NG�Y 02 TH�NG 02
Th�nh Gioan Th�ophane V�NARD VEN
Linh Mục Thừa sai Paris (1829-1861)

Nụ cười bất tận

Tạp ch� "Những người ra đi" (1) số d�nh ri�ng cho hội thừa sai Pari đ� ph�c họa ch�n dung vị th�nh Tử Đạo trẻ trung, linh mục Th�ophane V�NARD VEN như sau:

"Phải n�i rằng khi anh ch�o đời một đ�a hồng nở tr�n m�i, một c�nh chim cất tiếng l�u lo b�n tai. Bởi v� khi anh diễn tả � m�nh, lời anh tr�n ngập những h�nh ảnh dễ thương dịu d�ng duy�n d�ng. Mối t�nh th�n từ nhỏ cũng như sau n�y, anh c�ng duy tr� bền vững ng�y c�ng đậm đ�, ngọt ng�o v� th�nh thiện.

"Đời anh l� một b�i ca trong l�c vui l�c buồn. Từ những biến cố thời học sinh cho đến l�ng sốt sắn khi gia nhập h�ng tư tế. Anh h�t l�n khi rời đất Ph�p, anh h�t l�n khi thấy đất Việt Nam…

"Trong những l� thư d�i v� thường xuy�n, anh kể lại cho gia đ�nh từng chi tiết anh gặp trong đời. Đối với anh đời t�ng đồ sao m� thoải m�i, vui tươi dễ y�u đến thế ! Anh thi vị h�a tất cả : Với anh việc cực nhọc th�nh nhẹ nh�ng, g�nh nặng n�n nhẹ nh�m, bệnh tật kh�ng l�m anh nản ch�, anh coi như cơ hội thưởng n�m những gi�y ph�t nghỉ ngơi, c�c cuộc h�nh tr�nh qua đồng lầy, n�i cao hay tr�n đường sỏi đ�, anh diễn tả dưới m�u sắc tươi m�t như đi dạo giữa m�a xu�n. Anh quả l� c�y huệ c� sức mạnh của c�y sồi.

"Ch�ng ta chỉ c� thể đo�n ra những cực h�nh anh chịu, v� anh m� tả ch�ng đằng sau những c�nh hoa kỳ diệu, m� anh kh�ng ngừng gieo trồng tung v�i mọi nơi cho đến khi nhắm mắt l�a đời. Những c�nh hoa đ� nở rộ trong c�ng việc của anh, nở trong những cực h�nh, nở trong cũi gỗ, nở tr�n những dụng cụ tra tấn v� nở ngay tr�n mảnh đất thấm m�u đ�o của anh. Quan t�a cũng trở th�nh bạn hữu, l� h�nh cũng phải tỏ l�ng ngưỡng mộ, đối với anh, nh�t gươm ch�m đầu định mệnh cũng chỉ l� "ngắt nhẹ c�nh hoa tuyển lựa, để trang ho�ng tr�n b�n thờ".

T�m vi�n ngọc Viễn Đ�ng

Gioan Th�ophane V�nard sinh ng�y 21-11-1829 sinh tại Saint Loup sur Thouet, thuộc thị trấn Deux S�vres nước Ph�p. Th�n phụ �ng l� Gioan V�nard, th�n mẫu l� b� Marie Gueret. Gioan Th�ophane V�nard chịu ảnh hưởng rất nhiều nơi th�n phụ. Ch�nh �ng dạy dỗ v� gợi l�n trong cậu ước nguyện l�m linh mục. Cũng ch�nh �ng gởi gắm cậu cho cha xứ để học tiếng Latinh.

Năm 14 tuổi, th�n mẫu cậu qua đời, chị M�lanie trở th�nh người bảo mẫu hiền dịu, đ� c�ng với th�n phụ chăm s�c kh�ch lệ cậu vượt qua mọi kh� khăn thời chủng viện, v� thư từ thường xuy�n với linh mục V�nard tr�n bước đường truyền gi�o sau n�y.

M�n kh�a triết học sau n�y, th�y V�nard được chuyển qua gi�o phận Poitiers tiếp tục kh�a thần học (1848). Qua c�c thư từ gởi cho th�n phụ, ta biết thầy V�nard tại Poitiers đ� thao thức nhiều về việc truyền gi�o. Do đ�, ngay sau khi l�ng chức ph� tế, thầy xin gia nhập hội thừa sai gi�o phận. Năm 1852, thầy được Đức cha Pi� phong chức linh mục, vị t�n linh mục n�n nao chờ ng�y được ph�i dến Việt Nam.

Ng�y 23-09-1852, cha xuống t�u ở cảng Anvers để thế ch�n thừa sai mới bị trục xuất khỏi Việt Nam. Sau bốn th�ng rưỡi bập bềnh tr�n biển cả, cha V�nard đến Singapo. Nơi đ�y cha gặp bốn chủng sinh Việt Nam với những x�c động s�u xa, v� cha coi họ l� anh em của c�c vị tử đạo. Sau đ� cha được đưa đến Hồng K�ng chờ cơ hội. Ở đ�y cha nỗ lực học th�m tiếng H�n. Trong một l� thư viết từ Paris, cha Darran n�i với cha V�nard rằng : "Thưa cha, vi�n ngọc qu� Việt Nam được trao cho cha rồi đ�." (02.1854).

Ng�y 13-07-1854 cha cập bến Cửa Cấm, v� được tiếp đ�n c�ch long trọng tại t�a Gi�m Mục Vĩnh Trị, trụ sở Đức Cha Retord Li�u đang phụ tr�ch gi�o phận T�y Đằng Ngo�i. Sau v�i th�ng học tiếng cha th�p t�ng Đức Cha đi kinh l� khắp nơi, v� dạy học ở chủng viện. Đầu th�ng 03-1857, vi�n tri huyện Vĩnh Trị l� bạn th�n Đức Cha Retord, trước khi đem qu�n đến v�y bắt, �ng đ� b�o tin cho biết, nhờ đ� Đức Cha Retord v� cha Charbonnier chạy tho�t (cha L� Bảo Tịnh ra tr�nh diện). Từ đ�y bắt đầu những ng�y lưu lạc của cha Ven, nay đ�y mai đ� kh�ng l�c n�o y�n ổn.

T� tội v� y�u thương

Ng�y 30-11-1860, nh�n l�c cha đang ở Kẻ B�o, vi�n Cai Đội đem 5,6 chiếc thuyền chở khoảng 20 người đến vậy bắt cha. Cha liền trốn giữa v�ch đ�i của căn nh�, cai đội th�t lớn tiếng : "T�y dương đạo trưởng đ�u ra đ�y ngay". Thầy giảng Ph�r� Khang t�m c�ch n�i tr�nh đi : "Ở đ�y chỉ c� t�i th�i. �ng Cai thương t�i được nhờ, �ng Cai bắt t�i đ�nh chịu". V� đ� được mật b�o, vi�n cai đội cho lệnh tr�i thầy, rồi đi thẳng tới v�ch nh� vị thừa sai đang ẩn, v� đập thật mạnh bật tung miếng v�n che ra, bắt cha V�nard Ven nhốt v�o củi giải về Thăng Long (H� Nội).

Trong những ng�y chờ đợi, một vi�n tổng trấn đối xử với cha một c�ch lịch sự. �ng cho đ�ng một chiếc cũi rộng hơn một ch�t v� tr�i cha bằng sợi d�y x�ch nhẹ nhất. Thỉnh thoảng c�n mời cha l�n phủ ăn cơm như người tự do. Nhưng thời gian đ� k�o d�i kh�ng bao l�u.

Trong l� thư gởi cho gia đ�nh, qua chị M�lanie, cha kể : "Em đ� đến Kẻ Chợ (t�n cũ của H� Nội). Cả nh� thử tưởng tượng coi : Ngồi b� gối trong cũi gỗ, t�m người l�nh khi�ng hai b�n, đ�m đ�ng d�n ch�ng ồn �o bu lại nh�n xem. Em nghe họ n�i : ‘Ch�ng Au Ch�u n�y dễ thương qu�. Anh ta thản nhi�n v� vui tươi như đi dự lễ tiệc, chẳng tỏ vẻ g� l� sợ h�i cả’. Em cầu nguyện với Nữ Vương c�c Th�nh Tử Đạo, xin Đức Mẹ ph� trợ cho người t�i tớ nhỏ b� của Mẹ. Mới đầu quan t�a cho em uống một ch�n tr�. Em bị ngồi cũi nhưng em uống một c�ch thản nhi�n. Rồi quan tra hỏi như thường lệ :

- Anh đến An Nam để l�m g� ?
- T�i đến đ�y chỉ để giảng đạo thật.
- Anh bao nhi�u tuổi rồi ?
- Thưa, ba mươi mốt.

Vi�n quan tỏ vẻ thương cảm thốt l�n : "Hắn c�n trẻ qu�". Rồi �ng hỏi : "Ai sai anh đến đ�y?" Em đ� đ�p : "Kh�ng phải vua quan đất Ph�p gởi t�i đi. T�i muốn đi rao giảng đạo l�nh cho mọi người, v� c�c bề tr�n trong đạo gởi t�i đến Việt Nam."

Khi vi�n quan muốn g�n cho cha tội x�m lược của Ph�p, cha khẳng kh�i trả lời : "Kh�ng bao giờ ch�ng t�i ủng hộ qu�n viễn chinh đ�u. Nếu kh�ng tin cứ để t�i đến gặp họ, t�i sẽ khiển tr�ch việc họ đến g�y chiến. Nếu t�i thất bại xin t�nh nguyện về đ�y nộp mạng.

- H�y đạp l�n Th�nh Gi� anh sẽ tho�t chết.

- T�i đ� suốt đời thuyết giảng về đạo Thập Gi�, sao t�i l�m như thế được ? T�i thiết nghĩ cuộc sống đời n�y đ�u qu� qu�, đến độ t�i phải mua n� bằng c�i gi� bội gi�o.

Ng�y 03-01-1861, cha viết thư cho Đức Cha Theurel : "Gươm đ� ở kề s�t b�n cổ m� con chẳng r�ng m�nh ch�t n�o. Thi�n Ch�a nh�n l�nh đ� hộ trợ sự yếu đuối của con, n�n con thấy vui mừng. Thỉnh thoảng con lại cất cao tiếng h�t trong cung điệu n�y :

Lạy Mẹ dấu y�u
Xin thương đặt con
Trong Qu� đời đời
B�n th�nh nhan Người.

Lạy Mẹ V� Nhiễm, khi đầu con rơi xuống dưới đầu gươm của l� h�nh, xin nhận lấy t�i tớ nhỏ b� như tr�i nho ch�n được h�i, như b�ng hồng nở rộ, được ngắt về d�ng k�nh Mẹ AVE MARIA".

Nhờ một gi�o hữu t�n Hương dẫn lối, linh mục Thịnh đ� đến b�n cũi của vị thừa sai giải tội cho cha. Sau lại nhờ một b� đạo đức chuyển cho cha một hộp nhỏ đựng m�nh th�nh ch�a. Cha V�nard Ven cung k�nh chầu th�nh thể cho đến nửa đ�m, rồi mới chịu lễ. Một lần khi trao m�nh th�nh bị ph�t hiện, b� n�y nhanh miệng giải th�ch l� thuốc bổ để trị bệnh.

Ng�n thu vĩnh ph�c

Ng�y 02-02-1861, nghe quan tuy�n đọc bản �n trảm quyết, cha V�nard Ven liền mặc �o l�ng cừu trắng to�t m� cha may ri�ng để mặc trong ng�y tử đạo. Cha muốn mặc trang phục đại lễ. Một to�n l�nh độ 200 người v� hai sĩ quan cỡi voi �p giải vị anh h�ng đức tin ra ph�p trường. Suốt nửa giờ h�nh tr�nh, cha kh�ng ngừng h�t th�nh ca v� kết th�c bằng lời kinh "Magnificat", lời kinh tạ ơn của Đức Mẹ thuở xưa. Tới nơi đ� định, l�nh th�o g�ng c�m cho cha. Cha liền đứng tr�n chiếc chiếu đ� được trải sẵn, v� nh�n khắp tứ ph�a c� � t�m cha Thịnh để l�nh ơn tha thứ lần cuối. Nhưng cha Thịnh v� kh�ng r� giờ h�nh quyết n�n chưa đến.

Một l� h�nh thấy chiếc �o cha mặc đẹp qu� n�n t�nh nguyện ch�m cha. Anh ta n�i dối rằng cha phải xử lăng tr� để cha cởi �o ra cho hắn lấy. Hắn c�n đ�i đ�t tiền để ch�m sao cho mau chết. Vị anh h�ng chỉ cười v� n�i : "C� hề chi đ�u, c�ng l�u c�ng tốt". Rồi đưa tay cho hắn tr�i v�o cột, ba hồi chi�ng trống vừa dứt, l� h�nh vung gươm ch�m lần thứ nhất, gươm trượt qua một b�n v�o m�. Nh�t gươm thứ hai y bổ đầu cha ra l�m đ�i. Năm đ� cha Ven mới 32 tuổi.

C�c gi�o hữu phải nộp tiền để xin an t�ng thi h�i v� chuộc lại y phục của cha. C�n thủ cấp của cha th� bị b�u l�n c�y ba ng�y rồi thả tr�i s�ng, sau c�c thuyền ch�i vớt được đem về t�n k�nh.

Năm 1865, Đức Pi� X suy t�n cha Gioan Th�ophane V�nard Ven l�n bậc ch�n phước. Ng�y 19-06-1988, Đức Gioan Phaol� II suy t�n ng�i l�n h�ng Hiển th�nh.

Th�nh nữ T�r�xa H�i Đồng rất ngưỡng mộ đời sống v� những suy tư của cha Gioan Th�ophane V�nard Ven, th�nh nữ đ� tr�ch dẫn nguy�n đoạn văn cha viết cho th�n phụ rồi tiếp : "Tư tưởng v� t�m hồn của t�i cũng giống như tư tưởng v� t�m hồn của ng�i."