HOME

 
 

Phần Nhất :
THƯỢNG CỔ VÀ TRUNG CỔ

Chương Bảy

CỘNG TÁC ĐẠO ĐỜI GIỮA THẦN QUYỀN

VÀ THẾ QUYỀN (t.k. VIII-XIII)
 

I. Giáo hội và nhà Carolingien

1. Tài sản Giáo hội và Charles Martel

2. Hoàng đế và giám mục

3. Ngôi Giáo hoàng trong đế quốc nhà Carolingien

II. Giáo hội và chế độ Phong kiến

1. Ngôi Giáo hoàng trong tay chuyên quyền của hàng quí tộc Roma

2. Ngôi Giáo hoàng trong đế quốc La Đức

3. Giám mục hay chư hầu

III. Giáo hội và Giáo hoàng tiến tới độc lập

1. Những Giáo hoàng cải cách: Leô IX và Gregori VII

2. Vụ Canossa (1077) và kết quả của cuộc cải cách Gregorian

3. Vấn đề nội bộ: người Roma chống Giáo hội Roma

4. Ngôi Giáo hoàng và nhà Hohenstauphen

5. Nước Tòa thánh và mầu sắc chính trị nơi đức Innocentê III  

 

Vì con người mà Giáo hội được thiết lập, và cũng vì con người mà Giáo hội nhập thế: Giáo hội sinh hoạt giữa nhân gian, Giáo hội tức nhiên không khỏi đụng chạm tới quyền lực của vật chất và trần gian. Hàng Giáo phẩm phải sử dụng quyền bính thiêng liêng do đấng Sáng lập trao phó, làm sao dung hòa với quyền lực đó. Chính vì trần gian này mà Giáo hội phải có tiền ban vật chất, để thi hành sứ mạng bác ái, để tồn tại trên mặt đất, và để phụng sự Thiên Chúa xứng đáng.

Thời nào cũng thế, dưới chính thể nào cũng vậy, sự thích nghi những mối tương quan giữa Giáo hội và quốc gia, sự dung hòa giữa thần quyền và thế quyền đã là vấn đề hết sức tế nhị. Nhưng vấn đề càng tế nhị hơn nữa trong thời Trung cổ, thời mà chính trị và tôn giáo sát cánh nhau chưa từng có, thời mà tất cả mọi hoạt động và giá trị trần gian đều quy về lợi ích thiêng liêng.

Đây không phải chỉ là vấn đề thuộc chính trị, nhưng còn có những yếu tố tôn giáo, những quyền lợi xã hội và kinh tế. Quyền bính của hàng linh mục và của vua chúa, thân phận con người, quy chế điền thổ, đều là những vấn đề phải bàn đến. Có những pha thật gây cấn, bởi lẽ khi lòng vị kỷ đụng độ nhau và khi quyền lợi vật chất được nói đến, tức thì tham vọng cũng nổi dậy theo.

Sự thực, vẫn có sự thông cảm giữa hai quyền bính trên nhiều căn bản, nhưng lại là những căn bản dễ thay đổi, tùy thời điểm, tùy hoàn cảnh. Do đấy, những cuộc xung đột rất ác liệt không thể tránh được. Chính những vụ xung đột ấy, chúng tôi sẽ tìm đến nguyên nhân và thuật lại những nét chính yếu.[1]


I

GIÁO HỘI VÀ NHÀ CAROLINGIEN


1. Tài sản Giáo hội và Charles Martel

Trong những điểm làm cho nền văn minh Trung cổ khác với văn minh hiện đại, phải kể đến tổ chức kinh tế, trong đó một phần khá lớn thuộc chủ quyền Giáo hội.[2] Người ta ước lượng, vào cuối triều đại Mérovingien khoảng năm 715, các thánh đường và tu viện chiếm tới một phần ba đất dai trồng trọt được. Vả lại, trong một thời tiền bạc còn hiếm, sự trao đổi hàng hóa còn ít, đất đai được coi là tài sản vững chắc và thiết thực nhất. Thời ấy, sự tước đoạt nhau về đất đai là tội phạm xấu xa hơn cả.

Ngay từ khi đế quốc Roma bắt đầu vào thời suy mạt, nhiều địa chủ, hoặc vì muốn theo tinh thần nghèo khó Phúc âm, hoặc vì muốn thoát khỏi gánh nặng trong việc quản trị tài sản, đã tự ý trao của cải mình cho Giáo hội. Đến khi Man dân xâm lăng, đất đai của Giáo hội cũng như của bất cứ ai khác, đều bị chiếm đoạt. Tuy nhiên, trong khi tài sản tư nhân rơi vào tay quân xâm lăng, thì uy thế của Giáo hội vẫn đứng vững. Nhờ sự chăm lo săn sóc của các giám mục, nhờ tinh thần hy sinh hăng say hoạt động của bậc tu sĩ, Giáo hội quyết đòi lại các quyền lợi và những tài sản đã bị phân tán. Đến khi chính các kẻ xâm lăng gia nhập hàng ngũ công giáo, họ liền nhìn nhận đến độ sợ hãi quyền uy thiêng liêng, khiến họ đi tìm sự tha thứ và xin cầu nguyện. Để làm quên đi những hành động phá hoại đáng ghét khi xưa, họ dâng cúng tiền của và đất đai vào thánh điện nọ, thánh đường kia một cách rất rộng rãi. Việc dâng cúng hình như thiếu suy nghĩ, đôi khi vì sợ hãi, thường không phải cho Giáo hội, mà họ quan niệm như một “đoàn hội vô danh”, nhưng thực ra họ có ý dâng cho một vị thánh: thánh Martin, thánh Đionisiô, thánh Pherô.

Tuy nhiên, không phải tất cả như vậy, vì dưới triều Mérovingien nhiều vua thật sự dâng của cải cho Giáo hội và vì Giáo hội. Trong việc Dagobert hay Clovis II dâng tặng những “doanh trại hoàng gia” (villas royales), người ta không thấy có một bằng chứng gì gọi là mê tín hay sự hãi. Đó chỉ là do lòng quảng đại, có lẽ hơi quá tay, của những ông vua mang sẵn một chương trình khai hóa. Các ông thừa hiểu rằng thánh đường là trung tâm đời sống xã hội quốc gia, tu viện là nơi đào tạo những phần tử ưu tú của đất nước, đảm đương công việc khuếch trương đất đai trồng trọt, và làm giầu văn hóa cũng như tinh thần cho quốc gia. Bởi đấy, mới có sự nâng đỡ bảo vệ và đặc ân cho hàng giám mục, cho các tu viện cổ kính và cho thiết lập thêm nhiều tu viện mới.

Điều đó hữu ích, bởi vì sự cố gắng và hy sinh của các giám mục và tu sĩ sẽ đem lại sự cường thịnh cho triều đại Charlemagne sau này. Nhưng cũng có bất lợi, bởi vì sự mở tay dành cho các thánh đường và tu viện quá nhiều tài sản, đất đai cùng đặc ân, sẽ đưa quốc gia đến chỗ khánh kiệt. Có nhiều ông vua phàn nàn một cách bực tức, có ông bạo dạn hơn đã dùng đến sức mạnh để lấy lại những của mà các vị tiên đế đã dâng cho Giáo hội. Tuy nhiên, sự cưỡng đoạt chưa phải là việc thường xuyên xảy ra, và cũng chưa có biện pháp lệnh để ngăn cản sự gia tăng đất đai cũng như tài sản của Giáo hội và của các tu viện mỗi ngày thêm lớn mãi.

Những mâu thuẫn và chênh lệch quá rõ rệt xảy ra vào đầu thế kỷ VIII. Đó là thời suy mạt của những ông vua cuối cùng nhà Mérovingien, và một dòng họ mới đứng ra nắm quyền, tức Pépin Herstal làm cung trưởng (thủ tướng 680-714) xứ Austrasia. Đó là ông tổ của triều đại Carolingien (751-987). Nhiều ông vua thuộc dòng họ này là những nhà lập pháp nổi tiếng: Charlemagne (768-814), Louis le Pieux (814-840), Charles le Simple (898-923). Trong việc trị nước, các ông triệt dể thi hành Bản pháp lệnh (Capitulaires) do Charlemagne soạn thảo và ban hành.

Charles Martel (685-741) lên thay cha giữ chức cung trưởng. Do hoàn cảnh của đầu thế kỷ VIII, Charles đã hành động một cách chớp nhoáng đối với tài sản khổng lồ của Giáo hội. Ông gây dựng và củng cố quyền uy quốc gia chống lại các phiến loạn. Ông đẩy lui được các cuộc xâm lăng vào đất Austrasia. Ông chiến thắng và chặn đứng được Hồi quân (Sarrasins) tại Poitiers (732). Tất cả những công cuộc ấy phải cần đến sự dũng cảm và cả phương tiện vật chất nữa. để võ trang binh sĩ, để tưởng thưởng các tướng lãnh, Charles Martel đã không ngần ngại đoạt lấy tài sản của Giáo hội, bằng cách thế tục hóa, mà ngày nay người ta gọi là “quốc hữu hóa”.[3]

Người ta đã cho đây là một hành động cấp thiết “vì dân vì nước”. Nhưng không phải giản dị có thế. Bởi vì, nếu đứng trước một hoàn cảnh cấp thiết ấy, Charles chỉ trưng dụng một phần tài sản của Giáo hội nhằm trang bị cho quân đội ông, việc làm của ông tuy độc đoán và đơn phương, song Giáo hội cũng dễ thông cảm. Nhưng thay vì hành động một cách ôn hòa, Charles đã tước luôn cả quyền tự hữu của hàng giám mục và tu sĩ. Đó là một lỗi lầm to lớn, một sự vi phạm các điều ước, muốn tái diễn cái cảnh cưỡng đoạt dã man của thế kỷ V. Những “giám mục” và “đan viện phụ” do ông cử lên nhằm phục vụ chiến tranh hoặc một chính thể, hỏi các vị đó sẽ làm được gì cho Giáo hội? Do luật lệ nào mà các vị này được kiêm nhiệm nhiều địa phận một lúc ? Tịch thâu tài sản của các thánh đường để quân sĩ chiến thắng ăn uống no say, phải chăng là một vẻ vang cho nền kinh tế và là tiến bộ xã hội ? Giành giật lấy quyền bính của hàng giáo sĩ để trao cho các sủng thần bất xứng, phải chăng là một hành động tốt đẹp về phương diện tinh thần ? Không bao giờ các tòa giám mục Pháp quốc, bị trao nộp cho những chủ chăn nguy hiểm đến thế. Tình trạng như vậy chỉ cần kéo dài thêm một chút thôi, Giáo hội cũng lãnh dủ một tương lai thê thảm, mà nguyên nhân chính là sự sang đoạt tài sản Giáo hội, một cách bất hợp pháp và tàn nhẫn.

Trong 25 năm dưới thời Charles Martel, Giáo hội tuy thoát được hiểm họa Hồi quân và tiến triển mạnh mẽ tại Đức quốc, nhưng bên trong lại bị tước đoạt và phản bội bởi những nhà lãnh đạo do người ta cử lên một cách độc đoán. Chỉ trong mấy chục năm ấy, tưởng đã đủ để xảy ra một sự đổ vỡ không thể hàn gắn được nữa. May mắn thay, không phải như vậy, vì người ta sẽ thấy xuất hiện nhiều nhân vật bắt tay vào công cuộc chỉnh lý một cách rất can đảm, trong đó thánh Bonifaciô (680-755) đóng vai cố vấn, và nhiều ông hoàng mới như Carloman (741-747) và Pépin (751-768), là những người rất tận tình trong việc trả lại quyền tư hữu cho Giáo hội.


2. Hoàng đế và giám mục

Người ta đã được mục kích những hậu quả thê thảm, khi hàng giám mục Pháp bị lệ thuộc vào ông hoàng Charles Martel. Nếu chỉ là những tranh chấp về tiền bạc hay đất đai mà thôi, thì sự tai hại còn hữu hạn, vì chỉ thiệt đến vật chất. Nhưng đây còn là sự lựa chọn những chủ chăn, thuộc phạm vi tôn giáo và tinh thần một khi việc lãnh đạo tinh thần cũng xáo trộn, cũng có những lạm dụng, thì sự thiệt hại không thể lường được. Tuy nhiên, luật lệ do các công đồng trước đây đã đề ra nay vẫn còn hữu hiệu: “Giám mục chỉ được tấn phong qua “sự tuyển chọn của hàng giáo sĩ trong địa phận với sự đồng ý của vị tổng giám mục” (công đồng Clermont, 535), hay ít là như công đồng Orléans năm 549 quyết định, “với sự chấp thuận của nhà vua, thể theo sự tuyển chọn của hàng giáo sĩ và giáo dân”. [4]

Dưới triều đại Mérovingien, nhà vua thường can thiệp vào các cuộc tuyển chọn một cách độc đoán, nhưng có trường hợp rất đáng hoan nghênh, để bù lại những vụ không được mấy ai hài lòng. Dưới thời nhà Carolingien, các vụ đề cử nói chung đều rất tốt đẹp. Sự thực, chương trình cải cách của thánh Boniraciô đã tạo được một hàng giáo phẩm xứng đáng với lịch sử, những giám mục như thánh Chrodogan thành Metz, Arnus thành Salzburg, Lullus thành Mainz (Mayence), Théodulf thành Orléans, Hincmar thành Reims. Các ngài là những người nắm vận mệnh Tây phương trong tay. Những tâm hồn cao thượng đó, tuy sự nhân hậu và quảng đại không phải là những đức tính nổi bật, song cũng đủ khiến chúng ta khâm phục đức tin chính thống, tinh thần truyền giáo và đời sống không chê trách được của các ngài. [5]

Sự các giám mục tham gia vào những việc đại sự của đế chính, đã đem lại cho đế quốc một thời vẻ vang thịnh vượng. Đừng tưởng rằng vai trò của các vị chỉ có tính cách tượng trưng. Nhờ có tiếng nói của các giám mục hoặc những đan viện phụ nổi tiếng Saint-Denis, Corbie, Fulda, Ferrières, Giáo hội mới nói lên được quan điểm của mình và chiếm ưu thế trước dư luận quần chúng, cũng như cảm nghĩ riêng của các vua chúa. Vì được thấm nhuần Thánh Kinh và giáo thuyết thánh Âutinh, các ngài hiểu rõ “nước trần gian” chỉ là nơi chuẩn bị để bước vào Kinh thành Thiên Chúa, nên các ngài đã cố đem tinh thần công giáo vào tòa nhà lập pháp vào văn hóa, nghệ thuật, vào tất cả mọi sinh hoạt xã hội.

Tuy nhiên, không phải cái gì cũng tốt đẹp cả. Vì lẽ trong thể chế quân chủ này, Charlemagne quan niệm phải có yếu tố “độc tài chuyên chế”. Ông rất thẳng thắn, nhưng là sự thẳng thắn hơi cứng cỏi của con người nhà binh, không thích hợp với những hoàn cảnh đặc biệt, với quyền tự do cá nhân và với những phương tiện thiếu thốn. Cũng như Diocletianus hoặc Justinianus xưa, ông muốn nắm giữ và điều hành tất cả. Luật đạo, luật đời đối với ông chỉ là hai hình thức của một quyền tối thượng. Tất cả mọi tài sản đều được xếp chung dưới quyền tối cao của một người. Chắc chắn nhà Vua có sự thành thật khi ghi trong Bản Pháp lệnh, sự tôn trọng giáo luật và các giáo huấn, khi khuyến khích hoặc bắt buộc phải chịu các Bí tích, tham dự các lễ nghi phụng vụ, nộp thuế thập phân, cũng như khi ông dành đất đai cho nhiều tòa giám mục và đan viện trong xứ Rhenania và Saxonia.

Nhưng qua các hoạt động ấy của Charlemagne, người ta nhận thấy thâm ý của ông là để cho có những công dân ngoan đạo, dễ bề trung thành với đế chế. Các đan viện được ông làm giầu cho, sẽ là nơi đào tạo những nhà truyền giáo, đồng thời là những chuyên viên khai hóa mở mang quyền lực đế quốc. Sau hết, các giám mục được ông trọng kính ưu đãi, trong nhiều trường hợp sẽ là những viên chức cao cấp của chế độ: một vị giám mục có thể bất thần được triệu hồi về triều đình, cũng như một đan viện phụ có thể được trao cho nhiệm vụ tự túc chiến đấu với địch quân.[6] Và trong bất cứ trường hợp nào có sự giằng co giữa quyền đạo quyền đời, không bao giờ ông chịu để cho chính trị phải hy sinh... Ngược lại, nhiều khi ông còn xen cả vào nội bộ Giáo hội, trong lãnh vực đạo lý nữa, tuy bao giờ ông cũng bàn luận với các nhà thần học thông thái và với những “Giám mục riêng” của ông.

Sống dưới triều đại Charlemagne, người ta đã lo sợ cho Giáo hội sẽ bị bó tay dưới “chiêu bài suy tôn”. Người ta tự hỏi phải chăng những lấn át của chế độ Justinianus muốn tái diễn ? Đối với một lãnh tụ nổi tiếng như Charlemagne, tưởng không thể có truyện đó. Thật vậy, khi ông vừa mất, chính hàng giám mục mà ông cất nhắc lên, đã được liệt vào hàng cao nhất trong đế quốc với một thế lực rất lớn dưới triều Louis le Pieux, mà không còn bị chính quyền hạn chế hay kiểm soát lôi thôi nữa. Cũng do đấy trong thượng bán thế kỷ IX, một hàng giáo sĩ thành hình, với những nhân vật chỉ đạo nổi tiếng như Wala, Hincmar, trong khi thánh Biển đức Aniane (750-821), người có tuổi hơn, lại đứng ra ngoài vòng chính trị để chỉ chăm lo việc tu đức mà thôi. [7]

Dưới thời một ông vua hiền lành, nhút nhát, như Louis le Pieux này, nhiều loạn ly, tranh chấp xảy ra, thì chính hàng giám mục của Charlemagne đã ra tay bảo vệ đế chế. Trong khi các ngài chưa giải quyết xong về quyền tư hữu bất khả xâm của Giáo hội, cũng như quyền định đoạt của các ngài trong phạm vi giáo luật, thì hòa ước Verdun (843) phân chia đế quốc Tây phương ra làm ba. Sau đó, là họa xâm lăng của quân Normand, Hung Gia Lợi và Sarrasen. Từ tình trạng hỗn loạn này sẽ phát sinh một trật tự mới, tức chế độ vương quyền và phong kiến, hoàn toàn trái ngược với chính sách tập quyền của nhà Carolingien.

3. Ngôi Giáo hoàng trong đế quốc nhà Carolingien

Trên đất Ý Đại Lợi, kể cả từ khi vua Agilulfus và dân Lombardo theo đạo Công giáo (603), người Roma vẫn không thể quên được họ là một dân man rợ, nhất là lúc này họ còn muốn thống trị cả bán đảo. Sau triều đại Liutprando (712-744), Astolfus (749-756) người hùng của dân tộc Lombardo, lên kế nghiệp Ratchis (744- 749) thoái vị đi tu. Năm 752, Astolfus đem quân chiếm Ravenna. Sớm muộn, kinh thánh Roma sẽ lọt vào tay ông. Các đức Giáo hoàng đều hiểu biết như thế, nên đã không ngần ngại kêu gọi sự can thiệp của dân Franc và sự trung thành của một triều đại, mà chính các ngài đã tận tình giúp đỡ. Năm 754, đức Thánh Cha Stephan III (752-757) đích thân sang Pháp quốc gặp vua Pépin, chủ sự lễ xức dầu cho ông tại Saint-Denis. Mặc dầu gặp nhiều khó khăn và chống đối Pépin (751-768) hai lần vượt núi Alpes đến giải vây cho “lãnh địa Thánh - Pherô” (Patrimoine St-Pierre), đồng thời chiếm xứ Ravenna cho đức Thánh Cha, cùng với năm tỉnh (pentapole): Rimini, Pesaro; Fano, Senigallia, Ancona. Một quốc gia mới được khai sinh (756) ở Âu châu: nước Tòa thánh. Các sứ giả của hoàng đế Đông phương Constantinus V lên tiếng phản kháng, nhưng vô hiệu.[8]

Ngôi Giáo hoàng từ nay phải chăng sẽ thoát được hết mọi đe dọa quân sự, mọi áp lực chính trị hoặc tinh thần? Không nên vội tin như thế. Hai mươi năm sau, Didier, vua Lombardo, gây lại lực lượng, lợi dụng lúc Charlemagne vướng chân ở mặt trận Saxonia, quyết khôi phục lại giang sơn, đe dọa nước Tòa thánh. Vua Charles dân Franc đem quân đến cứu đức Thánh Cha Adrian I (772-795). Sau nhiều tháng bị vây hãm trong thành Pavia, Didier vua Lombardo phải đầu hàng vô điều kiện. Charles toàn thắng, sáp nhập lành thổ Lombardia vào đế quốc (774). Hình như Charles đã có ý định thiết lập trên đất Ý một Liên hiệp vương quốc dưới quyền Roma, và muốn xác định lại nền độc lập của nước Tòa thánh. Nếu như Pépin là người không có tham vọng gì khác, ngoài việc xây dựng một nền tự trị thật sự cho ngôi Giáo hoàng, mà ông chỉ đóng vai Patricius, nghĩa là “kẻ bảo vệ võ trang”, thì Charlemagne người kế vị Pépin, vốn tính độc tài và đã để ý đến vận mệnh Ý Đại Lợi quốc từ lâu, không thể tự chế tham vọng đặt quyền mình trên bán đảo này. Charlemagne quan niệm rằng nước Tòa thánh, kể cả thành Roma, không thể đứng ngoài vòng kiểm soát và can thiệp của ông.

Charlemagne đã cùng với đức Thánh Cha Adrian tổ chức nước Tòa thánh (774-781). Nhưng với vị Giáo hoàng kế nhiệm, đức Leô III (795-816), mối bang giao mới thật chặt chẽ, và Charles được vị đại diện Chúa Kitô trao ban những vinh dự lớn nhất. Vừa đắc cử ngôi Giáo hoàng, đức Leô đã gởi cho Charles chìa khóa thánh Pherô và cờ hiệu Roma làm tặng vật danh dự. Năm 799, bị giam giữ bởi một cuộc nổi loạn, sau khi thoát ngục, ngài đích thân đi Paderborn cầu cứu đại vương. Charlernagne đưa đức Thánh Cha trở lại giáo đô. Năm 800, đức Leô tiếp rước Charles vào thành Roma, và đây là lần thứ ba ông tới kinh thành muôn thuở. Lễ Giáng sinh năm ấy, đức Thánh Cha trong phẩm phục Giáo hoàng tự tay đặt vương miện lên đầu Charlemagne quỳ trước mồ thánh Pherô. [9]

Biến cố lịch sử vô cùng quan trọng: trong ý nghĩ của Giáo hoàng, thái độ này trước hết là để ghi ơn và tưởng thưởng Charlemagne, vị ân nhân của Giáo hội Roma, người chiến sĩ anh dũng Công giáo, bách chiến bách thắng, đã thống nhất các Quốc gia Man di Tây phương thành một khối, đã hạ được quân Lombardo, đã làm quân Sarrasen khiếp sợ, sau cùng bắt dân Saxon ương ngạnh phải quy phục quyền uy Chúa Kitô. Thái độ của đức Leô còn muốn tái diễn những truyền thống huy hoàng của một đế quốc Kitô giáo, tức đế quốc của Constantinus và Theodosius. Trong tương lai, nó đánh dấu một sự thoát ly, không những về chính trị mà cả về tinh thần khỏi quyền tối cao Byzantin, với biết bao rắc rối đáng lo ngại cho đức tin. Charlemagne sau khi được khoác trên mình một vinh dự cao cả, sẽ đi hẳn vào truyền sử các Dân tộc. Qua thái độ nói trên, đức Leô đã đưa nhà Vua lên tuyệt đỉnh danh vọng trần thế, đồng thời vận mạng của các giáo đoàn Chúa Kitô được trao cho ông bảo vệ.

Hoạt động trả ơn và thầm mong tái sinh những truyền thống huy hoàng của một đế quốc Kitô giáo, và tự đặt mình dưới quyền bảo trợ của nhà Carolingien, ta thử xem địa vị và quyền hành của đức Leô III và các đấng kế vi ngài ra sao. Theo sử gia Duchesne, thì đia vị vương quyền trần gian của Tòa thánh bấy giờ không hơn một ông vua chư hầu. Mặc dầu được biệt đãi và trọng kính, đứng chủ một tài sản khổng lồ, quyền của Giáo hoàng ngay trên lãnh thổ mình cũng chẳng hơn vị phụ chánh xứ Provence hay Aquitaine là bao. Đến cả quyền trên đối với giám mục thành Ravenna ngài cũng không có, ngay tại Roma, khi muốn trừng phạt các kẻ chủ mưu dấy loạn, ngài cũng thấy quyền mình bị hạn chế. Lạ lùng hơn nữa là dân của ngài lại phải thề trung thành với Hoàng đế. Chủ chính quyền của ngôi Giáo hoàng như vậy rất tương đối: nó nằm dưới quyền bảo hộ của đế quốc.[10]

Từ tình trạng này, đức Eugeniô II (824-827) phải đi đến một thỏa ước dưới triều Louis le Pieux. Đó là bản Hiến chương 11.11.824, trong đó dân Roma (giáo sĩ và giáo dân) được nhìn nhận có quyền bầu cử Giáo hoàng, nhưng vị Giáo hoàng đắc cử, trước khi đăng quang, phải tuyên thê trước mặt Hoàng đế. Ngoài ra, quyền cai trị các lãnh thổ còn phải chịu sự kiểm soát thường xuyên của người đại diện Hoàng đế. Hai mươi năm sau, khi lên ngôi Giáo hoàng, đức Sergiô II (844 - 847) đã phải cực nhọc để xin vua Lothaire phê chuẩn cuộc bầu chọn mình.[11]

Theo những sự kiện trên, thì sự lệ thuộc của các Giáo hoàng đối với thế quyền quả thiệt nặng nề. Tuy nhiên, không thiếu những vị Giáo hoàng tỏ ra khí phách, mỗi khi cần sử dụng quyền mình, nhất là trong phạm vi thiêng liêng. Năm 833, đức Gregori IV (827- 844) đã can thiệp vào việc tranh chấp giữa các con cái của Louis le Pieux. Chính ngài đã cho mở rộng hải cảng Ostia, xây thành đắp lũy và đặt tên là Gregoriopoli. Khoảng năm 830, ngài cung hiến một đại thánh đường dâng kính các Thánh: lễ Chư Thánh bắt đầu có từ đấy. Năm 844, đức Sergiô II (844-847), trước khi mở cửa tiếp hoàng thân Louis đặc sứ của Lothaire, đã đòi ông phải thề rằng mình đến Roma chỉ có mục đích tìm ích lợi cho Quốc gia và Giáo hội. Ngoài ra, trong hết mọi trường hợp, ngôi Giáo hoàng nắm giữ hai đặc quyền quí báu: chỉ mình ngài có quyền trao Pallium, và chỉ mình ngài chủ tọa lễ nghi xức dầu tấn phong Hoàng đế.

Pallium là phẩm phục dành cho các tổng giám mục, biểu hiệu quyền tông đồ. Các tổng giám mục được lên chức bất cứ vì lý do nào và bởi ai, đều phải nhận Pallilum do tay đức Giáo hoàng, và chỉ khi ấy quyền bính của các ngài mới có hiệu lực. Còn hoàng đế lên ngôi do quyền thừa kế hay do một cuộc bầu cử, điều đó không can chi, nhưng vương quyền chỉ được quốc dân biết đến khi ông được đức Thánh Cha xức dầu và đặt vương miện. Do đấy, ngôi giáo hoàng vẫn là nguồn thông ban quyền bính. Và các ông được nhà Carolingien, từ Louis le Pieux đến Lothaire, từ Charles II đến Louis III, đều nhận lãnh nhận vương miện hoàng đế từ tay Giáo hoàng.

Có những hành động của ngôi Giáo hoàng đối với thế quyền, làm người ta phải kinh ngạc và khâm phục: đó là thái độ của thần quyền trước sự vi phạm luật hôn nhân. Vua Lothaire II (855-869) xứ Lorraine, vì muốn cưới nàng hầu Waldrade, đã tìm hết cách, kể cả những lời vu cáo tàn nhẫn, để ly dị bà Theutberge. Việc làm của Lothaire được nhiều người, trong đó có cả giám mục, can thiệp và hậu thuẫn. Dầu vậy, đức Thánh Cha Nicolas I (858-867) cương quyết không chấp nhận một việc đã rồi. Ngài truất chức hai giám mục Cologne và Trêves, những tay sai của Lothaire, ngài còn buộc nhà Vua bằng bất cứ giá nào phải trở về với Theutberge. Sau 9 năm đụng độ ác liệt, Giáo hội vẫn giữ lập trường. Khi Lothaire muốn rước lễ tại Cassino, đức Adrian II (867-872) đã đòi ông phải nhắc lại lời thề không được đi lại với nàng Waldrade nữa. Nhà Vua thề và lên rước lễ. Sáu tuần lễ sau, Lothaire lên cơn sốt và từ trần (869).[12]

Lễ xức dầu và đặt vương miện chỉ là để quốc dân nhìn nhận sự hợp pháp của một ông vua tức vị, chứ không bảo vệ được một triều đại khỏi sụp đổ. Lễ tấn phong cho Charles II (875) do đức Gioan VIII (872-882), cũng như lễ đặt vương miện cho Louis III (886) đã không thể lấy lại được quyền uy cho những ông vua cuối thời nhà Carolingien, tước hiệu Hoàng đế dần dần mất đi ý nghĩa của nó, vì không còn bảo vệ được Giáo hội nữa. Giáo hoàng phải đi tìm một người bảo trợ hữu hiệu khác. Trong khi các ngài còn đang tìm cách kết thân với những ông hoàng xa xôi, thì quyền Tòa thánh rơi vào tay lũng đoạn của nam tước xứ Spoleta (891).

 

II

GIÁO HỘI VÀ CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN


1. Ngôi Giáo hoàng trong tay chuyên quyền của hàng quí tộc Roma

Dưới thời bảo hộ của nhà Carolingien, các Giáo hoàng đã chẳng bao giờ được tự do thật sự, nhưng dầu sao quyền bính của các ngài vẫn còn được kính trọng. Đến lúc ngôi Giáo hoàng lọt vào bàn tay lũng đoạn của những lãnh tụ phong kiến vô lương tâm, để rồi hết kêu cứu ai.[13]

Vấn đề gai góc nhất cho đất nước Tòa thánh từ trước tới nay, là làm sao dung hòa được các quyền lợi giữa vị giám mục thành Roma với dân của ngài, nhất là với các quan chức cao cấp trong thành phố. Ngay dưới triều Pépin, nhân cuộc bầu cử đức Stephan IV (768-772), đã có những đụng độ đẫm máu đưa tới một cuộc dấy loạn (767-769). Sang thế kỷ X, những đụng độ như thế hầu như thường xuyên. Tệ hơn nữa, chính ngôi Giáo hoàng cho tới khi đó còn được kính trọng, nay cũng không thoát khỏi những bàn tay vô đạo ngược đãi và sỉ nhục.

Vụ án Giáo hoàng Pormosô (891-896) được coi là một thành công vẻ vang nhất của các ông hoàng xứ Spoleta. Viện cớ rằng Giáo hoàng này đã lên ngôi bất hợp pháp, nhưng kỳ thực chỉ vì muốn báo thù việc ngài đã trao vương miện cho hoàng đế Arnulfus nước Đức. Xác của nạn nhân được quật lên sau 9 tháng chôn cất, bị đưa đến một hội đồng xét xử. Kết quả là Formosô bị cắt chức và ném xuống sông Tiber (897). Đức Giáo hoàng Stephan VII (896- 897), tự ý hay bị ép không rõ, đã làm theo ý Tòa án đó. Nhưng đức Gioan IX (898-900), người kế vị thứ tư của Formosô, đã lấy lại danh dự cho ngài.

Tuy nhiên thời khủng hoảng đã bắt đầu, Giáo hội đến lúc bị nhục bởi chính những lãnh tụ tinh thần của mình đã được bầu lên một cách độc đoán, kế tiếp nhau một cách bừa bãi và chết đau đớn. Giáo hội trong 70 năm đi dần vào cái ách tủi hổ của gia đình Theophylaco. Từ năm 896 đến 965, trên 20 vị lên ngôi Giáo hoàng. Có những vị phải rút lui vì dân chúng bất mãn làm loạn, hoặc bị cắt chức bởi những người đỡ đầu nham hiểm. Trước hết, từ năm 900 đến 915, người chủ động trong cuộc là nghị sĩ Theophylaco, nguyên toàn quyền xứ Ravenna, người nắm quyền quân sự lẫn hành chánh vào, đối với một hàng sĩ bất lực và đám dân phe phái, ông dùng bạo lực. Sau ông, từ năm 915 đến 932, đến lượt con rể ông, tức Alberico I quận công xứ Spolela. Rồi từ năm 932 đến 954, đến Alberico II, con trai của Alberico I. Bên cạnh những nhân vật này, những người coi Tòa thánh Latran không khác thái ấp của một gia tộc, còn có những người đàn bà như Theodora, vợ Theophylaco, và Marozia con gái của Theodora cũng là vợ Alberico I, và đấy là một sỉ nhục. Là những con người độc đoán và sa đọa, hai mẹ con Theodora đã thay nhau dùng thủ đoạn quyến rũ, dọa nạt và bạo lực để bêu xấu, hãm hại hoặc khủng bố tinh thần các Giáo hoàng đương nhiệm.[14]

Sergiô II (904-911) là “con bài” dễ điều khiển nhất của Theodora. Khi Gioan XI (931-935) con của Marozia và Gioan XII (955-964) con của Alberico II, lên ngôi Giáo hoàng, thì tại Giáo triều Latran xảy ra không biết bao nhiêu truyện thật đáng xấu hổ. Tuy nhiên, không nên vơ đũa cả nắm để kết án tất cả các vị dưới thời thảm bại này. Đức Gioan X (914-928) đã có công đánh đuổi quân Sarrasen ra khỏi sào huyệt Carigliano, và nổi tiếng vì đã cứu được kinh thành muôn thuở khỏi tay Marozia. Ngài còn muốn trao vương miện hoàng đế cho Hugue xứ Provence, và cũng vì ý định đó mà phải bỏ mạng (928). Các cuộc bầu chọn Giáo hoàng của Alberico I không phải đáng phàn nàn tất cả: con người ưa dùng bạo lực này tuy thế còn có liêm sỉ ông đã cộng tác với thánh Odon (879-942) trong việc mở mang dòng Cluny, và cũng biết bận tâm đến việc xây dựng nhiều tu viện trên đất Ý Đại Lợi. Nhưng trong khi ngôi Giáo hoàng có cơ hội để được thoát khỏi tròng “làm tôi”, thì việc lên ngôi Giáo hoàng của Gioan XI con ông, và Gioan XII cháu nội ông, đã làm cho Giáo hội trở lại tình trạng cũ.

Octavian, người thanh niên 18 tuổi, lên chức tối cao trong Giáo hội, tức Gioan XII (955-964). Chán nản và bất mãn bao trùm khắp Roma vì đời sống tư của vị Giáo hoàng bất xứng này. Gioan yêu cầu Otton I (936-973) nước Đức bảo vệ ngôi Giáo hoàng, Otton nhận lời ngay vì từ lâu đã để ý đến tình trạng trên đất Ý. Nhưng Otton đặt điều kiện: trước hết ông phải được tấn phong hoàng đế với tất cả quyền lợi theo đó, kể cả lời thề trung thành về phía Giáo hoàng (962). Otton I không phải là con người tầm thường, ông đã thành công trong việc tái thiết nền đế chế sau một thế kỷ bị sụp đổ, ông là một lãnh tụ can đảm dám đương đầu với kẻ thù, và đã đẩy lui được quân xâm lăng Magyar và Slavo. Ngoài ra, Otton là một tín hữu công giáo chân thành, ông hết sức ngao ngán khi nghe nói đến những gương xấu của ngôi Giáo hoàng, tính tình ông lại thẳng thắn và rất ghét gian trá. [15] Do đấy, khi Gioan XII cùng với Bérenger âm mưu hại ông, ông đã thẳng tay trừng trị. Được dẫn đến một công đồng, và sau khi nghe những lời tố cáo của hàng giáo sĩ Roma với những bằng chứng cụ thể, vị Giáo hoàng bất xứng bị cách chức và bị trục xuất khỏi Giáo hội (963). Gioan phủ nhận bản án, gây nên một thời loạn ly. Nhưng rồi một tình thế mới xuất hiện là ngôi Giáo hoàng không còn là “con mồi” cho một phe nhóm, hay một gia đình phong kiến nào nữa. Được chuyển sang quyền bảo vệ của các vua nước Đức, Giáo hội trở lại tình trạng giống như dưới triều Carolingien.


2. Ngôi Giáo hoàng trong đế quốc La Đức

Đế quốc do Otton I thiết lập (962) không hoàn toàn giống đế quốc nhà Carolingien. Về phương diện lãnh thổ, tân đế quốc mang tên La đức mở rộng về miền đông, bình nguyên Trung Âu; sông Oder, Vistule, Tibiss chính là lãnh vực hoạt động quân sự của triều đại mới này, và là nơi thực hiện các chương trình cải tiến có phương pháp. Nhiều nước Tây Âu đứng ngoài ảnh hưởng của đế quốc La đức, như Tây Ban Nha, Anh, và đặc biệt nước Pháp của nhà Capétien.[16]

Tân đế quốc, về phương diện chính trị, không cô lợi thế như nhà Carolingien, là tập trung được các dân công giáo thành một khối dưới quyền mình. Nhưng đừng nghĩ rằng ảnh hưởng của nó chỉ hạn hữu ở miền Bắc hay miền Đông Đức quốc mà thôi. Nhiều thành phố quan trọng của đế quốc như Cologne, Aix, Worms, Mainz, Spira, hầu hết nằm trên đất Rhenania của Charlemagne xưa. Những thái ấp rộng lớn của nhà Otton trong các xứ Lorraine, Bourgonde, Provence và Lombardia làm cho đế quốc có nhiều liên lạc với đời sống kinh tế cũng như tinh thần Tây âu và vùng Địa Trung Hải, tức các nước theo văn minh Roma. Những quyền lợi chính trị đã hơn một lần buộc nhà Otton phải can thiệp vào chính trường nước Ý. Bởi vậy đế quốc La đức tuy không có sắc thái “quốc tế” như đế quốc của Charlemagne, nhưng nó cũng không thể coi được là của riêng dòng giống German.

Danh hiệu “Thánh đế quốc La đức” có lẽ chỉ muốn nhắc lại thời đế quốc của Constantinus và Theodosius, tuy nhiên nó cũng diễn tả một sự thật khác nữa. Lễ xức dầu, một nghi lễ hoàn toàn tôn giáo, không những biểu hiệu sự trọng kính của người dân đối với một ông vua mà họ phải tuyên thệ trung thành, nhưng còn để người dân nhìn nhận những cơ cấu tổ chức trong đế quốc được bắt nguồn từ tôn giáo. Hàng Giáo phẩm khi ghé vai gánh đỡ tòa nhà đế quốc, đương nhiên trở thành những cộng sự viên quan trọng không kém, mà còn hơn các lãnh chúa phần đời. Nhờ có các ngài, hoàng đế thâu thuế dễ dàng, mộ binh mau lẹ, những thái ấp của hoàng gia cũng được bảo đảm hơn. Hoàng đế lợi dụng lòng trung thành của các giám mục và được các ngài trợ lực một cách hữu hiệu hơn bất cứ một giai cấp nào. Để đền đáp, hoàng đế rộng tay trong việc xây cất thánh đường và mở rộng thêm lãnh thổ cho Tòa thánh. Cả hai bên hoạt động chung cho sự bành trướng đức tin Kitô giáo và cho quyền uy đế quốc. Đó là mục tiêu chính trị của Otton I (936-973) và Otton II (973-983). Ý của hai cha con là muốn thần quyền và thế quyền hoạt động song song với nhau, nếu không phải là trà trộn tôn giáo với chính trị.

Hành động như thế sẽ không khỏi bị đưa đẩy tới những mục tiêu phàm tục. Triều đại Otton III (983-1002), dựa theo quan điểm quá thực tế và duy lợi đó, sẽ cho thấy một bầu trời tươi sáng và mở rộng. Otton III đứng ra thiết lập một “đế chế Liên hiệp quốc” gồm các dân tộc tự ý thống nhất bởi cùng một niềm tin, dưới quyền chỉ huy của Roma Công giáo; quyền chỉ huy đó do sự phối hiệp giữa Hoàng đế và Giáo hoàng. Thể chế này được thực hiện rộng rãi dưới thời Giáo hoàng Silvestrê II (999-1003) gốc Pháp, khiến nước Hung của vua thánh Stephan và nước Ba Lan của nhà Boleslas cảm thấy hãnh diện khi được gia nhập hàng ngũ Công giáo, mà không phải lệ thuộc một thế lực nào. [17]

Các sử gia thường tỏ ra nghiêm khắc, khi nói đến ông hoàng trẻ tuổi Otton III này. Người ta trách ông một cách gay gắc vì đã bỏ đường lối của các tiên đế, người ta cho ông chỉ lý thuyết và ảo tưởng. Tuy nhiên, Otton III có hình ảnh một ông hoàng hiệp sĩ, bạn tri kỷ của những đấng thánh như Adalbert, Héribert, Romualđô, tính tình thận trọng, quảng đại và rất ghét gian trá lưu manh. Hình ảnh một nhân vật như thế, tưởng không phải là không thu hút được cảm tình và sự kính nể của nhiều người. Thiên Chúa quan phòng đã ban cho Tây phương năm 1000 một ông vua như thế, thiệt là một hồng ân rồi.

Với Henry II (1002-24), Corad II (1024-39), Henry III (1039- 56), thánh đế quốc trở lại đường lối cũ, ít tin tưởng vào các dân tộc xa lạ. Một lần nữa chính trị tôn giáo tập trung vào việc hảo vệ quyền lợi riêng của chủng tộc German và hoàng gia. Vả lại, đây là thời hoàng kim của Giáo hội Đức. Nhiều đại thánh đường được xây cất trong các đô thị lớn dâng kính đức thánh Micae, thánh Georgiô; những kỳ công mỹ thuật Roma xen lẫn với tài nghệ thuật Gemantdu gồm gian đầu (abside) làm cung thánh có bàn thờ và cung nguyện dành cho giáo sĩ; cách một hành lang (transept), đến phần chính giáo đường có hai hàng cột cứng khỏe chia thành ba gian gian giữa rộng hơn có ghế ngồi, dành cho giáo dân cả ba gian. Những thánh đường nguy nga ở Hildeisheim và Cologne, những tu viện Siegburg và Laach còn đứng đấy, để nói lên cái hồn nghệ thuật của những người đã xây dựng lên chúng, qua những đường nét cân đối một cách hùng vĩ, trang nghiêm và cứng cát.

Sang thế kỷ XIII, có lối kiến trúc khung vòm cao vút, như thánh đường ở Spira. Kiến trúc Gothic này nổi tiếng ở Limburg và những tác phẩm được thực hiện trong đại thánh đường Bamberg. Dưới một ngôi nhà bằng đá, thuật trang trí các vật dụng bên trong thiệt lộng lẫy và sang trọng: những cửa lớn bằng đồng, những tấm thảm quí báu phô diễn tài nghệ của Byzantin, được Theophana người vợ Hy Lạp của Otton III đem tới, những trướng khảm ngà và bạc, những bàn thờ chạm trổ thiết vàng. Thuật điêu khắc những hòm xương thánh cũng rất đáng ca ngợi, vì không những là báu vật về nghệ thuật mà còn là báu vật tinh thần nữa. Ở Cologne chẳng hạn, hài cốt các đấng tử đạo (thánh Ursula và “mười một ngàn trinh nữ”), chiếc đinh Chúa Giêsu, hài cốt Ba Vua, đã gây phong trào tôn sùng của giáo dân trong nhiều thế kỷ.[18] Mặt tiền các thánh đường, thường đặt tượng những vĩ nhân có nhiều công với đế quốc.

Brunus, giám mục thành Cologne, em hoàng đế Cotton I, đã giữ chức tể tướng suốt 18 năm. Cũng như nhiều đồng nghiệp khác cùng thời ở Pháp và Anh, các vị giám mục này đều là những tay kiến thiết và là ân nhân của nhiều dòng tu. Những giám mục, như Bernward thành Hildesheim, thánh Héribert, hay Arnus thành Cologne, đều là những nhân vật nổi tiếng làm vẻ vang Giáo hội. Các hoàng đế đem lòng tin tưởng và cậy nhờ các ngài. Và chính trong số các ông hoàng có nhiều người sống đạo đức và nên gương sáng, như Henry II và hoàng hậu thánh Cunegunda. Đức tin được bành trướng sang những tỉnh mới thuộc các xứ Brandenburg, và Bohemia. Nhiều tòa giám mục được thiết lập tại Magdeburg, Merseburg, Praga, Gniezno và Cracovia, những liên lạc với các xứ truyền giáo ở Thụy điển, Phổ và Ba Lan. Tất cả đều minh chứng các hoàng đế, từ Otton I đến Henry III, đã được thấm nhuần tinh thần Công giáo trong công cuộc lèo lái đế quốc La Đức.


3. Giám mục hay chư hầu

Người ta tự hỏi, giữa một thời Giáo hội lộ vẻ oai phong lẫm liệt như “một đạo binh dàn trận”, kỷ luật, giầu có, quyền uy, phải chăng không có gì đáng trách ? Người ta khó có thể tin rằng, trong khi các cuốn ký sự và công đồng vạch ra sự sa sút đáng thương tâm của hàng giáo sĩ Ái Nhĩ Lan, Pháp, Ý, thì chỉ có Giáo hội La Đức thoát được tình trạng thảm bại đó. Nhất là người ta không thể hiểu được vụ Henry IV xảy ra sau này, nếu đã không bắt đầu một cách ngấm ngầm từ nhiều triều đại trước.

Hoàng đế Henry II hằng mong ước giao hảo với vua Robert nước Pháp, nhằm triệu tập một công đồng có mục đích sửa lại các lạm dụng và nâng cao tinh thần hàng giáo sĩ. Nhưng, làm gì thì làm, Giáo hội của đế quốc La đức vẫn mang sẵn trong mình một khuyết điểm lớn lao về tổ chức nội bộ. Vì vướng mắc chính trị, vì dấn thân vào mọi lãnh vực, hàng Giáo phẩm đành chịu làm công cụ cho đế quốc Cho dầu người ta được chứng kiến một sự kiện hiếm có này là khi nắm giữ chức giám mục thành Mainz, Cologne hay Worms, các anh em, con cháu hoặc thân thích của hoàng đế vẫn sống xứng đáng và nêu gương, người ta vẫn nhận thấy quyền giám mục bấy giờ thực sự không hơn gì mấy ông chư hầu, và Giáo hội Đức đang tiến trên con đường biến thành một Giáo hội của triều đại. Nguy hiểm hơn nữa, vì quyền lợi trần gian này mà các giám mục và đan viện phụ đó, tức các “ông hoàng của đế quốc”, phải lệ thuộc nhà Vua với tất cả nghĩa vụ bồi thần. Các ngài phải phục vụ hoàng đế trong lãnh vực tài chánh cũng như quân sự, phải vâng lệnh và trung thành. [19]

Trong thực tế, hoàng đế đã đi ngược với các công đồng, khi đứng ra cắt cử các giám mục, bằng một lễ nghi trao nhẫn gậy. Như thế là làm sai lạc ý nghĩa chức linh mục, làm sai lạc quan điểm về quyền bính và chức vụ thánh. Từ đấy, tình trạng bất ổn không còn ở lý thuyết nữa. Vì lẽ, để nhận được một chức vụ gì cũng phải tìm quyền lợi tài chánh trước hết, nên những ai muốn lên chức giám mục, nếu cần sẽ mua cảm tình của nhà vua. Và nhà vua, để khỏi bị thiệt, sẽ bán chức tước trong Giáo hội cho những giáo sĩ thiếu lương tâm. Tội mại thánh (simonie) vì thế lan rộng như phong cùi trên khắp thân mình Giáo hội thời phong kiến này. Từ tội mại thánh, phát sinh ra một tình trạng vô luân: chủ nghĩa Nicolaisme.[20] Vì không còn quan tâm đến giá trị thiêng liêng của kẻ thuộc quyền, các bề trên bất xứng hoặc bất lực sẽ nhắm mắt trước những tội trạng xấu xa, bỏ qua cả những vụ hôn nhân của nhiều linh mục.[21] Đó là tình trạng Giáo hội Âu châu thế kỷ XI. Nó phát sinh ở nước pháp, hoành hành ở Bắc Ý, còn ở Đức cũng có nhưng kín đáo hơn. Khắp nơi, chính trị đè đầu tôn giáo, một tình trạng đi ngược luật thiên nhiên, đã tạo nên những hậu quả thật tai hại. Đáng sợ hơn nữa là khi đế chế đòi quyền kiểm soát cả Roma, nghĩa là quyền Giáo hoàng cũng phải chịu chung số phận như các giám mục Đức và Ý.

Có điều nên biết là sự can thiệp của các hoàng đế thường đem lại những hậu quả tốt đẹp. Nhờ có các ông mà nhiều vị giám mục Ý, Pháp hay Đức rất xứng đáng, như Gioan XV, Gregori V, Silvestrê II, Biển đức VIII và, sau này Clemantê II, Leô IX, đã đạt tới chức tối cao trong Giáo hội. Và người ta còn nhớ, một khi các cử tri người Ý được tự do hành động, họ đã tôn một thanh niên thuộc dòng họ Theophylaco lên ngôi Giáo hoàng, tức Biển đức IX (1033- 44; 1045; 1047-48). Như thế là họ đã lạm dụng quyền bầu cử của mình trong một việc vô cùng hệ trọng (1033).

Sự can thiệp của các hoàng đế vào việc bầu cử Giáo hoàng, dĩ nhiên là phải tạo nên một tình trạng lệ thuộc rất đáng tiếc. Trước hết, theo như Gioan XII đã thỏa thuận với Otton I (962) là vị tân Giáo hoàng phải tuyên thệ trung thành với hoàng đế, rồi việc bầu chọn phải qua hoàng đế chấp nhận và, trong trường hợp tranh chấp, việc giải quyết thuộc quyền hoàng đế. Chính vì “quyền lợi” đó mà, tại công đồng Sutri (1046), Henry III đòi ba ông tranh ngôi Giáo hoàng phải rút lui, và buộc mọi người phải nhìn nhận giám mục thành Bamberg, tức Clementê II (1046-47). [22] Sự lệ thuộc này không thể kéo dài mãi được. Đến lúc phải xảy ra những cuộc đụng độ, để thần quyền thoát khỏi thế quyền.

III

GIÁO HỘI VÀ GIÁO HOÀNG TIẾN TỚI ĐỘC LẬP


1. Những Giáo hoàng cải cách : Leô IX và Gregori VII

Những nét trình bày trên đây cho chúng ta thấy bộ mặt Giáo hội thế kỷ X-XI có những vết lem luốc, hình hài Giáo hội gầy mòn tiều tụy vì những mưu toan áp đảo của thời phong kiến và vì những nguy cơ đe dọa phát xuất từ lòng Giáo hội: luật độc thân giáo sĩ không còn được tôn trọng, một số lớn giám mục sa vào tệ đoan mại thánh. Bị chính quyền phong kiến chi phối bằng những vụ giành quyền phong chức, nên sứ mạng thiêng liêng của ngôi Giáo hoàng và hàng Giáo phẩm không còn nguyên vẹn, thuần túy và độc lập. Tình trạng ấy lan tràn khắp các nước Tây phương, thêm vào đó những cuộc xâm lăng của dân Normand và Sarrasen. Ngay ở Roma trộm cướp, hận thù, rối loạn xảy ra hàng ngày. Năm 1045, linh mục Gratianus, một nhà giáo luật nổi tiếng dòng Biển đức, phải lên tiếng yêu cầu vị Giáo hoàng bất xứng Biển đức XI từ chức, để cứu nguy cho Tòa Pherô. Những sự kiện đó chứng tỏ Giáo hội đang ở trong cơn khủng hoảng.[23]

Tuy nhiên, sự thật tình trạng không nghiêm trọng đến độ bi đát và thất vọng. Giữa thời sa sút và trụy lạc, Giáo hội vẫn phản chiếu những tấm gương trinh khiết và bác ái, qua đời sống của bậc đan sĩ. Các đan viện trong xứ Lorraine và Bỉ, nhất là dòng Cluny, vẫn cung cấp những tu sĩ rất tận tâm với sứ mạng không ai chê trách được những nhà truyền giáo nhiệt thành làm phấn khởi mọi tâm hồn đang bị dao động, đồng thời xây dựng lại cuộc sống kỷ luật xưa, trước hết cho chính các cộng đoàn tu sĩ, sau là cho hàng giáo sĩ và giáo dân ngoài đời nữa. Nhiều đan viện phụ thánh thiện sống trong thời đại này, như thánh Maieul (906-994), thánh Odilon (962- 1049).[24]

Hơn nữa, ngôi Giáo hoàng thời đó không đến độ bị coi rẻ như người ta tưởng tượng. Trước hết, việc Giáo hoàng đắc cử tuyên hứa trung thành với hoàng đế bao giờ cũng thi hành trước khi đăng quang; và không một Giáo hoàng nào chịu nhận nhẫn gậy bởi tay hoàng đế, để trở thành một chư hầu. Vả lại, trong khi ngôi Giáo hoàng bị lấn át bởi những bàn tay phong kiến như Crescentius và Cencius, hoặc phải có những thái độ dè dặt và kiêng nể hoàng đế, thì ngược lại, tại các miền xa xôi ở Bắc Âu, nhiều vua chúa vẫn bày tỏ lòng hiếu thảo đối với vị đại diện Chúa Kitô. Các vua xứ Hung Gia Lợi và Ba Lan rất trọng kính ngài. Năm 991, có sự trao đổi ngoại giao giữa Vladimir xứ Kiev và đức Gioan XV; năm 994, Oda xứ Ba Lan đã nhân danh quốc gia Gniezno bày tỏ lòng trọng kính Tòa thánh; năm 1000, vua Stephan nước Hung Gia Lợi nhận vương miện bởi tay đức Silvestrê II; năm 1006, trước khi xuất quân đánh Anh quốc, quận công Guillaume le Conquérant xứ Norman die đã đến xin phép đức chánh Cha Alexanđrô II, và được trao kỳ hiệu Thánh Pherô.[25]

Do những cử chỉ ưu ái đó, đồng thời ý thức được quyền uy tối cao của mình, các Giáo hoàng bắt đầu khôi phục quyền bính thiêng liêng bị lu mờ vì sự lấn áp của thế quyền. Nền tự do Kitô giáo ló dạng khi nhiều công đồng được triệu tập, tại Ravenna (967), Roma (981), Pavia (1002), nhằm vạch trần những âm mưu, những lạm dụng làm băng hoại sinh lực của hàng linh mục. Đây đó như đang bừng tỉnh. Các giám mục xứ Flandre, Lorraine, Bourgonde không ngần ngại lên tiếng phản dối những nghi lễ, tục lệ khiến các ngài phải lệ thuộc vào thế quyền.[26] Những nhà thần học như hồng y Humberto (+ 1063), những nhà luân lý như thánh Pherô Đamian (+ 1072), mớ những chiến dịch bài trừ nạn mại thánh. Dân chúng xứ Lombardia, đặc biệt ở Milan cũng nổi dậy đòi trục xuất các phần tử tham nhũng ra khỏi Giáo hội.[27] Nhiều kế hoạch được tung ra nhằm giúp giáo sĩ thành thị sống phù hợp với thiên chức mình, theo tu luật thánh Âutinh (cuộc cải cách giáo sĩ kinh điển). [28] Sau cùng, lợi dụng thời suy vi của đế chế, năm 1059 đức Thánh Cha Nicolas II (1059- 61) ban hành Sắc lệnh bãi bỏ mọi sự can thiệp vào việc bầu cử Giáo hoàng, và dành việc bầu cử cho các hồng y có chức giám mục và linh mục.[29] Tuy nhiên, để thực hiện công cuộc cải cách vừa lớn lao vừa can đảm, vinh dự này đã dành cho hai vị thánh Giáo hoàng Leô IX (1049-54) và Gregori VII (1073-85).

Khi Brunus, giám mục thành Toul (Lorraine), được nghị hội Worms tiến cử lên ngôi Giáo hoàng (1048), ngài đã cương quyết từ chối cho đến khi việc tiến cử đó được hằng giáo sĩ Roma chấp nhận: đó là đức Leô IX. Ngài bắt đầu ngay một công cuộc cải cách toàn diện với một phương pháp thật đơn giản: dựa vào mấy huấn dụ đã có trước, ngài thẳng tay sửa trị những ai cố chấp để làm gương. Đức Thánh Cha thân hành từ xứ này qua xứ nọ: Lombardia, Rhenania, Pháp, Đức, Nam Ý,... Đến đâu ngài cũng thị sát, tra hỏi, kinh lý các giám mục, và cách chức những kẻ bất xứng. Đáng chú ý nhất là vụ thành Reims nước Pháp. Bấy giờ vua Henri I không chấp nhận cho đức Leô đặt chân lên lãnh thổ của ông, nhưng ngài cứ vào. Nhân dịp cung hiến ngôi thánh đường dâng kính thánh Remi, đức Thánh Cha buộc mỗi giám mục tới dự dại lễ phải thề rằng: mình đã “không nhận cũng không phong chức cho ai bằng đường lối mại thánh”. Kết quả: 5 giám mục, trong số này có tổng Giám mục thành Reims, đã không dám thề. Tuy nhiên nhờ ở tấm lòng nhân hậu, những ai thành thật nhận lỗi đều được tha thứ. Từ đó, đức Leô đã cản lại được tệ đoan mại thánh và những vụ phạm pháp công khai.[30]

Hoàn cảnh đã đem đến cho nhà cải cách Gregori VII một đường lối hành động khác hẳn, khiến ngài trở thành một trong những nhà lập pháp nổi tiếng của Giáo hội. [31] Hình như trong lịch sử không có vị Giáo hoàng nào bị chỉ trích và bị xuyên tạc nhiều như đức Gregori VII. Sự thực, đan sĩ Hildebrand không phải là con người bần tiện, ưa báo thù hay độc ác như đối phương thường mỉa mai trên những bức hí họa. Đức Gregori xuất thân là một đan sĩ Biển đức thánh thiện, quí trọng đức trinh khiết, yêu thích kỷ luật và có nhân đức thoát tục cao độ. Ngài hiểu rõ hơn ai hết về sự cao trọng của chức linh mục, lại có tình yêu tha thiết đối với Tòa Pherô, nên ngài quyết sống chết phải đưa hàng giáo sĩ trở về đời sống thánh thiện xứng đáng, và Giáo hội phải được hưởng một bầu khí trong lành của đức khiết tịnh và thanh liêm. Chương trình cải cách của đức Gregori nhằm hai điểm chính: xô đổ những tục lệ suy đồi và tiêu diệt nạn mại thánh.

Trên ngai Giáo hoàng, vì quá quen với đức vâng phục mau lẹ và tình nguyện theo tinh thần Biển đức, đức Gregori đã tỏ ra rất nghiêm khắc với những kẻ bất phục tùng, dù đó là đan viện phụ, giám mục hay tổng Giám mục, kể cả các vua chúa. Theo ngài, trên phương diện siêu nhiên và giáo luật, các ông hoàng không bằng một kẻ rốt hết trong hàng giáo sĩ. Nói tóm, ngài muốn gạt phăng mọi hạn chế đối với thần quyền trong phạm vi tôn giáo.[32] Ngài viết: “Chỉ mình Giáo hoàng Roma, tùy theo hoàn cảnh, có quyền công bố lề luật mới..., phân chia của cải giữa các giáo phận giầu nghèo... Ngài có quyền cách chức một hoàng đế... Không một khoản luật nào lại không do ngài. Không ai được phê phán các quyết định của ngài, nhưng ngài có quyền phân xét mọi kẻ khác. Không ai được quyền xét xử ngài, nhưng ngài có quyền tha và tháo lời tuyên thệ trung thành với những ông hoàng bất xứng".[33]

Như thế nghĩa là đức Gregori muốn sử dụng một quyền bính, giống như quyền của một đan viện phụ trong đan viện, để thực hiện một công cuộc canh tân vĩ đại. Nhiều công đồng triệu tập ở Roma trong những năm 1074-1075 với những quyết định quan trọng: cấm hàng giáo sĩ kết hôn, huyền chức các linh mục hoặc giám mục cố chấp, bãi bỏ sự trao nhẫn gậy của vua chúa.[34] Nhiều vị khâm sai Tòa thánh được cử đi khắp nơi để thực thi các quyết định trên: ở Pháp, Huge thành Die chiếm một lãnh vực rất lớn, ông hăng say hoạt động, khiển trách và cách chức một số giám mục, Tổng Giám mục, khiến đức Thánh Cha phải can ngăn.[35] Mặc dầu những hoạt động của nhà cải cách cũng như của các vị thừa hành ngoại diện xem ra cực đoan và thiếu khôn ngoan, nhưng đứng trước một tình trạng quá thê thảm, cần phải sử dụng những biện pháp mạnh mới có thể phục hưng Giáo hội, đức Gregori đã ý thức và lãnh tất cả những trách nhiệm đó.


2. Vụ Canossa (1077) và kết quả của cuộc cải cách Gregorian

Thái độ cứng rắn nói trên là nguyên nhân gây ra vụ tranh chấp vô cùng sôi nổi giữa đức Gregori VII và hoàng đế Henry IV (1056-1106). Gregori phản đối việc nhà Vua che chở những giám mục vừa bị cách chức. Ngay từ năm 1075, cuộc tranh chấp bắt đầu, vấn đề được nêu ra là ai làm chủ Giáo hội, ai có quyền trên các giám mục và Tổng Giám mục: Giáo hoàng hay hoàng đế? Vì muốn thoát ly một “Giáo hoàng khó tính” này, lại thêm nịnh thần xúi giục, Henry cho triệu tập hai công đồng (tháng 1 năm 1076) tại Worms và Placencia, cách chức Hildebrand “Giáo hoàng giả”. Henry đã không ngờ mình sẽ phải đụng đầu với một vị Giáo hoàng, như Gregori VII. Ông cũng không ngờ rằng người mà ông đối đầu ấy sẽ không quan tâm đến cá nhân mình bị xúc phạm, cho bằng chính thánh Pherô bị lăng nhục. Chúng ta hãy đọc ở đây những lời lẽ của thánh Gregori khi lên án một ông vua (14.2.1076).

“Lạy thánh tông đồ trưởng Pherô, ngài biết tôi chỉ muôn được chết trong tấm áo tu sĩ hơn là được ngồi trên ngai vị của ngài..., bởi lẽ quyền trói buộc và tháo cởi ở trên Trời cũng như ở dưới đất mà Thiên Chúa đã trao cho tôi là do ngài xin để tôi được thi hành thay thế ngài. Được ngài tín nhiệm, vì danh dự Giáo hội phải được bảo vệ nhân danh Thiên Chúa toàn năng. Cha, Con và Thánh Thần, bằng quyền uy của ngài, tôi cấm Henry IV, con hoàng đế Henry III là người kiêu ngạo đến độ mù quáng dám đứng lên chống Giáo hội của ngài, từ nay không được cai trị đế quốc Đức nữa; tôi tuyên bố tháo lời tuyên thệ cho tất cả mọi giáo dân đã buộc mình trung thành với ông ta, và cấm mọi người không được nhận ông ta làm vua... Vả lại, ở địa vị một người Kitô hữu, ông ta đã từ chối vâng phục... bằng cách lìa bỏ Giáo hội và âm mưu chia rẽ, nên tôi thay thế ngài ra vạ tuyệt thông cho ông ta, để tất cả mọi dân thiên hạ biết rằng: trên đá này Con Thiên Chúa hằng sống đã xây Giáo hội của Người, và rằng dù tất cả quyền lực hỏa ngục có tung ra cũng không thể phá nổi”.[36]

Bản án của đức Gregori có những hậu quả, mà Henry không thể lường trước được: các lãnh chúa, các chư hầu, các giáo chủ hầu hết tẩy chay Henry: xứ Saxonia đã từ lâu muốn nổi dậy nay gặp cơ hội. Năm 1077, sau nhiều cuộc bại trận, Henry bị cô lập và chờ số phận định đoạt tại nghị hội Augsburg sẽ họp vào ngày 2.2.1078. Biết thế, Henry đánh liều, giữa một đêm đông giá rét năm 1077, ông tìm đến đức Thánh Cha Gregori trên miền núi Toscana, tại lâu đài Canossa, ông quỳ gối xin tha lỗi và giải vạ. Có lẽ Gregori đã thừa hiểu thái độ “đóng kịch” của nhà vua, nhưng vì ngài còn mang trong mình mối thiện cảm đối với các tiên đế, đối với mẹ ông, thái hậu Agnes, ngài cũng muốn đặt niềm tin vào tuổi trẻ của ông; nhất là vì ngài là linh mục của Chúa Kitô, trọng tình thương hơn trừng phạt: đức Gregori đã giải vạ cho Henry.

Được giải vạ xong, và sau khi khôi phục được ngôi vị, nghĩa là chỉ mấy tháng sau, Henry triệu tập quân sĩ quyết báo thù kẻ đã thi ân cho ông. Năm 1080, cái chết trên chiến trường của Rodolphus, vị hoàng đế được khâm sai Tòa thánh nhìn nhận, đã tuyên truyền như một cái án của Thiên Chúa. Thêm vào đó, hàng giám mục Đức và Lombardo cũng đứng sang phe Henry, tuyên bố hạ bệ “Giáo hoàng giả Hildebrand” và cử giám mục thành Ravenna lên ngôi Giáo hoàng, tức Clementê III. Gregori cương quyết không chịu thua, suốt 3 năm còn nắm giữ giáo đô, ngài cầm cự với quân sĩ của Henry, rồi bị công hãm trong thành quách Thiên thần. Phút cuối cùng, được 30.000 quân Normand của Robert Guiscard giải vây, nhưng đức Thánh Cha từ trần tại Salerno ngày 25.5.1085. Henry IV lãnh vương miện bởi tay Giáo hoàng giả Clementê.

Cứ ngoại diện mà xét thì Henry đã thắng vẻ vang. Nhưng sự nghiệp của các vĩ nhân không chỉ xét theo kết quả của những thủ đoạn xảo trá, những hành động của bạo lực. Tuy bị phản bội và phải bỏ thân nơi lưu lạc, nhưng chính vì cái chết cho công lý và chân thiện mà Gregori được coi là kẻ chiến thắng oanh liệt. Gregori đã chết, nhưng cuộc “cách mạng Gregorian” thành công. Gọi là cuộc cách mạng, vì nó biến đổi bộ mặt và những tục lệ của hàng giáo sĩ, cải cách các cơ cấu tổ chức, thoát ly khỏi áp lực thế quyền, thu hồi quyền tự do độc lập cho Giáo hội và ngôi Giáo hoàng, đặc biệt là nêu cao thần quyền tuyệt đối của Giáo hội.

Do cuộc canh tân Gregorian nói trên, tục lệ trao nhẫn gậy dần dần biến tan, chỉ còn ý nghĩa tượng trưng tại hai nước Pháp và Anh. Nhưng các người kế vị Henry IV (+ 1106) còn nuôi tham vọng giữ lại tục lệ đó. Đức Thánh Cha Pascal II (1099-1118) nhất quyết không chấp nhận, ngài tuyên bố thà bỏ hết mọi thái ấp, mọi quyền lợi trần gian. Kết quả: Henry V (1106-25) bằng lòng từ bỏ mọi nghi thức trao nhẫn gậy (1106). Tuy nhiên, mãi đến triều Giáo hoàng Calixtô II (1119-24), một thỏa hiệp mới được ký kết tại Worms (1122), theo đó các lễ nghi có ý nghĩa phục tùng thế quyền phải bãi bỏ hẳn, và vị giám mục sau khi được tuyển chọn theo giáo luật, sẽ nhận bởi tay các vị lãnh đạo Giáo hội mọi quyền thiêng liêng cùng với nhẫn gậy, tượng trưng cho quyền đó. Vị tân giám mục, với danh nghĩa một công dân, có thể được hoàng đế trao cho những quyền lợi thế tục, mà chiếc phủ việt là biểu tượng. Như vậy, thần quyền và thế quyền nơi các giám mục đã được phân định rõ rệt, từ đấy quyền bính của nhà Vua cũng bị hạn chế trong phạm vi nhỏ bé hơn. Năm 1123, đức Thánh Cha Calixtô II triệu tập đại Công đồng Latran I, chấp nhận thỏa hiệp Worms, quyết định chế độ độc thân giáo sĩ, tuyên bố bất thành các cuộc hôn nhân của linh mục, phó tế và phụ phó tế.


3. Vấn đề nội bộ: người Roma chống Giáo hội Roma

Cũng như trong nhiều thế kỷ trước, Giáo hội không những đối phó với kẻ thù bên ngoài, mà còn gặp phải những kẻ thù ngay bên trong. Tướng Crescentius (+ 998) nổi dậy âm mưu thiết lập nền Cộng hòa Roma, giết đức Thánh Cha Biển đức VI (973-974), cùng với Giáo hoàng giả Bonifaciô VII (974-986) [37] uy hiếp Biển đức VII (974-983), giết đức Gioan XIV (983-984). Rồi đến vụ Philagatus (997-998) chiếm quyền Giáo hoàng của đức Gregori V (996-999). Năm 1000, mặc dầu đã có Otton III dùng hết uy quyền để bảo vệ, đức Thánh Cha Sylvestrê II (999-1003) cũng phải bỏ Roma lánh nạn nơi đồn trú của quân hoàng gia. Những cuộc biểu dương lực lượng của Henry II, Conrad II và Henry III không đủ sức tiêu diệt “phiến loạn”.[38]

Người ta hy vọng sẽ dập tắt mọi bạo hành, khi những “phiến loạn” Theophylaco và Crescentius không còn, khi thế quyền bị gạt ra ngoài các cuộc bầu cử Giáo hoàng, và khi việc bầu cử này được trao cho hồng y đoàn (1059). Lẽ ra vì ích chung Giáo hội, các vị này phải can đảm loại bỏ những thành kiến và hận thù. Nhưng không luôn được như vậy, đó là nguyên nhân những vụ bất hòa tạo nên nhiều “Giáo hoàng bất xứng”, có tên trong danh sách các đấng kế vị thánh Pherô.

Cảnh chia rẽ xảy ra một cách hết sức bất ngờ vào ngày 14.2.1130, khi đức Honoriô II (1124-30) vừa nằm xuống. Duyên do từ việc các hồng y giám mục đồng ý tôn Innocentê II (1130-43) lên ngôi Giáo hoàng, bị các hồng y linh mục phản đối sau khi bỏ phiếu bầu Pedro thành León, tức Anaclet II. [39] Innocentê có nhiều uy tín cá nhân, trái lại người ta lo ngại đức tính gian hùng của Anaclet và còn chê ông thuộc dòng dõi Do Thái. Thánh Benađô và thánh Norbert tuyên bố ủng hộ Innocentê và thuyết phục được hầu hết các vua Tây phương: Pháp, Đức, Castilla, Aragon, Anh. Trước con mắt thế giới Công giáo, Innocentê là Giáo hoàng chính thức. Nhưng chính ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt là chịu lưu đày. Được các vua kính trọng, các dòng tu đón rước nồng hậu, ngài cư trú tại Cluny một thời gian, rồi đi Liége, St-Denis, Reims, tại đây ngài xức dầu phong vương cho Louis VI (1133).

Anaclet mất năm 1137, Victor IV lên kế vị, nhưng tính tình nhút nhát, ông bầng lòng nhượng bộ và rút lui, nhờ đó đảng phái mới yên (1138). Đức Thánh Cha Innocentê II trở về Roma, triệu tập đại Công đồng Latran II (1139). Nhưng người Roma lại vùng dậy đòi quyền tự chủ và được hoàng đế Conrad III (1138-52) nước Đức yểm trợ. Tu sĩ Amoldo thành Brescia, môn đệ của Abelard, chủ trương trở lại chủ nghĩa xã hội mọi hoạt động chính trị, rồi kéo nhau đi cướp phá nhiều thánh đường và tu viện. Arnoldo viết: “Các giáo sĩ có tài sản, các giám mục nắm giữ “quốc vương quyền” (régales), các tu sĩ có tiền bạc, họ không thể rỗi linh hồn được. Tất cả mọi của cải này thuộc nhà Vua, và nhà Vua chỉ được sử dụng trong việc mưu ích cho người dân mà thôi “.[40]

Arnoldo bị lên án trong công đồng Latran II. Ông phải bỏ trốn sang Zurich, rồi lưu vong bên nước Pháp. Sau cùng ông trở về Roma, hô hào dân chúng tẩy chay đức Eugeniô III (1145-53), và lập chính thể cộng hòa. Nhưng chính thể mị dân của ông không đứng vững lâu dài. Năm 1153, sau khi thất bại trong cuộc tranh cử vào thượng nghị, Arnoldo phải rời khỏi Roma. Nhưng 16 tháng sau, ông bị bắt đưa về Roma, chịu án treo cổ, xác hỏa thiêu trước khi ném xuống sông Tiber (1155). Đức tính cương trực của vị Giáo hoàng người Anglo-Saxon, đức Adrian IV (1154-59), và sự can thiệp bằng quân lực của Friedrich I Barbarossa (1152-90) càng làm cho các cuộc “phiến loạn” chóng tan rã.[41]

Để tránh những tranh chấp còn có thể xảy ra sau này trong các cuộc bầu cử Giáo hoàng, đức Thánh Cha Alexanđrô III (1159-81) trong công đồng Latran III (1179) đã quyết định việc bầu cử Giáo hoàng do các hồng y, đòi phải có hai phần ba số phiếu mới thành. Số các hồng y bấy giờ là 52.


4. Ngôi Giáo hoàng và nhà Hohenstauphen.
[42]

Thánh Gregori VII khôi phục quyền tối cao thiêng liêng và bất khả xâm của Giáo hội, ngài đã thành công. Thấy thế, các luật gia của Friedrich I Barbarossa cũng cố tìm ra lẽ, để tranh đấu cho quyền bất khả xâm và quyền độc lập tuyệt đối của thế quyền đối với thần quyền. Nhân đấy, cuộc tranh chấp kéo dài suốt ba phần tư thế kỷ, từ năm 1171 đến 1250, giữa các ông hoàng Hohenstauphen với ba Giáo hoàng Alexanđrô III, Innocentê III, Innocentê IV. Vấn đề được nêu lên là quyền hoàng đế, dầu chỉ ở phạm vi thế tục, có phải tuyệt đối không?

Trường hợp hoàng đế xúc phạm đến Giáo hội hoặc giới răn Thiên Chúa, ông có thoát được hình phạt không? Các Giáo hoàng, tức những đại diện cho uy quyền Giáo hội, đóng vai bảo vệ luân lý và kỷ luật Kitô giáo, trả lời rằng: không.[43]

Friedrich Barbarossa xuất thân là một quân nhân thô bạo, kiêu căng, ông có tham vọng thống trị cả bán đảo Ý. Sau khi được Adrian IV băng hà, người đã xức dầu phong vương cho ông, ông đứng lên ủng hộ liên tiếp ba Giáo hoàng giả chống lại đức Thánh Cha Alexanđrô III (1159-81). Năm 1161, dân thành Milan nổi lên chống ông, bị ông tiêu diệt. Nhưng ông bị án vạ tuyệt thông, và phải lưu vong bên Pháp quốc (1168). Người Lombardo phục thù, dân thành Milan tái thiết thành trì và đánh bại ông tại Legnano (1176). Cũng như Henry IV xưa, Barbarossa phải cúi mình trước mặt đức Alexandrô III tại vương cung thánh đường Thánh Marcô thành Venecia, xin nhận hầu hết mọi điều kiện mà đức Thánh Cha bắt ông phải chịu (1177).[44]

Nửa thế kỷ sau, cuộc tranh chấp tái diễn từ 1230 dân 1250 giữa các Giáo hoàng và Friedrich II Hohenstauphen (1212-50). Cuộc tranh chấp lúc ban đầu có tính chính trị hơn là tôn giáo. Nó diễn tiến bằng những thách thức, hăm dọa và lên án lẫn nhau.[45] Gregori IX (1226-41) và Innocentê IV (1243-54) là những người kế vị xứng đáng của thánh Gregori VII và đức Alexanđrô III. Nhưng Friedrich II không phải là người tầm thường: ông rất thông minh, đồng thời là nhà lập pháp nổi tiếng và có đời sống luân lý tương đối khá. Nhưng chỉ vì ông thiếu cảm tình với tôn giáo, mà trở thành con người gian hùng và bội giáo. Friedrich vì có lời hứa với đức Thánh Cha Innocentê III (1198-1216), nên đã được tín nhiệm và làm vua Roma (1216), cùng được đức Thánh Cha Honoriô III (1216-27) đặt vương miện hoàng đế (1220).

Sau khi được khoác trên mình đủ mọi vinh dự, Friedrich bắt đầu bội phản, nhưng bị đức Thánh Cha Gregori IX phạt vạ tuyệt thông (1227). Năm 1228, mặc dầu mang vạ trên mình, ông cầm đầu binh Thánh giá lần VI và chiếm được Gierusalem, bằng một thỏa hiệp với Meledin (Malex-El-Kamid). Trở về đất Ý, ông làm hòa với đức Thánh Cha (1230), nhưng đó chỉ là thái độ “đóng kịch”. Năm 1241, Friedrich bị đức Gregori phạt vạ tuyệt thông một lần nữa, khi ông này ngăn cản việc triệu tập một công đồng tại Roma, bằng cách phục kích bắt cóc một lúc cả đoàn xe chở các tổng Giám mục và giám mục tới dự công đồng, và giam giữ tại Napoli. Nhưng bốn năm sau, đức Innocentê IV đã khéo tạm lánh sang Lyon, và quyết định triệu tập một đại Công đồng để thanh toán Friedrich (1245). Friedrich xuất quân định chiếm Lyon, nhưng ở bên kia sông Rhône vua thánh Louis IX lên tiếng đe rằng: “Kẻ xúc phạm đến vị lãnh đạo Giáo hội sẽ bị trừng phạt xứng đáng”.[46]

Đại công đồng Lyon I là tòa xử vụ Friedrich II. Những hoạt động gian dối, những tội bội phản, những cuộc đầu hàng trá hình đều được vạch trần; những tội dâm ô, những vụ xâm phạm đến quyền lợi người dân và Giáo hội đều bị lên án. Kết quả, Friedrich bị truất phế, cả đế quốc La đức đứng lên chống lại ông. Ông và Euzius con ông đại bại. Friedrich buồn rầu, lâm bệnh chết (1250), chấm dứt triều đại Hohenstauphen, Rudolf I (1273-91) nhà Habsburg lên cầm quyền, bỏ tham vọng của nhà Hohenstauphen trên đất Ý.


5. Nước Tòa thánh và mầu sắc chính trị nơi đức Innocentê III

Nước Tòa thánh trở nên cường thịnh dưới triều Giáo hoàng Innocentê III (1198-1216). Biên cương được mở rộng ở miền Bắc (Toscana) và Tây Nam (Ancona, Spoleta, Benevento, Campania); đảo Corsia và Sicilia cũng có những đại diện từ Roma gởi đến cai trị. Vì có đất có dân, Giáo hoàng trở thành ông vua, qui tụ được các lực lượng trọng yếu, mang mầu sắc quốc gia, với những nguồn lợi kinh tế và quân sự quan trọng. Vì ảnh hưởng Giáo hoàng mạnh mẽ, đàng khác lại sợ bị các quốc gia hùng cường lấn át, nhiều nước như Ba Lan, Scandinavia, Bohemia, Hung Gia Lợi, Bồ đào Nha, và sau này cả Anh quốc, Tây Ban Nha cũng tự đặt dưới quyền bảo trợ tinh thần và nhận quyền tối cao của Tòa thánh.

Trước thế kỷ XIII, đối với những nước nhìn nhận quyền Tòa thánh các Giáo hoàng chỉ can thiệp vào những vấn đề tôn giáo, dàn xếp các vụ tranh chấp và chiến tranh. Nhưng đến thời đức Innocentê III, ngài can thiệp vào cả nội bộ các quốc gia đó như việc truất phế hoặc tôn phong các vua, đòi các nước phải nộp thuế hoặc viện trợ quân sự để đối phó với kẻ thù Giáo hội. Đức Innocentê III tuy không hề bắt một quốc gia nào phải nhận quyền ngài bằng văn bản, nhưng không bao giờ ngài bỏ can thiệp vào các vụ tranh chấp ngôi báu. Chẳng hạn, tại Đức quốc ngài làm áp lực để tôn Otton IV (1198-1212) lên ngôi Hoàng đế, rồi khi ông này bội phản, ngài không ngần ngại loại bỏ ông và ủng hộ Friedrich Roger, tức Friedrich II (1212-50) mới 18 tuổi. Tại Anh Cát Lợi, khi nhà Vua ban hành “Đại ước pháp” (Grande Charte 1215), đã bị ngài lên án cho rằng “thiếu kính trọng đối với Tòa thánh”, làm thiệt hại cho nhà Vua và làm sỉ nhục hàng quí tộc Anh, mặc dầu “Đại ước pháp” này có những khoản nhìn nhận các quyền căn bản của Giáo hội, mà trước đây thường bị các vua bác bỏ.

Thánh Gregori VII đã nâng quyền của thánh Pherô lên trên quyền các vua, nhưng chỉ nhằm mục tiêu tôn giáo, bảo vệ công lý và kỷ luật, để chấm dứt những lạm dụng nơi các vua chúa, khi các ông này phạm lỗi: ratione peccati. Nhưng đức Innocentê III đã đi xa hơn, trong việc bênh vực và áp dụng nguyên tắc của đức Gregori. Ngài dùng quyền Giáo hoàng lấn át các vua chúa, can thiệp vào chính trị đối nội cũng như đối ngoại của các nước, làm như ngài là ông vua: ratione domini. Trong trường hợp như vậy, không thể nghĩ rằng ngài hành động theo linh ứng Chúa Thánh Thần, vì thế chúng ta có thể phê phán đường lối chính trị của vị Giáo hoàng này, như người ta từng phê phán các nhà chính trị khác.

Sự lạm quyền nói trên không phải riêng đức Innocentê III, nhưng còn ở cấp thừa hành, các đặc sứ, các sứ thần..., đã hoạt động một cách rất nghiêm khắc: huyền chức, cách chức, đóng cửa thánh đường, vạ tuyệt thông. Thêm vào đó, chế độ thuế khóa nặng nề, khiến người ta coi chính trị của Giáo hoàng như một cái ách.[47] Nhờ có sự phản ứng của hàng quí tộc Anh, nền quân chủ Pháp, Lombardo và nhà cầm quyền Đức, tuy đôi khi có những lời lẽ bất bình hoặc những hành động quá khích xảy ra người ta đã ngăn cản được sự lạm quyền của ngôi Giáo hoàng, muốn biến quyền thiêng liêng mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội, thành một quyền uy tuyệt đối tức thần quyền chính trị (théocratie).[48]

Dầu sao, người ta phải công nhận các Giáo hoàng thời đó đã hành động như những người bảo vệ luật pháp, kiến tạo hòa bình. Khi binh Thánh giá vắng bóng các vua chúa hay thiếu cấp chỉ huy, khi một ông vua chết quá sớm, khiến ngai vàng có thể rơi vào tay bọn cướp quyền hoặc phiến loạn, các ngài đã dùng đến quyền uy mình để bênh vực kẻ yếu thế, đặng bảo vệ quyền lợi chung. Đó là nhiệm vụ mà ngôi Giáo hoàng đã hoàn tất. Pha mình vào những việc trần tục các ngài không tránh được những nguy hiểm, những liên lụy, cả sai lầm nữa. Nhưng giữa một thời văn minh Trung cổ, nếu các ngài không làm thế, tưởng khó có thể làm tròn sứ mạng của mình.


 

[1] Sách tham khảo: Fliche - Martin: Histoire de l’Église, Q. VI (Martin), VII (Amann và Dumas), VIII (Fliche) - Dom H. Poulet: Histoire du Christianisme, Q. II (le moyen âge) - Lesne: Histoire de la propriété ecclésiastique en France, Q. I, II, Lille 1910, 1922-26 - Fliche: L’Europe occidentale de 888 à 1125 (Histoire générale de Glotz; moyen âge, II) - J. Calmette: Le monde féodal (“Clio” IV) và Textes et documents (“Clio” XI, fasc. 2) - L. Duchesne: Liber pontificialis, 1886-1911, Q. I, và II.

[2] Xem E. Lesne: op., cit., Q. I, tr 143-252 - Aigrain, trong Histoire de l’Église, Q.V, tr 331-349 và 543-565.

[3] E. Lesne: op. cit., Q II, 1922, tr 1-33.

[4] M. Jacquin Histoire de l’Église, Q. II, 337-341.

[5] Xem Amann, trong Histoire de l’Église (Fliche - Martin), Q. VI, tr 71-82 - H. Poulet: op. cit., tr 63-68.

[6] Xem Lesne: op. cit., Q. II, tr 456-495.

[7] H. Poulet: op. cit., tr 99-111 và 122-126.

[8] Aigrain, trong Histoire de l’Église, Q.VI, tr 412-430) và Amann, Q.VI. tr 17- 68 - Xem Duchesne: Les premiers temps de l’Étal pontifical, 1911.

[9] Amann, trong op. cit., Q.VI, tr 153-165 - Xem J. Calmette: Charlemagne et son oeuvre, Paris 1943.

[10] Duchesne: Les premiers temps de l’Étal pontifical, tr 88-89.

[11] Amann, trong op. cit., Q.VI, tr 208-210 và 275-276.

[12] Amann, trong: op. cit., Q.VI, tr 370-400.

[13] Amann và Dumas: L’Église au pouvoir des laiques. Q.VII, trong: Histoire de L’Église.

[14] Chính trong thời bị coi là quá “bẩn thỉu” này, người ta đã bịa ra truyện “nữ Giáo hoàng Gioanna”, một câu truyện không có nền tảng lịch sử, song lại được các sử gia có ác ý với Giáo hội khai thác, trong khi không một sử gia đứng đắn nào chấp nhặn.

[15] Fliche: L’Éurope occidentale de 88 à 1125 (Histoire générale de Glotz Moyen âge. II), tr 132-160

[16] Fliche: op. cit., tr 193-264 và 301-330.

[17] Fliche: op. cit., tr 218-232. Amann, trong op. cit., Q.VII, tr 376-392.

[18] Lòng sùng kính của giáo dân thời trung cổ, nhiều khi không quan tâm đến sự thật của những “hài cốt” mà họ kính.

[19] Amann, trong: op. cit., Q. VII. tr 189-211 và 231-241.

[20] Một giáo phái có từ thế kỷ I , luân lý rất phóng túng

[21] Dumas, trong: Histoire de l’Église. Q.VII, tr 465-484 - Xem Fliche: La réforme grégorienne, Q. I. Louvain 1924, tr 22-59. Amann, trong op. cit., Q.VII tr 60-97.

[22] Amann, trong: op. cit., Q.VII, tr 91-92 - Fliche: op. cit., Q. I, tr 107, số 2.

[23] Fliche: op. cit., Q. I, tr 107, số 2.

[24] Xem chương Sáu, tr 244 và tiếp.

[25] G. de Plinval: Le drame politique du moyen âge, le sacerdoce et les princes trong: Histoire illustrée de l’Église, Paris 1946, Q. I, tr 343.

[26] Fliche: La Réforme grégorienne, Q. I, tr 92-129 - P. Biron: Saint Pierre Damien.

[27] Về lạc giáo Palaria ở Milan, xem Poulet: op, cit., Q. II, tr 319-320.

[28] Mandonnet-Vicaire: Saint Dominique, Q. II, tr 176-182.

[29] Fliche: op. cit., Q. I, tr 313-326. Triều đình làm bộ như không biết gì về Sắc lệnh này của đức Nicolas II.

[30] Fliche: op. cit., Q. I, tr 129-159 - E. Martin: Saint Léon IX - (“Les Saints”), Paris 1904.

[31] Fliche: La réforme grégorienne, Q. II, “Grégoire VII” Louvain 1925 - Elie Voosen: Papauté et pouvoir civil à l’époque de Grégoire VII, Louvain 1927 - H. X. Arquillière: Saint Grégoire VII, Paris 1934.

[32] Fliche: op. cit., Q. II, tr 309-316 và 389-398.

[33] Dictatus papae trong Fliche: op. cit., Q. II, tr 191-192.

[34] Fliche: op. cit., Q. II, tr 134-146 và 173-189.

[35] Fliche: op. cit., A. II, tr 245-253 - Xem Saint Grégoire VII, tr 77-81.

[36] Fliche: op. cit., tr 284

[37] Bonifaciô VII chết bất đắc kỳ tử năm 985, xác ông được quàn tại công trường tượng đài hoàng đế Constantinus, đến sau được mấy linh mục đem chôn cất. Năm 996, vua Otton III đánh bại Crescentius để phục quyền cho đức Gregori V. Nhưng khi Otton III vừa đi khỏi, Crescentius lại trở về Roma, nhưng bị công hãm trong thành quách Thiên thần, phải đầu hàng và bị giết năm 998.

[38] Amann, trong op. cit., Q. VII, tr 51-111.

[39] Sắc lệnh của đức Nicolas II đã không trù liệu được trường hợp này, đức Innocentê được hầu hết các hồng y giám mục tín nhiệm, song Anaclet lại thắng phiếu trong cuộc bầu cử.

[40] Otto de Freisingue: Gest. Frederic., Q. II, tr 20.

[41] Xem Vacandard: Vie de saint Bernard, Q. II, tr 245-258 và 465-469 - H. Poulet: Histoire du Christianisme, Q. II, tr 551-558.

[42] Hoàng tộc Đức, gốc Wurtemberg giữ ngôi Hoàng đế từ 1138 (Conrad III) đến 1250

[43] E. Jordan: L’Allemagne et Italie aux XIIIe siècles (trong Histoire générale de Glotz. II, iv) - Poulet: op. cit., Q. II, tr 560-565 và 586 - H. X. Arquilliwère: La formation de la théocratie pontificale, Paris 1926

[44] Cuộc bại trận ở Legnano (1176) và thỏa hiệp Venecia (1177), hòa ước Constancia (1185), xem Hauck: op. cit., Q. IV, tr 184-311.

[45] Hauck op. cit., Q. IV, tr 745-852.

[46] H. Poulet: op. cit., Q. II, tr 628

[47] Xem lời phê phán của thánh Benađô, trong De Consideratione, Q. III. ch. 2.

[48] Amann: Innocent III, Innocent IV trong Dict. de Théol. Cath.