Ng�y 14 th�ng 11
Th�nh St�phan� Th�odore CU�NOT THỂ
Gi�m mục thừa sai Paris - (1820 – 1861)

Như một Phaol� ng�y xưa.

Cuộc đời th�nh Gi�m mục Cu�not Thể với 32 năm phục vụ Gi�o Hội Việt Nam, 26 năm trong chức vụ Gi�m mục, gắn liền với những trang sử đẹp nhất, giữa một giai đoạn kh� khăn nhất thời b�ch hại. Nhiệt t�m truyền gi�o của ng�i như ngọn thủy triều d�ng tr�n đến mọi nơi. Với t�i đức kh�o l�o, ng�i đ� đ�o tạo một đội ngũ linh mục xuất sắc v� h�ng ng�n th�y giảng, nữ tu hăng say. Với ch�m ng�n "Để t�n hữu vững tin, phải đ�o tạo những t�ng đồ truyền gi�o", n�n d� cho bao linh mục, tu sĩ, gi�o d�n của ng�i bị t�n s�t, gi�o phận Đ�ng Trong của ng�i vẫn ph�t triển mạnh mẽ, đủ sức t�ch l�m bốn gi�o phận. Số linh mục, tu sĩ, t�n t�ng gia tăng nhanh mỗi năm, sẽ m�i m�i l� bằng chứng của nhiệt t�m v� t�i tổ chức của ng�i.

St�phan� Th�odore Cu�not sinh ng�y 08.02.1802 tại Sous R�amont thuộc B�lieu nước Ph�p. Lớn l�n cậu v�o chủng viện Besancon, trung t�m huấn luyện của cha R�ceveur, v� thụ phong linh mục ng�y 24.09.1825. Tuy thế, ho�i b�o ch�nh của t�n linh mục l� đi truyền gi�o. Năm 1828, cha Cu�not xin gia nhập hội Thừa Sai Paris, v� năm sau được cử đến Việt Nam. Ng�y 31.5.1829, cha đến Kẻ Vĩnh, gi�o phận Đ�ng Ngo�i. Ng�y 24.7, cha v�o Miền Nam.

Mới đầu cha được gửi đến L�i Thi�u để học th�m tiếng Việt, đồng thời dạy c�c chủng sinh ở đ�. Bốn năm dạy ở chủng viện, tuy l� thời gian ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để cha hiểu nhiều về phong h�a địa phương, gắn b� với c�c cộng t�c vi�n trong tương lai. Năm 1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo tr�n to�n quốc, triệt hạ c�c nh� thờ, tập trung c�c thừa sai v� bắt c�c t�n hữu phải bỏ đạo. V� mới lần đầu va chạm với b�ch hại, c�c t�n hữu khi đ� chưa gi�m chứa chấp c�c vị thừa sai. Đức cha Tabert Từ liền quyết định đưa c�c vị di tản qua Th�i Lan. Cha Thể phụ tr�ch việc di tản 15 chủng sinh. Sau hơn một th�ng rưỡi h�nh tr�nh vất vả, đo�n người đ� đến Th�i Lan v� được vua Th�i tiếp đ�n lồng nhiệt.

Thời gian đ�, Th�i Lan v� Việt Nam đang c� chiến tranh, n�n vua Th�i Lan muốn nhờ c�c vị thừa sai k�u gọi d�n C�ng Gi�o chống lại vua Minh Mạng. Dĩ nhi�n l� Đức cha Tabert Từ kh�ng thể n�o chấp nhận, nh�i cương quyết từ chối. Điều đ� l�m Th�i Ho�ng nổi giận v� thay đổi c�ch cư xử. Nh� vua ra lệnh bắt giam ba linh mục v� c�c chủng sinh Việt Nam. May l� nhờ t�i ăn n�i thuyết phục của cha Thể, vua mới nương tay v� cho họ đến ẩn n�u tại chủng viện P�nang (M� Lai) năm 1834. Cha n�i:

"Bằng mọi gi� phải lo cho họ. Như t�i (một thừa sai) chết, người ta c� thể gửi người kh�c thay thế chậm lắm l� một năm. Một linh mục, chủng sinh Việt Nam nằm xuống, phải mất hai ba chục năm mới c� người thay thế được".

Cũng năm đ�, v� kh�ng ủng hộ Th�i Lan đ�nh Việt Nam, Đức cha Tabert Từ lại phải chạy đến Singapour.

Hoa ti�u giữa s�ng gi�

Tuy sống c�ch xa ngh�n dặm, Đức cha, cha Thể v� c�c vị thừa sai vẫn hướng t�m hồn về Gi�o Hội Việt Nam đang l�m cảnh m�u chảy đầu rơi, vừa thương x�t vừa th�n phục, c�c ng�i t�m c�ch trở lại miền đất truyền gi�o n�y. Năm 1835, Đức cha Tabert c� quyết định mới. Khi thấy tr�n mảnh đất Lạc Hồng chỉ c�n hai thừa sai v� 10 linh mục Việt Nam, Đức cha liền đ�p t�u sang P�nang, truyền chức Gi�m mục cho cha Thể, chọn l�m phụ t� m�nh, v� cử vị t�n Gi�m mục cấp tốc trở về gi�o phận.

Trở lại Việt Nam trong những ng�y b�ch hại khốc liệt, sự hiện diện của Đức cha Thể quả l� niềm an ủi lớn lao cho c�c t�n hữu. Đặt trụ sở tại G� Thị, tỉnh B�nh Định, Đức cha thấy m�nh kh�ng thể đi thăm hết c�c họ đạo được, ng�i liền việt thư lu�n lưu gửi đến khắp nơi để cổ v� tinh thần đạo đức của gi�o hữu. Từ nay tất cả c�c biến cố trong gi�o phận : Những cuộc c�n qu�t của qu�n l�nh, những chứng nh�n bị bắt giam, những cuộc tử đạo, cho đến những th�nh quả t�ng đồ, đều được người cha chung gi�o phận cảm th�ng, viết thư khen ngợi, ủy lao hay kh�ch lệ. Nhờ đ�, c�c linh mục v� gi�o hữu đều thấy th�m can đảm.

Việc Đức cha bận t�m nhất l� số c�c linh mục phục vụ. Ngo�i hai linh mục đ� theo ng�i về từ Th�i Lan, năm 1835, Đức cha truyền chức cho 10 th�y giảng. Năm sau, ng�i xin Hội Thừa Sai th�m s�u linh mục. L� người s�ng suốt nh�n xa tr�ng rộng, Đức cha cho t�i lập hai chủng viện, một hở Huế trao cho cha Candalh Kim v� một ở miền Nam trao cho cha Lef�bvre Nghĩa. Đồng thời Đức cha cũng gọi c�c nữ tu Mến Th�nh Gi� trước đ�y đ� phải ph�n t�n về gia đ�nh (250 d�) trở lại sống chung v� hoạt động trong 18 nh� phước.

Ng�y 31.7.1840, Đức cha Tabert Từ qua đời tại Calcutta (Ấn Độ), Đức cha Thể ch�nh thức l�m đại diện T�ng t�a. Năm sau ng�i tổ chức lễ tấn phong cho t�n Gi�m mục Lef�bvre Nghĩa l�m phụ t�. Lợi dụng t�nh h�nh lắng dịu hơn, ng�i tổ chức C�ng Đồng G� Thị (1841) gồm ba thừa sai v� 13 linh mục Việt trong gi�o phận (1). C�ng Đồng dưới sự điều khiển của Đức cha Thể, đ� đưa ra những nguy�n tắc s�ng suốt để đ�o tạo một lớp linh mục bản xứ đ�ng đảo v� nhiệt th�nh. Nếu việc mở chủng viện kh� khăn, mỗi thừa sai c� tr�ch nhiệm dạy s�u bảy em, rồi gửi qua P�nang học bảy năm. Họ sẽ về Việt Nam thụ phong linh mục v� l�m việc. C�ch tổ chức ấy trong thực tế đ� cung cấp cho gi�o phận Đ�ng Trong một số kh� đ�ng linh mục th�ng th�i v� đạo đức.

Vị chủ chăn nhiều t�i năng v� s�ng kiến.

D� ho�n cảnh kh� khăn, Đức cha vẫn quan t�m đến việc n�ng cao kiến thức v� nh�n đức cho h�ng gi�o sĩ, mỗi năm ng�i gởi cho c�c linh mục những b�i học hỏi về t�n l�, lu�n l�. C�c cha sẽ việt b�i nộp trong kỳ tĩnh t�m h�ng năm. Sau đ�, ch�nh Đức cha đọc, sửa b�i v� gửi thư nhắn nhủ cho từng linh mục. Đối với gi�o hữu, Đức cha chủ trương rằng "Phương ph�p tốt nhất để đức tin của c�c gi�o hữu vững v�ng l� đ�o tạo họ th�nh những t�ng đồ truyền gi�o". Thực vậy, nhờ giải th�ch cho c�c kh�c về gi�o l�, c�c gi�o hữu ng�y c�ng x�c t�n hơn về niềm tin của m�nh. Hơn nữa, họ tự thấy nghĩa vụ l�m gương cho anh em t�n t�ng về đời sống đạo v� tinh thần can đảm giữ vững đức tin.

Đối với những gi�o hữu v� sợ h�i đ� xuất gi�o, đạp l�n Th�nh Gi�, Đức cha sẵn l�ng thay mặt Ch�a tha thứ. nhưng ng�i xin họ nhận một điều kiện l� hứa gi�p cho một lương d�n theo đạo C�ng Gi�o. B�n cạnh đ�, h�ng năm Đức cha l�m thống k� b�o tin xứ đạo n�o c� nhiều t�n t�ng hơn, khiến c�c xứ thi đua l�m việc t�ng đồ. Đặc biệt phải n�i đến l�ng can đảm của c�c nữ tu Mến Th�nh Gi�. C�c chị chia nhau, cứ hai người một, đi hết c�c l�ng mạc, ph�t thuốc men cho bệnh nh�n, v� khi c� thể, rửa tội cho trẻ em sắp chết. Năm 1835, khi Đức cha mới về Việt Nam, số trẻ em ngoại gi�o được rửa tội l� 133 em, th� năm 1841 l� 1800 em v� năm 1843 l� 8273 em. Năm 1844, số trẻ em gia đ�nh C�ng Gi�o được rửa tội l� 5056 th� số người lớn trở lại v� rửa tội l� 1007, nghĩa l� 20 phần trăm.

Nhiều gi�o hữu sẵn s�ng bỏ tiền bạc, cong sức nu�i d�m trẻ em những người qu� ngh�o, chỉ với điều kiện l� cho em gia nhập đạo. L�ng b�c �i s�u xa ấy quả l� b�i giảng h�ng hồn về sức sống của Gi�o Hội. Nhiều người thiện ch�, v� đ�i khi cha mẹ c�c em cũng xin trở lại v� những b�i giảng sống n�y.

Một c�ng tr�nh lớn lao kh�c của Đức cha Thể l� c�ng cuộc truyền gi�o cho c�c d�n tộc thiểu số miền Thượng du, đặc biệt l� d�n tộc Bahnar. Ch�nh Đức cha cử nhiều đợt người theo d�i, kh�ch lệ v� đưa ra những chỉ đạo th�ch hợp để anh em Thượng nhận Anh S�ng Tin Mừng.

Những th�nh c�ng lớn lao của Đức cha đ� được T�a Th�nh c�ng nhận năm 1844 khi ph�n chia gi�o phận Đ�ng Trong th�nh hai gi�o phận Đ�ng (Quy Nhơn) v� T�y (S�i G�n). Tiếp theo đến năm 1850, lại chia l�m bốn l� Nam Vang, S�i G�n, Bắc (Huế) v� Quy Nhơn. Từ đ�y Đức cha Thể chỉ coi s�c gi�o phận Đ�ng Đ�ng Trong, nhưng lại ở trong t�nh h�nh b�ch hại mới gay gắt hơn nhiều.

L�ng k�nh mến Đức Mẹ.

Trong 10 năm liền, nhờ sự che chở của c�c t�n hữu v� c�c nữ tu Mến Th�nh Gi�, Đức cha v� c�c linh mục tho�t khỏi cuộc truy l�ng. Thế nhưng c�c ng�i phải thay đổi chỗ ở li�n tục, nhiều đ�m ngủ ngo�i trời "đ�m sao", c� l�c phải v�o rừng s�u hay đầm lầy, chịu đ�i chịu kh�t, chịu kh� hậu thất thường v� nhiều lần su�t chết trong khi thăm viếng bệnh nh�n hay giải tội cho người hấp hối. Thế m� trong thời gian n�y, Đức cha duy tr� thường xuy�n mối li�n lạc với t�a Th�nh. Đặc biệt khi được hỏi về t�n điều Đức Mẹ V� Nhiễm, ng�i đ� trao đổi với c�c linh mục trong gi�o phận, rồi gửi thư b�y tỏ l�ng k�nh mến Đức Maria của d�n Việt cho T�a Th�nh. Cuối thư Đức cha viết :

"Xin Đức Th�nh Cha cho được hiệp th�ng trong lời cầu nguyện c�ng với tất cả c�c Gi�m mục kh�c trong ng�y Đức Th�nh Cha long trọng c�ng bố t�n điều Đức Mẹ V� Nhiễm Nguy�n Tội".

T� tội v� rao giảng Tin Mừng

Năm 1861, chiếu chỉ "ph�n s�p" của vua Tự Đức l�m Gi�o Hội Việt Nam một phen đi�u đứng. Đức cha Thể đ� khuy�n c�c thừa sai trong gi�o phận đi tản v�o S�i G�n, nhưng ch�nh ng�i t�nh nguyện ở lại, ng�i đưa ra một phương ch�m bất hủ : "D� chỉ c�n một thừa sai chẳng l�m được g� ngo�i việc đọc kinh thần vụ, th� nguy�n việc hiện diện của vị đ� đủ để n�ng đỡ niềm tin v� sinh hoạt của t�n hữu rồi".

Từ th�ng 10, Đức cha phải bỏ G� Thị trốn từ nh� n�y sang nh� kh�c. Ng�y 24.10.1861, ng�i đang ẩn ở nh� b� Madalena Huỳnh Thị Lựu th� qu�n l�nh bao v�y nh� b�…

Đức cha v� hai ch� gi�p lễ kịp trốn xuống hầm, nhưng v� vừa d�ng lễ xong chưa kịp cất giấu đồ lễ. V� chứng cớ ấy m� qu�n l�nh thề ph� nh�, nếu kh�ng t�m thấy đạo trưởng T�y Dương. Mọi người trong nh� đều bị tra tấn, b� Lựu bị đ�nh đ�n 17 roi. Sau hai ng�y v� một đ�m ở dưới hầm, Đức cha v� hai ch� gi�p lễ kh�t kh� cả cổ. Vả lại v� qu�n l�nh chẳng bỏ đi, nếu chưa bắt được Đức cha, n�n ng�i tự ra nộp m�nh. Vừa thấy ng�i, qu�n l�nh chồm tới tr�i tay ch�n ng�i lại như một con th�. Nhưng vi�n chỉ huy nh�n đạo hơn, cho cởi tr�i v� mời ng�i ngồi chiếu n�i truyện với �ng ta.

H�m sau, Đức cha bị nhốt trong cũi đưa về tỉnh. Hai ch� gi�p lễ, b� Lựu v� hai người l�n cận cũng bị mang g�ng giải đi (sau n�y tất cả c�ng bị xử tử th�ng 12). B� Lựu vừa cho con b� vừa ra ph�p trường, rồi h�n con lần cuối trao lại cho b� ngoại. Th�ng 10 năm đ�, miền Trung bị lụt, nước d�ng l�n đến lưng, n�n ngồi trong cũi chật chội, Đức cha cũng bị ngập nước. Do đ�, khi đến nh� giam th� Đức cha l�m trọng bệnh. Chứng kiết lị l�m sức khỏe ng�i c�ng đuối dần, v� thế ng�i chỉ phải ra t�a một lần. Quan hỏi:

- Tại sao �ng sang nước t�i?
- Thưa, để giảng đạo Thi�n Ch�a.
- �ng ở đ�y bao l�u rồi?
- Ba mươi bốn năm.
- �ng đ� ở những đ�u?
- Thưa, trước hết l� B�nh Định rồi Ph� Y�n, B�nh Thuận v� lại trở về B�nh Định.
- �ng biết g� về chiến tranh kh�ng?

- Thưa, kh�ng biết g� cả. T�i đến đ�y chỉ để giảng đạo, khi nơi n�y khi nơi kh�c thế th�i. Quan h�nh hạ thế n�o t�i cũng đ�nh chịu, chứ tin tức chiến tranh t�i ho�n to�n kh�ng biết g� cả.
Trở về với chiếc cũi của m�nh, cơn bệnh khắc nghiệt chỉ trong v�ng ba tuần lễ đ� l�m Đức cha kiệt sức v� thở hơi cuối c�ng ng�y 14.11.1861, kết th�c 32 năm truyền gi�o kh�ng một ng�y b�nh an.

H�m sau, ng�y Đức cha qua đời, bản �n trảm quyết từ Huế mới đến B�nh Định. Thấy ng�i đ� từ trần, quan Trấn thủ B�nh Định kh�ng cho ch�m nữa, truyền đem đi ch�n, những t�n hữu đang bị t� xin ph�p mua cho Đức cha một �o quan xứng đ�ng, nhưng Trấn thủ kh�ng chấp thuận. Nhưng sau đ�, triều đ�nh lại gửi ra một bản �n mới ghi thế n�y : "T�y dương đạo trưởng Thể đ� lấn l�t trong nước ta 40 năm nay. Y đ� giảng đạo v� lừa dối d�n ch�ng. Bị bắt v� tra hỏi, y đ� th� nhận mọi tội lỗi. Lẽ ra phải đem ch�m đầu y b�u l�n giữa chợ, nhưng v� y đ� chết trong t�, ta truyền phải quăng x�c y xuống s�ng".

Chiếu theo bản �n ấy, quan Trấn thủ cho đ�o mồ Đức cha l�n để liệng thi h�i Đức cha xuống s�ng. Mặc d� Đức cha Cu�not Thể kh�ng đổ m�u v� đức tin, nhưng căn cứ v�o bản �n v� mu�n ng�n nỗi tru�n chuy�n ng�i đ� chịu v� đạo, Gi�o Hội t�n k�nh Đức cha với tước hiệu tử đạo.

Ng�y 02.05.1909, Đức Pi� X n�u danh Đức cha St�phan� Th�odore Cu�not Thể đứng đầu danh s�ch 20 vị tử đạo tại Việt Nam được suy t�n l�n bậc Ch�n Phước. Ng�y 19-06-1988, Đức Gioan Phaol� II suy t�n ng�i l�n h�ng Hiển th�nh.