Ng�y 27 th�ng 6
CH�N PHƯỚC ANR� PH� Y�N
Th�y Giảng - (1625-1644)


Vinh dự cho người thanh ni�n đất Việt

Trong l� thư gửi đại hội giới trẻ thế giới lần thứ 17 tại Canada, một thanh ni�n Việt Nam được Đức Gioan Phaol� II n�u danh ở vị tr� thứ hai trong số 10 vị th�nh trẻ gương mẫu [1]. Nh�n vật c� vinh dự lớn lao ấy ch�nh l� ch�n phước Anr� Ph� Y�n, một thanh ni�n trẻ trung đất Việt đ� l�m chứng cho Ch�a v�o tuổi 19, cũng l� vị tử đạo ti�n khởi trong số 118 chứng nh�n đức tin tại Việt Nam được suy t�n tr�n b�n thờ.

Anr� Ph� Y�n sinh khoảng năm 1625, l� con �t trong một gia đ�nh ngh�o tại th�n x�m nhỏ ven biển, thuộc tỉnh “Ranran” tức tỉnh Ph� Y�n. Sinh qu�n của anh hiện nay thuộc về gi�o xứ Mằng Lăng, tỉnh Ph� Y�n, gi�o phận Quy Nhơn.

Năm 15 tuổi, c�ng với th�n mẫu, anh đ�n nhận đức tin với t�n th�nh l� Anr�. Kh�ng c� t�i liệu n�o về t�n thật của anh, n�n mọi người gọi anh bằng t�n th�nh : Anr� Ph� Y�n.


Th�y giảng trẻ tuổi

Tuy g�a bụa nhưng b� Gioanna đ� gi�o dục con với tất cả l�ng tận tụy v� kh�n ngoan. Hai năm sau, b� n�i xin v� được ch�nh cha Đắc Lộ, vị thừa sai d�ng T�n nổi tiếng tại Việt Nam, nhận lời cho con của b� l� Anr� khi đ� mới 17 tuổi, được gia nhập v�o tổ chức th�y giảng. Sau một thời gian được huấn luyện th�m về t�n gi�o v� văn h�a, Anr� đ� tuy�n khấn tại Hội An năm 1643, v� bắt đầu thi h�nh c�ng t�c thầy giảng, theo ch�n cha Đắc Lộ tr�n bước đường truyền gi�o từ Ph� Y�n l�n Quy Nhơn, Quảng Ng�i, Quảng Nam v� Quảng B�nh.

Dựa theo t�i liệu do ch�nh cha Đắc Lộ viết về c�ng cuộc truyền gi�o ở Đ�ng Trong, b�n cạnh hai kit� hữu trưởng th�nh, c�n c� một nh�m những người trẻ hơn, cũng tuy�n thệ c�ng khai tại nh� thờ, hứa cộng t�c v�o việc cứu vớt c�c linh hồn, dưới sự hướng dẫn của c�c thừa sai hoặc bề tr�n do c�c ng�i chỉ định. Trong số những người trẻ tuổi ấy c� thầy Anr�, đ� tận hiến đời m�nh bước theo dấu ch�n Th�y Ch� Th�nh.

Một số nh�n chứng đ� gặp thầy tại nh� của cha Đắc Lộ, hoặc chứng kiến c�ch thức thầy phục vụ cộng đo�n ở Hội An; đều ca ngợi th�y l� người nhiệt th�nh v� hăng say, khi giảng dạy về đức tin cũng như khi chủ sự c�c giờ kinh cộng đo�n. Nhiều người x�c định th�y si�ng năng l�nh nhận b� t�ch H�a giải v�  Th�nh Thể.


Đ�n nhận những kh� khăn c�ch tự nguyện

Th�ng 7 năm 1644, Quan ngh� Bộ đang trấn nhiệm tỉnh Ph� Y�n nhận được sắc chỉ từ phủ ch�a Nguyễn ra lệnh cấm truyền b� đạo. �ng tỏ ra hăng say tu�n theo mệnh lệnh n�y. �ng cho lệnh bắt giam một th�y giảng lớn tuổi cũng c� t�n l� Anr� v� bao v�y nh� cha Đắc Lộ để l�ng bắt một thầy giảng kh�c c� t�n l� Ignatio.

Cha Đắc Lộ nghe biết chuyện đ� đến gặp vi�n quan n�y để t�m c�ch thương thảo, nhưng quan trấn khẳng định quyết t�m thi h�nh lệnh nh� ch�a. �ng y�u cầu cha trở về Macao v� b�o trước sẽ trừng phạt nặng nề c�c t�n hữu d�m theo đạo mới. Thế n�n cha Đắc Lộ chỉ c�n c�ch đi v�o nh� giam để thăm thầy gi� Anr�. Cha xin ở lại một đ�m với th�y nhưng kh�ng được ph�p.

Khi qu�n l�nh tới nh� cha Đắc Lộ để l�ng bắt thầy giảng Ignatio th� cả nh� đều đi vắng. Thầy Anr� trẻ l� người duy nhất c� mặt. Th�y đứng ra nhận hết tr�ch nhiệm, n�n qu�n l�nh bắt tr�i th�y sau khi đ� lục lọi c�c ảnh th�nh v� đồ thờ đem về tr�nh cho quan trấn. Anr� vui vẻ đi theo họ, v� tr�n suốt qu�ng đường "kh�ng ngừng giảng cho những kẻ dẫn m�nh v�o ngục biết đường tr�nh hỏa ngục v� được l�n trời” [2]

Sau khi bị điệu đến quan, bị tố c�o l� gi�o d�n v� l� th�y giảng, th�y Anr� bị nhốt chung với th�y gi� Anr�. Cả hai thức suốt đ�m m� họ coi như đ�m cuối c�ng của cuộc đời, cả hai y�n ủi nhau với niềm tin tường ng�y mai cả hai sẽ về thi�n quốc[3]. Theo cha Đắc Lộ : "Thật kh�ng thể giải th�ch được niềm vui của hai t� nh�n n�y lớn lao dường n�o khi thấy m�nh được li�n kết với nhau, được vinh dự mang g�nh nặng của Thập Gi� v� niềm tin nơi Ch�a Kit� : những lời ch�c tụng của họ li�n tục d�ng l�n Thi�n Ch�a v� �n huệ ấy, trong cuộc n�i chuyện đầy thương mến, họ kh�ch lệ v� nhắn nhủ nhau sẵn s�ng cho trận chiến tương lai"

S�ng h�m sau, quan truyền đưa hai th�y giảng Anr� ra t�a để kết �n. Hai vị bị �p tải qua c�c đường phố, cổ mang g�ng, băng qua chợ Kẻ Ch�m, đến dinh quan trấn. Cha Đắc Lộ v� một v�i thương gia Bồ Đ�o Nha tới gặp quan để t�m c�ch can thiệp. Nhưng quan chỉ chấp nhận tha cho th�y gi� Anr� v� kết �n ch�ng thanh ni�n 19 tuổi cố chấp, d�m d�ng dạc thưa với quan : “Ước chi t�i c� được ng�n mạng sống để hiến d�ng tất cả cho Thi�n Ch�a hầu đền đ�p ơn Người”.

Khi nghe bản �n tử h�nh, thầy Anr� tỏ ra thanh thản v� vui mừng v� được chịu khổ đau v� Ch�a Kit�. Th�y kh�ch lệ những người đến thăm. Th�y xin họ cầu nguyện cho m�nh được ơn trung th�nh với Ch�a, v� n�i l�n ước nguyện được d�ng hiến mạng sống trong t�nh y�u trọn vẹn, hầu đ�p trả t�nh y�u thương v� bi�n của Ch�a, Đấng đ� hiến mạng sống v� lo�i người... Lời thầy lập lại nhiều lần nhất l�: "Ch�ng ta h�y lấy t�nh y�u để đ�p lại t�nh y�u của Ch�a ch�ng ta, h�y lấy mạng sống đ�p lại mạng sống".


Lấy t�nh y�u để đ�p lại t�nh y�u

V�o khoảng 5 giờ chiều, một to�n l�nh khoảng 30 người v�o t� �p tải thầy Anr� đi tới nơi h�nh quyết. Thầy Anr� cảm tạ Ch�a v� giờ hiến tế đ� tới, v� sau khi ch�o mọi người bạn t�, thầy nhanh nhẹn bước đi. Qu�n l�nh bao v�y chung quanh v� dẫn thầy đi qua c�c đường phố ở Kẻ Ch�m, tới một c�nh đồng ngo�i th�nh, [4]. Cha Đắc Lộ, nhiều t�n hữu Việt Nam v� Bồ Đ�o Nha c�ng một số d�n trong v�ng đ� đi theo chứng kiến cuộc xử tử vị T�i Tớ Ch�a.

Đến nơi h�nh h�nh, qu�n l�nh đẩy thầy Anr� qu� xuống, rồi đứng v�y chung quanh, sau đ� họ th�o g�ng v� tr�i hai tay thầy lại. Cha Đắc Lộ xin v� được ph�p trải một tấm chiếu dưới ch�n thầy Anr� để hứng m�u, nhưng thầy Anr� từ chối, thầy muốn m�u m�nh rơi xuống đất như m�u cực trọng Ch�a Kit� thuở xưa. Cha Đắc Lộ t�n trọng quyết định của thầy v� đứng b�n cạnh. Trong khi đ�, thầy Anr� nhắn nhủ c�c t�n hữu đang hiện diện, h�y lu�n ki�n vững trong đức tin, đừng buồn phiền v� c�i chết của thầy, v� hiệp lời cầu cho thầy được trung th�nh tới c�ng.

Cuộc h�nh quyết thầy Anr� được thi h�nh bằng mấy nh�t gi�o đ�m thấu cạnh sườn b�n tr�i. Th�y Anr� vẫn nh�n về ph�a cha Đắc Lộ như �u yếm n�i lời vĩnh biệt, nhưng cha nhắc th�y ngước nh�n l�n trời nơi th�y sắp tới v� c� Ch�a Gi�su đ�n th�y. Th�y ngước mắt l�n cao v� kh�ng nh�n xuống nữa. Cuối c�ng, khi một người l�nh d�ng đao ch�m đầu, thầy vẫn lớn tiếng k�u l�n danh th�nh "Gi�su". H�m ấy l� ng�y 26 th�ng 7 năm 1644.

Cho tới hơi thở cuối c�ng, Thầy Anr� đ� chứng tỏ l�ng ki�n trung chấp nhận d�ng hiến tế cuộc sống v� l�ng tin y�u Ch�a Kit�. Cha Đắc Lộ, sau khi chứng kiến tất cả diễn tiến cuộc h�nh quyết, đ� xin được l�nh thi h�i của Thầy Anr�. �t ng�y sau ng�i đưa thi thể th�y đưa xuống t�u mang sang Macao ng�y 15 th�ng 8 năm 1644. C�c tu sĩ d�ng T�n tại đ�y đ� đ�n rước linh cữu th�y v� an t�ng tại đ�y. Ri�ng thủ cấp của vị chứng nh�n đức tin được cha Đắc Lộ đưa về tận R�ma. Dựa v�o c�c t�i liệu của cha viết về c�i chết của Th�y Anr�, ngay cuối năm 1644, t�a th�nh đ� bắt đầu khởi sự �n phong ch�n phước cho th�y.

Với c�c t�n hữu Việt Nam, Thầy Giảng Anr� Ph� Y�n ch�nh l� vị tử đạo đầu ti�n của Đ�ng Trong, l� mẫu gương ngời s�ng của một người con Ch�a trung th�nh sống đời kit� hữu. Họ tin tưởng xin Thầy chuyển cầu cho họ nơi t�a Ch�a để được sức mạnh can đảm sống ph� hợp với đức tin v� trung th�nh với ơn gọi Kit�. C�c gi�m mục Việt Nam khi đi dự C�ng Đồng Vatican II, đ� xin Đức Phaol� VI mở lại �n phong ch�n phước cho Thầy Giảng Anr�. C�c vị nhấn mạnh tấm gương của thầy Anr�, qua th�i độ b�nh thản v� cương quyết chấp nhận tử đạo, l� một trợ lực mạnh mẽ cho những ai giống như thầy, đang chịu đau khổ để bảo vệ đức tin v� trung th�nh với Ch�a Kit� v� với Gi�o hội.

Giữa năm đại th�nh 2000, v�o ng�y 5 th�ng 3, Đức Gioan Phaol� II đ� suy t�n Th�y Anr� Ph� Y�n l�n bậc ch�n phước.

Lạy Ch�a,
xin cho c�c gi�o l� vi�n v� c�c bạn trẻ,
ở bất cứ ho�n cảnh n�o,
d� nơi bị cấm c�ch hay trong x� hội t�n tiến với nhiều quyến rũ,
Biết noi gương Ch�n Phước Thầy Giảng Anr� Ph� Y�n,
hăng say loan truyền Tin Mừng T�nh Y�u v� H�a Giải
c�ng trung ki�n theo Ch�a Gi�su,
sẵn s�ng hiến mạng sống đ�p trả lại t�nh y�u của Ng�i. Amen.

 


 

[1] Mười vị th�nh trẻ được Đức Gioan Phaol� II n�u gương trong sứ điệp gửi nh�n ng�y Quốc tế giới trẻ lần thứ 17 l� : Agnes th�nh R�ma, Anr� Ph� Y�n, Pedro Calungsod, Josephine Bakhita, T�r�sa th�nh Lisieux, Pier Giorgio Frassati, Marcel Callo, Francisco Castell� Aleu, Kateri Tekakwitha, v� Iroquois c�n được gọi l� "Hoa huệ của người Mohawks".

[2] Alexandre De Rhodes, H�nh Tr�nh Truyền Gi�o, Bản dịch Hồng Nhuệ, UBĐKCG TpHCM 1994, tr 146

[3] Như tr�n, trang 147

[4]Hiện nay thuộc gi�o họ Phước Kiều, gi�o xứ Vĩnh Điện, Quảng Nam, gi�o phận Đ� Nẵng .