Back

 Thượng Cổ

Trung Cổ Phục Hưng

Hiện Đại

Việt Nam

 

 

Chương 23

CHÂN DUNG

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

I. HỌ ĐÃ SỐNG NHƯ THẾ

1. Thân ái với mọi người

2. Tôn trọng vua quan, và yêu quê hương

3. Sống Tin Mừng yêu thương

4. Tình nghĩa gia đình

5. Kính yêu đức Maria

II. TỬ ĐẠO : HIẾN TẾ TÌNH YÊU

1. "Xin cất chén này"

2. Không để ai liên lụy

3. Không man trá

4. Thánh Lễ cuộc đời

 


III. TỬ ĐẠO LÀ CHỨNG TỪ

1. Thái độ với vua quan

2. Liên đới tập thể

3. Loan báo Tin Mừng

IV. CHÂN DUNG CÁC TỬ ĐẠO

1. Anh dũng hào hùng

2. Bao dung thứ tha

3. Niềm tin Phục sinh

KẾT LUẬN

 

 


I. HỌ Đ� SỐNG NHƯ THẾ

Martyr theo nguy�n ngữ c� nghĩa l� nh�n chứng. Trừ một v�i vị tử đạo nhờ ơn Ch�a đặc biệt để c� được một quyết định quả cảm bất ngờ trước thử th�ch. C�n b�nh thường, cuộc đời của họ đ� l� một chứng từ, một qu� tr�nh hợp t�c với ơn Ch�a, trước khi phải l�m chứng cho Ng�i bằng m�u đ�o.

Giai đoạn lịch sử thời 117 th�nh Tử Đạo Việt Nam k�o d�i đ�ng 117 năm, t�nh từ hai vị tử đạo ti�n khởi 1745 (th�nh Phanxic� Federich Tế v� Matth�u Liciniana Đậu) đến vị cuối c�ng 1862 (th�nh Ph�r� Đa), qua c�c triều đại vua L� - ch�a Trịnh, T�y Sơn v� triều Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức).

Nếu x�t lịch sử Gi�o hội Việt Nam theo ni�n biểu 1533, khởi đầu bằng gi�o sĩ I-ni-khu (I�igo) được nhắc đến trong Kh�m Định Việt sử [1], th� thời c�c th�nh tử đạo phải n�i l� hoa quả của hơn hai thế kỷ LỜI THI�N CH�A đ� được gieo trồng tr�n qu� hương Việt Nam. Trong đ� gần một thế kỷ đi v�o tổ chức nề nếp (từ 1659) khi c� hai gi�o phận Đ�ng Trong v� Đ�ng Ngo�i, rồi từ năm 1668 c� linh mục bản xứ. V� thế c� thể n�i, Gi�o hội đ� c� những chọn lựa c�ch sống tương ứng với giai đoạn lịch sử của m�nh.

Theo thống k� 1855, Gi�o hội Việt Nam c� 426.000 t�n hữu, chiếm tỷ lệ 4% d�n số [2], rải r�c từ trấn Kinh Bắc, qua miền Thượng du cho đến Ch�u đốc, An Giang.

  

X�t về th�nh phần tử đạo, ngo�i c�c gi�m mục, linh mục chuy�n lo về t�n gi�o ta thấy c�n c� c�c gi�o hữu thuộc mọi tầng lớp nh�n d�n như quan trường c� th�nh Hy, quan �n c� th�nh Khảm, qu�n ngũ c� những cai đội hoặc chưởng vệ, xuống đến những binh sĩ tầm thường, hương chức c� những ch�nh tổng, l� trưởng. X�t về nghề nghiệp ta thấy c� lang y, thương gia, c� thợ may, thợ dệt, thợ mộc, cả d�n ch�i, nhưng đ�ng đảo nhất vẫn l� giới n�ng d�n (10 vị).

Để trả lời c�u hỏi : c�c th�nh tử đạo đ� sống thế n�o ? Ch�ng ta c� thể ch� � đặc biệt đến năm vấn đề sau :


1,1. Th�n �i với mọi người

Người Việt Nam thường n�i : "Ph�p vua thua lệ l�ng". Mặc cho triều đ�nh nh� Nguyễn ra những chiếu chỉ b�ch hại, dấu hiệu t�nh th�n giữa b� con ch�m x�m đối với người C�ng gi�o l� sự kiện qu� r� rệt. Th� dụ trong vụ �n linh mục Gioan Đạt, vi�n cai ngục n�i : "T�i thấy cụ kh�n ngoan, đạo đức, th� muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt v� cụ sắp bị �n tử rồi. T�i xin hứa biếu cụ một cổ quan t�i để biểu lộ l�ng t�i qu� cụ."

Chuyện hai linh mục Trương Đ�nh Thi v� Dũng Lạc, quan huyện B�nh Lục n�i : "C�c �ng l� quan b�n đạo, t�i quan b�n đời", rồi cho lệnh cởi tr�i v� cho dọn cơm bằng m�m b�t của m�nh. Đến khi cho �p giải hai vị về Thăng Long, quan lập đ�n tế lạy trời phật để thanh minh m�nh v� can trong vụ �n.

Đặc biệt chuyện linh mục Vũ B� Loan, ni�n trưởng 84 tuổi, được mọi người k�nh trọng gọi bằng "cụ", ng�i kh�ng bị đ�n đ�nh, v� trong ng�y xử, mười l� h�nh bỏ đạo chạy trốn, đến người thứ mười một, đ� lịch sự xin ph�p : "Việc vua truyền ch�u phải l�m, xin cụ x� lỗi cho. Ch�u sẽ cố gi�p cụ chết �m �i. Khi về trời cụ nhớ đến ch�u nh�".

Nhờ đ�u �ng c�u L� Văn Phụng, mỗi lần quan huyện đi truy l�ng lại cho người đến b�o trước ? Nhờ đ�u linh mục L� Bảo Tịnh được quan tổng trấn cho giấy ph�p mở chủng viện ? Nhờ đ�u Gi�o hội miền Nam suốt thời Minh Mạng chỉ c� duy hất một vị trong số 117 vị tử đạo ? Rồi nhờ đ�u khu vực d�ng Đaminh b�nh an đến năm 1838, v� hầu như an b�nh từ năm 1841-1856 ? Nhờ đ�u những gi�m mục như Hermosilla Vọng, từng được n�u đ�ch danh trong chiếu chỉ nh� vua, vẫn được an to�n hơn 20 năm : Thưa, nhờ những quan chức địa phương kh�ng đ�nh gi� đạo C�ng gi�o như nh� vua, v� nhờ những căn nh� "lương d�n" lu�n mở rộng c�ch h�o hiệp.

Ngay cả khi vua Tự Đức đ� ra chiếu chỉ ph�n th�p ng�y 5-8-1861, ph�n t�n c�c t�n hữu, giao cho lương d�n quản l� cả người lẫn của cải, th� Gi�o hội vẫn tồn tại nhờ nhiều người kh�ng theo lệnh vua. Như lương d�n l�ng Hảo Hội, đ� che dấu v� tiếp tế cho nhiều chủng sinh ở Kẻ Mốt đến ẩn trốn [3]. Con số h�ng chục ng�n người bị giết trong giai đoạn n�y cũng l� lớn, nhưng đ� chỉ l� tỷ lệ v�i phần trăm, c�n tr�n 90% giới C�ng Gi�o vẫn sống s�t qua cơn "hồng thủy".

Ch�nh trong bối cảnh th�n �i của đại quần ch�ng b�nh d�n Việt Nam, c�c t�n hữu đầu thế kỷ XIX c� nhiều cơ may thể hiện sự gắn b�, tinh thần phục vụ v� l�ng b�c �i của Tin Mừng. Những cuộc truy l�ng thường xuy�n của triều đ�nh đ� gi�p c�c nh� thừa sai sống s�t với tinh thần ngh�o kh� của người t�ng đồ v� gần gũi với d�n lao động trong c�c l�ng qu�, sau lũy tre xanh. Đến Việt Nam, c�c vị liền lo việc học tiếng v� phong tục [4]. Rồi sau đ�, cũng ăn nước mắm, ăn tương, ăn c�, cũng n�n l�, �o b� ba, �o khẩu... sống với d�n Việt, sống như d�n Việt, c� thừa sai suốt 15 năm kh�ng đụng đến một miếng thịt. Thế nhưng c�c vị vẫn vui tươi. Thừa sai Gagelin K�nh gửi thư về nh� : "Những thiếu thốn, những cực nhọc đủ thứ đến với ch�ng t�i, nhưng t�i d�m khẳng định rằng : t�i được hạnh ph�c trong t�p lều tranh của t�i hơn vua nước Ph�p trong ho�ng cung của ng�i".

Đại đa số giới C�ng gi�o thuộc th�nh phần n�o ? Thưa, l� những người n�ng d�n tầm thường nhất, mỗi ng�y lam lũ lao động để l�m xanh giải đất qu� hương. Linh mục Khu�ng từng tuy�n bố : "Đạo Giat� kh�ng những cấm t�n hữu chống lại triều đ�nh, m� c�n khuyến kh�ch để họ cầu nguyện v� g�p phần gi�p qu� hương an ninh thịnh vượng".


1,2. T�n trọng vua quan v� hết l�ng v� qu� hương

Hội nhập v�o nền văn h�a � Đ�ng theo chế độ x� hội gia trưởng, Gi�o hội Việt Nam đ� c� n�t suy tư s�ng tạo đặc biệt. Ngay từ thời linh mục Đắc Lộ, t�n hữu Việt Nam đ� coi nh� cầm quyền như một người cha, mọi người đều l� con trong đại gia đ�nh d�n tộc [5]. Linh mục Nguyễn Văn Tự đối đ�p với quan t�a : "T�i k�nh Thi�n Ch�a như Thượng Phụ, k�nh vua như trung phụ, v� k�nh song th�n như hạ phụ. Kh�ng thể nghe cha ruột để hại vua, t�i cũng kh�ng thể v� vua m� phạm đến Thượng Phụ l� Thi�n Ch�a được ".

Dĩ nhi�n trong bối cảnh lịch sử "thượng t�n Tống Nho" của nh� Nguyễn, th� việc đề cao chữ hiếu hơn chữ trung đủ l�m cho triều đ�nh th�m kh� chịu. V� khi đề cao hiếu hơn trung, người C�ng gi�o tu�n lệnh vua một c�ch c� suy nghĩ, c� lựa chọn, tu�n giữ luật lệ hợp l�, nhưng bạo dạn phản đối điều nghịch l� tr�i với lương t�m m�nh. Dầu sao giới C�ng gi�o kh�ng tổ chức nổi loạn, bạo động. Gi�m mục Alonso Ph� trong thư chung năm 1798 x�c định kh� giới đ�nh giặc b�ch hại "chẳng phải l� s�ng ống gươm gi�o đ�u, m� l� đức tin, lời cầu nguyện v� đức b�c �i" [6].

Đức cha Sampedro Xuy�n ra vạ tuyệt th�ng cho ai tổ chức bạo động v� buộc những ai vu c�o ng�i cổ động nổi dậy phải cải ch�nh c�ng khai [7]. Gi�m mục Hemosilla Li�m nhắc nhở c�c t�n hữu phải tu�n giữ luật nh� ph�p nước, c�n nếu bị vu c�o tội ch�nh trị th� cứ an t�m, v� đức Gi�su xưa từng bị d�n Do Th�i lấy cớ ch�nh trị để giết (Ga 19,12). Ng�i n�i tiếp : "....Ph� con đừng h�a tập vuối giặc, đừng nghe ch�ng n�i dối d� đấng ấy đấng kh�c sai ch�ng n�, v� c�i ấy l� kh�ng hẳn" [8].

L� d�n trong nước, c�c t�n hữu sẵn s�ng thi h�nh nghĩa vụ c�ng d�n, từ thuế kh�a cho đến gia nhập qu�n ngũ. Năm 1838, nguy�n tại tỉnh Nam Định, quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh đ� tụ tập được 500 binh sĩ C�ng gi�o, để rồi bắt đạp l�n Th�nh Gi�[9]. Trong quan trường, chiếu chỉ th�ng 9-1855 ra lệnh s�ng lọc c�c quan C�ng gi�o, cấm đạo đồ đi thi hay nhận chức vụ trong l�ng trong tổng [10]. Thế m� s�u năm sau (1861), trong một đợt thanh trừng, triều đ�nh c�n bắt được 32 vi�n quan, ba người chối đạo, 18 bị giết, 11 bị �n lưu đ�y [11].

C�c thừa sai Ph�p sẵn s�ng l�m nh�n vi�n th�ng dịch cho nh� vua. Ch�nh Minh Mạng định phong c�c ng�i l�m quan chức trong triều đ�nh. Linh mục Gagelin K�nh đại diện anh em từ chối đặc �n đ� : "Tuy nhi�n, những việc đ� n�o c� thể dung h�a với nhiệm vụ linh mục của t�i, t�i sẵn s�ng gi�p đỡ nh� vua". Thừa sai Jaccard Phan li�n tục gi�p vua 10 năm, d� bị l�nh ba �n tử h�nh : lần đầu vua giảm th�nh �n xung qu�n để dịch s�ch, lần hai đổi th�nh �n lưu đ�y chung với thừa sai Odorico Phương Ofm, vị n�y chết nơi rừng thi�ng nước độc, c�n ng�i vẫn sống s�t v� tiếp tục dạy sinh ngữ v� dịch s�ch cho ho�ng triều. Lần cuối c�ng cha tử đạo v�o ng�y 21-9-1838. Trước đ�, nhiều người khuy�n ng�i bỏ trốn, ng�i n�i : "Kh�ng bao giờ, t�i muốn chứng tỏ phải d�ng điều thiện để thắng điều �c".

Cuốn gi�o l� đầu ti�n cho người C�ng gi�o Việt Nam, cuốn "Ph�p giảng t�m ng�y" (1651) của cha Đắc Lộ đ� khẳng định c�c t�n hữu theo đạo Thi�n Ch�a, đạo của mọi quốc gia chứ kh�ng phải đạo Ph� L�ng Sa [12]. Đến thời L� Cảnh Hưng (1740-86), trong cuộc tranh luận bốn t�n gi�o, được ghi lại trong cuốn "Hội đồng tứ gi�o" [13], hai linh mục Cata�eda Gia v� Phạm Hiếu Li�m đ� trả lời vấn nạn "Đạo Hoa Lang l� đạo ngoại quốc" rằng :"Chớ th� đạo Phật chẳng từ Ấn Độ, đạo Nho từ nước Lỗ, đạo L�o chẳng từ đời nh� Ch�u ở Trung Hoa sao ?" v� đ� khẳng định : "Chẳng c� đạo n�o l� đạo Hoa Lang, đạo ch�ng t�i l� đạo Thi�n Ch�a, ch�ng t�i ước ao thi�n hạ mọi nước đều biết". Linh mục Vũ B� Loan tr�nh b�y điều đ� với quan : "T�i chẳng theo đạo của nước n�o cả, t�i chỉ thờ Ch�a Trời Đất, Ch�a của mu�n d�n th�i".

Cũng v� vậy, khi qu�n đội Ph�p tiến v�o Đ� Nẵng năm 1858, giới C�ng gi�o kh�ng hề l�m nội ứng như thừa sai Pelerin tưởng [14]. Ngược lại, họ t�nh nguyện đi bảo vệ non s�ng. C� điều, vua Tự Đức đ�i họ, muốn tham chiến phải bỏ đạo trước đ�. Th�ng 7-1857, c� 14 binh sĩ, một bỏ đạo, 13 bị lưu đ�y. Th�ng 4-1858, trong nh�m 20 binh sĩ, bốn bỏ đạo, 16 bị lưu đ�y. V� khi t�u Ph�p đến, 193 binh sĩ C�ng gi�o chuẩn bị l�n đường xuống Đ� Nẵng, v� kh�ng chối đạo đ� l�nh �n chung th�n.

Một vị tử đạo thời n�y l� binh sĩ Trần Văn Trung, đ� bị giết v� khẳng kh�i tuy�n bố : "T�i l� Kit� hữu t�i sẵn s�ng đi đ�nh kẻ th� của đất nước, nhưng bỏ đạo th� kh�ng bao giờ" [15].


1,3. Sống Tin Mừng y�u thương

Thế nhưng ch�n dung đ�ch thực cuộc đời c�c vị tử đạo nổi bật ở l�ng y�u thương. Với người "c� đồng ăn đồng để", như y sĩ Phan Đắc H�a, th� �ng rộng r�i gi�p người ngh�o khổ, ri�ng bệnh nh�n t�ng thiếu, kh�ng những �ng chữa bệnh miễn ph�, lại c�n gi�p tiền gi�p l�a. Với �ng Martin� Thọ, th� "C�ng bằng chưa đủ, phải c� b�c �i nữa, m� muốn thực thi b�c �i phải c� điều kiện", v� �ng trồng th�m vườn d�u kiếm tiền gi�p người thiếu thốn. Người c�ng tử đạo với �ng l� Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người ngh�o chống lại một l� tưởng đ�i sưu cao thuế nặng. �ng Năm Thu�ng l� �n nh�n của viện c� nhi trong v�ng. �ng Tr�m Đ�ch thường xuy�n thăm viếng trại c�i v� sẵn s�ng nu�i người mắc bệnh dịch tại nh� m�nh.

Nếu t�nh thương b�c �i đ� được Đức Gi�su coi l� dấu chỉ của những m�n đệ Ng�i (Ga 13,35), ta kh�ng lạ g� linh mục Emmanuel Triệu sẵn s�ng nhường tiền bữa ăn �n huệ trước giờ xử tử : "Xin cầm tiền v� gửi cho người ngh�o d�m t�i". Linh mục Phan Văn Minh dặn đừng tổ chức an t�ng lớn, để d�nh tiền gi�p người bần c�ng. Linh mục Ho�ng Khanh trong t� sẵn s�ng chữa bệnh cho th�n nh�n vi�n cai ngục. V� gi�m mục Henares Minh đi đ�u cũng mang theo tr�p thuốc chữa bệnh miễn ph�.

Với �ng Cai Tả, th� y�u thương để xứng với t�nh Ch�a y�u, �ng thường ch�m chước cho những người mắc nợ v� n�i "M�nh qu�n nợ người, Ch�a qu�n tội m�nh". Với �ng Năm Quỳnh th� b�c �i r� rệt l� hoa quả của đức tin, �ng từng n�i với gia đ�nh : "B� v� c�c con kh�ng đồng � cho t�i lấy của nh� để gi�p người ngh�o, t�i sẽ đi vay mượn hoặc l�m thu� kiếm tiền gi�p đỡ họ", v� �ng n�i : "T�i chưa thấy ai hay gi�p người ngh�o kh� lại t�ng bấn bao giờ. Kinh Th�nh chẳng dạy ch�ng ta phải coi họ như chi thể của Ch�a đ� sao ? Ch�a đ� cho ch�ng ta sống, tất sẽ quan ph�ng cho ta đủ d�ng".

Với quan Hồ Đ�nh Hy th� : "Đừng l�m việc thiện c�ch m�y m�c qua lần chiếu lệ, m� phải l�m với thiện �". �ng từng chăm s�c nu�i nấng một người bệnh bơ vơ, suốt 15 ng�y s�ng tối thăm hỏi, v� khi người bệnh l�a đời, đ� tổ chức lễ an t�ng tổ tế. �ng cũng nu�i hai b� g�i bị bỏ rơi cho đến khi trưởng th�nh, một xin đi tu một xin lập gia đ�nh, �ng quảng đại lo đến nơi đến chốn.

Ch�ng ta c�n học được nơi c�c t�n hữu thời tử đạo hai mẫu gương b�c �i tập thể

-  Thứ nhất l� phong tr�o Th�nh Nhi (Saint Enfant). Mọi người thi đua nhau, nhất l� c�c y sĩ, c�c d� phước v� c� b� đỡ t�m mọi c�c rửa tội cho trẻ em bệnh nặng chết yểu. Họ thăm nom, săn s�c nu�i nấng, thuốc men v� tổ chức an t�ng. Nếu c�c em sống s�t, họ dạy gi�o l� v� nghề nghiệp cho đến khi tự lập được. Nhiều gia đ�nh rất quảng đại nhận trẻ mồ c�i l�m con nu�i. Gi�o phận đ�ng trong năm 1843 rửa tội 8273 em [16]. Gi�o phận Trung Đ�ng Ngo�i năm 1855 rửa tội được đến 35.349 em [17].

-   Mẫu gương thứ hai thể hiện trong c�c m�a dịch to�n quốc năm 1850-1851 : c�c t�n hữu c� mặt b�n giường c�c bệnh nh�n, đưa đến nh� thương chăm s�c, đ� l� giai đoạn c�c linh mục đi lại tự do. Thậm ch� ngay tại kinh đ� Ph� Xu�n, người ta được chứng kiến những nghi lễ an t�ng trọng thể, đi đầu l� th�nh gi� nến cao, tiếp đến hai h�ng t�n hữu, rồi linh mục với phẩm phục khăn cho�ng, họ vừa đi vừa h�t vang l�n b�i th�nh ca tiễn biệt.

D� chưa đi s�u v�o mẫu gương trong c�c cuộc tử đạo, th� những mẫu gương y�u thương của hầu hết t�n hữu đầu thế kỷ XIX với mảnh đất v� con người Việt Nam, đối với Gi�o hội h�m nay, cũng đủ l� một di sản qu� gi� th�i th�c k�u mời ch�ng ta phải ph�t huy, với những c�ch thế hữu hiệu v� cụ thể hơn, để phục vụ tha nh�n nhất l� những người c�ng khổ.


1,4. Mặn nồng t�nh nghĩa gia đ�nh

Một trong những đ�ng g�p của giới C�ng gi�o v�o cơ chế Ph�p l� gia đ�nh Việt Nam, l� luật lệ một vợ một chồng. Trong giai đoạn văn h�a qu� ảnh hưởng quan điểm Nho gi�o "trai năm th� bảy thiếp", c�c t�n hữu đ� g�p phần đề cao đạo đức thủy chung của d�n tộc trong truyện trầu cau. Dĩ nhi�n kh�ng phải mọi t�n hữu đều trung th�nh với lời cam kết h�n nh�n, như �ng L� Văn Gẫm, binh sĩ Phan Viết Huy, Cai Th�n, quan Hồ Đ�nh Hy ... đ� c� thời gian sa ng�, thế nhưng tất cả đều biết trở về để vun đắp lại m�i ấm gia đ�nh của m�nh.

Trong danh s�ch 117, trừ một số theo đạo khi đ� trưởng th�nh, c�n những ai sinh ra trong gia đ�nh C�ng gi�o đều được rửa tội v� gi�o dục đức tin ngay từ b�. Th�y Đaminh �y từng mạnh dạn tuy�n bố, giữ vững niềm tin l� giữ đạo cha �ng : "Nếu t�i cả gan bước l�n th�nh gi�, th� t�i x�c phạm đến Ch�a v� bất hiếu với mẹ cha. V� song th�n sinh ra t�i đ� dạy t�i trung th�nh với niềm tin cho đến chết". N�i chung c�c vị tử đạo khi bị bắt kh�ng tho�t khỏi t�nh cảm quyến luyến với người th�n, c� điều c�c vị chọn lựa Thi�n Ch�a v� tin tưởng ph� th�c người th�n choi Ng�i. Nhiều vị đang bị giam được về thăm gia đ�nh, đ� b�nh tĩnh khuy�n vợ con vui vẻ cho m�nh được chịu tử đạo, rồi tự động trở v�o t� như c�c �ng Ph�r� Dũng, Ph�r� Thuần, Laurens� Ng�n, Năm Thu�ng. Ta c� thể thấy điều đ� trong v�i di ng�n cuối c�ng sau

  • �ng Martin� Thọ căn dặn c�c con v�o thăm trong t� : "C�c con th�n mến, cha kh�ng c�n l�m g� gi�p c�c con ở thế gian n�y được nữa, cha chỉ c�n lo chuẩn bị t�m hồn đ�n nhận những thử th�ch cuối c�ng. � Ch�a đ� muốn cha xa l�a c�c con m�i m�i, nhưng c�c con c�n c� mẹ, h�y cố gắng v�ng lời mẹ. C�c con lớn h�y nhớ quan t�m săn s�c em m�nh. C�c con nhỏ phải biết k�nh trọng v�ng lời anh chị. H�y thương y�u nhau, si�ng năng l�m việc đỡ đần mẹ. H�y nhớ đọc kinh tối s�ng v� lần chuỗi M�n C�i hằng ng�y. Ch�a trao cho mỗi người một th�nh gi� ri�ng, h�y vui vẻ v�c theo ch�n Ch�a v� ki�n trung giữ đạo".

  • Y sĩ Phan Đắc H�a th� n�i : "Cha y�u thương c�c con v� hằng chăm s�c c�c con, nhưng cha phải y�u Ch�a nhiều hơn, c�c con h�y vui l�ng v�ng � Ch�a đừng buồn l�m chi. C�c con ở với mẹ, y�u thương nhau v� săn s�c việc nh�....".

N�i đến t�nh nghĩa gia đ�nh, ch�ng ta kh� c� thể qu�n một số h�nh ảnh như : linh mục Emmanuel Triệu v� thương mẹ gi� ở lại Huế ba th�ng dựng nh� cho mẹ, n�n mới bị bắt. �ng đội Trung c� con g�i được ph�p ở trong t� chăm s�c, nhưng �ng bắt con về để kịp học gi�o l� với bạn b� trong xứ. �ng Tr�m L� Văn Phụng tại ph�p trường gặp lại con g�i, c� Anna Nhi�n, đ� đeo cho con ảnh th�nh gi� ở cổ m�nh v� n�i : "Con h�y nhận lấy kỷ vật của Ba. Đ�y l� ảnh đức Gi�su Kit� Ch�a ch�ng ta, ảnh n�y qu� hơn v�ng bạc bội phần. Con h�y lu�n mang nơi cổ v� trung th�nh cầu nguyện sớm chiều con nh� !". Nếu n�i đến gia đ�nh tử đạo phải kể : anh em c� Anr� Tường - Vinhsơn Tương ; cha con c� �n Khảm - Cai Th�n ; con rể bố vợ c� L� Mỹ - Tr�m Đ�ch.

�ng L� Mỹ v� thấy nhạc phụ l� �ng tr�m Đ�ch đ� cao ni�n, mỗi cuộc tra tấn đều tự nguyện chịu đ�n hai lần thay thế cho cha. Con g�i �ng L� 12 tuổi, trốn mẹ v�o t� thăm v� thưa : "Xin cha can đảm chịu chết v� Ch�a". Cậu Tường 9 tuổi, con trai �ng kh�ng đi được, cũng nhắn lời : "Cha đừng lo cho ch�ng con, cha cứ an t�m vững l�ng xưng đạo v� chịu chết v� đạo". Vợ �ng, b� Mỹ n�i trong tiếng nghẹn ng�o : "Vợ con ai m� chẳng thương tiếc nhưng �ng h�y hy sinh v�c th�nh gi� rất nặng v� Ch�a. H�y trung th�nh đến c�ng, đừng lo nghĩ đến mẹ con t�i. Thi�n Ch�a sẽ quan ph�ng tất cả".

Như thế, ta thấy những th�n nh�n của c�c vị tử đạo, tuy vẫn tiếc thương, vẫn buồn kh�c, nhưng cũng can đảm v� tin tưởng yểm trợ tinh thần cho c�c chứng nh�n. Ch�ng ta quan t�m đặc biệt đến h�nh ảnh một số b� mẹ.

  • B� mẹ của Jaccard Phan, khi nghe tin con chịu chết v� đức tin đ� reo l�n : "Thật l� tin vui, gia đ�nh ta c� một vị tử đạo". B� n�i tiếp : "Xin ch�c tụng Ch�a, t�i sẽ buồn biết bao, nếu con t�i chịu khuất phục trước gian khổ v� cực h�nh".

  • B� mẹ Casta�eda Gia, khi em trai vị linh mục đang t�m c�ch b�o tin sao cho kh�o để mẹ bớt buồn. B� hỏi : "Tại sao Jacinto của mẹ lại chết ? Anh ấy chết bệnh hay bị giết ?". Cậu Cl�ment� hỏi lại : "Vậy mẹ muốn anh ấy chết c�ch n�o ?". B� đ�p : "Mẹ mong rằng Jacinto chết v� đức tin". Cl�ment� liền n�i "Thưa mẹ v�ng, ch�nh v� đức tin m� anh ấy bị giết". Ngay chiều h�m đ�, b� liền đến nh� thờ d�ng Đaminh để c�ng với c�c tu sĩ h�t l�n lời kinh Tạ Ơn TE DEUM.

  • B� Maria Nhiệm, th�n mẫu th�nh L� Văn Gẫm, năm 1870, tức l� 23 năm sau cuộc tử đạo của con trai, đ� đến l�m chứng tại t�a �n phong Ch�n Phước. B� n�i : "Khi nghe tin con bị giết, vợ chồng t�i kh�ng thảm thiết g� hết, chỉ n�i : chết như vậy đặng l�m th�nh".

  • Nhưng h�nh ảnh nổi bật nhất l� b� mẹ binh sĩ Anr� Tr�ng, được đức L�� XIII trong sắc phong ch�n phước năm 1900 ca tụng về l�ng can trường, đ� theo gương "Nữ vương c�c th�nh Tử Đạo". B� c� mặt trong cuộc h�nh quyết để d�ng hiến người con trai duy nhất. B� đi cạnh con, kh�ng than kh�c, kh�ng sầu buồn, lại b�nh tĩnh khuy�n con bền ch�. V� khi đầu vị tử đạo rơi xuống, b� mạnh dạn tiến v�o ph�p trường v� n�i với quan : "Đ�y l� con t�i, xin c�c �ng trả lại c�i đầu n� cho t�i". Rồi b� mở rộng vạt �o, bọc lấy thủ cấp của người con y�u qu�, đem về an t�ng ngay trong nh�.


1,5. K�nh y�u Đức Trinh Nữ Maria

Nếu n�i đến đời sống c�c Th�nh Tử đạo Việt Nam, ch�ng ta kh�ng thể bỏ qua l�ng t�n s�ng Đức Maria của c�c vị. L�ng t�n k�nh đ� thể hiện qua c�c thứ bảy đầu th�ng, với những cuộc rước long trọng, qua th�ng hoa v� th�ng M�n C�i mỗi năm, đặc biệt qua việc si�ng năng lần chuỗi M�n C�i hằng ng�y. Nhiều người đọc kinh tr�n đường đi v� lấy chuỗi l�m đơn vị t�nh đường d�i. Một niềm an ủi lớn cho giai đoạn thời Tử đạo l� việc Đức Mẹ hiện ra an ủi tại rừng La-Vang (Quảng Trị) năm 1798 : Mẹ vẫn hiện diện để n�ng đỡ kh�ch lệ con c�i m�nh trong những l�c kh� khăn. Ở đ�y ch�ng ta lưu t�m đến một số sự kiện ti�u biểu :

�ng Năm Thu�ng bỏ tiền dựng một nh� nguyện k�nh tr�i tim vẹn sạch Đức Mẹ; �ng L� Mỹ mỗi tối tụ tập c�c phu tuần đọc 50 kinh trước khi đi c�ng t�c ; linh mục N�ron Bắc ăn chay c�c lễ vọng k�nh Đức Mẹ ; linh mục Dụ khi biết m�nh sắp bị bắt đ� mang theo h�nh trang duy nhất l� một tr�ng hạt M�n C�i ; rồi linh mục Federich Tế tự nhận l� con đi�n Đức Mẹ. Khi dừng bước ở Macao đợi t�u đến Việt Nam, ng�i đ� cầu nguyện :

"Lạy Th�nh Mẫu cao vời nh�n �i,
Tấm l�ng con đi�n dại đ�ng thương,
Ng�y đ�m nung nấu can trường,
L�ng bao la Mẹ đ�u phương đ�p đền.
Trong t�m tưởng con hằng mơ ước,
Khắp mu�n phương loan b�o Tin Mừng,
Giờ con gặp cảnh sầu thương,
Như thuyền neo bến tr�ng dương xa vời"
[18].

Như vậy đ�, c�c ng�i đ� trao ph� cho Mẹ những ước vọng thầm k�n của m�nh để xin Mẹ trợ gi�p. Gi�m mục Borie Cao ghi lại trong nhật k� lời nguyện ng�y tận hiến cho Mẹ tại chủng viện :

"Lạy Mẹ của con, xin h�y tin nơi con, khi con trưởng th�nh, con sẽ hiến to�n th�n cho việc cải h�a c�c người chưa tin. Xin Mẹ gi�p con theo con đường v� tinh thần của ơn gọi đ�. Xin cho con được đau khổ v� đức Kit�, được đ�n nhận ng�nh l� Tử Đạo v� về đến bến vinh quang".

Đức cha Valentino Vinh trong thư gửi cho Mẫu th�n (thư 61) đ� n�i l�n suy nghĩ của m�nh, tuy c� vẻ h�i hước nhưng cũng tr�n đầy tin tưởng :

"Mẹ �, với tr�ng hạt M�n C�i trong tay, với lời Kinh Lạy Cha v� kinh K�nh Mừng Maria tươi nở tr�n m�i, với tư tưởng th�nh thiện trong t�m tr�, hỏi thế giới c�n chi đẹp đẽ hơn ? Mẹ h�y thưa với Đức Maria về con. Lời cầu nguyệ tốt ấy sẽ đ�nh gẫy răng quỉ dữ...".

 Đến khi đ� bị bắt, kinh M�n C�i vẫn l� lời kinh hằng ng�y của c�c chứng nh�n đức tin. C� khi c�c vị chia hai b� để đọc lớn tiếng trong t�. Gi�m mục Cao, hai linh mục Nguyễn Thế Điểm v� Vũ Đăng Khoa h�t vang b�i "Ave Maria Stella" (K�nh ch�o Mẹ sao Bắc Đẩu) v� cầu nguyện : "Như xưa Mẹ đ� d�ng Con Y�u Qu� trong đền thờ nay xin cũng hiến d�ng ch�ng con trong cuộc tử đạo hồng ph�c".

Linh mục Nguyễn Văn Hạnh thay v� d�y đạp, đ� h�n k�nh ảnh Đức Mẹ d� bị đ�nh đ�ng 100 roi. B� L� Thị Th�nh t�m sự : "Nhờ ơn Đức Mẹ gi�p sức, t�i kh�ng thấy đau đớn". Ngo�i ra linh mục Schoeffler Đ�ng trong thư, tỏ ra mừng rỡ khi biết tin m�nh tử đạo ng�y 01-5, ng�y đầu th�ng hoa k�nh Đức Maria. Linh mục Hoan lu�n đeo tr�n cổ �o Đức B� cho đến giờ xử tử, ng�i n�i : "Ảnh n�y t�i kh�ng thể cho ai được. Đ�y l� h�nh ảnh Đức Nữ Vương v� l� B� Ch�a của t�i". Linh mục Cornay T�n khi bị giam trong cũi, vẫn cất tiếng h�t, l�nh nghe hay n�n b�o với quan, thế l� quan bắt h�t mới cho ăn, ng�i kể lại trong thư rằng: "Mỗi bữa ăn t�i lại c� dịp h�t th�nh ca ch�c tụng Đức Maria".

Cuối c�ng, ngay giờ ph�t h�nh h�nh, c�c vị Tử đạo vẫn cậy nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria. Linh mục Cornay T�n cầu nguyện "Xin Đức Maria chứng gi�m cho việc s�m hối của con...". Hai linh mục Casta�eda Gia v� Phạm Hiếu Li�m từ trại t� ra ph�p trường đ� h�t vang lời kinh Salve Regina (Lạy Nữ Vương) để chạy đến "Mẹ nh�n l�nh, l�m cho ch�ng con được sống được vui được cậy... Xin cho ch�ng con được thấy Đức Gi�su con l�ng Mẹ ...". Bởi v� thực ra trong th�m t�m của c�c vị, cuộc tử đạo quả l� một hiến tế cần nhờ Mẹ l�m trung gian để d�ng l�n Thi�n Ch�a, như Linh mục Th�ophane V�nard Ven đ� ghi lại lời nguyện trong thư gửi Đức cha Theurel :

"Lạy Mẹ V� Nhiễm, khi đầu con rơi xuống dưới lưỡi gươm của l� h�nh, xin nhận lấy t�i tớ nhỏ b� như tr�i nho ch�n được h�i, như b�ng hồng nở rộ được ngắt về d�ng k�nh tr�n b�n thờ. Ave-Maria ".

 
II. TỬ ĐẠO : HIẾN TẾ T�NH Y�U

Trong thư chung 1798, Gi�m mục Alonso Ph� đ� khẳng định với c�c t�n hữu thời tử đạo rằng, nếu trong cuộc tử đạo họ kh�ng thể hiện đức y�u thương, th� kể như l� v� �ch, ng�i viết :

"...Phải lấy mlời n�i c�ng việc l�m m� xưng đạo ra cho thật th�. Phải k�nh mến Đức Ch�a Blời trước hết mọi sự hơn của cải, hơn mạng sống m�nh, lại phải y�u-thương người ta bằngm�nh vậy, v� nếu chẳng c� đức y�u thương d� chịu chết v� đạo, th� cũng chẳng được g� sốt. V� ph�c tử đạo tại đức Caritas l� l�ng mến đức Ch�a Blời tr�n hết mọi sự, c�ng y�u người ta bằng m�nh v� Đức Ch�a Blời m� chớ" [19].

Hiến tế đầu ti�n của Gi�o hội l� Ch�a Gi�su, Đấng đ� tự hiến mạng sống m�nh v� y�u nh�n loại. C�c vị tử đạo đ� theo s�t mẫu gương của ng�i trong cuộc khổ nạn, từ vườn C�y Dầu cho đến đỉnh đổi Canv�.


2,1. "Xin cất cho con ch�n n�y"

Lời cầu nguyện của Đức Gi�su trong vườn C�y Dầu gợi l�n một th�i độ căn bản của c�c vị tử đạo l� : KH�NG CUỒNG T�N. kh�ng được chạy theo vinh quang giả dối, d� l� bằng h�nh vi d�ng hiến ho�n hảo nhất. Thế nhưng khi n�o Đấng Quan Ph�ng muốn biểu lộ niềm tin bằng h�nh động cụ thể, th� c�c vị phải đi cho trọn con đường của m�nh. Kh�n ngoan v� can đảm như hai đức t�nh h�a hợp nơi c�c th�nh Tử Đạo. Kh�ng c� quyền liều mạng. Với c�c linh mục, vẫn c� nghĩa vụ sống gần c�c t�n hữu, phải rất kh�n ngoan v� thận trọng. Linh mục Vũ Đ�nh Tước diễn tả điều đ� bằng c�u : "Bỏ chạy khi n�o c�n c� thể, nếu kh�ng chạy được th� xin v�ng � Ch�a".

Lời Kinh Th�nh "C�o c� hang, chim c� tổ, nhưng con người kh�ng c� chỗ gối đầu" thường được nhắc nhở tr�n m�i c�c linh mục tu sĩ. Bị rượt ở th�nh n�y, c�c vị trốn qua th�nh kh�c, nhưng vẫn kh�ng ngừng hoạt động. Trong một l� thư đức cha Cu�not Thể viết : "D� chỉ c�n một gi�o sĩ chẳng l�m được g� ngo�i việc đọc kinh Thần Vụ, th� nguy�n sự hiện diện của vị đ�, cũng đủ n�ng đỡ niềm tin v� sinh hoạt cho c�c t�n hữu rồi". Ngo�i ra, đến khi bị bắt, nếu c� thể c�c t�n hữu sẵn s�ng bỏ tiền để chuộc mạng cho c�c ng�i, như linh mục Dũng Lạc hai lần được chuộc, lần thứ ba mới chịu tử đạo.

Ở đ�y ch�ng ta lưu t�m đến năm vị tử đạo trong hai dạng tự nộp m�nh :

a/ Hai vị muốn được chia sẻ cuộc tử đạo của th�y m�nh, họ kh�ng thuộc nh�m 12 t�ng đồ ở vườn C�y Dầu bỏ th�y chạy trốn, đ� l� th�y Tự v� linh mục Duệ. Th�y Tự khi thấy cha Cao bị bắt đ� lẽo đẽo theo sau v� xin vị linh mục nhận m�nh l� m�n sinh để được chia sẻ những gian lao của Ng�i. Vị thừa sai cảm động trao cho th�y nửa chiếc khăn để l�m kỷ vật, v� th�y Tự đ� giữ khăn đ� cho đến chết. Ng�y h�nh quyết, th�y xin được xử ngay tại nơi đ� thấm m�u người cha th�n y�u m�nh năm trước.

C�n linh mục Vũ Văn Duệ đ� 83 tuổi v� về hưu được s�u năm, khi đức cha Y gh� thăm v� hỏi : "Cụ c�n sức theo t�i l�n thủ phủ Nam Định chăng ?". Cha Duệ hiểu � vị Gi�m mục muốn n�i đến việc tử đạo n�n đ�p : "Khi n�o đức cha bị bắt, xin cho ph�p con theo c�ng". V� thế khi hay tin vị gi�m mục đ� bị bắt, cha thường la lớn để binh l�nh đến bắt Ng�i. Trong ngục khi biết đức cha đ� bị ch�m, cha Duệ liền bỏ chiếu nằm đất v� n�i : "Gi�m mục l� cha đ� phải xử, ta l� con m� nằm chiếu sao phải lẽ".

b/ Trường hợp thứ hai l� ba vị tử đạo tự nộp thế mạng cho người kh�c, đ� l� : Linh mục Gioan Đạt vừa d�ng lễ xong th� qu�n l�nh v�y bắt. Cha đ� chạy tho�t, nhưng v� để qu�n �o lễ, cha thấy qu�n l�nh tra tấn gia chủ n�n ra nộp mạng v� n�i : "Vẫn biết t�i c� thể tho�t, nhưng như thế anh chị em sẽ bị khổ nhiều". Vị thứ hai, thừa sai Gagelin K�nh, viết thư xin ph�p gi�m mục cho m�nh ra tr�nh diện để t�n hữu B�nh Định được b�nh an. Vị thứ ba l� linh mục Đặng Đ�nh Vi�n, cha đ� trốn an to�n trong vườn m�a d�y đặc, nhưng khi thấy qu�n l�nh đ�nh đập tra khảo con của chủ nh�, cha cũng tự động ra thế mạng. Những mẫu gương n�y l�m ta li�n tưởng đến th�nh Maximilien Kolbe ở trại tập trung Đức quốc x� sau n�y.


2,2. Kh�ng để ai li�n lụy

Như Đức Gi�su trong vườn C�y Dầu đưa tay cho qu�n l�nh bắt, nhưng y�u cầu cho c�c m�n đệ được tự do, c�c vị tử đạo tuyệt đối kh�ng để ai bị li�n lụy. Một người duy nhất khai t�n năm s�u t�n hữu v� tưởng những người n�y đ� trốn l� quan Hồ Đ�nh Hy, lời khai của �ng l�m li�n lụy đến 29 người. �ng hết sức hối hận, v� n�i : "T�i cam chịu mọi cực h�nh để n�n giống Đức Kit�, để đền b� tội lỗi của t�i".

Linh mục Nguyễn Đ�nh Nghi đi đ�u cũng mang theo v�i n�n bạc, c� � giao cho l�nh, để chủ nh� nơi ng�i trọ được b�nh an. Linh mục Federich Tế khi bị bắt đ� y�u cầu, v� l�nh nghe ng�i thả những gi�o hữu đang bị tr�i. Đức cha Borie Cao d� bị đ�nh đập, kh�ng khai t�n bất cứ ai, sau quan cho l�i th�y Tự ra đ�nh v� n�i họ sẽ đ�nh th�y m�i nếu ng�i kh�ng khai. Thế l� cha liền kể t�n v�i người đ� qua đời, quan vui vẻ tha cho th�y Tự, nhưng khi kiểm tra lại mới biết những người đ� đ� chết. Quan hỏi : "Sao �ng cứng đầu thế ?" Cha đ�p : "Thưa, c�u hỏi của quan t�i kh�ng thể trả lời kh�c hơn được".

Bốn linh mục �m thầm bỏ gi�o xứ để c�c t�n hữu được an to�n. C�c vị đi m� chẳng biết sẽ đến đ�u, đ� l� linh mục Đỗ Yến, Vinhsơn Điểm, Borie Cao v� N�ron Bắc. Trường hợp thừa sai Schoeffler Đ�ng bị bắt chung với một linh mục Việt v� hai ch� gi�p lễ, khi qu�n l�nh đ�i tiền chuộc, cha y�u cầu thả những người kia ra, lấy cớ chỉ c� họ mới biết chỗ để tiền, đến khi họ đ� đi xa, cha n�i r� � muốn chỉ một m�nh bị bắt. Ngo�i ra ta phải kể đến �ng Năm Quỳnh, v� l�m tr�m họ n�n giữ số c�c t�n hữu, khi thấy qu�n l�nh giữ cuốn sổ đ�, �ng nhắn con trai đưa 50 quan tiền để chuộc lại.

Một h�nh ảnh ti�u biểu nhất của việc kh�ng để ai li�n lụy l� linh mục Tự. Khi bị giam giữ, cha thấy trong sổ s�ch bị tịch thu c� cuốn sổ ghi t�n c�c t�n hữu xứ Kẻ Mốt, cha l�n đem về trại giam, rồi t�m c�ch chuyển ra ngo�i. Nhưng v� qu�n l�nh canh giữ qu� kỹ lưỡng kh�ng thể l�m g� được, cha liền bầy kế xin một chiếc chiếu đắp cho đỡ muỗi, rồi nằm trong chiếu ng�i nhẩn nha nhai v� nuốt từng tờ cuốn sổ ấy. Dĩ nhi�n "m�n ăn" n�y kh�ng hợp khẩu vị ch�t n�o, n�n mới được hai phần cuốn, cha đ� thấy r�t cổ kh�ng nuốt nổi nữa, phần c�n lại cha đ�nh nhai n�t rồi giấu dưới gầm phản.


2,3. Kh�ng man tr�

Khi xưa trong cựu ước, c� cụ Eleazaro kh�ng chấp nhận giả bộ ăn của c�ng, một số vị tử đạo kh�ng chấp nhận mọi h�nh thức kh�a qu� tr� h�nh. Nhiều linh mục như c�c cha L� T�y, Đỗ Yến, Ho�ng Khanh, Nguyễn Văn Hưởng, L� Bảo Tịnh... nhất định kh�ng khai man l� lịch l� lang y d� được hứa trả tự do.

Nhiều khi quan t�m v� thương t�nh, t�m c�ch giải gỡ kh� khăn lương t�m của c�c chứng nh�n đức tin. Họ y�u cầu c�c vị giả bộ bước qua Thập gi� chứ kh�ng cần l�m thực sự. Linh mục Phan Văn Minh, quan chỉ đ�i gật đầu l� sẽ k� giấy đ� bước qua Thập gi�. Nh�m năm người thầy Hả Trọng Mậu, B�i Văn �y v� c�c anh Nguyễn Văn Mới, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Vinh, quan chỉ y�u cầu “đi v�ng quanh Th�nh Gi�”. Ri�ng với linh mục Đỗ Yến, quan vẽ một v�ng tr�n rồi y�u cầu bước qua v�ng đ�. Nhưng tất cả c�c vị kh�ng thực hiện, v� thấy r� rệt đ� l� dấu bỏ đạo.

Th�y giảng Nguyễn Cần, quan n�i nhắm mắt bước đại qua Thập gi�, th�y đ�p : "Thưa quan, mắt th� nhắm được, chứ l�ng v� tr� kh�n kh�ng thể nhắm được, n�n t�i chẳng l�m". Một số gi�o hữu đ� bỏ đạo dụ dỗ th�y : "Tội n�o Ch�a chẳng tha, th�nh Ph�r� chối Ch�a ba lần c�n l�m thủ l�nh Gi�o hội.". Người kh�c lừa dối : "Cha Retord nhắn th�y cứ bước qua Thập gi�, rồi về sẽ liệu sau". Thầy Cần đ�p : "D� thi�n thần c� xuống bảo t�i bỏ đạo, t�i cũng chẳng nghe nữa l� cha Li�u. Hơn nữa t�i biết chắc ng�i kh�ng ra lệnh cho t�i như vậy".


2,4. Như một Th�nh lễ cuộc đời

Thế nhưng, c�c vị tử đạo đ� kh�ng chết chỉ v� một l� tưởng, một � thức hệ hay một tham vọng n�o cả. Đối với c�c ng�i, sự hiến d�ng ch�nh v� một Đấng m� c�c ng�i y�u mến l� Đức Gi�su, �ng Năm Quỳnh khi bị xử giảo, nằm giang tay tr�n đất c�n n�i : "Xưa Ch�a cũng giang tay thế n�y để chịu đ�ng đinh". Đức cha Sanjurjo An viết : "Chớ g� m�u t�i h�a với m�u Đức Kit� tr�n đồi Canv� tẩy rửa t�i sạch mu�n v�n tội lỗi". Linh mục Gagelin K�nh n�i : "T�i ước mơ trở th�nh tro bụi để kết hợp với Ch�a Kit�. T�i giữ từ c�i đời n�y, kh�ng hề thương tiếc điều g�, chỉ nh�n l�n Ch�a Kit� chịu đ�ng đinh, đủ an ủi t�i về mọi đau khổ v� cả c�i chết nữa".

Linh mục Đinh Viết Dụ t�m sự với người v�o thăm rằng : "Sức t�i tuy đ� giảm, nhưng c�n chịu đựng được. Ch�a ch�ng ta đ� chịu bao h�nh khổ để cứu độ nh�n loại. T�i cũng sẵn l�ng chịu những sự kh� n�y để n�n giống Ch�a Kit� phần n�o". Linh mục Ng� Duy Hiển lại n�i : "T�i sẵn s�ng chết v� Đấng đ� chết cho t�i". Ngo�i ra, tất cả c�c vị tử đạo đều thấy c�i chết của m�nh như một hiến tế, tất cả đều cầu nguyện, hiến d�ng đời m�nh trong những gi�y ph�t cuối c�ng, v� khi biết ch�nh x�c ng�y xử, c�c vị thường chuẩn bị tinh thần bằng những hy sinh tự nguyện, hoặc bằng ăn chay h�m m�nh, hoặc bằng những thời gian d�i suy niệm.

C� hai h�nh ảnh đ�ng ghi nhớ đặc biệt : �ng Tống Viết Bường, trường hợp đặc biệt xử về đ�m, đ� t�m c�ch đi chậm để xin được chết tr�n nền cũ nh� thờ Thợ Đ�c, Huế. Ch�nh nơi đ� từng bao năm th�ng c�c t�n hữu tụ tập d�ng l�n Ch�a Hiến lễ tối cao l� Đức Gi�su, th� cũng tại đ�y, �ng hiến d�ng ch�nh mạng sống m�nh. H�nh ảnh thứ hai l� gi�m mục Henares Minh, sau khi người học tr� y�u qu� l� th�y Chiểu bị xử trảm, ng�i k�nh cẩn đ�n lấy thủ cấp của th�y, rồi d�ng l�n cao như một lễ vật tinh tuyền k�nh d�ng Thi�n Ch�a. Cả ph�p trường đều thinh lặng ngất ng�y trong gi�y ph�t c� một kh�ng hai đ�, gi�y ph�t kết tinh trọn vẹn cuộc đời d�ng hiến của một người con c�i Ch�a.

Như vậy tử đạo ch�nh l� một th�nh lễ cuộc đời. L� thư linh mục Bonnard Hương ng�y �p cuộc tử đạo n�i r� l�n điều đ� : "Giờ long trọng đ� điểm, xin ch�o tất cả mọi người đ� thương mến v� nhớ đến t�i... Tr�ng cậy v�o l�ng Đức Gi�su nh�n từ, t�i tin Ng�i thứ tha mu�n v�n tội lỗi cho t�i. T�i tự nguyện hiến d�ng m�u v� mạng sống v� y�u mến Ng�i, v� v� những linh hồn y�u dấu m� t�i muốn phục vụ hết m�nh... Ng�y mai sẽ l� ng�y hiến tế của t�i. Xin cho � Ch�a được thể hiện". V� như Đức Gi�su xưa tr�n đồi Canv�, ng�i kết th�c bằng lời nguyện : "Trong tay Ng�i, Lạy Ch�a, con ph� th�c hồn con".

T�m lại, tử đạo ch�nh l� Hiến Tế T�nh Y�u. Đoạn thư sau đ�y của đức cha Retord Li�u gởi cho linh mục Hương ở trong t�, tuy l� một suy niệm dựa v�o danh xưng vị thừa sai, nhưng tiềm ẩn b�n trong � nghĩa s�u xa của tất cả c�c cuộc tử đạo :

"T�i đ� ch�c l�nh cho cha khi đ� đặt cho cha danh xưng đẹp đẽ CỐ HƯƠNG, nghĩa l� người cha của qu� hương, l� hương trầm v� l� hương thơm. Ch�nh l�c n�y đ�y, qu� hương y�u dấu đ� đang sắp xuất hiện cho cha trong �nh huy ho�ng, v� cha sắp l� một trong những c�ng d�n hạnh ph�c. Ch�nh l�c n�y đ�y, Hương trầm qu� gi� chuẩn bị đốt l�n tr�n b�n thờ tử đạo v� bay đến tận ngai Đấng Vĩnh Cửu. Ch�nh l�c n�y đ�y, Hương thơm đ�ng ca tụng sẽ l�m h�i l�ng Đức Gi�su như b�nh hương của c� Madalena, sẽ l�m cho thi�n thần v� lo�i người, trời v� đất h�n hoan v� hương vị ngọt ng�o của n�".

Vậy đ�, mỗi cuộc đời tử đạo l� cuộc tự hiến. Đức cha Cu�not Thể t�m sự : "Nh�n c�c bạn từng người bước l�n b�n thờ tử đạo, t�i thấy m�nh c� đơn qu�, ng�y đẹp nhất đời t�i l� ng�y được hiến tế tr�n b�n thờ tử đạo". Cuộc đời c�c chứng nh�n đức tin chịu đốt ch�y trong lao khổ, trong ngục h�nh, v� cả c�i chết đều như hương trầm d�ng l�n Thi�n Ch�a, sẽ tỏa hương thơm ng�t cho ng�n mu�n thế hệ.



III. TỬ ĐẠO L� CHỨNG TỪ

Nguy�n việc c�c vị tử đạo chấp nhận c�i chết v� niềm tin đ� l� một chứng từ mạnh mẽ với mọi người tham dự. Thế nhưng, ngo�i chứng từ bằng m�u đ�o, c�c vị tử đạo c�n l�m chứng cho nội dung Tin Mừng bằng th�i độ của m�nh với vua quan, bằng sự li�n đới nội bộ v� nhất l� bằng lời n�i, giải th�ch về đạo hoặc truyền giảng Ph�c �m ngay trong ngục thất.


3,1. Th�i độ với vua quan

N�i chung tất cả c�c anh h�ng tử đạo đều tỏ vẻ k�nh trọng giới quan quyền, c�c vị n�i năng lịch sự, h�a nh�, thưa bẩm đ�ng qui c�ch. Dường như đối với c�c vị, phải t�m mọi c�ch để gi�p quan qu�n gặp được Ch�n l� của Tin Mừng. C� khi c�c vị n�i r� � tưởng đ�, như trường hợp linh mục Đaminh Trạch : "Nếu quan muốn sự sống đời đời, h�y thờ lạy Th�nh gi� n�y". C�n b�nh thường, c�c vị �n tồn, tế nhị giải đ�p những thắc mắc, biện b�c những dư luận sai lầm. V� thế c�c quan đ�i lần biểu lộ tấm l�ng mến thương cảm phục như trong vụ �n linh mục Laurens� Hưởng, vi�n quan thấy tử tội c� d�ng dấp một đạo sư, n�n hứa hẹn nếu chịu bỏ đạo, sẽ thu xếp cho ng�i đến trụ tr� Ch�a Non Nước ở Ninh B�nh.

Thừa sai Bonnard Hương t�m sự : "Trước mặt vua quan, t�i c� kinh nghiệm cụ thể lời đức Gi�su: Ch�a Th�nh Linh sẽ n�i thay c�c con. Thực vậy, chưa bao giờ t�i n�i tiếng Việt lưu lo�t v� dễ d�ng như thế". Trường hợp đức cha Cao cho ta thấy, c�c vị tử đạo c� lẽ c�n coi quan quyền như những t�c nh�n trong chương tr�nh quan ph�ng của Ch�a. Khi vi�n quan vừa đọc xong bản �n tử h�nh, ng�i n�i : "Thưa quan, từ b� đến nay t�i chưa lạy ai, v� b�n �u ch�u đ� l� h�nh vi k�nh trọng chỉ d�nh cho Đấng Tối Cao. Nhưng điều t�i vừa nghe l�m t�i qu� vui mừng, xin được b�y tỏ l�ng tri �n của t�i theo lối Đ�ng Phương". Rồi ng�i quỳ xuống định lạy, nhưng vi�n quan đ� kịp thời cản lại.

Hai đoạn thơ sau đ�y cho ta thấy r� th�i độ bất bạo động của c�c vị tử đạo. Một đ�ng cương quyết đấu tranh cho tự do lương t�m của con người, đ�ng kh�c vẫn lu�n lu�n muốn l� trung thần của nh� vua. B�i thứ nhất của �ng L� Mỹ :

"G�ng đ�ng xiềng mang, dạ nguyện kinh,
Những say về đạo hả về t�nh
Vai mang bốn điệp tai th�m ấm
Xổng xểnh ba v�ng cổ lại thanh
Ph�p nước đ�nh l�ng kh�ng o�n th�n
Nghĩa Th�y để dạ vẫn đinh ninh
Khiến sao n�n vậy n�o lo nghĩ
Ph� mặc Ho�ng Thi�n sự tử sinh."

Đoạn thơ thứ hai của linh mục Đo�n C�ng Qu� gởi cho mẫu th�n :

"... Dầu trăng tr�i g�ng c�m t� rạc,
Ch�n ngục h�nh xiềng tỏa chi nề,
Miễn vui l�ng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử...".


3,2. Li�n đới tập thể

Một chứng từ kh� đặc biệt c�c t�n hữu thời tử đạo n�u l�n với quần ch�ng l� việc họ lu�n gắn b�, th�ng cảm v� sẵn s�ng san sẻ những kh� khăn, cũng như li�n đới với nhau để tuy�n xưng niềm tin của m�nh. Kh�ng cảm động sao được, h�nh ảnh c� b� ch�u 5 tuổi ở T�y Ban Nha mỗi ng�y cầu nguyện cho b�c gi�m mục Henares Minh : "... Trung th�nh phục vụ Ch�a suốt đời, v� nếu cần để t�n vinh v� l�m hiển danh Ch�a hơn, xin cho b�c được hiến d�ng mạng sống v� y�u Ng�i". Ấy thế m� em chỉ biết : "B�c t�n Đaminh, tu d�ng Đaminh, đang truyền gi�o ở thật xa, nơi người ta đang b�ch hại c�c Kit� hữu".

Kh�ng cảm động sao được, cụ �n Khảm vốn l� ti�n chỉ l�ng Quần Cống, đang khi qu�n l�nh bao v�y l�ng, cho m� đi rao : "Tr�nh quan vi�n l�ng nước, c� lệnh cụ �n, truyền rằng : ai m� qu� kh�a phải phạt ba roi v� bị đuỗi khỏi l�ng". V� ngay trước mặt qu�n l�nh, cụ �n đứng ra ngăn cản một t�n hữu nh�t sợ định đạp l�n Th�nh gi�.

Kh�ng cảm động sao được, một linh mục Nguyễn B� Tuần đang ở nơi y�n h�n, khi hay tin vị thừa sai Fernandez Hiền kh�ng c� nơi ẩn tr�, đ� đến gặp để c�ng nhau tr�n đường lưu lạc, c�ng phơi nắng phơi sương nhiều ng�y trong đồng lầy, c�ng bị bắt v� c�ng bị kết �n, c� điều cha Tuần chết rũ t� mấy ng�y trước buổi h�nh quyết.

Khi c�c vị tử đạo bị bắt, c�c vị vẫn t�m được nguồn kh�ch lệ từ b�n ngo�i qua thư từ, thăm viếng, tiếp tế. C�c linh mục t�m đủ mọi c�ch v�o thăm c�c chứng nh�n đức tin để đưa Th�nh Thể v� giải tội cho họ. Linh mục Ph�r� Lựu đ� bị bắt khi l�m mục vụ cho c�c t�n hữu trong ngục t� Mỹ Tho. Đọc đoạn thơ sau đ�y của đức cha Retord Li�u gởi linh mục Phạm Khắc Khoan trong t�, ch�ng ta thấy phần n�o nội dung những mối li�n đới đ�

"S�ch c� c�u : Chết vinh hơn sống nhục. H�y coi những kẻ bội gi�o, cuộc đời họ đ�ng tủi hỗ biết bao. Ngược lại, khắp bốn phương thi�n hạ đều vang lời ngợi khen những ai chết cho đức tin. C�c vị tử đạo như tiếng k�n thi�n quốc với �m điệu vang lừng mu�n người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở lại trần gian chỉ chờ lưỡi r�u chặtđem về tiếp lửa cho hỏa ngục...T�i viết cho cha những lời vắn tắt vội v� n�y. Ước mong n� th�nh ngọn gi� đưa cha lướt �m đến bến bờ qu� hương. Ước mong n� th�nh b� hoa rực rỡ với l�n hương thơm ng�t tỏa niềm tin t� thắm t�m hồn cha trong cuộc chiến cuối c�ng. Xin k�nh cẩn tạm biệt cha, xin k�nh cẩn h�n l�n g�ng c�m xiềng x�ch của cha. Trong l�c cầu nguyện xin đừng qu�n t�i nh�".

Như vậy, ch�ng ta thấy cuộc đời tử đạo của mỗi người kh�ng chỉ một m�nh m�nh biết, nhưng thường mang yầm v�c tập thể. Sự bền vững của một người c� t�c động kh�ch lệ đến nhiều người. Đức cha Sanjurjo An xin qu�n l�nh đừng ch�m m�nh chết sớm, nhưng ng�i y�u cầu họ ch�m ba nh�t : “Một tạ ơn Thi�n Ch�a cho l�m người v� đến Việt Nam rao giảng Tin Mừng; một c�m ơn c�ng sinh th�nh dưỡng dục mẹ cha; v� một để l�m gương cho c�c t�n hữu”. Linh mục Nguyễn B� Tuần khẳng định : "Sao t�i lại phải bắt chước những kẻ bội gi�o, mẫu gương t�i soi l� hai gi�m mục (đức cha Y v� Minh) của t�i ".

Với những chứng nh�n đức tin c�ng bị giam, t�nh li�n đới của họ c�n cụ thể hơn. Một người ra t�a trở về, c�c người kh�c x�m v�o chăm s�c những vết thương, hỏi han về cuộc điều tra v� thuật lại cho nhau những lời đ�p khẳng kh�i khi đối diện với quan quyền. Rồi họ c�ng nhau tạ ơn Ch�a đ� cho anh em m�nh vượt qua cơn thử th�ch. Đẹp l�m sao h�nh ảnh linh mục Đo�n Trinh Hoan tuy tuổi gi� t�c bạc, cổ mang g�ng, tay đeo xiềng x�ch, mỗi ng�y đi từ ph�ng giam n�y qua ph�ng giam kh�c để kh�ch lệ c�c t�n hữu. Đẹp l�m sao h�nh ảnh hai �ng Martin� Thọ v� Gioan Cỏn sẵn s�ng qu� xuống, liếm từng vết thương ba vị linh mục Nguyễn Ng�n, Nguyễn Đ�nh Nghi, Tạ Đức Thịnh theo đ�i hỏi của quan. Đẹp l�m sao linh mục Phạm Hiếu Li�m đ� b�nh vực cho bạn (Castaneda Gia) bằng c�i gi� ch�nh mạng sống m�nh, khi n�i : "Xin quan nếu tha th� tha cả, nếu giết th� giết cả".

Nh�m năm người, hai th�y H� Trọng Mậu, B�i Văn �y v� ba anh Nguyễn Văn Mới, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Vinh khi thấy linh mục Tự, chỗ dựa tinh thần của nh�m đ� bị xử tử cả năm người đ� thất vọng ch�n nản. Nhưng khi họ ngổi lại với nhau, �n lại những lời khuy�n của th�y mến y�u, năm người đ� t�m được can đảm. Họ gởi thư cho cha ch�nh d�ng Đaminh để xin khấn d�ng Ba ngay trong ngục, rồi hợp lực với nhau l�m t�ng đồ tại nh� giam. Chỉ một thời gian ngắn, th�y Mậu đ� viết thư loan tin m�nh rửa tội được 44 người.


3,3. Loan b�o Tin Mừng

Lời Ch�a kh�ng thể bị tr�i buộc. Nếu nhiều chứng nh�n đức tin chẳng để lại di ng�n n�o ngo�i th�i độ quả cảm x�c nhận v� cương quyết : "T�i l� Kit� hữu" hoặc "T�i kh�ng bao giờ đạp l�n Th�nh gi�", th� trong số 117 Th�nh Tử Đạo Việt Nam, ta cũng thấy được nhiều mẫu gương nhiệt t�m t�ng đồ c� t�nh c�ch s�ng tạo.

Linh mục Federich Tế, ch�nh bảy năm rưỡi trong t�, đ� kh�o quan hệ với cai ngục để tự do thăm viếng phục vụ c�c t�n hữu Thăng Long, đến độ đức cha Longer Gia dự định đặt ng�i l�m cha sở xứ Thăng Long. Bảy th�ng trước ng�y xử, c�ng với linh mục bạn l� cha Liciniana Đậu, hai vị rửa tội được tr�n 100 người. Hai linh mục Casta�eda Gia v� Phạm Hiếu Li�m c� cơ hội may mắn kh�c, trong ba ng�y tham gia “Hội đồng Tứ Gi�o” trao đổi ba đề t�i lớn của c�i nh�n sinh : Người ta bởi đ�u m� c� ? sống để l�m g� ? v� chết rồi đi đ�u ? Hai ng�i đ� l�m chứng cho sự thật v� niềm tin C�ng gi�o. C�n “đức th�y” Tuấn (Hermosilla Li�m) bị giam trong cũi trong 10 ng�y, tuy lom khom đứng kh�ng được m� nằm cũng chẳng đặng, nhưng ng�i đ� giảng đạo v� rửa tội cho con trai vi�n Đội B�i. Về gi�o d�n c� �ng cai L� Đăng Thị đ� dạy đạo cho một phạm nh�n c�ng bị xử, buổi s�ng ng�y ra ph�p trường anh đ� nhận l�nh b� t�ch rửa tội, thế l� �ng Thị c� một người bạn đồng h�nh về Thi�n Quốc.

Đ�i khi việc loan b�o Tin Mừng kh�ng thể hiện bằng ng�n ngữ m� bằng h�nh động. �ng Phaol� Đổng đ� bị �p lực khắc l�n m� chữ Tả đạo, �ng can đảm chịu đau lần thứ hai để rạch x�a chữ tả đạo, khi kh�c lại chịu đau lần thứ ba để khắc thay v�o hai chữ "Ch�nh đạo".

Linh mục Ng� Duy Hiển, 71 tuổi, mỗi buổi tối chăm ch� vẽ tr�n vải những h�nh th�nh gi� đẹp với những n�t trang tr� hoa văn để tặng cho c�c t�n hữu v�o thăm. Những h�nh th�nh gi� đ� được chuyền tay nhau, gi�p một số tội nh�n thống hối, một số người nh�t đảm v� t�m lại được l�ng can trường, n�n c�c t�n hữu đến xin ảnh rất đ�ng. Vị linh mục phải nhờ anh bạn t� khắc h�nh th�nh gi� tr�n gỗ để in h�ng loạt ban ph�t cho họ. Thế đấy tuy ở trong t�, cha Hiển đ� g�y được phong tr�o k�nh th�nh gi� rộng r�i ở Nam Định.

Một trường hợp loan b�o Tin Mừng kh�c cũng kh� đặc biệt. Linh mục Nguyễn Văn Tự đến ng�y bị xử tử, đ� xin ph�p quan được mặc �o d�ng Đaminh v� �m th�nh gi� ra ph�p trường. Trước khi bị ch�m, cha xin n�i đ�i lời v� ứng khẩu giảng gần một giờ về Đức Gi�su, về ơn Cứu độ, về t�nh huynh đệ mọi người l� anh em.

 
IV. CH�N DUNG C�C VỊ TỬ ĐẠO

Trong c�c phần tr�n, ch�ng ta đ� quan s�t c�c anh h�ng tử đạo trong sinh hoạt hằng ng�y, nghi�n cứu về t�m tư v� lời n�i c�c vị. Giờ đ�y ch�ng ta c�ng nhau chi�m ngưỡng ch�n dung c�c ng�i, dựa v�o th�i độ trong giờ ph�t cuối c�ng cuộc đời chứng nh�n, ch�ng ta thấy được tư thế, n�t mặt v� c� lẽ cả �nh mắt của c�c ng�i nữa.


4,1. L�ng anh dũng h�o h�ng

Một quan niệm sai lầm c�c t�n hữu dễ mắc phải l� tưởng tượng c�c vị th�nh qu� linh thi�ng như những thi�n thần, nghĩ rằng với ơn Ch�a, c�c vị tử đạo chẳng c�n biết đau đớn g� nữa. Thực ra, c�c vị vẫn mang th�n phận rất người như ch�ng ta, cũng sợ đ�n đ�nh tra tấn v� luyến tiếc cuộc sống trần gian. Ngay trong số 117 Hiển Th�nh Việt Nam, cũng kh�ng �t vị đ� từng đạp l�n th�nh gi�, c� điều sau đ� c�c vị đ� hồi t�m v� tiếp tục chọn Thi�n Ch�a.

Trong vụ �n ba th�nh Phan Viết Huy, B�i Đức Thể, Đinh Đạt, th� 500 binh sĩ C�ng gi�o Nam Định, ngay h�m đầu ti�n đ� c� 485 người nghe Tổng đốc Trịnh Quang Khanh d�y đạp th�nh gi�. �t bữa sau 15 người chỉ c�n 9 kẻ trung th�nh, rồi c�n 5, c�n 3 v� ba người cuối c�ng cũng một lần chối đạo. Đến khi về nh� nghĩ lại, ba �ng họp nhau nộp đơn xin tiếp tục giữ đạo v� phải v�o thẳng kinh đ� d�ng sớ tận tay Đức vua. Từ đấy c�c �ng dũng cảm chịu mọi h�nh khổ cho đến chết.

Th�y giảng T�ma To�n, 76 tuổi, đạp l�n th�nh gi� những hai lần. Nhưng khi đ� th�ng hối, th�y chấp nhận mọi thử th�ch c�ch can đảm lạ thường. C� lần sau 13 ng�y bị lột trần, bị tr�i ngo�i s�n phơi nắng phơi sương, bị mọi người qua lại sỉ nhục, h�nh hạ. Thế m� khi quan cho dọn một m�m cơm y�u cầu th�y ăn rồi bỏ đạo, th�y n�i : "Nếu ăn m� phải bỏ đạo, t�i sẽ kh�ng bao giờ ăn". V� th�y bị bỏ đ�i chết gục trong nh� giam.

�ng Năm Thu�ng bị �n lưu đ�y xuống Vĩnh Long. sau nhiều ng�y đi bộ mệt nhọc, �ng kh�ng chịu dừng lại Saigon, cương quyết đi trọn h�nh tr�nh đến tận nơi bản �n qui định. V� rồi vừa đến Vĩnh Long, �ng đ� kiệt sức, tr�t hơi thở cuối c�ng. Linh mục Nguyễn Văn Hạnh từng được mệnh danh l� "Laurenso Việt Nam", v� lần kia sau một trận đ�n, cha đ� b�nh thản chắp tay sau lưng v� n�i : "L�m quan lớn m� bất c�ng, bắt một m�ng chịu cả, c�n m�ng kia chẳng phải chịu g� hết".

Ch� kh� b� Đ� (L� thị Th�nh), vị th�nh nữ Việt Nam duy nhất, cũng kh�ng thua k�m c�c bậc nam nhi. Quan qu�n cho cột c�c ống tay �o rồi bỏ rắn v�o trong người, b� vẫn b�nh tĩnh đứng y�n kh�ng nh�c nh�ch, kh�ng sợ h�i. Con c�i v�o t� thăm, kh�c l�c khi thấy th�n thể mẹ bầm t�m, �o b� bết những vết m�u, b� mỉm cười an ủi : "Sao con lại buồn, mẹ mặc �o hoa hồng đấy con ạ". B� coi những vết m�u như v�ng hoa kho�c l�n cổ người chiến sĩ thắng trận trở về.

L�ng anh dũng của c�c chứng nh�n tử đạo đ� được t� điểm th�m bằng sự ki�n tr� theo năm th�ng. Chấp nhận bản �n, v� b�nh tĩnh chờ đợi, kh�ng một ai quy�n sinh để tự kết liễu đời m�nh. Một phụ nữ ngoại gi�o tặng linh mục Gioan Đạt lọ độc dược để khỏi k�o d�i những ng�y bị tra tấn khổ đau; một vi�n quan y�u cầu đức cha Delgado Y uống thuốc độc theo kiểu những người "qu�n tử" Đ�ng Phương thường l�m. Nhưng c�c ng�i lại d�ng ch�nh cơ hội ấy tr�nh b�y quan điểm Gia� hội về mạng sống con người.


4,2. L�ng bao dung thứ tha

Nếu l�ng anh dũng gi�p c�c vị tử đạo b�nh thản đ�n nhận c�i chết kh�ng run rẩy, kh�ng quỵ lụy kh�c than, th� l�ng bao dung thứ tha mới l� đặc t�nh ph�n biệt vị tử đạo với những vị anh h�ng v� l� do kh�c.

C�c t�n hữu chỉ thực sự chết v� đạo nếu biểu lộ được t�nh y�u, l�ng nh�n �i, sự bao dung của Tin Mừng. C�c vị chắc chắn kh�ng đồng � với bản �n bất c�ng của triều đ�nh nhưng như Đức Gi�su tr�n th�nh gi� vẫn cầu nguyện cho qu�n l�nh giết hại m�nh, c�c chứng nh�n tử đạo vẫn tiếp tục y�u thương vua quan v� ch�nh những người h�nh xử m�nh.

-  Thừa sai Gagelin K�nh gửi thư cho bạn b� : "T�i sẵn l�ng tha thứ cho những kẻ �p bức t�i".

-  Chuyện linh mục Th�ophane V�nard Ven, khi vi�n quan n�i : "T�i phải theo lệnh vua, đừng giận t�i nh�", ng�i đ�p : "T�i chẳng gh�t g� ai cả, t�i sẽ cầu nguyện nhiều cho quan".

-  Cụ Ho�ng Lương Cảnh l�m cho quan qu�n ph� l�n cười, v� khi họ y�u cầu cụ đọc : "Cầu Ch�a Gi�su, xin cho c�c quan trị nước cho y�n c�ng ng�y c�ng thịnh".

-  Linh mục Phan Văn Minh trong t� đ� giải tội cho bếp Nhẫn, kẻ đ� dẫn lối cho quan qu�n bắt ng�i. Cũng vậy, linh mục Đặng Đ�nh Vi�n, tr�n đường ra ph�p trường, ban ph�p l�nh x� giải cho hai phụ nữ tố gi�c nơi cha tr� ẩn.

-  �ng L� Văn Phụng tại ph�p trường nhắn nhủ con trai m�nh : "Con ơi, h�y tha thứ, đừng t�m b�o th� kẻ tố gi�c ba nh�". V� dặn d� th�n hữu : "H�y tha thứ c�c bạn ơi. H�y tha thứ, v� ch�nh t�i đ� thứ tha".

-  Linh mục Phạm Khắc Khoan v� hai th�y Đinh Văn Thanh, Nguyễn Văn Hiếu trước l�c bị xử ch�m đ� giơ tay l�n trời c�ng cẩu nguyện : "Vinh danh ch�c tụng ngợi khen Thi�n Ch�a, Ch�a trời đất, ch�ng con hiến d�ng mạng sống cho Ng�i. Xin Ch�a ch�c ph�c cho nh� vua được cai trị l�u d�i trong an b�nh. Xin biến đổi tr�i tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất đem lại cho con người hạnh ph�c đ�ch thực".

Việc chi�m ngưỡng l�ng bao dung thứ tha của c�c vị tử đạo cho ph�p ch�ng ta mường tượng ra khu�n mặt của c�c ng�i: kh�ng một ch�t bất m�n tức tối, kh�ng một ch�t o�n gh�t hận th�, �nh mắt v� nụ cười của c�c ng�i to�t l�n n�t dịu hiền th�ng cảm. Thế nhưng, c�n hơn thế nữa, c�c ng�i tr�n trề h�n hoan ngước nh�n về trời cao v� trong th�m t�m, c�c ng�i tin tưởng rằng : c�i chết tử đạo l� c�i chết vinh quang, sẽ khai mở cho c�c ng�i v�o cuộc sống mới mu�n đời bất diệt.


4,3. Niềm tin phục sinh

 Linh mục Nguyễn Văn Xuy�n trong thời gian bị giam đ� phổ biến cho c�c t�n hữu b�i v� lục b�t sau :

"Ai ơi giữ lấy t�i kh�n
Dẫy tr�n tin cậy đầy l�ng mến y�u
Gươm đao đe dọa dẫu nhiều
Quỉ ma c�m dỗ sớm chiều đe loi
Ai m� thắng được tr�n đời
Mai sau hưởng ph�c c�i trời cao sang."

Với c�c vị tử đạo, c�i chết ch�nh l� cuộc thử th�ch cuối c�ng m� họ sẵn s�ng mong đợi. Th�y H� Trọng Mậu đại diện cho anh em n�i với quan : "Thưa quan, ch�ng t�i mong ước về b�n Ch�a như nai mong t�m thấy suối vậy".

�ng �n Khảm vui vẻ n�i với mọi người: "Cha con ch�ng t�i h�m nay v�o Nước Thi�n Đ�ng đ�y". Linh mục Nguyễn Văn Hạnh cũng tươi tỉnh đi ch�o mọi người : "Anh em ở lại, ch�ng t�i đi về Thi�n đ�ng nh�". �ng Gioan Cỏn khi thấy người anh em sụt s�i nước mắt, �ng n�i : "Sao anh lại kh�c, lẽ ra phải mừng cho t�i chứ".

Ngo�i ra trong c�c bức thư trao đổi với gia đ�nh v� bạn b�, c�c vị tử đạo kh�ng ch�o vĩnh biệt mọi người m� chỉ ch�o tạm biệt, hẹn ng�y t�i ngộ. Th�y Nguyễn Đ�nh Uyển trả lời thắc mắc kẻ dọa ch�m đầu m� thấy th�y kh�ng sợ rằng : "H�y ch�m đi, đến ng�y ph�n x�t, t�i lại được c�i đầu kh�c". Linh mục Nguyễn Văn Xuy�n diễn tả niềm tin n�y bằng c�u : "Thưa quan, t�i chọn c�i chết để được sống đời đời, hơn l� nghe quan sống th�m �t l�u rồi mu�n đời bị ti�u diệt". Linh mục L� Bảo Tịnh th� n�i : "Th�n x�c t�i đ�y, c�c �ng muốn l�m g� th� l�m, t�i sẵn s�ng kh�ng o�n th�n, n� chết đi, nhưng mai n�y sẽ sống lại vinh quang". Niềm tin sống lại của c�c chứng nh�n ấy được bộc lộ kh� r� n�t, v� ch�nh vua Minh Mạng cũng phải lo lắng bồn chồn trong vụ �n linh mục Gagelin K�nh. Ch�nh vua ra lệnh canh mả vị tử đạo ba ng�y, sợ ng�i sống lại, rồi c�n cho đ�o l�n xem h�i cốt c� c�n đ� chăng, sau mới ch�n lại.

H�nh ảnh tuyệt đẹp về niềm tin phục sinh của c�c vị tử đạo l� c�u chuyện linh mục Phạm Khắc Khoan v� hai th�y Nguyễn Văn Hiếu, Đinh Văn Thanh, nhưng trong những ng�y bị giam bị giữ, ba vị chia b� h�t kinh Tạ Ơn TE DEUM bằng tiếng Latinh. Lời kinh Te Deum ấy nối kết c�c vị với Gi�o hội sơ khai, khi cuộc b�ch hại 300 năm chấm dứt. Lời kinh tr�n trề tin tưởng v� ph� th�c trong niềm tri �n Thi�n Ch�a. Lời kinh nối kết c�c vị với cộng đo�n c�c Th�nh tr�n Thi�n quốc :

"T�u Thượng Đế, n�y thần d�n xin h�t mừng trước bệ
Tuy�n xưng Ng�i l� Ch�a Tể c�n kh�n ...

Suy t�n Ch�a, bậc t�ng đồ hợp xướng
T�n tụng Ng�i bao thế hệ ti�n tri
Đo�n tử đạo quang huy h�ng dũng
M�u đ�o đổ ra minh chứng về Ng�i...

C�i lạy Ch�a xin ph� hộ bề t�i
Ng�i cứu chuộc bằng bửu huyết tu�n tr�n
Xin được họp đo�n c�ng mu�n thần th�nh,
Ph�c mi�n trường vui hưởng �nh vinh quang".

Rồi ngay tại ph�p trường, ba vị lại tiếp tục cầu nguyện bằng th�nh ca. Như trong đ�m phục sinh, cha Khoan h�t ba lần lời All�luia, mỗi lần với cung giọng cao hơn. Xen kẽ v�o đ�, hai th�y giảng c�ng h�t thay cộng đo�n theo cao độ của vị chủ sự : ALL�LUIA, ALL�LUIA, ALL�LUIA. Như vậy đ�, c�c vị tử đạo đ� diễn tả lại trong đời m�nh cuộc khổ nạn của Đức Kit�, nhưng l� một Đức Kit� phục sinh. 117 hiến tế t�nh y�u cũng l� 117 chứng t� niềm tin của những con người x�c t�n rằng : chết v� đức Kit�, chết đi l� sống lại trong cuộc sống mu�n đời.

X

TỔNG KẾT

Cuối c�ng, b�i học r�t ra từ những c�i chết của c�c vị Tử Đạo l� b�i học của sự sống. C�i chết nguy�n n� chẳng c� gi� trị g� hết, ch�nh sự sống mới l�m n�n mu�n điều huyền diệu. Sự sống đ� ch�nh l� t�nh y�u với con người chung quanh, t�nh y�u với những g� cao thượng v� ch�n thật. T�nh y�u đ� b�ng l�n c�ch m�nh liệt trong mầu nhiệm tự hủy v� hiến d�ng.

B�i học của c�c vị tử đạo kh�ng phải l� khơi l�n m�u n�ng t�m đến c�i chết, m� ch�nh l� sống hiến th�n từng gi�y từng ph�t của đời m�nh cho Thi�n Ch�a v� tha nh�n. Sự sống đ� lu�n k�u mời ch�ng ta : mỗi ng�y chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm l�m chứng t� đấu tranh cho Ch�n l�. Sự sống đ� hứa hẹn với ch�ng ta một ng�y sau rạng rỡ, ng�y đo�n tụ với cha anh ch�ng ta tr�n c�i bất diệt.

 

[1] Kh�m định Việt sử Th�ng gi�m Cương mục, XXXIII, 6B

[2]  Gi�o phận đ�ng trong 86.000; Gi�o phận T�y đ�ng ngo�i 140.000, Gi�o phận Đ�ng đ�ng ngo�i 200.000. Xc B�i Đức Sinh, D�ng Đaminh Tr�n Đất Việt, q.I, tr. 281

[3]  B�i Đức Sinh, Đaminh Tr�n Đất Việt, q.I, tr.326

[4]  Ch�ng ta c� thể so s�nh với việc truyền gi�o ở Ch�u Mỹ Latinh, d�n địa phương cho đến nay vẫn d�ng tiếng T�y Ban Nha l�m ng�n ngữ ch�nh, trong khi đ� ở Việt Nam, c�c thừa sai soạn chữ quốc ngữ. Điều đ� cũng đo lường lối truyền gi�o của Th�nh Bộ Truyền b� đức tin được th�nh lập năm 1622. Xc. Daniel Rops, Eglise des temps Clasiques, Fayard 1958, pp. 97-100

[5] Ph�p giảng t�m ng�y, Tinh Việt 1961, tr.11-16

[6] Thư chung c�c Đấng Vicario, Kẻ sặt 1903, tr.63-68

[7] Disquitio Promotoris Fidei, Roma 1917, I, tr.17-19

[8] Thư chung c�c Đấng Vicario II, tr.53-54

[9] Gispert, Historia de las Misiones Dominicas en Tunkin, Avila 1928, tr. 428t

[10] Louvet, La Cochinchine Religieuse II, tr.204-207

[11] Louvet, Sđd II, tr.267

[12] Ph�p giảng t�m ng�y, tr.17

[13] T�n Định, 1959, tr.4-6

[14] Kỷ yếu hội nghị khoa học lịch sử đạo Thi�n Ch�a, 1988, t. 39-41

[15] Louvet, Sđd II, tr.264-266

[16] Louvet, Sđd II, tr.128

[17]B�i Đức Sinh, Sđd I, tr.258. Sử k� địa phận Trung, Ph� Nhai 1916, tr.74

[18] Rodriguez, Martirologio Oriental III, tr.28

[19] Thư chung c�c Đấng Vicario I, tr.63-68