừng "cuộc chuẩn bị căn bản cho Đấng Cứu thế xuất hiện, vầng đ�ng s�ng tươi của một Hội Th�nh kh�ng t� vết" (Marialis Cultus 3)


Ng�y 11-12

Th�nh ĐAMAS� I
Gi�o Ho�ng (305 - 384)

Đ�y l� một vị gi�o ho�ng s�ng ch�i trong Hội Th�nh. Ng�i đ� x�c nhận quyền t�i thẩm tr�n to�n thể Gi�o hội l� do th�nh Ph�r� l�nh được bởi Ch�a Kit�. Đức gi�o ho�ng Lib�ri� đ� ch� � tới linh mục Damas� gốc T�n Ban Nha v� đặt Ng�i l�m tổng ph� tế cai quản Gi�o hội. Khi ho�ng đế Constance ủng hộ ph�i Ari� bắt Đức Lib�ri� đi đ�y. Damas� đi theo Ng�i. Nhưng Đức Lib�ri� cảm thấy m�nh sắp chết, v� để chiều theo � Ng�i, Damas� trở lại Roma, nơi Ng�i sẽ được chọn l�m gi�o ho�ng.

Giữa những phiến động, ph�n ly v� x�o trộn, triều đại gi�o ho�ng của Ng�i khổ n�o tột c�ng. Dầu vậy, ch�nh những điều đ� l�m n�n vinh quang cho đức gi�o ho�ng. L� nh� tr� thức, khảo cổ v� thi nh�n, Đức Damas� đ� lưu giữ những chứng liệu qu� b�u về Roma của Kit� gi�o thời xưa, Ng�i đ� sửa sang phần mộ c�c th�nh tử đạo, trước t�c những vần thơ để ở mộ bia. Những n�t chữ đẹp tr�n c�c mộ m�nh danh l� "chữ Damas�". Ng�i cho x�y nhiều đại th�nh đường v� nhiều nh� từ thiện.

Ch�ng ta phải biết ơn th�nh Damas� nhiều, v� Ng�i đ� nhận thức được t�i năng gi� trị của th�nh Hi�r�nim� v� đ� trao ph� tr�ch nhiệm hiệu đ�nh bản dịch th�nh kinh. Ch�nh Ng�i đ� kết c�c th�nh vịnh bằng kinhs�ng danh.

Giữ cho đức tin được tinh r�ng ở cộng đồng Nic�a chống lại ph�i Ari�, Đức Damas� đ� triệu tập nhiều c�ng đồng. C�ng đồng Constantinople đ� đưa Ng�i tới danh hiệu cao cả nhất l� "vi�n ngọc của đức tin".

Đức Damas� đ� viết nhiều vần thơ đề mộ bia. C� một tấm Ng�i viết về ch�nh m�nh v� đăt ở nghĩa trang th�nh Callist� : "T�i, Damas� muốn được ch�n cất tại đ�y, nhưng t�i sợ ph�m tục h�a xương cốt c�c th�nh nh�n".

Bởi vậy, Ng�i đ� được ch�n cất trong một th�nh đường ở Via Ardeatina.


Ng�y 12-12

Th�nh GIOANA PHANXICA CHANTAL
(1572 - 1641)

Gioana Phanxica Fremyet ch�o đời ng�y 23.01.1572 ở Dijon, l� con của vị chủ tịch nghị viện. Thuộc một gia đ�nh c�ng gi�o đạo đức, �ng đ� đ�o tạo con g�i của m�nh n�n một đứa trẻ c� đời sống t�n hữu mạnh mẽ. Học tập như c�c trẻ em kh�c, th�nh nữ c� một tinh thần sống động v� tỏ ra vừa vui tươi vừa đứng đắn.

Dầu c�n nhỏ, Gioana Phanxica quyết xa rời những người lạc đạo, Ng�i la h�t khi c� ai trong số họ chạm tới Ng�i. Khi đến tuổi ho� m�nh với đời sống đ�i c�c, sự d� giữ của th�nh nữ chứng tỏ Ng�i đ� kh�ng ao ước một cuộc sống dễ d�i trống rỗng. Một trong những nhiệt huyết nơi Ng�i l� được thực hiện những c�ng tr�nh lớn cho Thi�n Ch�a: Ng�i muốn được tử đạo. Ng�i đ� ph�t kh�c khi thấy những người khốn cực, Ng�i n�i : - "Nếu kh�ng y�u thương người ngh�o, t�i thấy m�nh như kh�ng y�u mến Thi�n Ch�a".

Vị b� tước de Chantal thấy rằng : Gioana Phanxica sẽ l� người vợ qu� nhất tr�n thế gian. Cuộc h�n nh�n ho�n tất. Gioana Fremyet l�c ấy 20 tuổi trở th�nh Gioana De Chantal. Buổi đầu, vị nữ b� tước trẻ lo �u v� những m�n nợ cũ phải thanh to�n. Nhưng GIOANA đ� vui cười bắt tay v�o việc. Ng�i chỗi dậy từ 5 giờ s�ng, dự th�nh lễ, d�ng ngựa để đi thăm n�ng trại v� đất đai, k�o sợi v� may v� với những người gi�p việc, Ng�i tỏ ra l� một người quản l� danh tiếng, đồng thời cũng rất b�c �i v� dễ y�u đến nỗi người ta gọi Ng�i l� "b� ph�c hậu".

C� người c�n n�i rằng: m�nh th�ch mang bệnh để được nữ b� tước viếng thăm, nhưng Ng�i cũng biết rằng: săn s�c v� mỉm cười chưa đủ, phải c� Ch�a gi�p sức. Chẳng hạn đến với một b�nh nh�n xem như tuyệt vọng, Ng�i thức đ�m cầu nguyện v� đến s�ng th� bệnh nh�n được l�nh. Vị b� tước nhiều lần thấy người vợ đầy l�ng b�c �i qu� cầu nguyện .

Khi xảy ra nội chiến, cảnh khốn c�ng lan rộng cắp l�ng qu�. Vị nữ b� tước đ�n tiếp c�c người bị bỏ rơi. Bệnh tật v� c�c trẻ sơ sinh. Đo�n người thiếu ăn trong v�ng bảy dặm tu�n đến, Ng�i tự tay m�c ch�o phục vụ mọi người. Thấy người đ� được trợ cấp trở lại, Ng�i kh�ng từ chối gi�p đỡ họ v� thưa với Ch�a : - "Con đến g� cửa van xin l�ng thương x�t của Ch�a, n�o l� con c� muốn đến lần thứ hai thứ ba m� bị xua đuổi đ�u ?"

B� tước de Chantal l� một sị quan, thường vắng mặt để phục vụ nh� vua nơi triều đ�nh hay trong qu�n đội. Khi ấy th�nh nữ bỏ đồ trang sức v� �o nhung, tự kh�p m�nh với s�u người con v� c�c việc nội trợ, d�nh nhiều thời gian hơn để cầu nguyện. Khi b� tước trở về, Ng�i tổ chức ăn mừng với n�t mặt rạng rỡ vui tươi. Hạnh ph�c chiếu s�ng tổ ấm gia đ�nh.

Nhưng trong một cuộc đi săn, b� tước bị tử thương. Ngườivợ trẻ th�nh g�a bụa l�c 28 tuổi, đ� đau đớn kh�c l�c : - "Lạy Ch�a, xin h�y cất đi mọi của cải v� con c�i, nhưng xin để lại người chồng y�u qu� m� Ch�a ban cho con".

Dầu vậy, trong cơn thất vọng, th�nh nữ đ� điều khiển được l�ng m�nh v� t�m v�ng theo th�nh � Ch�a. Gioanna Phanxica phải từ gi� l�u đ�i để về sống gần cha chồng. Những người ngh�o v�y quanh xe Ng�i kh�c l�c v� họ đ� mất người mẹ hiền. Một cảnh huống nặng nề đang đợi Gioanna nơi nh� cha chồng. Người quản gia gi� nắm mọi quyền b�nh, bắt Ng�i nu�i nấng con c�i b� với con c�i của th�nh nữ. Người đ�n b� trẻ đ� cố gắng để khỏi bị chống đối, Ng�i lu�n hiền hậu v� kh�ng hề l�m cha chồng nổi n�ng. Ng�i cũng tổ chức một ph�ng thuốc cấp cứu v� săn s�c người ngh�o. Bảy năm tr�i đi trong nếp sống kh� khăn v� h�m m�nh.

Năm 164, Gioanna Phanxica gặp th�nh Phanxic� Salesi�. Vị th�nh quyết định đời Ng�i. Th�nh nh�n giảng m�a chay tại Dijon v� nhận thấy th�nh nữ chăm ch� nghe m�nh. Ng�i hỏi th�nh nữ c� � định t�i g�i kh�ng ? Th�nh nữ k�u: - Kh�ng !

V� th�nh nh�n đ� trả lời : - "Vậy phải k�o bảng hiệu xuống". Chỉ muốn Ch�a th�i, đừng l�m dỏm, dẹp bỏ tất cả chi tiết phong lưu lẫn l�ng ki�u h�nh.

Gioanna tự lo cho m�nh, phục vụ người ngh�o, lau rửa những người khốn klhổ đầy chấy rận. Mặc đồ sạch sẽ cho họ rồi nấu giặt v� v� mạng �o quần cho họ. Th�nh Phaxic� Salesi� dẫn Ng�i tới sự Th�nh thiện bằng đời sống ng�y c�ng kết hiệp s�u xa hơn với Ch�a. Th�nh nh�n cũng qủa quyết rằng: thời giờ đ� đến để th�nh nữ từ bỏ thế gian. Đường ch�n thực của th�nh nữ l� trở n�n tu sĩ v� thiết lập d�ng thăm viếng.

Gioanna đ� anh h�ng từ gi� gia đ�nh, Ng�i dẫn người con g�i kh�ng lập gia đ�nh l� Fracoise để bổ t�c việc gi�o dục b�n cạnh Ng�i. Người con trai ở lại với �ng nội đ� chống lại việc Ng�i ra đi v� nằm ngang cửa ngăn cản. Cử chỉ của th�nh nữ kh�ng theo tầm mức của ch�ng ta: Gioanna lau nước mắt bước qua m�nh con. Ng�i biết rằng: con m�nh sẽ kh�ng bị bỏ rơi, v� Ng�i đ� trao ph� cho người cậu l� tổng gi�m mục Bourges. V� mỗi khi cần đến, Ng�i sẽ đi thăm để lo cho lợi �ch của c�c con.

Th�ng 6 năm 1610, th�nh nữ đ� thiết lập tu viện dầu ti�n ở Annecy v� khẩn nguyện lu�n thực hiện điều g� xem ra ho�n hảo hơn. Danh tiếng của c�c nữ tu d�ng Thăm Viếng tận t�m phục vụ người ngh�o, bệnh nh�n v� gi�o dục c�c thiếu nữ lan rộng mau ch�ng. Suốt 30 năm, mẹ de Chanltal đ� thiết lập nhiều tu viện, hiến m�nh l�m nọi việc.

V�o cuối đời, Ng�i kể lại: - "T�i như những nữ t� th� kệch thời thu hoạch. Người cha gia đ�nh n�i với họ: h�y đến chỗ n�y, h�y đi chỗ nọ, h�y trở lại c�nh đồng n�y, h�y đi tới chỗ kh�c. Chẳng hạn người cha diễm ph�c của ch�ng t�i đ� n�i: h�y đi thiết lập ở Lyon , ở Grenoble, h�y trở lại để đi Bourges, h�y đi Paris, h�y từ gi� Paris v� trở lại Dijon. Chẳng hạn nhiều năm t�i chỉ đi v� đến, khi th� ở một trong những c�nh đồng, khi th� ở một nơi kh�c của cha th�n y�u".

Nơi n�o th�nh nữ đi qua, Ng�i đều để lại sự �m dịu, sự phấn khởi v� niềm tin tưởng. Người ta thấy Ng�i chống lại sự nhọc mệt bằng niềm vui v� can đảm. Linh động trong c�ng việc, Ng�i nấu ăn v� coi b�, giờ giải tr�, Ng�i vui vẻ với c�c nữ tu... khiến họ n�i: "Khi Mẹ ch�ng ta kh�ng giải tr� được l� thiếu một phần vui tươi �m �i". Bệnh tật kh�ng ngăn cản Ng�i săn s�c v� nghĩ tới mọi sự .

Với một tr� kh�n nhanh nhẹn v� ch�nh x�c, một l�c, Ng�i đọc cho 3 nữ tu ghi ch�p.

Mười ch�n năm trước khi qua đời, Gioanna Phanxica mất người bạn, người cha, người n�ng đỡ l� th�nh Phanxic� Salesio. Sự đau đớn của Ng�i thực sự lớn lao. Rồi đến c�i chết của người con trai để lại một ch�u g�i sẽ l� nữ nam tước de S�vign�. C�c tang lễ li�n tiếp nơi c�c người th�n. Nhưng thử th�ch lớn lao nhất của th�nh nữ l� những ch�n nản nội t�m, những c�m dỗ kinh khủng nghịch lại đức tin. Ng�i kh�ng hể tỏ lộ những đau đớn của m�nh v� lấy sự b�nh thản để phủ lấp những lo �u. Mẹ de Claugy đ� n�i về những kh� khan li�n tục của Ng�i: - "Chỉ trong c�i đời đời, người ta mới biết hết được".

Khi Ng�i qua đời, cha giải tội n�i : - "Suốt 23 năm, t�i đ� th�n phục nơi th�nh nữ một lương t�m tinh r�ng trong suốt v� r� rệt hơn cả pha l�".

Trong những h�nh tr�nh cuối c�ng mẹ de Chantal được reo mừng khắp nơi. Khi c� dịch hạch ở Annecy, Ng�i đ� kh�ng từ chối bỏ nơi n�y v� tăng gấp c�c việc bố th� v� lời cầu nguyện . Ở St. Germain, ho�ng hậu đưa hai người con tới gặp v� xin Ng�i ch�c l�nh. Ng�i h�n hạnh được gặp th�nh Vinh -sơn Phaol�, D�n Paris chen lấn để mong chạm tới Ng�i v� nghe Ng�i n�i. Trở về, Ng�i ng� bệnh ở Monlins. Tới ph�t cuối Ng�i vẫn c�n lo lắng đến mọi việc. V� sau 3 lần k�u danh Ch�a Gi�su, Ng�i tắt thở năm 1641, năm 1767 Ng�i được tuy�n th�nh.


Ng�y 13-12

Th�nh LUCIA
Đồng Trinh Tử Đạo - (Thế kỷ IV)

Theo lịch sử, chắc chắn l� đ� c� một th�nh nữ tử đạo t�n l� Lucia v� mộ Ng�i được t�m thấy trong hang toại đạo của c�c Kit� hữu Syracusa. Sau đ�y l� c�u chuyện về cuộc tử đạo của Ng�i.

Lucia l� một thiếu nữ qu� ph�i người Syracusa tại thủ đ� miền Sicily. Mẹ Ng�i gốc người Hy Lạp t�n l� Eutychia, c� nghĩa l� hạnh ph�c. Sớm th�nh go� phụ, b� đ� gắng chuẩn bị cho Lucia một điạ vị cao bằng c�ch dưỡng dục th�nh nữ theo tinh thần Kit� gi�o. B� thường n�i với con g�i m�nh về l�ng can đảm của c�c vị tử đạo đ� tưới m�u tr�n đế quốc hai thế kỷ qua. Như ở Sicily, tại hải cảng Catana, nửa thế kỷ trước th�nh nữ Agatha thay v� chối bỏ đức tin, đ� khước từ t�nh y�u của quan cầm quyền v� trung th�nh với Ch�a Kit� giữa c�c cực h�nh.

Mẫu gương đ�ng phục n�y đ� �m ảnh Lucia v� khi Eutychia nhận lời cầu h�n cho con g�i m�nh, Lucia khẩn cầu Ch�a cất xa những cuộc cưới hỏi trần thế để d�ng hồn x�c phụng sự một m�nh Ng�i th�i. Bỗng Eutychia ng� bệnh, Lucia lấy cớ n�y để đ�nh h�n. Dầu vậy, Ng�i thấy buồn v� mẹ khổ l�u, n�n khuy�n b� k�u cầu với th�nh nữ Agatha, Ng�i đưa mẹ đi Cathana để dưỡng bệnh. Khi đ�, Ng�i xem thường những sắc lệnh b�ch hại đạo của Đi�cl�tian�, khấn hiến m�nh ho�n t�an cho Thi�n Ch�a. Ng�i đ�i ph�n gia t�i để ph�n ph�t cho người gh�o. Ng�i n�i : - "D�ng cho Ch�a điều người ta kh�ng mang theo sau khi chết th� cũng kh�ng c� g� l� nhiều".

Nhưng người theo đuổi Lucia thấy Ng�i b�n nữ trang v� ruộng đất rồi ph�t cho người khổ cực, liền nổi giận v� tố c�o với Paschse l� người cầm quyền ở Syracusa. Lucia bị cầm t�. Trước t�a, Ng�i đ� trả lời c�ch đ�ng phục :

"Giờ th� t�i chẳng c�n g� nữa để d�ng, t�i d�ng ch�nh m�nh như b�nh th�nh l�n Thi�n Ch�a t�i cao. Ong run rẩy trước mặt Thi�n Ch�a, c�n t�i, t�i k�nh sợ Thi�n Ch�a. �ng muốn l�m đẹp l�ng họ, c�n t�i, t�i chỉ c� một ước vọng l� l�m đẹp l�ng Ch�a Kit� th�i. Những người thi�u huỷ th�n x�c l� những người bỏ niềm vui mau qua để đổi lấy những niềm vui đời đời. Th�nh Phaol� t�ng đồ đ� n�i: Ai sống trong sạch v� đạo đức l� đền thờ Thi�n Ch�a v� Ch�a Th�nh Thần ở trong họ. Th�n thể chỉ ra nhơ uế nếu linh hồn đồng t�nh với n�".

Nh� cầm quyền truyền trao Lucia cho bọn đ�m đ�ng �ể l�m nhục cho đến chết. Nhưng Ng�i đ� th�nh một sức mạnh khủng khiếp khiến bao sức lực của họ cũng kh�ng thể k�o Ng�i đi được. Người ta k�u c�c ph� thủy, đưa b� đến k�o nhưng kh�ng nghĩa l� g� đối với sự bất động của Trinh nữ.

Người ta đốt lửa cũng kh�ng chạm tới Ng�i. Sau c�ng, người ta d�ng gi�o đ�m cổ Ng�i, nhưng Ng�i c�n ti�n b�o một c�ch lạ l�ng : - "T�i b�o cho c�c ngươi biết rằng, Gi�o hội Ch�a được ơn b�nh an v� h�m nay Đi�cl�tiano bị đuổi khỏi đế quốc, Maximian� phải chết. V� như Catana vui sướng được chị t�i l� Agatha bảo trợ, th�nh Syracusa được Ch�a ban cho t�i, nếu c�c ngươi hết l�ng thực hiện th�nh � Ch�a".

V� d�n Sicily thấy Paschase bị xiềng. C�sar biết được rằng �ng ta sẽ chiếm th�nh. Lucia trước khi chết đ� được rước M�nh Ch�a do c�c linh mục đem đến.

Lucia l� t�n do từ ngữ Lux, nghĩa l� �nh s�ng. Như �nh s�ng, gương mẫu đời Ng�i dẫn c�c linh hồn l�n trời. T�n Ng�i khiến những ai đau mắt thường k�u cầu Ng�i.


Ng�y 14-12

Th�nh GIOAN TH�NH GI�
Linh Mục Tiến Sĩ (1542 - 1591)

Gioan de Yepes sinh tại Phontiveros, gần Avila. T�y Ban Nha ng�y 24 th�ng 6 năm 1542. Cha Ng�i l�m thợ dệt, bị gia đ�nh gi�u c� l�mnghề bu�n b�n loại trừ v� đ� cưới một người vợ k�m hơn. Mẹ Ng�i l� một người đ�n b� th�nh thiện, trở th�nh go� phụ sau khi sinh Gioan. Kh�ng nguồn lợi, với 3 đứa con, b� đ� l�m thu� cho một thợ dệt. B� Gioan dần dần đ� học nghề thợ mộc, may v�, đi�u khắc, hội họa trong t�nh y�u mến Ch�a Gi�su Kit�.

Trong mọi việc, Ng�i c� th�i quen tự hỏi: - "V�o trường hợp t�i, Ch�a Gi�su sẽ l�m g� ?"

Ng�i kh�ng trốn tr�nh một hy sinh n�o. L�c 12 tuổi, Gioan được học đọc, học viết với c�c nữ tu ở Medina del Campo. Đức b�c �i của Ng�i bao la: tư hồi c�n ni�n thiếu, Ng�i đ� d�ng giờ rảnh để phục vụ c�c bệnh nh�n ở nh� thương, dầu vẫn theo học văm phạm v� triết học nơi c�c cha d�ng T�n.

Năm1563, Gioan gia nhập d�ng Carm�l� v� năm sau được gửi học tại đại học Salamanca. Năm 1567 Ng�i thụ phong linh mục ở Medina v� đ� gặp th�nh nữ Avila. Th�nh nữ đ� khuy�n Ng�i thực hiện việc cải tổ d�ng Cam�l� như th�nh nữ đang l�m. Th�nh nữ n�i với Ng�i : - "Đ�y l� c�ng tr�nh đ�i hy sinh v� m�u. T�i kh�ng biết cha sẽ phải chịu khổ tới đ�u nhưng chắc chắn cha phải chịu khổ".

Gioan trở th�nh người con thi�ng li�ng của người nữ tu Carm�l� n�y. Cha 25 tuổi v� chị 52 tuổi. Chị gửi cha đến với hai người bạn ở Duruel� trong cảnh c� tịch v� đ�y l� nguồn gốc của d�ng Carm�l� canh t�n đi ch�n kh�ng, Ng�i lấy t�n l� Gioan Th�nh Gi�. Sự ngh�o t�ng thật khủng khiếp, Ng�i chỉ sống bằng cỏ, nhưng vẫn d�ng những kh�c ca tạ ơn Ch�a v� đ� chỉ cho biết phải sống v� cư xử c�ch n�o. Ng�i h�nh động c�ch kh�c thường tr�n những người chung quanh, giải tho�t họ khỏi những việc hư hỏng, tạo cho họ một l�ng y�u th�ch hy sinh.

Sau khi chống lại đo�n thể c�c tu sĩ Carm�l� ở Alcala de H�lenr�s, Ng�i trở th�nh tuy�n �y của tu viện Avila trong 5 năm, th�nh nữ T�r�xa giới thiệu với con c�i m�nh : - "Cha l� vị th�nh".

Sự th�nh thiện của Gioan vượt qu� nhiều người v� trở n�n kh� hiểu, sự canh t�n khiến Ng�i bị tố c�o l� nổi loạn. C�c th�y d�ng Carm�l� chước giảm chống lại c�c th�y d�ng Carm�l� đi ch�n kh�ng. Cuối c�ng, sau những nhục mạ dữ dội, Ng�i bị cầm t� ở Tol�đ�. Người ta đối xử cứng rắn với Ng�i, ba lần mỗi tuần họ đưa Ng�i tới nh� cơm v� đ�nh đập kh�ng nương tay. Nhưng Ng�i cảm thấy đang đi đ�ng đường Ch�a muốn v� tạ ơn Ch�a v� đ� chịu được hạ nhục v� chịu khổ cực. Những bắt bớ tăng th�m đức tin v� l� tưởng của Ng�i. Đ�p lại, Ng�i y�u mến nhiều hơn v� trong hầm tối thiếu kh� trời, Ng�i trước t�c những vần thơ b� nhiệm l�m th�nh cuốn "Th�nh ca thi�ng li�ng" (cantiques spirituelles).

Được 9 th�ng th�nh nh�n vượt ngục. Trước khi đến tu viện định tới, Ng�i dừng lại trong một d�ng nữ. Ng�i nghe một nữ tu ca h�t về "hạnh ph�c của đau khổ" v� bỗng Ng�i phải b�m chặt v�o cửa sắt nh� kh�ch. Ng�i đ� xuất thần. � tưởng được chịu khổ v� Ch�a đ� l�m cho Ng�i cả thấy dư tr�n hạnh ph�c. Ph�p lạ n�y trong t�m hồn, như muốn l�i k�o cả th�n x�c đổi mới theo... th�nh T�r�xa n�i : - "Kh�ng c� c�ch g� để n�i về Thi�n Ch�a với cha Gioan Th�nh Gi�. Ng�i xuất thần ngay v� l�i k�o người kh�c theo".

Một ng�y kia quỳ b�n song sắt, th�nh nữ nghe cha n�i về Ch�a Ba Ng�i, th� th�nh linh như muốn n�ng Ng�i l�n. Khi�m tốn, Ng�i nắm lấy tay v�o th�nh ghế. Nhưng hoạt động thần linh đ� n�ng Ng�i l�n tới trần nh�. T�r�xa ở trước mặt Ng�i cũng xuất thần v� bay bổng. Một nữ tu tiến v�o, cảm k�ch v� cảnh tượng vội đi gọi c�c nữ tu kh�c đến chi�m ngưỡng cả hai vị th�nh được Ch�a ch�c ph�c.

Đức Th�nh cha v� vua Philipphe II ủng hộ những cuộc cải c�ch v� b�y giờ Gioan phải nhận nhiều trọng tr�ch. Ng�i l�m bề tr�n d�ng Calvari�. Ng�i lập cộng đo�n Carm�l� Baeza v� 3 năm sau được chọn l�m tu viện trưởng ở Grenade. Đi đường qua c�c th�nh T�y Ban Nha, Ng�i chinh phục c�c linh hồn về cho Ch�a Kit�, ch�nh Ng�i đ� x�y dựng một thủy lộ, một tu viện. Trong 15 ng�y, Ng�i đ� viết cuốn "ngọn lửa t�nh y�u sống động" (la vive flamme d'amour). Cuối c�ng Ng�i trở th�nh Tổng đại diện Andalousia.

Sự trong trắng của th�nh nh�n đ� tạo cho Ng�i một quyền năng tr�n quỉ thần. Ng�i đ� giải tho�t nhiều bị quỉ �m. Người ta n�i rằng, bằng những dấu th�nh gi� Ng�i dẹp tan cơn b�o, bằng lời nguyện, Ng�i dập tắt một hỏa hoạn. C�c th� vật qu� mến Ng�i. Để giữ m�nh trong sạch, th�nh nh�n tự nhận lấy đau khổ nhưng lại rất thương cảm những đau khổ của người kh�c, Ng�i c�n tế nhị hơn nữa đối với những đau khổ tinh thần m� Ng�i gọi l� "đ�m tối của t�m hồn". Nhưng Ng�i hiểu rằng, những đau khổ n�y thanh tẩy t�m hồn rất nhiều. Kh�ng kết hợp với Ch�a được nếu kh�ng c� khổ hạnh trong t�m hồn.

Thường nh� d�ng ngh�o kh� đến độ c� ng�y kh�ng c� b�nh ăn. Tập họp ở nh� ăn, th�nh nh�n n�i với c�c tu sĩ về hạnh ph�c được chịu khổ v� Ch�a Gi�su Kit�. Họ kh�c v� nhiệt t�m v� lui ra. Bỗng chu�ng reo, một người v� danh đ� đem b�nh cho nh� d�ng. C�c tu sĩ trở lại ph�ng ăn. Lần n�y, th�nh nh�n kh�c v� n�i: - "Oi, vậy l� Ch�a đ� thấy sự yếu đuối của ch�ng con kh�ng chịu thử th�ch được l�u. Ng�i đ� sớm thương hại ch�ng ta".

Lần kia, Ng�i đ� trả lời Ch�a Gi�su khi Ng�i hỏi về phần thưởng Ng�i muốn rằng : - "Lạy Ch�a, xin cho con được chịu khổ v� bị khinh miệt v� Ch�a".

V� Ng�i đ� xin ba ơn n�y l�: đừng c� ng�y n�o m� kh�ng được chịu đau khổ, đừng l� bề tr�n v�o l�c chết v� được chết trong khi�m hạ. Thi�n Ch�a đ� nhận lời Ng�i.

Những th�ng bị giam cầm, với bao đau khổ dữ dằn người ta đối xử, đ� hủy hoại th�n thể Ng�i. Mệt nhọc v� du h�nh tới Andalousia, l�m th�nh nh�n bị thi�u đốt ở ch�n, c�c vết thương mở rộng. Ng�i chịu đau đớn kinh khủng đến nỗi lần kia Ng�i n�i với người đối thoại: - "Xin lỗi, t�i kh�ng trả lời nổi. T�i bị đay nghiến v� đau nhức".

Th�nh nh�n được chọn một trong hai nơi để chữa bệnh, hoặc ở Baeza, nơi người ta q�i mến, hoặc ở Ubeda, nơi tu viện trưởng c� �c cảm với Ng�i. Ng�i đ� chọn tu viện Ubeda. Những cư xử nghi�m nhặt l�m cho Ng�i đau đớn th�m. Nhưng Ng�i c�ng �m chặt th�nh gi� v�o l�ng. Vị tu viện trưởng cảm động v� sự dịu d�ng kh�ng mệt mỏi, v� l�ng b�c �i s�u xa của bệnh nh�n, cuối c�ng đ� hiểu v� xin Ng�i tha thứ.

Gioan b�o trước m�nh sẽ chết đ�m 14 th�ng 12 (năm 1591). C�c tu sĩ đọc kinh ph� linh hồn, Ng�i xin đọc s�ch Diễn t�nh ca. C�c cơn đau kh�ng ngừng gia tăng khi chu�ng reo giờ kinh s�ng, Ng�i cầm th�nh gi� n�i : - "Lạy Ch�a, con ph� linh hồn trong tay Ch�a".

Ng�i c�n nh�n c�c tu sĩ, h�n Ch�a Kit� v� tắt thở. Ng�i đ� viết: - "V�o xế chiều cuộc sống n�y, bạn được ph�n x�t về t�nh y�u".

Gioan Th�nh Gi� để lại nhiều s�ch lu�n được suy gẫm như: Đường l�n Carm�l�, đ�m tối t�m hồn, Ngọn lửa t�nh y�u sống động, th�nh ca thi�ng li�ng. Ng�i được tuy�n th�nh năm 1726. V� Đức Pi� XI đ� đăt Ng�i l�m tiến sĩ Hội Th�nh năm 1962.


Ng�y 21-12

Th�nh PH�R� CANISI�
Linh Mục Tiến Sĩ Hội Th�nh
(1521 - 1579)

Th�nh tiến sĩ Ph�r� Canisi� thường được gọi l� vị t�ng đồ thứ hai của nước Đức. Ng�i ch�o đời 8 ng�y th�ng 5 năm 1521 tại Nijmegen. Cha Ng�i l� người c�ng gi�o, 9 lần l�m thị trưởng Nijmegen. �ng gửi Ng�i tới phại học Cologne l�c Ng�i 15 tuổi. Nơi ấy Ng�i gặp được một vị linh mục trẻ th�nh thiện Nicolaus van Esch. Ch�nh vị linh mục n�y đ� đưa Canisi� v�o nh�m người trung th�nh với c�ng gi�o được h�nh th�nh để chống lại Hermann van Wied, vị tổng gi�m mục đ� sang h�ng ngũ Luth�r�.

Canisi� được nh�m chọn để tiếp x�c với ho�g đế v� tổng gi�m mục, v� việc tho�i vị của tổng gi�m mục đ� tr�nh cho người c�ng gi�o Phineland một thảm họa. �t l�u sau đ�, Canisi� gặp được ch�n phước Ph�r� Faber, một trong c�c bạn ti�n khởi của th�nh Inhaxi� v� được hướng dẫn linh thao. Trong cuộc tĩnh t�m n�y, Ng�i đ� t�m được giải đ�p cho vấn nạn Ng�i tự đặt cho m�nh l�m sao phụng sự Ch�a tốt đẹp nhất v� n�ng đỡ Gi�o hội c�ng gi�o đang bị tấn c�ng ?

Ng�i gia nhập d�ng T�n, thụ phong linh mục năm 1546 v� sớm lừng danh do việc ấn h�nh c�c t�c phẩm của th�nh Cyrill� th�nh Gi�ruslem v� của th�nh Leo cả. Năm 1547 Ng�i tham dự c�ng đồng Tridentin� như l� đại diện của gi�m mục Augsburg.

Năm 1549, Ng�i được gọi về Roma v� l�nh nhận tr�ch nhiệm truyền gi�o cho nước Đức, điều sẽ trở th�nh c�ng tr�nh của đời Ng�i. Trong cuộc chinh phục của b� tước Bavaria, Canisi� v� hai cha d�ng T�n kh�c được chọn để dạy thần học tại đại học Ingolstadt. Chẳng bao l�u, Ng�i được đặt l�m viện trưởng đại học, rồi sau đ�, do sự can thiệp của vua Ferdinand, Ng�i được gởi đi thi h�nh cũng một nhiệm vụ tại đại học Vienna, Ng�i th�nh c�ng mỹ m�n đến nỗi nh� vua đ� cố đưa Ng�i l�n chức tổng gi�m mục. Dầu đ� từ chối vinh dự n�y, Ng�i cũng được gọi để quản nhiệm địa phận trong khoảng một năm.

V�o thời kỳ n�y, tức năm 1555, Ng�i đ� cho ra cuốn "gi�o l�" thời danh, một trong những phụng vụ lớn lao nhất của Ng�i cho Gi�o hội. Với lối tr�nh b�y trong s�ng v� b�nh dị gi�o thuyết c�ng gi�o, cuốn s�ch n�y đ�p ứng nhu cầu v� chống lại sức t�n ph� do cuốn "gi�o l�" của Luth�n�. T�nh cho đến cuối thế kỷ XVII, cuốn s�ch được xuất bản hơn 400 lần v� được chuyển dịch sang 15 ng�n ngữ.

Từ Vienna, Canisi� qua Bohemia l� nơi Gi�o hội ở trong điều kiện tuyệt vọng. Chống lại, Ng�i đ� thiết lập một học viện ở Praha, sau trở th�nh đạihọc. Năm 1556, được đặt l�m gi�m tỉnh miền nam nước Đức, Ng�i lập trường học cho trẻ em tại 6 th�nh phố v� tự nhận tr�ch vụ cung ứng cho nước Đức c�c linh mục được đ�o luyện tốt. Thực hiện điều n�y Ng�i thiết lập c�c chủng viện v� gửi người trẻ đi tu nghiệp thường xuy�n ở Roma.

Du h�nh trong nước Đức, th�nh Canisi� kh�ng ngừng rao giảng lời Ch�a. Trước hết, Ng�i tiếp x�c với những người l�nh đạm hay th� nghịch. Nhưng l�ng nhiệt th�nh v� sự th�ng hiểu của Ng�i qu� r� đến nỗi đ�m đ�ng k�o đến chật n�ch c�c nh� thờ để nghe giảng. Trong 7 năm liền, Ng�i l� người giảng thuyết ch�nh thức của nh� thờ ch�nh to� Augsburg v� được coi như vị t�ng đồ của th�nh phố n�y. Mỗi khi qua một nh� thờ miền qu� vắng b�ng chủ chăn, Ng�i thường dừng lại để giảng dạy v� ban c�c ph�p b� t�ch.

Dường như Ng�i kh�ng thể n�o kiệt sức được. Ng�i n�i với v�i người đ� tố c�o Ng�i l�m việc qu� độ rằng : - "Nếu bạn phải l�m việc qu� nhiều, với sự trợ lực của Ch�a, bạn sẽ t�m giờ để l�m cho hết".

Một h�nh thức t�ng đồ kh�c l� viết thơ. C�c pho s�ch in thư từ của Ng�i d�y hơn cả ng�n trang giấy. Như th�nh Bernard� Clairvaux, Ng�i d�ng phương tiện n�y để kh�ch lệ, quở tr�ch v� hướng dẫn mọi hạng người. Theo nhu cầu của cả Gi�o hội hay của từng c� nh�n đ�i hỏi. Ng�i đ� viết thư cho Đức Th�nh cha, cho nh� vua, cho c�c gi�m mục, cho c�c ho�ng tử, cho linh mục v� gi�o d�n. Nơi n�o thư từ kh�ng đủ, Ng�i đưa ra một sức mạnh do ảnh hưởng c� nh�n. Chẳng hạn trong một cuộc họp giữa c�ng gi�o v� Thệ phản ở Worms năm 1556, đ� phải nhờ đến ảnnh hưởng của Ng�i; m� người c�ng gi�o mới c� thể hiệp nhất chống lại những mời mọc của Thệ phản để thỏa hiệp với những điều thuộc về nguy�n tắc.

Ở Balan năm 1558, Ng�i đ� kiểm so�t được một đe dọa mới chớm nở đối với niềm tin cổ truyền của xứ sở. V� trong c�ng một năm ấy, Ng�i đ� nhận được lời c�m ơn của Đức Pi� IV về t�i ngoại giao của Ng�i trong việc h�n gắn sự bất ho� giữa Đức Th�nh Cha v� ho�ng đế. Năm 1561, Ng�i được trao ph� để c�ng bố c�c sắc lệnh của c�ng đồng Tridentin� tại nước Đức.

�t l�u sau, Ng�i được k�u gọi để trả lời cho cuốn Kenturies của Magdeburg. T�c phẩm đầu ti�n v� tồi tệ nhất của lịch sử "Thệ phản gi�o" tấn c�ng Gi�o hội c�ng gi�o trong mức độ r�ng r�i v� những b�p m�o lịch sử đ�i nhiều người mới c� thể trả lời đầy đủ được. Dầu vậy, th�nh Canisi� đ� vạch ra đường lối với hai t�c phẩm của Ng�i l� : - "Lịch sử th�nh Gioan Tẩy giả" v� "Đức trinh nữ Maria kh�n s�nh"

Từ năm1580 tới khi qua đời năm 1597, Ng�i đ� cực nhọc v� đau khổ nhiều ở Thụy Sĩ. S�u năm cuối, Ng�i nhẫn nại chịu dựng v� cầu nguyện l�u giờ tại học viện Fribourg, v� b�y giờ, sức khỏe t�n tạ kh�ng cho ph�p Ng�i c� thể hoạt động t�ch cực nữa.

Chẳng bao l�u sau khi Ng�i qua đời, ng�y 21 th�ng 12 năm 1597 mộ Ng�i đ� được t�n k�nh. Nhiều ph�p lạ đ� diễn ra nhờ lời chuyển cầu của Ng�i. Ng�i l� duy nhất đ� được tuy�n th�nh v� tuy�n dương l�m tiến sĩ Hội Th�nh v�o c�ng một ng�y, ng�y 21 th�ng 6 năm 1925.


Ng�y 23-12

Th�nh GIOAN KENTY
Linh Mục (1390 - 1473)

Ch�ng ta biết đến th�nh Gioan Kenty như l� một con người th�nh thiện v� học thức, Ng�i vừa l� một gi�o sư đại học lừng danh, vừa l� một �n nh�n của người ngh�o.

C� một truyền thuyết rất đẹp về l�ng b�c �i của th�nh nh�n. Một người ngh�o ăn xin ở cửa ph�ng ăn. Mỗi người c� đ�ng phần m�nh, nhưng Gioan đ� lấy trọn phần m�nh cho người bất hạnh. Từ đ�, phần của người ăn xin được d�nh ri�ng. C�ng thức "người ngh�o đến" được đ�p ứng lại bằng "Ch�a Kit� đến". Gioan Kenty c�n đưa ch�nh �o cho�ng của m�nh cho người bị lạnh lẽo.

L� bậc thầy về đức �i, Ng�i cũng rất vui tươi. Một lần, được những người qu� ph�i mời, Ng�i đến với y phục rất khi�m tốn của m�nh v� bị đầy tớ chủ nh� xua đuổi. Thay bộ đồ khi�m tốn ấy đi Ng�i được mời v�o tiệc. Chẳng may, một người gi�p việc vụng về l�m rớt đồ ăn v�o đ�. Ng�i n�i : - "N�y, ch�nh nhờ bộ �o m� t�i được ở đ�y, thế l� n� cũng được quyền nếm nước chấm nữa".

Tinh thần v� b�c �i đi đ�i qu� ch�n thật c� một kh�ng hai. Ng�y kia, khi đi Roma, Ng�i bị bọn cướp b�c lột, Ng�i n�i với họ l� kh�ng c�n g� nữa. Nhưng sau đ� Ng�i thấy tiền trong �o k�p. Ng�i vội đuổi theo họ, th� nhận m�nh ăn cắp v� đưa cho họ số tiền n�y. Lịch sử kể lại rằng, bon cướp đ� hối cải ngay.

Kenty, qu� hương của Gioan gần Cracovia, l� nơi Ng�i theo học v� đạt bằng tiến sĩ triết học lẫn thần học, Ng�i thụ phong linh mục. Giữ ghế tại đại học, Ng�i n�i tiếng Latinh v� tiếng Balan.

Khi cần thiết, Ng�i chỉ tranh luận trong tinh thần b�c �i bao dung. Trả lời cho những nhục mạ của đối phương, Ng�i chỉ biết n�i: "Tạ ơn Ch�a". Để vượt qua mọi cực nhọc, thử th�ch, Ng�i tự nhủ: "r�ng l�n". Ng�i thường n�i với học tr� của m�nh : - "H�y lấy nhẫn nại, dịu d�ng v� t�nh y�u l�m kh� giới để chống lại những quan điểm sai lầm. Th� bạo chỉ hại cho linh hồn v� l�m hư ch�nh nghĩa".

Những ghen tương đố kỵ đ� l�m cho Ng�i mất chức đại học v� đẩy Ng�i v�o c�ng việc nặng nhọc tại gi�o xứ. Thời gian l�m cha sở tại Grac�via, Ng�i đ� tỏ ra c� một đức b�c �i v� bờ, nhưng đại học lại đ�i Ng�i phải trở về, Ng�i l�nh tr�ch nhiệm dạy kinh th�nh v� t�n gi�o cho c�c c�ng tử Balan. Ng�i h�nh hương Gi�rusalem v� lắng nghe c�c lương d�n. Khi qua đời v�o tuổi rất thọ, sự th�nh thiện của Ng�i đ� lừng khắp nơi Ng�i đ� đi qua. Th�nh Gioan Kenty đ� để lại lời kinh rất đẹp n�y.

"Xin h�y cho ch�ng con y�u Ch�a tr�n hết mọi sự v� y�u mọi người v� Ch�a v� l�m đẹp l�ng Ch�a trong t�m hồn v� trong h�nh động của ch�ng con".

Nhiều người kh�c thương Ng�i v� Ng�i được kể như người l�m nhiều ph�p lạ. Nhưng m�i tới năm 1767, Ng�i mới được tuy�n th�nh.


Ng�y 26-12

Th�nh ST�PHAN�
Tử Đạo Ti�n Khởi

Thật đ�ng tiếc khi ch�ng ta kh�ng biết được nhiều hơn về th�nh Stephan�. Như một người trong số người Do th�i lưu lạc n�i tiếng Hy Lạp, được gi�o dục theo văn minh La-Hy v� như vị tiền h� của th�nh Phaol�, Ng�i l� một nh�n vật rất quan trọng trong lịch sử Gi�o hội thời sơ khai. C� ch�t hiển nhi�n l� Ng�i đ� được gi�o dục tại Alexandria. C� lẽ Ng�i thuộc v�o số những người "Hy Lạp" t�m Ch�a v�o những ng�y cuối c�ng của Người tr�n trần gian (Ga 12,20). Nếu đ�ng như vậy th� quả Ng�i đ� chứng minh nơi con người m�nh những lời Ch�a Gi�su đ� n�i rằng: "hạt l�a m� kh�ng thể sinh hoa tr�i nếu kh�ng rơi xuống đất v� chết đi" (Ga 12,24-25).

Ng�i xuất hiện lần đầu trong lịch sử như một trong bảy vị Ph� tế c�c t�ng đồ đ� tấn phong (Cv 6) để trợ gi�p c�c Ng�i trong việc quản trị, nhưng Ng�i dường như đ� dấn m�nh v�o việc rao giảng v� hộ gi�o hướng tới những hội đường n�i tiếng Hy Lạp. Ch�nh ở nơi một những hội đường n�y m� nh�m người "tự do" đ� tố c�o Ng�i tru�c hội đồng c�ng tọa như một người lạc đạo. Họ bắt giam v� thử th�ch th�nh Stephan�.

Diễn từ Stephan� n�i để biện minh cho m�nh được th�nh Luca kể lại kh� d�i d�ng v� xem ra c� hơi buồn đối với độc giả t�n tiến. Đ� l� g�, nếu kh�ng phải l� một đoạn lược t�m lịch sử Cựu ước ? Tại sao n� lại đưa những người học thức tới cơn giận dữ kh�ng kiềm chế nổi ?

Bởi v� sự vặn ngược trong đ� cũng như sự giải th�ch minh nhi�n hoặc mặc nhi�n kh�ng đặt v�o c�u chuyện. Ng�i đưa ra hai điểm: trước hết, Thi�n Ch�a kh�ng chỉ t�m được trong đền thờ hay ở Gi�rusalem hoặc ở Palestina, nhưng ở bất cứ nơi n�o. Thi�n Ch�a ở với Abraham tại Chaldes, với Giuse ở Ai cập, với M�s� tr�n n�i Sinai, với d�n Israel trong sa mạc,với David cả trước khi x�y cất đền thờ. Điểm thứ hai l� c�c nh� l�nh đạo ch�nh thức của Do th�i thường hay khước từ sứ giả của Ch�a. C�c tổ phụ b�n Giuse đi l�m n� lệ, mi�u duệ của họ bắt M�s� phải lưu lạc, trong hoang địa, Aaron dẫn họ xa khỏi lề luật m� thờ ngẫu tượng. Li�n tiếp, c�c thủ l�nh của d�n Do th�i đ� loại bỏ, n�m đ� v� bắt bớ những ng�n sứ của Ch�a. Bấy giờ tới tuyệt đỉnh, họ đ� s�t hại Đấng thi�n sai, người c�ng ch�nh, Con người. Nhưng Ch�a Gi�su b�y giờ đang ngự b�n hữu Thi�n Ch�a trong vinh quang.

Hội đồng c�ng tọa đi�n tiết. Họ x� Stephan� ra một chỗ ở ngo�i th�nh v� n�m đ�. trước khi chết, Ng�i cầu nguyện: "Lạy Ch�a, xin đừng chấp tội họ". Lời cầu đ� được Ch�a v� cả Saul� nghe thấy. Saul� c� mặt trong vụ n�y. �ng biết m�nh đang chứng kiến một tội phản. Tự m�nh, �ng kh�ng n�m đ� nhưng giữ �o cho nh�m người h�nh sự. Sau n�y, �ng cố trấn an lương t�m bằng việc bắt bớ dữ dội c�c Kit� hữ kh�c. Nhưng khốn cho �ng khi đạp mũi nhọn. Sau đ� kh�ng l�u, �ng đi Damas, con đường dẫn �ng tới cuộc tử đạo như Stephan�. Th�nh Augustin� n�i: "Nếu Stephan� kh�ng cầu nguyện, Gi�o hội kh� c� thể c� được một Phaol�".


Ng�y 27-12

Th�nh GIOAN T�NG ĐỒ
TH�NH SỬ ( ? -100)

Gioan l� t�ng đồ y�u dấu, t�ng đồ t�nh y�u m� trong bữa tiệc ly đ� dựa đầu v�o l�ng Ch�a Gi�su. Mọi điều Ng�i viết l� t�nh y�u. Nhưng Ng�i cũng l� ngư phủ th� kệch hăng h�i v� bồng bột khi Ch�a gọi l�m m�n đệ, đến nỗi Ch�a Gi�su gọi l� "con c�i sấm s�t" (Mc 3,7).

Gioan l� ngư phủ ở Galil�, con của �ng Gi�b�đ� v� b� Salom�. Năm 20 tuổi, Ng�i l� m�n đệ của th�nh Gioan tẩy giả đang giảng dạy trong sa mạc. Ng�i t�m kiếm sự ho�n thiện. Gioan tẩy giả đ� thấy Ch�a Th�nh Thần xuống tr�n Ch�a Kit� v� loan b�o cho mọi người rằng Người ở giữa họ, nhưng người ta kh�ng nhận biết Người. Ng�y kia, Ch�a Gi�su đi qua, Gioan tẩy giả chỉ cho Gioan v� Anr�: "Đ�y l� chi�n Thi�n Ch�a". Lập tức, hai �ng đ� theo Ch�a Gi�su.

Ch�a Gi�su đ� y�u thương Gioan c�ch đặc biệt v� sự trong trắng, nhiệt t�m v� th�nh t�n của Ng�i. Ở trường học Thần Linh, Ng�i tự biến đổi, thủ đắc tinh thần hiền hậu, học được đức �i ch�n thật v� tiến tới tinh thần hy sinh. Gioan c�ng với anh l� Giac�b�, cũng như mỗi người đều tin rằng, Ch�a Gi�su sắp t�i lập vương quyền v� họ xin Người cho họ được giữ những chỗ danh dự trong ng�y vinh quang của th�y. Nhưng Ch�a Gi�su đ� từng n�i vương quốc của Ng�i kh�ng thuộc thế gian n�y v� đ� trả lời bằng việc trao th�nh gi� cho họ: "C�c con c� thể uống ch�n Ta kh�ng ?" Đầy nhiệt t�m, họ trả lời: "Dạ được". Như thế l� họ biết rằng, việc chia sẻ vinh quang sẽ tiếp sau việc chia sẻ đau khổ.

Suốt ba năm sống c�ng khai của Ch�a Gi�su, Gioan kh�ng rời th�y m�nh. Ng�i c� mặt khi thầy l�m ph�p lạ v� t�m sự với th�y bằng những lời mang lại sự sống. Ng�i đ� thấy thầy ch�i s�ng tr�n n�i Tabor. Với kỷ niệm n�y, Gioan viết rằng: "Ch�ng t�i đ� thấy vinh quang Con Một Thi�n Ch�a Cha: Ch�a Gi�su đ� chọn Ng�i với Ph�r� để dọn lễ Vượt qua, v� trong bữa tiệc ly, Ch�a Gi�su đ� n�i những lời m� Gioan kh�ng bao giờ qu�n được. Ng�i sẽ ghi lại diễn từ ấy trong s�ch Ph�c �m của m�nh.

Chỉ c� một m�nh Gioan trong số 12 t�ng đồ trung th�nh theo Ch�a Gi�su tới th�nh gi�. Ng�i đứng cạnh Mẹ Maria. Ch�a Gi�su đ� n�i với Mẹ Maria: "N�y l� con b�", v� với Gioan : "n�y l� Mẹ con". V� mọi người đ� trở th�nh con mẹ trong con người của Gioan.

Sau phục sinh. Maria Madal�na kh�ng thấy x�c th�y v� hớt hả đi b�o tin. T�nh y�u như chắp c�nh th�m, Gioan đ� chạy tới mồ trước, nhưng v� t�n trọng thủ l�nh c�c t�ng đồ, n�n đ� dừng lại trước khi c�i nh�n mộ (Ga 20,1-8)

V� ng�y sau, khi Gioan c�ng với c�c m�n đệ kh�c đi đ�nh c�, Ch�a Gi�su hiện ra. Được t�nh y�u soi s�ng, Gioan đ� nhận ra th�y v� thốt l�n: "Ch�a đấy" (Ga 21,1-8)

Sau khi nhận lấy Ch�a Th�nh Thần trong dịp lễ Ngũ Tuần, Gioan ở lại Gi�rusalem, người ta nghĩ rằng, Ng�i sống với Đức Trinh nữ. Ng�y kia, Ng�i c�ng với th�nh Ph�r� v�o đền thờ cầu nguyện. Một người qu� xin bố th�, c�c t�ng đồ đ� chữa l�nh anh ta (Cv 3,1-8). C�c thủ l�nh bắt giam c�c Ng�i, cấm kh�ng được rao truyền danh Ch�a Gi�su, c�c t�ng đồ đ� trả lời: "Ch�ng t�i phải v�ng lời Thi�n Ch�a hơn l� lo�i người " (Cv 4,1-20). Một lần kh�c, Gioan bị bắt v� bị đ�nh đ�n, Ng�i h�nh diện khi thấy m�nh được chịu đau khổ v� Ch�a Kit�.

Gioan sống rất thọ v� trải qua nhiều thử th�ch gian khổ. Những người chung quanh kh�ng biết Ch�a Kit� bớt lần. Chắc hắn Ng�i sống ở Antiokia rồi ở Eph�ss�. Ho�ng đế Domitian� đ� truyền b�ch hại c�c Kit� hữu. Từ đ�y, tường thuật kh�ng c� mấy gi� trị lịch sử. Sử s�ch kể lại rằng, khi biết c�n một m�n đệ ch�t của Ch�a Gi�su sống v� giảng dạy ở � Ch�u, �ng truyền đem về Roma để kết �n tử. Người ta đ�nh đ�n Ng�i rồi dẫn tới cửa La-tinh v� d�m v�o vạc dầu s�i. Thật lạ l�ng, Ng�i đi ra kh�ng hề hấn g�. Quan �n x�c động kh�ng d�m h�nh hạ Ng�i nữa v� truyền đ�y ải ở đảo Patnm�. Vị t�ng đồ rao giảng Tin Mừng v� rửa tội cho d�n tr�n đảo. Ch�nh ở đ�y m� Ng�i c� được thị kiến v� l�nh mệnh lệnh ghi lại trong s�ch "Khải huyền". Những cao si�u m� vị t�ng đồ vươn tới, đ� l�m cho Ng�i được v� như c�nh chim phượng ho�ng bay bổng tr�n trời cao. Dầu vậy, c� thể s�ch Khải huyền đ� cho một m�n đệ của Gioan viết.

Khi ho�ng đế bằng h�, những người bị lưu đ�y được gọi trở về, v� Gioan trở lại Eph�s�. Một kỷ niệm cảm động li�n quan tới những chuyến h�nh tr�nh của Ng�i. Trong một cuộc du h�nh, Ng�i đ� rửa tội cho một thiếu ni�n, rồi trao ph� cho vị gi�m mục sở tại. Nhưng khi trở về, Ng�i được vị gi�m mục buồn sầu cho biết rằng con trẻ n�y đ� th�nh kẻ cướp. Lập tức, dầu gi� nua, Gioan đ� v� cỡi ngựa đi t�m đứa con.

Khi thấy Ng�i, người đ� chạy trốn. Vị t�ng đồ đuổi theo v� khuy�n nhủ : - "Con ơi, tại sao con chạy trốn cha gi� kh�ng c� kh� giới ? C�n hy vọng được cứu rỗi, cha sẽ vui l�ng chết cho con như Ch�a Gi�su sai cha đến với con".

T�n cướp x�c động ngừng lại, bởi kh� giới: ch�ng kh�c trong tay cha gi� đang �m chặt ch�ng v�o l�ng v� dẫn ch�ng về với Gi�o hội.

Gioan trở th�nh �nh s�ng v�ng Tiểu �, đến l�c đ� Ng�i vẫn lớn tiếng giảng dạy, nhưng những lạc thuyết đang lộ diện giữa Gi�o hội sơ khai. Nhưng kiến sĩ giả hiệu l�m biến t�nh Ph�c �m của th�nh Matth�u, chối Ch�a Gi�su vừa l� Ch�a vừa l� người. Để b�c bỏ những sai lầm, vừa để bổ t�c ba Ph�c �m đ� xuất hiện, Ng�i viết cuốn thứ tư, trong đ�, t�nh y�u Ch�a Kit� đốt ch�y l�ng Ng�i. C�n ba bức thư nữa thuộc về Ng�i. Bức thư thứ I t�m tắt trọn mạc khải: "Thi�n Ch�a l� t�nh y�u". "Ch�ng ta biết rằng: Thi�n Ch�a đ� c�, b�y giờ ch�ng ta biết Ng�i l� ai. Ng�i l� cha y�u thương ta hết l�ng v� đ�i ta y�u nhau". V� hướng ta về thực tại kh�ng thể kể ra được, Ng�i n�i: "c�c con th�n y�u, ngay từ giờ n�y, ch�ng ta l� con Thi�n Ch�a, nhưng ng�y mai ch�ng ta như thế n�o th� chưa tỏ lộ ra".

Về gi�, kh�ng đi được nữa, Ng�i được mang tới nh� thờ. Ng�i thường lặp lại: "c�c con h�y y�u thương nhau". Thấy Ng�i n�i m�i một điều, người ta k�u ca v� Ng�i trả lời: "Đ� l� lệnh truyền của Ch�a, v� như vậy l� đủ".

Th�nh Gioan l� bổn mạng c�c văn sĩ v� mọi người cầm viết.


Ng�y 28-12

C�C TH�NH ANH H�I
TỬ ĐẠO

Hằng năm tại B�lem, người ta kỷ niệm lễ chu ni�n c�c th�nh thơ nhi măng sữa đ� chịu kh� v� Ch�a Kit� dưới thời H�r�d�. C�c th�nh Anh h�i d� chưa biết tới gian khổ cuộc sống, đ� được tế hiến cho Đấng Cứu chuộc thế gian. C�c Ng�i tiến về trời trong �nh quang.

Ch�a Gi�su đ� đến thế gian tại Belem. C�c đạo sĩ những người th�ng th�i v� quyền thế, được �nh sao mới bất ngờ xuất hiện b�o tin, đ� theo �nh sao đi t�m Ch�a Gi�su. Họ muốn thờ lạy Người. Sau một chuyến h�nh tr�nh d�i, họ tới Gierusalem. Nhờ họ, H�r�đ� l� vua Giuda biết rằng: Đấng thi�n sai m� c�c ng�n sứ loan b�o đ� sinh ra. �ng sợ rằng: Đấng Thi�n sai n�y một ng�y kia những đoạt ng�i của m�nh. Để biết r� vua Do th�i tương lai ở đ�u, �ng căn dặn c�c đạo sĩ trở lại Gi�rusalem cho �ng biết, v� �ng cũng muốn b�i thờ Người.

Nhưng �ng ta đ� kh�ng gặp c�c đạo sĩ nữa. Bởi v� l�c trở về, họ đ� được b�o qua giấc mộng để đi đường kh�c. H�r�đ� giận dữ đi�n người l�n với � tưởng l� mai kia đứa trẻ n�y sẽ l�m vua. �ng truyền lệnh t�n s�t mọi con trẻ dưới hai tuổi ở Belem v� c�c v�ng phụ cận. Như thế l� T�n vương sẽ bị diệt.

Trong khi th�nh Giuse được thi�n thần b�o trước đ� c�ng với Đức Mẹ Maria v� Ch�a Gi�su trốn qua Ai cập th� binh sĩ thi h�nh của H�r�đ�. Nỗi thất vọng của c�c b� mẹ kh�ng diễn tả nổi. Ng�n sứ Gi�r�mia đ� n�i về họ: "tại Rama, người ta nghe thấy tiếng kh�c than nức nở, đ� l� tiếng b� Rakhel than kh�c con m�nh, b� kh�ng chịu cho ai an ủi b�, v� c�c con b� kh�ng c�n nữa" (Gr 31,15-20)

Đối với c�c trẻ em, đ�y l� vinh quang cao cả. C�c Ng�i đ� chết thay cho Con Thi�n Ch�a, v� Ch�a Gi�su ban cho c�c Ng�i sự sống đời đời. Trong s�ch Khải huyền, th�nh Gioan chỉ cho thấy c�c Th�nh Anh h�i bao xung quanh t�a Con Chi�n Thi�n Ch�a như l� những t�m hồn trong trắng nhất.


Ng�y 29-12

Th�nh TOMA BECKET
Gi�m Mục Tử Đạo - (1118 - 1170)

Th�nh Toma Becket sinh ra tại Lu�n Đ�n năm 1118. Cha Ng�i, �ng Gibert Becket, l� một hiệp sĩ người Normandy, đ� trở th�nh thương gia gi�u c� ở Lu�n Đ�n. Mẹ Ng�i cũng l� người Normandy. Ng�i c� �t l� hai chị em m� một người sau n�y l�m tu viện trưởng Barking. Ng�i thừa hưởng từ người mẹ l�ng đạo đức, l�ng s�ng k�nh Đức Mẹ v� l�ng quảng đại đối với người ngh�o kh�.

Từ người cha, Toma Becket thừa hưởng một t�nh kh� ki�u h�ng v� cương quyết. D�ng người cao r�o, đẹp trai, hấp dẫn v� th�ng minh. Sau khi theo học tại Oxford, Đức Tổng gi�m mục Cantebury l� Thaobald đ� triệu mời Ng�i l�m quản trị, lo những chuyện li�n hệ với Roma. Toma Becket đ� kể ra đ�ng kể đến nỗi vua Henri II đ� đặt Ng�i l�m chưởng ấn của vương quốc. Ng�i thường khoe khoang, ngựa gi�ng chim ưng, ch� qu� l� bạn th�n của Ng�i. B� lại sự xa hoa n�y, Ng�i đ� tỏ ra quảng đại nhiều với những hy sinh thầm k�n. Ng�i cũng rất hiếu chiến v� d�ng đến c�c quyền hạn của ho�ng tử m�nh, Ng�i đ� tỏ ra c� gi� trong một trận chiến gần Toulouse. Ng�i c�n tự lượng sức trong một trận chiến đấu đơn với một hiệp sĩ danh tiếng người Ph�p.

Tổng gi�m mục Theobald qua đời, v� Toma được chọn l�m kế vị bất kể sự chống đối Ch�a h�ng gi�o sĩ khi thấy "một người thế tục v� ồn �o như vậy" được đưa l�n t�a gi�m mục.

Trong khi đ�, Toma Becket đ� ti�n b�o cho nh� vua biết rằng: - "Thưa Ng�i, nếu Ch�a cho ph�p t�i l�m Tổng gi�m mục Canterbury, t�i sẽ hết được Ng�i sủng �i. Ng�i sẽ đ�i t�i nhiều điều, v� Ng�i đ� l�m nhi�u điều chống lại Gi�o hội m� t�i sẽ kh�ng thể chịu nổi. T�nh cảm của Ng�i sẽ sớm đổi th�nh th� hận kh�ng chấm dứt nổi.

Nhưng nh� vua vẫn muốn thấy Ng�i l�n ngai gi�m mục. Ng�y 3 th�ng s�u năm 1162, Toma Becket đ� thụ phong linh mục v� ng�y h�m sau được tấn phong gi�m mục. Kẻ n� bộc của c�c ho�ng tử đ� trở th�nh nộ bộc của Gi�o hội, v� chỉ c�n muốn giữ vẻ xa hoa b�n ngo�i, Ng�i trở n�n khi�m tốn hơn, mặc �o nhặm, tha thiết y�u thương kẻ ngh�o v� xa c�ch đối với người gi�u. Những nhưng điều lo ngại của th�nh nh�n kh�ng tự biện minh m�i được.

Vua Henri II b�p nghẹt sự tự do của c�c t�c vi�n Gi�o hội, muốn bắt ch�ng gi�o sĩ nước Anh phải phục thẩm quyền c�c t�a �n ho�ng gia, tước đoạt kho t�ng của d�n ngh�o. Trước � muốn của nh� vua, c�c vị gi�m mục ngập ngừng, nhiều vị khứng chịu. Nhưng Tổng gi�m mục Canterbury kh�ng để m�nh bị quyến dũ. Tức giận, nh� vua triệu vời c�c gi�m mục vương quốc lại.

Trong căn ph�ng tụ họp, hiện ra những con người mang kh� giới như s ẵn s�ng ti�u diệt c�c Ng�i. C�c gi�m mục v� c�c l�nh Ch�a kinh ho�ng khấn n�i xin vị gi�o chủ nhượng bộ.

Để cứu những người chung quanh, Toma Becket như nửa ưng thuận, đ� xin ho�n lại để nghi�n cứu vấn đề. Ng�i viết thư cho đức Th�nh Cha xin ph�n định. Đức Th�nh Cha đ� kết �n tất cả những ai đ� ph�t thệ. Thế l� Toma Becket đ� r�t lại lời một c�ch cao thượng. Nh� vua bắt bớ Ng�i. Đ�p lại c�c lời tố c�o, Ng�i tỏ ra cương quyết v� lu�n giữ được t�m hồn thanh thản. Thất vọng nh� vua h� ho�n : - "Hoặc l� ta mất ng�i, hoặc l� con người ấy kh�ng c�n l� tổng gi�m mục nữa".

C�c hiệp sĩ gọi Ng�i l� kẻ bội phản. Toma Becket đ� trả lời cho một người trong bọn họ : "Nếu đ�i tay n�y kh�ng phải l� đ�i tay của một linh mục th� �ng phải biết".

Trong một c�ng đồng ở Nerthampton năm 1164, Ng�i lại tỏ ra chống đối v� khi bị đe dọa đếng mạng sống hoặc t� tội. Một đ�m kia, Ng�i đ� t�ng h�nh để tho�t th�n. Lang thang nhiều ng�y, Ng�i tới bờ biển v� được một thuyền đ�nh c� tiếp nhận Ng�i đang l�c mệt nhọc đến đứt hơi v� đưa qua Ph�p.

Vua Lu-y VII đ� h�n hạnh tiếp đ�n vị tổng gi�m mục Caterbury, �ng n�i : - "Nước Ph�p c� th�i quen nu�i dưỡng vbảo vệ những người chịu đau khổ, nhất l� những người bị lưu đ�y v� c�ng ch�nh".

Vị gi�o chủ lưu ngụ tại tu viện Pontiguy v� tăng gấp nếp sống khắc khổ, đến nỗi c� thể n�i được đ�y l� cuộc "Ho�n cải thứ nh�, từ đạo đức tới th�nh thiện". Ng�i c� giờ để cầu nguyện v� suy gẫm. Ng�i tu�n theo luật v� nếp sống của tu viện. Dầy vậy cuộc trả th� của nh� vua vẫn tiếp tục. Cha mẹ v� bạn hữu Ng�i bị tước hết t�i sản, bị trục xuất tới số 400 người. Họ buộc l�ng phải đến với Ng�i, l�m th�nh một đo�n người đ�ng thương. Toma Becket rất nhiệt th�nh năng đỡ người ngh�o. Lần n�y bất lực v� kh�ng thể gi�p đỡ được những người th�n y�u nhất đang bị khổ cực v� m�nh. Sau c�ng, vua Henri loan b�o l� sẽ ti�u diệt mọi nh� d�ng Xit�, nếu một nh� d�ng Xit� n�o c�n tiếp tục dung du�ng Ng�i. Toma Becket liền đến một nữ tu viện B�nedict� ở Sens. Những năm th�ng đau khổ v� trơ trọi nối tiếp nhau.

Trong khi đ�, nh� vua bị Đức Th�nh Cha đe dọa, tỏ ra muốn giao h�a với vị Tổng gi�m mục v�o những th�ng cuối c�ng năm 1169. Một thứ h�a ho�n chẳng dễ g�. Nhưng vị gi�o chủ đ� n�i với những người muốn ngăn cuộc hồi hương của m�nh rằng : - "D� c� biết chắc m�nh sẽ bị chặt th�nh trăm mảnh, t�i vẫn trở về. Đ� s�u năm rồi, đo�n chi�n của t�i vắng b�ng chủ chăn".

Ng�i tạo th�m nhiều th� địch khi đưa ra những sắc lệnh huyền chức những vị gi�m mục muốn chống đối lại Ng�i. Khi tới Canterbury, d�n ch�ng chen lẫn nhau giữa những kh�c th�nh ca v� những hồi chu�ng đổ dồn để đến l�nh ph�p l�nh của Ng�i. Những lời đầu ti�n Ng�i n�i tr�n t�a giảng l� : - "T�i đ� tới để chịu chết giữa anh em".

Nh� vua tức giận với cuộc trở về khải ho�n n�y của Toma Becket, một con người kh�ng thể lay chuyển trong mọi việc bảo vệ những quyền tự do của Gi�o hội. Người ta nghe thấy vua Henri k�u lớn : - "Kh�ng c� được lấy một người trong số những kẻ h�n ta nu�i dưỡng đ�y gỡ cho ch�ng ta người gi�o sĩ ngạo mạn n�y sao ?"

Khi ấy c� bốn hiệp sĩ đi Canterbury. Họ gặp vị gi�o chủ trong căn ph�ng gần nh� thờ ch�nh t�a với c�c linh mục v� tu sĩ. Họ nhục mạ Ng�i, nhưng Ng�i n�i : - "Đừng mất thời gian đe dọa t�i. Để s�t c�nh chiến đấu, c�c người sẽ thấy t�i lu�n lu�n ở trong trận chiến của Ch�a".

C�c hiệp sĩ h�ng hổ đi ra. C�c gi�o sĩ tr�ch Ng�i l�m cho họ phải chết. Toma Becket kh�ng trốn tr�nh, Ng�i n�i với họ : - "Tất cả ch�ng ta hoặc phải chết. Đừng để sự sợ h�i l�m cho ch�ng ta xa rời sự c�ng ch�nh. T�i sẵn s�ng chết v� t�nh y�u Ch�a m� những người n�y giết t�i kh�ng phải v� t�nh y�u như vậy".

V� khi nghe bước ch�n v� tiếng k�u của c�c hiệp sĩ c� v� trang, Ng�i leo l�n thang nh� thờ ch�nh t�a Ng�i n�i: - "T�i ra tiền tuyến".

Trả lời cho những lăng nhục, Ng�i n�i: - "T�i kh�ng phải l� kẻ phản bội, nhưng l� một linh mục. T�i sẵn s�ng v� Danh đấng đ� lấy m�u cứ chuộc t�i ... Nhưng v� Danh Thi�n Ch�a, đừng động tới những người n�y của t�i".

Dựa lưng v�o cột, Đức Tổng gi�m mục chống lại những người muốn đưa Ng�i đi, đẩy những người tấn c�ng ng� so�i xuống đất : "T�i kh�ng đi đ�u hết, h�y l�m việc đ� ở đ�y đi".

Những người kh�c ngập ngừng. Vị tử đạo lớn tiếng ph� m�nh cho Ch�a v� Gi�o hội : "Lạy Ch�a, con ph� linh hồn con trong tay Ch�a".

Hai nh�t gươm tiếp liền. Toma Becket ng� xuống miệng c�n n�i : - "V� danh Ch�a Gi�su v� v� Gi�o hội, t�i bằng l�ng chịu chết". V� Ng�i nằm chết cạnh b�n thờ.

C�i chết của Đức tổng gi�m mục l�m chấn động lương t�m to�n thể Ch�n Au. C�c ph�p lạ được phổ biến tr�n mộ Ng�i. Đức Alexander III năm 1173 đ� phong Ng�i l�m th�nh tử đạo. Nh� vua đ� thống hối c�ng khai b�n mộ Ng�i v� những g� khiến th�nh nh�n chịu khổ đ� được sua sai nhờ c�i chết của Ng�i. Canterbury trở th�nh nơi h�nh hương thứ nh� sau R�ma.


Ng�y 31-12

Th�nh SILVESTR� I
Gi�o Ho�ng (+335)

Th�nh Silvestr� kế vị Th�nh Miltiades l�m gi�o ho�ng năm 314, sau khi Constantin� đ� trả lại tự do cho Kit� gi�o bằng sắc lệnh Milan� �t l�u. C� lẽ ch�nh Ng�i đ� rửa tội cho Gustantin�, v� đ� chữa cho �ng khỏi bệnh củi v� nh� vua đ� d�ng cho Đức Silvestr� c�ng trường Lat�ran�.

Cả một khối truyền thuyết cho Ng�i l� một th�y thuốc, một nh� thần học, một luật gia. Nhưng c� lẽ Ng�i đ� kh�ng phải như vậy.

Điều chắc chắn l� Ng�i đ� cai quản Gi�o hội dưới thời vua Constantino v� đ� g�p phần v�o việc x�y dựng những đại th�nh đường.

Cũng v�o thời Ng�i, cuộc ly khai của ph�i D�nat� v� sự sai lầm của ph�i Ati� đ� g�y n�n nhiều tai hoạ lớn lao cho Gi�o hội. Cộng đồng Nic�a năm 325 dưới thời Ng�i đ� chặn đứng những tai hoạ ấy.

Ng�i qua đời năm 335 v� được mai t�ng tại nghĩa trang Priscilla, đường Salaria.