HOME

 
 

Phần Nhất :
THƯỢNG CỔ V� TRUNG CỔ

Chương Bảy

CỘNG T�C ĐẠO ĐỜI GIỮA THẦN QUYỀN

V� THẾ QUYỀN (t.k. VIII-XIII)
 

I. Gi�o hội v� nh� Carolingien

1. T�i sản Gi�o hội v� Charles Martel

2. Ho�ng đế v� gi�m mục

3. Ng�i Gi�o ho�ng trong đế quốc nh� Carolingien

II. Gi�o hội v� chế độ Phong kiến

1. Ng�i Gi�o ho�ng trong tay chuy�n quyền của h�ng qu� tộc Roma

2. Ng�i Gi�o ho�ng trong đế quốc La Đức

3. Gi�m mục hay chư hầu

III. Gi�o hội v� Gi�o ho�ng tiến tới độc lập

1. Những Gi�o ho�ng cải c�ch: Le� IX v� Gregori VII

2. Vụ Canossa (1077) v� kết quả của cuộc cải c�ch Gregorian

3. Vấn đề nội bộ: người Roma chống Gi�o hội Roma

4. Ng�i Gi�o ho�ng v� nh� Hohenstauphen

5. Nước T�a th�nh v� mầu sắc ch�nh trị nơi đức Innocent� III  

 

V� con người m� Gi�o hội được thiết lập, v� cũng v� con người m� Gi�o hội nhập thế: Gi�o hội sinh hoạt giữa nh�n gian, Gi�o hội tức nhi�n kh�ng khỏi đụng chạm tới quyền lực của vật chất v� trần gian. H�ng Gi�o phẩm phải sử dụng quyền b�nh thi�ng li�ng do đấng S�ng lập trao ph�, l�m sao dung h�a với quyền lực đ�. Ch�nh v� trần gian n�y m� Gi�o hội phải c� tiền ban vật chất, để thi h�nh sứ mạng b�c �i, để tồn tại tr�n mặt đất, v� để phụng sự Thi�n Ch�a xứng đ�ng.

Thời n�o cũng thế, dưới ch�nh thể n�o cũng vậy, sự th�ch nghi những mối tương quan giữa Gi�o hội v� quốc gia, sự dung h�a giữa thần quyền v� thế quyền đ� l� vấn đề hết sức tế nhị. Nhưng vấn đề c�ng tế nhị hơn nữa trong thời Trung cổ, thời m� ch�nh trị v� t�n gi�o s�t c�nh nhau chưa từng c�, thời m� tất cả mọi hoạt động v� gi� trị trần gian đều quy về lợi �ch thi�ng li�ng.

Đ�y kh�ng phải chỉ l� vấn đề thuộc ch�nh trị, nhưng c�n c� những yếu tố t�n gi�o, những quyền lợi x� hội v� kinh tế. Quyền b�nh của h�ng linh mục v� của vua ch�a, th�n phận con người, quy chế điền thổ, đều l� những vấn đề phải b�n đến. C� những pha thật g�y cấn, bởi lẽ khi l�ng vị kỷ đụng độ nhau v� khi quyền lợi vật chất được n�i đến, tức th� tham vọng cũng nổi dậy theo.

Sự thực, vẫn c� sự th�ng cảm giữa hai quyền b�nh tr�n nhiều căn bản, nhưng lại l� những căn bản dễ thay đổi, t�y thời điểm, t�y ho�n cảnh. Do đấy, những cuộc xung đột rất �c liệt kh�ng thể tr�nh được. Ch�nh những vụ xung đột ấy, ch�ng t�i sẽ t�m đến nguy�n nh�n v� thuật lại những n�t ch�nh yếu.[1]


I

GI�O HỘI V� NH� CAROLINGIEN


1. T�i sản Gi�o hội v� Charles Martel

Trong những điểm l�m cho nền văn minh Trung cổ kh�c với văn minh hiện đại, phải kể đến tổ chức kinh tế, trong đ� một phần kh� lớn thuộc chủ quyền Gi�o hội.[2] Người ta ước lượng, v�o cuối triều đại M�rovingien khoảng năm 715, c�c th�nh đường v� tu viện chiếm tới một phần ba đất dai trồng trọt được. Vả lại, trong một thời tiền bạc c�n hiếm, sự trao đổi h�ng h�a c�n �t, đất đai được coi l� t�i sản vững chắc v� thiết thực nhất. Thời ấy, sự tước đoạt nhau về đất đai l� tội phạm xấu xa hơn cả.

Ngay từ khi đế quốc Roma bắt đầu v�o thời suy mạt, nhiều địa chủ, hoặc v� muốn theo tinh thần ngh�o kh� Ph�c �m, hoặc v� muốn tho�t khỏi g�nh nặng trong việc quản trị t�i sản, đ� tự � trao của cải m�nh cho Gi�o hội. Đến khi Man d�n x�m lăng, đất đai của Gi�o hội cũng như của bất cứ ai kh�c, đều bị chiếm đoạt. Tuy nhi�n, trong khi t�i sản tư nh�n rơi v�o tay qu�n x�m lăng, th� uy thế của Gi�o hội vẫn đứng vững. Nhờ sự chăm lo săn s�c của c�c gi�m mục, nhờ tinh thần hy sinh hăng say hoạt động của bậc tu sĩ, Gi�o hội quyết đ�i lại c�c quyền lợi v� những t�i sản đ� bị ph�n t�n. Đến khi ch�nh c�c kẻ x�m lăng gia nhập h�ng ngũ c�ng gi�o, họ liền nh�n nhận đến độ sợ h�i quyền uy thi�ng li�ng, khiến họ đi t�m sự tha thứ v� xin cầu nguyện. Để l�m qu�n đi những h�nh động ph� hoại đ�ng gh�t khi xưa, họ d�ng c�ng tiền của v� đất đai v�o th�nh điện nọ, th�nh đường kia một c�ch rất rộng r�i. Việc d�ng c�ng h�nh như thiếu suy nghĩ, đ�i khi v� sợ h�i, thường kh�ng phải cho Gi�o hội, m� họ quan niệm như một �đo�n hội v� danh�, nhưng thực ra họ c� � d�ng cho một vị th�nh: th�nh Martin, th�nh Đionisi�, th�nh Pher�.

Tuy nhi�n, kh�ng phải tất cả như vậy, v� dưới triều M�rovingien nhiều vua thật sự d�ng của cải cho Gi�o hội v� v� Gi�o hội. Trong việc Dagobert hay Clovis II d�ng tặng những �doanh trại ho�ng gia� (villas royales), người ta kh�ng thấy c� một bằng chứng g� gọi l� m� t�n hay sự h�i. Đ� chỉ l� do l�ng quảng đại, c� lẽ hơi qu� tay, của những �ng vua mang sẵn một chương tr�nh khai h�a. C�c �ng thừa hiểu rằng th�nh đường l� trung t�m đời sống x� hội quốc gia, tu viện l� nơi đ�o tạo những phần tử ưu t� của đất nước, đảm đương c�ng việc khuếch trương đất đai trồng trọt, v� l�m giầu văn h�a cũng như tinh thần cho quốc gia. Bởi đấy, mới c� sự n�ng đỡ bảo vệ v� đặc �n cho h�ng gi�m mục, cho c�c tu viện cổ k�nh v� cho thiết lập th�m nhiều tu viện mới.

Điều đ� hữu �ch, bởi v� sự cố gắng v� hy sinh của c�c gi�m mục v� tu sĩ sẽ đem lại sự cường thịnh cho triều đại Charlemagne sau n�y. Nhưng cũng c� bất lợi, bởi v� sự mở tay d�nh cho c�c th�nh đường v� tu viện qu� nhiều t�i sản, đất đai c�ng đặc �n, sẽ đưa quốc gia đến chỗ kh�nh kiệt. C� nhiều �ng vua ph�n n�n một c�ch bực tức, c� �ng bạo dạn hơn đ� d�ng đến sức mạnh để lấy lại những của m� c�c vị ti�n đế đ� d�ng cho Gi�o hội. Tuy nhi�n, sự cưỡng đoạt chưa phải l� việc thường xuy�n xảy ra, v� cũng chưa c� biện ph�p lệnh để ngăn cản sự gia tăng đất đai cũng như t�i sản của Gi�o hội v� của c�c tu viện mỗi ng�y th�m lớn m�i.

Những m�u thuẫn v� ch�nh lệch qu� r� rệt xảy ra v�o đầu thế kỷ VIII. Đ� l� thời suy mạt của những �ng vua cuối c�ng nh� M�rovingien, v� một d�ng họ mới đứng ra nắm quyền, tức P�pin Herstal l�m cung trưởng (thủ tướng 680-714) xứ Austrasia. Đ� l� �ng tổ của triều đại Carolingien (751-987). Nhiều �ng vua thuộc d�ng họ n�y l� những nh� lập ph�p nổi tiếng: Charlemagne (768-814), Louis le Pieux (814-840), Charles le Simple (898-923). Trong việc trị nước, c�c �ng triệt dể thi h�nh Bản ph�p lệnh (Capitulaires) do Charlemagne soạn thảo v� ban h�nh.

Charles Martel (685-741) l�n thay cha giữ chức cung trưởng. Do ho�n cảnh của đầu thế kỷ VIII, Charles đ� h�nh động một c�ch chớp nho�ng đối với t�i sản khổng lồ của Gi�o hội. �ng g�y dựng v� củng cố quyền uy quốc gia chống lại c�c phiến loạn. �ng đẩy lui được c�c cuộc x�m lăng v�o đất Austrasia. �ng chiến thắng v� chặn đứng được Hồi qu�n (Sarrasins) tại Poitiers (732). Tất cả những c�ng cuộc ấy phải cần đến sự dũng cảm v� cả phương tiện vật chất nữa. để v� trang binh sĩ, để tưởng thưởng c�c tướng l�nh, Charles Martel đ� kh�ng ngần ngại đoạt lấy t�i sản của Gi�o hội, bằng c�ch thế tục h�a, m� ng�y nay người ta gọi l� �quốc hữu h�a�.[3]

Người ta đ� cho đ�y l� một h�nh động cấp thiết �v� d�n v� nước�. Nhưng kh�ng phải giản dị c� thế. Bởi v�, nếu đứng trước một ho�n cảnh cấp thiết ấy, Charles chỉ trưng dụng một phần t�i sản của Gi�o hội nhằm trang bị cho qu�n đội �ng, việc l�m của �ng tuy độc đo�n v� đơn phương, song Gi�o hội cũng dễ th�ng cảm. Nhưng thay v� h�nh động một c�ch �n h�a, Charles đ� tước lu�n cả quyền tự hữu của h�ng gi�m mục v� tu sĩ. Đ� l� một lỗi lầm to lớn, một sự vi phạm c�c điều ước, muốn t�i diễn c�i cảnh cưỡng đoạt d� man của thế kỷ V. Những �gi�m mục� v� �đan viện phụ� do �ng cử l�n nhằm phục vụ chiến tranh hoặc một ch�nh thể, hỏi c�c vị đ� sẽ l�m được g� cho Gi�o hội? Do luật lệ n�o m� c�c vị n�y được ki�m nhiệm nhiều địa phận một l�c ? Tịch th�u t�i sản của c�c th�nh đường để qu�n sĩ chiến thắng ăn uống no say, phải chăng l� một vẻ vang cho nền kinh tế v� l� tiến bộ x� hội ? Gi�nh giật lấy quyền b�nh của h�ng gi�o sĩ để trao cho c�c sủng thần bất xứng, phải chăng l� một h�nh động tốt đẹp về phương diện tinh thần ? Kh�ng bao giờ c�c t�a gi�m mục Ph�p quốc, bị trao nộp cho những chủ chăn nguy hiểm đến thế. T�nh trạng như vậy chỉ cần k�o d�i th�m một ch�t th�i, Gi�o hội cũng l�nh dủ một tương lai th� thảm, m� nguy�n nh�n ch�nh l� sự sang đoạt t�i sản Gi�o hội, một c�ch bất hợp ph�p v� t�n nhẫn.

Trong 25 năm dưới thời Charles Martel, Gi�o hội tuy tho�t được hiểm họa Hồi qu�n v� tiến triển mạnh mẽ tại Đức quốc, nhưng b�n trong lại bị tước đoạt v� phản bội bởi những nh� l�nh đạo do người ta cử l�n một c�ch độc đo�n. Chỉ trong mấy chục năm ấy, tưởng đ� đủ để xảy ra một sự đổ vỡ kh�ng thể h�n gắn được nữa. May mắn thay, kh�ng phải như vậy, v� người ta sẽ thấy xuất hiện nhiều nh�n vật bắt tay v�o c�ng cuộc chỉnh l� một c�ch rất can đảm, trong đ� th�nh Bonifaci� (680-755) đ�ng vai cố vấn, v� nhiều �ng ho�ng mới như Carloman (741-747) v� P�pin (751-768), l� những người rất tận t�nh trong việc trả lại quyền tư hữu cho Gi�o hội.


2. Ho�ng đế v� gi�m mục

Người ta đ� được mục k�ch những hậu quả th� thảm, khi h�ng gi�m mục Ph�p bị lệ thuộc v�o �ng ho�ng Charles Martel. Nếu chỉ l� những tranh chấp về tiền bạc hay đất đai m� th�i, th� sự tai hại c�n hữu hạn, v� chỉ thiệt đến vật chất. Nhưng đ�y c�n l� sự lựa chọn những chủ chăn, thuộc phạm vi t�n gi�o v� tinh thần một khi việc l�nh đạo tinh thần cũng x�o trộn, cũng c� những lạm dụng, th� sự thiệt hại kh�ng thể lường được. Tuy nhi�n, luật lệ do c�c c�ng đồng trước đ�y đ� đề ra nay vẫn c�n hữu hiệu: �Gi�m mục chỉ được tấn phong qua �sự tuyển chọn của h�ng gi�o sĩ trong địa phận với sự đồng � của vị tổng gi�m mục� (c�ng đồng Clermont, 535), hay �t l� như c�ng đồng Orl�ans năm 549 quyết định, �với sự chấp thuận của nh� vua, thể theo sự tuyển chọn của h�ng gi�o sĩ v� gi�o d�n�. [4]

Dưới triều đại M�rovingien, nh� vua thường can thiệp v�o c�c cuộc tuyển chọn một c�ch độc đo�n, nhưng c� trường hợp rất đ�ng hoan ngh�nh, để b� lại những vụ kh�ng được mấy ai h�i l�ng. Dưới thời nh� Carolingien, c�c vụ đề cử n�i chung đều rất tốt đẹp. Sự thực, chương tr�nh cải c�ch của th�nh Boniraci� đ� tạo được một h�ng gi�o phẩm xứng đ�ng với lịch sử, những gi�m mục như th�nh Chrodogan th�nh Metz, Arnus th�nh Salzburg, Lullus th�nh Mainz (Mayence), Th�odulf th�nh Orl�ans, Hincmar th�nh Reims. C�c ng�i l� những người nắm vận mệnh T�y phương trong tay. Những t�m hồn cao thượng đ�, tuy sự nh�n hậu v� quảng đại kh�ng phải l� những đức t�nh nổi bật, song cũng đủ khiến ch�ng ta kh�m phục đức tin ch�nh thống, tinh thần truyền gi�o v� đời sống kh�ng ch� tr�ch được của c�c ng�i. [5]

Sự c�c gi�m mục tham gia v�o những việc đại sự của đế ch�nh, đ� đem lại cho đế quốc một thời vẻ vang thịnh vượng. Đừng tưởng rằng vai tr� của c�c vị chỉ c� t�nh c�ch tượng trưng. Nhờ c� tiếng n�i của c�c gi�m mục hoặc những đan viện phụ nổi tiếng Saint-Denis, Corbie, Fulda, Ferri�res, Gi�o hội mới n�i l�n được quan điểm của m�nh v� chiếm ưu thế trước dư luận quần ch�ng, cũng như cảm nghĩ ri�ng của c�c vua ch�a. V� được thấm nhuần Th�nh Kinh v� gi�o thuyết th�nh �utinh, c�c ng�i hiểu r� �nước trần gian� chỉ l� nơi chuẩn bị để bước v�o Kinh th�nh Thi�n Ch�a, n�n c�c ng�i đ� cố đem tinh thần c�ng gi�o v�o t�a nh� lập ph�p v�o văn h�a, nghệ thuật, v�o tất cả mọi sinh hoạt x� hội.

Tuy nhi�n, kh�ng phải c�i g� cũng tốt đẹp cả. V� lẽ trong thể chế qu�n chủ n�y, Charlemagne quan niệm phải c� yếu tố �độc t�i chuy�n chế�. �ng rất thẳng thắn, nhưng l� sự thẳng thắn hơi cứng cỏi của con người nh� binh, kh�ng th�ch hợp với những ho�n cảnh đặc biệt, với quyền tự do c� nh�n v� với những phương tiện thiếu thốn. Cũng như Diocletianus hoặc Justinianus xưa, �ng muốn nắm giữ v� điều h�nh tất cả. Luật đạo, luật đời đối với �ng chỉ l� hai h�nh thức của một quyền tối thượng. Tất cả mọi t�i sản đều được xếp chung dưới quyền tối cao của một người. Chắc chắn nh� Vua c� sự th�nh thật khi ghi trong Bản Ph�p lệnh, sự t�n trọng gi�o luật v� c�c gi�o huấn, khi khuyến kh�ch hoặc bắt buộc phải chịu c�c B� t�ch, tham dự c�c lễ nghi phụng vụ, nộp thuế thập ph�n, cũng như khi �ng d�nh đất đai cho nhiều t�a gi�m mục v� đan viện trong xứ Rhenania v� Saxonia.

Nhưng qua c�c hoạt động ấy của Charlemagne, người ta nhận thấy th�m � của �ng l� để cho c� những c�ng d�n ngoan đạo, dễ bề trung th�nh với đế chế. C�c đan viện được �ng l�m giầu cho, sẽ l� nơi đ�o tạo những nh� truyền gi�o, đồng thời l� những chuy�n vi�n khai h�a mở mang quyền lực đế quốc. Sau hết, c�c gi�m mục được �ng trọng k�nh ưu đ�i, trong nhiều trường hợp sẽ l� những vi�n chức cao cấp của chế độ: một vị gi�m mục c� thể bất thần được triệu hồi về triều đ�nh, cũng như một đan viện phụ c� thể được trao cho nhiệm vụ tự t�c chiến đấu với địch qu�n.[6] V� trong bất cứ trường hợp n�o c� sự giằng co giữa quyền đạo quyền đời, kh�ng bao giờ �ng chịu để cho ch�nh trị phải hy sinh... Ngược lại, nhiều khi �ng c�n xen cả v�o nội bộ Gi�o hội, trong l�nh vực đạo l� nữa, tuy bao giờ �ng cũng b�n luận với c�c nh� thần học th�ng th�i v� với những �Gi�m mục ri�ng� của �ng.

Sống dưới triều đại Charlemagne, người ta đ� lo sợ cho Gi�o hội sẽ bị b� tay dưới �chi�u b�i suy t�n�. Người ta tự hỏi phải chăng những lấn �t của chế độ Justinianus muốn t�i diễn ? Đối với một l�nh tụ nổi tiếng như Charlemagne, tưởng kh�ng thể c� truyện đ�. Thật vậy, khi �ng vừa mất, ch�nh h�ng gi�m mục m� �ng cất nhắc l�n, đ� được liệt v�o h�ng cao nhất trong đế quốc với một thế lực rất lớn dưới triều Louis le Pieux, m� kh�ng c�n bị ch�nh quyền hạn chế hay kiểm so�t l�i th�i nữa. Cũng do đấy trong thượng b�n thế kỷ IX, một h�ng gi�o sĩ th�nh h�nh, với những nh�n vật chỉ đạo nổi tiếng như Wala, Hincmar, trong khi th�nh Biển đức Aniane (750-821), người c� tuổi hơn, lại đứng ra ngo�i v�ng ch�nh trị để chỉ chăm lo việc tu đức m� th�i. [7]

Dưới thời một �ng vua hiền l�nh, nh�t nh�t, như Louis le Pieux n�y, nhiều loạn ly, tranh chấp xảy ra, th� ch�nh h�ng gi�m mục của Charlemagne đ� ra tay bảo vệ đế chế. Trong khi c�c ng�i chưa giải quyết xong về quyền tư hữu bất khả x�m của Gi�o hội, cũng như quyền định đoạt của c�c ng�i trong phạm vi gi�o luật, th� h�a ước Verdun (843) ph�n chia đế quốc T�y phương ra l�m ba. Sau đ�, l� họa x�m lăng của qu�n Normand, Hung Gia Lợi v� Sarrasen. Từ t�nh trạng hỗn loạn n�y sẽ ph�t sinh một trật tự mới, tức chế độ vương quyền v� phong kiến, ho�n to�n tr�i ngược với ch�nh s�ch tập quyền của nh� Carolingien.

3. Ng�i Gi�o ho�ng trong đế quốc nh� Carolingien

Tr�n đất � Đại Lợi, kể cả từ khi vua Agilulfus v� d�n Lombardo theo đạo C�ng gi�o (603), người Roma vẫn kh�ng thể qu�n được họ l� một d�n man rợ, nhất l� l�c n�y họ c�n muốn thống trị cả b�n đảo. Sau triều đại Liutprando (712-744), Astolfus (749-756) người h�ng của d�n tộc Lombardo, l�n kế nghiệp Ratchis (744- 749) tho�i vị đi tu. Năm 752, Astolfus đem qu�n chiếm Ravenna. Sớm muộn, kinh th�nh Roma sẽ lọt v�o tay �ng. C�c đức Gi�o ho�ng đều hiểu biết như thế, n�n đ� kh�ng ngần ngại k�u gọi sự can thiệp của d�n Franc v� sự trung th�nh của một triều đại, m� ch�nh c�c ng�i đ� tận t�nh gi�p đỡ. Năm 754, đức Th�nh Cha Stephan III (752-757) đ�ch th�n sang Ph�p quốc gặp vua P�pin, chủ sự lễ xức dầu cho �ng tại Saint-Denis. Mặc dầu gặp nhiều kh� khăn v� chống đối P�pin (751-768) hai lần vượt n�i Alpes đến giải v�y cho �l�nh địa Th�nh - Pher�� (Patrimoine St-Pierre), đồng thời chiếm xứ Ravenna cho đức Th�nh Cha, c�ng với năm tỉnh (pentapole): Rimini, Pesaro; Fano, Senigallia, Ancona. Một quốc gia mới được khai sinh (756) ở �u ch�u: nước T�a th�nh. C�c sứ giả của ho�ng đế Đ�ng phương Constantinus V l�n tiếng phản kh�ng, nhưng v� hiệu.[8]

Ng�i Gi�o ho�ng từ nay phải chăng sẽ tho�t được hết mọi đe dọa qu�n sự, mọi �p lực ch�nh trị hoặc tinh thần? Kh�ng n�n vội tin như thế. Hai mươi năm sau, Didier, vua Lombardo, g�y lại lực lượng, lợi dụng l�c Charlemagne vướng ch�n ở mặt trận Saxonia, quyết kh�i phục lại giang sơn, đe dọa nước T�a th�nh. Vua Charles d�n Franc đem qu�n đến cứu đức Th�nh Cha Adrian I (772-795). Sau nhiều th�ng bị v�y h�m trong th�nh Pavia, Didier vua Lombardo phải đầu h�ng v� điều kiện. Charles to�n thắng, s�p nhập l�nh thổ Lombardia v�o đế quốc (774). H�nh như Charles đ� c� � định thiết lập tr�n đất � một Li�n hiệp vương quốc dưới quyền Roma, v� muốn x�c định lại nền độc lập của nước T�a th�nh. Nếu như P�pin l� người kh�ng c� tham vọng g� kh�c, ngo�i việc x�y dựng một nền tự trị thật sự cho ng�i Gi�o ho�ng, m� �ng chỉ đ�ng vai Patricius, nghĩa l� �kẻ bảo vệ v� trang�, th� Charlemagne người kế vị P�pin, vốn t�nh độc t�i v� đ� để � đến vận mệnh � Đại Lợi quốc từ l�u, kh�ng thể tự chế tham vọng đặt quyền m�nh tr�n b�n đảo n�y. Charlemagne quan niệm rằng nước T�a th�nh, kể cả th�nh Roma, kh�ng thể đứng ngo�i v�ng kiểm so�t v� can thiệp của �ng.

Charlemagne đ� c�ng với đức Th�nh Cha Adrian tổ chức nước T�a th�nh (774-781). Nhưng với vị Gi�o ho�ng kế nhiệm, đức Le� III (795-816), mối bang giao mới thật chặt chẽ, v� Charles được vị đại diện Ch�a Kit� trao ban những vinh dự lớn nhất. Vừa đắc cử ng�i Gi�o ho�ng, đức Le� đ� gởi cho Charles ch�a kh�a th�nh Pher� v� cờ hiệu Roma l�m tặng vật danh dự. Năm 799, bị giam giữ bởi một cuộc nổi loạn, sau khi tho�t ngục, ng�i đ�ch th�n đi Paderborn cầu cứu đại vương. Charlernagne đưa đức Th�nh Cha trở lại gi�o đ�. Năm 800, đức Le� tiếp rước Charles v�o th�nh Roma, v� đ�y l� lần thứ ba �ng tới kinh th�nh mu�n thuở. Lễ Gi�ng sinh năm ấy, đức Th�nh Cha trong phẩm phục Gi�o ho�ng tự tay đặt vương miện l�n đầu Charlemagne quỳ trước mồ th�nh Pher�. [9]

Biến cố lịch sử v� c�ng quan trọng: trong � nghĩ của Gi�o ho�ng, th�i độ n�y trước hết l� để ghi ơn v� tưởng thưởng Charlemagne, vị �n nh�n của Gi�o hội Roma, người chiến sĩ anh dũng C�ng gi�o, b�ch chiến b�ch thắng, đ� thống nhất c�c Quốc gia Man di T�y phương th�nh một khối, đ� hạ được qu�n Lombardo, đ� l�m qu�n Sarrasen khiếp sợ, sau c�ng bắt d�n Saxon ương ngạnh phải quy phục quyền uy Ch�a Kit�. Th�i độ của đức Le� c�n muốn t�i diễn những truyền thống huy ho�ng của một đế quốc Kit� gi�o, tức đế quốc của Constantinus v� Theodosius. Trong tương lai, n� đ�nh dấu một sự tho�t ly, kh�ng những về ch�nh trị m� cả về tinh thần khỏi quyền tối cao Byzantin, với biết bao rắc rối đ�ng lo ngại cho đức tin. Charlemagne sau khi được kho�c tr�n m�nh một vinh dự cao cả, sẽ đi hẳn v�o truyền sử c�c D�n tộc. Qua th�i độ n�i tr�n, đức Le� đ� đưa nh� Vua l�n tuyệt đỉnh danh vọng trần thế, đồng thời vận mạng của c�c gi�o đo�n Ch�a Kit� được trao cho �ng bảo vệ.

Hoạt động trả ơn v� thầm mong t�i sinh những truyền thống huy ho�ng của một đế quốc Kit� gi�o, v� tự đặt m�nh dưới quyền bảo trợ của nh� Carolingien, ta thử xem địa vị v� quyền h�nh của đức Le� III v� c�c đấng kế vi ng�i ra sao. Theo sử gia Duchesne, th� đia vị vương quyền trần gian của T�a th�nh bấy giờ kh�ng hơn một �ng vua chư hầu. Mặc dầu được biệt đ�i v� trọng k�nh, đứng chủ một t�i sản khổng lồ, quyền của Gi�o ho�ng ngay tr�n l�nh thổ m�nh cũng chẳng hơn vị phụ ch�nh xứ Provence hay Aquitaine l� bao. Đến cả quyền tr�n đối với gi�m mục th�nh Ravenna ng�i cũng kh�ng c�, ngay tại Roma, khi muốn trừng phạt c�c kẻ chủ mưu dấy loạn, ng�i cũng thấy quyền m�nh bị hạn chế. Lạ l�ng hơn nữa l� d�n của ng�i lại phải thề trung th�nh với Ho�ng đế. Chủ ch�nh quyền của ng�i Gi�o ho�ng như vậy rất tương đối: n� nằm dưới quyền bảo hộ của đế quốc.[10]

Từ t�nh trạng n�y, đức Eugeni� II (824-827) phải đi đến một thỏa ước dưới triều Louis le Pieux. Đ� l� bản Hiến chương 11.11.824, trong đ� d�n Roma (gi�o sĩ v� gi�o d�n) được nh�n nhận c� quyền bầu cử Gi�o ho�ng, nhưng vị Gi�o ho�ng đắc cử, trước khi đăng quang, phải tuy�n th� trước mặt Ho�ng đế. Ngo�i ra, quyền cai trị c�c l�nh thổ c�n phải chịu sự kiểm so�t thường xuy�n của người đại diện Ho�ng đế. Hai mươi năm sau, khi l�n ng�i Gi�o ho�ng, đức Sergi� II (844 - 847) đ� phải cực nhọc để xin vua Lothaire ph� chuẩn cuộc bầu chọn m�nh.[11]

Theo những sự kiện tr�n, th� sự lệ thuộc của c�c Gi�o ho�ng đối với thế quyền quả thiệt nặng nề. Tuy nhi�n, kh�ng thiếu những vị Gi�o ho�ng tỏ ra kh� ph�ch, mỗi khi cần sử dụng quyền m�nh, nhất l� trong phạm vi thi�ng li�ng. Năm 833, đức Gregori IV (827- 844) đ� can thiệp v�o việc tranh chấp giữa c�c con c�i của Louis le Pieux. Ch�nh ng�i đ� cho mở rộng hải cảng Ostia, x�y th�nh đắp lũy v� đặt t�n l� Gregoriopoli. Khoảng năm 830, ng�i cung hiến một đại th�nh đường d�ng k�nh c�c Th�nh: lễ Chư Th�nh bắt đầu c� từ đấy. Năm 844, đức Sergi� II (844-847), trước khi mở cửa tiếp ho�ng th�n Louis đặc sứ của Lothaire, đ� đ�i �ng phải thề rằng m�nh đến Roma chỉ c� mục đ�ch t�m �ch lợi cho Quốc gia v� Gi�o hội. Ngo�i ra, trong hết mọi trường hợp, ng�i Gi�o ho�ng nắm giữ hai đặc quyền qu� b�u: chỉ m�nh ng�i c� quyền trao Pallium, v� chỉ m�nh ng�i chủ tọa lễ nghi xức dầu tấn phong Ho�ng đế.

Pallium l� phẩm phục d�nh cho c�c tổng gi�m mục, biểu hiệu quyền t�ng đồ. C�c tổng gi�m mục được l�n chức bất cứ v� l� do n�o v� bởi ai, đều phải nhận Pallilum do tay đức Gi�o ho�ng, v� chỉ khi ấy quyền b�nh của c�c ng�i mới c� hiệu lực. C�n ho�ng đế l�n ng�i do quyền thừa kế hay do một cuộc bầu cử, điều đ� kh�ng can chi, nhưng vương quyền chỉ được quốc d�n biết đến khi �ng được đức Th�nh Cha xức dầu v� đặt vương miện. Do đấy, ng�i gi�o ho�ng vẫn l� nguồn th�ng ban quyền b�nh. V� c�c �ng được nh� Carolingien, từ Louis le Pieux đến Lothaire, từ Charles II đến Louis III, đều nhận l�nh nhận vương miện ho�ng đế từ tay Gi�o ho�ng.

C� những h�nh động của ng�i Gi�o ho�ng đối với thế quyền, l�m người ta phải kinh ngạc v� kh�m phục: đ� l� th�i độ của thần quyền trước sự vi phạm luật h�n nh�n. Vua Lothaire II (855-869) xứ Lorraine, v� muốn cưới n�ng hầu Waldrade, đ� t�m hết c�ch, kể cả những lời vu c�o t�n nhẫn, để ly dị b� Theutberge. Việc l�m của Lothaire được nhiều người, trong đ� c� cả gi�m mục, can thiệp v� hậu thuẫn. Dầu vậy, đức Th�nh Cha Nicolas I (858-867) cương quyết kh�ng chấp nhận một việc đ� rồi. Ng�i truất chức hai gi�m mục Cologne v� Tr�ves, những tay sai của Lothaire, ng�i c�n buộc nh� Vua bằng bất cứ gi� n�o phải trở về với Theutberge. Sau 9 năm đụng độ �c liệt, Gi�o hội vẫn giữ lập trường. Khi Lothaire muốn rước lễ tại Cassino, đức Adrian II (867-872) đ� đ�i �ng phải nhắc lại lời thề kh�ng được đi lại với n�ng Waldrade nữa. Nh� Vua thề v� l�n rước lễ. S�u tuần lễ sau, Lothaire l�n cơn sốt v� từ trần (869).[12]

Lễ xức dầu v� đặt vương miện chỉ l� để quốc d�n nh�n nhận sự hợp ph�p của một �ng vua tức vị, chứ kh�ng bảo vệ được một triều đại khỏi sụp đổ. Lễ tấn phong cho Charles II (875) do đức Gioan VIII (872-882), cũng như lễ đặt vương miện cho Louis III (886) đ� kh�ng thể lấy lại được quyền uy cho những �ng vua cuối thời nh� Carolingien, tước hiệu Ho�ng đế dần dần mất đi � nghĩa của n�, v� kh�ng c�n bảo vệ được Gi�o hội nữa. Gi�o ho�ng phải đi t�m một người bảo trợ hữu hiệu kh�c. Trong khi c�c ng�i c�n đang t�m c�ch kết th�n với những �ng ho�ng xa x�i, th� quyền T�a th�nh rơi v�o tay lũng đoạn của nam tước xứ Spoleta (891).

 

II

GI�O HỘI V� CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN


1. Ng�i Gi�o ho�ng trong tay chuy�n quyền của h�ng qu� tộc Roma

Dưới thời bảo hộ của nh� Carolingien, c�c Gi�o ho�ng đ� chẳng bao giờ được tự do thật sự, nhưng dầu sao quyền b�nh của c�c ng�i vẫn c�n được k�nh trọng. Đến l�c ng�i Gi�o ho�ng lọt v�o b�n tay lũng đoạn của những l�nh tụ phong kiến v� lương t�m, để rồi hết k�u cứu ai.[13]

Vấn đề gai g�c nhất cho đất nước T�a th�nh từ trước tới nay, l� l�m sao dung h�a được c�c quyền lợi giữa vị gi�m mục th�nh Roma với d�n của ng�i, nhất l� với c�c quan chức cao cấp trong th�nh phố. Ngay dưới triều P�pin, nh�n cuộc bầu cử đức Stephan IV (768-772), đ� c� những đụng độ đẫm m�u đưa tới một cuộc dấy loạn (767-769). Sang thế kỷ X, những đụng độ như thế hầu như thường xuy�n. Tệ hơn nữa, ch�nh ng�i Gi�o ho�ng cho tới khi đ� c�n được k�nh trọng, nay cũng kh�ng tho�t khỏi những b�n tay v� đạo ngược đ�i v� sỉ nhục.

Vụ �n Gi�o ho�ng Pormos� (891-896) được coi l� một th�nh c�ng vẻ vang nhất của c�c �ng ho�ng xứ Spoleta. Viện cớ rằng Gi�o ho�ng n�y đ� l�n ng�i bất hợp ph�p, nhưng kỳ thực chỉ v� muốn b�o th� việc ng�i đ� trao vương miện cho ho�ng đế Arnulfus nước Đức. X�c của nạn nh�n được quật l�n sau 9 th�ng ch�n cất, bị đưa đến một hội đồng x�t xử. Kết quả l� Formos� bị cắt chức v� n�m xuống s�ng Tiber (897). Đức Gi�o ho�ng Stephan VII (896- 897), tự � hay bị �p kh�ng r�, đ� l�m theo � T�a �n đ�. Nhưng đức Gioan IX (898-900), người kế vị thứ tư của Formos�, đ� lấy lại danh dự cho ng�i.

Tuy nhi�n thời khủng hoảng đ� bắt đầu, Gi�o hội đến l�c bị nhục bởi ch�nh những l�nh tụ tinh thần của m�nh đ� được bầu l�n một c�ch độc đo�n, kế tiếp nhau một c�ch bừa b�i v� chết đau đớn. Gi�o hội trong 70 năm đi dần v�o c�i �ch tủi hổ của gia đ�nh Theophylaco. Từ năm 896 đến 965, tr�n 20 vị l�n ng�i Gi�o ho�ng. C� những vị phải r�t lui v� d�n ch�ng bất m�n l�m loạn, hoặc bị cắt chức bởi những người đỡ đầu nham hiểm. Trước hết, từ năm 900 đến 915, người chủ động trong cuộc l� nghị sĩ Theophylaco, nguy�n to�n quyền xứ Ravenna, người nắm quyền qu�n sự lẫn h�nh ch�nh v�o, đối với một h�ng sĩ bất lực v� đ�m d�n phe ph�i, �ng d�ng bạo lực. Sau �ng, từ năm 915 đến 932, đến lượt con rể �ng, tức Alberico I quận c�ng xứ Spolela. Rồi từ năm 932 đến 954, đến Alberico II, con trai của Alberico I. B�n cạnh những nh�n vật n�y, những người coi T�a th�nh Latran kh�ng kh�c th�i ấp của một gia tộc, c�n c� những người đ�n b� như Theodora, vợ Theophylaco, v� Marozia con g�i của Theodora cũng l� vợ Alberico I, v� đấy l� một sỉ nhục. L� những con người độc đo�n v� sa đọa, hai mẹ con Theodora đ� thay nhau d�ng thủ đoạn quyến rũ, dọa nạt v� bạo lực để b�u xấu, h�m hại hoặc khủng bố tinh thần c�c Gi�o ho�ng đương nhiệm.[14]

Sergi� II (904-911) l� �con b�i� dễ điều khiển nhất của Theodora. Khi Gioan XI (931-935) con của Marozia v� Gioan XII (955-964) con của Alberico II, l�n ng�i Gi�o ho�ng, th� tại Gi�o triều Latran xảy ra kh�ng biết bao nhi�u truyện thật đ�ng xấu hổ. Tuy nhi�n, kh�ng n�n vơ đũa cả nắm để kết �n tất cả c�c vị dưới thời thảm bại n�y. Đức Gioan X (914-928) đ� c� c�ng đ�nh đuổi qu�n Sarrasen ra khỏi s�o huyệt Carigliano, v� nổi tiếng v� đ� cứu được kinh th�nh mu�n thuở khỏi tay Marozia. Ng�i c�n muốn trao vương miện ho�ng đế cho Hugue xứ Provence, v� cũng v� � định đ� m� phải bỏ mạng (928). C�c cuộc bầu chọn Gi�o ho�ng của Alberico I kh�ng phải đ�ng ph�n n�n tất cả: con người ưa d�ng bạo lực n�y tuy thế c�n c� li�m sỉ �ng đ� cộng t�c với th�nh Odon (879-942) trong việc mở mang d�ng Cluny, v� cũng biết bận t�m đến việc x�y dựng nhiều tu viện tr�n đất � Đại Lợi. Nhưng trong khi ng�i Gi�o ho�ng c� cơ hội để được tho�t khỏi tr�ng �l�m t�i�, th� việc l�n ng�i Gi�o ho�ng của Gioan XI con �ng, v� Gioan XII ch�u nội �ng, đ� l�m cho Gi�o hội trở lại t�nh trạng cũ.

Octavian, người thanh ni�n 18 tuổi, l�n chức tối cao trong Gi�o hội, tức Gioan XII (955-964). Ch�n nản v� bất m�n bao tr�m khắp Roma v� đời sống tư của vị Gi�o ho�ng bất xứng n�y. Gioan y�u cầu Otton I (936-973) nước Đức bảo vệ ng�i Gi�o ho�ng, Otton nhận lời ngay v� từ l�u đ� để � đến t�nh trạng tr�n đất �. Nhưng Otton đặt điều kiện: trước hết �ng phải được tấn phong ho�ng đế với tất cả quyền lợi theo đ�, kể cả lời thề trung th�nh về ph�a Gi�o ho�ng (962). Otton I kh�ng phải l� con người tầm thường, �ng đ� th�nh c�ng trong việc t�i thiết nền đế chế sau một thế kỷ bị sụp đổ, �ng l� một l�nh tụ can đảm d�m đương đầu với kẻ th�, v� đ� đẩy lui được qu�n x�m lăng Magyar v� Slavo. Ngo�i ra, Otton l� một t�n hữu c�ng gi�o ch�n th�nh, �ng hết sức ngao ng�n khi nghe n�i đến những gương xấu của ng�i Gi�o ho�ng, t�nh t�nh �ng lại thẳng thắn v� rất gh�t gian tr�. [15] Do đấy, khi Gioan XII c�ng với B�renger �m mưu hại �ng, �ng đ� thẳng tay trừng trị. Được dẫn đến một c�ng đồng, v� sau khi nghe những lời tố c�o của h�ng gi�o sĩ Roma với những bằng chứng cụ thể, vị Gi�o ho�ng bất xứng bị c�ch chức v� bị trục xuất khỏi Gi�o hội (963). Gioan phủ nhận bản �n, g�y n�n một thời loạn ly. Nhưng rồi một t�nh thế mới xuất hiện l� ng�i Gi�o ho�ng kh�ng c�n l� �con mồi� cho một phe nh�m, hay một gia đ�nh phong kiến n�o nữa. Được chuyển sang quyền bảo vệ của c�c vua nước Đức, Gi�o hội trở lại t�nh trạng giống như dưới triều Carolingien.


2. Ng�i Gi�o ho�ng trong đế quốc La Đức

Đế quốc do Otton I thiết lập (962) kh�ng ho�n to�n giống đế quốc nh� Carolingien. Về phương diện l�nh thổ, t�n đế quốc mang t�n La đức mở rộng về miền đ�ng, b�nh nguy�n Trung �u; s�ng Oder, Vistule, Tibiss ch�nh l� l�nh vực hoạt động qu�n sự của triều đại mới n�y, v� l� nơi thực hiện c�c chương tr�nh cải tiến c� phương ph�p. Nhiều nước T�y �u đứng ngo�i ảnh hưởng của đế quốc La đức, như T�y Ban Nha, Anh, v� đặc biệt nước Ph�p của nh� Cap�tien.[16]

T�n đế quốc, về phương diện ch�nh trị, kh�ng c� lợi thế như nh� Carolingien, l� tập trung được c�c d�n c�ng gi�o th�nh một khối dưới quyền m�nh. Nhưng đừng nghĩ rằng ảnh hưởng của n� chỉ hạn hữu ở miền Bắc hay miền Đ�ng Đức quốc m� th�i. Nhiều th�nh phố quan trọng của đế quốc như Cologne, Aix, Worms, Mainz, Spira, hầu hết nằm tr�n đất Rhenania của Charlemagne xưa. Những th�i ấp rộng lớn của nh� Otton trong c�c xứ Lorraine, Bourgonde, Provence v� Lombardia l�m cho đế quốc c� nhiều li�n lạc với đời sống kinh tế cũng như tinh thần T�y �u v� v�ng Địa Trung Hải, tức c�c nước theo văn minh Roma. Những quyền lợi ch�nh trị đ� hơn một lần buộc nh� Otton phải can thiệp v�o ch�nh trường nước �. Bởi vậy đế quốc La đức tuy kh�ng c� sắc th�i �quốc tế� như đế quốc của Charlemagne, nhưng n� cũng kh�ng thể coi được l� của ri�ng d�ng giống German.

Danh hiệu �Th�nh đế quốc La đức� c� lẽ chỉ muốn nhắc lại thời đế quốc của Constantinus v� Theodosius, tuy nhi�n n� cũng diễn tả một sự thật kh�c nữa. Lễ xức dầu, một nghi lễ ho�n to�n t�n gi�o, kh�ng những biểu hiệu sự trọng k�nh của người d�n đối với một �ng vua m� họ phải tuy�n thệ trung th�nh, nhưng c�n để người d�n nh�n nhận những cơ cấu tổ chức trong đế quốc được bắt nguồn từ t�n gi�o. H�ng Gi�o phẩm khi gh� vai g�nh đỡ t�a nh� đế quốc, đương nhi�n trở th�nh những cộng sự vi�n quan trọng kh�ng k�m, m� c�n hơn c�c l�nh ch�a phần đời. Nhờ c� c�c ng�i, ho�ng đế th�u thuế dễ d�ng, mộ binh mau lẹ, những th�i ấp của ho�ng gia cũng được bảo đảm hơn. Ho�ng đế lợi dụng l�ng trung th�nh của c�c gi�m mục v� được c�c ng�i trợ lực một c�ch hữu hiệu hơn bất cứ một giai cấp n�o. Để đền đ�p, ho�ng đế rộng tay trong việc x�y cất th�nh đường v� mở rộng th�m l�nh thổ cho T�a th�nh. Cả hai b�n hoạt động chung cho sự b�nh trướng đức tin Kit� gi�o v� cho quyền uy đế quốc. Đ� l� mục ti�u ch�nh trị của Otton I (936-973) v� Otton II (973-983). � của hai cha con l� muốn thần quyền v� thế quyền hoạt động song song với nhau, nếu kh�ng phải l� tr� trộn t�n gi�o với ch�nh trị.

H�nh động như thế sẽ kh�ng khỏi bị đưa đẩy tới những mục ti�u ph�m tục. Triều đại Otton III (983-1002), dựa theo quan điểm qu� thực tế v� duy lợi đ�, sẽ cho thấy một bầu trời tươi s�ng v� mở rộng. Otton III đứng ra thiết lập một �đế chế Li�n hiệp quốc� gồm c�c d�n tộc tự � thống nhất bởi c�ng một niềm tin, dưới quyền chỉ huy của Roma C�ng gi�o; quyền chỉ huy đ� do sự phối hiệp giữa Ho�ng đế v� Gi�o ho�ng. Thể chế n�y được thực hiện rộng r�i dưới thời Gi�o ho�ng Silvestr� II (999-1003) gốc Ph�p, khiến nước Hung của vua th�nh Stephan v� nước Ba Lan của nh� Boleslas cảm thấy h�nh diện khi được gia nhập h�ng ngũ C�ng gi�o, m� kh�ng phải lệ thuộc một thế lực n�o. [17]

C�c sử gia thường tỏ ra nghi�m khắc, khi n�i đến �ng ho�ng trẻ tuổi Otton III n�y. Người ta tr�ch �ng một c�ch gay gắc v� đ� bỏ đường lối của c�c ti�n đế, người ta cho �ng chỉ l� thuyết v� ảo tưởng. Tuy nhi�n, Otton III c� h�nh ảnh một �ng ho�ng hiệp sĩ, bạn tri kỷ của những đấng th�nh như Adalbert, H�ribert, Romualđ�, t�nh t�nh thận trọng, quảng đại v� rất gh�t gian tr� lưu manh. H�nh ảnh một nh�n vật như thế, tưởng kh�ng phải l� kh�ng thu h�t được cảm t�nh v� sự k�nh nể của nhiều người. Thi�n Ch�a quan ph�ng đ� ban cho T�y phương năm 1000 một �ng vua như thế, thiệt l� một hồng �n rồi.

Với Henry II (1002-24), Corad II (1024-39), Henry III (1039- 56), th�nh đế quốc trở lại đường lối cũ, �t tin tưởng v�o c�c d�n tộc xa lạ. Một lần nữa ch�nh trị t�n gi�o tập trung v�o việc hảo vệ quyền lợi ri�ng của chủng tộc German v� ho�ng gia. Vả lại, đ�y l� thời ho�ng kim của Gi�o hội Đức. Nhiều đại th�nh đường được x�y cất trong c�c đ� thị lớn d�ng k�nh đức th�nh Micae, th�nh Georgi�; những kỳ c�ng mỹ thuật Roma xen lẫn với t�i nghệ thuật Gemantdu gồm gian đầu (abside) l�m cung th�nh c� b�n thờ v� cung nguyện d�nh cho gi�o sĩ; c�ch một h�nh lang (transept), đến phần ch�nh gi�o đường c� hai h�ng cột cứng khỏe chia th�nh ba gian gian giữa rộng hơn c� ghế ngồi, d�nh cho gi�o d�n cả ba gian. Những th�nh đường nguy nga ở Hildeisheim v� Cologne, những tu viện Siegburg v� Laach c�n đứng đấy, để n�i l�n c�i hồn nghệ thuật của những người đ� x�y dựng l�n ch�ng, qua những đường n�t c�n đối một c�ch h�ng vĩ, trang nghi�m v� cứng c�t.

Sang thế kỷ XIII, c� lối kiến tr�c khung v�m cao v�t, như th�nh đường ở Spira. Kiến tr�c Gothic n�y nổi tiếng ở Limburg v� những t�c phẩm được thực hiện trong đại th�nh đường Bamberg. Dưới một ng�i nh� bằng đ�, thuật trang tr� c�c vật dụng b�n trong thiệt lộng lẫy v� sang trọng: những cửa lớn bằng đồng, những tấm thảm qu� b�u ph� diễn t�i nghệ của Byzantin, được Theophana người vợ Hy Lạp của Otton III đem tới, những trướng khảm ng� v� bạc, những b�n thờ chạm trổ thiết v�ng. Thuật đi�u khắc những h�m xương th�nh cũng rất đ�ng ca ngợi, v� kh�ng những l� b�u vật về nghệ thuật m� c�n l� b�u vật tinh thần nữa. Ở Cologne chẳng hạn, h�i cốt c�c đấng tử đạo (th�nh Ursula v� �mười một ng�n trinh nữ�), chiếc đinh Ch�a Gi�su, h�i cốt Ba Vua, đ� g�y phong tr�o t�n s�ng của gi�o d�n trong nhiều thế kỷ.[18] Mặt tiền c�c th�nh đường, thường đặt tượng những vĩ nh�n c� nhiều c�ng với đế quốc.

Brunus, gi�m mục th�nh Cologne, em ho�ng đế Cotton I, đ� giữ chức tể tướng suốt 18 năm. Cũng như nhiều đồng nghiệp kh�c c�ng thời ở Ph�p v� Anh, c�c vị gi�m mục n�y đều l� những tay kiến thiết v� l� �n nh�n của nhiều d�ng tu. Những gi�m mục, như Bernward th�nh Hildesheim, th�nh H�ribert, hay Arnus th�nh Cologne, đều l� những nh�n vật nổi tiếng l�m vẻ vang Gi�o hội. C�c ho�ng đế đem l�ng tin tưởng v� cậy nhờ c�c ng�i. V� ch�nh trong số c�c �ng ho�ng c� nhiều người sống đạo đức v� n�n gương s�ng, như Henry II v� ho�ng hậu th�nh Cunegunda. Đức tin được b�nh trướng sang những tỉnh mới thuộc c�c xứ Brandenburg, v� Bohemia. Nhiều t�a gi�m mục được thiết lập tại Magdeburg, Merseburg, Praga, Gniezno v� Cracovia, những li�n lạc với c�c xứ truyền gi�o ở Thụy điển, Phổ v� Ba Lan. Tất cả đều minh chứng c�c ho�ng đế, từ Otton I đến Henry III, đ� được thấm nhuần tinh thần C�ng gi�o trong c�ng cuộc l�o l�i đế quốc La Đức.


3. Gi�m mục hay chư hầu

Người ta tự hỏi, giữa một thời Gi�o hội lộ vẻ oai phong lẫm liệt như �một đạo binh d�n trận�, kỷ luật, giầu c�, quyền uy, phải chăng kh�ng c� g� đ�ng tr�ch ? Người ta kh� c� thể tin rằng, trong khi c�c cuốn k� sự v� c�ng đồng vạch ra sự sa s�t đ�ng thương t�m của h�ng gi�o sĩ �i Nhĩ Lan, Ph�p, �, th� chỉ c� Gi�o hội La Đức tho�t được t�nh trạng thảm bại đ�. Nhất l� người ta kh�ng thể hiểu được vụ Henry IV xảy ra sau n�y, nếu đ� kh�ng bắt đầu một c�ch ngấm ngầm từ nhiều triều đại trước.

Ho�ng đế Henry II hằng mong ước giao hảo với vua Robert nước Ph�p, nhằm triệu tập một c�ng đồng c� mục đ�ch sửa lại c�c lạm dụng v� n�ng cao tinh thần h�ng gi�o sĩ. Nhưng, l�m g� th� l�m, Gi�o hội của đế quốc La đức vẫn mang sẵn trong m�nh một khuyết điểm lớn lao về tổ chức nội bộ. V� vướng mắc ch�nh trị, v� dấn th�n v�o mọi l�nh vực, h�ng Gi�o phẩm đ�nh chịu l�m c�ng cụ cho đế quốc Cho dầu người ta được chứng kiến một sự kiện hiếm c� n�y l� khi nắm giữ chức gi�m mục th�nh Mainz, Cologne hay Worms, c�c anh em, con ch�u hoặc th�n th�ch của ho�ng đế vẫn sống xứng đ�ng v� n�u gương, người ta vẫn nhận thấy quyền gi�m mục bấy giờ thực sự kh�ng hơn g� mấy �ng chư hầu, v� Gi�o hội Đức đang tiến tr�n con đường biến th�nh một Gi�o hội của triều đại. Nguy hiểm hơn nữa, v� quyền lợi trần gian n�y m� c�c gi�m mục v� đan viện phụ đ�, tức c�c ��ng ho�ng của đế quốc�, phải lệ thuộc nh� Vua với tất cả nghĩa vụ bồi thần. C�c ng�i phải phục vụ ho�ng đế trong l�nh vực t�i ch�nh cũng như qu�n sự, phải v�ng lệnh v� trung th�nh. [19]

Trong thực tế, ho�ng đế đ� đi ngược với c�c c�ng đồng, khi đứng ra cắt cử c�c gi�m mục, bằng một lễ nghi trao nhẫn gậy. Như thế l� l�m sai lạc � nghĩa chức linh mục, l�m sai lạc quan điểm về quyền b�nh v� chức vụ th�nh. Từ đấy, t�nh trạng bất ổn kh�ng c�n ở l� thuyết nữa. V� lẽ, để nhận được một chức vụ g� cũng phải t�m quyền lợi t�i ch�nh trước hết, n�n những ai muốn l�n chức gi�m mục, nếu cần sẽ mua cảm t�nh của nh� vua. V� nh� vua, để khỏi bị thiệt, sẽ b�n chức tước trong Gi�o hội cho những gi�o sĩ thiếu lương t�m. Tội mại th�nh (simonie) v� thế lan rộng như phong c�i tr�n khắp th�n m�nh Gi�o hội thời phong kiến n�y. Từ tội mại th�nh, ph�t sinh ra một t�nh trạng v� lu�n: chủ nghĩa Nicolaisme.[20] V� kh�ng c�n quan t�m đến gi� trị thi�ng li�ng của kẻ thuộc quyền, c�c bề tr�n bất xứng hoặc bất lực sẽ nhắm mắt trước những tội trạng xấu xa, bỏ qua cả những vụ h�n nh�n của nhiều linh mục.[21] Đ� l� t�nh trạng Gi�o hội �u ch�u thế kỷ XI. N� ph�t sinh ở nước ph�p, ho�nh h�nh ở Bắc �, c�n ở Đức cũng c� nhưng k�n đ�o hơn. Khắp nơi, ch�nh trị đ� đầu t�n gi�o, một t�nh trạng đi ngược luật thi�n nhi�n, đ� tạo n�n những hậu quả thật tai hại. Đ�ng sợ hơn nữa l� khi đế chế đ�i quyền kiểm so�t cả Roma, nghĩa l� quyền Gi�o ho�ng cũng phải chịu chung số phận như c�c gi�m mục Đức v� �.

C� điều n�n biết l� sự can thiệp của c�c ho�ng đế thường đem lại những hậu quả tốt đẹp. Nhờ c� c�c �ng m� nhiều vị gi�m mục �, Ph�p hay Đức rất xứng đ�ng, như Gioan XV, Gregori V, Silvestr� II, Biển đức VIII v�, sau n�y Clemant� II, Le� IX, đ� đạt tới chức tối cao trong Gi�o hội. V� người ta c�n nhớ, một khi c�c cử tri người � được tự do h�nh động, họ đ� t�n một thanh ni�n thuộc d�ng họ Theophylaco l�n ng�i Gi�o ho�ng, tức Biển đức IX (1033- 44; 1045; 1047-48). Như thế l� họ đ� lạm dụng quyền bầu cử của m�nh trong một việc v� c�ng hệ trọng (1033).

Sự can thiệp của c�c ho�ng đế v�o việc bầu cử Gi�o ho�ng, dĩ nhi�n l� phải tạo n�n một t�nh trạng lệ thuộc rất đ�ng tiếc. Trước hết, theo như Gioan XII đ� thỏa thuận với Otton I (962) l� vị t�n Gi�o ho�ng phải tuy�n thệ trung th�nh với ho�ng đế, rồi việc bầu chọn phải qua ho�ng đế chấp nhận v�, trong trường hợp tranh chấp, việc giải quyết thuộc quyền ho�ng đế. Ch�nh v� �quyền lợi� đ� m�, tại c�ng đồng Sutri (1046), Henry III đ�i ba �ng tranh ng�i Gi�o ho�ng phải r�t lui, v� buộc mọi người phải nh�n nhận gi�m mục th�nh Bamberg, tức Clement� II (1046-47). [22] Sự lệ thuộc n�y kh�ng thể k�o d�i m�i được. Đến l�c phải xảy ra những cuộc đụng độ, để thần quyền tho�t khỏi thế quyền.

III

GI�O HỘI V� GI�O HO�NG TIẾN TỚI ĐỘC LẬP


1. Những Gi�o ho�ng cải c�ch : Le� IX v� Gregori VII

Những n�t tr�nh b�y tr�n đ�y cho ch�ng ta thấy bộ mặt Gi�o hội thế kỷ X-XI c� những vết lem luốc, h�nh h�i Gi�o hội gầy m�n tiều tụy v� những mưu toan �p đảo của thời phong kiến v� v� những nguy cơ đe dọa ph�t xuất từ l�ng Gi�o hội: luật độc th�n gi�o sĩ kh�ng c�n được t�n trọng, một số lớn gi�m mục sa v�o tệ đoan mại th�nh. Bị ch�nh quyền phong kiến chi phối bằng những vụ gi�nh quyền phong chức, n�n sứ mạng thi�ng li�ng của ng�i Gi�o ho�ng v� h�ng Gi�o phẩm kh�ng c�n nguy�n vẹn, thuần t�y v� độc lập. T�nh trạng ấy lan tr�n khắp c�c nước T�y phương, th�m v�o đ� những cuộc x�m lăng của d�n Normand v� Sarrasen. Ngay ở Roma trộm cướp, hận th�, rối loạn xảy ra h�ng ng�y. Năm 1045, linh mục Gratianus, một nh� gi�o luật nổi tiếng d�ng Biển đức, phải l�n tiếng y�u cầu vị Gi�o ho�ng bất xứng Biển đức XI từ chức, để cứu nguy cho T�a Pher�. Những sự kiện đ� chứng tỏ Gi�o hội đang ở trong cơn khủng hoảng.[23]

Tuy nhi�n, sự thật t�nh trạng kh�ng nghi�m trọng đến độ bi đ�t v� thất vọng. Giữa thời sa s�t v� trụy lạc, Gi�o hội vẫn phản chiếu những tấm gương trinh khiết v� b�c �i, qua đời sống của bậc đan sĩ. C�c đan viện trong xứ Lorraine v� Bỉ, nhất l� d�ng Cluny, vẫn cung cấp những tu sĩ rất tận t�m với sứ mạng kh�ng ai ch� tr�ch được những nh� truyền gi�o nhiệt th�nh l�m phấn khởi mọi t�m hồn đang bị dao động, đồng thời x�y dựng lại cuộc sống kỷ luật xưa, trước hết cho ch�nh c�c cộng đo�n tu sĩ, sau l� cho h�ng gi�o sĩ v� gi�o d�n ngo�i đời nữa. Nhiều đan viện phụ th�nh thiện sống trong thời đại n�y, như th�nh Maieul (906-994), th�nh Odilon (962- 1049).[24]

Hơn nữa, ng�i Gi�o ho�ng thời đ� kh�ng đến độ bị coi rẻ như người ta tưởng tượng. Trước hết, việc Gi�o ho�ng đắc cử tuy�n hứa trung th�nh với ho�ng đế bao giờ cũng thi h�nh trước khi đăng quang; v� kh�ng một Gi�o ho�ng n�o chịu nhận nhẫn gậy bởi tay ho�ng đế, để trở th�nh một chư hầu. Vả lại, trong khi ng�i Gi�o ho�ng bị lấn �t bởi những b�n tay phong kiến như Crescentius v� Cencius, hoặc phải c� những th�i độ d� dặt v� ki�ng nể ho�ng đế, th� ngược lại, tại c�c miền xa x�i ở Bắc �u, nhiều vua ch�a vẫn b�y tỏ l�ng hiếu thảo đối với vị đại diện Ch�a Kit�. C�c vua xứ Hung Gia Lợi v� Ba Lan rất trọng k�nh ng�i. Năm 991, c� sự trao đổi ngoại giao giữa Vladimir xứ Kiev v� đức Gioan XV; năm 994, Oda xứ Ba Lan đ� nh�n danh quốc gia Gniezno b�y tỏ l�ng trọng k�nh T�a th�nh; năm 1000, vua Stephan nước Hung Gia Lợi nhận vương miện bởi tay đức Silvestr� II; năm 1006, trước khi xuất qu�n đ�nh Anh quốc, quận c�ng Guillaume le Conqu�rant xứ Norman die đ� đến xin ph�p đức ch�nh Cha Alexanđr� II, v� được trao kỳ hiệu Th�nh Pher�.[25]

Do những cử chỉ ưu �i đ�, đồng thời � thức được quyền uy tối cao của m�nh, c�c Gi�o ho�ng bắt đầu kh�i phục quyền b�nh thi�ng li�ng bị lu mờ v� sự lấn �p của thế quyền. Nền tự do Kit� gi�o l� dạng khi nhiều c�ng đồng được triệu tập, tại Ravenna (967), Roma (981), Pavia (1002), nhằm vạch trần những �m mưu, những lạm dụng l�m băng hoại sinh lực của h�ng linh mục. Đ�y đ� như đang bừng tỉnh. C�c gi�m mục xứ Flandre, Lorraine, Bourgonde kh�ng ngần ngại l�n tiếng phản dối những nghi lễ, tục lệ khiến c�c ng�i phải lệ thuộc v�o thế quyền.[26] Những nh� thần học như hồng y Humberto (+ 1063), những nh� lu�n l� như th�nh Pher� Đamian (+ 1072), mớ những chiến dịch b�i trừ nạn mại th�nh. D�n ch�ng xứ Lombardia, đặc biệt ở Milan cũng nổi dậy đ�i trục xuất c�c phần tử tham nhũng ra khỏi Gi�o hội.[27] Nhiều kế hoạch được tung ra nhằm gi�p gi�o sĩ th�nh thị sống ph� hợp với thi�n chức m�nh, theo tu luật th�nh �utinh (cuộc cải c�ch gi�o sĩ kinh điển). [28] Sau c�ng, lợi dụng thời suy vi của đế chế, năm 1059 đức Th�nh Cha Nicolas II (1059- 61) ban h�nh Sắc lệnh b�i bỏ mọi sự can thiệp v�o việc bầu cử Gi�o ho�ng, v� d�nh việc bầu cử cho c�c hồng y c� chức gi�m mục v� linh mục.[29] Tuy nhi�n, để thực hiện c�ng cuộc cải c�ch vừa lớn lao vừa can đảm, vinh dự n�y đ� d�nh cho hai vị th�nh Gi�o ho�ng Le� IX (1049-54) v� Gregori VII (1073-85).

Khi Brunus, gi�m mục th�nh Toul (Lorraine), được nghị hội Worms tiến cử l�n ng�i Gi�o ho�ng (1048), ng�i đ� cương quyết từ chối cho đến khi việc tiến cử đ� được hằng gi�o sĩ Roma chấp nhận: đ� l� đức Le� IX. Ng�i bắt đầu ngay một c�ng cuộc cải c�ch to�n diện với một phương ph�p thật đơn giản: dựa v�o mấy huấn dụ đ� c� trước, ng�i thẳng tay sửa trị những ai cố chấp để l�m gương. Đức Th�nh Cha th�n h�nh từ xứ n�y qua xứ nọ: Lombardia, Rhenania, Ph�p, Đức, Nam �,... Đến đ�u ng�i cũng thị s�t, tra hỏi, kinh l� c�c gi�m mục, v� c�ch chức những kẻ bất xứng. Đ�ng ch� � nhất l� vụ th�nh Reims nước Ph�p. Bấy giờ vua Henri I kh�ng chấp nhận cho đức Le� đặt ch�n l�n l�nh thổ của �ng, nhưng ng�i cứ v�o. Nh�n dịp cung hiến ng�i th�nh đường d�ng k�nh th�nh Remi, đức Th�nh Cha buộc mỗi gi�m mục tới dự dại lễ phải thề rằng: m�nh đ� �kh�ng nhận cũng kh�ng phong chức cho ai bằng đường lối mại th�nh�. Kết quả: 5 gi�m mục, trong số n�y c� tổng Gi�m mục th�nh Reims, đ� kh�ng d�m thề. Tuy nhi�n nhờ ở tấm l�ng nh�n hậu, những ai th�nh thật nhận lỗi đều được tha thứ. Từ đ�, đức Le� đ� cản lại được tệ đoan mại th�nh v� những vụ phạm ph�p c�ng khai.[30]

Ho�n cảnh đ� đem đến cho nh� cải c�ch Gregori VII một đường lối h�nh động kh�c hẳn, khiến ng�i trở th�nh một trong những nh� lập ph�p nổi tiếng của Gi�o hội. [31] H�nh như trong lịch sử kh�ng c� vị Gi�o ho�ng n�o bị chỉ tr�ch v� bị xuy�n tạc nhiều như đức Gregori VII. Sự thực, đan sĩ Hildebrand kh�ng phải l� con người bần tiện, ưa b�o th� hay độc �c như đối phương thường mỉa mai tr�n những bức h� họa. Đức Gregori xuất th�n l� một đan sĩ Biển đức th�nh thiện, qu� trọng đức trinh khiết, y�u th�ch kỷ luật v� c� nh�n đức tho�t tục cao độ. Ng�i hiểu r� hơn ai hết về sự cao trọng của chức linh mục, lại c� t�nh y�u tha thiết đối với T�a Pher�, n�n ng�i quyết sống chết phải đưa h�ng gi�o sĩ trở về đời sống th�nh thiện xứng đ�ng, v� Gi�o hội phải được hưởng một bầu kh� trong l�nh của đức khiết tịnh v� thanh li�m. Chương tr�nh cải c�ch của đức Gregori nhằm hai điểm ch�nh: x� đổ những tục lệ suy đồi v� ti�u diệt nạn mại th�nh.

Tr�n ngai Gi�o ho�ng, v� qu� quen với đức v�ng phục mau lẹ v� t�nh nguyện theo tinh thần Biển đức, đức Gregori đ� tỏ ra rất nghi�m khắc với những kẻ bất phục t�ng, d� đ� l� đan viện phụ, gi�m mục hay tổng Gi�m mục, kể cả c�c vua ch�a. Theo ng�i, tr�n phương diện si�u nhi�n v� gi�o luật, c�c �ng ho�ng kh�ng bằng một kẻ rốt hết trong h�ng gi�o sĩ. N�i t�m, ng�i muốn gạt phăng mọi hạn chế đối với thần quyền trong phạm vi t�n gi�o.[32] Ng�i viết: �Chỉ m�nh Gi�o ho�ng Roma, t�y theo ho�n cảnh, c� quyền c�ng bố lề luật mới..., ph�n chia của cải giữa c�c gi�o phận giầu ngh�o... Ng�i c� quyền c�ch chức một ho�ng đế... Kh�ng một khoản luật n�o lại kh�ng do ng�i. Kh�ng ai được ph� ph�n c�c quyết định của ng�i, nhưng ng�i c� quyền ph�n x�t mọi kẻ kh�c. Kh�ng ai được quyền x�t xử ng�i, nhưng ng�i c� quyền tha v� th�o lời tuy�n thệ trung th�nh với những �ng ho�ng bất xứng".[33]

Như thế nghĩa l� đức Gregori muốn sử dụng một quyền b�nh, giống như quyền của một đan viện phụ trong đan viện, để thực hiện một c�ng cuộc canh t�n vĩ đại. Nhiều c�ng đồng triệu tập ở Roma trong những năm 1074-1075 với những quyết định quan trọng: cấm h�ng gi�o sĩ kết h�n, huyền chức c�c linh mục hoặc gi�m mục cố chấp, b�i bỏ sự trao nhẫn gậy của vua ch�a.[34] Nhiều vị kh�m sai T�a th�nh được cử đi khắp nơi để thực thi c�c quyết định tr�n: ở Ph�p, Huge th�nh Die chiếm một l�nh vực rất lớn, �ng hăng say hoạt động, khiển tr�ch v� c�ch chức một số gi�m mục, Tổng Gi�m mục, khiến đức Th�nh Cha phải can ngăn.[35] Mặc dầu những hoạt động của nh� cải c�ch cũng như của c�c vị thừa h�nh ngoại diện xem ra cực đoan v� thiếu kh�n ngoan, nhưng đứng trước một t�nh trạng qu� th� thảm, cần phải sử dụng những biện ph�p mạnh mới c� thể phục hưng Gi�o hội, đức Gregori đ� � thức v� l�nh tất cả những tr�ch nhiệm đ�.


2. Vụ Canossa (1077) v� kết quả của cuộc cải c�ch Gregorian

Th�i độ cứng rắn n�i tr�n l� nguy�n nh�n g�y ra vụ tranh chấp v� c�ng s�i nổi giữa đức Gregori VII v� ho�ng đế Henry IV (1056-1106). Gregori phản đối việc nh� Vua che chở những gi�m mục vừa bị c�ch chức. Ngay từ năm 1075, cuộc tranh chấp bắt đầu, vấn đề được n�u ra l� ai l�m chủ Gi�o hội, ai c� quyền tr�n c�c gi�m mục v� Tổng Gi�m mục: Gi�o ho�ng hay ho�ng đế? V� muốn tho�t ly một �Gi�o ho�ng kh� t�nh� n�y, lại th�m nịnh thần x�i giục, Henry cho triệu tập hai c�ng đồng (th�ng 1 năm 1076) tại Worms v� Placencia, c�ch chức Hildebrand �Gi�o ho�ng giả�. Henry đ� kh�ng ngờ m�nh sẽ phải đụng đầu với một vị Gi�o ho�ng, như Gregori VII. �ng cũng kh�ng ngờ rằng người m� �ng đối đầu ấy sẽ kh�ng quan t�m đến c� nh�n m�nh bị x�c phạm, cho bằng ch�nh th�nh Pher� bị lăng nhục. Ch�ng ta h�y đọc ở đ�y những lời lẽ của th�nh Gregori khi l�n �n một �ng vua (14.2.1076).

�Lạy th�nh t�ng đồ trưởng Pher�, ng�i biết t�i chỉ mu�n được chết trong tấm �o tu sĩ hơn l� được ngồi tr�n ngai vị của ng�i..., bởi lẽ quyền tr�i buộc v� th�o cởi ở tr�n Trời cũng như ở dưới đất m� Thi�n Ch�a đ� trao cho t�i l� do ng�i xin để t�i được thi h�nh thay thế ng�i. Được ng�i t�n nhiệm, v� danh dự Gi�o hội phải được bảo vệ nh�n danh Thi�n Ch�a to�n năng. Cha, Con v� Th�nh Thần, bằng quyền uy của ng�i, t�i cấm Henry IV, con ho�ng đế Henry III l� người ki�u ngạo đến độ m� qu�ng d�m đứng l�n chống Gi�o hội của ng�i, từ nay kh�ng được cai trị đế quốc Đức nữa; t�i tuy�n bố th�o lời tuy�n thệ cho tất cả mọi gi�o d�n đ� buộc m�nh trung th�nh với �ng ta, v� cấm mọi người kh�ng được nhận �ng ta l�m vua... Vả lại, ở địa vị một người Kit� hữu, �ng ta đ� từ chối v�ng phục... bằng c�ch l�a bỏ Gi�o hội v� �m mưu chia rẽ, n�n t�i thay thế ng�i ra vạ tuyệt th�ng cho �ng ta, để tất cả mọi d�n thi�n hạ biết rằng: tr�n đ� n�y Con Thi�n Ch�a hằng sống đ� x�y Gi�o hội của Người, v� rằng d� tất cả quyền lực hỏa ngục c� tung ra cũng kh�ng thể ph� nổi�.[36]

Bản �n của đức Gregori c� những hậu quả, m� Henry kh�ng thể lường trước được: c�c l�nh ch�a, c�c chư hầu, c�c gi�o chủ hầu hết tẩy chay Henry: xứ Saxonia đ� từ l�u muốn nổi dậy nay gặp cơ hội. Năm 1077, sau nhiều cuộc bại trận, Henry bị c� lập v� chờ số phận định đoạt tại nghị hội Augsburg sẽ họp v�o ng�y 2.2.1078. Biết thế, Henry đ�nh liều, giữa một đ�m đ�ng gi� r�t năm 1077, �ng t�m đến đức Th�nh Cha Gregori tr�n miền n�i Toscana, tại l�u đ�i Canossa, �ng quỳ gối xin tha lỗi v� giải vạ. C� lẽ Gregori đ� thừa hiểu th�i độ �đ�ng kịch� của nh� vua, nhưng v� ng�i c�n mang trong m�nh mối thiện cảm đối với c�c ti�n đế, đối với mẹ �ng, th�i hậu Agnes, ng�i cũng muốn đặt niềm tin v�o tuổi trẻ của �ng; nhất l� v� ng�i l� linh mục của Ch�a Kit�, trọng t�nh thương hơn trừng phạt: đức Gregori đ� giải vạ cho Henry.

Được giải vạ xong, v� sau khi kh�i phục được ng�i vị, nghĩa l� chỉ mấy th�ng sau, Henry triệu tập qu�n sĩ quyết b�o th� kẻ đ� thi �n cho �ng. Năm 1080, c�i chết tr�n chiến trường của Rodolphus, vị ho�ng đế được kh�m sai T�a th�nh nh�n nhận, đ� tuy�n truyền như một c�i �n của Thi�n Ch�a. Th�m v�o đ�, h�ng gi�m mục Đức v� Lombardo cũng đứng sang phe Henry, tuy�n bố hạ bệ �Gi�o ho�ng giả Hildebrand� v� cử gi�m mục th�nh Ravenna l�n ng�i Gi�o ho�ng, tức Clement� III. Gregori cương quyết kh�ng chịu thua, suốt 3 năm c�n nắm giữ gi�o đ�, ng�i cầm cự với qu�n sĩ của Henry, rồi bị c�ng h�m trong th�nh qu�ch Thi�n thần. Ph�t cuối c�ng, được 30.000 qu�n Normand của Robert Guiscard giải v�y, nhưng đức Th�nh Cha từ trần tại Salerno ng�y 25.5.1085. Henry IV l�nh vương miện bởi tay Gi�o ho�ng giả Clement�.

Cứ ngoại diện m� x�t th� Henry đ� thắng vẻ vang. Nhưng sự nghiệp của c�c vĩ nh�n kh�ng chỉ x�t theo kết quả của những thủ đoạn xảo tr�, những h�nh động của bạo lực. Tuy bị phản bội v� phải bỏ th�n nơi lưu lạc, nhưng ch�nh v� c�i chết cho c�ng l� v� ch�n thiện m� Gregori được coi l� kẻ chiến thắng oanh liệt. Gregori đ� chết, nhưng cuộc �c�ch mạng Gregorian� th�nh c�ng. Gọi l� cuộc c�ch mạng, v� n� biến đổi bộ mặt v� những tục lệ của h�ng gi�o sĩ, cải c�ch c�c cơ cấu tổ chức, tho�t ly khỏi �p lực thế quyền, thu hồi quyền tự do độc lập cho Gi�o hội v� ng�i Gi�o ho�ng, đặc biệt l� n�u cao thần quyền tuyệt đối của Gi�o hội.

Do cuộc canh t�n Gregorian n�i tr�n, tục lệ trao nhẫn gậy dần dần biến tan, chỉ c�n � nghĩa tượng trưng tại hai nước Ph�p v� Anh. Nhưng c�c người kế vị Henry IV (+ 1106) c�n nu�i tham vọng giữ lại tục lệ đ�. Đức Th�nh Cha Pascal II (1099-1118) nhất quyết kh�ng chấp nhận, ng�i tuy�n bố th� bỏ hết mọi th�i ấp, mọi quyền lợi trần gian. Kết quả: Henry V (1106-25) bằng l�ng từ bỏ mọi nghi thức trao nhẫn gậy (1106). Tuy nhi�n, m�i đến triều Gi�o ho�ng Calixt� II (1119-24), một thỏa hiệp mới được k� kết tại Worms (1122), theo đ� c�c lễ nghi c� � nghĩa phục t�ng thế quyền phải b�i bỏ hẳn, v� vị gi�m mục sau khi được tuyển chọn theo gi�o luật, sẽ nhận bởi tay c�c vị l�nh đạo Gi�o hội mọi quyền thi�ng li�ng c�ng với nhẫn gậy, tượng trưng cho quyền đ�. Vị t�n gi�m mục, với danh nghĩa một c�ng d�n, c� thể được ho�ng đế trao cho những quyền lợi thế tục, m� chiếc phủ việt l� biểu tượng. Như vậy, thần quyền v� thế quyền nơi c�c gi�m mục đ� được ph�n định r� rệt, từ đấy quyền b�nh của nh� Vua cũng bị hạn chế trong phạm vi nhỏ b� hơn. Năm 1123, đức Th�nh Cha Calixt� II triệu tập đại C�ng đồng Latran I, chấp nhận thỏa hiệp Worms, quyết định chế độ độc th�n gi�o sĩ, tuy�n bố bất th�nh c�c cuộc h�n nh�n của linh mục, ph� tế v� phụ ph� tế.


3. Vấn đề nội bộ: người Roma chống Gi�o hội Roma

Cũng như trong nhiều thế kỷ trước, Gi�o hội kh�ng những đối ph� với kẻ th� b�n ngo�i, m� c�n gặp phải những kẻ th� ngay b�n trong. Tướng Crescentius (+ 998) nổi dậy �m mưu thiết lập nền Cộng h�a Roma, giết đức Th�nh Cha Biển đức VI (973-974), c�ng với Gi�o ho�ng giả Bonifaci� VII (974-986) [37] uy hiếp Biển đức VII (974-983), giết đức Gioan XIV (983-984). Rồi đến vụ Philagatus (997-998) chiếm quyền Gi�o ho�ng của đức Gregori V (996-999). Năm 1000, mặc dầu đ� c� Otton III d�ng hết uy quyền để bảo vệ, đức Th�nh Cha Sylvestr� II (999-1003) cũng phải bỏ Roma l�nh nạn nơi đồn tr� của qu�n ho�ng gia. Những cuộc biểu dương lực lượng của Henry II, Conrad II v� Henry III kh�ng đủ sức ti�u diệt �phiến loạn�.[38]

Người ta hy vọng sẽ dập tắt mọi bạo h�nh, khi những �phiến loạn� Theophylaco v� Crescentius kh�ng c�n, khi thế quyền bị gạt ra ngo�i c�c cuộc bầu cử Gi�o ho�ng, v� khi việc bầu cử n�y được trao cho hồng y đo�n (1059). Lẽ ra v� �ch chung Gi�o hội, c�c vị n�y phải can đảm loại bỏ những th�nh kiến v� hận th�. Nhưng kh�ng lu�n được như vậy, đ� l� nguy�n nh�n những vụ bất h�a tạo n�n nhiều �Gi�o ho�ng bất xứng�, c� t�n trong danh s�ch c�c đấng kế vị th�nh Pher�.

Cảnh chia rẽ xảy ra một c�ch hết sức bất ngờ v�o ng�y 14.2.1130, khi đức Honori� II (1124-30) vừa nằm xuống. Duy�n do từ việc c�c hồng y gi�m mục đồng � t�n Innocent� II (1130-43) l�n ng�i Gi�o ho�ng, bị c�c hồng y linh mục phản đối sau khi bỏ phiếu bầu Pedro th�nh Le�n, tức Anaclet II. [39] Innocent� c� nhiều uy t�n c� nh�n, tr�i lại người ta lo ngại đức t�nh gian h�ng của Anaclet v� c�n ch� �ng thuộc d�ng d�i Do Th�i. Th�nh Benađ� v� th�nh Norbert tuy�n bố ủng hộ Innocent� v� thuyết phục được hầu hết c�c vua T�y phương: Ph�p, Đức, Castilla, Aragon, Anh. Trước con mắt thế giới C�ng gi�o, Innocent� l� Gi�o ho�ng ch�nh thức. Nhưng ch�nh ng�i đ� phải trả bằng một gi� rất đắt l� chịu lưu đ�y. Được c�c vua k�nh trọng, c�c d�ng tu đ�n rước nồng hậu, ng�i cư tr� tại Cluny một thời gian, rồi đi Li�ge, St-Denis, Reims, tại đ�y ng�i xức dầu phong vương cho Louis VI (1133).

Anaclet mất năm 1137, Victor IV l�n kế vị, nhưng t�nh t�nh nh�t nh�t, �ng bầng l�ng nhượng bộ v� r�t lui, nhờ đ� đảng ph�i mới y�n (1138). Đức Th�nh Cha Innocent� II trở về Roma, triệu tập đại C�ng đồng Latran II (1139). Nhưng người Roma lại v�ng dậy đ�i quyền tự chủ v� được ho�ng đế Conrad III (1138-52) nước Đức yểm trợ. Tu sĩ Amoldo th�nh Brescia, m�n đệ của Abelard, chủ trương trở lại chủ nghĩa x� hội mọi hoạt động ch�nh trị, rồi k�o nhau đi cướp ph� nhiều th�nh đường v� tu viện. Arnoldo viết: �C�c gi�o sĩ c� t�i sản, c�c gi�m mục nắm giữ �quốc vương quyền� (r�gales), c�c tu sĩ c� tiền bạc, họ kh�ng thể rỗi linh hồn được. Tất cả mọi của cải n�y thuộc nh� Vua, v� nh� Vua chỉ được sử dụng trong việc mưu �ch cho người d�n m� th�i �.[40]

Arnoldo bị l�n �n trong c�ng đồng Latran II. �ng phải bỏ trốn sang Zurich, rồi lưu vong b�n nước Ph�p. Sau c�ng �ng trở về Roma, h� h�o d�n ch�ng tẩy chay đức Eugeni� III (1145-53), v� lập ch�nh thể cộng h�a. Nhưng ch�nh thể mị d�n của �ng kh�ng đứng vững l�u d�i. Năm 1153, sau khi thất bại trong cuộc tranh cử v�o thượng nghị, Arnoldo phải rời khỏi Roma. Nhưng 16 th�ng sau, �ng bị bắt đưa về Roma, chịu �n treo cổ, x�c hỏa thi�u trước khi n�m xuống s�ng Tiber (1155). Đức t�nh cương trực của vị Gi�o ho�ng người Anglo-Saxon, đức Adrian IV (1154-59), v� sự can thiệp bằng qu�n lực của Friedrich I Barbarossa (1152-90) c�ng l�m cho c�c cuộc �phiến loạn� ch�ng tan r�.[41]

Để tr�nh những tranh chấp c�n c� thể xảy ra sau n�y trong c�c cuộc bầu cử Gi�o ho�ng, đức Th�nh Cha Alexanđr� III (1159-81) trong c�ng đồng Latran III (1179) đ� quyết định việc bầu cử Gi�o ho�ng do c�c hồng y, đ�i phải c� hai phần ba số phiếu mới th�nh. Số c�c hồng y bấy giờ l� 52.


4. Ng�i Gi�o ho�ng v� nh� Hohenstauphen.
[42]

Th�nh Gregori VII kh�i phục quyền tối cao thi�ng li�ng v� bất khả x�m của Gi�o hội, ng�i đ� th�nh c�ng. Thấy thế, c�c luật gia của Friedrich I Barbarossa cũng cố t�m ra lẽ, để tranh đấu cho quyền bất khả x�m v� quyền độc lập tuyệt đối của thế quyền đối với thần quyền. Nh�n đấy, cuộc tranh chấp k�o d�i suốt ba phần tư thế kỷ, từ năm 1171 đến 1250, giữa c�c �ng ho�ng Hohenstauphen với ba Gi�o ho�ng Alexanđr� III, Innocent� III, Innocent� IV. Vấn đề được n�u l�n l� quyền ho�ng đế, dầu chỉ ở phạm vi thế tục, c� phải tuyệt đối kh�ng?

Trường hợp ho�ng đế x�c phạm đến Gi�o hội hoặc giới răn Thi�n Ch�a, �ng c� tho�t được h�nh phạt kh�ng? C�c Gi�o ho�ng, tức những đại diện cho uy quyền Gi�o hội, đ�ng vai bảo vệ lu�n l� v� kỷ luật Kit� gi�o, trả lời rằng: kh�ng.[43]

Friedrich Barbarossa xuất th�n l� một qu�n nh�n th� bạo, ki�u căng, �ng c� tham vọng thống trị cả b�n đảo �. Sau khi được Adrian IV băng h�, người đ� xức dầu phong vương cho �ng, �ng đứng l�n ủng hộ li�n tiếp ba Gi�o ho�ng giả chống lại đức Th�nh Cha Alexanđr� III (1159-81). Năm 1161, d�n th�nh Milan nổi l�n chống �ng, bị �ng ti�u diệt. Nhưng �ng bị �n vạ tuyệt th�ng, v� phải lưu vong b�n Ph�p quốc (1168). Người Lombardo phục th�, d�n th�nh Milan t�i thiết th�nh tr� v� đ�nh bại �ng tại Legnano (1176). Cũng như Henry IV xưa, Barbarossa phải c�i m�nh trước mặt đức Alexandr� III tại vương cung th�nh đường Th�nh Marc� th�nh Venecia, xin nhận hầu hết mọi điều kiện m� đức Th�nh Cha bắt �ng phải chịu (1177).[44]

Nửa thế kỷ sau, cuộc tranh chấp t�i diễn từ 1230 d�n 1250 giữa c�c Gi�o ho�ng v� Friedrich II Hohenstauphen (1212-50). Cuộc tranh chấp l�c ban đầu c� t�nh ch�nh trị hơn l� t�n gi�o. N� diễn tiến bằng những th�ch thức, hăm dọa v� l�n �n lẫn nhau.[45] Gregori IX (1226-41) v� Innocent� IV (1243-54) l� những người kế vị xứng đ�ng của th�nh Gregori VII v� đức Alexanđr� III. Nhưng Friedrich II kh�ng phải l� người tầm thường: �ng rất th�ng minh, đồng thời l� nh� lập ph�p nổi tiếng v� c� đời sống lu�n l� tương đối kh�. Nhưng chỉ v� �ng thiếu cảm t�nh với t�n gi�o, m� trở th�nh con người gian h�ng v� bội gi�o. Friedrich v� c� lời hứa với đức Th�nh Cha Innocent� III (1198-1216), n�n đ� được t�n nhiệm v� l�m vua Roma (1216), c�ng được đức Th�nh Cha Honori� III (1216-27) đặt vương miện ho�ng đế (1220).

Sau khi được kho�c tr�n m�nh đủ mọi vinh dự, Friedrich bắt đầu bội phản, nhưng bị đức Th�nh Cha Gregori IX phạt vạ tuyệt th�ng (1227). Năm 1228, mặc dầu mang vạ tr�n m�nh, �ng cầm đầu binh Th�nh gi� lần VI v� chiếm được Gierusalem, bằng một thỏa hiệp với Meledin (Malex-El-Kamid). Trở về đất �, �ng l�m h�a với đức Th�nh Cha (1230), nhưng đ� chỉ l� th�i độ �đ�ng kịch�. Năm 1241, Friedrich bị đức Gregori phạt vạ tuyệt th�ng một lần nữa, khi �ng n�y ngăn cản việc triệu tập một c�ng đồng tại Roma, bằng c�ch phục k�ch bắt c�c một l�c cả đo�n xe chở c�c tổng Gi�m mục v� gi�m mục tới dự c�ng đồng, v� giam giữ tại Napoli. Nhưng bốn năm sau, đức Innocent� IV đ� kh�o tạm l�nh sang Lyon, v� quyết định triệu tập một đại C�ng đồng để thanh to�n Friedrich (1245). Friedrich xuất qu�n định chiếm Lyon, nhưng ở b�n kia s�ng Rh�ne vua th�nh Louis IX l�n tiếng đe rằng: �Kẻ x�c phạm đến vị l�nh đạo Gi�o hội sẽ bị trừng phạt xứng đ�ng�.[46]

Đại c�ng đồng Lyon I l� t�a xử vụ Friedrich II. Những hoạt động gian dối, những tội bội phản, những cuộc đầu h�ng tr� h�nh đều được vạch trần; những tội d�m �, những vụ x�m phạm đến quyền lợi người d�n v� Gi�o hội đều bị l�n �n. Kết quả, Friedrich bị truất phế, cả đế quốc La đức đứng l�n chống lại �ng. �ng v� Euzius con �ng đại bại. Friedrich buồn rầu, l�m bệnh chết (1250), chấm dứt triều đại Hohenstauphen, Rudolf I (1273-91) nh� Habsburg l�n cầm quyền, bỏ tham vọng của nh� Hohenstauphen tr�n đất �.


5. Nước T�a th�nh v� mầu sắc ch�nh trị nơi đức Innocent� III

Nước T�a th�nh trở n�n cường thịnh dưới triều Gi�o ho�ng Innocent� III (1198-1216). Bi�n cương được mở rộng ở miền Bắc (Toscana) v� T�y Nam (Ancona, Spoleta, Benevento, Campania); đảo Corsia v� Sicilia cũng c� những đại diện từ Roma gởi đến cai trị. V� c� đất c� d�n, Gi�o ho�ng trở th�nh �ng vua, qui tụ được c�c lực lượng trọng yếu, mang mầu sắc quốc gia, với những nguồn lợi kinh tế v� qu�n sự quan trọng. V� ảnh hưởng Gi�o ho�ng mạnh mẽ, đ�ng kh�c lại sợ bị c�c quốc gia h�ng cường lấn �t, nhiều nước như Ba Lan, Scandinavia, Bohemia, Hung Gia Lợi, Bồ đ�o Nha, v� sau n�y cả Anh quốc, T�y Ban Nha cũng tự đặt dưới quyền bảo trợ tinh thần v� nhận quyền tối cao của T�a th�nh.

Trước thế kỷ XIII, đối với những nước nh�n nhận quyền T�a th�nh c�c Gi�o ho�ng chỉ can thiệp v�o những vấn đề t�n gi�o, d�n xếp c�c vụ tranh chấp v� chiến tranh. Nhưng đến thời đức Innocent� III, ng�i can thiệp v�o cả nội bộ c�c quốc gia đ� như việc truất phế hoặc t�n phong c�c vua, đ�i c�c nước phải nộp thuế hoặc viện trợ qu�n sự để đối ph� với kẻ th� Gi�o hội. Đức Innocent� III tuy kh�ng hề bắt một quốc gia n�o phải nhận quyền ng�i bằng văn bản, nhưng kh�ng bao giờ ng�i bỏ can thiệp v�o c�c vụ tranh chấp ng�i b�u. Chẳng hạn, tại Đức quốc ng�i l�m �p lực để t�n Otton IV (1198-1212) l�n ng�i Ho�ng đế, rồi khi �ng n�y bội phản, ng�i kh�ng ngần ngại loại bỏ �ng v� ủng hộ Friedrich Roger, tức Friedrich II (1212-50) mới 18 tuổi. Tại Anh C�t Lợi, khi nh� Vua ban h�nh �Đại ước ph�p� (Grande Charte 1215), đ� bị ng�i l�n �n cho rằng �thiếu k�nh trọng đối với T�a th�nh�, l�m thiệt hại cho nh� Vua v� l�m sỉ nhục h�ng qu� tộc Anh, mặc dầu �Đại ước ph�p� n�y c� những khoản nh�n nhận c�c quyền căn bản của Gi�o hội, m� trước đ�y thường bị c�c vua b�c bỏ.

Th�nh Gregori VII đ� n�ng quyền của th�nh Pher� l�n tr�n quyền c�c vua, nhưng chỉ nhằm mục ti�u t�n gi�o, bảo vệ c�ng l� v� kỷ luật, để chấm dứt những lạm dụng nơi c�c vua ch�a, khi c�c �ng n�y phạm lỗi: ratione peccati. Nhưng đức Innocent� III đ� đi xa hơn, trong việc b�nh vực v� �p dụng nguy�n tắc của đức Gregori. Ng�i d�ng quyền Gi�o ho�ng lấn �t c�c vua ch�a, can thiệp v�o ch�nh trị đối nội cũng như đối ngoại của c�c nước, l�m như ng�i l� �ng vua: ratione domini. Trong trường hợp như vậy, kh�ng thể nghĩ rằng ng�i h�nh động theo linh ứng Ch�a Th�nh Thần, v� thế ch�ng ta c� thể ph� ph�n đường lối ch�nh trị của vị Gi�o ho�ng n�y, như người ta từng ph� ph�n c�c nh� ch�nh trị kh�c.

Sự lạm quyền n�i tr�n kh�ng phải ri�ng đức Innocent� III, nhưng c�n ở cấp thừa h�nh, c�c đặc sứ, c�c sứ thần..., đ� hoạt động một c�ch rất nghi�m khắc: huyền chức, c�ch chức, đ�ng cửa th�nh đường, vạ tuyệt th�ng. Th�m v�o đ�, chế độ thuế kh�a nặng nề, khiến người ta coi ch�nh trị của Gi�o ho�ng như một c�i �ch.[47] Nhờ c� sự phản ứng của h�ng qu� tộc Anh, nền qu�n chủ Ph�p, Lombardo v� nh� cầm quyền Đức, tuy đ�i khi c� những lời lẽ bất b�nh hoặc những h�nh động qu� kh�ch xảy ra người ta đ� ngăn cản được sự lạm quyền của ng�i Gi�o ho�ng, muốn biến quyền thi�ng li�ng m� Thi�n Ch�a đ� ban cho Gi�o hội, th�nh một quyền uy tuyệt đối tức thần quyền ch�nh trị (th�ocratie).[48]

Dầu sao, người ta phải c�ng nhận c�c Gi�o ho�ng thời đ� đ� h�nh động như những người bảo vệ luật ph�p, kiến tạo h�a b�nh. Khi binh Th�nh gi� vắng b�ng c�c vua ch�a hay thiếu cấp chỉ huy, khi một �ng vua chết qu� sớm, khiến ngai v�ng c� thể rơi v�o tay bọn cướp quyền hoặc phiến loạn, c�c ng�i đ� d�ng đến quyền uy m�nh để b�nh vực kẻ yếu thế, đặng bảo vệ quyền lợi chung. Đ� l� nhiệm vụ m� ng�i Gi�o ho�ng đ� ho�n tất. Pha m�nh v�o những việc trần tục c�c ng�i kh�ng tr�nh được những nguy hiểm, những li�n lụy, cả sai lầm nữa. Nhưng giữa một thời văn minh Trung cổ, nếu c�c ng�i kh�ng l�m thế, tưởng kh� c� thể l�m tr�n sứ mạng của m�nh.


 

[1] S�ch tham khảo: Fliche - Martin: Histoire de l��glise, Q. VI (Martin), VII (Amann v� Dumas), VIII (Fliche) - Dom H. Poulet: Histoire du Christianisme, Q. II (le moyen �ge) - Lesne: Histoire de la propri�t� eccl�siastique en France, Q. I, II, Lille 1910, 1922-26 - Fliche: L�Europe occidentale de 888 � 1125 (Histoire g�n�rale de Glotz; moyen �ge, II) - J. Calmette: Le monde f�odal (�Clio� IV) v� Textes et documents (�Clio� XI, fasc. 2) - L. Duchesne: Liber pontificialis, 1886-1911, Q. I, v� II.

[2] Xem E. Lesne: op., cit., Q. I, tr 143-252 - Aigrain, trong Histoire de l��glise, Q.V, tr 331-349 v� 543-565.

[3] E. Lesne: op. cit., Q II, 1922, tr 1-33.

[4] M. Jacquin Histoire de l��glise, Q. II, 337-341.

[5] Xem Amann, trong Histoire de l��glise (Fliche - Martin), Q. VI, tr 71-82 - H. Poulet: op. cit., tr 63-68.

[6] Xem Lesne: op. cit., Q. II, tr 456-495.

[7] H. Poulet: op. cit., tr 99-111 v� 122-126.

[8] Aigrain, trong Histoire de l��glise, Q.VI, tr 412-430) v� Amann, Q.VI. tr 17- 68 - Xem Duchesne: Les premiers temps de l��tal pontifical, 1911.

[9] Amann, trong op. cit., Q.VI, tr 153-165 - Xem J. Calmette: Charlemagne et son oeuvre, Paris 1943.

[10] Duchesne: Les premiers temps de l��tal pontifical, tr 88-89.

[11] Amann, trong op. cit., Q.VI, tr 208-210 v� 275-276.

[12] Amann, trong: op. cit., Q.VI, tr 370-400.

[13] Amann v� Dumas: L��glise au pouvoir des laiques. Q.VII, trong: Histoire de L��glise.

[14] Ch�nh trong thời bị coi l� qu� �bẩn thỉu� n�y, người ta đ� bịa ra truyện �nữ Gi�o ho�ng Gioanna�, một c�u truyện kh�ng c� nền tảng lịch sử, song lại được c�c sử gia c� �c � với Gi�o hội khai th�c, trong khi kh�ng một sử gia đứng đắn n�o chấp nhặn.

[15] Fliche: L��urope occidentale de 88 � 1125 (Histoire g�n�rale de Glotz Moyen �ge. II), tr 132-160

[16] Fliche: op. cit., tr 193-264 v� 301-330.

[17] Fliche: op. cit., tr 218-232. Amann, trong op. cit., Q.VII, tr 376-392.

[18] L�ng s�ng k�nh của gi�o d�n thời trung cổ, nhiều khi kh�ng quan t�m đến sự thật của những �h�i cốt� m� họ k�nh.

[19] Amann, trong: op. cit., Q. VII. tr 189-211 v� 231-241.

[20] Một gi�o ph�i c� từ thế kỷ I , lu�n l� rất ph�ng t�ng

[21] Dumas, trong: Histoire de l��glise. Q.VII, tr 465-484 - Xem Fliche: La r�forme gr�gorienne, Q. I. Louvain 1924, tr 22-59. Amann, trong op. cit., Q.VII tr 60-97.

[22] Amann, trong: op. cit., Q.VII, tr 91-92 - Fliche: op. cit., Q. I, tr 107, số 2.

[23] Fliche: op. cit., Q. I, tr 107, số 2.

[24] Xem chương S�u, tr 244 v� tiếp.

[25] G. de Plinval: Le drame politique du moyen �ge, le sacerdoce et les princes trong: Histoire illustr�e de l��glise, Paris 1946, Q. I, tr 343.

[26] Fliche: La R�forme gr�gorienne, Q. I, tr 92-129 - P. Biron: Saint Pierre Damien.

[27] Về lạc gi�o Palaria ở Milan, xem Poulet: op, cit., Q. II, tr 319-320.

[28] Mandonnet-Vicaire: Saint Dominique, Q. II, tr 176-182.

[29] Fliche: op. cit., Q. I, tr 313-326. Triều đ�nh l�m bộ như kh�ng biết g� về Sắc lệnh n�y của đức Nicolas II.

[30] Fliche: op. cit., Q. I, tr 129-159 - E. Martin: Saint L�on IX - (�Les Saints�), Paris 1904.

[31] Fliche: La r�forme gr�gorienne, Q. II, �Gr�goire VII� Louvain 1925 - Elie Voosen: Papaut� et pouvoir civil � l��poque de Gr�goire VII, Louvain 1927 - H. X. Arquilli�re: Saint Gr�goire VII, Paris 1934.

[32] Fliche: op. cit., Q. II, tr 309-316 v� 389-398.

[33] Dictatus papae trong Fliche: op. cit., Q. II, tr 191-192.

[34] Fliche: op. cit., Q. II, tr 134-146 v� 173-189.

[35] Fliche: op. cit., A. II, tr 245-253 - Xem Saint Gr�goire VII, tr 77-81.

[36] Fliche: op. cit., tr 284

[37] Bonifaci� VII chết bất đắc kỳ tử năm 985, x�c �ng được qu�n tại c�ng trường tượng đ�i ho�ng đế Constantinus, đến sau được mấy linh mục đem ch�n cất. Năm 996, vua Otton III đ�nh bại Crescentius để phục quyền cho đức Gregori V. Nhưng khi Otton III vừa đi khỏi, Crescentius lại trở về Roma, nhưng bị c�ng h�m trong th�nh qu�ch Thi�n thần, phải đầu h�ng v� bị giết năm 998.

[38] Amann, trong op. cit., Q. VII, tr 51-111.

[39] Sắc lệnh của đức Nicolas II đ� kh�ng tr� liệu được trường hợp n�y, đức Innocent� được hầu hết c�c hồng y gi�m mục t�n nhiệm, song Anaclet lại thắng phiếu trong cuộc bầu cử.

[40] Otto de Freisingue: Gest. Frederic., Q. II, tr 20.

[41] Xem Vacandard: Vie de saint Bernard, Q. II, tr 245-258 v� 465-469 - H. Poulet: Histoire du Christianisme, Q. II, tr 551-558.

[42] Ho�ng tộc Đức, gốc Wurtemberg giữ ng�i Ho�ng đế từ 1138 (Conrad III) đến 1250

[43] E. Jordan: L�Allemagne et Italie aux XIIIe si�cles (trong Histoire g�n�rale de Glotz. II, iv) - Poulet: op. cit., Q. II, tr 560-565 v� 586 - H. X. Arquilliw�re: La formation de la th�ocratie pontificale, Paris 1926

[44] Cuộc bại trận ở Legnano (1176) v� thỏa hiệp Venecia (1177), h�a ước Constancia (1185), xem Hauck: op. cit., Q. IV, tr 184-311.

[45] Hauck op. cit., Q. IV, tr 745-852.

[46] H. Poulet: op. cit., Q. II, tr 628

[47] Xem lời ph� ph�n của th�nh Benađ�, trong De Consideratione, Q. III. ch. 2.

[48] Amann: Innocent III, Innocent IV trong Dict. de Th�ol. Cath.