HOME

 
 

Phần Nhất :
THƯỢNG CỔ V� TRUNG CỔ

Chương Một :

GI�O HỘI THỜI SỨ ĐỒ (t.k. I)
 

I. Gi�o hội thời nguy�n thủy ở Palestina

1. Ch�a Gi�su, Đấng s�ng lập Gi�o hội

2. Gi�o đo�n nguy�n thủy Gierusalem

3. Gi�o hội của c�c D�n tộc

II. Th�nh Phaol� tr�n đường truyền gi�o

1. H�nh tr�nh thứ nhất (45-49) của th. Phaol� v� C�ng đồng Gierusalem (49)

2. H�nh tr�nh thứ hai (50-52) của th�nh Phaol�

3. H�nh tr�nh thứ ba (52-57) của th�nh Phaol�

4. Th�nh Phaol� bị bắt v� tử đạo (57-67)

III. Th�nh Pher� lập T�a ở Roma v� hoạt động của c�c t�ng đồ kh�c

1. Th�nh Pher� từ Gierusalem đến Roma

2. Th�nh Pher� lập T�a ở Roma v� tử đạo ở đ�y

3. Hoạt động của c�c t�ng đồ kh�c

4. Gi�o hội ph�i thai t�ch biệt khỏi hội đường Do Th�i

IV. Một đức tin, một phượng tự, một quyền b�nh

1. Đức tin, c�i hồn của Kit� gi�o

2. Tổ chức phụng vụ v� b� t�ch

3. Tổ chức gi�o quyền v� b�c �i x� hội

 

Nếu Gi�o hội C�ng gi�o định nghĩa l� một khối t�n hữu v�y quanh Ch�a Cứu Thế v� v�ng lời Người, th� Gi�o hội đ� c� từ khi bốn d�n ch�i: Pher� v� Anr�, Giacob� v� Gioan, đ�p lời mời của Ch�a Gi�su bỏ thuyền lưới tại hồ Galilea, để trở th�nh những �ngư �ng c�u người� (Mt IV, 18-22).

Theo c�c nh� thần học, Gi�o hội được th�nh lập v�o buổi s�ng ng�y Ch�a Th�nh Thần Hiện xuống, khi th�nh Ph�r� v� c�c T�ng đồ được tr�n đầy ơn Th�nh Thần, mạnh dạn l�m chứng nh�n về sự Ch�a sống lại, l�n Trời, trước c�ng ch�ng từ bốn phương k�o về Gierusalem nh�n ng�y lễ �Ngũ Tuần� (Cv II, 1-4) [1]. Theo c�c nh� hộ gi�o, Phục sinh v� Hiện xuống l� hai sự kiện quan trọng trong việc khai sinh Gi�o hội. Nếu Ch�a kh�ng sống lại như lời ti�n b�o, th� c�c T�ng đồ, những chứng nh�n của Ch�a, sao c� thể biến đổi từ người ngu dốt h�n nh�t th�nh những nh� truyền gi�o can đảm, nhiệt th�nh, những nh� hộ gi�o kh�n ngoan th�ng minh được.

Nhưng c�c sử gia, v� chỉ nh�n v�o những sự kiện b�n ngo�i, coi Gi�o hội l� một thực thể x� hội v� t�n gi�o, chăm lo việc phượng thờ Thi�n Ch�a v� nghe theo lời gi�o huấn của Ch�a Kit�, n�n chỉ chấp nhận Gi�o hội C�ng gi�o c� v�o khoảng s�u hoặc bảy năm sau cuộc tử nạn của Ch�a, v� sự th�nh lập đ� được ghi ch�p trong s�ch T�ng đồ C�ng vụ. Gi�o hội th�nh lập để nối tiếp c�ng cuộc của Ch�a ở trần gian, ban đầu cũng đ� sống v� lớn l�n trong d�n Ch�a k�n chọn với những con người c� truyền thống từ bao thế hệ, để từ đ�y b�nh trướng khắp thế giới theo như � muốn của Ch�a: �C�c con h�y đi rao giảng khắp mu�n d�n, l�m ph�p Rửa cho ch�ng nh�n danh Cha v� Con v� Th�nh Thần, dạy cho ch�ng giữ hết mọi điều Ta đ� truyền cho c�c con� (Mt XXVIII, 19-20).


  

I

GI�O HỘI THỜI NGUY�N THỦY Ở PALESTINA


1. Ch�a Gi�su, Đấng s�ng lập Gi�o hội

Từ khi l� một d�n tộc được Thi�n Ch�a k�n chọn, người Do Th�i, d� l� Pharis�, Sađuk� hay Esseni [2], đều mang trong m�nh sự tr�ng đợi Đấng Cứu Thế. Cứ mỗi lần quốc gia họ l�m nguy hoặc d�n ch�ng rơi v�o cảnh n� lệ, l�ng tr�ng đợi lại nổi l�n mạnh mẽ. Qua c�c thời đại, nhờ sự nhắc nhở của c�c ng�n sứ, họ c�ng � thức r� rệt hơn về sự chọn lựa m� Thi�n Ch�a đ� giao ước với c�c Tổ phụ họ.

L�c n�y sống dưới �ch đế quốc Roma, l�ng tr�ng đợi một lần nữa bị k�ch động m�nh liệt. Dựa theo lời ng�n sứ, họ l� luận: �Thời gian tr�ng đợi đ� đầy�, ng�n sứ Đaniel đ� chẳng bảo l� sau 69 �tuần năm�, c�c đau khổ của Israel sẽ chấm dứt v� Nơi Cực Th�nh sẽ đ�n nhận Đấng Kit� đ� sao ? (Đn IX, 20-27), Đấng Cứu Thế sẽ l� người thế n�o ? Người Do Th�i khi ấy kh�ng c� một quan niệm r� rệt v� c�n sai lầm nữa. Sống trong cảnh n� lệ �p bức, hầu hết họ cho rằng Đấng Cứu Thế sẽ l� vị anh h�ng cứu quốc, trong tay c� cả trăm ng�n binh sĩ. Ng�i sẽ b�o th� cho d�n Ng�i, �đập tan c�c th� địch như đập b�nh gốm�. Ng�i sẽ thống trị mu�n d�n, mở đầu cho một thời huy ho�ng của Israel. Như vậy, họ đ� qu�n đi lời ng�n sứ Isaia n�i về Ch�a Cứu Thế sẽ phải chịu đau khổ v� nhục nh� (Is LIII).

Giữa l�c d�n Do Th�i n�ng l�ng tr�ng đợi như thế, Đức Gi�su Kit� đ� sinh ra ở Belem xứ Judea, triều vua Herodes (?14) vừa ban h�nh lệnh kiểm tra d�n số trong cả thi�n hạ. Sau khi sinh ra được �t l�u, Ch�a được th�nh Giuse v� Đức Maria đem đi trốn b�n Ai Cập để tr�nh b�n tay t�m giết của Herodes. �ng n�y chết, hai �ng b� đưa Ch�a trở về qu� qu�n, sống đời ẩn dật ở Nazareth bằng nghề mộc. Năm 30 tuổi, Ch�a Gi�su bắt đầu cuộc đời c�ng khai, nhưng trước đấy, Gioan đ� l�m Tiền h� dọn đường cho Người. Bắt đầu Ch�a giảng Ph�c �m ở xứ Judea, tỏ ra cho d�n ch�ng biết ch�nh Người l� Đấng Kit� c�c ng�n sứ đ� loan b�o, nhưng họ kh�ng tin. Sau khi Gioan bị bắt, Người bỏ Judea sang xứ Galilea, tiếp tục rao giảng Nước Trời, l�m nhiều ph�p lạ, chữa người bệnh tật, cho kẻ chết sống lại, xua đuổi quỷ �m... Tin Mừng của Ch�a được tr�nh b�y nhất l� trong b�i giảng tr�n n�i. Người đem đến cho nh�n loại nguồn hạnh ph�c thật sự, v� luật của Người l� luật t�nh y�u, một t�nh y�u mới v� ho�n hảo.

Qua những b�i dụ ng�n về Nước Trời, Ch�a cho d�n ch�ng biết Tin Mừng v� c�ng cuộc Cứu Thế của Người kh�ng hạn hẹp trong v�ng Palestina, n� phải tỏa lan đi c�c nơi v� trải qua mọi thời đại. Đ� l� l� do khiến Người sẽ lập Gi�o hội. Ngay từ khi đời sống c�ng khai bắt đầu, Ch�a đ� để � k�u gọi nhiều m�n đệ. Người chọn lựa t�ng đồ, ban cho c�c �ng quyền chữa bệnh tật, trừ quỷ �m v� sai đi giảng tin l�nh cho c�c miền l�n cận. Ch�a c�n đặt Pher� l�m t�ng đồ trưởng: �Con l� Pher�, nghĩa l� đ�, Ta sẽ x�y Gi�o hội Ta tr�n đ� tảng n�y, d� quyền lực hỏa ngục c� tung ra cũng kh�ng thể ph� nổi. Ta sẽ trao ch�a kh�a Nước Trời cho con. Điều g� con cầm buộc ở dưới đất, tr�n Trời c�ng cầm buộc v� mọi điều con th�o cởi dưới đất, tr�n Trời cũng th�o cởi� (Mt XVI, 18-19).

Nghe lời Ch�a giảng dạy, thấy ph�p lạ Ch�a l�m, d�n ch�ng tin theo rất đ�ng. Thấy m�nh bị mất ảnh hưởng, nh�m Pharis� ghen gh�t Ch�a, nhất l� khi họ bị Ch�a vạch trần sự giả h�nh v� lối sống c�u nệ; họ t�m c�ch l�m hại Người. Cả nh�m Sađuk� cũng lo ngại trước ảnh hưởng của Ch�a trong d�n ch�ng. Họ sợ Người g�y phong tr�o c�ch mạng chống Roma, m� họ đang l� những tay sai trung th�nh.

Biết rằng cuộc tử nạn gần đến, Ch�a loan b�o cho c�c t�ng đồ biết v� dọn l�ng c�c �ng đ�n nhận sự kiện đ�. Dịp lễ �Vượt qua� năm cuối c�ng, Ch�a l�n Gierusalem v� được d�n ch�ng đ�n rước rất trọng thể, trong khi ấy những đ�n anh lập mưu bắt Người. Ng�y thứ năm trước lễ �Vượt qua�, trong bữa tiệc ly, Ch�a lập ph�p Th�nh Thể, cũng đ�m ấy Giuđa bội phản dẫn l�nh đến bắt. Đứng trước c�ng nghị Do Th�i (Sanh�drin), Ch�a bị kết �n tử h�nh. to�n quyền Pilatus (? 39) thấy Người v� tội muốn tha. Nhưng v� nh�t sợ trước �p lực của d�n ch�ng c� c�c bậc đ�n anh hậu thuẫn x�i dục, Pilatus đ� y �n tử h�nh thập �c. Suốt đ�m thứ năm v� s�ng thứ s�u, Ch�a bị đ�nh đập v� chịu xỉ nhục trước khi v�c thập gi� l�n n�i Calvary. Chiều thứ sau, l�c tắt thở tr�n Th�nh gi�, m�n ngăn c�ch Nơi Cực Th�nh trong Đền thờ x� ra l�m hai, b�o hiệu thời T�n Ước trong lịch sử.

Ch�a Gi�su đ� chết, nhưng khi c�n sống Người đ� ti�n b�o sau ba ng�y sẽ sống lại. Lời đ� Ch�a đ� thể hiện, v� trong 40 ng�y ở lại trần thế, Người hiện ra với c�c t�ng đồ, c�c m�n đệ v� nhiều người kh�c. Người hứa sai Th�nh Thần đến với họ, l�m họ trở n�n những chứng nh�n, kh�ng phải chỉ ở Palestina m� c�n cho tận c�ng tr�i đất. Đồng thời Ch�a đặt th�nh Pher� đứng đầu đo�n chi�n, tức Gi�o hội của Người: �Con h�y chăn c�c chi�n con v� chi�n mẹ của Ta� (Ga XXI, 17). Sau đ�, Ch�a l�n Trời.

Sau khi được chứng kiến Ch�a về Trời, c�c t�ng đồ v� m�n đệ, khoảng 120 người, trở lại Gierusalem hội nhau trong nh� tiệc ly để cầu nguyện, tr�ng đợi Ch�a Th�nh Thần; Đức Maria cũng c� mặt với họ. Ngay từ ban đầu, Pher� đ� � thức tr�ch nhiệm l�m đầu Gi�o hội của Ch�a. �ng đề nghị t�m người thay thế Giuđa, t�n bội phản nộp Thầy. Trong số những chứng nh�n cuộc đời Ch�a, Matthia đ� tr�ng thăm để liệt v�o h�ng 12 t�ng đồ. �Bỗng từ Trời ph�t ra một tiếng động, như tiếng gi� mạnh l�a v�o nh�, nơi c�c t�ng đồ v� m�n đệ đang hội họp. Rồi mọi người thấy những h�nh lưỡi lửa tản ra, đậu tr�n đầu mỗi người. V� ai nấy đều được tr�n đầy ơn Th�nh Thần, họ bắt đầu n�i những tiếng lạ, t�y theo khả năng Th�nh Thần ban cho� (Cv II, 2-4). Gi�o hội khai sinh từ đấy.


2. Gi�o đo�n nguy�n thủy Gierusalem

H�m ấy lễ �Ngũ tuần� d�n Do Th�i hội nhau ở Gierusalem để mừng lễ rất đ�ng. Nghe biết c� điềm lạ, họ k�o nhau đến xem v� gặp Pher� đang giảng: �Đức Gi�su Nazareth Đấng m� Thi�n Ch�a đ� minh chứng bằng nhiều ph�p lạ ... Đấng m� c�c �ng đ� d�ng b�n tay kẻ dữ đ�ng đinh treo thập �c. Người đ� được Thi�n Ch�a cho sống lại, v� ch�ng t�i l� chứng nh�n ... Người đ� ban Th�nh Thần xuống cho ch�ng t�i như c�c �ng thấy v� nghe (Cv II, 22-23, 32-33). Mọi người lấy l�m lạ v� c�c t�ng đồ n�i nhiều thứ tiếng kh�c nhau v� khi nghe c�c �ng giảng, d� họ l� người n�i tiếng Partha hay Ai Cập, Cyr�ne hay Roma đều hiểu hết. Lời giảng v� dấu lạ ấy đ� l�m họ x�c động v� 3.000 người tin theo : đ� l� gi�o đo�n nguy�n thủy.

Luca trong T�ng đồ C�ng vụ đ� ghi lại những sự kiện qu� gi� về Gi�o Hội thời nguy�n thủy. Cộng đồng nguy�n thủy ở Gierusalem c� một tổ chức vừa theo khu�n khổ Do Th�i vừa c� những đặc t�nh mới mẻ v� ri�ng biệt của Kit� gi�o. Cộng đồng mới n�y chưa t�ch biệt khỏi hội đường Do Th�i, họ vẫn nhiệt th�nh tham dự c�c lễ b�i ở Đền thờ v� c�c buổi họp ở hội đường; nhưng họ cũng những buổi họp ri�ng �bẻ b�nh� v� cầu nguyện, nghĩa l� cử h�nh Tiệc Th�nh. T�nh y�u li�n kết họ th�nh một tr�i tim v� một t�m hồn, họ cố thực hiện lời Ch�a: �Người ta sẽ nhận ra c�c con l� �m�n đệ� của Th�y v� thấy c�c con y�u thương nhau� (Ga XIII, 35). �Họ b�n t�i sản đem nộp cho c�c t�ng đồ để ph�n ph�t cho mọi người, ai nấy t�y theo sự cần thiết. Họ đồng t�m nhất tr� ng�y ng�y chuy�n cần đến Đền thờ. Khi l�m lễ bẻ b�nh ở nh�, họ c�ng nhau d�ng bữa trong t�nh huynh đệ� (Cv II, 45-46).

Ph�p lạ Pher� chữa người qu� ở cửa Đền thờ đ� l�m cho người ta để � đến c�c t�ng đồ v� Gi�o hội ph�i thai. B�i giảng của vị t�ng đồ trưởng đ� thu h�t th�m nhiều người, con số kẻ tin Ch�a l�n tới 5.000. C�ng nghị Do Th�i lo ngại, bắt giam Pher� v� Gioan. Trước một phi�n t�a, hai �ng can đảm minh chứng Ch�a Gi�su l� Đấng Cứu Thế. �Đấng m� họ đ� đ�ng đinh v� Thi�n Ch�a đ� cho sống lại�. Bị đe dọa kh�ng được tiếp tục giảng, hai �ng thẳng thắn trả lời: �Trước mặt Thi�n Ch�a, phải nghe lời c�c �ng hay v�ng lời Thi�n Ch�a, điều n�o phải lẽ? Xin c�c �ng x�t. Phần ch�ng t�i, điệu ch�ng t�i đ� thấy v� đ� nghe, ch�ng t�i kh�ng thể kh�ng n�i ra!� Dầu vậy, c�ng nghị Do Th�i cũng phải tha cho hai t�ng đồ về, v� sợ dư luận quần ch�ng sau ph�p lạ mới xảy ra (Cv IV, 1-22).

C�c t�ng đồ tiếp tục rao giảng Tin Mừng; việc n�y đ� dẫn c�c �ng v�o ngục một lần nữa, nhưng ban đ�m Thi�n thần đến đưa c�c �ng ra khỏi ngục. H�m sau. c�ng nghị bỡ ngỡ thấy c�c �ng đang giảng ở Đền thờ. Bị điệu ra t�a, Pher� thay mặt c�c chứng nh�n can đảm tuy�n bố: �Phải v�ng phục Thi�n Ch�a hơn lo�i người. Thi�n Ch�a của cha �ng ch�ng ta đ� cho Đức Gi�su sống lại ... m� ch�ng t�i đ�y l� chứng nh�n�. C�ng nghị nghe, rất uất hận muốn giết ngay c�c �ng, nhưng Gamaliel can thiệp. C�c t�ng đồ tuy tho�t chết, song trước khi được tha về c�c �ng đ� phải một trận đ�n gh� sợ (Cv V, 27-40).

Gi�o đo�n nguy�n thủy mỗi ng�y th�m đ�ng. L�c n�y vẫn to�n l� người Do Th�i, c� người sinh trưởng ở Palestina n�i tiếng Hy B� (Do Th�i), c� người sinh qu�n ở những khu ph�n t�n (diaspora) trong c�c miền thuộc đế quốc Roma, n�i tiếng Hy Lạp. Nh�m người n�y ph�n n�n v� trong việc ph�n ph�t của vật chất, quả phụ của họ bị bỏ rơi. Thấy thế, c�c t�ng đồ đề nghị đặt chức Ph� tế, để tr�ng coi vấn đề vật chất. Gi�o d�n chọn bảy người v� c�c t�ng đồ đặt tay truyền chức cho họ. Trong số c� hai nh�n vật lỗi lạc l� St�phan v� Philipph� qu� ở v�ng ph�n t�n, c� t�i giảng thuyết v� kh�ng bị tr�i buộc bởi những th�nh kiến quốc gia như những người Do Th�i sinh trưởng tại Palestina.

St�phan mở đầu một cuộc hộ gi�o dựa theo Th�nh Kinh, v� kết luận bằng những lời l�n �n d�n Do Th�i: �V� c�c người cứng đầu cứng cổ, l�ng chai dạ đ�, n�n c�c người lu�n lu�n chống Ch�a Th�nh Thần�. Những lời lẽ can đảm n�y đ� đem lại cho th�y St�phan c�i chết v� đạo đầu ti�n như một phần thưởng. �Nghe những lời ấy người Do Th�i nghiến răng căm giận St�phan, lại được nh� cầm quyền Roma l�m thinh, họ n�m đ� �ng cho đến khi chết� (Cv VI VIII).

C�i chết của St�phan năm 34 mở đầu cuộc b�ch hại Gi�o hội ở Palestina. Saol� qu� th�nh Tarses l� người hăng say bắt đạo hơn cả. Nhiều gi�o d�n phải bỏ Gierusalem tản cư về c�c v�ng qu� ở Judea hay Samaria, đi tới đ�u họ truyền đạo tới đ�. Như thế cuộc b�ch hại đ� mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Kit� gi�o, đem v�o cộng đồng nguy�n thủy những phần tử mới, đ� l� những anh em D�n Ngoại, tức kh�ng phải Do Th�i.


3. Gi�o hội của c�c D�n tộc

Th�y ph� tế Philipph� mở đầu cuộc truyền gi�o ở Samaria. Với lời giảng hấp dẫn k�m theo nhiều ph�p lạ minh chứng, số người tin theo rất đ�ng. Tr�n đường đi Gaza, th�y rửa tội cho vi�n th�i gi�m của nữ ho�ng xứ Ethiopia. Ở Cesarea, nh� của th�y trở th�nh nơi hội họp của gi�o đo�n mới. Việc th�u nhận những th�nh phần mới n�y v�o Gi�o hội đ� g�y ra một vấn đề. C� cần phải chịu ph�p Cắt b� để được gia nhập Kit� gi�o, như đ� được v�o d�n Do Th�i kh�ng ? Vấn đề kh� quan trọng về gi�o thuyết, v� nếu Cắt b� l� điều b� buộc th� h�a ra đức tin Kit� gi�o kh�ng đủ để cứu rỗi, nhưng nếu Cắt b� kh�ng cần nữa tức l� bỏ rơi Do Th�i gi�o trong thực h�nh. Đ�ng kh�c, nếu Kit� gi�o đ�i những ai theo đạo phải Cắt b�, chắc chắn nhiều người v� kỳ thị Do Th�i sẽ kh�ng chấp nhận điều kiện đ� C�n c�c t�ng đồ, tuy Ch�a đ� dạy phải đi truyền gi�o cho mu�n d�n, nhưng c�c �ng vẫn chưa dứt bỏ hết những quan niệm c� t�nh chất quốc gia v� Do Th�i về Nước Trời. Pher�, vị t�ng đồ trưởng, cũng thấy rất kh� giải quyết, song Ch�a đ� can thiệp.

V�o khoảng năm 40, cuộc b�ch hại lần đầu, Pher� đi thăm c�c gi�o đo�n mới. Th�nh t�ng đồ trước hết đến Lydda, rồi Joppea, chữa nhiều bệnh tật v� cho một b� ở Joppea sống lại. Sau đ�, th�nh nh�n. l�n Cesarea, thủ phủ xứ Palestina, tại th�nh n�y một sĩ quan Roma t�n l� Cornelius v� cả gia đ�nh xin học đạo. �ng l� người đạo hạnh tử tế, k�nh sợ Thi�n Ch�a, nhưng l� người d�n ngoại. Theo luật Cựu ước th� �người Do Th�i kh�ng được tiếp x�c với người ngoại�, nhưng th�nh Pher� đ� được mặc khải cho biết �kh�ng c�n kể ai l� � uế hay kh�ng sạch�. Th�nh nh�n giảng dạy về cuộc đời Ch�a Gi�su v� ph�p Rửa tội. Trong khi giảng, c�c kẻ nghe được Ch�a Th�nh Thần đ�nh động v� xuống ơn. �ng kết th�c b�i giảng: �Những anh em n�y đ� chịu Ch�a Th�nh Thần như ch�ng ta, vậy th� ai c� quyền cấm lấy nước m� rửa tội cho họ?� Rửa tội cho Cornelius l� một việc l�m kh�c thường, nghĩa l� kh�ng qua con đường Do Th�i gi�o (Cắt b�). Cộng đồng Do Th�i ở Gierusalem x�n xao b�n t�n, khiến th�nh Pher� phải giải th�ch cho họ: �T�i biết Thi�n Ch�a kh�ng thi�n tư ai, song bất luận d�n n�o, hễ k�nh sợ Ng�i l�m việc ph�c đức, đều đẹp l�ng Ch�a v� được đ�n nhận� (Cv X. 24-48). Nhưng vấn đề chưa giải quyết dứt kho�t cho tới khi Phaol� được chọn l�m t�ng đồ d�n ngoại, v� Cộng đồng Gierusalem được triệu tập (49).

Phaol�, thuở nhỏ mang t�n Saol�, sinh khoảng năm 8 tại Tarses, một thương cảng phồn thịnh thuộc ảnh hưởng văn minh Hy Lạp. Th�n phụ �ng l� người th�nh Giscalat (Galilea), cả hai cha con gốc Do Th�i c� quốc tịch Roma, thuộc ph�i Pharis�, sinh sống về nghề dệt. Hồi 15 tuổi, Saol� đ� tỏ ra th�ng minh v� được gởi đi Gierusalem theo học Gamaliel, một gi�o sư nổi tiếng. Vốn t�nh n�ng v� nhiệt th�nh lại được gi�o dục trong m�i trường đạo hạnh khắc khổ n�n khi thấy một t�n gi�o lạ vừa xuất hiện, �ng đ� vội coi c�c t�n đồ l� những qu�n dấy loạn, m� vị Gi�o chủ l� người bi kết �n tử h�nh thập �c. Trong buổi h�nh h�nh th�y ph� tế St�phan, Saol� kh�ng t�ch cực tham gia, nhưng đ� nhận đứng giữ �o cho kẻ n�m đ� vị Tử đạo ti�n khởi. V� sau đ�, �ng quyết ra tay ti�u diệt bọn m� �ng k�u l� �phiến loạn�.

Nghe biết Damas c� nhiều �tổ� Kit� gi�o, Saol� t�nh nguyện dẫn đầu to�n l�nh v� trang của c�ng nghị Do Th�i đi dẹp. L�c đ� v�o khoảng gần trưa một ng�y m�a hạ năm 35, �khi Saol� gần tới Damas, bỗng c� �nh s�ng bởi Trời bao phủ �ng: �ng ng� xuống đất. C� tiếng ph�n: Saol�, Saol�, tại sao ngươi t�m bắt Ta ? - Thưa ng�i, Ng�i l� ai? Ta la Gi�su ngươi đang bắt bớ. Song h�y đứng dậy v�o th�nh; c� người sẽ n�i cho ngươi phải l�m g� (Cv IX 3-6). Saol� đứng dậy, mắt mở nhưng kh�ng thấy g�. �ng được dẫn v�o th�nh, ở đ� ba ng�y liền kh�ng ăn uống. Một người đạo đức t�n l� Anama được Ch�a sai đến khuy�n bảo, chữa mắt v� rửa tội cho Saol�.

Ngay sau đ�, Saol� đi tiếp x�c với gi�o đo�n Damas, v�o gi�o đường rao giảng Ch�a Gi�su l� Con Thi�n Ch�a. Điều đ� l�m nhiều người bỡ ngỡ v� kh�ng tin, c� người t�m bắt �ng, song �ng trốn v�o sa mạc Ả Rập, để qua một thời gian tĩnh t�m cầu nguyện v� học hỏi th�m về ch�n l� mới (Gl I, 11-12,17). Ba năm sau, Saol� trở lại Damas, rồi đ�nh liều đến Gierusalem, nhưng chỉ được tiếp nhận một c�ch lạnh nhạt v� c�n bị nghi ngờ. Barnab�, người bạn học của �ng, phải đứng ra bảo l�nh để �ng được gặp Pher� v� Gioan. Trong một cầu nguyện tại Đền th�nh, Saol� ngất tr� xem thấy Đấng ph�n rằng: �Mau l�n, h�y ra khỏi Gierusalem ngay, v� họ chẳng nhận ngươi l�m chứng về Ta� (Cv XXII, 18). C�c bạn hữu khuy�n �ng trở về Tarses. Bị người ta kh�ng hiểu m�nh, Saol� vẫn cương quyết l�m �Ph�t ng�n nh�n� của Ch�a Gi�su. V� �ng c�n nhớ m�i lời Ch�a ph�n: �Cứ đi, Ta sai ngươi đến c�ng d�n ngoại ở phương xa� (Cv XXII, 21). Saol� nghe bạn hữu khuy�n trở về qu� hương (năm 38), hoạt động truyền gi�o trong c�c v�ng thuộc Cilicia v� Syria.

Barnab� ở Antiokia, nh�n một cuộc viếng thăm c�c gi�o đo�n, c� đến gặp Saol�. Barnab� thấy cần phải d�ng vị t�ng đồ trẻ tuổi th�ng minh, nhiệt th�nh v� quả cảm n�y v�o m�i trường hoạt động rộng lớn hơn, n�n đ� đưa Saol� về Antiokia thủ phủ xứ Syria, nơi tập trung đủ sắc d�n, ng�n ngữ v� t�n gi�o. Quả nhi�n, nhiều người tin theo, gi�o đo�n Antiokia mỗi ng�y th�m đ�ng: �Ch�nh tại đ�y, lần thứ nhất c�c t�n hữu được mang danh Kit� hữu� (Cv XI, 26). Trong khi đ�, c�c gi�o đo�n ở Judea l�m cảnh kh� khăn, nạn đ�i ho�nh h�nh, Agrippa được đặt l�m vua Judea v� Samaria (41-44) l� người từ l�u c� �c cảm với Kit� gi�o: �ng giết Giacob� Tiền (42) anh Gioan, v� c�n đ�i xử tử Pher� bấy giờ đang bị giam trong ngục. Ch�nh l�c ấy, Barnab� v� Saol� từ Antiokia tới Gierusalem thăm v� an ủi c�c anh em. Nhưng th�nh Pher�, sau khi được Thi�n thần cứu cho vượt ngục đ� trốn khỏi Gierusalem (Cv XII, 6-17).

 
II

TH�NH PHAOL� TR�N ĐƯỜNG TRUYỀN GI�O

 
1. H�nh tr�nh thứ nhất (45-49) của th�nh Phaol�  v� C�ng đồng Gierusalem (49)

Di d�n Do Th�i bấy giờ v�o khoảng 3 triệu (đ�ng gấp 4 hoặc 5 lần số người c�n ở lại trong nước). Họ l� những th�nh phần đầu ti�n của c�ng đồng Kit� gi�o v� cũng c� thể l� những th� địch đ�ng sợ. Hầu hết họ sống về thương mại. Họ được hưởng nhiều đặc �n trong đế quốc Roma, c� khu vực ri�ng, luật lệ ri�ng, t�a �n ri�ng, tự do t�n ngưỡng v� lễ b�i. Họ lu�n giữ sắc th�i d�n tộc, chống ảnh hưởng của ngoại bang; trung t�m t�n gi�o của họ vẫn tại Gierusalem. Ch�nh v� sự quan t�m đến những người anh em Do Th�i n�y, m� Barnab� v� Saol� khởi h�nh chuyển đi lần thứ nhất (Cv XII, 25- XIV, 27). V� cũng từ đ�y, lịch sử truyền gi�o của Gi�o hội C�ng gi�o bắt đầu.

M�a xu�n năm 45, sau khi l�nh nhận sứ mạng, Barnab� c�ng với Saol� v� Gioan Marc� (ch�u của Barnab�) l�n t�u tại cửa Seleucia. Trước hết t�u cập bến Salamina, đảo Cypro, qu� hương của Barnab�. Ở đ�y, hai t�ng đồ đ�m thoại với người Do Th�i trong hội đường. Tới Paphoa, Saol� rửa tội cho Sergius-Paulus, to�n quyền Cypro. �ng n�y th�ch khoa b�i to�n v� quỷ thuật, n�n c� d�ng một ph� thủy Do Th�i t�n l� Barjesu. Nghe tin c� ba nh� truyền gi�o l�m dấu lạ, Sergius cho mời Barjesu đến t�m c�ch ngăn cản, bị Saol�, cũng gọi l� Phaol�, quở mắng v� phạt m� mắt. Được xem nghe c�c ph�p lạ v� lời lẽ của th�nh t�ng đồ, quan to�n quyền đ� tin theo (Cv XIII, 4-12).

Bỏ Paphos, ba vị qua Tiểu �, l�c ấy l� m�a thu năm 45. Tiểu � hồi đ� gồm 17 xứ, d�n ch�ng theo t�n gi�o huyền b� dị đoan. Đặt ch�n l�n hải cảng Attalia (xứ Pamphilia), ba thừa sai tiến v�o Perga, gặp một th�nh phố bỏ hoang v� �n dịch, Phaol� nhất định đi s�u v�o nội địa, nhưng Gioan Marc� thấy đường đi gian nguy vất vả, đ� xin r�t lui về Gierusalem, mặc Phaol� v� Barnab� hết sức khuy�n can. [3] Sau nhiều ng�y đường trường kh� nhọc, Phaol� v� Barnab� tới Antiokia (xứ Pisiđia). Một chiều thứ bảy, hai t�ng đồ v�o hội đường Do Th�i v� được �ng chủ sự mời l�n n�i mấy lời. B�i diễn văn đầu ti�n của Phaol� đ� g�y x�c động trong kiều b�o Do Th�i; nhưng lần thứ hai, một bọn người ngoan cố t�m c�ch g�y rối. Thay thế, Phaol� v� Barnab� quay sang d�n ngoại : �Bởi v� anh em chối nghe lời Ch�a, n�n ch�ng t�i quay đi với d�n ngoại�. Sau một năm hoạt động hai t�ng đồ thu được nhiều kết quả. Trước sự tiến triển của gi�o đo�n, nh�m Do Th�i qu� kh�ch nhất định ph�, hai �ng đ�nh phải ra đi.

Đầu m�a thu năm 46 hai t�ng đồ tới Iconium (xứ Lycaonia), một th�nh phố nhỏ c�ch Antiokia 120km. Ở đ�y hơn một năm, c�c �ng lập được một gi�o đo�n đ�ng đ�c. Nhưng cuối c�ng, cũng bị nh�m Do Th�i �c cảm quấy rối định n�m đ�, hai �ng phải bỏ trốn sang Lystra v� Derba c�ch Iconium khoảng 40km. V� hai th�nh phố nhỏ n�y kh�ng phải l� nơi thương mại, n�n kh�ng c� người Do Th�i; d�n ch�ng sống nghề chăn nu�i v� đặc biệt s�ng b�i thần Jovis v� Mercurius. Tới Lystra, hai �ng may mắn bắt li�n lạc với một gia đ�nh Do Th�i độc nhất, tức gia đ�nh của Timothe�, một thiếu ni�n ngoan ngo�n hiền l�nh. Tuy sống trong khung cảnh ngoại gi�o, Timothe� cũng được b� mẹ dạy cho biết Th�nh Kinh, nhưng chưa chịu Cắt b�. Nh� của Timothe� được d�ng l�m trụ sở cho hai nh� truyền gi�o.

Trong một buổi giảng dạy ở Lystra, Phaol� chữa l�nh một người bất toại từ khi mới sinh. Cho Barnab� l� thần Jovis v� Phaol� l� thần Mercurius gi�ng thế, d�n ch�ng cấp b�o cho sư s�i c�c ch�a mang �t vật đến s�t tế. Hai t�ng đồ phải hết sức can ngăn, họ mới th�i. T�nh h�nh tiến triển đang c� lợi cho c�c �ng th� một nh�m Do Th�i từ Antiokia v� Iconium đến ph�. Bị bọn ch�ng tuy�n truyền phỉnh gạt, d�n ch�ng đổi l�ng t�m bắt Phaol�, đưa ra ngo�i n�m đ�. Tưởng ng�i đ� chết, họ bỏ về. Khi trời tối, gi�o d�n đến mai t�ng mới biết th�nh t�ng đồ c�n sống. Bỏ Lystra, hai �ng qua Derba ở đấy chừng một năm v� lập được một gi�o đo�n thịnh vượng.

Tr�n đường trở về, hai t�ng đồ viếng thăm c�c gi�o đo�n đ� thiết lập v� tổ chức cho c� cơ sở vững chắc. Đi đến đ�u, c�c �ng cũng được an ủi thấy gi�o d�n nhiệt th�nh giữ đạo. C�c �ng chọn những người đạo đức s�ng suốt, đặt tay ban quyền Linh mục v� trao trọng tr�ch chỉ huy gi�o đo�n. Khi qua Perga, thấy d�n ch�ng đ� trở về l�m ăn đ�ng đ�c, hai t�ng đồ ở lại giảng dạy �t bữa trước khi xuống Attalia lấy t�u về Antiokia. Về tới nh�, �c�c �ng họp gi�o d�n tường thuật cho họ nghe bao nhi�u c�ng việc Thi�n Ch�a đ� d�ng m�nh l�m v� sự d�n ngoại đ�n nhận Tin Mừng�.

Những kết quả hai t�ng đồ thu hoạch được tr�n đất d�n ngoại đ� g�y nhiều phản ứng. Ở trong xứ Judea người ta x�n xao b�n t�n, rồi những người v� tr�ch nhiệm đến tận Antiokia hạch lạc về sự trở lại của d�n ngoại, họ n�i: �Ph�p Rửa kh�ng th�nh, nếu kh�ng chịu Cắt b� trước�. Với những người Do Th�i mới trở lại v� c� �c thủ cựu ấy, hai t�ng đồ đ� tranh luận nhiều buổi, nhưng v� �ch. Cuối c�ng, gi�o đo�n Antiokia cử Barnab� v� Phaol� đi Gierusalem gặp c�c t�ng đồ, để giải quyết dứt kho�t vấn đề quan trọng n�y.

C�ng đồng Gierusalem được triệu tập năm 49, đặt dưới quyền chủ tọa của th�nh Ph�r�. Trong C�ng đồng, Phaol� v� Barnab� thuật lại chuyến đi truyền gi�o lần thứ nhất với những kết quả tốt đẹp đ� thu lượm được. C�c �ng n�i th�m: �Ch�ng ta kh�ng n�n ngăn cản bất cứ ai muốn tin theo, cũng kh�ng n�n bỏ dở c�ng cuộc bắt đầu m� ch�ng ta đ� được chứng kiến nhiều sự lạ l�ng�. Pher� đồng � n�i: �Ch�nh nhờ ơn Ch�a Gi�su Kit� m� ch�ng ta tin ch�ng ta được cứu rỗi, th� họ cũng thế�. Sau đ�, với tư c�ch t�ng đồ trưởng, th�nh Pher� tuy�n bố quyết định kh�ng buộc những người d�n ngoại gia nhập Kit� gi�o phải mang ��ch� luật M�isen. Giacob� Hậu, l�c ấy đứng đầu gi�o đo�n Gierusalem, vốn c� tiếng bảo thủ với lễ nghi cổ truyền Do Th�i, cũng l�n tiếng ủng hộ quyết định của C�ng đồng, chỉ đ�i phải ki�ng đồ c�ng, m�u v� thịt những vật chết ngạt, c�ng sự gian d�m. Một Th�ng điệp được gởi đến d�n ngoại ở Antiokia, Syria v� Cilicia (Cv XI, 1-29; Gl II, 1-10). Vấn đề được giải quyết v� C�ng đồng thứ nhất của Gi�o hội đ� giải ph�ng anh em D�n ngoại. Từ nay, với hoạt động của Phaol�, Gi�o hội sẽ rộng tay đ�n nhận họ từ c�c nơi tr�n đến.


2. H�nh tr�nh thứ hai (50-52) của th�nh Phaol�

Sau C�ng đồng Gierusalem, Phaol� trở về Antiokia, đề nghị với Barnab� một chuyến đi thứ hai, mục đ�ch viếng thăm c�c gi�o đo�n, đồng thời c�ng bố v� giải th�ch Th�ng diệp của C�ng đồng, thiết lập th�m gi�o đo�n mới. Barnab� muốn đem theo Gioan Mar�c� nhưng Phaol� nhất định từ chối, một cuộc b�n c�i s�i nổi xảy ra khiến hai t�ng đồ rời xa nhau: Barnab� đem Gioan Marc� sang đảo Cypro, c�n Phaol� chọn Sila.

M�a xu�n năm 50, Phaol� v� Sila theo đường bộ qua Syria v� Cilicia, thăm c�c gi�o đo�n cũ: Tarses, Derba, Lystra, Iconium, Antiokia. Ở Lystra, Phaol� được th�m một bạn đồng h�nh nữa l� Timothe� (Cv XV, 35 XVIII, 22).

Bỏ Antiokia (xứ Pisidia), đo�n truyền gi�o tiến l�n miền Phrygia v� Galatia. Phaol� kh�ng ở lại đ�y l�u v� muốn d�nh nhiều thời giờ cho những đ� thị lớn. Quan niệm rằng một khi Tin Mừng c� cơ sở tại những nơi đ� hội, sẽ phổ biến đi c�c v�ng chung quanh. V� thế, th�nh nh�n định đưa đo�n truyền gi�o xuống miền Nam, c� nhiều th�nh phố lớn như Smyrna, Epheso, Mileto... nhưng Ch�a kh�ng muốn. Tại Troas, thương cảng xứ Mysia, đang l�c Phaol� l�ng t�ng kh�ng biết đi đ�u th� gặp Luca, một y sĩ danh tiếng v� th�ng thạo đường thủy: Luca đề nghị sang xứ Macedonia. Đ�m ấy, Phaol� chi�m bao thấy người xứ Macedonia y�u cầu ng�i đem tin l�nh đến với họ. Ngay h�m sau, Phaol� c�ng với Sila, Timothe� v� Luca đ�p t�u sang Macedonia, cập bến Neapoli.

Từ hải cảng Neapoli, c�c t�ng đồ tiến l�n Philip. D�n ch�ng ở đ�y l� những người cần c� tử tế, t�n trọng đạo gia đ�nh, n�n sẵn s�ng đ�n nhận Tin Mừng hơn nhiều nơi. Một b� h�ng tấm gi�u c� t�n l� Lyđia được ơn tin theo, đ� rước đo�n truyền gi�o đến cư ngụ nh� m�nh. C�ng cuộc truyền gi�o kết quả, nhưng một ph�p lạ của Phaol� đ� l�m cớ đưa ng�i v�o ngục. Phaol� trừ quỷ cho một thiếu nữ n� lệ l�m nghề b�i to�n. Thấy mất mối lợi, người chủ mưu l�m hại th�nh t�ng đồ. Nh�n việc ho�ng đế Claudius ra lệnh trục xuất c�c người Do Th�i ở Roma v� nghi họ �m mưu phản loạn, �ng chủ n�i tr�n cũng tố c�o Phaol� x�i d�n l�m c�ch mạng, v� cho bộ hạ đến nh� b� Lyđia bắt Phaol� v� Lila dẫn đến đại diện ch�nh quyền Roma. Kh�ng tra hỏi g�, vị đại diện ra lệnh đ�nh đ�n hai t�ng đồ rồi tống giam. Ban đ�m, một dấu lạ xảy ra: đất động, c�c cởi mở tung, xiềng x�ch đứt hết. Thấy thế, l�nh cai ngục theo đạo. S�ng h�m sau, Luca v� Timothe� cũng ngầm b�o cho nh� cầm quyền biết Phaol� v� Timothe� c� quốc tịch Roma, việc đ�nh đ�n tr�i ph�p h�m qua c� thể l� một tử tội. Họ vội v�ng đến xin lỗi hai �ng v� y�u cầu bỏ Philip. Nhưng c�c �ng c�n ở lại �t ng�y để tổ chức gi�o đo�n, đặt Luca ở lại coi s�c.

Bỏ Philip, đo�n truyền gi�o ba người c�n lại đi về miền T�y, đến Thessalonic, thủ phủ xứ Macedonia, một hải cảng lớn v� cũng l� trung t�m kỹ nghệ c� rất nhiều anh em lao động sống ngh�o khổ. Cũng như ở c�c nơi kh�c, ba nh� truyền gi�o giảng Tin Mừng cho kiều b�o Do Th�i, nhưng họ cứng l�ng n�n c�c �ng đi t�m anh em D�n ngoại, v� ở đ�y Phaol� để � đến giới cần lao. Người Do Th�i tố c�c nh� truyền gi�o đến gieo rắc tinh thần chống đối ho�ng đế Roma, v� cho người đến bắt tại xưởng dệt của �ng Jason. May mắn l�c đ� ba �ng vắng mặt. Thấy t�nh h�nh căng thẳng, c�c t�ng đồ vội tổ chức gi�o đo�n đặt người l�nh đạo, rồi tiếp tục l�n đường.

Đến Berea c�ch Thessalonic 75km, ba nh� truyền gi�o được kiều b�o Do Th�i tiếp rước tử tế hơn. Họ chen nhau đến nghe tin l�nh v� trở lại kh� đ�ng. Được tin đ�, người Do Th�i từ Thessalonic k�o đến quấy ph�, Phaol� đ�nh r�t lui, để Sila v� Timothe� ở lại tiếp tục hoạt động.

M�a đ�ng năm 50, một m�nh Phaol� l�n t�u đi Ath�na, thời đ� l� trung t�m văn h�a của cả thế giới. Roma tuy c� uy thế về ch�nh trị, nhưng vẫn phải t�n trọng v� ki�ng nể Ath�na. Tới đ�y, Phaol� kh�ng khỏi đau l�ng khi thấy hai b�n lộ đầy tượng thần, d�n ch�ng thi đua học hỏi sự kh�n ngoan thế gian nhưng tối tăm về ch�n l� Nước Trời. Lợi dụng đức t�nh hiền h�a của d�n th�nh, th�nh t�ng đồ giảng một b�i tại tối cao ph�p viện (Ar�opage). Ng�i mở đầu: �Thưa qu� vị c�ng d�n th�nh Ath�na, ph�m việc g� t�i cũng thấy qu� vị rất say m�. Nh�n khi đi qua, nhận x�t c�c thần tượng của qu� vị t�i gặp một b�n thờ c� đề h�ng chữ �K�nh Thần Bất Minh�. Vậy đấng qu� vị thờ m� kh�ng am tường đ�, t�i xin tr�nh b�y hiến qu� vị�. Rồi với một giọng h�ng hồn, th�nh t�ng đồ giảng về Đấng Tạo th�nh trời đất mu�n vật, Đấng kh�ng ngự trong ng�i nh� do b�n tay lo�i người t�c tạo, Đấng chẳng giống như v�ng bạc hay đ� gỗ do t�i ba của nghệ thuật chạm trổ n�n. Ng�i kh�ng ở xa ch�ng ta, bởi v� �ta sống, ta động, ta c� đều do Ng�i�. Sau c�ng, th�nh t�ng đồ n�i đến sự ph�n x�t v� sống lại. Nhưng hai vấn đề n�y đ� l�m th�nh giả kh�ng muốn nghe nữa, cử tọa nh�n nhao, tiếng n�i x� x�o: �Th�i để khi kh�c sẽ nghe �ng ta n�i về vần đề đ� (Cv XVII, 22-32). Th�nh Phaol� chịu thất bại trước những con người qu� thi�n về l� tr� ấy.

Phaol� ra đi đến Corint�, một trung t�m thương mại v� kỹ nghệ lớn, nhưng t�nh trạng lu�n l� v� t�n gi�o rất suy đồi; số thương gia Do Th�i kh� đ�ng. Tới nơi, th�nh t�ng đồ li�n lạc với gia đ�nh �ng b� Aquila v� Priscilla đ� được rửa tội ở Roma v� mới bị trục xuất do lệnh ho�ng đế Claudius. Sila v� Timothe� sau khi tổ chức xong gi�o đo�n Berea cũng đến cộng t�c với ng�i. Như hầu hết c�c nơi kh�c, đứng trước sự cứng l�ng của người Do Th�i, ba t�ng đồ quay về ph�a D�n ngoại v� đem Tin Mừng đến cho họ. C�c �ng đ� th�nh c�ng rực rỡ, một gi�o đo�n đ�ng đ�c v� nhiệt th�nh được thiết lập với đủ mọi th�nh phần x� hội. Ch�nh ở đ�y, Phaol� viết hai Thư gởi gi�o đo�n Thessalonic v�o khoảng năm 51.

Trong 18 th�ng hoạt động ở Corint�, người Do Th�i vẫn l� kẻ th� của th�nh t�ng đồ. Họ bắt ng�i nộp cho ch�nh quyền Roma, vu c�o l�m c�ch mạng. Nhưng Gallius, em nh� hiền triết Seneca, l�c đ� giữ chức trấn thủ, l� người s�ng suốt đ� gạt đi. Được tha về, Phaol� lo tổ chức gi�o đo�n để c� thể đứng vững khi ng�i vắng mặt. M�a h� năm 52, th�nh Phaol� đ�p t�u trở về Antiokia bằng đường biển, gh� qua Epheso V� Gierusalem.


3. H�nh tr�nh thứ ba (52-57) của th�nh Phaol�

Sau một thời gian nghỉ ngơi ở Antiokia, Phaol� lại nghĩ đến chuyến đi thứ ba. Đo�n truyền gi�o lần n�y đ�ng hơn, gồm c� Timothe�, Tit�, Erastus, Gaius, nhưng kh�ng thấy Sila, c� lẽ �ng n�y ở lại Gierusalem l�m thư k� cho th�nh Pher�. Chuyến đi khởi h�nh v�o m�a thu năm 52. Cũng như lần trước, Phaol� muốn thăm viếng c�c gi�o đo�n cũ, n�n đ� theo đường bộ qua Derba, Lystra, Iconium, Antiokia. Sau đ�, ng�i qua Colosse, Laodicea, tới Epheso v�o m�a thu năm 53. Epheso bấy giờ l� thủ phủ Xứ Asia, một thương trường rộng lớn, phồn thịnh, trụ sở của to�n quyền Roma, đồng thời l� �Th�nh địa� của nữ thần Diana với ng�i đền lộng lẫy, nguy nga, tức đền Artemi kỳ quan thế giới. Ch�nh đ�y l� trọng t�m truyền gi�o của th�nh t�ng đồ trong cuộc h�nh tr�nh thứ ba n�y (Cv XVIII, 21 - XXI 16).

Ở Ephes�, Phaol� l�m nghề dệt để khỏi phiền lụy đến người kh�c v� sống trong gia đ�nh �ng b� Aquila v� Priscilla, v� hai �ng b� n�y đ� bỏ Corint� đến tr� ngụ ở đ�y. Trước hết, th�nh t�ng đồ tiếp x�c với 12 người trong nh�m �Thanh tẩy Gioan�, v� đ� thuyết phục được họ theo Tin Mừng. Nhưng đối với kiều b�o Do Th�i m� chuyến đi trước Phaol� đ� được tiếp đ�n nống hậu, th� lần n�y th�nh t�ng đồ nhận ra sự cố chấp của họ như nhiều nơi kh�c, n�n ng�i bỏ đi truyền gi�o cho D�n ngoại. Trong ba năm trời, Ch�a ch�c l�nh cho c�ng cuộc của Phaol�, cho ng�i l�m nhiều ph�p lạ v� thu được nhiều kết quả. Đang khi đ�, c�c cộng sự vi�n của ng�i đi truyền gi�o ở c�c th�nh phố l�n cận, như Colosse, Hierapoli, Laodicea, v� c�c nơi xa hơn như Smyrna, Pergamo, Mileto.

Từ Epheso, th�nh t�ng đồ vẫn li�n lạc với c�c gi�o đo�n. Năm 54, ng�i nhận được nhiều tin bi quan về gi�o d�n ở Galatia. Năm đ�, những cộng sự vi�n của ng�i đi điều tra về, cho biết c� một số người Do Th�i tự xưng l� đặc ph�i vi�n của Gierusalem đến, tuy�n truyền vu khống nhiều điều kh�ng hay về ng�i. Phaol� liền viết Thư gởi gi�o đo�n Galatia biện hộ cho thi�n chức t�ng đồ của m�nh, v� Tin Mừng ng�i giảng l� ch�nh Tin Mừng Ch�a Gi�su đ� mặc khải. Cũng trong Thư đ�. Phaol� chống lại chủ trương Cắt b� của nh�m thủ cựu cố chấp, minh chứng rằng: Đức tin chứ kh�ng phải Cắt b� l�m cho người ta n�n c�ng ch�nh.

Phaol� cũng rất đau l�ng khi nghe biết gi�o d�n Corint� c� sự chia rẽ v� nhiều tội loạn lu�n xảy ra. Năm 55, ng�i sai Timothe� v� Erastus đến d�n xếp c�ng việc, v� trước đ� ng�i đ� gởi cho gi�o đo�n một bức Thư. Thư thứ nhất gởi cho th�nh Corint� n�y l� bức Thư dồi d�o tư tưởng v� hay hơn hết trong c�c Thư của th�nh t�ng đồ. Trong phần I, t�c giả khiển tr�ch gi�o d�n về tội chia rẽ v� loạn lu�n; phần II, t�c giả giải đ�p những thắc mắc họ n�u ra c� li�n hệ đến lương t�m người Kit� hữu.

V�o khoảng th�ng 5 năm 56, đại hội Diana được tổ chức long trọng, Phaol� muốn lợi dụng cơ hội để truyền b� đức tin. V� số người tin theo từ trước đến giờ mỗi ng�y th�m đ�ng, n�n người mua ảnh tượng v� đồ thờ c�ng thần Diana mỗi ng�y giảm bớt. Demetrius, chủ tịch nghiệp đo�n thợ bạc chuy�n tạc tượng l�m ảnh, đ� tổ chức một cuộc biểu t�nh, vận động quần ch�ng đến bắt Phaol�. Nhưng h�m ấy ng�i vắng nh�, ch�ng bắt Gaius v� Aristarcus, hai cộng sự vi�n của ng�i, điệu đi c�c khu phố. May nhờ c� sự can thiệp của nh� cầm quyền, cuộc biểu t�nh bị giải t�n v� hai �ng được trả tự do.

Sau vụ n�i tr�n, Phaol� bỏ Epheso c�ng với đo�n truyền gi�o đi Troas, chờ Timothe� v� Erastus cho biết tin lức về Corint�, nơi hai �ng đ� được sai đi. Timothe� trở về cho biết dư luận x�n xao về bức Thư của th�nh t�ng đồ, v� một số người kh�ng chịu tu�n phục. Phaol� sai Tir� đến d�n xếp lần nữa. Sau hơn ba th�ng n�ng l�ng đợi tin của Tit�, Phaol� bỏ Troas sang xứ Macedonia đến thăm gi�o đo�n Philip. Ở đ�y Phaol� gặp Luca, v� �t l�u sau Tit� cũng đến đem tin về Corint�; gi�o d�n hầu hết đ� đổi l�ng, chỉ c�n lại một số người cố chấp. Th�nh t�ng đồ b�n viết Thư thứ hai gởi gi�o đo�n Corint�, trao cho Tit� mang đến. Trong Thư ng�i an ủi v� tha thứ cho họ, đề cập đến cuộc lạc quy�n gi�p anh em ở Gierusalem v� cuối c�ng biện hộ cho thi�n chức t�ng đồ của m�nh. Ở lại Philip cho đến cuối năm 56, ng�i mới đ�ch th�n đến Corint�, để đem lại b�nh an v� trật tự cho gi�o đo�n.

L�c n�y nh�n lại kết quả ba cuộc h�nh tr�nh, Phaol� nhận thấy c�c th�nh phố lớn miền duy�n hải v� nội địa Tiểu � đ� được nghe giảng Tin Mừng, n�n ng�i muốn sang T�y phương: � Đại Lợi v� T�y Ban Nha. Th�nh nh�n cũng nghĩ tới kinh th�nh Roma, nơi hoạt động của Pher�. Nhưng trước khi đến, ng�i viết Thư bắt li�n lạc với họ (đầu năm 57). C� thể n�i, đ�y l� bản lược t�m gi�o l� của th�nh t�ng đồ về t�n l� (phần I) cũng như lu�n l� (phần II).

Sau khi gởi Thư cho gi�o d�n Roma, Phaol� c�ng đo�n truyền gi�o sửa soạn về Gierusalem để kịp mừng lễ Phục sinh v�o th�ng 3 năm 57. Nhưng khi sắp l�n t�u, th� được tin b�o người Do Th�i đ� tổ chức �m s�t Phaol� rồi quẳng x�c xuống biển, cuộc h�nh tr�nh v� thế đ� phải thay đổi. Phaol� v� một �t người theo đường bộ l�n Macedonia mừng lễ Phục sinh với gi�o đo�n Philip, c�n c�c người kh�c cứ l�n t�u như thường, nhưng sẽ cập bến Troas v� chờ th�nh t�ng đồ ở đấy.

Nhưng h�nh như vị t�ng đồ linh cảm thấy m�nh sẽ kh�ng c�n được gặp lại gi�o đo�n th�n y�u, n�n đi tới đ�u, Phaol� cũng từ biệt họ một c�ch hết sức cảm động. Bỏ Troas, th�nh t�ng đồ xuống t�u đi Mileto, ở đ�y ng�i cho mời c�c kỳ l�o gi�o đo�n Epheso đến cho ng�i gặp lần sau hết. Chuyến t�u sau đ� chạy đi Tyro, anh em ở đ�y can ngăn Phaol� kh�ng n�n đến Gierusalem v� c� sự nguy hiểm, nhưng ng�i kh�ng nghe. Tới Cesarea, một gi�o d�n được ơn n�i ng�n sứ cũng cho biết: ở Gierusalem th�nh t�ng đồ sẽ bị người Do Th�i bắt nộp cho ch�nh quyền ngoại đạo. Gi�o d�n khuy�n Phaol� l�nh đi nơi kh�c, nhưng th�nh nh�n muốn chịu đau khổ giống Ch�a, n�n cứ tiến về Gierusalem.

Đến đ�y, Phaol� chấm dứt c�c cuộc h�nh tr�nh, để bước v�o con đường tử đạo. Th�nh nh�n đ� mở đầu những trang sử truyền gi�o của Gi�o hội, v� thật xứng đ�ng với danh hiệu �T�ng đồ D�n ngoại�.


4. Th�nh Phaol� bị bắt v� tử đạo (57-67)

Tới Gierusalem trước lễ �Ngũ tuần� năm 57, Phaol� đi gặp Giacob� để tr�nh b�y những hoạt động truyền gi�o v� kết quả đ� thu lượm được trong c�c chuyến đi vừa qua. Tất cả mọi người tạ ơn Thi�n Ch�a v� ca tụng Phaol�. Nhưng những phần tử bảo thủ v� cố chấp tiếp đ�n ng�i c�ch lạnh nhạt. Để ph� đổ những tuy�n truyền vu khống, th�nh t�ng đồ theo đề nghị của một số người, l�m một tuần chay đền tội theo lễ gi�o Do Th�i (Nazir�at), để c�ng khai minh chứng l�ng th�nh với luật Maisen.

V� l� lễ �Ngũ tuần�, người Do Th�i từ c�c nơi về Gierusalem đ�ng. Trong số n�y, c� nhiều người thuộc bọn cố chấp, th� địch của Phaol�. Biết ng�i c� mặt ở Gierusalem, họ nhất định thanh to�n. Khi Phaol� v� bốn gi�o d�n l�n Đền th�nh, một nh�m Do Th�i sinh trưởng ở Epheso đ� đợi sẵn. Thấy th�nh nh�n, ch�ng liền la lối vu cho ng�i l� x�c phạm đến Đền th�nh, mang người ngoại gi�o v�o khu cấm. D�n ch�ng tin theo, định l�i Phaol� ra ngo�i n�m đ�, nhưng nh� cầm quyền v� kh�ng hiểu truyện, vội ra lệnh tống giam để điều tra. Phaol� phải nại đến quyền c�ng d�n Roma mới tho�t khỏi những trận đ�n gh� sợ. Muốn biết đầu đu�i c�u truyện, h�m sau Lysia họp c�ng nghị Do Th�i để đối chứng với Phaol�. Th�nh t�ng đồ một nh� t�m l� s�nh nghề, ng�i lớn tiếng n�i: �Thưa qu� vị t�i l� người Pharis�, song th�n t�i cũng l� Pharis�, sở dĩ t�i bị điệu ra xử h�m nay chỉ v� t�i tin tưởng người chết sống lại� (Cv XXIII, 6). Kết quả c�u n�i đ� l� l�m cho hai phe đả k�ch nhau dữ dội, Lysia lo ngại, phải đưa Phaol� về trại giam.

Thất bại v� c�u n�i của Phaol�, người Do Th�i căm th�: một số chừng 40 thề tuyệt thực cho đến khi giết được th�nh nh�n. Để đạt � định ấy, c�ng nghị Do Th�i xin Lysia cho điệu Phaol� ra lấy khẩu cung lần nữa, bọn họ sẽ mưu s�t dọc đường. May c� người ch�u đến b�o cho Phaol�, khiến �m mưu bị đổ bể. Để khỏi bận t�m về vụ l�i th�i như thế, trấn thủ Lysia huy động một số binh sĩ khoảng 470 người �p giải Phaol� đi Cesarea, trao cho to�n quyền Felix. �ng n�y l� người độc �c, đa d�m, thi h�nh lệnh ho�ng đế một c�ch n� lệ. Sau �t ng�y, th�nh t�ng đồ được đem ra đối chứng trước c�ng nghị. Biết rằng chỉ l� sự bất đồng về mấy điểm t�n gi�o, Felix muốn tha nhưng lại sợ người Do Th�i. �ng k�o d�i thời gian giữ th�nh nh�n đến hai năm, tuy l� người độc �c, �ng kh�ng d�m xử tệ với ng�i, c�n cho tự do li�n lạc v� tiếp x�c với c�c cộng sự vi�n.

Năm 59, Festus đến thay thế Felix ở chức to�n quyền. Nh�n dịp n�y, người Do Th�i y�u cầu Festus đưa Phaol� l�n x�t xử ở Gierusalem với th�m � sẽ mưu s�t dọc đường. Nhưng Phaol� kh�ng c�o l�n Cesar. Bấy giờ l� m�a thu năm 59, Julius c�ng một số cảnh binh Roma được lệnh �p giải t� nh�n. Nhận thấy Phaol� c� nhiều đức t�nh cao qu�, n�n Julius đối xử đặc biệt với ng�i, cho Timothe�, Luca v� Aristarcus đi theo. Cứ mỗi khi t�u gh� bến c� gi�o d�n, Phaol� lại được ph�p l�n thăm. Con t�u tiến dọc theo bờ biển Syria, qua đảo Cypro, theo bờ biển xứ Lycia. Tới hải cảng Myra, gặp t�u đi � Đại Lợi, Julius cho chuyển t� nh�n sang đ�. Chuyến t�u chở tất cả 276 người kể cả thủy thủ, h�nh kh�ch, c�n th�m nhiều h�ng h�a. Gặp gi� lớn, t�u giạt v�o hải cảng Bonoporto (đảo Creta). Thấy nguy hiểm, Phaol� đề nghị ở lại đ�y, đợi qua m�a đ�ng, nhưng kh�ng ai nghe. T�u vừa nhổ neo được mấy ng�y th� gặp b�o lớn. Sau 14 ng�y đ�m đương đầu với b�o tố, mọi người thất vọng, Phaol� cố gắng an ủi v� lấy lại niềm tin cho bạn t�u. Khi gần tới đảo Malta t�u đụng v�o một cồn c�t, vỡ tan t�nh, nhưng đ�ng như lời Phaol� đ� n�i trước, mọi người tho�t nạn v� v�o tới bờ.

Ở Malta, trong khi t�m củi để sưởi ấm, Phaol� bị một con rắn độc quấn v�o tay, song ng�i b�nh tĩnh giũ n� v�o lửa. D�n ch�ng thấy thế cho Phaol� l� hiện th�n của một vị thần tới thi �n cho họ. Người ta tranh nhau đưa bệnh nh�n đến xin ng�i chữa, cả th�n phụ của Publius, người cầm quyền đảo n�y, cũng được chữa khỏi bệnh; nhiều người xin theo đạo. Cuối th�ng 2 năm ấy, c� chuyến t�u chở l� m� qua �, Julius cho t� nh�n qu� giang. Sau �t ng�y, t�u cập bến Puteolo gần th�nh Napoli, rồi theo đường bộ Phaol� bị �p giải l�n Roma. Gi�o d�n nghe biết gởi ph�i đo�n đến rước ng�i, trong ph�i đo�n c� gia đ�nh �ng b� Aquila v� Priscilla.

Ở Roma nhờ c� b�o c�o của to�n quyền Festus v� của Julius. Phaol� được đối xử đặc biệt. Ng�i được ph�p sống trong một căn nh� thu� v� d�n ch�ng c� thể đến viếng thăm. Trong 2 năm giam lỏng, th�nh t�ng đồ kh�ng bỏ lỡ một cơ hội n�o c� thể rao giảng Tin Mừng. Ng�i dấn th�n hoạt động cả những nơi m� ch�nh th�nh Pher� v� c�c gi�o d�n kh�c kh�ng lọt v�o được. Những thủ tục của t�a �n đ� cho th�nh t�ng đồ nhiều cơ hội tiếp x�c với giới quan chức, với cận thần nh� Vua, v� thường xuy�n với c�c sĩ quan c� nhiệm vụ canh g�c. Phaol� giải th�ch cho họ tại sao người ta tố c�o v� muốn l�m hại m�nh, v� lẽ hết mọi người đều biết �ch�nh v� Ch�a Kit� m� t�i phải mang xiềng x�ch� (Pl I, 13, IV,22; Cv XXI. 17-XXVIII,31).

Trong thời gian n�y, th�nh Phaol� viết bốn Thư gởi gi�o đo�n Epheso. Colosse, Philip v� �ng Philemon. Th�nh t�ng đồ viết cho Epheso, nh�n l�c ở Tiểu � c� phong tr�o triết học ngoại gi�o muốn giải quyết những vấn đề li�n hệ đến Thi�n Ch�a v� vạn vật, g�y hoang mang về địa vị Ch�a Kit�. Trong phần t�n l�, t�c giả n�u cao chương tr�nh của Thi�n Ch�a, đặt Đức Kit� l�m trung gian để mọi người trở về với Người. Trong phần lu�n l�, th�nh nh�n khuy�n đo�n kết, cải thiện đời sống, v� n�u r� bổn phận vợ chồng, cha mẹ, con c�i... Viết cho th�nh Colosse t�c giả muốn đả ph� những dị đoan m� t�n, đồng thời đề cao địa vị Ch�a Kit� v� Gi�o hội của Người. C�n viết cho gi�o đo�n Philip l� để cảm ơn họ đ� gởi tiền gi�p đỡ m�nh, đồng thời khuy�n họ �t điều bằng những lời lẽ ch�n th�nh v� tha thiết. Bức thư viết cho Philemon tuy ngắn, nhưng h�m x�c ch�n l� nền tảng c�ng b�nh, b�c �i, x� hội.

Theo T�ng đồ C�ng vụ, th� sau 2 năm chịu giam giữ Phaol� đ� được tha. Vừa được ph�ng th�ch, Phaol� tiếp tục ngay c�ng việc truyền gi�o. Biết rằng đời m�nh sắp kết liễu bởi tay l� h�nh, ng�i cố gắng đi hết những phần đất c�n lại v� nhất l� thăm viếng một lần nữa c�c gi�o đo�n. Theo th�nh Clement�, chứng nh�n của thế kỷ I, v� nhiều gi�o phụ trong những thế kỷ sau, th� vị t�ng đồ D�n ngoại đ� thực hiện ước vọng đi truyền gi�o tr�n b�n đảo T�y Ban Nha (Rm XV 24). Trở lại Roma, th�nh nh�n đ� tham dự v�o việc viết Thư gởi gi�o đo�n Do Th�i. Đ�y l� một thi�n tiểu luận hay một b�i giảng, nhằm v�o những người Do Th�i di tản xa qu� hương, đ� theo đạo Ch�a Kit� từ l�u, nay bị c�m dỗ muốn quay lại lễ gi�o Do Th�i v� coi đ� như cần thiết để được cứu rỗi: �Ch�ng ta c� một b�n thờ, m� c�c kẻ phụng sự Nh� tạm kh�ng c� quyền ăn� (Dt XIII, 10).

Kế đấy, Phaol� nghĩ đến việc thăm c�c gi�o đo�n cũ. Đo�n truyền gi�o bắt đầu tới đảo Creta, Phaol� để Tit� lại đ�y coi s�c gi�o đo�n, rồi qua Mileto đến Epheso. Timothe� ở lại Epheso, c�n ng�i tiến l�n miền Bắc tới hải cảng Troas, rồi sang xứ Macedonia thăm Philip v� Berea. Trong thời gian tr�n đất Macedonia, th�nh t�ng đồ viết hai Thư, một cho Timothe� ở Epheso v� một cho Tit� ở Creta. C�ng với Thư thứ hai gởi Timothe�, người ta gọi l� những Thư mục vụ, hiến chương hoạt động t�ng đồ của bậc th�y để lại cho c�c m�n đệ.

M�a đ�ng năm 65, sự đi lại kh� khăn, Phaol� phải tạm tr� ở Nicopoli. L�c ấy cuộc b�ch hại của Neo ở Roma đang gắt gao v� tr�n đi c�c nơi, khiến th�nh t�ng đồ phải đề ph�ng sự theo d�i của người Do Th�i th� địch. Nhưng do sự chỉ điểm của t�n thợ đ�c Alexander (II Tm IV, 14), Phaol� bị bắt c� lẽ tại nh� �ng Carpus ở Troas, tr�n đường trở lại thăm viếng c�c gi�o đo�n một lần nữa. Từ đ�y th�nh t�ng đồ bị �p giải về Roma (m�a thu năm 60).

Ở Roma, gặp thời b�ch hại, Phaol� phải chịu cảnh giam cầm gh� sợ, chứ kh�ng được đối xử như lần trước. Ra t�a lần thứ nhất, t�i h�ng biện của ng�i đ� l�m cho bản �n được ho�n lại, như ng�i c� khoe với Timothe� trong Thư thứ hai. Đ� l� �ch�c thư� của Phaol� gởi Timothe�, người con y�u dấu. Th�nh t�ng đồ khuy�n Timothe� can đảm bảo vệ đo�n chi�n trong nhẫn nhục v� s�ng suốt, c�n ng�i đ� muốn d�ng c�i chết l�m lễ vật hy sinh. �Giờ chết của cha đ� gần, suốt đời cha đ� cương quyết chiến đấu cho Thi�n Ch�a. Cha đ� chạy tới đ�ch v� bảo vệ đức tin, chỉ c�n chờ l�nh triều thi�n bởi tay Đấng Thẩm ph�n ch� c�ng� (II Tm IV, 6-8).

Về �n tử h�nh v� c�i chết của th�nh t�ng đồ, kh�ng c� t�i liệu để lại. Ch�ng ta chỉ được biết qua lưu truyền: sau 9 th�ng chờ đợi, lần x�t xử thứ hai, Phaol� bị kết �n trảm quyết, nghĩa l� bị ch�m đầu theo sự đ�i hỏi của quyền c�ng d�n Roma. Th�nh nh�n bị h�nh quyết tr�n con đường đi Ostia (c�ng ng�y hoặc trước th�nh Pher� một ng�y) tại một nơi nay gọi l� Tre-Fontane. Gi�o d�n ch�n t�ng th�nh t�ng đồ tr�n khu đất của b� Lucina, l� nơi hiện nay một th�nh đường lớn đ� được x�y cất, tức đền Th�nh-Phaol� ngoại th�nh.

 
III

TH�NH PHER� LẬP T�A Ở ROMA

V� HOẠT ĐỘNG CỦA C�C T�NG ĐỒ KH�C


1. Th�nh Pher� từ Gierusalem đến Roma

Ngay từ khi Gi�o hội được th�nh lập ở Gierusalem, Pher� đ� � thức tr�ch nhiệm Ch�a đặt l�m đầu. �ng nắm giữ địa vị quan trọng trong tổ chức t�ng đồ v� trong c�ng đồng d�n Ch�a. Tr�n đ�y, ch�ng t�i đ� n�i đến hoạt động truyền gi�o của ng�i tại Judea v� Samaria kể từ ng�y Ch�a Th�nh Thần hiện xuống cho tới khi rời bỏ Gierusalem (năm 44), do cuộc b�ch hại của Agrippa I. S�ch T�ng đồ C�ng vụ kể rằng: �Sau khi được cứu tho�t khỏi ngục, Pher� đ� đi nơi kh�c� (XII, 17).

Pher� đi đ�u ? L�c ấy gi�o đo�n Antiokia đ� th�nh h�nh, v� Barnab� được sai tới đ� để tổ chức. C� lẽ Pher� đến Antiokia v�o thời kỳ n�y, ng�i chuyển T�a từ Gierusalem đến đ� [4]. Gi�o hội từ th�nh th�nh mở rộng sang c�c v�ng Judea, Samaria, Galilea, đến l�c cần phải đi xa hơn: Antiokia sẽ l� điểm xuất h�nh c�c cuộc truyền gi�o v�o những v�ng ảnh hưởng Hy Lạp, rồi sang tận Roma. Ở Antiokia �t l�u, Pher� đặt một vị t�n l� Evodes thay ng�i, tiếp theo Evodes l� th�nh Ignati� tử đạo (110). Th�nh t�ng đồ đi đ�u?

Sử gia Eusebius cho rằng ng�i đi lập nhiều gi�o đo�n ở v�ng Cappadocia, Ponto, Bithynia, Galatia v� Asia, nghĩa l� ở miền Bắc Tiểu � [5].1 Cũng thời điểm n�y, người ta c�n nhớ Barnab� v� Phaol� thực hiện chuyến đi lần thứ nhất truyền gi�o trong v�ng Pamphylia, Pisidia v� Lycaonia thuộc miền Nam.

Căn cứ v�o Thư th�nh Phaol� gởi gi�o đo�n Corint� để d�n xếp những chia rẽ do ba phe đối lập: Phaol�, K�pha (tức Pher�) v� Apollo (I Cr I, 12) th� người ta cho rằng Pher� đ� qua Corint� trước khi tới Roma. Thế kỷ II, trong Thư gởi cho gi�o d�n Roma, th�nh Đionisi� (166-174) gi�m mục Corint� cũng quả quyết gi�o đo�n n�y do hai t�ng đồ Pher� v� Phaol� th�nh lập.

Pher� đến Roma v�o năm n�o ? Kh�ng c� sử liệu n�o cho biết chắc. C�c sử gia thời thượng cổ chỉ tin rằng th�nh Pher� đ� điều khiển gi�o đo�n Roma suốt 25 năm. Như vậy c� n�n kết luận rằng: Pher� c� mặt ở Roma từ năm 42 kh�ng ? Một điều chắc chắn l� v�o khoảng năm 44, Pher� mới đi khỏi Gierusalem v� năm 49, lại c� mặt ở Gierusalem chủ tọa c�ng đồng. C� sử gia cho rằng sau khi đi khỏi Gierusalem v�o năm 44, th�nh Pher� qua Antiokia, rồi sang Roma, rửa tội cho nhiều người trong số ấy c� gia đ�nh �ng b� Aquila v� Priscilla, v� tổ chức một gi�o đo�n kh� lớn ở đ�, song chỉ được mấy năm, vị t�ng đồ phải đi khỏi do lệnh ho�ng đế Claudius trục xuất người Do Th�i v�o khoảng năm 46. Nhưng lại c� � kiến kh�c cho rằng, thời ấy nhiều gi�o đo�n chỉ được một vị t�ng đồ ở xa điều khiển. Nếu Th�nh Phaol�, đang khi ở Epheso vẫn điều khiển hai gi�o đo�n Philip v� Thessalonic m� kh�ng cần nhờ đến vị n�o kh�c, th� đ� cũng l� trường hợp th�nh Pher�, tuy c�n ở trong xứ Judea ng�i cũng c� thể điều khiển gi�o đo�n Antiokia, Bithynia v� Roma nữa. Theo � kiến n�y, th� th�nh Pher� chỉ tới đế đ� sau năm 50, nghĩa l� khoảng từ năm 42 đến 54.

Kh�ng c� t�i liệu n�o cho ch�ng ta biết những chi tiết về nguồn gốc gi�o đo�n Roma, khi ấy �t l� gồm những người Do Th�i đ� được ơn trở lại từ ng�y Ch�a Th�nh Thần hiện xuống ở Gierusalem, gia đ�nh sĩ quan Cornelius, �ng Andronicus v� b� Junia �l� những người đ� thuộc về Ch�a Kit� trước Phaol�� (Rm XVI, 7). Sử gia Sueto cho ch�ng ta hay: dưới triều Claudius (41-54) v�o khoảng năm 45-46, c� những cuộc tranh luận rất s�i nổi giữa cộng đo�n Do Th�i tại Roma về vấn đề �một người t�n l� Chrestos�, v� từ đấy một khủng hoảng xảy ra [6]. Kế đ� l� chiếu chỉ nh� Vua đ�i trục xuất hết người Do Th�i ra khỏi đế đ�, Corint� l� nơi đ�n nhận rất nhiều người tị nạn từ Roma đến, trong đ� c� gia đ�nh �ng b� Aquila v� Priscilla.

Nhưng vấn đề cần biết l� tại sao Pher� đặc biệt chủ � đến Roma, v� lập gi�o đ� ở đ�y. Trước hết l� v� t�m l� của gi�o d�n tại đế đ� �ớc ao được li�n lạc với những người c� bảo đảm nhất về gi�o l� của Ch�a, do đ� họ tự nhi�n hướng về nh�n vật đ� được Th�y ch� th�nh chỉ định đ�ch danh l�m Chủ chăn v� Thủ lĩnh. Gi�o d�n Roma khi ấy phần lớn l� người gốc Do Th�i, nhưng từ khi họ định cư tr�n đất � Đại Lợi, họ đ� biết �tư tưởng theo người Roma�. Ch�nh v� để l�m vừa l�ng mong ước của gi�o đo�n n�y m� Pher� bỏ Antiokia để quyết định lập T�a ở Roma. Hơn nữa, Roma bấy giờ l� kinh đ�, lẽ đương nhi�n c� tầm quan trọng về ch�nh trị, nơi tập trung mọi hoạt động quốc gia, do đấy c� thể g�p phần n�o cho sự b�nh trướng ảnh hưởng của Gi�o hội, hết mọi gi�o hữu v� l� do ch�nh trị, tư ph�p hay thương mại m� Phải đến Roma, đều c� dịp được tiếp x�c với vị l�nh đạo tinh thần tối cao tại đế đ�. Roma v� vậy được chọn để trở n�n nơi qua lại v� gặp gỡ giữa nhiều gi�o đo�n. Nhưng trước khi n�i đến việc th�nh Pher� lập T�a v� tử đạo ở đ�y, ch�ng ta dừng lại để t�m hiểu Roma v� đế quốc thời Gi�o hội khai nguy�n n�y.

Roma được th�nh lập năm 754 trước Ch�a Gi�ng sinh, do một nh�m người thuộc bộ lạc Latium v� Sabina. Dần dần họ l�m chủ cả � Đại Lợi, đương đầu với cường quốc thời đ�, chiếm Carthago (Bắc Phi), Macedonia, Gallia... Trong hai thế kỷ đầu (754-509), Roma tổ chức h�nh ch�nh theo ch�nh thể qu�n chủ tuyển cử, với �ng vua đầu ti�n l� Romulus (754-715), rồi hơn bốn thế kỷ sau (509-46) đổi sang ch�nh thể cộng h�a qu� tộc. Năm 46, Julius Cesar nắm ch�nh quyền lập chế độ qu�n chủ độc t�i, tự xưng ho�ng đế. �ng bị �m s�t chết năm 44. Octavius l�n kế vị l� người c� t�i nhưng đầy tham vọng, từng bước �ng chiếm quyền tối cao qu�n sự, h�nh ch�nh v� t�n gi�o. Năm 27, thượng viện t�n phong �ng l�m ho�ng đế (Augustus), từ đ� ng�i ho�ng đế được thần th�nh h�a, v� cũng nhờ đấy đế quốc trở n�n vững mạnh, h�ng cường v� thống nhất. Việc t�n s�ng ho�ng đế l�n tột điểm dưới thời Trajanus (98-117), rồi trở th�nh chuy�n chế dưới thời Septimus-severus (193-211).

Đấy l� ở đế đ�, c�n ở c�c tỉnh thuộc địa, ch�nh s�ch của người Roma l� t�n trọng tổ chức h�nh ch�nh v� tập tục x� hội của mỗi d�n tộc. C�c nh�n vi�n h�nh ch�nh được chọn lựa trong h�ng qu� tộc, họ rất trung th�nh với Ho�ng đế. B�n cạnh c�n c� một lực lượng qu�n sự h�ng hậu, kỷ luật chặt chẽ, chiến thuật kh�n ngoan v� con số rất đ�ng. Về phương diện kinh tế, c�ng với việc mở rộng bờ c�i, Roma bước v�o một thời cường thịnh: chiến lợi phẩm, nguồn lợi thi�n nhi�n v� thuế m� từ c�c thuộc địa đưa về. Ho�ng đế c�n t�m c�ch thu quyền thương mại v�o tay người Roma, mở c�c thị trường ti�u thụ nhất l� lặp ra nhiều trục giao th�ng, đ� thị v� trung t�m thương mại.

Trong suốt hai thế kỷ đầu sau Ch�a Gi�ng sinh, đế quốc Roma tiếp tục sống trong thời kỳ huy ho�ng v� cực thịnh. Đế quốc l�c đ� chiếm 1/4 thế giới đ� được kh�m ph�, diện t�ch ước chừng ba triệu c�y số vu�ng với một số d�n tr�n 60 triệu, hầu hết ở vừng xung quanh Địa Trung Hải. Nhưng t�nh trạng x� hội v� t�n gi�o rất tồi tệ. Nhiều tiền lắm của, người Roma dần sa v�o cuộc sống ăn chơi ph�ng t�ng. Sự d� man của chế độ n� lệ l�n tới tột độ: Scaurus nhạc phụ của Sylla c� tới 8.000 n� lệ. Đời sống gia đ�nh trước kia được t�n trọng, gi�o dục con c�i được bảo đảm, nay bị đe dọa v� ảnh hưởng văn h�a đồi bại của ngoại lai: ph�ng t�ng d�m dật. C�ng với c�c chiến lợi phẩm thu được, đo�n qu�n viễn chinh đ� đưa về Roma những tượng thần với đủ thứ thần thoại, th�m v�o đ� những lối thờ c�ng m� t�n dị đoan v� d�m dật: thần Isidis với Asiridis của Ai Cập, thần Cybela với Attidis của Phrygia, thần Mithra của Persia, thần Baal của Syria..., khiến Octavius-Augustus lập đền Pantheon để thờ c�c thần.

Đ� l� t�nh trạng đế quốc Roma, khi Pher� tới đế đ�.


2. Th�nh Pher� lập T�a ở Roma v� tử đạo ở đ�y

Đế đ� Roma hồi đ� d�n số c� tới một triệu người. Tất cả mọi chủng tộc trong đế quốc đều c� mặt ở đ�y. Nhưng nổi bật hơn cả vẫn l� d�n Do Th�i, v� bất kỳ ở đ�u họ sống đ�ng k�n v� biệt lập, tuy con số của họ chỉ từ 40 đến 50 ng�n. Họ c� chừng 10 gi�o đường v� nhiều nghĩa trang ri�ng. Phần lớn sống b�n kia s�ng Tiber, c�n th� rải rắc ở c�c khu Capena, Suburo, Marzo, v� phần đ�ng sống về nghề bu�n b�n, đổi ch�c. Cũng như hầu hết ở c�c đ� thị kh�c, gi�o đường Do Th�i được chọn l�m cơ sở đầu ti�n để gieo mầm Ph�c �m. Trong s�ch T�ng đồ C�ng vụ (II, 10), khi n�i đến c�c gi�o d�n ti�n khởi ở Gierusalem, đ� nhắc đến một số người Do Th�i từ Roma tới. Trở về, chắc chắn họ đ� truyền gi�o cho người đồng hương của m�nh. V� thế khi th�nh Pher� tới Roma đ� c� sẵn một số gi�o d�n, v� chiếu chỉ Claudius (46) trục xuất người Do Th�i minh chứng lực lượng v� con số kh� đ�ng của gi�o đo�n n�y.

Lệnh trục xuất sau một thời gian đ� được nới rộng v� người Do Th�i lần lần trở về. Đời sống gi�o d�n Roma trở lại như xưa. Kh�ng c� t�i liệu n�o n�i th�nh Pher� tới đế đ� v�o năm n�o sau C�ng đồng Gierusalem (49). Ch�ng ta chỉ biết chắc rằng sau C�ng đồng, Pher� c� qua Antiokia v� tại đ�y xảy ra truyện Phaol� phản đối Pher� (Gl II, 11-15). Theo như C�ng đồng Gierusalem dạy v� vị t�ng đồ trưởng c�ng bố, th� con người được c�ng ch�nh h�a nhờ đức tin chứ kh�ng do những việc l�m theo luật Mai sen, như �cắt b� hay tu�n giữ c�c nghi lễ. Nhưng hồi đ� nh�m D�n Th�i thủ cựu c�n mạnh lắm, khiến th�nh Pher� phải c� một th�i độ d� dặt. Khi mới đến Antiokia, Pher� ngồi ăn c�ng b�n với anh em d�n ngoại. Nhưng từ khi c� một số người thủ cựu ở Gierusalem tới, Pher� đổi th�i độ v� kh�ng ngồi ăn với anh em d�n ngoại nữa. Cho rằng l�m như thế l� �kh�ng thẳng thắn� v� c� thể đưa đến kết quả tai hại, Phaol� �chỉnh Kepha (Pher�) trước mặt mọi người�. Pher� b�nh tĩnh nhận lỗi v� tỏ ra kh�n ngoan, n�n kh�ng c� truyện g� đ�ng tiếc xảy ra [7].

Sau c�u truyện ở Antiokia, Pher� đi đ�u? Ch�ng ta kh�ng biết r�; nhưng chắc chắn l� khi viết hai Thư gởi c�c gi�o đo�n ở Ponto, Cappadocia, Galatia, Asia, Bithynia, th� Pher� đang ở Roma v� Marc� cũng đang sống với ng�i. Trong hai Thư, mở đầu t�c giả tự xưng l� Pher�, t�ng đồ Ch�a Kit�. Ở cuối Thư I (V, 13) ng�i cho biết l� Thư viết từ Babylon, tức kinh th�nh gi�o d�n thời đ� quen �m chỉ đế đ� Roma tội lỗi. Nhiều nh� ch� giải Th�nh Kinh căn cứ v�o bản văn cho rằng hai bức Thư viết v�o năm 64, ngay trước chiếu chỉ cấm đạo của Nero được ban h�nh. Mục đ�ch Thư thứ nhất l� để an ủi c�c gi�o đo�n trong cơn thử th�ch. Thư thứ hai viết theo sau, để trả lời những thắc mắc về ng�y thế mạt v� khuy�n gi�o d�n đề ph�ng những ng�n sứ giả. Ch�ng ta cũng kh�ng qu�n l� Marc� đ� cho ra đời cuốn Ph�c �m v�o thời kỳ n�y, theo Clement� th�nh Alexandria (150-215) th� Ph�c �m đ� l� của Pher� đ� giảng ở Roma.

Th�ng 8 năm 64, cuộc b�ch hại của Nero bắt đầu. Th�nh Pher� kh�ng khỏi đau l�ng v� lo ngại, nhất l� t�nh trạng yếu k�m của một số người chối bỏ Ch�a. Quan niệm rằng đo�n chi�n mất chủ chăn sẽ tan r�, n�n cần phải bảo vệ sự sống m�nh v� đo�n chi�n, Pher� quyết định đi khỏi Roma t�m nơi tr� ẩn. Nhưng tr�n đường Appia, gần cửa Capena, th�nh nh�n gặp Ch�a, liền hỏi �Lạy Ch�a, Ch�a đi đ�u?�. Ch�a trả lời: �Ta đi đ�u �? Ta đến Roma để chịu đ�ng đinh lần nữa�. Hiểu � Ch�a, Pher� trở lại để tử đạo.[8]

Năm ấy 64, Pher� bị bắt v� bị tống giam. Nh� ngục Tullianum ở Roma l� một hầm dưới đất chỉ c� một lỗ hổng ở tr�n n�c v�m. Theo lưu truyền, Pher� đ� cảm h�a hai người l�nh canh ngục t�n l� Processus v� Martinianus; cả hai được rửa tội v� tử đạo. Cuối c�ng, v� kh�ng c� quốc tịch Roma, th�nh t�ng đồ bị kết �n tử h�nh thập �c. Bị dẫn đến h� trường Caligula tr�n đồi Vatican, tr�ng thấy thập gi�, Pher� cảm thấy m�nh kh�ng xứng đ�ng được chết như Th�y m�nh, đ� y�u cầu cho được đ�ng đinh ngược. Pher� chết, Lin� l�n kế vị v� ng�i Gi�o ho�ng tiếp tục cho tới ng�y nay. [9]

Sau khi chết, thi h�i th�nh Pher� được ch�n t�ng trong một nghĩa trang gần nơi xử, tức chỗ x�y cất Đền Th�nh Pher� ng�y nay tr�n đồi Vatican. Năm 258, chiếu chỉ Valerianus đe dọa c�c nghĩa trang Kit� gi�o, người ta đem x�c th�nh giấu trong hang toại đạo tr�n đường Appia. Khi cơn b�ch hại lắng dịu, gi�o d�n lại đưa h�i cốt ng�i về nơi cũ [10].1 Sau khi Constantinus Cả ra chiếu chỉ tha đạo (313), đức Th�nh Cha Silvestr� được ho�ng đế gi�p thiết lập một đại th�nh đường ngay tr�n mộ th�nh t�ng đồ (Confessio).


3. Hoạt động của c�c t�ng đồ kh�c

Gi�o hội nguy�n thủy ở Gierusalem, trong thời gian bị b�ch hại, đ� b�nh trướng khắp Palestina v� Syria. Trong khi Phaol� đi s�u v�o lục địa Tiểu �, th� th�nh Pher� tổ chức gi�o đo�n Roma v� lập T�a th�nh tại đế đ�. Đ� l� c�ng tr�nh sự nghiệp của hai đại th�nh t�ng đồ, những hoạt động của c�c t�ng đồ kh�c kh�ng phải l� kh�ng kết quả hay kh�ng đ�ng để �.

Trước hết, phải kể th�nh Gioan, vị t�ng đồ Ch�a y�u. Trong những năm đầu, ng�i lu�n sống b�n cạnh Đức Maria. Khi Đức Mẹ về Trời, th�nh nh�n qua truyền gi�o ở miền Asia (Tiểu �) v� đặt trụ sở ở Epheso, huấn luyện được nhiều m�n đệ, trong số đ� c� Papias gi�m mục th�nh Smyrna. Dưới triều đại Domitianus (81-96), th�nh t�ng đồ bị bắt đưa sang Roma. Bị kết �n tử h�nh v� để gi�o d�n khiếp sợ người ta n�m vị t�ng đồ v�o vạc dầu s�i ở cửa Latina, nhưng Ch�a g�n giữ th�nh nh�n v� sự. Sau đ�, ng�i bị lưu đ�y sang đảo Patmo (95). Ở đ�y, được ơn mạc khải về tương lai, th�nh t�ng đồ viết cuốn Khải huyền. Ng�i c�n viết nhiều Thư gởi c�c gi�o đo�n Đ�ng phương l�c đ� đang bị nhiều t� thuyết ph� hoại. Bức Thư thứ nhất quan trọng v� d�i hơn cả, văn thể giống cuốn Ph�c �m thứ bốn, mục đ�ch khuy�n gi�o d�n đề ph�ng c�c lạc thuyết v� an ủi họ trong cơn b�ch hại. Năm 96, th�nh nh�n được trở về Epheso v� c� lẽ v�o thời kỳ n�y ng�i cho ra đời cuốn Ph�c �m IV, Ph�c �m t�nh y�u. Th�nh nh�n qua đời khoảng năm 100.

Sau Gioan, phải kể đến Giacob� Tiền. Trong đời Ch�a, th�nh nh�n đ� được c�ng với Pher� v� Gioan chứng kiến ph�p lạ l�m cho con b� Jaira sống lại, được thấy Ch�a hiện ra tr�n n�i Tabor v� cơn hấp hối của Ch�a trong vườn Gietsimani. Khi Agrippa b�ch hại đạo, th�nh t�ng đồ bị bắt giam, v� chịu trảm quyết v�o dịp lễ �Ngũ tuần� năm 42. C�n Giacob� Hậu, ngay từ đầu đ� được đặt tr�ng coi gi�o đo�n Gierusalem. Theo lưu truyền, ng�i sống đời chay lạt h�m m�nh rất nhiệm nhặt. Năm 62, th�nh nh�n bị người Do Th�i x� đẩy từ tr�n cao xuống v� n�m đ� chết. Th�nh nh�n c� để lại một Thư viết (50-58) cho người Do Th�i trở lại sống trong c�c khu ph�n t�n. Đ� l� một b�i giảng dạy lu�n l�, đề cao đức kh� ngh�o, cảnh b�o người gi�u c� v� nhấn mạnh đến việc bố th�, đề ph�ng một đức tin kh�ng việc l�m, v� gọi n� l� đức tin chết.

C�n c�c t�ng đồ kh�c, khi cuộc b�ch hại b�ng nổ năm 42, đ� bỏ Gierusalem đi truyền gi�o mỗi người mỗi nơi. Theo lưu truyền, Simon v� Giuđa cũng gọi l� Thađe�, anh em với Giacob� Hậu, cả hai ban đầu truyền gi�o tại những v�ng kh�c nhau: Simon ở Ai Cập Giuda ở Mesopotamia; sau đấy gặp nhau ở Persia v� tử đạo ở đ�. Giuda cũng đề lại một Thư viết v�o khoảng năm 70-80, khuy�n gi�o d�n xa tr�nh những ti�n tri v� tiến sĩ giả. Th�nh Matthe�, sau khi viết Ph�c �m I bằng tiếng Aram [11] khoảng năm 50, theo Rufinus, ng�i đi truyền gi�o trong xứ Ethiopia (ch�u Phi) v� được ph�c tử đạo v� b�i giảng về đức đồng trinh. Philiph� giảng Tin Mừng cho v�ng Phrygia v� nhiều nơi ở Tiểu �, tử đạo tại Hierapoli. Anr� ở Scythia, Ponto v� nhất l� ở Akaia, bị đ�ng đinh ở Patras, Bartholome� xuống miền Nam Ả Rập rồi l�n Armenia, tử đạo ở Albanopoli: c� người cho rằng bị ch�m đầu, người kh�c n�i bị lột da v� đ�ng đinh. Matthias truyền gi�o cho Persia v� Mesopotamia. C�n th�nh Thomas đi xa hơn, sau một thời gian ở Partha, Assyria, Mesopotamia, đ� sang tận Ấn Độ v� bị giết ở Meliapour (Nam Ấn).

Barnab� cũng được gọi l� t�ng đồ như đồng bạn Phaol�. Sau khi bỏ Phaol�, th�nh nh�n nhận việc truyền gi�o tr�n đảo Cypro v� tử đạo ở đấy. Trong số c�c m�n đệ phải n�i đến Marc�, Luca, Timothe� v� Tit�. Marc� đ� cộng t�c với Barnab� v� Phaol� trong chuyến đi truyền gi�o thứ nhất. Sau đ�, người ta thấy Marc� ở Roma với Pher�, viết Ph�c �m II v� cộng t�c với Phaol� trong thời gian bị giam ở đế đ�. Bỏ Roma, Marc� đi Ai Cập, lập gi�o đo�n Alexandria v� chết v� đạo ở đấy. Luca, cộng từ vi�n của Phaol� trong chuyến đi truyền gi�o lần thứ hai v� ba, cũng như trong hai lần bị bắt giam. Ng�i viết Ph�c �m III v� cuốn T�ng đồ C�ng vụ. Sau khi Phaol� tử đạo, Luca đi truyền gi�o trong xứ Akaia v� chết v� đạo ở đấy Timothe�, người con y�u dấu của Phaol�, được trao cho nhiều nhiệm vụ v� lu�n sống b�n cạnh ng�i. Được đặt l�m gi�m mục Epheso, theo lưu truyền nh�n một ng�y lễ tế thần, Timothe� bị người ngoại gi�o l�i qua c�c phố v� n�m đ� chết năm 97. Tit� cũng l� con y�u dấu của Phaol� v� được đặt l�m gi�m mục ở đảo Creta. Người ta kh�ng biết Tit� chết ở đ�u v� năm n�o.

C�c t�ng đồ v� c�c m�n đệ của Ch�a hầu hết đ� lấy m�u đ�o minh chứng cho đức tin. Những lời giảng dạy của c�c �ng nhiều điều kh�ng được ghi lại, nhưng đ� được lưu truyền trong Gi�o hội, m� chứng nh�n trực tiếp l� c�c gi�o phụ thời sứ đồ, như th�nh Gi�o ho�ng Clement� (92-101), th�nh Ignati� th�nh Antiokia (110), th�nh Polycarp� (155), c�ng nhiều t�c phẩm v� thư từ.[12]


4. Gi�o hội ph�i thai t�ch biệt khỏi hội đường Do Th�i

Năm 44, Agrippa người b�ch hại Gi�o hội chết một c�ch th� thảm, do vi tr�ng đục kho�t loang lở đầy m�nh. Palestina trở lại chế độ to�n quyền Roma. Cuspius Padua ra lệnh ngưng cuộc b�ch hại. Hồi đ�, đế quốc chưa c� th�i độ th� nghịch Gi�o hội, họ coi Kit� gi�o như những t�n gi�o kh�c, cần được bảo vệ v� d�nh quyền tự do. Bởi đấy, mỗi khi người Do Th�i muốn bắt bớ v� l�n �n một người Kit� hữu phải qua tay nh� cầm quyền, như trường hợp th�nh Phaol� (57-59), hoặc lợi dụng t�a to�n quyền trống ng�i, như vụ giết th�nh Giacob� Hậu (62) do th�y cả thượng phẩm Anano.

Đ� đến l�c Lời Ch�a ti�n b�o về số phận Gierusalem phải thực hiện. Kh�ng chịu được lối cai trị qu� độc đo�n v� nghi�m khắc của vi�n to�n quyền Gesse Flori, năm 66 d�n Do Th�i nổi loạn. Nhớ lời Ch�a, gi�o d�n Gierusalem trốn sang tỉnh Pelia, b�n kia s�ng Jordan, khu vực kiều d�n Hy Lạp, gi�o đo�n mới th�nh lập do Simeon em Giacob� Hậu điều khiển.

Ho�ng đế Nero (54-68) sai tướng Vespasianus sang dẹp loạn. Năm 69 Vespasianus l�n ng�i ho�ng đế (69-79) sai con l� Titus tiếp tục c�ng việc, năm 70 Gierusalem bị bổ v�y. Trong 7 th�ng, theo Flavius Josephus c� hơn một triệu người chết đ�i, chết dịch, chết ch�y hoặc bị giết, chỉ c�n 97.000 người sống s�t bị b�n l�m n� lệ; Đền th�nh bị thi�u hủy. Nhưng mấy chục năm sau, d�n Do Th�i lấy lại lực lượng v� nổi dậy một lần nữa. Năm 112, ho�ng đế Trajanus (98-117) sai qu�n sang dẹp. Nhưng năm 132, Bar Kabeba tự xưng l� Đấng Cứu Thế, chiếm lại Gierusalem, tuy�n bố Do Th�i độc lập. Ho�ng đế Hadrianus (117-138) phải xuất đại qu�n với nhiều tướng t� t�i giỏi, dầu vậy m�i 3 năm sau mới hạ được th�nh th�nh. Tr�n nửa triệu người bị giết, một số lớn bị b�n l�m n� lệ. Gierusalem biến th�nh một đ� thị ngoại gi�o, ngay tr�n khu Đền th�nh xưa, người Roma cho x�y cất một ng�i ch�a thờ thần Jovis.

Đối với người Do Th�i, Đền th�nh l� trung t�m t�n gi�o, nung nấu l�ng tr�ng đợi Đấng Cứu Thế m� Thi�n Ch�a đ� hứa với d�n tộc họ. Ch�a Cứu Thế đ� đến, Đền th�nh bị ph� hủy, như vậy địa vị của d�n Do Th�i chấm hết, đồng thời cắt đ�t những li�n lạc c�n lại giữa Kit� gi�o v� Do Th�i gi�o: từ đ�y Gi�o hội ph�i thai t�ch biệt khỏi hội đường Do Th�i. Đ�ng kh�c, khi Đền th�nh bị ph� hủy, Pher� đ� lập thủ d� Gi�o hội ở Roma, v� Phaol� đ� đem rất nhiều phần tử d�n ngoại v�o Gi�o hội, họ chiếm phần đa số. X�t về con số cũng như l�nh thổ, Gi�o hội vượt ra ngo�i giới hạn Do Th�i gi�o để vươn m�nh đi khắp nơi theo � muốn của Đấng S�ng lập.

Từ hạ b�n thế kỷ I sang thế kỷ II, gi�o d�n rải rắc khắp đế quốc. Nhất l� ở Tiểu � v� Syria, Kit� gi�o kh�ng những c� mặt tại c�c đ� thị lớn như Antiokia, Epheso, Smyrna, Mileto, Troas, m� c�n ở cả những v�ng qu�. Ri�ng trong xứ Bithynia, Kit� gi�o mở rộng khắp nơi, đến độ c�c ch�a chiền kh�ng c�n ai lui tới, c�c lễ nghi thần gi�o t�n dần, khiến c�c l�i bu�n s�c vật d�ng v�o việc tế thần căm giận v� mất thị trường ti�u thụ.[13] Ở �u ch�u, ngo�i những gi�o đo�n nổi tiếng như Philip, Thessalonic, Corint�, c�n c� nhiều gi�o đo�n tr�n đất � Đại Lợi như Dyrrakio, Brinsidi, Puteolo, Ostia, Pompeia, Syracusa v� nhất l� Roma. Xa hơn nữa, phải kể đến những gi�o đo�n Tarragona, Carthagena xứ T�y Ban Nha; Nar�bonne, Arles, Marseille, Lyon xứ Gallia.[14] Ở phi ch�u, gi�o đo�n Alexandria, Ai Cập thời danh hơn cả, rồi đến Carthago, Cyr�ne... Nhưng Gi�o hội, ngay từ cuối thế kỷ I, c�n vượt ra ngo�i ranh giới đế quốc v� c� mặt, tại c�c xứ Partha, Armenia, Scythia, Mesopotamia, Assyria, Ả Rập, Persia, Ấn Độ, Ethiopia...

Phần lớn gi�o d�n thời ph�i thai ở Palestina cũng như ở c�c nơi kh�c sống cuộc đời khi�m tốn, phải l�m mới c� ăn, v� thường chuy�n nghề tay ch�n như dệt dạ, thuộc da, k�o tơ, nhuộm vải, r�n đ�c, trồng trọt... [15] Bấy giờ chế độ n� lệ h�y c�n, nhưng sống rải r�c nhiều nơi, nhất l� ở đ� thị, họ được chủ trả tự do dần dần; nhiều người được ph�ng th�ch v� được những gia đ�nh giầu c� th�u dụng v�o việc giữ nh�, lau qu�t hoặc sai khiến lặt vặt.

Tuy nhi�n, cũng kh�ng thiếu những th�nh phần qu� tộc trong c�c gi�o đo�n. Th�nh Luca thuật lại việc: �những b� qu� ph�i� theo đạo ở Berea. Nhiều người gi�u sang thuộc gi�o đo�n Conrint�, Epheso, Laodicea (Kh XXI, 17). Aquila v� Priscilla bấy giờ cũng l� d�n c� nhiều tiền. Kit� gi�o c�n len lỏi cả v�o h�ng qu� tộc v� ho�ng tộc nữa. Dưới triều Nero, năm 57 Pomponia Grecina, phu nh�n một danh tướng bị tố c�o l� �tin theo dị đoan ngoại quốc�. Bị dẫn ra t�a, b� được tuy�n bố v� tội, nhưng rồi b� phải sống c� đơn lam lũ vất vả suốt đời. Aciilus Glabrius, chấp ch�nh quan (consul) năm 91, l� một trong những vị �n nh�n của gi�o đo�n Roma. Nhiều anh em họ của Domitianus, như chấp ch�nh quan Flavius Clemens v� phu nh�n Domitilla c�ng hai con, năm 95 bị c�o về hai tội �v� thần v� theo phong tục Do Th�i�. [16] Tư thất của những anh em giầu sang v� quyền thế n�y thường được d�nh l�m nơi cử h�nh c�c lễ nghi phụng vụ v� tổ chức tiệc huynh đệ. Họ d�ng c�ng đất đai chắn Gi�o hội d�ng l�m nghĩa trang, như hang Toại đạo Priscilla của gia đ�nh Glabrius, hang Toại đạo Domitilla tr�n l�nh thổ nh� Flavius, hang Toại đạo Calixtus ở đại lộ Appia thuộc gia tộc Cecilius ...

Như vậy, Kit� gi�o ngay từ đầu kh�ng phải l� t�n gi�o ri�ng của một d�n tộc hay giai cấp n�o. Trong lễ nghi phụng vụ cũng như khi ban ph�t c�c b� t�ch, n� kh�ng kỳ thị ai, kh�ng biệt đ�i người giầu sang, v� c�c gi�m mục thường xuất th�n từ những gia đ�nh b�nh d�n. Trong c�c bữa ăn chung, n� khuy�n những người may mắn hơn h�y sống tiết độ, d�nh của ph�n ph�t cho c�c anh em, tức những �chi thể Ch�a Kit��, m� hết mọi người, kh�ng trừ ai, c� nhiệm vụ thương gi�p t�y theo khả năng của mỗi người.


IV

MỘT ĐỨC TIN, MỘT PHƯỢNG TỰ, MỘT QUYỀN B�NH


1. Đức tin, c�i hồn của Kit� gi�o

T�n gi�o n�o cũng c� những điều phải tin. Bởi v� t�n gi�o l� g� ? Nếu kh�ng phải l� mối tương quan giữa con người với Thượng Đế Đấng Cao cả hay Thần th�nh n�o đ�? M� đ� n�i tới Thượng Đế hay Thần th�nh l� phải chấp nhận những sự xem chẳng thấy, suy kh�ng thấu. Bởi thế cần phải tin. Vậy từ thuở ban đầu, người Kit� hữu đ� tin g� ? Chắc chắn, họ tin c� một Thi�n Ch�a duy nhất. Nhưng c�n tin g� nữa ? Lần giở những t�i liệu cổ k�nh, gi� trị nhất như Ph�c �m thư, T�ng đồ C�ng vụ..., người ta sẽ thấy đối tượng niềm tin của họ.

Thật vậy, đức tin của họ đặc biệt hướng về Đức Gi�su Kit�, Đấng do Thi�n Ch�a sai đến để mang Tin Mừng cho mu�n d�n. Đấng sinh l�m người, l�m nhiều ph�p lạ, chịu chết nhục nh�, rồi sống lại vinh quang, l�n Trời ngự b�n hữu Đức Ch�a Cha. Th�nh Pher� đ� c�ng khai tuy�n xưng v� rao giảng đức tin ấy trước c�ng ch�ng đ�ng đảo như sau: �C�c �ng biết điều đ� xảy ra trong to�n c�i Juđea, bắt đầu từ Galilea, sau khi Gioan rao giảng ph�p Rửa. Đức Gi�su người th�nh Nazaret, ch�nh l� Đấng Thi�n Ch�a đ� xức dầu bằng Th�nh Thần v� quyền năng. Người đ� đi khắp nơi thi �n gi�ng ph�c v� chữa l�nh mọi kẻ bị quỉ �p bức thống trị, v� Thi�n Ch�a ở c�ng Người. Ch�ng t�i đ�y đ� được chứng kiến hết mọi việc Người đ� l�m trong xứ sở Do Th�i v� ở Gierusalem, Đấng m� họ đ� giết treo tr�n thập gi�. Ch�nh Người, Thi�n Ch�a đ� l�m cho sống lại ng�y thứ ba, v� đ� hiện ra kh�ng phải với to�n d�n nhưng với ch�ng t�i l� những người được Thi�n Ch�a chọn từ trước, để l�m chứng nh�n; ch�ng t�i d� được ăn uống với Người sau khi bởi kẻ chết sống lại. Hơn nữa, Người c�n truyền ch�ng t�i phải rao giảng cho d�n ch�ng v� chứng thực rằng: Ch�nh Người l� Đấng Thi�n Ch�a đ� t�n l�n l�m quan �n x�t xử người sống v� kẻ chết. Người l� Đấng c�c ti�n tri đ� tuy�n xưng rằng: ai tin Người sẽ được ơn tha tội nh�n danh Người� (Cv X, 37-43).

Người Kit� hữu c�n tin Ch�a Gi�su l� Vua v� l� Đấng Cứu chuộc mu�n d�n: �Thi�n Ch�a đ� d�ng quyền ph�p m� t�n Người l�n l�m Vua, l�m Đấng Cứu Thế�' (Cv V, 32). �Người l� �nh vinh quang, l� h�nh ảnh Đức Ch�a Cha, l� Con Thi�n Ch�a hằng sống� (Mt XVI, 16). Th�nh Phaol� trong Thư gởi gi�o đo�n Colosse đ� thẳng thắn quả quyết: �Người l� h�nh ảnh Thi�n Ch�a v� h�nh, l� trưởng tử giữa c�c thụ sinh, v� trong Người vạn vật được tạo th�nh. Ng�i c� trước mọi sự v� mọi sự được tồn tại l� nhờ Người� (I, 15-17). Nhưng đối tượng đức tin kh�ng phải chỉ c� thế, nghĩa l� chỉ tin v�o Ch�a Gi�su Con Thi�n Ch�a. Người t�n hữu c�n tin Ch�a Th�nh Thần l� sức mạnh, l� linh hồn của Gi�o hội: �Ch�a Th�nh Thần n�ng đỡ sự yếu đuối của ch�ng ta... chuyển cầu cho ch�ng ta bằng những lời tha thiết kh�n tả� (Rm VIII, 26). Ng�i l� Đấng phải đến để ho�n tất c�ng việc do Ch�a Gi�su đ� khởi c�ng (Cv VIII, 16 v� XIX, 3-6).

Đ� l� mầu nhiệm Ba Ng�i Thi�n Ch�a: Ch�a Cha, Ch�a Con, Ch�a Th�nh Thần, tuy Ba Ng�i nhưng một Thi�n Ch�a duy nhất. Đ� cũng l� trung t�m đức tin, linh hồn của Kit� gi�o. C�c t�n hữu đ� tin tưởng m�nh liệt: �Tuy kh�ng hề được thấy Đấng anh em y�u mến, v� hiện nay dầu kh�ng thấy nhưng vẫn k�nh tin, anh em được h�n hoan trong niềm vui kh�n tả v� được ph�c vinh quang� (1 Pr I, 8)

Với Ch�a Kit�, nơi Thi�n Ch�a biểu dương sức mạnh oai h�ng tạo chiến thắng từ c�i chết, người Kit� hữu lu�n phấn khởi mỗi khi li�n tưởng tới ng�y Ch�a trở lại. V� trong khi chờ đợi, sự hiện diện của Người trong ph�p Th�nh Thể l� nguồn an vui kh�ch lệ họ. V� thế tất cả h�n hoan say mến đến b�n tiệc th�nh để t�m sức mạnh v� vinh hiển của Người. Th�nh Phaol� đ� diễn tả sự vui miệng h�nh diện do niềm tin đ�: �Đ� vậy th� c�n phải n�i l�m sao nữa ? Nếu Thi�n Ch�a ủng hộ ch�ng ta, ai sẽ chống lại ch�ng ta được ?... Đức Gi�su Kit�, Đấng đ� chết, hơn nữa đ� sống lại v� đang ngự b�n hữu Thi�n Ch�a, ch�nh Người đang cầu xin cho ch�ng ta. Ai sẽ ph�n c�ch ch�ng ta ra khỏi t�nh y�u mến Đức Kit� được ? Gian tru�n ư ? Bĩ cực ư ? Bắt bớ, đ�i kh�i, trần truồng, gươm đao ư?. ... Nhưng tr�n hết mọi sự, ch�ng ta to�n thắng rực rỡ nhờ Đấng y�u mến ch�ng ta!� (Rm VIII 31-37). Th�nh Gioan cũng n�i: �Ai l� kẻ to�n thắng thế Gioan, nếu kh�ng phải l� kẻ tin Đức Gi�su Kit� l� Con Thi�n Ch�a ?� (1 Ga V, 5).

Đức tin Kit� gi�o ngay từ đầu đ� c� những kẻ th�: chia rẽ, ho�i nghi, xuy�n tạc, phỉ b�ng; đ� l� những lạc gi�o thường bắt nguồn từ �con c�i trong nh��. Khi Ch�a Gi�su c�n tại thế, đ� c� �những kẻ mạo danh Người để trừ quỷ� (Mc IX, 39). Đến thời c�c t�ng đổ bắt đầu xuất hiện những ng�n sứ giả, những b� ph�i m� th�nh Gioan k�u l� �những kẻ ở giữa ch�ng ta m� ra, song kỳ thực họ kh�ng thuộc về ch�ng ta� (1 Ga II, 19). Họ l� những kẻ nh�n nhận Đấng Kit� v� tin xưng Danh Người c� sức nhiệm mầu, song kh�ng nhận Người l� Thi�n Ch�a, m� chỉ l� một ng�n sứ, lớn hơn Gioan Tẩy giả, hơn cả Maisen, nhưng vẫn chỉ l� người, con của b� Maria v� �ng Giuse. Hoặc l� những kẻ k�nh tin Người l� một Thi�n thần của Đấng Tối cao, l� Thủ l�nh của Thi�n thần, l� Thần linh của Thi�n Ch�a, song phủ nhận Người c� nh�n t�nh. Kẻ kh�c dạy rằng: từ khi chịu ph�p Rửa cho tới ng�y chịu nạn, Đức Gi�su Nazar�t c� ng�i vị một Thi�n thần, nhưng v�o giờ chết Thi�n thần ấy đi khỏi, bỏ mặc Người vật lộn với đau thương tr�n thập �c để rồi trở về trong vinh quang phục sinh. C�c Thư chung của th�nh Gioan đ� ra kịp thời để cảnh c�o những kẻ kh�ng tin �Ch�a Kit� Nhập thể� họ kh�ng tin mầu nhiệm Gi�ng sinh v� ơn Cứu chuộc. Đại diện cho lạc gi�o n�y c� Cerinthus.

Tr�n đ�y l� những lạc thuyết về bản t�nh Đấng Cứu Thế, kế đến l� những kẻ nhầm lạc về lu�n thường đạo l�. Nhờ Danh Ch�a Gi�su, c� những người tưởng m�nh đ� nắm chắc hạnh ph�c trường sinh, dẫn độ họ tin rằng: nhờ ph�p Rửa, họ mặc sức phạm tội, v� tội lỗi họ sẽ được tha thứ m�i; họ c�n cho việc b�i luật Maisen tức l� b�i bỏ mọi lề luật, v� qu�n đi những g� trọn l�nh của Ph�c �m. Đ� l� đức tin m� th�nh Giacob� k�u l� �đức tin chết� (Gc, II.17). H�nh như lạc gi�o Nicolaism bấy giờ chủ trương sống ph�ng đ�ng l� c�i họa, m� th�nh Gioan đ� khuyến c�o Gi�o hội Asia phải coi chừng (Kh II, 6 v� 15).

Ngược lại, c� những gi�o thuyết qu� khắt khe của những người bi quan yếm thế, hằng tin ng�y thẩm ph�n gần đến. Họ kh�ng chấp nhận số phận h�n yếu v� tội lỗi của con người, n�n đ� coi tởm vật chất, l�n �n h�n nh�n v� cấm h�n nh�n: �Đừng lấy, đừng nếm, đừng chạm v�o!� (Cl II, 21). Người ta phải hiểu đ�ng � của th�nh Phaol� : nếu th�nh t�ng đồ dạy ch�ng ta phải k�nh trọng th�n thể đ� được th�nh h�a, v� gọi l� �Đền thờ của Ch�a Th�nh Thần� (I Cr VI, 13-19), nếu th�nh nh�n ca tụng đức trinh khiết, th� ch�nh ng�i cũng đ� n�u cao sự th�nh thiện v� qu� trọng của bậc h�n nh�n (Ep V, 21- 33). Với một lấm l�ng h�o hiệp sẵn c�, th�nh t�ng đồ đ� cứu được nhiều t�m hồn qu� nh�t sợ ấy, khỏi những luật lệ bị coi l� khắt khe.

Ch�nh v� muốn bảo to�n đức tin khỏi �những hư ng�n lố bịch v� tất cả những g� gọi l� khoa học giả hiệu� m� th�nh Phaol� đ� c� lời với người m�n đệ y�u qu� nhất: �Hỡi Timothe�, con h�y giữ g�n c�i kho b�u� (I Tm VI, 20). V� cũng chỉ v� muốn rao giảng đức tin một c�ch trung thực m� c�c gi�m mục sau n�y, như th�nh Clement� th�nh Roma, th�nh Ignati�, th�nh Irene� sẽ theo s�t những lời giảng dạy của th�nh t�ng đồ.


2. Tổ chức phụng vụ v� b� t�ch

Nguy�n tin kh�ng đủ, ch�nh Ch�a Gi�su đ� n�i r�: �Ai tin v� chịu ph�p Rửa mới được cứu tho�t� (Mc XVI, 16). Bởi thế, trước hết phải gia nhập nước Thi�n Ch�a qua ph�p Rửa. Đ� l� nghi lễ thanh tẩy rất quen thuộc nơi nhiều t�n gi�o. Nhưng trong Kit� gi�o ngo�i � nghĩa tẩy rửa, c�n c� � nghĩa �nhuộm thấm�. Nhờ sự nhuộm thấm n�y, ph�t sinh một c�ng hiệu kh�c nữa l� l�m cho người chịu ph�p Rửa được t�i sinh trong Ch�a Kit�, trở n�n con c�i Thi�n Ch�a v� được ghi dấu để một ng�y kia sẽ được Phục sinh trong vinh quang. Đ� l� ơn th�nh đặc biệt, kh�ng ơn n�o kh�c c� thể thay thế được, v� chỉ c� �một đức Tin, một ph�p Rửa�.

Ph�p Rửa do ch�nh Ch�a Gi�su thiết lập trước ng�y tử nạn. Ban đầu, ph�p Rửa được cử h�nh �ở biển, trong ao, dưới suối�, [17] với những lễ nghi trang nghi�m, long trọng. Rửa tội kh�ng những bằng c�ch g�m m�nh xuống, m� c�n bằng c�ch rảy hay đổ nước, nhất l� khi thiếu nước v� trường hợp đau yếu kh�ng g�m m�nh được. [18] Thời c�c th�nh t�ng đồ, c� th�i quen rửa tội người lớn ngay sau khi tuy�n xưng đức tin, rồi mới huấn luyện về gi�o l� (Cv II, 41; VII, 12). Nhưng đến sau, Gi�o hội đ�i phải c� sự sửa soạn rất kỹ lưỡng trong 3 năm, tĩnh t�m 40 ng�y. Trong thời gian sửa soạn, người dự t�ng phải ăn chay cầu nguyện, th� tội, sống đời lương thiện. Đ� l� những thử nghiệm trước khi được ch�nh thức gia nhập Gi�o hội. Ng�y ấy thường l� ng�y �p lễ Phục sinh hay Hiện xuống, với những lễ nghi, kinh nguyện đầy � nghĩa. [19]

Tiếp theo sau lễ nghi Rửa tội, l� nghi lễ đặt tay xin ơn Ch�a Th�nh Thần.[20] Theo Th�nh Kinh, gi�m mục l� người duy nhất c� quyền cử h�nh nghi lễ n�y (Cv VIII, 14-17, XIX, 6). Đ�y l� một việc mới bắt đầu. C�c th�nh t�ng đồ rất quan t�m đến nghi lễ đ�. D� ở Samaria hay ở Epheso, c�c ng�i lu�n dạy rằng: ph�p Rửa chỉ c� gi� trị đầy đủ khi được bổ t�c bởi ơn Ch�a Th�nh Thần qua nghi lễ đặt tay tr�n đầu. Nghi lễ n�y c�n được diễn ra trong c�c dịp truyền chức th�nh, trừ t� ma, an ủi bệnh nh�n... Tất cả đều mang một � nghĩa duy nhất, l� xin ơn Ch�a Th�nh Thần để tăng sức mạnh.

Người Kit� hữu tuy đ� gia nhập Nước Ch�a, được ban ơn v� sức mạnh, nhưng họ vẫn c� thể sa ng�, v� họ chưa hết l� con người yếu đuối mang theo mầm mống tội lỗi. Một khi lỡ lầm do yếu đuối như vậy, điều can hệ l� đứng dậy v� trở về. Thi�n Ch�a hằng mong đợi t�m t�nh thống hối để đ�n nhận v� tha thứ hết. Ch�nh Ch�a Gi�su đ� lập b� t�ch h�a giải, khi Người trao quyền cho c�c t�ng đồ: �Điều g� c�c con cầm buộc ở dưới đất, tr�n Trời cũng cầm buộc, v� mọi điều c�c con th�o cởi dưới đất, tr�n Trời cũng th�o cởi� (Mt XVIII 28).

C�c t�c giả xưa đều ghi nhận c� hai h�nh thức xưng tội: c�ng khai trước mặt nhiều người, k�n đ�o với gi�m mục hay linh mục. Ph�c �m đ� tường thuật: khi Gioan Tẩy giả rao giảng sự ăn năn hối cải, nhiều người tuốn đến s�ng Jordan xin �ng l�m ph�p Rửa v� �th� lỗi� (Mt III, 5-6). Tại Epheso, sau khi nghe th�nh Phaol� giảng, nhiều người x�c động v� sợ h�i đ� �tự xưng ra những h�nh vi bất ch�nh của m�nh�, c� kẻ đem s�ch b�i to�n, dị đoan đến v� đốt trước mặt mọi người (Cv XIX, 18-19). Đ� l� những trọng tội (thờ quỷ thần, giết người, ngoại t�nh) phạm c�ng khai n�n cũng phải xưng c�ng khai để cất gương xấu, v� thường được sửa chữa, h�n gắn bằng những h�nh phạt nặng nề trong một thời gian l�u d�i, c� khi tới chết. [21] H�nh phạm giảm bớt dần kể từ thế kỷ III.

Nếu l� những tội phạm lần đầu, th� chỉ xưng trong t�a k�n với một vị gi�m mục hay linh mục, phải tự th� hết c�c tội, kể cả những tội tư tưởng v� ước muốn; sau đ� l�nh nhận việc đền tội. Khi giảng về sự dọn m�nh để đ�ng được �chịu lấy B�nh v� Ch�n của Ch�a�, th�nh Phaol� n�i: �Mỗi ch�a nhật, anh em h�y họp nhau bẻ B�nh v� tạ ơn Ch�a, nhưng trước khi đ� anh em phải c�o tội m�nh để của lễ anh em được tinh tuyền�. Origenes cũng viết: "Sự th� tội phải nhờ th�y thuốc linh hồn, nếu ch�ng ta muốn được khỏi tội�. [22]

Trong những thế kỷ đầu, c� lẽ Gi�o hội chưa x�c định phải xưng tội một c�ch chi tiết như thế n�o, nhưng việc đền tội th� quả l� thiết thực v� nặng nề m� ng�y nay cho l� qu� khắt khe, cay nghiệt. Sự thực, th�i độ đ� kh�ng c� mục đ�ch n�o kh�c l� gi�p tội nh�n th�nh thực hối cải, gi� từ con đường lầm lạc, trở về đường ch�nh v� sống m�i trong nh� Cha. V� đ� l� điểm ch�nh yếu v� quan trọng nhất của b� t�ch H�a giải, chứ kh�ng phải l� sự kể lể tội lỗi.

Cầu nguyện l� th�i độ tự nhi�n đi liền với niềm tin, sự nh�n nhận Thi�n Ch�a l� Cha. S�ch T�ng đồ C�ng vụ c� ghi lại lời kinh nguyện sau đ�y của gi�o d�n, khi hay tin Pher� v� Gioan được trả tự do sau lần bị dẫn đến c�ng nghị Do Th�i: �Lạy Ch�a, l� Đấng tạo dựng trời, đất, s�ng, biển, c�ng mu�n vật trong đ�; lại đ� cho Ch�a th�nh Thần d�ng t�i tớ Ch�a l� David tổ phụ ch�ng t�i m� ph�n rằng: Nh�n sao c�c nước n�o động c�c d�n mưu toan v� �ch? C�c vua trần gian nổi dậy, quan chức hợp lại bội phản c�ng Thi�n Ch�a v� Đức Kit�? Thật thế Herodes, Pontius Pilatus c�ng d�n ngoại v� Do Th�i đ� h�a tập nhau trong th�nh chống lại Con Thi�n Ch�a l� Ch�a Gi�su, Đấng đ� được xức đầu để thi h�nh mọi uy quyền v� Ch�a đ� định trước. Lạy Ch�a, xin h�y đo�i nh�n xem ch�ng đang đe dọa, m� ban cho c�c t�i tớ Ch�a được can đảm rao giảng Lời Ch�a, xin h�y giơ tay cứu chữa mọi bệnh tật, l�m những dấu lạ v� Danh th�nh Gi�su, Con Ch�a� (Cv IV, 24-30). Đ� l� bản kinh nguyện cổ k�nh nhất m� Gi�o hội xưa quen đọc chung, v� lưu lại tới ng�y nay. Đọc l�n, ch�ng ta thấy tương tự như kinh lạy Cha; trước hết l� t�n vinh, rồi tạ ơn, sau c�ng mới xin ơn.

Kh�ng những t�n thờ cầu xin Ch�a Cha, m� cả Ch�a Con nữa. Bởi v� hai Ng�i kh�ng bao giờ t�ch biệt nhau, nhưng c�ng chiếu �nh s�ng vinh quang bất diệt. Do đ�, cả hai c�ng đ�n nhận mọi lời cầu xin của c�c gi�o hữu: �Ch�c tụng Thi�n Ch�a v� l� Cha của Ch�a ch�ng ta Đức Gi�su Kit�, Đấng đ� ch�c l�nh cho ch�ng ta bằng mọi ch�c l�nh Th�nh Thần ở tr�n Trời trong Đức Kit�� (Ep I, 3). Th�nh Pher� cũng c�ng một � ấy: �Đấng đ� k�u gọi anh em v�o vinh quang đời đời của Người trong Đức Kit� sẽ l�m cho anh em, những kẻ phải chịu khổ �t l�u trở n�n ho�n hảo ... Ch�c tụng Danh th�nh Ch�a đến mu�n đời. Amen� (I Pr V, 10-11). Th�nh Gioan đ� mạnh dạn d�ng l�n Ch�a Gi�su Kit� những lời ca tụng, m� cho tới khi đ� chỉ d�nh cho Ng�i Cha: �B�i ch�c Đấng y�u mến ch�ng ta, v� giải tho�t ch�ng ta khỏi tội lỗi nhờ M�u Người, c�ng đ� phong ch�ng ta l�m đế vương l�m tư tế cho Thi�n Ch�a v� l� Cha của Người, nguyện ch�c Người vinh quang v� quyền lực đến mu�n đời. Amen� (Kh I, 5-6).

Những lời ca tụng, cầu xin ấy đều dựa theo Ph�c �m v� th�nh Kinh. Đ� l� những t�m t�nh được diễn ra dưới nhiều h�nh thức kh�c nhau, khi d�i khi ngắn, khi ca tụng l�c cầu xin, chỗ n�y bằng văn xu�i chỗ kia bằng văn vần, khi đọc khi h�t. N�i t�m lại, với s�ng kiến của con người, dưới �nh s�ng soi của Thi�n Ch�a, c�c t�n hữu đ� s�ng chế ra những cử điệu, những lời nguyện, hầu gi�p nhau d�ng hướng t�m hồn về với Thi�n Ch�a, Đấng m�nh t�n thờ v� k�nh tin.

N�i tới cầu nguyện, ch�ng ta kh�ng thể bỏ qua Th�nh Lễ, trung t�m điểm đời sống Kit� hữu. Plinius Junior to�n quyền xứ Bithynia, trong một tờ tường tr�nh gởi về Roma năm 110, đ� diễn tả một c�ch v� tư về việc tế lễ của gi�o d�n thời đ� như sau: �Người t�n hữu c� th�i quen hội nhau v�o ngay đ� định, trước khi mặt trời mọc, v� ca đối xướng b�i h�t d�ng l�n �ng Kit� tựa như d�ng l�n một vị Thần. Họ c�n khuy�n nhau kh�ng được trộm cướp, ngoại t�nh hay bội ước, phải c� tinh thần tr�ch nhiệm về những c�ng việc được ủy th�c. Sau đ� họ giải t�n, nhưng rồi lại gặp nhau d�ng bữa, một bữa ăn thanh đạm, tốt l�nh�. [23] Đ� chỉ l� những g� b�n ngo�i do con mắt thịt của một người ngoại đạo nh�n v�o v� thuật lại, họ kh�ng hiểu được � nghĩa th�m s�u v� cao qu� b�n trong. Đ�y kh�ng phải l� bữa ăn ph�m tục, nhưng l� b�n ăn huynh đệ, tức Tiệc th�nh: �Ch�n ch�c tụng ta (cầm l�n m�) đội ơn kia lại kh�ng phải l� sự hiệp nhất với M�u Đức Kit� đ� sao? B�nh ta bẻ kia, lại kh�ng phải l� hiệp nhất với M�nh Đức Kit� sao ?� (I Cr X, 16).

C� lẽ v� chương tr�nh qu� d�i, n�n từ đầu thế kỷ II bữa ăn huynh đệ đ� được t�ch khỏi Tiệc th�nh tức Th�nh Lễ: chiều h�m trước (thứ bảy) l� bữa Agap�, s�ng h�m sau (ch�a nhật) l� Th�nh Lễ. Từ đ�, cuộc họp ban tối chỉ c� một phần chương tr�nh. Đ�y l� gốc t�ch của ng�y gọi l� Vigilia (�p lễ, canh thức) d�nh cho việc đọc Th�nh vịnh, nghe Th�nh Kinh v� giảng dạy.[24] Phần nầy bắt đầu từ ca �D�ng lễ�, mọi người c�ng d�ng lời nguyện chung. Lời nguyện c� thay đổi t�y theo ho�n cảnh, địa điểm v� thời gian. Th�y ph� tế mang lễ vật, b�nh, rượu pha nước; tiếp đến l� h�n ch�c b�nh an, cầu nguyện cho Gi�o hội, to�n thể thế giới, v� cho ch�nh quyền. Phần trọng nhất l� �kinh nguyện Th�nh Thể�, lời �Truyền ph�p�, kinh �Tạ ơn�, bẻ B�nh v� ph�n ph�t, th�y ph� tế đem đến cho những anh em vắng mặt. Khi trao, đọc: �M�nh Th�nh Ch�a Kit�, M�u Ch�a Kit� Ch�n Cứu độ�; đ�p: �Amen�. Trong khi rước lễ, h�t Th�nh vịnh. [25]

C� điều đ�ng ch� � l� gi�o d�n hồi bấy giờ c� một đức tin rất sống động. Lời nguyện trong Th�nh Lễ phần nhiều c� t�nh c�ch ứng khẩu, th�nh thật tr�o ra từ đ�y l�ng của vị chủ tế v� gi�o d�n, n�n thường rất sốt sắng v� tự nhi�n. Mọi người đều một l�ng một � theo d�i lời nguyện, để đồng thanh thưa: �Amen�. Nhờ thế m� tất cả mọi người tham dự một c�ch t�ch cực v�o việc tế lễ. Họ � thức m�nh thực sự l� những chi thể của một Th�n thể duy nhất, li�n lạc chặt chẽ với nhau trong Ch�a Kit�: �V� B�nh chỉ c� một n�n ta tuy c� nhiều cũng chỉ l� một th�n m�nh, v� hết thảy ta th�ng phần v�o B�nh độc nhất� (1 Cr X, 17).

Nơi cầu nguyện v� tế lễ trong mấy thế kỷ đầu cũng l� điều ch�ng ta n�n biết, Dom Cabrol đ� ghi lại kh� tỉ mỉ tr�n một bức tranh linh động. Đọc l�n, ta tưởng tượng như thấy những bước ch�n theo nhau tới th�nh đường: �Mọi người tiến đến nơi tế lễ trong hang Toại đạo. Mộ của c�c đấng tử đạo trong một Arcosolium d�ng l�m b�n thờ. Mọi t�n hữu qu�y quần chung quanh. Tựa như tr�n một tấm thảm t�nh thường, người quyền thế gi�u sang ngồi lẫn với kẻ ngh�o h�n; kh�ng c� sự ph�n c�ch. Chỉ c� một điều l� đ�n �ng một chỗ, đ�n b� một nơi, c�c linh mục c� chỗ danh dự gần gi�m mục chủ tọa�.[26]

Thường người ta chỉ biết hang Toại đạo l� nơi tr� ẩn của gi�o hữu trong c�c thời b�ch hại. Nhưng thực tế kh�ng ho�n to�n như vậy. Đọc lịch sử, ch�ng ta mới hiểu hang Toại đạo l� nơi thế n�o, c� mục đ�ch g� ? Bấy giờ, người ta quen l�m nghĩa trang ngầm dưới đất, như những hang đ� được kh�m ph� ở Campania, Bắc Phi, Ai Cập, Tiểu �, chứ kh�ng phải chỉ người Kit� hữu ở Roma mới c�. Tuy nhi�n, những nghĩa trang nổi tiếng thời bấy giờ ch�nh l� những hang Toại đạo ở Roma, trong số đ� c� hang Priscilla v� Domitilla l� cổ k�nh nhất, từ thế kỷ I. Những hang ngầm dưới đất n�y c� nhiều lối đi h�nh lang, hai b�n l� những phần mộ kẻ chết được đục kho�t trong đất đ� chồng chất l�n nhau, được kh�p k�n bằng một tảng đ� c� ghi t�n tuổi, ng�y qua đời, với những lời cầu xin cho người qu� cố được an nghỉ, hoặc lời nguyện ch�c về cuộc sống đời sau.[27] Ở đ�y kh�ng thấy vết t�ch g� đau buồn, thương tiếc hay thất vọng; tr�i lại tất cả đều tỏa ra một bầu kh� vui tươi, hy vọng v�o cuộc sống vĩnh cửu với Ch�a Kit�, Đấng m� c�c linh hồn đ� sẵn l�ng chịu mọi �p bức, b�ch hại, c� khi đ� đổ m�u v� chết v� Người nữa [28].

Ch�nh mộ của c�c th�nh tử đạo đ� được chọn l�m b�n thờ d�ng Th�nh Lễ, v� hang Toại đạo trở th�nh nơi phượng tự, đặc biệt trong thời b�ch hại. Trong 2 hoặc 3 thế kỷ, những hang n�y được gi�o d�n lui tới k�nh viếng mộ c�c th�nh v� xin ơn. Đến thời th�nh đường được x�y cất tự do, người ta rước h�i cốt c�c đấng th�nh nổi tiếng về đ�, khiến nhiều vị kh�c bị bỏ qu�n. Lắm chỗ người ta tự � lấp đi nhiều chỗ gần sập đổ g�y nguy hiểm kh�ng ai d�m qua lại.


3. Tổ chức gi�o quyền v� b�c �i x� hội

Những g� thuộc về Thi�n Ch�a l� phải trật tự, Ch�a kh�n ngoan kh�ng bao giờ l�m g� lộn xộn. V� thế, ngay từ khi mới khai sinh, Gi�o hội đ� được sắp xếp rất thứ tự, tổ chức chu đ�o. Cũng như trong một th�n thể c� nhiều cơ năng kh�c nhau, th� trong Gi�o hội cũng c� nhiều th�nh phần hướng về c�ng một mục đ�ch: �Thi�n Ch�a đ� thiết lập trong Gi�o hội trước l� c�c t�ng đồ, thứ đến c�c ng�n sứ, sau nữa l� c�c tiến sĩ, rồi đến quyền l�m ph�p lạ, c�c ơn chữa bệnh, c�c việc từ thiện v� quản trị, c�c thứ ng�n ngữ� (I Cr XII 28). Mỗi phần tử c� một nhiệm vụ ri�ng: �Mỗi người t�y theo ơn lộc đ� được, h�y lợi dụng m� phục vụ nhau� (I Pr IV, 10). Sự sắp xếp n�y do ch�nh Ch�a Kit� �Đấng đ� đặt kẻ l�m t�ng đồ, kẻ l�rn ng�n sứ, người l�m giảng vi�n, kẻ l�m linh mục, l�m th�y dạy, cốt để gi�p c�c th�nh� (Ep IV, 11-12).

Ngay từ buổi đầu, đ� c� ba chức vụ ch�nh trong Gi�o hội: t�ng đồ, ng�n sứ v� c�c giảng vi�n gi�o l� Th�nh Kinh, được đặt ra để lo việc giảng huấn. Tuy nhi�n, ba chức vụ đ� cũng c� quyền th�nh h�a, nghĩa l� c�c vị đều l� những linh mục cử h�nh lễ nghi phụng vụ v� ban ph�t b� t�ch: Bởi v� đức tin, cầu nguyện, t�n l� v� lễ nghi lu�n lu�n đi với nhau. Đọc lịch sử, ch�ng ta c�n gặp những chức vụ c� t�n Diaconi, Pastores, Presbyteri, Episcopi. Tiếng Diaconi, th�y ph� tế c� nghĩa r� r�ng, nhưng ba tiếng sau rất kh� ph�n biệt, người ta kh�ng ph�n biệt được l� linh mục hay gi�m mục, tỉ như hai tiếng Presbyter v� Episcopus trong T�n ước được d�ng lẫn lộn. (Cv XX, 17 v� 28: I Tm III, 2).

Cuối thời sứ đồ, th�nh Ignati� th�nh Antiokia (qua c�c l� thư) cho ch�ng ta biết Gi�o hội đ� c� phẩm trật r� r�ng: gi�m mục, linh mục, ph� tế, ng�i viết cho c�c gi�o đo�n th�nh Epheso như sau: �C�c linh mục khả k�nh của anh em kết hiệp với c�c gi�m mục như d�y đ�n với ph�m đ�n�.[29] Th�nh nh�n cũng khuy�n họ đo�n kết v�ng phục c�c vị : �Ai kh�ng đo�n kết với gi�m mục, linh mục, ph� tế, th� kh�ng c� lương t�m trong trắng�. [30] Tr�n l�nh vực hoạt động, gi�m mục, linh mục, ph� tế c� phạm vi r� rệt. Gi�m mục l� chủ cộng đo�n c� tr�ch nhiệm săn s�c c�c linh hồn. Chỉ m�nh ng�i c� quyền cử h�nh Th�nh Lễ, ban ph�t c�c b� t�ch. Linh mục dưới quyền gi�m mục, chỉ được thi h�nh những c�ng t�c ng�i th�ng chia.[31] Khi gi�m mục qua đời hay ngăn trở, linh mục tạm thay quyền. C�c ph� tế cũng c� nhiệm vụ ri�ng; ban đầu, c�c th�y chuy�n lo dọn bữa ăn huynh đệ (Cv VI, I v� tiếp). Về sau, ở gần c�c gi�m mục v� linh mục, c�c th�y c� nhiệm vụ săn s�c người ngh�o, quản trị t�i sản, dọn b�n thờ, mang B�nh cho bệnh nh�n, t� đ�y. Đ�i khi c�c th�y l�m ph�p Rửa, lo gi�p tội nh�n ăn năn hối cải.[32] Nhiều phụ nữ c� tuổi, đức độ cũng được đặt l�m nữ ph� tế (Diaconissa) gi�p c�c th�y trong c�ng việc n�i tr�n.

Phẩm trật được đặt ra kh�ng những để cai trị Gi�o hội, lo việc phượng tự, ban ph�t b� t�ch m� c�n để lo cho người ngh�o nữa; v� Gi�o Hội đặc biệt l� của người ngh�o. Lịch sử cho ta thấy những chứng t� của t�nh thương nơi Gi�o hội từ thời nguy�n thủy. H�nh ảnh cụ thể đẹp đẽ nhất l� bữa ăn huynh đệ. Đ�y l� chứng t� của t�nh b�c �i nơi người Kit� hữu, đồng thời l� con đường ph�t huy sự hiệp nhất Gi�o hội. Thật vậy, trong bữa ăn đ�, �tất cả c�ng nhau chia sẻ của nu�i th�n, l�ng h�n hoan, dạ ch�n th�nh, trong lời ngợi khen Thi�n Ch�a, trong sự mến phục của to�n d�n� (Cv II, 46-47). Dĩ nhi�n kh�ng khỏi c� sự lạm dụng khiến th�nh Phaol� phải cảnh c�o (I Cr X 20-21). Đầu thế kỷ II, bữa ăn t�ch biệt khỏi Th�nh Lễ; v� khi gi�o d�n th�m đ�ng, bữa ăn huynh đệ thường ng�y kh�ng c�n duy tr� nữa.

Tuy nhi�n, t�nh b�c �i của Kit� gi�o kh�ng phai mờ. Tr�i lại, n� vẫn ph�t triển dưới nhiều tổ chức kh�c nhau t�y theo ho�n cảnh, thời thế. Mở đầu, c�ng cuộc b�c �i rất giản dị, c� t�nh c�ch t�nh nguyện, c� nh�n. Th�nh Giustin� viết: �Ai sung t�c h�y gi�p c�c anh em thiếu thốn... Ai dư dật, h�y vui l�ng cho đi một phần. Những g� thu được đều đem về trao cho gi�m mục, ch�nh ng�i sẽ ph�n ph�t cho những mồ c�i go� bụa, hoặc t�ng thiếu bởi bệnh tật, t� đ�y...� [33]

Nửa thế kỷ sau, sự tương th�n tương trợ đ� c� tổ chức ho�n bị hơn. Tertullianus viết: �Đ� l� ng�n quỹ do l�ng đạo đức. Người ta kh�ng d�ng v�o việc tiệc t�ng, nhậu nhẹt, nhưng để trợ cấp v� ch�n tạng người ngh�o khổ, cấp dưỡng trẻ em trai cũng như g�i thiếu thốn v� mồ c�i, gi�p đỡ những đầy tớ gi� nua, những người bị đắm t�u v� những chiến sĩ đức tin đang sống trong hầm mỏ, hoang đảo, lao t��. [34]

Tất cả những ai kh�ng thể tự m�nh kiếm ăn, đều được hưởng sự trợ cấp của Gi�o hội. Tuy nhi�n, cũng c� những ti�u chuẩn để tr�nh lạm dụng. Trước hết phải quan t�m đến kẻ th�n thuộc. Th�nh Phaol� viết: �Ai kh�ng chăm lo đến kẻ th�n thuộc, đặc biệt những người trong gia đ�nh, th� đ� chối bỏ đức tin v� c�n tệ hơn người �ngoại đạo nữa� (I Tm V, 8). Người ta cũng lưu � đến những gia đ�nh đ�ng con, những người l�m cảnh đau thương thất nghiệp, với điều kiện l� thực sự họ kh�ng thể kiếm được việc l�m. Gi�o hội kh�ng bao giờ b�nh vực nhưng kẻ ươn l�ời, ăn b�m, v� l�m như thế l� gi�n tiếp cổ v� th�i xấu. C�n những kẻ l�m nghề kh�ng tốt đẹp, th�nh Cyprian tuy�n bố kh�ng ủng hộ: �Thứ người n�y c�ng lắm chỉ cho ăn bữa đạm bạc, chứ kh�ng th�m khoản trợ cấp n�o kh�c. L�m như chẳng �ch lợi g� cho ch�ng ta; nhưng ch�nh l� để họ đừng phạm tội nữa�.[35] Tr�i lại, với những người chăm lo phượng thờ Thi�n Ch�a m� phải thiếu thốn, cơ cực, Gi�o hội rất rộng r�i, kh�ng những cung cấp của ăn �o mặc m� c� khi cả tiền bạc, để họ c� thể an t�m chu to�n phận sự cao qu�.

Ngo�i ra, c�n phải kể đến những h�nh vi v� th�i độ, n�i l�n t�nh b�c �i Kit� gi�o cao đẹp chừng n�o. Đ� l� sự tiếp rước lữ kh�ch một c�ch nồng hậu �n cần, đặc biệt c�c gi�o sĩ tr�n đường rao giảng Tin Mừng; rồi sự tận tụy săn s�c bệnh nh�n, nhất l� trong thời �n dịch, họ đ� kh�ng quản ngại nắng mưa, dơ bẩn hăng h�i lo ch�n t�ng kẻ chết. Những cử chỉ đ� đ� l�m cho người ngoại đạo cảm động: �Họ c� v�i dấu hiệu để biết nhau, v� c� thể n�i: họ y�u nhau trước khi biết nhau�.[36] Tr�n đ�y l� một số hoạt động b�c �i c� t�nh c�ch thường xuy�n; thản hoặc tai tương xảy đến, liền c� những cuộc lạc quy�n bất thường để đối ph�: lạc quy�n được bao nhi�u, đem ph�n ph�t ngay cho mỗi nạn nh�n t�y theo sự cần thiết của mỗi người. Đ� l� đức b�c �i kh�ng ph�n biệt ranh giới, n� đi liền với sứ mạng rao giảng Ph�c �m, v� �cứ dấu n�y người ta sẽ nhận ra ai l� người Kit� hữu, con c�i Ch�a� (Ga XIII, 35).

 


[1] Ph�c �m theo th�nh Matthe�, T�ng đồ C�ng vụ của th�nh Luca v� c�c Thư của Th�nh Phaol� l� những t�i liệu ch�nh, để viết chương n�y. S�ch tham khảo : Dom Ch. Poulet: Histoire du Christianisme, Q.I Paris 1935. D. Rops: L��glise des Ap�tres et des Martyrs, Paris 1960, tr 7-170.

[2] Giới l�nh đạo Do Th�i bấy giờ thuộc hai khuynh hướng : Pharis�, quốc gia d�n tộc qu� kh�ch, trung th�nh với luật M�isen ; Sađuk�, ch�nh trị hơn t�n gi�o, c� cảm t�nh với Đế quốc Roma. Nh�m Pharis� (cũng gọi l� nh�m Hassidim) chủ trương trung th�nh với luật Giav�, giải th�ch luật một c�ch khắt khe, đồng thời tự t�ch biệt khỏi quần ch�ng v� được k�u l� "Biệt ph�i" (Pharis�) ; c� người sống đạo đức đ�ng khen, c� người giả h�nh ki�u ngạo. Nh�m Sađuk� cho m�nh thuộc d�ng d�i thầy cả Sađoc thời Đavid v� Salomon. Hầu hết thuộc gia đ�nh qu� tộc, gi�u c� chủ trương theo thời v� nhượng bộ trước ảnh hưởng ngoại lai : giữ luật rất tỉ mỉ, kh�ng tin đời sau v� sự sống lại. Ngo�i ra c�n c� nh�m Esseni sống khắc khổ trong sa mạc, nh�m n�y kh�ng nhiều.

[3] C� người cho rằng Gioan Marc� bảo thủ, kh�ng muốn theo chủ trương cấp tiến của Phaol�, l� cho anh em d�n ngoại gia nhập Kit� gi�o m� kh�ng chịu r�ng buộc luật M�isen, n�n đ� r�t lui.

[4] Việc Phero đến lập T�a Antiokia được Phaol� nhắc đến trong thư gởi gi�o đo�n Galata (II, 11), v� được Origenes: In Lucam Hom, VI v� Eusebius: Chronicon 2 c�ng nhận.

[5] Eusebius căn cứ v�o thư th�nh Pher� gởi �những người được chọn hiện l� kh�ch tha phương kiều ngụ ở Ponto, Galatia, Cappadocia, Asia v� Bithynia� (I Pr I, 1)

[6] Sueto: Vita Claudii, XXV, 4.

[7] Về vụ n�y, Bossuet n�i: �Pher� bị chỉnh v� tự sửa lỗi đ� tỏ ra lớn hơn Phaol��

[8] Theo lưu truyền, người ta đ� x�y ngay chỗ Ch�a hiện ra với th�nh Pher� một th�nh đường, manh danh hiệu Quo Vadis, Domine ?

[9] Từ khi Gi�o hội th�nh lập cho đến thế kỷ XIV kh�ng hề c� ai đưa ra nghi vấn Pher� lập T�a th�nh ở Roma v� tử đạo ở đ�y. Sự mặc nhi�n c�ng nhận của 13 thế kỷ về một vấn đề quan trọng như thế, đ� đủ để minh chứng một c�ch h�ng hồn cho sự kiện n�y. Nhưng đầu thế kỷ XIV, Marsillius th�nh Padua l�m cố vấn cho Ludwig xứ Bavaria, ho�ng đế La Đức (1328-46), chống lại Đức Th�nh Cha Gioan XXII (1316-36), để cho ra đời cuốn Defensor Pacis (1324) phủ nhận quyền tối thượng của ng�i Gi�o ho�ng, trong đ� �n đưa ra nghi vấn việc th�nh Pher� ở Roma. Tiếp đến nhiều người theo gi�o ph�i Luther v� Calvin cũng chủ trương như vậy. Nhưng ng�y nay, ngay cả người Tin l�nh cũng đồng � với C�ng gi�o nh�n nhận sự kiện lịch sử n�y. Theo bằng chứng ti�u cực, kh�ng thấy một đ� thị n�o, ngo�i Roma, d�m d�nh cho m�nh c�i danh dự c� Pher� đến lập T�a v� tử đạo. Bằng chứng t��ch cực: ngay từ đầu đ� c� hai Thư của th�nh Pher�, rồi đức Clement� trong thư gởi d�n th�nh Conrint� (96-97) cũng nhắc đến cuộc tử đạo của hai t�ng đồ Pher� v� Phaol� ở Roma. Ngo�i ra, c�n c� nhiều t�i liệu kh�c của th�nh Ignati� th�nh Antiokia (thư gởi cho gi�o d�n Roma, 107), Dionisius th�nh Corint� (thư gởi cho gi�o d�n Roma, 170), th�nh Irene� th�nh Lyon (trong Adv. Haereses), Tertullianus (trong De Praescriptione Haeretic v� Carminibus adv. Marcionem), Origenes viết �Th�nh Pher� đ� đến Roma v� chịu đ�ng đinh lộn ngược�, linh mục Caius (đầu thế kỷ thứ III): �T�i sẽ chỉ cho qu� vị đ�i kỷ niệm của hai t�ng đồ hoặc qu� vị tới đồi Vatican hay đi tr�n đường Ostia, qu� vị sẽ thấy trước mắt đại kỷ niệm người thiết lập Gi�o hội ch�ng ta� của sử gia Eusebius (Hist. Eccl. II, 25,7).

[10] Ni�n hiệu 29.6.258 khi trong cuốn Martyrologium hierommianum chưa chắc đ� đ�ng. Theo cuốn Liber Pontificialis, th� ch�nh đức Th�nh Cha Comeli� (khoảng 251, năm Decius chết v� cuộc b�ch hại tạm ngưng) l� người đ� rước h�i cốt cả hai th�nh Pher� v� Phaol� đồi Vatican v� đường Ostia, nghĩa l� trở về hai mộ cũ. Nếu người ta nhận lưu truyền rằng h�i cốt của hai th�nh t�ng đồ được cất giấu ở hang Toại đạo suốt 40 năm, th� cuộc rước xương th�nh v�o hầm mộ th�nh Sebastian phải từ thời đức Th�nh Cha Zepherin� (199-217) dưới triều Septimus-Severu�s. Năm 1915, khi người ta đ�o bới hang Toại đạo, c�n thấy tr�n tường c� tới 150 b�t k� viết bằng ch� những lời cầu khẩn Pher� v� Phaol�.

[11] Aram l� thổ ngữ S�mitique xưa kia th�ng dụng trong xứ Mesopotamia v� miền từ s�ng Euphrates đến Palestina.

[12] Về c�c th�nh gi�o phụ, xem chương Bốn

[13] Plinius Junior: Epist. X, 96.

[14] Cũng thời n�y, theo sử gia Beda: Hist. Eccl. I , IV, một �ng ho�ng xứ Britannia t�n l� Lucius đến xin đức Th�nh Cha Eleuthen� (175-199) cho học đạo.

[15] Nh�n danh Ch�a Gi�su Kit�, t�i khuy�n c�c kẻ ăn b�m h�y y�n t�m l�m việc, để tự m�nh nu�i lấy m�nh� (II Ts III, 12).

[16] Dion Cassius: Hist. Romaine, LXVII, 14.

[17] Tertullianus: De Bapismo, IV.

[18] Didach�s,VII.

[19] Didach�s. VII - Tertullianus: op. cit. XIX.

[20] Teltulianus: op. cit, XVII.

[21] Xem E. Vacandard: Confession des P�ch�s, trong Dict. de Th�ol. Cath - Tertullianus: De Paenitentia. VII.

[22] Origenes: Hom. III in Lev 4.

[23] Ep. X, 96.

[24] Dom Cabrol: Le Livre de la Pri�re antique, Paris 1900, VI, 77.

[25] Xem th�nh Cyrill� th�nh Gierusalem: Catech Myst. V, 21-22 - Th�nh Giustin�: Apol. LXVII, 3-6.

[26] Dom Cabrol : op. cit. VI, 9-97.

[27] In pace, In Xto vivas, Pete pro nobis, Vivis in gloria.

[28] Xem cuốn Album lộng lẫy của Mgr Xilpert Die Malereien der Katakombs, Roms, I v� II, Fribourg-in-Br. 1930- L. Br�hier: L�Art Chr�tien. Paris 1928

[29] Th�nh Ignati�: Ep. ad Eph IV.

[30] Th�nh Ignati�: Ep. ad Trallianos,. III.

[31] Th�nh Ignati�: Ep. ad Smyrn. XII.

[32] Xem Zockler Diakonen und Evangelisten, Munich 1893.

[33] Th�nh Giustin�: Apol. LXVII.

[34] Tertullianus: Apol. LXVII.

[35] Th�nh Cyprian : Ep. II.

[36] Minucius Felix : Octavius, VIII.