Ng�y 17 th�ng 10
Th�nh Isid�r� GAGELIN K�NH
Linh mục Thừa Sai Paris - (1799 – 1833)

Mục tử nh�n l�nh.

"Ch�ng t�i đ� từ bỏ gia đ�nh, qu� hương v� tất cả lợi lộc trần thế, để chỉ truyền giảng Tin Mừng".

Từ chối chức quan do ch�nh vua Minh Mạng trao ban, cha Gagelin K�nh chứng tỏ m�nh chỉ mong thi h�nh xứ mệnh linh mục cao qu� "Loan b�o tin mừng cho mu�n d�n" (Mc 13,10). L�ng nhiệt th�nh mục tử th�c b�ch ng�i kh�ng ngừng đi khắp nơi để ban ph�t c�c b� t�ch. Ch�nh v� y�u thương gi�o hữu, ước mong họ được b�nh an, cha đ� tự nguyện hiến m�nh v� đo�n chi�n (Ga. 15,13). Ng�i thực l� gương mẫu s�ng ngời cho c�c thế hệ.

T�p lều Việt Nam hơn ho�ng cung nước Ph�p.

Isid�r� Gagelin sinh ng�y 10.5.1799, tại Montperreux, gi�o phận Besancon, nước Ph�p. Cậu Gagelin c� � tưởng theo ơn thi�n triệu ngay từ nhỏ, v� từng t�m nguyện "T�i muốn l�m linh mục". Lớn l�n, sau bốn năm học đại chủng viện gi�o phận, năm 1819, th�y gia nhập Hội Thừa Sai Paris. Th�ng 9.1821, Đức cha Labartette B�nh, Gi�m mục gi�o phận Đ�ng Trong, truyền chức linh mục cho th�y Gagelin K�nh, khi mới 22 tuổi.

Thời ấy, vua Minh Mạng mới l�n ng�i, bầu kh� tự do t�n ngưỡng do vua cha (Gia Long) để lại chưa phai nhạt. Linh mục Gagelin K�nh vừa nhận chức gi�o sư chủng viện An Ninh, Quảng Trị, vừa thi h�nh c�ng t�c mục vụ tại v�ng l�n cận. Cha gửi t�m sự về qu� nh� năm 1823: "Những thiếu thốn, những cực nhọc đủ thứ đến với ch�ng t�i, nhưng t�i d�m khẳng định rằng: t�i được hạnh ph�c trong t�p lều tranh của t�i hơn vua nước Ph�p ở trong ho�ng cung của ng�i".

Dần dần vua Minh Mạng �p dụng ch�nh s�ch b�ch hại đạo ng�y c�ng m�nh liệt hơn. Bề tr�n Thomassin đ� phải di tản chủng viện An Ninh v� cử cha K�nh v�o S�i G�n, l� khu vực Tả qu�n L� văn Duyệt kh�ng �p dụng đường lối b�i C�ng Gi�o. Cha thường thực hiện sứ vụ t�ng đồ nơi c�c họ đạo v�ng S�i G�n, B� Rịa, v� đ�o tạo chủng sinh tại L�i Thi�u.

Ng�n sứ Tin Mừng

Năm 1827 cha K�nh được vua Minh Mạng triệu về kinh c�ng với c�c gi�o sĩ T�y phương kh�c. Vua lấy cớ cần người dịch s�ch v� l�m th�ng ng�n cho triều đ�nh, nhưng với hậu � cản ngăn việc truyền gi�o.

Nhận được lệnh triệu tập thứ ba, cha K�nh mới l�n đường về kinh đ�. Tại đ�y, cha gặp hai thừa sai kh�c l� cha Tabert Từ, cũng thuộc Hội Thừa Sai Paris v� cha Od�ric� Phương, d�ng Phanxic�, đ� tr�nh diện nh� vua trước ng�i.

Để trấn �n hoặc để c� thể che giấu �c �, nh� vua đề nghị ban chức quan cho c�c cha, nhưng c�c cha từ chối. Cha K�nh b�y tỏ lập trường trong thư gửi về Ph�p :

"T�i n�i dứt kho�t với �ng quan do vua sai đến ban �n huệ cho ch�ng t�i. T�i cho �ng biết r� mục đ�ch ch�ng t�i sang đ�y l�m g�, v� chức linh mục cao trọng hơn chức quan dường n�o. t�i cũng n�i r� ch�ng t�i đ� từ bỏ gia đ�nh, qu� hương v� tất cả những lợi lộc trần gian để chỉ truyền giảng Tin Mừng th� kh�ng dễ g� ch�ng t�i từ bỏ nhiệm vụ n�y. Tuy nhi�n, những c�ng việc n�o c� thể dung h�a với nhiệm vụ của ch�ng t�i th� ch�ng t�i sẵn s�ng gi�p đỡ nh� vua".

Tả qu�n L� Văn Duyệt, người đ� tống đạt lệnh vua v� khuy�n ba gi�o sĩ T�y Phương về kinh đ�, khi nhận thấy c�c ng�i bị giam lỏng, ch�nh �ng đ� về triều đ�nh v�o th�ng 8 năm 1827 để thuyết phục vua Minh Mạng giữ lời hứa. Tuy kh�ng muốn, nh� vua buộc l�ng phải trả tự do cho ba linh mục.

Ng�y 01.6.1828, cha K�nh l�n đường trở về Đồng Nai, rồi đi thăm viếng c�c họ đạo tại miền Nam, từ Đồng Nai, Vũng T�u đến miền Lục Tỉnh, H� Ti�n. Ng�i vừa lo hướng dẫn chăm s�c d�n Ch�a, vừa truyền giảng tin Mừng cho d�n tộc Ch�m ở B�nh Thuận v� Campuchia ở Bắc H� Ti�n. Nhưng c�c sắc d�n n�y tin theo đạo rất �t. Năm 1829, ng�i trở về chủng viện L�i Thi�u, được Đức cha Talbert Từ bổ nhiệm l�m Bề tr�n gi�o phận v� cử ra hoạt động ở miền Trung.

Hiến m�nh v� đo�n chi�n

Cha Bề tr�n K�nh bắt dầu hoạt động mục vụ tại tỉnh Ph� Y�n, rồi tới B�nh Định, Quảng Ng�i (1830). Cha đi bộ từ họ n�y sang họ kh�c, dầu xa hay gần, lớn hay nhỏ để giảng dạy, d�ng lễ, giải tội v� ban ph�p th�m sức cho c�c gi�o hữu. Tất cả những ai quen biết cha, v� l�m chứng trong cuộc điều tra phong th�nh, đều đồng thanh khen ngợi đức hiền từ, l�ng đạo đức, tinh thần kh� ngh�o khổ hạnh v� ch�nh trực trong đời sống của ng�i.

Ng�y 06.01.1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo gắt gao. Nhiều th�n hữu khuy�n cha n�n tạm hồi hương một thời gian, cha thẳng thắn trả lời : "Một c�ng d�n c� nhiệm vụ thi h�nh nghĩa vụ qu�n sự, huống chi t�i được trao chức vụ l�nh đạo, sao c� thể tho�i th�c tr�ch nhiệm của m�nh được". Thế l� d� thời buổi kh� khăn, cha vẫn tiếp tục hăng say trong sứ mệnh, thăm hỏi an ủi gi�o d�n, giảng đạo v� rửa tội nhiều người Thượng ở B�nh Định. Được một vị quan th�n hữu mật b�o sẽ c� cuộc truy bắt c�c linh mục T�y Phương, cha lẩn tr�nh �t l�u. Nhưng khi thấy nhiều gi�o hữu bị bắt bớ, đau l�ng trước cảnh đ�n chi�n tan t�c, cha liền viết thư xin ph�p đức Gi�m mục cho ng�i ra nộp m�nh, hy vọng nhờ đ� gi�o hữu khỏi bị b�ch hại. Đức cha Từ chấp thuận. Thế l� ng�i đến tr�nh diện với quan tri huyện Bồng Sơn (B�nh Định) v�o th�ng 5.1833, sau đ� cha bị giải về kinh đ�.

"T�i muốn th�nh tro bụi để kết hiệp với Đức Kit�".

Đến Huế ng�y 23.8.1833, cha bị giam ở trấn phủ với cha Jaccard Phan, cũng thuộc Hội Thừa Sai Paris v� cha Od�ric� Phương, d�ng Phanxic�, bị bắt ở C�i Nhum. Cha Phương qua đời năm 1834 sau s�u th�ng lưu đ�y ở khu đ�o Lao Bảo, ranh giới Ai Lao.

Suốt bẩy tuần lễ bị giam cầm, cha Bề tr�n K�nh kh�ng bị thẩm vấn lần n�o. vua Minh Mạng đ� qu� r�, kh�ng thể lay chuyển đức tin can trường của cha.

Kể từ ng�y 12.10, qu�n l�nh xiềng x�ch ch�n tay cha, canh g�c nghi�m ngặt hơn v� cấm kh�ng cho giao tiếp với người kh�c. Linh mục Jaccard Phan, nhờ c� li�n hệ với triều đ�nh, b�o tin cho cha biết ng�y h�nh quyết sắp đến. Cha K�nh liền gửi thư ph�c đ�p, b�y tỏ niềm h�n hoan v� tả khi được đổ m�u l�m chứng cho Ch�a. ng�i cũng nhờ cha Phan th�ng b�o cho Đức Gi�m mục, cho c�c Bề tr�n Hội Thừa Sai Paris v� gia đ�nh. Cha viết tiếp : "T�i từ gi� c�i đời kh�ng hề thương tiếc sự g�, chỉ nh�n l�n Ch�a Gi�su chịu đ�ng đinh, đủ an ủi t�i về mọi điều đau khổ v� cả c�i chết nữa. Tất cả ước vọng của t�i l� sớm tho�t khỏi th�n x�c tội lỗi n�y, để kết hợp c�ng Ch�a Gi�su trong nơi vĩnh ph�c. T�i muốn th�nh tro bụi để kết hiệp với Chua Gi�su".

Vua Minh Mạng giữ b� mật bản �n đến ph�t ch�t. S�ng sớm ng�y 17.10.1833, một đội l�nh đến ngục thất, �p giải cha K�nh, họ c�n n�i rằng cha được mời sang ngục kh�c. Cha hiểu ngay giờ sau hết đ� điểm, cha hỏi: "C� phải c�c �ng đưa t�i đi xử tử kh�ng ?" Họ đ�p: "Thưa phải". Thế l� ng�i vui vẻ mau mắn c�ng đ�an h�nh quyết l�n đường. Đến đầu cầu ngăn c�ch kinh th�nh với khu ngoại � B�i D�u, bốn người l�nh đỡ bốn g�c chiếc g�ng nặng nề đ� l�n cổ vị tử đạo. C�c l�nh kh�c v� trang gươm gi�o đi hai b�n, hai quan lớn cưỡi ngựa đi sau, d�n ch�ng đi xem rất đ�ng. Một người l�nh giơ cao tấm thẻ ghi bản �n. Cứ đi khoảng một trăm bước, người l�nh đ� dừng lại, đ�nh mấy tiếng cồng, rồi đọc bản �n như sau:

"Dương nh�n Ho�i H�a mang tội truyền giảng đạo Gia T� tại nhiều tỉnh nước ta, n�n phải xử giảo" (Ho�i H�a l� chữ H�n do c�c quan dịch t�n cha Gagelin).

Đến ph�p trường, vị linh mục b�nh tĩnh quỳ xuống cầu nguyện, mặc cho qu�n l�nh thi h�nh nhiệm vụ. Họ tr�i ng�i v�o chiếc cọc giữa, lấy gi�y v�ng quanh cổ, rồi cuốn hai đầu d�y v�o hai cọc hai b�n. Hiệu lệnh thứ nhất ban ra, tiểu đội qu�n l�nh cầm lấy hai dầu d�y. Đến hiệu lệnh thứ hai, họ k�o thật mạnh, trong khoảnh khắc, vị chứng nh�n Ch�a Kit� ch�t hơi thở cuối c�ng.

Một học tr� cũ của cha Od�ric� v� một th�y giảng của cha Phan xin ph�p nhận thi h�i th�nh tử đạo đem về an t�ng tại một tư gia ở phủ Cam. V� nghi ngờ m�n đệ Ch�a Kit� sống lại sau ba ng�y, vua Minh Mạng truyền khai quật mồ vị tử đạo, kh�m nghiệm kỹ lưỡng, rồi mới y�n l�ng cho ch�n lại. Thế m� vẫn ph�n v�n, vua truyền cho d�n l�ng Phủ Cam tr�ng canh giữ mồ, nếu vị tử đạo sống lại, hay người ta lấy mất thi h�i, họ sẽ phải đền mạng. Trong c�c thư của cha Phan v� Đức cha De la Motte Hậu c� ghi ch�p sự việc hy hữu tr�n.

Năm 1946, thi h�i th�nh tử đạo Gagelin K�nh được đưa về chủng viện Hội Thừa Sai Paris.

Ng�y 27.05.1900, Đức L�o XIII đ� suy t�n ng�i l�n bậc Ch�n Phước. Ng�y 19-06-1988, Đức Gioan Phaol� II suy t�n ng�i l�n bậc Hiển th�nh.