Ng�y 01 th�ng 11
Th�nh Gi�ronim� HERMOSILLA LI�M (VỌNG)
Gi�m mục D�ng Đaminh – (1800 – 1861)

Cột trụ gi�o hội Việt Nam

Th�nh Hermosilla Li�m l� một trong ba vị thừa sai lỗi lạc v� can đảm nhất trong lịch sử Gi�o Hội Việt Nam, s�nh bước với Đức cha Cu�not Thể (1835-61 gi�o phận Đ�ng Trong) v� đức cha Retord Li�u (1940-58, gi�o phận T�y Đ�ng Ngo�i), ba cột trụ chống đỡ gi�o hội Việt Nam trong những giai đoạn kh� khăn thời b�ch hại. Ri�ng Th�nh Gi�m mục Li�m lu�n lu�n đứng đầu sổ truy n� của ba triều vua v� c�c Tổng đốc Nam Định, đ� kh�o l�o khi ẩn khi hiện, ho�n th�nh tr�ch nhiệm một c�ch tuyệt vời.

33 năm thừa sai kh�ng một ng�y y�n ổn. 20 năm Gi�m mục chứng kiến bao cảnh tang thương, nhưng ch�nh ng�i đ� chủ phong cho bốn Gi�m mục (Đức cha Jimen� L�m, Marti Gia, Alcazar Hy v� Sanjurjo An), v� truyền chức cho nhiều linh mục bản xứ, đ� điều khiển gi�o phận Đ�ng Đ�ng Ngo�i ph�t triển vững chắc, đủ khả năng t�ch l�m hai, v� khi gục ng� dưới lưỡi gươm của l� h�nh th� theo sử gia Rodriguez: Ng�n tay phải ng�i vẫn chỉ lối cho nh�n loại hướng đến một v� sao.

Thỏa niềm ước mong

Th�nh Jeronim� Hermosilla sinh ng�y 30.9.1800 tại Santo Domingo de la Calzada trong một gia đ�nh tuy ngh�o nhưng đạo đức (nước T�y Ban Nha). Từ nhỏ, cậu được theo học với c�c cha d�ng Biển Đức v� c� � định xin v�o d�ng n�y năm 15 tuổi. thời đ�, nước T�y Ban Nha đang chịu sự thống trị của Napol�on I, c�c d�ng tu kh�ng được nhận người. Hermosilla được giới thiệu qua học tại chủng viện gi�o phận Valencia do c�c cha d�ng Đaminh điều h�nh. Duy�n kỳ ngộ n�y đ� đưa cậu đến d�ng Thuyết Gi�o v� l�nh tu phục năm 19 tuổi.

Năm sau (1820), nước T�y Ban Nha c� loạn, một số tu viện phải giải t�n, t�i sản gi�o hội bị xung c�ng, c�c gi�o sĩ kh�ng tuy�n thệ trung th�nh với hiến ph�p mới đều bị bắt giam, bị lưu đầy hoặc bị giết. Hermosilla đ�nh phải rời nh� D�ng, đăng k� v�o qu�n đội. Khi vua Fernando kh�i phục lại quyền b�nh, cậu xin v�o nh� tập v� khấn d�ng ng�y 29.10.1823. Ba năm qu�n ngũ đ� m�i m�i lưu lại với vị tu sĩ n�y t�nh x�ng pha, l�ng gan dạ, v� đức ki�n nhẫn.

Năm 1824 khi đọc thư k�u mời của tỉnh d�ng Rất Th�nh M�n C�i Manila, th�y Hermosilla v� 11 người kh�c liền t�nh nguyện đi truyền gi�o ở Viễn Đ�ng. Sau s�u th�ng l�nh đ�nh tr�n biển, ng�y 02.03 năm sau, 12 tu sĩ n�y đ� đến Manila quỳ phục dưới ch�n cha Gi�m Tỉnh v� thưa : "N�y con đ�y xin h�y sai con". Quả l� niềm vui lớn lao của tỉnh d�ng, v� 20 năm qua, tỉnh d�ng chỉ nhận được 27 người, b�n cạnh con số 86 vị đ� qua đời v� tuổi gi�. Năm 1826, th�y Hermosilla l�nh chức linh mục v� l�m gi�m đốc Hội M�n C�i

Năm 1828, cha t�nh nguyện đến Việt Nam c�ng với ba thừa sai Ph�p, khởi h�nh từ Macao đến Bắc Việt ng�y 02.05.1929, 9 giờ tối, cha tới trụ cha ch�nh Amandi Chi�u v� s�ng h�m sau cha tới tr�nh diện Đức cha Delgado Y.

Tả sao cho xiết niềm vui của vị Gi�m mục. Cả gi�o phận Đ�ng Đ�ng Ngo�i chỉ c� ba vị thừa sai, gồm hai Đức cha Y v� Hernares Minh, cha ch�nh hiền, nhưng cả ba vị đều gi� v� bệnh tật. Vừa thấy vị thừa sai mới, Đức cha đ� chạy ra v� vui sướng : "Vọng ! Vọng ! Ước Vọng !". V� từ đ�, Vọng trở th�nh t�n gọi ch�nh thức của cha Hermosilla.

Sau v�i th�ng miệt m�i học tiếng Việt, cha Vọng đ� kh�ng phụ l�ng mong đợi của c�c bậc đ�n anh. Cha h�a m�nh rất nhanh với c�c t�n hữu cũng như người ngoại gi�o, tất cả l� hy sinh v� y�u thương. Kh�ng hề mệt mỏi, vị thừa sai 30 tuổi kh�ng ngừng di chuyển thăm viếng c�c họ đạo, giảng dạy, rửa tội, v� giải tội. Nỗi buồn duy nhất của cha l� việc nhiều qu� m� l�m kh�ng xuể. Cha liền viết thư xin bề tr�n gởi th�m những tu sĩ trẻ, khỏe mạnh v� hăng h�i kh�c.

Danh "Tr�m Vọng" thời vua Minh Mạng.

11 năm thừa sai đầu ti�n, cha Vọng l� linh hồn c�c hoạt động truyền gi�o của d�ng Đaminh trong gi�o phận : Bốn năm phụ t� cha ch�nh Amandi Chi�u, ba năm bề tr�n d�ng, một năm phụ t� cha ch�nh Hiền, rồi thay thế ng�i từ năm 1838. Nhưng thực tế, những khi l�m phụ t�, v� cha ch�nh gi� yếu, mọi c�ng việc đều do cha Vọng điều h�nh. Cha đ� n�ng số linh mục bản xứ l�n đến 40, đủ sức đương đầu với cơn b�ch hại sắp tới.

B�o tố đ� thực sự bừng l�n tr�n gi�o phận Đ�ng Đ�ng Ngo�i từ năm 1838, khởi từ sau c�c l� thư của cha Đặng Đ�nh Vi�n gửi cho bốn thừa sai v� hai linh mục Việt Nam bị ph�t hiện. Hai Gi�m mục v� cha Ch�nh Hiền chịu tử đạo, nhiều linh mục, tu sĩ, gi�o d�n đổ m�u v� đức tin. Cũng v� một trong s�u l� thư gửi cho cha Vọng, n�n "danh tr�m Vọng" được ghi v�o đầu sổ bộ truy l�ng của vua Minh Mạng v� quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Chiếu chỉ ng�y 18.01.1839 d�nh một đoạn n�i về cha : "H�y c�n danh tr�m Vọng chưa bắt được, d� quan truyền, d� thứ d�n, chẳng kỳ ai, hễ bắt được sẽ l�nh thưởng mười ng�n quan tiền…"

Để gi�p d�n dễ nhận diện, v� t�nh vua Minh Mạng lại cho ch�ng ta biết đ�i điều về ch�n dung vị thừa sai n�y : "Người cao lớn, mũi d�i, r�u rậm, cặp mắt tinh anh v� hơi x�m, nước da trắng trẻo, khu�n mặt phương phi…" Đ�ng l� ch�n dung của một con người nghị lực kh�ng bao giờ chịu l�i bước. Quả thực, trong giai đọan n�y tuy rất thận trọng, cha Vọng vẫn đi khắp nơi an ủi người n�y, kh�ch lệ kẻ kia, v� trao ban c�c b� t�ch như coi thường cơn giận dữ của "hỏa ngục". Dĩ nhi�n l� kh�ng phải kh�ng c� những gi�y ph�t hồi hộp, khi th� su�t bị bắt với Đức cha Y khi bị cắm đầu cắm cổ vượt v�ng v�y chạy trốn. C� những lần, một m�nh đi giữa đ�m tối tr�n những đoạn đường quanh co xa lạ.

Tho�t chết trong đường tơ kẽ t�c

Ch�a g�n giữ cha Vọng trong nhiều trường hợp kỳ lạ. Lần kia, tại xứ Liễu Dinh, một người l�nh đ� thấy cha trong ph�ng, liền gọi đồng đội ra tiếp sức. Đến khi họ v�o, cha ngồi sau m�n cầu nguyện : "Xin cho � Ch�a được thể hiện …" Thế m� l�nh kh�ng thấy g� cả, cho đến khi họ nh�n thấy một cụ gi� c� r�u ngo�i s�n, liền nh�o ra bắt nhầm, v� cha c� thời giờ chạy trốn tho�t.
Lần kh�c, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dẫn 800 l�nh với h�ng chục chiếc thuyền bao v�y l�ng cha đang ẩn trốn, bỗng trời nổi d�ng b�o, thế l� quan qu�n ho�n to�n thất bại : hai thuyền bị đắm v� nhiều chiếc bị tr�i dạt k�o theo ba sĩ quan v� c�c l�nh thủy.

V�o cuối thời vua Minh Mạng, gi�o phận chịu thiệt hại đ�ng kể. Tr�n 1.000 nh� thờ bị rỡ xuống, c� nơi phải nộp gỗ v�n cho quan tỉnh. C�c chủng viện, 40 nh� chung, 60 họ đạo, 22 nh� phước Đaminh, 3 nh� phước Mến Th�nh Gi�, đều bị triệt hạ v� giải t�n mỗi người mỗi nơi, gi�o d�n th� bơ vơ, hai Gi�m mục v� cha ch�nh chịu tử đạo, mọi g�nh nặng đổ tr�n vai cha Vọng. Tuy nhi�n, với sự cộng t�c của hai thừa sai, 37 cha d�ng Việt v� một số linh mục triều, năm 1840, gi�o phận đ� rửa tội th�m 143 người lớn, hơn 1.000 trẻ em, giải tội 118.000 người v� chứng h�n 1.630 đ�i.

Thời gian n�y c� hai mẩu chuyện về cha Vọng.

Thứ nhất về l� thư cha b�o c�o về t�nh h�nh Bắc Việt cho Bề Tr�n Tỉnh D�ng về sự ki�n cường của c�c vị tử đạo v� "sức sống ngầm" của Gi�o Hội Việt Nam trong những năm gi�ng tố. L� thư đ� l�m cho cả tỉnh d�ng vui mừng. Tại nh� thờ th�nh Đaminh ở Manila, cộng đo�n tu sĩ đ� sốt sắng h�t kinh "Te Deum" v� cử h�nh một lễ tạ ơn. L� thư n�y được phổ biến khắp nơi, l�m cả thế giới ngạc nhi�n v� kh�m phục. Đức Gr�gori� XIV viết cho Gi�o Hội Việt Nam một l� thư mục vụ kh�ch lệ, ng�i họp hội đồng cơ mật tr� liệu việc phong th�nh cho c�c vị tử đạo Việt Nam.

Chuyện thứ hai l� chuyện thừa sai Marti Gia đ� đến Y�n Tr� được gần một năm m� kh�ng c� c�ch n�o tr�nh diện để tuy�n thệ theo luật bấy giờ (sắc Ex Quo). L�c ấy, cha Vọng đang l�m Bề tr�n phải bỏ chỗ ẩn an to�n để đến gặp người bề dưới tiến h�nh việc nghi thức n�y, cũng như đưa ra những lời khuy�n thực tiễn.

Dưới thời vua Thiệu Trị, cuộc b�ch hại tuy lắng dịu, nhưng vẫn c�n xảy ra ở một v�i nơi. T�a th�nh đặt cha Vọng l�m Đại diện T�ng t�a thay thế hai Đức cha Delgado Y v� Henares Minh đ� tử đạo. Theo dự định, lễ tấn phong cử h�nh v�o ng�y 14.4.1841 tại Vĩnh Trị, Ph�c Nhạc, nơi Đức cha Retordd Li�u ẩn tr�. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh được mật b�o đem qu�n bao v�y bắt lầm được hai vị thừa sai Ph�p l� Berneux Nh�n v� Galy L�. Tr�n đường �p giải về dinh, d�n ch�ng kh�o với nhau: "K�a ! Đ� l� danh Tr�m vọng !". Tổng đốc Trịnh Quang Khanh cũng kh�ng giấu được vui mừng cho đến khi biết m�nh đ� lầm, liền tức giận, cho đ�ng cũi, tra tấn d� man v� lột trần cả hai vị, tr�i ngo�i c�ng đường cho mọi người sỉ nhục. Về sau nhờ �p lực của qu�n Ph�p, nh� vua cho lệnh tha hai vị về (1843) (xem th�m hạnh b� Th�nh Ann� Đ�).

Hai ng�y sau, cha Vọng mới khởi h�nh từ Hải Dương đến Vĩnh Trị. V� đ� biết vụ hai vị thừa sai bị bắt, cha nhờ gi�o hữu dẫn đi đường kh�c. Tất cả chỉ c� thể đi v�o ban đ�m, băng rừng, lội suối, c� khi đi thuyền nhưng thường l� đi bộ, c�n ban ng�y th� ẩn nấp trong bụi c�y, ngo�i đồng l�c hoặc bụi tre. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đ� cho đặt c�c tram canh khắp nơi. Đặc biệt c� một trạm canh rất cẩn mật, cha phải hối lộ cho vi�n ph� tổng, v� theo kế hoạch của �ng ta để lọt được qua trạm. Đ�m ấy, theo lời chỉ dẫn, cha mặc �o cộc, quần n�u xắn l�n tới dầu gối, lấy b�n xoa đen hết mặt mũi ch�n tay, buộc t�m r�u t�c lại, đầu đội n�n l�… rồi nắm đu�i ngựa của vi�n ph� tổng đang cưỡi, chạy lăng xăng theo sau, như t�n đầy tớ để qua trạm.

Vị Gi�m mục kh�n ngoan

Đến Vĩnh Trị, cha Vọng t�m đến t�a Gi�m mục của Đức cha Li�u. Đ� l� một c�i ch�i c� lối chạy xuống hầm để đề ph�ng mỗi khi quan qu�n bất ưng đến thăm. Tại đ�y, ng�y 25.04, cha được tấn phong. Đức t�n Gi�m mục t�m đường trở về gi�o phận v� đổi t�n l� Li�m, thay cho danh tr�m Vọng vẫn được treo gi� cả vạn quan. �t l�u sau, Tổng đốc Trịnh Quang Khanh ng� bệnh v� qua đời.

Lợi dụng t�nh h�nh lắng dịu, Đức cha Li�m hoạt động kh�ng ngừng. Ng�y 26.6, ng�i tấn phong Gi�m mục cho cha Jimen� L�m l�m phụ t�. Sau lễ, ng�i tập họp c�c linh mục để lập chương tr�nh truyền gi�o trong ho�n cảnh mới. Từ đ� cả gi�o phận bừng l�n sức sống mới. C�c nh� thờ, nh� xứ được t�i thiết, c�c nữ tu viện, nh� Đức Ch�a Trời được tu sửa. Gi�o hữu g�p tiền chuộc c�c anh em kh�c c�n bị giam giữ. Trường Latinh được x�y dựng lại tại Nam An (Hải Dương), sau dời về Lục Thủy. Trường Thần học được thiết lập ở Mỹ Động, Hải Dương. Đức cha khuy�n gi�o d�n đặc biệt tin tưởng, cậy tr�ng v�o Đức Mẹ, si�ng năng đọc kinh M�n C�i v� k�u cầu nữ Th�nh Philom�na tử đạo. Sau n�y, ng�i chọn th�nh nữ l�m bổn mạng gi�o phận v� xin ph�p t�a Th�nh mừng lễ h�ng năm (1).

Nhờ sự cộng t�c của nhiều t�n linh mục trong gi�o phận v� nhiều thừa sai mới được gửi tới, t�nh h�nh gi�o phận Đ�ng phục hồi rất nhanh. Việc trao ban b� t�ch được gia tăng th�m mỗi năm. Chỉ cần cẩn thận đ�i ch�t, c�c Gi�m mục c� thể đi ban B� T�ch Th�m sức nhiều nơi.
Năm 1844, ng�i mở lễ k�nh th�nh Tổ phụ Đaminh rất trọng thể. C�c linh mục tu sĩ, gi�o d�n thay nhau về th�nh đường Nam Am suốt t�m ng�y liền. Họ gặp nhau chia sẻ tin tức, kinh nghiệm sống đạo của m�nh. Th�nh lễ đại tr�o duy nhất của Đức cha Li�m, sau n�y sẽ trở th�nh tập tục "Lễ Đầu D�ng" trong gi�o phận. Số t�n t�ng ng�y c�ng gia tăng. Ng�y 22.08.1844 tại Đ�ng Xuy�n, Đức cha rửa tội cho 44 người lớn, trong đ� c� một Ch�nh tổng, một Ph� tổng, t�m l� trưởng, một th�y c�ng.

Sự ph�t triển ng�y c�ng phấn khởi hơn. Năm 1848, khi số t�n hữu l�n tới 184.000, Đức cha xin t�a Th�nh chấp thuận chia gi�o phận th�nh hai : Gi�o phận Trung (nay l� B�i Chu, Th�i B�nh) được trao cho Đức cha Marti Gia, c�n Đức cha Li�m giữ lại phần đất đ�ng d�n cư với hơn mười triệu, m� �t t�n hữu, chỉ 0,4 phần trăm. Từ đ� hai gi�o phận ng�y c�ng ph�t triển vững mạnh hơn, mặc d� vua Tự Đức bắt dầu b�ch hại đạo. Năm 1852, gi�o phận Đ�ng Đ�ng Ngo�i rửa tội được 388 người lớn, 2.824 trẻ em, trong đ� đa số l� trẻ em ngoại.

Mười năm cuối đời của Đức cha Li�m l� những năm đầy vất vả v� gian lao. Vua Tự Đức ra th�m chiếu chỉ cấm đạo. Năm 1855, khi qua gi�o phận Trung, hai th�y giảng th�p t�ng Đức cha Li�m bị cướp bắt, Đức cha phải năn nỉ cả ng�y họ mới chịu tha. Năm sau, ch�nh Đức cha bị bắt, khi ng�i đi kinh l� xứ Hữu B�ng, phải chuộc mất 300 quan. Năm 1858, trước t�nh h�nh b�ch hại gay gắt, sợ sẽ kh�ng c�n ai sống s�t, Đức cha họp v� quyết định chia một nửa số thừa sai về Macao, chờ ng�y thuận tiện hơn sẽ trở lại gi�o phận hoạt động. Ng�i chỉ giữ lại 5 thừa sai Đaminh cho cả gi�o phận. Năm 1859, một lần nữa, Đức cha phải đổi t�n l� Tuấn, để khỏi bị lộ cho tới ng�y chiếu chỉ ph�n th�p ra đời.

Nỗi đau của vị chủ chăn

Tả sao cho hết nỗi đau của vị chủ chăn d�ng Thuyết Gi�o. Hai cuộc tử đạo của hai Đức cha Sanjurjo An v� Sampedro Xuy�n, biết bao hung tin mỗi ng�y : c�c th�nh đường bị ph� hủy, nhiều linh mục v� th�y giảng bị ng� gục. Giờ đ�y chiếu chỉ ph�n th�p lại nhắm đến gi�o d�n. � thức bổn phận chủ chăn, ng�i liền viết thư lu�n lưu cho khắp gi�o phận, k�u gọi mọi người thống hối, để Ch�a mở tay ban ph�t mọi sự l�nh, k�u gọi t�n hữu tin v�o Ch�a ph�ng, v� "l� c�y nhỏ mọn mặc l�ng, nếu Ch�a chẳng cho động, n� chẳng động được đ�u", kh�ch lệ mọi người can đảm xưng đạo cho vững v�ng, năng suy niệm cuộc thương kh� m� Ch�a đ� chịu v� nh�n loại hầu được th�m can đảm.

Đ�m thu 14.8 năm t�n Dậu (18.9.1861), trong khung cảnh tĩnh mịch của đ�m trăng rực s�ng, Đức cha Li�m ngước mắt nh�n cảnh vật m� l�ng x�c động tr�o d�ng. Ng�i nghĩ đến số phận đ�n chi�n đang bơ vơ thiếu chủ chăn, những gia đ�nh t�n hữu bị ph�n t�n, vợ một nơi chồng một nẻo, con c�i phải xa cha mẹ… Nhưng nỗi khổ t�m nhất của ng�i l� cũng đ�m đ�, chủng viện Kẻ Mốt phải giải t�n, những mầm non của gi�o hội thiếu điều kiện ph�t triển. Cha Khoa thay mặt ng�i, giờ đ�y đang n�i với chủng sinh những lời cuối c�ng xiết bao x�c động :

"Từ trước tới nay Đức cha cố giữ anh em ở đ�y, v� lo liệu cho anh em học h�nh … B�y giờ Đức cha buộc l�ng phải giải t�n nh� trường. nếu Ch�a để ch�ng ta c�n sống th� rồi đ�y c� ng�y Đức cha sẽ gọi anh em trở lại. Đức cha nhắn lời ch�c l�nh v� dặn d� anh em sống sao cho tốt, tr�ng cậy v�o Ch�a l� cha nh�n l�nh v� đừng qu�n cầu nguyện cho ng�i, cho gi�o phận v� cho cả gi�o hội Việt Nam. Anh em h�y thu xếp đi ngay trong đ�m nay, khỏi cần b�i ch�o Đức cha, kẻo ng�i kh�ng cầm được nước mắt…"

Cũng đ�m đ�, Đức cha Li�m phải rời l�ng Kẻ Mốt đến tr� ẩn ở Thọ Đức. 33 năm hoạt động tr�n qu� hương Việt Nam đ� chất chứa những g�nh nặng tr�n vai ng�i. Giờ đ�y sức khỏe ng�i đ� giảm s�t, r�u t�c đ� bạc phơ chỉ duy đ�i mắt vẫn giữ được vẻ tinh anh. Cảm thương thay vị cha gi� bước từng bước mệt nhọc tr�n qu�ng đường trơn trượt như tr�o l�n đỉnh n�i Sọ. Ng�y mai sẽ ra sao ? Kh�ng địa sở, kh�ng nơi ẩn n�u, chỉ c�n chờ c�i ng�y cũng chẳng xa, rơi v�o tay những kẻ đang truy n�.

C�ng đi với Đức cha c� th�y giảng Giuse Khang. Hai cha con trọ ở Thọ Đức được ba tuần th� bị lộ. Lại phải xuống thuyền qua thị x� Hải Dương v� t� t�c tr�n thuyền của một gi�o hữu, gia đ�nh �ng Trương B�nh. Được v�i ng�y, hai vị t�nh cờ gặp Đức cha Valentino Vinh v� cha Almato B�nh dọc theo đường thủy từ Kẻ N� xuống. Thật l� cuộc hội ngộ đặc biệt, c�c vị trao đổi, kh�ch lệ nhau th�m can đảm v� tạ ơn Ch�a v� dịp may hiếm c� n�y. Sau đ�, c�c vị chia tay nhau mỗi người một nẻo.

Dưới sự tận t�nh che giấu của �ng Trương B�nh, Đức cha v� th�y giảng Khang được �t ng�y bằng y�n cho đến h�m xảy ra cuộc c�i vả giữa cha con �ng Trương B�nh, người con trai v� tức giận cha mẹ, đ� đi tố c�o �ng b� về tội chứa chấp T�y Dương đạo trưởng. Đội Bằng l�c đ� l�m Ch�nh tổng liền đem gia nh�n đến bắt Đức cha v�o ng�y 20.10.1861. Khi bị bắt, Đức cha đưa cho đội Bằng một số tiền v� n�i : "Xin bắt v� giam giữ một m�nh t�i th�i. H�y để những người đ�nh c� ngh�o n�n n�y đi". Khi th�y Khang nhổ c�y s�o thuyền định chống cự th� Đức cha cản lại rằng : "Đừng chống trả l�m g�, h�y ph� mặc cho Th�nh � Ch�a". Thế l� cả hai bị bắt tr�i v� đưa về Hải Dương.

Đồng h�nh về trời

Sau khi lấy khẩu cung, Đức cha bị giam trong chiếc cũi chật hẹp, nằm kh�ng nổi, ứung cũng chẳng được, cứ phải khom lưng suốt ng�y, ch�n tay r� rời. Dầu vậy, ng�i vẫn t�m c�ch giảng đạo cho c�c bạn t�, r� rửa tội cho con trai vi�n đội B�i, cậu cũng bị xử tử với Đức cha.
Chiều ng�y 26.10, sau khi bắt được Đức cha Valentino Vinh v� cha Almato B�nh, qu�n l�nh h� reo ầm ĩ, Đức cha đang thiếp ngủ bừng tỉnh dậy. Ba chiến sĩ đức tin trong ba chiếc cũi ngậm ng�i nh�n nhau, nhưng l�ng đầy h�n hoan, v� thấy được đo�n tụ b�n nhau trong những ng�y cuối c�ng.

Ng�y xử được ấn định l� 01.11.1861. Ba chiếc cũi được khi�ng đi sau đội qu�n 500 người. Đức cha Li�m cũi cuối c�ng, trang nghi�m như ng�y đại lễ, thỉnh thoảng ng�i giơ tay ban ph�p l�nh cho c�c gi�o hữu đứng hai b�n đường.

Tại ph�p trường Năm Mẫu, ba vị được đưa ra khỏi cũi, c�ng cầu nguyện �t ph�t, rồi đưa tay cho l� h�nh tr�i v�o ba cọc. Bản �n được đọc l�n. ba hồi chi�ng trống, ba lưỡi gươm vung l�n một l�c, ch�m rơi đầu ba vị anh h�ng. Khi c�c quan ra về, d�n ch�ng d� lương hay gi�o,tranh nhau thấm m�u tử đạo. Ba thi h�i được bọc trong ba chiếc khăn v� ch�n tại chỗ. Thủ cấp c�c ng�i được treo ở bến đ� H�n ba ng�y (nhưng sau đ� gi�o d�n đ�nh tr�o bỏ v�o đ� ba củ chuối) rồi đưa về Y�n Dật, v� sau lại đưa về an t�ng tại Thọ Ninh một thời gian, cuối c�ng, đi dời về đền C�c Th�nh Tử Đạo Hải Dương.

Đức Pi� X suy t�n Đức cha Jeronim� Hermosilla Li�m l�n bậc Ch�n Phước ng�y 20.05.1906. Ng�y 19-06-1988, Đức Gioan Phaol� II suy t�n ng�i l�n bậc Hiển th�nh.

Đức cha đ� nằm xuống, nhưng ch�n l� ng�i đ� truyền giảng, phong th�i v� nhiệt t�m của ng�i vẫn sống m�i trong c�c t�n hữu v� h�ng gi�o sĩ của gi�o phận. Tất cả sẽ nắm tay nhau theo dấu ch�n vị cha chung để tiếp tục l�m chứng cho đức tin.