Ng�y 27 th�ng 04
Th�nh Laurens� NGUYỄN VĂN HƯỞNG
Linh mục - (1802 -1856)

Niềm tin y�u cao qu�.

"Qu� kh�a đi ! ta thương v� giảm nhẹ �n cho".

Qu� kh�a? L�m sao cha Hưởng c� thể qu� kh�a được? V� sợ h�nh phạt d�nh cho người phản bội đạo Ch�a ? – V�ng. V� tr�ch nhiệm của một vị đạo trưởng ? – V�ng. Nhưng kh�ng phải chỉ c� thế. Qu� kh�a đối với cha c�n l� một điều g� kinh khủng hơn nhiều. Qu� kh�a đ� l� chối bỏ niềm tin cao qu� nhất của người t�n hữu, chối bỏ c� � nghĩa cuộc đời mục tử của m�nh.

Quan �n kh�ng hiểu được cha. C�c người l�nh kh�ng thể hiểu cha. Những người đồng đạo cảm th�ng v� k�nh mến cha. Nhưng c� ai c�ng cảnh ngộ với cha chăng ? Ngay từ ấu thơ đ� phải chịu cảnh bất hạnh nhất của một con người : mồ c�i cha mẹ. L�m v�o cảnh lam lũ vất vả để kiếm sống, con người bất hạnh đ� lu�n lu�n kh�t t�nh thương của người cha, sự �u yếm của người mẹ, một nỗi kh�c khao lớn lao kh�ng một tấm l�ng trần gian n�o c� thể lấp đầy. Cuối c�ng người con mồ c�i ấy đ� kh�m ph� ra Thi�n Ch�a ch�nh l� Người cha y�u thương cao cả ấy.

Biết n�i sao đ�y ? Cha Hưởng chỉ biết đơn sơ trả lời quan �n : "Bẩm quan lớn, c� bao giờ con c�i d�m đạp l�n đầu cha mẹ m�nh chăng ?".

Thế l� một lần nữa cha phải trả gi� cho � nghĩa cuộc đời linh mục, v� lần n�y bằng một gi� cao nhất l� ch�nh sinh mạng của m�nh.

Tuổi xanh gian khổ

Cậu b� Laurens� Nguyễn Văn Hưởng sinh năm 1802 tại x� Tụy Hiền, xứ Kẻ Sải, tổng Trinh Tiết thuộc H� Nội. Gia đ�nh ngh�o, mồ c�i cha ngay từ nhỏ. Cậu Hưởng phải đi chăn tr�u cho �ng ngoại gi�o t�n l� Thang. Thấy cậu hiền l�nh �ng rất qu� mến v� đối xử như con ruột. T�nh thương của �ng ch� thật đ�ng qu�, nhưng chẳng thể b� đắp được nổi bất hạnh do thiếu t�nh y�u cao qu� của cha mẹ ruột, bởi v� chỉ c� t�nh y�u của cha mẹ mới thực sự bao la m� ca dao Việt Nam thường v�:

C�ng cha như n�i Th�i Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Cậu Hưởng muốn d�ng m�nh cho Ch�a để t�m kiếm một t�nh thương trọn vẹn hơn, n�n đến xin cha Duyệt, ch�nh xứ Sơn Mi�ng gi�p đỡ. Sau ba năm được cha xứ nu�i dưỡng ăn học, cậu được gởi v�o học tại chủng viện Vĩnh Trị, thụ gi�o với cha ch�nh xứ gi�o phận T�y Đ�ng Ngo�i.

Khi vua Minh Mạng ra lệnh cấm đạo nghi�m ngặt, chủng viện Vĩnh Trị phải giải t�n. Cậu về qu� l�m thuốc vi�n b�n quanh l�ng độ nhật, v� cũng để thăm viếng gi�p đỡ nhiều người. Nh�n dịp n�y, �ng ch� khuy�n cậu n�n ở nh� lập gia đ�nh. �ng c�n hứa nhường lại gia sản cho cậu. Một quan Tổng c� họ h�ng với cậu cũng hứa gi�p đỡ tận t�nh. Nhưng cậu Hưởng vẫn cương quyết theo l� tưởng tu tr�. �ng ch� tức giận đuổi cậu ra khỏi nh�, v� cậu liền trở về chủng viện Vĩnh Trị.

Tất cả v� danh Ch�a

M�n kh�a học cậu Hưởng được gia nhập bậc th�y giảng, đi gi�p xứ Kim Sơn, xứ Bạch B�t. Trong suốt 8 năm trời th�y Hưởng lu�n l�m việc tận tụy, sống giản dị, khi�m tốn v� b�c �i. Sau đ� Đức Cha gọi th�y về học th�m thần học v� truyền chức linh mục cho th�y. Cha Hưởng trở n�n một linh mục nhiệt th�nh, l�m ph� xứ Giang Sơn hai năm, rồi sang xứ Lạc Thổ, Y�n Lộc, Bạch B�t. Ở đ�u cha cũng tỏ ra một linh mục si�ng năng, nhiệt t�m giảng đạo t�n hữu, thường xuy�n viếng thăm những bệnh nh�n.

Năm 1855, cha bị bắt tr�n đường đi thăm kẻ liệt. Khi ấy cha đang ở tr�n thuyền th� mấy gia nh�n của ph� Tổng T�y với gậy gộc la � rượt theo, cha liền bảo người l�i đ� ch�o qua bờ b�n kia s�ng rồi bỏ đi. Cha tự nguyện nộp m�nh, v� kh�ng muốn người kh�c phải li�n lụy.

Bị bắt, cha kh�ng coi đ� l� một tai họa, nhưng l� th�nh � Ch�a muốn cho m�nh th�ng phần v�o cuộc tử nạn của Đức Kit�, v� nhắn với Cha gi� Chất c�ng bổn đạo đừng chạy tiền chuộc.

Sau ba ng�y bị giam ở huyện Y�n M�, Cha được giải về tỉnh Ninh B�nh. Quan tỉnh thấy cha c� n�t ch�n tu n�n hứa : "Nếu �ng đạp l�n Th�nh gi�, ta cho đến trụ tr� ở ch�a Non Nước". Cha đ�p : "T�i kh�ng biết g� về Thần Phật, l�m sao ở ch�a được?". Quan y�u cầu cha đọc kinh l�n đạo, cha đọc 10 điều Răn. Quan lại thắc mắc về tin đồn rằng : "Tại sao c�c �ng kho�t mắt người bệnh, v� kh�ng thờ k�nh tổ ti�n ?". Cha Hưởng b�nh tĩnh giải th�ch cho quan : "Xin quan đừng nghe những lời đồn đ�i sai lạc, ch�ng t�i chỉ xức dầu tr�n mắt, mũi, tai miệng v� tay ch�n để xin Ch�a tha c�c tội m� bệnh nh�n đ� d�ng ch�ng để phạm tội. C�n với tổ ti�n ch�ng t�i thường cầu nguyện bằng những việc l�nh, chỉ c� điều ch�ng t�i kh�ng c�ng quả, v� biết rằng cha mẹ chẳng trở về ăn uống thứ g� được nữa." C�c t�n hữu đến thăm, cha an ủi họ : "Ch�ng con phải mừng cho cha, v� cha đ� được chịu khổ v� Ch�a Gi�su"

Ch�nh trực đến c�ng

Sau nhiều lần dụ dỗ kh�ng được, c�c quan Ninh B�nh l�m �n xin vua cho xử trảm. Trước đ� v� c�c quan đ� nhận 10 n�n bạc của gi�o hữu, n�n t�m c�ch giảm nhẹ �n cho cha. Họ đề nghị cha khai m�nh l� một t�n hữu th�i, nhưng cha nhất định kh�ng chịu khai man che dấu chức vụ linh mục. Cha viết thư cho Đức cha Retordd Li�u.

"Xin Đức Cha đừng chạy tiền chuộc con l�m chi, con sẵn l�ng hy sinh để chứng đạo Ch�a Gi�su l� đạo thực. Xin Đức Cha cầu nguyện cho con vững v�ng cho đến c�ng".

Cuối c�ng vị linh mục được m�n nguyện. Trước kia cha đ� cương quyết từ chối lời đề nghị của �ng ch�, b�y giờ cha lại vui mừng đ�n nhận bản �n như chờ đợi v�ng tay Ch�a Cha y�u dấu đang rộng mở đ�n chờ người con y�u. Đ�ng ng�y thi h�nh bản �n cha Khoan v�o ngục thăm, giải tội v� trao m�nh th�nh lần cuối c�ng. Cha Hưởng vui vẻ ra ph�p trường nằm tr�n v�ng gi�o hữu đ� thu� sẵn. Cha cầm s�ch nguyện kinh Thần vụ lần cuối…

Đầu cha rơi xuống, cha Laurens� Nguyễn Văn Hưởng đ� vượt qua cuộc đời trần thế để về xum họp với cha tr�n trời ng�y 27-04-1856. C�c t�n hữu đ� an t�ng thi h�i th�nh nh�n Ch�a Kit� tại Vĩnh Trị.

Đức Pi� X suy t�n ch�n phước cho cha Laurens Nguyễn Văn Hưởng ng�y 02-05-1909. Ng�y 19-06-1988, Đức Gioan Phaol� II suy t�n ng�i l�n bậc Hiển th�nh.