HOME

 
 


Sự c�ng ch�nh trước mặt Ch�a
 

K�nh thưa qu� vị v� c�c bạn,

Trong b�i giảng tr�n n�i, từ "c�ng ch�nh" được n�i tới nhiều lần (5,6.10.20; 6,33). Thực ra, tiếng iustitia (justice) trong c�c tiếng �u ch�u thường được dịch ra Việt ngữ l� "c�ng l�, c�ng bằng", �p dụng v�o những mối tương quan giữa con người với nhau sống trong x� hội. Thế nhưng Kinh th�nh c�n �p dụng danh từ ấy cho cả mối tương quan của con người với Thi�n Ch�a; v� thế m� n� được dịch l� "c�ng ch�nh" (hay: ngay l�nh, ch�nh trực).

Theo quan niệm phổ th�ng trong c�c t�n gi�o, con người được coi l� "c�ng ch�nh" khi m� ăn ở s�ng phẳng với Thi�n Ch�a, thi h�nh đầy đủ c�c bồn phận m� Ch�a đ� truyền, c�ch ri�ng l� c�c bồn phận đối với ch�nh Ch�a, quen gọi l� c�c việc đạo đức. Đối lại, con người cũng c� quyền đ�i Thi�n Ch�a thanh to�n nghĩa vụ của Ng�i, tức l� ban thưởng cho người l�nh. Thế c�n đức Gi�su nghĩ thế n�o về sự c�ng ch�nh? Ch�ng ta thử t�m c�u trả lời khi ph�n t�ch B�i giảng tr�n n�i, trong phần d�nh cho c�c việc đạo đức (6,1-18). Gi�o l� về sự c�ng ch�nh trước mặt Ch�a được tr�nh b�y qua ba th� dụ điển h�nh n�i về việc thực h�nh sự bố th�, sự cầu nguyện, sự ăn chay. Lối tr�nh b�y c� t�nh c�ch phản đề; nhưng lần n�y sự đối chiếu  kh�ng c�n l� với luật Moisen nữa b�n l�  với "bọn đạo đức giả" (giả h�nh). N�i chung,  lối h�nh văn gồm hai vế, một vế ti�u cực v� một vế t�ch cực như thế n�y:

1) Ti�u cực. Khi bố th� / cầu nguyện / ăn chay ... anh em đừng l�m như bọn đạo đức giả ... Họ muốn cho thi�n hạ khen. Thầy bảo thật anh em: Họ đ� được phần thưởng rồi.

2) T�ch cực. �C�n anh (ở số �t), khi bố th� / cầu nguyện / ăn chay, anh h�y l�m thế n�y ... để cho k�n đ�o. V� Cha tr�n trời, Đấng thấu suốt những g� k�n đ�o, sẽ trả c�ng cho anh.

Trong khi tr�nh b�y sự cầu nguyện, th�nh Matth�u kh�ng những đ� ghi lại lời đức Gi�su đ� dạy về th�i độ khi cầu nguyện m� cả về nội dung lời nguyện, t�m lại trong kinh Lạy Cha.  Trong b�i h�m nay, trước hết, ch�ng t�i sẽ n�i qua gi�o huấn về sự c�ng ch�nh trước mặt Ch�a; sau đ�, ch�ng t�i sẽ ph�n t�ch kinh Lạy Cha.


I. Sự c�ng ch�nh trước mặt Ch�a

C�c rabbi Do th�i thường ph�n biệt giữa kẻ c�ng ch�nh khi tu�n h�nh Lề luật v� người đạo đức khi thực h�nh c�c việc thiện. Nhưng ra như đức Gi�su kh�ng muốn biết tới sự ph�n biệt đ�. Cả hai đều c� thể gom lại trong quan niệm "c�ng ch�nh". Trước đ�y, ch�ng ta đ� biết quan niệm của Ng�i về Lề luật rồi; b�y giờ ch�ng ta h�y xem Ng�i nghĩ g� về c�c việc thiện, điển h�nh l�: bố th�, cầu nguyện, ăn chay. Đ�y l� ba việc đạo đức của t�n hữu Do th�i, như s�ch Tobia (12,8) đ� viết: "Sự cầu nguyện k�m theo ăn chay, sự bố th� k�m theo c�ng bằng, th� qu� hơn l� gi�u sang k�m theo tội lổi". N�n biết l� kh�ng c� luật n�o truyền buộc phải thực h�nh ba việc thiện đ�; v� vậy m� ch�ng thường được coi như biểu hiệu của t�m t�nh đạo đức của con người muốn l�m c�i g� "tốt hơn". Đức Gi�su kh�ng chỉ tr�ch sự thi h�nh c�c việc đ�; nhưng Ng�i đả k�ch c�ch thức của bọn giả h�nh (đạo đức giả); đồng thời Ng�i muốn dạy c�c m�n đệ một c�ch thức để được Ch�a chấp nhận.

Trong Ph�c �m theo Matth�u, tiếng "giả h�nh" (hypokrit�s) c� hai nghĩa. 1/ Giả h�nh c� nghĩa l�  b�i b�c cho c� vẻ bề ngo�i, chứ trong ruột th� rổng tuếch (Mt 15,7; 23,25.28); 2/ Giả h�nh c� nghĩa l� bất lương, chẳng coi Ch�a ra g� hết (7,5; 23,13.14.15.23.29; 24,51); tư tưởng n�y đ� c� trong s�ch Giop 34,30; 36,13. Ở đ�y xem ra tiếng "giả h�nh" được hiểu theo nghĩa thứ nhất; d� sao th� th�i độ giả h�nh được �p dụng cho những người th�ch quảng c�o rầm rộ cho thi�n hạ biết c�ng việc của m�nh. Tại sao gọi l� giả h�nh? Bởi v� họ kh�ng nhắm tới chủ � của việc thiện l� t�n vinh Thi�n Ch�a m� họ chỉ t�m cầu hư danh; như thế l� bề trong với bề ngo�i kh�ng ăn khớp với nhau!

Đối lại, đức Gi�su khuy�n c�c m�n đệ h�y thực h�nh c�c việc thiện c�ch k�n đ�o. Thực ra chủ yếu của lời khuy�n kh�ng phải ở tại chỗ "k�n đ�o", bởi v� tr�n đ�y, ng�i đ� khuy�n c�c m�n đệ phải ăn ở thế n�o để cho thi�n hạ thấy c�ng việc tốt đẹp của họ m� t�n vinh Cha tr�n trời (5,16). Điều m� đức Gi�su nhấn mạnh ở đ�y l� cần phải l�m c�c việc thiện "để cho Cha tr�n trời thấy", chứ kh�ng phải để cho thi�n hạ thấy! N�i c�ch kh�c, sự c�ng ch�nh trước mặt Ch�a đ�i hỏi một sự th�ng hiệp th�n mật với Ch�a, t�m c�ch l�m theo � Ch�a ng� hầu l�m đẹp l�ng Ng�i, v� rồi Ng�i sẽ ban thưởng.

Một th�i độ thường xảy ra trong đời sống đạo l� con người y�u s�ch Thi�n Ch�a phải trả c�ng xứng đ�ng với việc l�nh m�nh đ� l�m. Thi�n Ch�a cũng phải giữ ph�p c�ng bằng chứ! Ph�c �m của Matth�u đ� hơn một lần cảnh gi�c ch�ng ta về n�o trạng đ� trong dụ ng�n về những người được gọi v�o l�m vườn nho (20,1-15). Mấy ch�ng h�ng hục l�m việc đầu tắt mặt tối tưởng rằng m�nh sẽ l�nh tiền c�ng nhiều hơn những t�n mới tới v�o ban chiều; thế nhưng họ đ� vỡ mộng! Ở b�i giảng tr�n n�i, xem ra vấn đề đ� kh�ng được đặt ra; nhưng d� sao, kh�ng thể so s�nh mối tương quan giữa con người với Thi�n Ch�a giống như c�ng nh�n đ�i �ng chủ trả lương, m� l� "phần thưởng" (misthos: 5,12.46; 6,1.2.5.16) của Cha tr�n trời. Đ� l� một hồng �n, v� hồng �n đ� l� Nước Thi�n Ch�a (5,3.10), tức l� ch�nh Thi�n Ch�a.


II. Kinh Lạy Cha

Th�nh Matth�u đ� xen kinh Lạy Cha v�o b�i giảng tr�n n�i, trong khi th�nh Luca đặt trong một bối cảnh kh�c (Lc 11,2-4). Ch�ng t�i xin miễn b�n kh�a cạnh ph� b�nh văn bản khi đối chiếu giữa Matth�u với Luca. Ch�ng ta h�y ph�n t�ch kinh Lạy Cha trong bối cảnh của b�i giảng tr�n n�i.

Phần n�o th�nh Matth�u tr�nh b�y Kinh Lạy Cha theo lối văn của một phản đề. Trước hết l� một th�i độ ti�u cực; nhưng lần n�y kh�ng c�n đối chiếu với luật cũ hay bọn giả h�nh nữa, m� l� đối chiếu với "d�n ngoại" (6,7: Anh em đừng lải nhải như d�n ngoại). Tiếp đ� l� gi�o huấn t�ch cực: "anh em h�y cầu nguyện như thế n�y". Thoạt ti�n xem ra đức Gi�su chỉ c� � dạy c�c m�n đệ cầu nguyện vắn tắt chứ đừng c� kể lể d�i gi�ng như l� d�n ngoại; nhưng kỳ thực, Ng�i đ� mặc khải cho c�c m�n đệ biết khu�n mặt của Thi�n Ch�a, để từ đ� c�c m�n đệ biết c�ch để m� đối xử với Cha tr�n trời. Thực vậy, trong bản kinh Lạy Cha, ta c� thể thấy bản t�m lược của cả bản Tin mừng, bởi v� bản kinh g�i gh�m những tư tưởng chủ chốt của gi�o huấn của đức Kit�. S�ch Gi�o L� Hội th�nh c�ng gi�o (số 2761) đ� tr�ch dẫn tư tưởng của văn h�o Tertullian�, coi bản kinh Lạy Cha như l� t�m lược của to�n Ph�c �m (breviarium totius Evangelii: De Oratione,1).

Qu� vị c� thể đọc bản ch� giải kinh Lạy Cha ở c�c t�c giả kh�c (th� dụ như S�ch Gi�o L� Hội th�nh C�ng gi�o); ở đ�y ch�ng t�i chỉ muốn tr�nh b�y sự li�n hệ tư tưởng với b�i giảng tr�n n�i.
 

A. Lời kinh được mở đầu như thế n�y: Lạy Cha ch�ng con, Đấng ngự tr�n trời. Trong suốt B�i giảng tr�n n�i, Thi�n Ch�a được tr�nh b�y nhiều lần như l� "Cha c�c con, Đấng ngự tr�n trời" (5,16.45.48; 6,1.8.14.15.26.32; 7,11). H�nh ảnh đ� được gắn với l�n t�nh to�n thiện, l�ng khoan nh�n phổ qu�t cũng như sự chăm s�c �n cần cho từng thọ sinh. Ng�i l� "Cha" cho n�n rất tốt l�nh; Ng�i "ngự tr�n trời", thấu suốt tất cả mọi sự v� to�n năng v� bi�n. � Kinh "Lạy Cha" gồm c� hai phần: mổi phần gồm ba lời cầu.

B. Ba lời cầu trong phần đầu tựu trung v�o một điều m� duy một m�nh Thi�n Ch�a mới thực hiện nổi: đ� l� xin cho triều đại Ng�i mau đến, nhờ thế Danh Ng�i sẽ được tỏ lộ như l� Đấng Th�nh, v� � Ng�i sẽ ho�n th�nh.

1) Thoạt ti�n, xem ra lời cầu thứ nhất ước g� Danh Cha hiển th�nh chẳng c� nghĩa l� g�!  Cần phải lồng n� trong bối cảnh của Cựu ước th� mới thấy được sự s�c t�ch của n�. "Danh" của Ch�a c� nghĩa l� việc Ch�a b�y tỏ bản t�nh uy nghi th�nh thiện của Ng�i. Danh của Ng�i c� thể mất vẻ th�nh thiện v� hai ph�a. (a) Về ph�a d�n Israel, khi m� họ thờ t� thần ngẫu tượng (Ed 43,7-8); như vậy họ đ� l�m d�n ngoại coi rẻ Thi�n Ch�a. (b) Tuy nhi�n, Danh của Ch�a cũng mất vẻ th�nh thiện do ph�a Ch�a nữa, khi m� Ng�i kh�ng đến cứu vớt d�n m�nh, để cho ch�ng bị lầm than khồ sở, v� như vậy cũng l�m cho d�n ngoại chế diễu (Ed 39,7). Hiểu như vậy, lời cầu "xin cho Danh Cha hiển th�nh" vừa bao h�m việc Ch�a ra tay b�y tỏ vinh quang của Ng�i trước mặt chư d�n, vừa xin Ng�i h�y thay đồi con tim của d�n Israel ng� hầu họ gắn b� với Ng�i (Ed 36,20-28). Về phần

c�c người Kit� hữu, họ biết rằng Thi�n Ch�a đ� mặc khải vinh quang của Ng�i nơi đức Kit� rồi, nhưng họ vẫn tiếp tục khẩn n�i Ch�a tỏ vinh quang trọn vẹn của thời c�nh chung v� đồng thời xin Ch�a th�nh h�a bản th�n c�c t�n hữu, những kẻ được đặt l�m muối đất v� �nh s�ng trần gian ng� hầu qua việc tốt l�nh của họ thi�n hạ t�n vinh Cha tr�n trời (5,16).

2) Nội dung của lời cầu thứ hai cũng giống như lời cầu thứ nhất: người t�n hữu khẩn n�i Thi�n Ch�a h�y mau mau thể hiện triều đại của Ng�i tr�n trần gian, ng� hầu vinh quang của Ng�i được tỏ rạng v� con người cũng được hưởng hạnh ph�c. "Triều đại Thi�n Ch�a" tức l� "Nước trời" m� đức Gi�su loan b�o trong b�i giảng tr�n n�i. Đức Gi�su tỏ cho ta biết những điều kiện để v�o Nước Trời, qua c�c mối ph�c thật (5,3.10), qua việc thực h�nh � Ch�a (5,19.20). Nước Trời cũng l� phần thưởng m� Ch�a hứa d�nh cho c�c m�n đệ.

3) Lời cầu thứ ba tiếp nối với lời cầu thứ hai: xin cho � Cha thể hiện dưới đất cũng như tr�n trời. "� của Ch�a" bao gồm hết những y�u s�ch m� Ng�i muốn con người phải chu to�n. "� của Ch�a" cũng bao gồm kế hoạch cứu độ của Ng�i, m� đặc trưng l� l�ng thương x�t (9,13; 12,7; 18,14). N�n lưu � l� ở đ�y, người t�n hữu kh�ng xin cho m�nh được tu�n h�nh � Cha, nhưng họ n�i xin cho "� Cha được thể hiện". Như vậy, vai tr� chủ động l� Thi�n Ch�a; v� người t�n hữu ước mong sao cho hết mọi người biết h�a hợp theo chương tr�nh của Ch�a.

C. Từ chỗ � thức về vai tr� của m�nh trong việc thể hiện � Ch�a, người t�n hữu bước sang ba lời cầu kế tiếp, trong đ� họ xin Ch�a cất đi ba chướng ngại l�m ngăn trở m�nh kh�ng được gia nhập v�o Nước Ch�a, đ� l�:

1/ sự �u lo th�i qu� về cơm ăn �o mặc đến nổi qu�n đi điều tối cần l� phải t�m kiếm nước Ch�a (6,25-34);

2/ tội lổi l�m con người xa c�ch Ch�a (xin tha tội);

3/ nguy cơ sa ng� phạm tội.

Nội dung của ba lời cầu n�y sẽ được quảng diễn trong phần c�n lại của b�i giảng tr�n n�i.

4) Lời cầu xin thứ tư: b�nh của ng�y h�m nay (những g� cần để sống h�m nay) nhấn mạnh đến sự t�n th�c nơi Cha tr�n trời (6,32-34) v� sự thong dong kh�ng rơi v�o cảnh n� lệ t�i sản (6,24).

5) Lời cầu xin thứ năm bắt nguồn từ � thức về những tội tầy trời của m�nh. V� thế người t�n hữu khi�m tốn xin Ch�a ban ơn tha thứ, v� đồng thời b�y tỏ sự sẵn s�ng tha thứ cho anh em. Điều n�y c�n được nhắc lại ở cuối kinh Lạy Cha (6,14-15) v� trong dụ ng�n về đầy tớ thiếu l�ng thương x�t (18,23-35). Ch�ng ta cũng đừng qu�n rằng một mối ch�n ph�c đ� được d�nh cho kẻ c� l�ng thương x�t (5,7).

6) Lời cầu xin ch�t van n�i Cha đừng để cho m�nh sa ng� v�o tội mất niềm tin v�o Ng�i, hay l� chiều theo những quyến rũ của Quỷ dữ. Xem ra lời khuy�n "đừng quăng của th�nh cho ch� v� đừng liệng ngọc trai cho heo" (7,5) l� một thứ ch� giải cho lời cầu xin n�y: c� người đ� biết được điều cao qu� của Nước trời rồi, thế m� lại c�n sa lầy v�o chỗ b�n nhơ ! Lạy Cha, xin cứu ch�ng con khỏi thảm cảnh đ� !