HOME

 
 

Phần Nhất :
THƯỢNG CỔ V� TRUNG CỔ

Chương T�m

HỒI GI�O, LY GI�O Đ�NG PHƯƠNG

V� BINH TH�NH GI� (t.k. VII-XIII)
 

I. Kit� gi�o với Hồi gi�o

1. Islam hay Hồi gi�o v� s�ch Coran

2. Những cuộc x�m lăng vũ b�o của Hồi gi�o (636-737)

3. Số phận người C�ng gi�o v� tinh thần quật khởi của họ

II. Gi�o hội C�ng gi�o Đ�ng phương

1. Cuộc khủng hoảng Monothelisme (t.k. VII)

2. Sự thờ k�nh ảnh tượng th�nh v� b� Iconoclasme Ph� ảnh tượng (t.k. VIII)

3. Vụ gi�o chủ Photius v� vấn đề Bảo Gia Lợi (t.k. IX)

4. Michael Cerularius v� ly gi�o Đ�ng phương (1054)

III. Gi�o hội thời binh Th�nh gi�

1. Binh Th�nh gi� v� vương quốc Gierusalem (1096-1291)

2. Binh Th�nh gi� cứu viện Gierusalem (t.k. XII-XIII)

3. Lạc gi�o Cathar hay Albigens� v� binh Th�nh gi� th�nh Albi

4. Việc dẹp y�n lạc gi�o Cathar : th�nh Đaminh v� t�a Truy t� (Inquisition)

 

Đ� đến l�c một đ�m m�y đen tối bao tr�m cả bầu trời Kit� gi�o �u ch�u, l� nơi tuy đ� từng bị x�u x� bởi nhưng cuộc tranh chấp s�i nổi, nhưng c�n giữ vững được nền thống nhất v� sự trung b�nh với đức tin. M�y đen đ� l� Islam, l�m đen nghịt cả g�c trời Đ�ng Nam Kit� giới, kể cả những nơi được t�n s�ng nhất, tức Đất Th�nh. N� chiếm đoạt của C�ng gi�o cả một v�ng rộng lớn; n� l�m cho Persia, Ai Cập, Bắc Phi mất đạo, trở lại với Thần gi�o; n� c�n đe dọa x�m nhập �u ch�u. T�nh trạng n�y sẽ đi tới đ�u? �u ch�u v� Gi�o hội phải h�nh động ra sao trước nguy cơ n�y? Với sự hướng dẫn của cấp l�nh đạo đời cũng như đạo, c�c nước Đ�ng phương cũng như T�y phương đ� l�m g� để đối ph�, đặng bảo to�n đức tin ? Đ� l� những n�t ch�nh m� ch�ng t�i sẽ tr�nh b�y trong chương n�y. [1]

Nhưng trong c�ng cuộc bảo vệ cũng như quật khởi n�y, sẽ c�n c� nhiều vụ rối ren nội bộ xảy đến. V� thế ngo�i c�c cuộc giao tranh với Hồi gi�o c�ng những cuộc viễn chinh của binh th�nh gi�, ch�ng t�i sẽ đề cập đến sự ngộ nhận đ�ng tiếc đ� g�y n�n cuộc bất h�a giữa Gi�o hội Latinh v� Hy Lạp, tức biến tướng đưa tới ly gi�o Đ�ng phương. Rồi c�n phải biện minh cho những tổ chức thật cheo leo v� tế nhị, đặc biệt ở miền Nam �u ch�u, những tổ chức n�y kh�ng r� phải tr�i đến đ�u đ� được coi l� cần thiết v� được sử dụng trong c�ng việc dẹp loạn ngay ở nội địa, đ� l� binh Th�nh gi� Albigenses v� t�a �Truy t�� (Inquisition).


I

KIT� GI�O VỚI HỒI GI�O


1. Islam hay Hồi gi�o v� s�ch Coran

Sarrasen l� d�n m� c�c sử gia Byzantin gọi l� Agaren, bấy giờ kh�ng c�n l� một d�n tộc xa lạ nữa. Họ l� d�n du mục đ� từ l�u nằm sẵn ở bi�n giới đế quốc chuy�n nghề cướp b�c c�c thương gia v� d�n địa phương. Uy lực n�o sẽ đứng ra để thống nhất những bộ lạc nhiễu loạn n�y, chỉ lăm le thanh to�n nhau? Điều m� kh�ng một lực lượng ch�nh trị n�o c� thể l�m nổi, th� một đạo gi�o đ� xuất hiện để l�m, tức Islam hay Hồi gi�o.[2]

Mahomet (Mohammed), người s�ng lập Hồi gi�o, sinh tại La Mecque (Ả Rập) v�o khoảng năm 570, qua đời tại Medina năm 632. �ng tự h�o m�nh l� d�ng d�i Ismael, con Abraham. �ng kết duy�n với một b� g�a giầu c� t�n l� Khadikja, m� trước đấy �ng l� người gi�p việc. Năm 40 tuổi, Mahomet tự xưng l� t�ng đồ v� l� ti�n tri của Allah (Thi�n Ch�a), được ơn mặc khải v� được sai đến để cải c�ch t�n gi�o, x� hội. �ng thu h�t được nhiều m�n đệ, nhưng cũng g�y n�n lắm th� địch. Cuộc đụng độ năm 622 buộc Mahomet c�ng c�c m�n đệ phải tự � đi khỏi �T�a th�nh� La Mecque, nơi m� họ cho l� đ� bị � uế bởi �qu�n v� đạo� v� nh�m thương gia trục lợi, để thiết lập tại Medina một �Th�nh địa� mới, d�nh cho c�c �t�n hữu ch�n th�nh�. Sự �xuất h�nh� (h�gire) n�y tuy chỉ l� một biến cố xảy ra, do sự bất m�n c� nh�n kh�ng mấy quan trọng, nhưng đ� mở đầu cho cuộc c�ch mạng t�n gi�o lớn nhất trong lịch sử.

Gi�o l� �mặc khải� của Mahomet gồm c� một niềm tin rất m�nh liệt v�o Allah duy nhất v� to�n năng. Chỉ cần một �t lễ nghi v� giới luật (cầu nguyện, chay l�ng, tắm rửa, h�nh hương), đủ để nắm giữ con người dưới quyền uy của Allah, nhưng cũng kh� uyển chuyển để những ai c� t�n ngưỡng kh�c được tự do th�ch nghi. Mặc d� l� một t�n gi�o c�ch mạng, Hồi gi�o vẫn để người ta theo giữ t�n gi�o của Tổ phụ Abraham v� ti�n tri Gi�su, hoặc tin tưởng v�o vi�n đ� thần Kaaba, v�o Thi�n thần v� Quỷ thần (Djinns). Kh�ng ai phủ nhận gi�o l� của �ng cao đẹp hơn Đa thần gi�o tại La Mecque. �ng rao giảng sự ph� th�c v�o Thi�n Ch�a tức Allah, sự lo sợ ng�y thẩm ph�n. Đạo l� của �ng c�n đề cao nhiều đức t�nh, như ngay thật hiếu kh�ch, can đảm, v� t�nh huynh đệ (�t l� giữa c�c t�n hữu với nhau). N� khuyến kh�ch đời sống tu đức, thanh bần v� chi�m niệm. Nhưng hầu như kh�ng c� một biện ph�p n�o để kiềm chế dục vọng con người: d�m �, b�o o�n, ham danh, ham lợi. S�ch Coran chấp nhận tục đa th�, ly dị v� chế độ n� lệ. Như vậy, Mahomet đ� kh�n kh�o l�m vừa l�ng mọi t�n gi�o v� bản t�nh tự nhi�n của con người, bằng c�ch để mặc c�c t�n hữu tự do tin tưởng v� tự do t�m kiếm sắc dục, danh vọng, tiền bạc.

Biết c� một gi�o l� như thế, người ta sẽ kh�ng c�n ngạc nhi�n g� về vụ Badr năm 624 : Mahomet hướng dẫn d�n th�nh Medina cướp hết h�ng h�a của nh�m thương gia từ Syria đi La Mecque. Vụ cướp t�o bạo n�y kh�ng những đ� g�y quỹ cho t�n gi�o mới m� c�n được coi l� một gương mẫu, một h�nh động đầy � nghĩa. Với vụ cướp đ� Mahomet thừa nhận tục cướp b�c cổ truyền tr�n sa mạc. �ng c�n tr�nh b�y cho c�c t�n đồ biết rằng Hồi gi�o l� một �đạo đền c�ng� (religion payante), l� đạo đem lại cho c�c t�n hữu chiến thắng v� lợi phẩm. Từ đ�, khi tiền của kẻ kh�c đặt sẵn trước mắt người t�n hữu, tức l� họ c� quyền lấy. C�c nước trần gian được coi như Allah (Thi�n Ch�a) d�nh sẵn, để thăng thưởng c�c bậc anh h�ng Hồi gi�o. Khi sử dụng cuồng t�n v� tham vọng v�o cuộc �th�nh chiến� (djihad) chống �qu�n ngoại đạo�, tức l� Mahomet mở rộng cửa cho dục vọng của người Ả Rập, tức l� �ng vạch ra cho đồng b�o �ng một hướng đi, dẫn dắt những con người ngổ ng�o ưa th�ch giang hồ ngang dọc tr�n sa mạc, v�o mục ti�u họp sở th�ch, một lẽ sống đo�n kết c� kỷ luật v� một c�i chết �l� tưởng�. S�ch Coran, một t�c phẩm gồm 114 chương (sourate) được xếp đặt một c�ch kh�ng họp l�, chỉ l� một danh phẩm gi�o l�, nghi lễ v� giới luật. Nhưng theo � nghĩa s�u xa của n�, đ�y c�n l� một t�c phẩm tr�nh b�y những quan điểm ch�nh trị t�n gi�o, m� quan điểm đ� chỉ thể hiện được bằng v� lực.


2. Những cuộc x�m lăng vũ b�o của Hồi gi�o (636-737)

Đầu thế kỷ VII, qu�n d�n Persia kẻ th� cố hữu của đế quốc, nh�n l�c Byzantin suy yếu, đ� vượt s�ng Tigre v� Euphrate. Chỉ sau một v�i trận, địch qu�n đ� tr�n ngập c�c xứ Assyria, Palestina, Tiểu � v� Ai Cập (611-618). Th�nh Antiokia bị ph� tan hoang, nhưng thiệt hại nhất l� th�nh Gierusalem bị chiếm đ�ng (614): Mồ Th�nh bị thi�u hủy, gi�o d�n bị s�t hại hoặc t� đ�y. Th�nh gi� Ch�a bị vua Chosro�s chiếm đoạt như chiến lợi phẩm.[3] Đứng trước cuộc t�n ph� đ� người d�n thức tỉnh v� quyền lợi của đế quốc v� đạo Ch�a. Một cuộc phản c�ng bắt đầu dưới sự l�nh đạo của ho�ng đế Heraclius (610-641). Kết quả, Byzantin chiến thắng (627-628) giết được Chosro�s, qu�n Persia phải triệt tho�i, Th�nh gi� Ch�a được rước trở về Th�nh th�nh.

Nhưng Hồi gi�o dưới thời Omar I (634-644) đ� v�ng l�n, khai diễn một thời x�m lăng bằng bạo lực ngo�i sức tưởng tượng. Trận Yarmouk (636) ph� tan qu�n ph�ng vệ của Byzantin tại Syria. Trận Cadishja (637) mở tung cửa bi�n giới Irak cho đo�n qu�n x�m lăng tr�n sang đất Ba Tư, v� đặt ngay đấy một nền đ� hộ (643). Năm 638, Gierusalem thất thủ, ho�ng đế Heraclius bỏ chạy, chỉ kịp mang theo Th�nh gi� Ch�a về Constantinopoli, Omar cưỡi lạc đ� v�o th�nh Đavid, tới nền Đền th�nh cũ �ng l�m lễ quy y v� ban lệnh x�y một ng�i ch�a Hồi gi�o. Năm 640, tướng Amrou (+ 662) đ�nh Ai Cập cuộc đ�nh ch�m kết th�c v�o 3 năm sau, khi th�nh Alexandria đầu h�ng.[4]

Như vậy, kh�ng đầy 15 năm, một đế quốc th�nh h�nh, thống nhất tất cả mọi d�n tộc Đ�ng phương dưới ch�nh thể qu�n phiệt, v� c�ng xưng tin một t�n gi�o. Đế quốc n�y được to�n quyền sử dụng một t�i nguy�n khổng lồ, một nguồn nh�n lực bất tận. Moawia (610- 680), to�n quyền xứ Syria bấy giờ, cũng c� một hạm đội, v� kh�ng mấy chốc c�c chiến thuyền của Hồi gi�o đ� c� mặt khắp hải phận Epheso v� Constantinopoli, đối diện với hải qu�n Byzantin. C�c đảo tr�n biển Egea, như Rhodes (654), Cypro, Creta, đều trở th�nh những cứ điểm trọng yếu, để thống trị cả Địa Trung Hải. Ở Phi ch�u, cuộc chiến thắng Ai Cập đ� khiến c�c xứ Fezzan, Tripoli, Nam Tunisia lần lượt đầu h�ng qu�n Ả Rập. Họ tiến v�o Maghreb (Algeria ng�y nay), v� được tăng cường bởi qu�n Berber v� Mauro xin gia nhập.

Năm 698, đến lượt th�nh Carthago bị hạ, cả xứ Ifrikia (Tunisia) lọt v�o tay Hồi qu�n. Năm 711, Hồi qu�n vượt eo biển Gibraltar, tr�n l�n đất T�y Ban Nha. Năm 717-718, Constantinopoli bị phong tỏa cả tr�n bộ lẫn dưới biển hơn một năm trời. Người ta ước lượng c� 1.800 chiến thuyền tham dự cuộc phong tỏa n�y.[5]  Nhưng ho�ng đế Leo III (707-741) đ� đ�nh tan đo�n thuyền đ� ở eo biển Bosphore.

Năm 720, cuộc x�m lăng Ph�p quốc bắt đầu, dưới sự điều khiển của đ� đốc (�mir) Abd-er-Rahman (731-732). Tất cả miền Nam nước Ph�p rơi v�o tay địch, lưu vực s�ng Rh�ne chịu t�n ph� v� bị kiểm so�t. Nhưng đại qu�n tiến v�o đất Poitou nhằm đ�nh chiếm th�nh Tours. Lần thứ nhất tr�n đất �u ch�u, một lực lượng d�m đứng l�n đương đầu với Islam, tức đạo qu�n Franc mặc gi�p sắt, dũng cảm, gan dạ, cảm tử của Charles Martel. Sau trọn một ng�y giao tranh �c liệt, qu�n Ả Rập mất hết tinh thần v� c�i chết của vi�n đ� đốc, phải r�t lui (th�ng 10.732): cuộc x�m lăng của Hồi qu�n bị chặn đứng từ đ�.[6]

Với những sự kiện v� ho�n cảnh n�o nh� Hồi gi�o đ� chiếm cả v�ng T�y � đến tận Ấn Độ, cả Bắc Phi, xứ T�y Ban Nha v� miền Nam nước Ph�p ? Trước hết l� do yếu tố hiếu động của d�n Ả Rập, với một t�n gi�o cuồng t�n v� thả lỏng dục vọng, sau l� v� được k�ch th�ch bởi những chiến thắng li�n mi�n, v� sự tham gia của nhiều d�n tộc hiếu chiến kh�c. Th�m v�o đ�, sự sa s�t của hai đế quốc Byzantin v� Persia đ� từ l�u bị chiến tranh l�m ti�u hao nh�n lực v� t�i nguy�n. Ngo�i ra c�n yếu tố ch�nh trị v� t�m l� cũng được ch� �: tại c�c nơi họ chiếm đ�ng v� cai trị, người Hồi gi�o biết kh�n kh�o lợi dụng sự bất m�n của những phe ph�i c� thế lực trong d�n.

Ở Syria v� Ai Cập, gi�o ph�i Monophysism đ� từng ch�n nản chế độ hẹp h�i của Byzantin, nay h�n hoan đ�n rước những �ng chủ mới. Người Do Th�i, tức những người bị Haraclius trừng trị t�n nhẫn, đ� tự � dẫn đường v� cấp lương thực cho qu�n x�m lăng, cũng như sau n�y họ đ� th�nh lập một �đạo qu�n thứ năm� ở T�y Ban Nha, hợp t�c với qu�n Ả Rập, chỉ v� họ đ� bị c�c vua Visigot ngược đ�i. Người ta c�n kinh ngạc trước sự bội phản của một số l�nh tụ c�ng gi�o. Nếu kh�ng c� quận c�ng Juliano, th� tướng Ả Rập Tarik chưa chắc đ� vượt được eo biển Gibraltar để đổ bộ l�n đất T�y Ban Nha. Oppas th�nh Sevilla, sau c�i chết anh h�ng của vua Roderico, đ� nhảy sang h�ng ngũ địch v� trở th�nh một cộng sự vi�n đắc lực. Ch�nh s�ch ngoại giao của quận c�ng Aquitaine �m mưu với qu�n Berber, cũng bị coi l� một h�nh động phản quốc, nhất l� vụ Mauronte, quận c�ng xứ Provence, k�u mời địch qu�n v�o miền s�ng Rh�me (737).


3. Số phận người c�ng gi�o v� tinh thần quật khởi của họ

Sự thực, số phận người d�n bị Hồi qu�n cai trị kh�ng đến độ bi quan khốn khổ như nhiều người tưởng tượng. Nếu so với sự đ� hộ của Byzantin hay Persia, th� thiết tưởng ở đ�y c�n dễ chịu hơn, �t l� trong nửa thế kỷ đầu. C�c đ� thị lớn như Damas, Gierusalem, Alexandria, đều được k� kết những h�a ước tương đối thỏa đ�ng. Ch�nh quyền Hồi gi�o vẫn k�nh trọng c�c th�nh đường v� h�ng Gi�o phạm. Bằng chứng l� vẫn c�n tự do đi lại l�m ăn, bởi v� người Hồi gi�o chỉ cần cai trị v� đ�nh thuế, một thứ thuế nhẹ hơn của Byzantin bay giờ,[7] tuy họ c� d�nh nhiều đặc �n cho gi�o ph�i Monophysisme.

Nhưng về sau, t�nh thế đen tối dần từ cuối thế kỷ VII, khi c�c vua Ả Rập b�p nghẹt d�n ch�ng bằng ch�nh s�ch sưu cao thuế nặng. Năm 710, vua Walid (669-715) biến đại th�nh đường Damas th�nh ng�i ch�a Hồi gi�o. Đến lượt vua Omar II (717-720) đưa ra những biện ph�p thật gắt gao b�ch hại người c�ng gi�o, họ bị trục xuất khỏi ch�nh quyền v� qu�n đội, trong số đ� c� th�nh Gioan Đamascen (+ 754), người đ� l�n tới chức thượng thư. Ở Bắc Phi, Anatolia v� Cypro, nhiều th�nh đường bị ph�. Dưới triều Abdauah-al-Mansour (756-775), Kit� gi�o chịu b�ch hại c�ng khai, phụng vụ bị hạn chế, Th�nh gi� bị Ph� hủy, mọi người buộc phải học tiếng Ả Rập. Năm 780-796, m�u lại chảy ở Syria. Trong khi đ�, dưới triều c�c vua Ả Rập ở Bagdad (Irak), gi�o ph�i Nestorius đi v�o thời thịnh vượng nhất trong lịch sử. Gi�o ph�i truyền gi�o, trong c�c xứ Persia, Armenia, Turkestan, sang tận Ấn Độ v� Trung Hoa. [8]

Thảm hại hơn cả l� Bắc Phi, người c�ng gi�o ở đ�y bị đ�n �p v� ho�n to�n c� lập, nhiều người thất vọng đến mất đức tin, khiến chỉ sau một thời gian mọi cơ cấu t�n gi�o đều tan r�. Nhưng ở T�y Ban Nha, Islam (Mozaarabe) tỏ ra kh� nh�n nhượng, họ l�m thinh cho gi�o d�n th�nh lập những nh�m ch�nh trị �tự quyết� tại Merida, v� ở nhiều nơi trong v�ng Alicante v� Murcia. D�n T�y Ban Nha nhờ đấy vẫn sinh hoạt t�n gi�o, giữ c�c lễ nghi v� phong tục của m�nh, n�n đức tin c�n vững mạnh.

Dầu sao người c�ng gi�o vẫn nu�i ch� quật khởi, đặng gi�nh lại quyền độc lập quốc gia v� bảo vệ đức tin của m�nh. C� ba chiến khu sẵn s�ng phản c�ng: 1) V�ng n�i Liban v� Armenia, 2) V�ng n�i Atlas trong xứ Algeria, 3) V�ng cao nguy�n Asturia ở T�y Ban Nha.

Trong việc canh ph�ng qu�n Persia trước đ�y, ho�ng đế Byzantin đ� thiết lập một chiến khu tại Liban gồm những qu�n sĩ người Mardait (Maronit ng�y nay), rất can đảm, gan dạ v� hiếu chiến. Khi Hồi qu�n l�m chủ v�ng n�y, qu�n Mardait vẫn tr� đ�ng tr�n c�c miền rừng n�i, khiến vua Ả Rập Abd-er-Melek (685-705) phải l�n tiếng đ�i họ r�t về Tiểu � v� Thracia. Nhưng nhiều người trong bọn họ vẫn l�n l�t ở lại đ� v�, với sự tham gia của nhiều phần tử quốc gia Liban, họ đ� cầm ch�n được Hồi qu�n cho tới thời binh Th�nh gi�. Trong khi đ�, d�n Armeno định cư trong xứ Cappadocia v� Cilicia cũng c�ng một tinh thần v� chủ trương. Họ chuy�n phục k�ch đ�nh v�o hậu cứ Ả Rập hoặc Thổ Nhĩ Kỳ, chuy�n ph� c�c trục giao th�ng g�y rất nhiều tổn thất cho Ả Rập, v� trong nhiều trận đ� cứu nguy cho th�nh Constantinopoli (673-678).[9]

Số phận người c�ng gi�o ở Bắc Phi k�m may mắn hơn. Nếu Koceila, một l�nh tụ Berber, đ� thắng được tướng Ả Rập Okba v� t�i chiếm Kairouau, th� sau �ng, v� viện binh của Byzantin mỗi ng�y th�m yếu k�m, qu�n kh�ng chiến tập trung tại v�ng Aur�s đ� phải tan vỡ ngay. Một v�i gi�o đo�n �t t�n tuổi chịu sống lạc l�ng đau thương trong v�ng Tlemcen v� Bougie. Dưới triều Gi�o ho�ng Gregori VII, khoảng năm 1073 Carthago c�n c� vị gi�o chủ cuối c�ng: đức Cyriacus. V� Hồi gi�o chủ t�m ti�u diệt Kit� gi�o ở Phi ch�u, n�n Gi�o hội Phi ch�u chỉ c�n chờ ng�y khai tử. [10]

Ở T�y Ban Nha, sau trận Jerez (711), tướng Pelagio chạy l�n miền Bắc lập chiến khu Asturia. Năm 719, �ng đ�nh tan qu�n Ả rập định x�m chiếm v�ng n�y, v� được d�n ch�ng t�n l�n l�m vua (719-737). C�c tướng l�nh c�ng gi�o to�n l� những bậc anh h�ng, chiến dấu kh�ng biết mệt, khi ẩn khi hiện, khi thắng khi lui. Những trận ở Codavonga (gần Ovideo) kh�ng thể phai mờ khỏi tr� �c người T�y Ban Nha. Dưới triều Alfonso Catolico (735-757), con rể của Pelagio, Hồi qu�n bị đẩy lui khỏi xứ Galicia v� Le�n: cả miền T�y Bắc b�n đảo được giải ph�ng. Trong khi đ�, ở miền Đ�ng những cuộc h�nh qu�n của Charlemagne từ năm 806 đến 811, đ� thiết lập một v�ng chiến thuật tr�n s�ng Ebro từ Saragoza đến Tortosa, dọn đường cho vua Alfonso II (791-842) v� c�c vua kế nghiệp tiến qu�n đến tận s�ng Tago, tức chiếm lại cả ph�n nửa b�n đảo.[11]

Người c�ng gi�o T�y Ban Nha cho tới khi đ� phải chịu một cuộc chiến gian khổ suốt hai thế kỷ liền (VIII v� IX). Một hệ thống ph�ng thủ đ� đ�nh bại cuộc x�m lăng Ả Rập v� Mauro. Cả một v�ng rộng lớn giữa hai vương quốc Le�n v� Estramadura c�n giữ lại nhiều di t�ch của cuộc ph�ng thủ n�y: xứ Castilla (Ph�o đ�i). Nhất l� trong thời chiến, người T�y Ban Nha đ� giữ vững được sự thống nhất tinh thần v� đức tin c�ng gi�o. Về phương diện n�y, lễ cung hiến vương cung th�nh đường Santiago th�nh Compostella ng�y 6.5.899 l� biến cố lịch sử của T�y phương. Phong tr�o h�nh hương viếng ng�i mộ được nh�n nhận l� của th�nh Giacob� t�ng đồ, trở th�nh phong tr�o đạo đức v� sầm uất. H�ng đo�n người từ nhiều nước lũ lượt k�o đến, đều cảm thấy m�nh c� li�n đới tr�ch nhiệm đối với c�c chiến sĩ ở tiền dồn Kit� gi�o chống Hồi qu�n.[12]

Nhưng thế kỷ X, số phận người c�ng gi�o T�y Ban Nha trở lại đen tối, khi Hồi qu�n của tướng Abd-er-Rahman III (912-961) mở những loạt tấn c�ng hai t�n vương quốc Le�n v� Navarra. Lần thứ nhất (923) �ng tiến qu�n đến tận Pamplona (Navarra); lần thứ nh� (934) tới Burgos (Castilla), từ đấy �ng xưng vương (Calife), đ�ng đ� ở Cordoba, v� thiết lập đại học y khoa Ả Rập. Năm 981-997, những cuộc tiến c�ng của Al-Mansour c�n �c liệt hơn nữa: Barcelona, Le�n, Santiago một lần nữa rơi v�o tay Mauro.[13]

Thế kỷ XII, nh�n l�c c� sự chia rẽ nội bộ của Hồi gi�o ở Cordoba, d�n T�y Ban Nha lại v�ng l�n theo cờ lệnh của Calatrava (T�n Castilla), dưới sự l�nh đạo của những �ng vua anh h�ng xứ Castilla như Alfonso VI (1065-1109), th�nh Fernando III (1217-52), trước hết chiếm lại được Toledo (1085) v� Lisboa (1147). Một thế kỷ sau, cuộc chiến thắng oanh liệt của c�c vua Aragon, Castilla v� Navarra tại Las Navas Toledo ng�y 16.7.1212 (giết 200.000 địch) mở đầu cho một giai đoạn quyết liệt. Vua Jaime I (1213-76) xứ Aragon đ�nh chiếm Valencia (1238), vua th�nh Fernando III (1217- 52) v� vua Alfonso X (1252-84) xứ Castiha lần lượt thu hồi Cordoba (1236), Sevilla (1248), rồi Cadiz, Cartagena, Murcia. Từ cuối thế kỷ XIII, vương quốc Mauro tr�n đất T�y Ban Nha bị thu hẹp trong xứ Granada.

Cuộc th�nh h�n của Fernando V (1452-1516) th�i tử xứ Aragon với Isabella (1451-1504) c�ng ch�a nước Castilla năm 1469, đ� dọn đường cho cuộc thống nhất T�y Ban Nha, khi Isabella I nối nghiệp cha l� Juan II năm 1474. Năm 1492, vua Fernando xuất qu�n tiến đ�nh người Mauro c�n lại tr�n đất Granada, qu�t sạch Hồi gi�o ra khỏi b�n đảo.


II

GI�O HỘI C�NG GI�O Đ�NG PHƯƠNG


1. Cuộc khủng hoảng Monothelisme (thế kỷ VII)

Trong khi Hồi qu�n lan tr�n khắp nơi, muốn ti�u diệt cả đế quốc Đ�ng phương, th� nhiều �ng vua nổi tiếng qu�n sự (Leo III 717-741, Romanus I 919-948, Nicephorus Phocas 963-969, Basilius 976-1025) đ� đẩy lui được mọi đe dọa của Hồi gi�o ra khỏi Constantinopoli rất xa, n�n đế quốc vẫn c�n giữ được phần đất Tiểu �, Thracia, Akaia, Macedonia v� Nam �. Ch�nh tr�n phần đất c�n lại n�y của đế quốc, đ� xảy ra những cơn gi�ng tố cho Gi�o hội Đ�ng phương, bắt đầu từ thế kỷ VII với cuộc khủng hoảng Monothelisme.

Lạc thuyết Monothelisme xuất hiện v�o khoảng năm 620 do thượng phụ gi�o chủ Sergius (610-638) v� ho�ng đế Heraclius (610- 641), chủ trương Ch�a Kit� chỉ c� một Ng�i vị độc nhất, cũng như chỉ c� một nghị lực, một thần � (mon�nergisme, monoth�lisme). Vấn đề đưa đến đức Th�nh Cha Honori� I (625-638), th� được trả lời rằng: �H�y đem vấn đề đ� cho c�c nh� văn phạm, hoặc những người chuy�n m�n tạo danh từ mới cho con n�t�. [14] Sự thực, gi�o chủ Sergius đ� từ l�u ước ao t�i lập sự thống nhất tinh thần trong Gi�o hội Đ�ng phương, từng bị x�u x� bởi gi�o ph�i Monophysisme (từ giữa thế kỷ V, ng�i tưởng rằng nếu chấp nhận �một nghị lực� hay �một thần ��, người ta sẽ t�m được một c�ng thức cho sự �hiệp nhất th�nh� (union sacr�e) nơi Ch�a Kit�, v� c�ng thức đ� c� thể l�m h�i l�ng cả người c�ng gi�o theo C�ng đồng Calcedonia lẫn đối phương tức Moniphysisme. Nhưng sự h�a giải đ� lại được đặt tr�n một gi�o l� mập mờ v� sai lầm, khiến mỗi b�n t�y theo lập trường của m�nh m� l� luận hoặc giải th�ch. Đ� l� l� do để gi�o thuyết bị đức Th�nh Cha Gioan IV (640-642) v� c�c gi�m mục Phi ch�u l�n �n.

Hai chiếu chỉ Ecth�se của Heraclius (638), Type của Constans II (648) đ� kh�ng thuyết phục được phe Monophysisme cũng như kh�ng thể l�m h�i l�ng người c�ng gi�o. Ở Constanstinopoli, h�ng gi�o sĩ chấp nhận gi�o thuyết Monothelisme, nhưng tại c�c nơi kh�c thuộc đế quốc nhất l� Phi ch�u v� � Đại Lợi, cương quyết phản đối. V� để b�o th� đức Th�nh Cha Martin I (649-655) đ� kh�ng chấp nhận, Constans II (642-668) quyết diễn lại c�i tr� d� man của Justinianus xưa, khi �ng l�i vị Gi�o ho�ng tuổi t�c n�y ra khỏi vương cung th�nh đường Latran, dẫn tới t�a �n để c�ch chức ng�i. Sau c�ng, vị th�nh Gi�o ho�ng phải chết nơi lưu đ�y, tại miền duy�n hải Crimea (655).

Năm 681, tức sau một nửa thế kỷ tranh luận s�i nổi, khi Gi�o hội Hy Lạp, tại C�ng đồng Constantinopoli III (680-681), tố c�o v� l�n �n lạc thuyết Monothelisme, th� đồng thời cũng muốn l�n �n đức Honori� I, khiến t�n của ng�i bị gắn liền với t�n của gi�o chủ Sergius, l�m như ng�i đồng t�nh với lạc gi�o, trong khi thực sự ng�i chỉ �bỏ qu�n� bổn phận phải dẹp lạc thuyết đ�.

Dưới triều Justinianus II (685-695), khi c�ng đồng Trullo (Coupole) cũng gọi l� Penthecte (Quinisexte) nh�m họp năm 691- 692, nhằm bổ t�c cho hai đại C�ng đồng Constantinopoli II (553) v� Constantinopoli III (680-681) bằng nhiều khoản về kỷ luật, th� người ta c� cảm tưởng r� rệt l� Gi�o hội Constantinopoli đ� tự � quyết định một đường hướng ri�ng, v� tự động mở rộng quyền h�nh của m�nh. Tuy nhi�n. nhiều c�ng việc của đại C�ng đồng n�y thật đ�ng ch� �, nhất l� bộ gi�o luật gồm 102 khoản, đề cập đến ơn k�u gọi, luật h�n nh�n v� kỷ luật gi�o sĩ, c�ng nhiều lễ nghi phụng vụ.[15]

Gi�o hội T�y phương v� Đ�ng phương tuy vẫn c�n hiệp nhất với nhau v� c�ng xưng một đức tin, song những m�u thuẫn mỗi ng�y th�m trầm trọng, khiến kh�ng c�n sự thống nhất trong một tổ chức v� kỷ luật nữa. Dầu vậy, dưới thời khủng hoảng b� Ph�-ảnh-tượng (Iconoclasme) thế kỷ VIII, Ch�nh thống gi�o Hy Lạp, khi bất thần gặp mấy �ng ho�ng ng�ng cuồng x�c phạm đến việc t�n s�ng ảnh tượng th�nh, để kh�ng ngần ngại chạy đến cầu cứu với c�c gi�m mục T�y phương.[16]


2. Sự thờ k�nh ảnh tượng th�nh v� b� Iconoclasme (Ph�-ảnh-tượng thế kỷ VIII)

Thời đấy, c�c th�nh đường tu viện được trang tr� to�n bằng tặng phẩm đủ loại v� rất qu� b�u, do c�c ho�ng đế ngoan đạo th�ch tỏ m�nh ra l� ��n nh�n� của Gi�o hội. Nghệ thuật đi�u khắc bấy giờ chưa c� g�, nhưng những đồ khảm gi�n sắc (mosaique), những họa phẩm tr�n vải, tr�n tường, đ� c� đầy trong c�c đại th�nh đường, diễn tả nhưng t�ch truyện Ph�c �m. Người d�n khi nh�n ngắm c�c bức ảnh n�y (một số ảnh ấy c� tiếng l�m nhiều dấu lạ) sẽ cảm nghĩ m�nh như đứng trước một Đấng linh thi�ng. Trong việc t�n s�ng giầu t�nh cảm như thế, nhiều t�m hồn �t học thức dễ hướng về một c�i g� �vật chất�, tr�i ngược với tinh thần t�n gi�o.

Ngay từ thế kỷ IV, th�nh Epiphan (310-402) gi�m nục Salamina (Cypro) khi v�o một th�nh đường ở Palestina, kh�ng hiểu tại sao đ� tự tay x� một tấm m�n c� h�nh ảnh Ch�a Cứu Thế. Thế kỷ VI một gi�m mục th�nh Marseille đ� đập vỡ hết �ảnh tượng c�c th�nh� trong th�nh đường của m�nh. Những h�nh động c� nh�n đ� đ� l�m x�n xao dư luận, v� �t l� trường hợp thứ hai đ� bị đức Th�nh Cha khiển tr�ch. Sang thế kỷ VIII, ho�ng đế Le� III (717-741) biệt hiệu Isaurianus vốn l� một tướng l�nh t�i ba, một ch�nh trị gia biệt t�i đ� tự động đứng l�n chống lại sự t�n s�ng ảnh tượng th�nh. Theo lệnh �ng, ảnh tượng c�c th�nh phải đặt tr�n cao để tr�nh những cử chỉ t�n s�ng �lố lăng� của d�n ch�ng. Năm 727, bất chấp sự phản đối của quốc d�n, �ng truyền cất đi bức ảnh Ch�a Cứu Thế đ� từ l�u trưng b�y trước cung điện nh� vua. Mấy năm sau, thay v� chịu mất thời giờ v� ki�n nhẫn gi�o dục quần ch�ng, Leo III �p dụng ch�nh s�ch khủng bố, nhất định ph� hủy hết ảnh tượng, v� thẳng tay trừng trị những ai chống đối. Song người kế vị �ng, Constatinus V hiệu Copronymus (741-775), c�n độc �c hơn nữa.[17]

Dựa theo quyết định của c�ng đồng Hy Lạp th�nh Hiera (754), Constantinus �tuy�n chiến� với c�c ảnh tượng, song kh�ng phải chỉ ph� c�c ảnh tượng m� th�i, nhưng c�n b�ch hại tất cả những ai b�nh vực việc t�n s�ng n�y, nhất l� c�c tu sĩ, những người được coi l� chiến sĩ can đảm nhất, trong khi h�ng gi�m mục tỏ ra d� dặt v� nh�t nh�t. Những h�nh động t�n nhẫn gh� sợ li�n tiếp xảy ra ở Constantinopoli v� Epheso (765-766).

C�c nghi Phụ c�ng đồng Hiera đ� kh�ng lường trước được những thiệt hại xảy đến cho ch�nh đế quốc v� Gi�o hội. H�nh động của Constantinus l�m mất l�ng nhiều tướng t� ưu t�, x�c phạm đến l�ng s�ng k�nh của c�c tu sĩ v� những người ngoan đạo, khơi s�u sự chia rẽ giữa gi�o sĩ với quan lại, đ� l� những biện ph�p thật vụng về của những người �vừa muốn l�m vua vừa muốn l�m gi�o chủ�, trong c�ng việc gọi l� �gi�o dục quốc d�n�.

Đối ngoại, sự độc �c của c�c ho�ng đế Byzantin l�m mất sự tin tưởng v� l�ng trung th�nh của gi�o d�n sống trong c�c xứ Syria v� Palestina, dưới quyền đ� hộ của Hồi gi�o. Ở � Đại Lợi, những h�nh động thiếu kh�n ngoan của ho�ng đế Leo III g�y loạn ly khắp nơi, l�m tổn hại đến những quyền lợi, m� cho tới khi đ� Byzantin vẫn được hưởng tr�n đất người Roma. Trong khi ấy, c�c vụ lộn xộn đ� l�m xứ Illyria, địa phận Ravenna v� miền Nam �, xa l�a quyền tối cao thi�ng li�ng của Gi�o ho�ng, v� đặt c�c xứ ấy �o v�ng ảnh hưởng t�n gi�o của Constantinopoli, n�n trong tương lai đ� l� một nguy�n nh�n g�y nhiều rắc rối cho Gi�o hội. Cũng từ ng�y c� vụ tranh chấp về ảnh tượng n�y, gi�o d�n Roma kể như mất hẳn cảm t�nh với Constantinopoli. C�c Đức Gi�o ho�ng kh�ng c�n t�n nhiệm ho�ng đế Byzantin như xưa nữa, c�c ng�i th� quay về ph�a những �ng vua Franc. Ch�nh v� vậy m� c� sự ủng hộ việc thiết lập đế quốc T�y phương, tức đế quốc nh� Carolingien cạnh tranh với cổ đế quốc.

Trong thời khủng hoảng b� Ph�-ảnh-tượng, người ta thấy nổi bật l�n nhiều vị gi�o chủ đ�ng k�nh, như Germanus, Nicephorus, Methodus, th�nh Gioan Đamascen, tu sĩ Theodorus v� c�c bạn thuộc đan viện Stoudium, tất cả đều l� những chiến sĩ bảo vệ việc t�n s�ng ảnh tượng th�nh, đ� bẻ gẫy được những l� luận của đối phương vu khống người c�ng gi�o thờ tượng gỗ đ�. C�c vị n�u r� sự x�c phạm đến ảnh tượng sẽ đưa đến sự bất k�nh v� khinh thường c�c th�nh v� Thi�n Ch�a. L�ng t�n s�ng của người Đ�ng phương đối với Ch�a Cứu Thế v� Đức Trinh Nữ Mẹ Thi�n Ch�a bấy giờ l�n cao độ, họ kh�ng thể nhẫn nhục được khi thấy ảnh Ch�a v� Đức Mẹ kh�ng c�n trưng b�y trong c�c th�nh đường v� c�ng sở nữa.[18] Trong khi một số gi�m mục T�y phương c�n giữ th�i độ d� dặt sợ sệt, th� hai Gi�o ho�ng Gregori III (731-741) v� Adrian I (772-795) đ� l�n tiếng thừa nhận sự thờ k�nh ảnh tượng th�nh. Đức Adrian viết cho nữ ho�ng Irenea như sau: �Mọi ảnh tượng được t�c họa nh�n danh Ch�a hoặc thi�n thần hoặc ti�n tri hoặc tử đạo hoặc người c�ng ch�nh đều l� th�nh cả, bởi lẽ người ta kh�ng k�nh thờ gỗ đ�, nhưng thờ k�nh Đấng được họa lại tr�n gỗ đ��.[19]

Cuộc b�ch hại tạm chấm dứt khi Irenea l�n ng�i nữ ho�ng (780-790 v� 792-802) cai trị thay con l� Constantinus VI (780-797) c�n nhỏ tuổi. Năm 787, đại C�ng đồng được triệu tập ở Nicea, l�n �n lạc thuyết Iconoclasme (Ph�-ảnh-tượng) v� c�ng bố việc t�n s�ng ảnh tượng l� ch�nh đ�ng, cũng C�ng đồng n�y l�n �n lạc thuyết Adoptianisme, chủ trương Ch�a Kit� chỉ l� �Con nu�i� của Thi�n Ch�a. Nhưng năm 802, nữ ho�ng Irenea bị lật đổ v� chết nơi lưu đ�y (803): việc b�ch hại c�c kẻ t�n s�ng ảnh tượng trở lại dưới thời Leo V (813-820) v� Theophilus (829-842), tuy kh�ng �c liệt v� d� man như thế kỷ trước. Gi�o hội Đ�ng phương chỉ được b�nh an hẳn khi Theophilus mất v� th�i hậu Theodora l�n cai trị thay con l� Michael III (842-867) c�n �t tuổi, v� khi hội đồng c�c gi�m mục họp tại Constantinopoli ng�y 11.3.843, tuy�n bố nh�n nhận v� thực thi c�c Sắc lệnh của C�ng đồng Nicea II (787). Ng�y đ� được coi l� một trong những ng�y lịch sử trọng đại của Gi�o hội Ch�nh thống.


3. Vụ gi�o chủ Photius v� vấn đề Bảo Gia Lợi (thế kỷ IX)

Từ c�ng đồng Trullo (691-692), việc kiểm so�t kỷ luật v� cắt cử h�ng Gi�o phẩm Đ�ng phương dần dần kh�ng muốn thuộc quyền Gi�o ho�ng Roma nữa. Gi�o hội Byzantin lại gạt bỏ ảnh hưởng của bậc đan sĩ, v� được trao ph� trọn vẹn trong tay c�c thượng phụ gi�o chủ. Nay c�c thượng phụ thường l� những người ở ngo�i h�ng gi�o d�n được cử l�n, đồng thời l� nh�n vi�n cao cấp trong ch�nh quyền.[20]

L� �người của nh� nước�, n�n c�c �ng thường l� những bậc l�nh đạo t�i ba, nhưng lại �t t�nh y�u đối với Gi�o hội: quyền lợi Gi�o hội v� quyền lợi quốc gia trước mắt c�c �ng chỉ l� một. T�m trạng như thế đ� đủ n�i l�n th�i độ của những vị gi�o chủ như Photius, Michael Cerularius, c�ng những hậu quả tai hại l�m đổ vỡ nền thống nhất Kit� gi�o.

Về đời tư của Photius (815-891), c� nhiều người ca tụng, nhưng cũng kh�ng thiếu người ch� tr�ch. Sự thực, �ng l� một nh�n tr� thức, một đại văn h�o. Người ta s�nh �ng với những nh� nh�n bản học nổi tiếng thế kỷ XV v� XVI. �ng c�n l� một quan chức c� khả năng, nhiệt th�nh v� rất quan t�m đến vận mạng đế quốc. [21]

Photius được cử l�n l�m thượng phụ gi�o chủ năm 858, do �m mưu của tướng Bardas (+ 866), trong khi đức thượng phụ Ignatius c�n sống. Đức Th�nh Cha Nicolas I (858-867) phủ nhận việc cất nhắc n�y, tức th� Photius hội c�ng đồng đ�i c�ch chức đức Th�nh Cha v� lập Gi�o hội Constantinopoli ly khai. Nhưng năm 869-870 đức Th�nh Cha Adrian II (867-872) triệu tập đại C�ng đồng ngay tại Constantinopoli, l�n �n Gi�o hội ly khai v� ra vạ tuyệt th�ng cho Photius. Bấy giờ Bardas kh�ng c�n, song Photius đ� lấy được l�ng ho�ng đế Basilius I (867-886), n�n khi đức gi�o chủ Ignatius qua đời (878) �ng được đặt l�n thay thế, v� lần n�y được đức Gioan VIII (872-882) nh�n nhận. Nhưng Pholius mang sẵn một mối hận đối với Roma. C�c s�ch vở của �ng, khi b�n đến một �thắng lợi to lớn trong tương lai�, chứa đủ mọi l� lẽ để sau n�y c�c kẻ th� của quyền tối cao Roma c� thể d�ng đến được. Về t�n l�, �ng phủ nhận đức Ch�a Th�nh Thần bởi Đức Ch�a Con (Filioque) v� Đức Ch�a Cha m� ra. �ng chỉ tr�ch c�c lễ nghi Roma v� luật độc th�n gi�o sĩ. �ng thật xứng đ�ng l� tổ phụ của ly gi�o Đ�ng phương.

Ở miền T�y, vương quốc Bảo Gia Lợi nằm tr�n b�n đảo Balkan giữa hai s�ng Save v� Vardar, l� nơi hoạt động truyền gi�o của th�nh Cyrill� (827-869) v� nhiều thừa sai từ Byzantin đến. Năm 851, vua Bảo Gia Lợi Boris (Bogoris 850-896) li�n minh với ho�ng đế T�y Phương, tuy�n chiến với Byzantin (th�i hậu Theodora). Nhưng đến sau đ� l�m h�a v� bỏ � định li�n minh với T�y phương, c�ng xin theo đạo (864) lấy t�n th�nh l� Michael, nhận ho�ng đế Michael III (842-867) l�m cha đỡ đầu.

Nhưng việc Byzantin sai th�m nhiều nh� truyền gi�o sang nước Bảo đ� l�m Boris nghi ngờ. �ng n�y sợ ảnh hưởng Hy Lạp tr�n v�o đất nước �ng v� việc lệ thuộc tinh thần v�o t�a gi�o chủ Constantinopoli sẽ đưa đ�n sự lệ thuộc về ch�nh trị. �ng y�u cầu thượng phụ Photius cho thiết lập t�a gi�o chủ Bảo Gia Lợi tự trị, dĩ nhi�n l� bị từ chối. Boris liền quay sang T�y phương, sai sứ đến Đức Th�nh Cha Nicolas I (866). Đức Th�nh Cha bấy giờ đang t�m c�ch lấy lại ảnh hưởng ở Illyria, thấy c� cơ hội bất ngờ n�y, liền gởi ngay cho Boris một T�ng thư d�i, đồng thời cử hai gi�m mục Paulus th�nh Populonia (Piombin) v� Formosus th�nh Porto sang Bảo Gia Lợi.[22]

Boris như vậy đ� đạt được một phần như �: �ng c� hai gi�m mục. Nhưng �ng c�n muốn c� một Gi�o hội Bảo độc lập. �ng xin Roma tấn phong chức gi�o chủ cho Formosus, người được �ng t�n nhiệm v� mến phục. Khi Formosus được gọi về, �ng lại xin phong chức gi�o chủ cho vị ph� tế Marinus, người được cử sang Constantinopoli l�m đặc sứ T�a th�nh, song bị mắc kẹt ở Bảo. Đức Nicolas cũng như đức Adrian II đều từ chối. Thất vọng, Boris lại quay sang Đ�ng phương. Đại sứ Bảo đến Constantinopoli khi đại C�ng đồng vừa bế mạc (28.2.870), ho�ng đế Basilius y�u cầu c�c nghị phụ hội th�m một ng�y để nhận x�t việc Boris xin. C�c nghị phụ t�n th�nh việc Bảo Gia Lợi lệ thuộc gi�o chủ Constantinopoli mặc cho c�c đại diện T�a th�nh Roma l�n tiếng phản đối. Thượng phụ gi�o chủ Ignatius, người vừa được đại C�ng đồng đem trở về, tấn phong một Tổng Gi�m mục v� một số gi�m mục người Hy lạp, h�nh như đ� được Boris y�u cầu. Đức Th�nh Cha Adrian II phản đối v� �ch, đức Gioan VIII c�n đe phạt vạ tuyệt th�ng gi�o chủ Ignatius, nếu kh�ng trả lại Roma quyền thi�ng li�ng đối với gi�o đo�n Bảo. Nhưng ng�i chỉ được như �, sau khi Ignatius qua đời v� Photius l�n kế vị (878). Việc nhường Gia Bảo Lợi cho Roma l� một trong những điều kiện ch�nh, m� đức Th�nh Cha đ� đặt ra cho Photius v� ho�ng đế Basilius I. Roma đạt thắng lợi, nhưng khi đức Th�nh Cha y�u cầu vua Boris phải nhận c�c linh mục Latinh, thay thế c�c linh mục Hy Lạp, th� chỉ được �ng trả lời một c�ch cung k�nh xin đừng thay đổi.

Triều đại c�c Gi�o ho�ng kế tiếp đức Gioan VIII (= 882) qu� ngắn, đ�ng kh�c qu� bận rộn, n�n kh�ng vị n�o để t�m theo đuổi c�ng việc của đức Gioan ở Bảo nữa. Boris lợi dụng cơ hội, để x�y dựng nền độc lập cho Gi�o hội m�nh: lễ nghi v� ng�n ngữ Slavo được đưa v�o Gi�o hội, v� ng�n ngữ n�y đ� được đức Gioan VIII cho ph�p d�ng trong phụng vụ tại c�c xứ truyền gi�o của hai anh em th�nh Cyrill� v� Methođ�. Sau khi th�nh Methođ� qua đời (885), c�c m�n đệ của th�nh nh�n bị trục xuất khỏi Moravia, th�nh Clement� dẫn họ đến Bảo Gia Lợi v� được vua Boris tiếp đ�n nồng hậu. Nhờ c� c�c vị thừa sai đầy kinh nghiệm n�y, m� lễ nghi c�ng ng�n ngữ Slavo dần dần thay thế lễ nghi v� ng�n ngữ Hy Lạp. [23]

Năm 886, ho�ng đế Balilius I băng h�, Leo VI l�n kế vị (886- 912) hạ bệ gi�o chủ Photius, v� đưa ho�ng th�n Stephanus mới 16 tuổi l�n thay thế. Cũng năm đ�, Stephanus chấp nhận sự độc lập t�n gi�o của Bảo Gia Lợi. Năm 889, vua Boris nhường ng�i cho con l� Vladimir. Nhưng Vladimir tỏ ra bất xứng, muốn đem d�n Bảo trở lại Thần gi�o, liền bị cha truất ng�i v� trao cho người con thứ l� Simeon. Năm 907, vua Boris qua đời trong một tu viện như một tăng th�nh. Năm 918, vua Simeon ho�n tất c�ng việc của cha, khi thiết lập t�a gi�o chủ.


4. Michael Cerularius v� ly gi�o Đ�ng phương (1054)

Hai thế kỷ sau, nh�n cuộc tranh luận về �b�nh kh�ng men�, c�i mầm ly gi�o của Photius ph�t sinh hoa tr�i với vị gi�o chủ Michael Cerularius (1051-59).[24] Cũng n�n biết sự đổ vỡ bất ngờ xảy ra v�o ch�nh l�c Đ�ng T�y đang t�m hết c�ch s�ch lại gần nhau, ch�nh l�c đức Th�nh Cha Le� IX (1049-54) v� ho�ng đế Constantinus IX (1042-55) đang tiến tới một cuộc h�a giải, c� tướng Argyros (+ 1058) l�m trung gian. Thượng phụ gi�o chủ Cerularius bấy giờ kh�ng những c� �c kỳ thị Gi�o hội Latinh, nhưng c�n c� mối hận th� Argyros nữa. �ng quyết ph� c�ng việc h�a giải n�y của Constantinus IX, người đ� sai Argyros đi.

Argyros l� người gốc Lombardo, đ� c�ng với qu�n Normand chống Byzantin tr�n đất �, nhưng đến sau đ� bỏ bạn v� l�m h�a với Constantinus IX. Năm 1046. được gọi sang Constantinopoli, v� nh�n c� cuộc dấy loạn của Le� Tomikios, Argyros đ� c�ng với một nh�m qu�n sĩ Latinh đứng l�n dẹp được Tomikios. Từ đấy, �ng trở th�nh nh�n vật kh� quan trọng trong triều đ�nh.

Ch�nh thời gian n�y, Argyros đụng độ với Cerularius, khi vị gi�o chủ mở chiến dịch đả k�ch c�c lễ nghi v� phong tục Latinh, nhất l� về việc T�y phương d�ng b�nh kh�ng men trong Th�nh Lễ. Theo �ng, b�nh kh�ng dậy men l� �b�nh chết�, cũng như x�c kh�ng hồn. Rồi �ng kết luận b� t�ch Th�nh Thể b�n Latinh l� sai lầm v� giả dối, h�ng tỷ Th�nh Lễ từ bao nhi�u thế kỷ do c�c linh mục T�y phương đều v� gi� trị. Cuộc tranh luận v� c�ng s�i nổi giữa Argyros v� Cerularius, khiến Argyros trở th�nh kẻ th� của vị gi�o chủ, đến dộ Argyros nhiều lần bị từ chối cho Rước lễ; v� trong một cuộc c�i lộn qu� n�ng nẩy, c�c h�nh b�nh bị giẫm đạp dưới ch�n.

Trong khi đ�, ho�ng đế Constantinus vẫn t�n nhiệm Argyros. Năm 1051, �ng được phong l�m quận c�ng v� cử sang Nam � giữ chức to�n quyền, đồng thời t�m c�ch x�c tiến việc h�a giải giữa Đ�ng v� T�y. Cuối năm 1053, gi�o chủ Cerularius trở lại chiến dịch đả k�ch Gi�o hội Roma, l�n �n lễ nghi Latinh v� đ�ng cửa c�c th�nh đường Latinh ở Constantinopoli. Constantinus, c� lẽ đ� nghe theo Argyros, bắt �p Cerularius phải viết cho đức Th�nh Cha Le� IX một bức thư h�a giải, l�m nền tảng cho cuộc bang giao giữa Roma v� Constantinopoli. Cerularius viết, �ng được đức Th�nh Cha trả lời v� rất hoan ngh�nh thiện ch�. Nhưng v� Cerulanus vẫn căm th� Argyros, n�n kh�ng thể bỏ � định ph� cuộc h�a giải n�y, bằng c�ch ly khai thực sự.

Th�m v�o đ�, sự lỗi lầm v� thiếu kh�n ngoan của Roma. Th�ng 3 năm 1054, đức hồng y Humbert, một nh� thần học người Đức v� l� người th�n t�n của đức Le� IX, dẫn đầu sứ đo�n T�a th�nh sang Constantinopoli. Trong bốn th�ng lưu lại kinh đ�, sứ đo�n mất nhiều thời giờ v�o c�c cuộc tranh luận, chỉ tr�ch luật h�n nh�n v� �t nhiều điểm kh�c của Gi�o hội Hy Lạp: �Vậy th� chỉ c� c�c �ng l� th�nh thiện hơn mọi người sao?�. [25] Sứ đo�n l�m bộ chỉ biết c� ho�ng đế, d�ng những danh từ chua cay nhất, mỗi khi n�i đến thượng phụ gi�o chủ, trong khi vị n�y phủ nhận quyền của sứ đo�n. Giữa l�c đ�, đức Th�nh Cha Le� IX băng h� ng�y 19 th�ng 4. Sứ đo�n tiếp tục c�ng việc v� kết th�c bằng một h�nh động bất ngờ. H�m ấy l� thứ bảy 16.7.1054, ch�nh l�c một Th�nh Lễ bắt đầu cử h�nh tại th�nh đường Đấng Kh�n Ngoan, sứ đo�n đặt tr�n b�n thờ một bản �n đ� viết sẵn phạt vạ tuyệt th�ng Michael Cerularius, phủi bụi giầy v� đi khỏi: �Xin Thi�n Ch�a ph�n xử việc n�y�. [26]

Với th�i độ qu� thẳng thắn n�y, sứ đo�n tưởng sẽ g�y cho gi�o d�n Hy Lạp một cảm k�ch m�nh liệt. Nhưng Humbert đ� qu�n rằng kh�ng n�n đối xử với vị thượng phụ của một Gi�o hội lớn như vậy mặc dầu vị n�y c� lầm lỗi đi nữa. Sứ đo�n kh�ng ngờ sự thiếu kh�n ngoan đ� đ� l�m người Byzantin bực tức v� nổi giận bỏ lu�n. Từ đấy, Cerularius tha hồ khai th�c sự giận dữ của gi�o d�n v� gi�o sĩ, l�m ti�u tan mọi cố gắng của ho�ng đế Constantinus IX trong c�ng cuộc h�a giải, sau c�ng �ng l�i cuốn được một số gi�o chủ kh�c. Đ� l� hậu quả của một h�nh động cộc cằn của một người Đức do th�nh Gi�o ho�ng Le� IX cử đi! Người ta tiếc rằng đức Th�nh Cha đ� kh�ng d�ng đến một người �, tức người Roma �ch�nh quy� thường mềm giẻo tế nhị hơn, v� như vậy chắc chắn đ� kh�ng phạm một lỗi lầm như thế, để tạo cho Michael Cerularius c� cơ hội đứng l�n l�m �kẻ trả th�� cho Gi�o hội Đ�ng phương.

Đ�ng kh�c, người ta cũng n�n biết rằng: cho d� Roma c� lầm lỗi vạ tuyệt th�ng của Humbert chỉ d�nh v�o c� nh�n Michael Cerularius m� th�i. Đ�ng phương, v� bị những chủ chăn xấu l�m lạc hướng, n�n đ� tự ly khai khỏi Roma, chứ kh�ng bao giờ Roma l�n �n Gi�o hội Đ�ng phương. Năm 1057, Cerularius đứng đầu một cuộc đảo ch�nh, lật đổ Michael VI (1056-57) v� đưa Isaac Comnenus (1057-59) l�n ng�i ho�ng đế. Nhưng t�nh ki�u căng c�ng những tham vọng của �ng đ� l�m mất l�ng Isaac, v� �ng bị ph�t lưu ra đảo Proconesa (1059), chết tại đ�.

Từ năm 1070, nghĩa l� 16 năm sau cuộc khủng hoảng Cerularius, đế quốc Byzantin gặp phải nhiều thử th�ch mới. Những chiến c�ng oanh liệt của Nicephorus Phocas (802-811) v� Basilius II (963-1025) đ� gi�nh được một khu vực rộng lớn, c� thể bảo vệ an to�n những yếu điểm của đế quốc cho đến tận Syria, nay lại bị địch qu�n tr�n v�o v� chiếm đ�ng một lần nữa. Những ng�y đen tối trở lại: qu�n Byzantin bị đ�nh tan ở Martzikiert (1071), Gierusalem rơi v�o tay chủ mới, Antiokia v� Edessa cũng lọt v�o tay địch v� qu�n Thổ Nhĩ Kỳ tr�n v�o Tiểu �, đ�ng tại Iconium, Smyrna, Cyzico... Kinh th�nh Constantinopoli bị trực tiếp đe dọa. Đ� đến l�c gi�o d�n T�y phương phải đứng v�o h�ng ngũ: đ� l� thời binh Th�nh gi�.


III

GI�O HỘI THỜI BINH TH�NH GI�


1. Binh Th�nh gi� v� vương quốc Gierusalem (1096-1291)

Binh Th�nh gi� bắt nguồn từ những cuộc h�nh hương Đất Th�nh c� v� trang. Việc h�nh hương Gierusalem cho tới thế kỷ XI vẫn dễ d�ng, chỉ trở th�nh kh� khăn v� nguy hiểm từ khi v�ng Tiểu � rơi v�o tay người Thổ Nhĩ Kỳ Seldjoukide (1070). Gi�o d�n h�nh hương bấy giờ phải tổ chức th�nh đo�n mang v� kh�. Từ ho�n cảnh đ�, nẩy ra � định �một cuộc h�nh hương quy m�� nhằm t�i chiếm Gierusalem.[27]

Ng�y 27.11.1095, tại c�ng đồng Clermont (Ph�p), khi đức Urban II (1088-99) l�n tiếng k�u gọi thế giới C�ng gi�o đứng l�n cứu Đất Th�nh, c� lẽ đức Th�nh Cha chỉ n�i l�n � nghĩ c� sẵn trong th�m t�m của đức Gregori VII (1073-85). Sự lo �u về những cuộc t�n ph� nặng nề m� Gi�o hội Đ�ng phương phải hứng chịu, đ� khiến vị th�nh Gi�o ho�ng n�y nghĩ đến sự viện binh của c�c vua T�y phương, đặng bảo vệ Byzantin (1073). Giả như kh�ng vướng mắc vụ Henry IV, th� c� lẽ ng�i đ� th�nh c�ng trong việc thống nhất c�c vua �u ch�u, v� li�n qu�n Kit� gi�o đ� ngăn cản được cuộc x�m lăng của Thổ Nhĩ Kỳ v�o Tiểu �. Điều m� đức Gregori VII cố gắng thực hiện bằng ngoại giao với c�c vua ch�a, th� đức Urban II đ� đạt được, nhưng bằng phương tiện kh�c. Ng�i kh�ng k�u mời c�c bậc l�nh đạo quốc gia, nhưng k�u gọi quần ch�ng v� sự nham gia của c�c nam tước c�ng c�c tướng l�nh c�ng gi�o. Đức Th�nh Cha đ�nh thẳng v�o l�ng quảng đại của mọi người thiện ch�, k�o ch� � mọi gi�o d�n hướng về Mồ th�nh. Ch�nh v� Mồ Th�nh m� cần phải c� chiến sĩ.

Lời k�u gọi của đức Urban đ� g�y n�n một tiếng vang khắp thế giới C�ng gi�o, ph�t động một phong tr�o �h�nh hương � d�ng l�n như s�ng cồn. Th�m v�o đ�, một ơn To�n x� hứa ban cho tất cả những ai t�nh nguyện gia nhập đ�n qu�n viễn chinh, �kh�ng những v� phần rỗi m�nh, m� c�n v� sự sống c�n của Mẹ Gi�o hội�, c�ng thu h�t v� th�c đẩy nhiều người. Người ta tin tưởng sự đặt ch�n l�n đường đi Gierusalem với Th�nh gi� bằng vải tr�n vai hoặc sau lưng v� trước ngực, ch�nh l� bước đường chắc chắn v�o Nước Trời. Nhưng đ� lại kh�ng phải l� điều m� đức Urban ti�n liệu. Đức Th�nh Cha chỉ k�u gọi những người đ� quen chiến đấu, chỉ nghĩ đến việc thiết lập những đạo qu�n tinh nhuệ cho một cuộc �th�nh chiến�. Tiếng n�i của ng�i qu� nhiều ảnh hưởng trong một �u ch�u sốt sắng v� đạo đức thế kỷ XI: người c� đ�i bạn, người chưa bao giờ chiến đấu, gi�o sĩ, �ng gi�, trẻ n�t, tất cả đều ao ước l�n đường. Guibert Nogent viết: �Họ biết m�nh sẽ kh�ng cầm kh� giới ra chiến trường, nhưng họ mong được ph�c tử dạo. Họ n�i với c�c chiến sĩ rằng: c�c anh khỏe mạnh v� can đảm. c�c anh ra mặt trận, c�n ch�ng t�i, ch�ng t�i nhận chịu đau khổ với Ch�a Kit� để đoạt Nước Trời�.

Kh�ng muốn chờ đạo qu�n �ch�nh quy� c�n đang được tổ chức, một đo�n người thiếu chuẩn bị, qu� n�ng nảy k�o nhau đi trước, dưới sự chỉ huy của một hiệp sĩ tầm thường t�n l� Gautier-sans-Avoir v� linh mục Pierre, vị tu h�nh rất đạo đức nhưng thiếu kh�n ngoan. Số phận của người v� tổ chức n�y, người ta đ� ti�n đo�n: thiếu ăn, thiếu v� kh�, n�n sau một v�i cuộc đụng độ với người Bảo Gia Lợi v� Slavo, họ bị kẹt tr�n bờ s�ng Bosphore. Được chuyển sang th�nh Nicea, đo�n người hỗn hợp bị Thổ qu�n đ�nh tan t�nh.

Cũng năm 1096, đo�n qu�n ch�nh quy l�n đường, với con số 200.000 đến 300.000, được chia l�m bốn đạo. Kh�ng c� tổng tư lệnh, nhưng c� chung một vị l�nh đạo tinh thần, đ� l� đức cha Ad�mar (+ 1098), gi�m mục th�nh Puy ki�m kh�m sai T�a th�nh. Cũng kh�ng c� một vua n�o tham dự, v� đ� c� Ch�a Gi�su l� Vua duy nhất v� ch�n thật. Nhưng c� nhiều hiệp sĩ nổi tiếng đứng ra chỉ huy c�c đạo qu�n. đạo qu�n Đức do Baudouin Hainaut v� Godefroy de Bouillon; đạo qu�n Bắc Ph�p do Hugue Vermandois v� quận c�ng xứ Normandie ; đạo qu�n Nam Ph�p do Raymond de Saint-Gilles (Toulouse) v� kh�m sai T�a th�nh Ad�mar; đạo qu�n Normand (�) do Bohemundo th�nh Tarente v� Tancredo. Tất cả bốn đạo qu�n đều c� mặt tại Constantinopoli v�o cuối năm 1096.

Ho�ng đế Alexi I Comnenus tưởng binh Th�nh gi� đến để �ng được to�n quyền sử dụng v�o việc t�i chiếm c�c tỉnh đ� mất, khiến c�c qu�n binh n�y bất m�n v� ch� Byzantin. Đại qu�n Th�nh gi� tiến qua v�ng cao nguy�n n�i đồi Cappadocia. Tại Dorylea, sau cuộc giao tranh như �c mộng ng�y 1.7.1097, binh Th�nh gi� đ� đẩy lui được qu�n Thổ Nhĩ Kỳ của Sohman (Abou-Ayodb). Nhưng trận chiến l�u d�i v� cam go hơn cả l� trận Antiokia (từ th�ng 10.1097 đến th�ng 6.1098). Sau nhiều th�ng c�ng h�m địch, ch�nh giờ chiến thắng một thế trận v� c�ng khủng khiếp quật ngược lại. Binh Th�nh gi� vừa tr�n v�o th�nh, liền bị Thổ qu�n ập đến. Lương thực kh� cạn, kh� trời nồng nực; giữa l�c cả một đạo qu�n kiệt lực v� hấp hối, th� một luồng gi� đức tin thổi tới. Người ta loan tin t�m thấy ở dưới b�n thờ trong đền Th�nh-Pher� lưỡi đ�ng đ�m cạnh nương long Ch�a. Qu�n sĩ như sống lại v� họ nh�n l�n kh�ng trung: một đạo qu�n mặc binh gi�p trắng đến yểm trợ. Một lần nữa binh Th�nh gi� giốc to�n lực đ�nh trận cuối c�ng, ph� tan được qu�n Thổ Nhĩ Kỳ đang v�y h�m họ. Tại trận địa Antiokia n�y, Bohemundo đ� tỏ ra l� danh tướng của binh Th�nh gi�.

Nhờ c� � ch� can trường v� hy sinh tuyệt đối, binh Th�nh gi� đ� thắng vượt mọi gian nguy v� đ�i kh�t; nay họ c�n phải thắng mệt nhọc v� t�nh �ch kỷ. C�c tướng l�nh như Bohemundo v� Baudouin rất h�i l�ng v� những thắng lợi đạt được, nay l�m chủ Antokia v� Edessa, kh�ng c�n muốn tiến xa nữa. Nhiều tướng t� kh�c c�n tranh gi�nh nhau: người ta bỏ qu�n Gierusalem. Nhưng c�c qu�n binh trung th�nh kh�ng chịu để như vậy v� cuộc Nam tiến bắt đầu. Họ tới Gierusalem th�ng 6 năm 1099. Th�nh th�nh bấy giờ được canh ph�ng, kh�ng phải do qu�n Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng do Hồi qu�n từ Ai Cập sang.

Sau 5 tuần lễ v�y h�m, binh Th�nh gi� gồm to�n những qu�n nh�n Franc can trường v� ki�u h�ng tấn c�ng như vũ b�o. Raymond de Saint-Gilles, Godefroy de Bouillon v� Tancredo đều l� những anh h�ng của ng�y lịch sử 15.7.1099. Một trận chiến �c liệt đeo duỗi nhau từ khu phố n�y sang khu phố kh�c, nhất l� trong khu vực gần Đền thờ. M�y chảy tr�n trụa, tung t�e bắn đầy người vật c�ng nh� cửa. Chiến thắng về tay binh Th�nh gi�. C�c chiến sĩ �sung sướng trong Ch�a, rửa tay ch�n, bỏ �o vấy m�u, mặc �o mới, cởi giầy bước v�o Nơi Th�nh�. [28]

Cuộc viễn chinh l�u d�i v� cam go của binh Th�nh gi� đ� thiết lập bốn nước: vương quốc Gierusalem, hầu quốc Antiokia, hai c�ng quốc Edessa v� Tripoli. C�c nước n�y tổ chức theo thể chế phong kiến T�y phương với những �quy chế� (assises) ri�ng, v� được trao cho c�c tướng l�nh c� c�ng. Gi�o d�n lại tổ chức những cuộc h�nh hương sầm uất như xưa. Nhiều d�ng tu hiệp sĩ được th�nh lập hoặc tổ chức lại, như d�ng Bệnh viện, d�ng Đền thờ..., nhiều th�nh đường x�y cất theo mẫu T�y phương.

Gierusalem l� th�nh th�nh trong đ� c� Mồ Ch�a được nh�n nhận l� b�u vật qu� trọng nhất của người t�n hữu, n�n vương quốc Gierusalem cũng được kể l� quan trọng hơn cả. Godefroy de Bouillon được bầu l�m vua (1099-1100), nhưng �ng chỉ nhận danh hiệu �L�nh canh Mồ Ch�a�, Baudouin I (1110-1118) kế nghiệp anh, xưng đế v� l� người x�y dựng vương quốc. V� Gierusalem nằm ở một địa thế nguy hiểm cần phải được bảo vệ, n�n Baudouin đ� lần lượt chiếm những yếu điểm chung quanh như Saint-Jean d�Acre, Sidon, Beyrouth, Arsouf. Baudouin II đến sau chiếm th�m Tyro (1124), v� Baudouin III đ�nh Ascalon (1153).

Nhưng thể chế phong kiến được thi h�nh một c�ch qu� khắt khe, l� nguy�n nh�n l�m suy yếu vương quốc, đầy dẫy kẻ th� ở chung quanh, trong khi nghĩa binh Th�nh gi� hết hạn khấn hứa r�t dần về qu� qu�n. Th�m v�o đ�, những lủng củng nội bộ giữa qu�n binh Normand v� Byzantin, Ph�p v� Đức, những đ�i hỏi của c�c qu�n nh�n dẫn đường, rồi đến vụ vua Baudouin IV (1174-85) mắc bệnh c�i, vua Conrad Montfenat bị �m s�t (1192). Với chừng ấy kh� khăn v� tai biến, vương quốc b� nhỏ n�y vẫn tồn tại gần hai thế kỷ, v� t�nh mạng n� chỉ l�m nguy thật sự từ năm 1146, khi binh th�nh gi� mất Edessa, v� Antiokia bị đe dọa. Từ l�c ấy c�c bậc l�nh đạo C�ng gi�o Latinh ở Đ�ng phương phải cần đến sự cứu viện của binh Th�nh gi�.


2. Binh Th�nh gi� cứu viện Gierusalem (thế kỷ XII-XIII)

Thực ra từ năm 1101 đ� c� những cuộc cứu viện ri�ng rẽ, nhưng người ta chỉ kể đến t�m cuộc viễn chinh qui m�. Cuộc viễn Chinh thứ nh� (1147-48) được thực hiện sau khi Edessa bị hạ (1146), v� mọi người C�ng gi�o nhận thấy mối nguy cơ ở Gierusalem. Th�nh Benad� (1091-1153) đi khắp hai nước Ph�p (V�zelay, 1146) v� Đức, k�u gọi từ vua quan đến thứ d�n gia nhập nghĩa binh: tr�i đất rung chuyển v� vua Trời mất đất, đất m� xưa kia Người đ� tr� ngụ; kẻ th� của Th�nh gi� đ� li�n kết với nhau chống lại Người, ch�ng mở miệng ki�u căng n�i: Ch�ng ta phải chiếm lu�n Đền th�nh của y... Con mắt Ch�a Quan ph�ng muốn thấy c� ai đi t�m Thi�n Ch�a, c� ai cảm th�ng sự đau khổ của Người v� đi chiếm lại đất cho Người�. [29]

Theo lời hiệu triệu của th�nh Benađ�, một dự �n thiệt lớn lao được đưa ra: chống lại Thần gi�o ở Silesia v� Lusace, đ�nh đuổi Mauro ở T�y Ban Nha v� Phi ch�u, diệt Thổ Nhĩ Kỳ ở Syria v� Ai Cập C�c d�n Trung �u v� Scandinavian, c�c nước Đức, Anh, Ph�p, T�y Ban Nha, �, tất cả đều hưởng ứng v� tham gia. Louis VII nước Ph�p, Conrad III nước Đức v� Manuel Comnenus Đ�ng phương đ�ng vai chỉ huy cuộc viễn chinh thứ nh� n�y. Nhưng tiếc thay, nhiệt t�m kh�ng thể b� đắp được những khuyết điểm lớn lao: cẩu thả trong việc lựa chọn binh sĩ, xuất qu�n với th�i độ ph� trương sức mạnh, nhiều tội nh�n đ�i gia nhập để c� dịp chuộc tội, nhiều c�ng ch�a hay b� ho�ng cũng đ�i đi theo c�c chiến sĩ... Tất cả những yếu tố tr�n đ� đưa tới kết quả khốc hại, sự thảm hại trong việc tấn c�ng một c�ch liều lĩnh v�o th�nh Damas, l� điểm m� c�c sử gia cho l� to lớn nhất.[30] Trước thảm trạng đ�, th�nh Benađ� than rằng: �H�nh như Ch�a bị khi�u kh�ch bởi tội lỗi ch�ng t�i, n�n Ch�a đ� qu�n đi l�ng thương x�t của Người, để đến ph�n x�t thế gian trước ng�y đ� định... Ch�ng t�i loan b�o h�a b�nh m� h�a b�nh kh�ng thấy đến, ch�ng t�i hứa chiến thắng m� chỉ nhận to�n thảm bại�. [31]

Sự thất bại n�y l�m cho người gi�o d�n sống tr�n Đất Th�nh cần phải đo�n kết với Byzantin, thiết lập những đạo qu�n thường trực, những d�ng tu hiệp sĩ c� chỉ huy ri�ng, c�c tu sĩ n�y th�m lời tuy�n thệ kh�ng đầu h�ng giặc. C�c tu sĩ đền thờ bảo vệ Gierusalem, Tortosa, St-Jean d'Acre, tu sĩ Bệnh viện nay trở th�nh những chiến sĩ canh giữ c�c chiến lũy (krac). Buổi đầu hai d�ng tu n�y g�y t�n nhiệm v� đạt được nhiều chiến c�ng rực rỡ. Nhưng sau v� qu� nặng l�ng với của cải, thiếu tu�n phục, n�n bị người d�n o�n gh�t.[32]

Năm 1171, Hồi qu�n từ s�ng Euphrate đến s�ng Nil tập trung lực lượng, dưới quyền chỉ huy duy nhất của tướng Saladin (Calah-ad-Din + 1193). Đương đầu với Saladin, địch th� rất lợi hại n�y, phe C�ng gi�o thua li�n tiếp nhiều trận trong năm 1187: Syria bị tấn c�ng �o ạt, tại đồn Hattin gần hồ Tiberiad: qu�n Franc bị ti�u diệt (4.7.1187). Chỉ c� c�c chiến lũy ở Tyro, Tripoli, Tortosa v� Antiokia tho�t tay địch qu�n. Cũng năm 1187, Saladin thừa thắng chiếm Gierusalem, ph� Th�nh gi� khổng lồ đặt tr�n m�i ch�a hồi gi�o Omar, nhưng �ng tha giết d�n Kit� gi�o v� t�n trọng c�c Nơi Th�nh.

Th�nh th�nh v� Mồ Ch�a lại rơi v�o tay Hồi gi�o. Theo lời k�u gọi của đức Th�nh Cha Urban III (1185-87). Friedrich Barbarosa ho�ng đế La đức, Philippe-Auguste nước Ph�p v� Richard biệt hiệu �Gan Sư tử� nước Anh xuất qu�n, v� đ�y l� cuộc viễn chinh thứ ba (1189-92). Qu�n Đức theo đường bộ, nhưng c�i chết của Friedrich tr�n s�ng Cydnus (Cilicia) đ� l�m họ tan vỡ (1190). Hai vua Ph�p v� Anh đi đường thủy, bề ngo�i đ� l�m h�a với nhau, c�ng đ�nh chiếm Saint-Jean d'Acre (th�ng 7.1191). Philippe-Auguste l�m bệnh phải trở về, �m mưu với John Lackland (em của Richard) định chiếm ngai v�ng của anh, khiến Richard cũng vội quay về (1192).

Một thế kỷ sau c�ng đồng Clermont (l095), binh Th�nh gi� chỉ c�n giữ được những cứ điểm tr�n miền duy�n hải Palestina từ Tyro đến Jaffa, c� Saint-Jean d'Acre l�m thủ đ�. Ở miền Bắc tuy c�n hầu quốc Antiokia, nhưng đ� suy yếu lắm. Tuy nhi�n, lần viễn chinh n�y, Richard chiếm th�m được đảo Cypro, x�y dựng một vương quốc thịnh vượng cho vương tộc Lusignan (1192-1489). Trong khi đ� vương quốc Tiểu Armenia được thiết lập tr�n đất Cilicia do Livon II (1185-1219), l�m nơi lập nghiệp của c�c hiệp sĩ v� thương gia �u ch�u.

Cuộc viễn chinh thứ bốn (1198-1204) do đức Innocent� III (1198-1216) h� h�o. Nhưng lần n�y bị người xứ Venecia v� Philippe xứ Suaben lợi dụng để đ�nh chiếm Zara (Dalmatia) cho m�nh, sau đ� chiếm Constantinopoli (1204) v� thiết lập một đế quốc Latinh Đ�ng phương. Đế quốc n�y gồm một phần b�n đảo Balkan (Thracia Macedonia, Morea), tồn tại cho tới khi Michael VIII chiếm lại được (1216).

Cuộc viễn chinh thứ năm (1219-21) do Jean de Brienne vua Gierusalem (1210-25), Andrew II vua Hung Gia Lợi v� Leopold VI quận c�ng xứ �o, gồm c�c qu�n binh Đức v� Hung. Cuộc viễn chinh nhằm đ�nh Hồi qu�n ở Ai Cập, nhưng nước s�ng Nil l�n cao khiến nghĩa binh phải triệt tho�t.

Cuộc viễn chinh thứ s�u (1228-29) được đặt dưới quyền của ho�ng đế Friedrich II nước Đức, mặc dầu vừa bị đức Th�nh Cha phạt vạ tuyệt th�ng. Friedrich thay v� chinh chiến đ� đ�m ph�n với Meledin (Malex-El-Kamid). Kết quả l� một thỏa hiệp được k� tại Jaffa (1229) nhường cho người C�ng gi�o Gierusalem, B�lem v� Nazaret. Nhưng người Thổ Nhĩ Kỳ vi phạm thỏa hiệp ngay sau đ�, v� 10 năm sau Gierusalem lại mất về tay Hồi gi�o. Friedrich đ� sai lầm, khi chấp nhận giải ph�p thỏa hiệp đ�.

Th�nh Louis IX (1226-70) vua nước Ph�p cương quyết lấy lại Gierusalem. Hai cuộc viễn chinh cuối c�ng n�y l� của th�nh nh�n. Cuộc viễn chinh thứ bảy (1248-50) đ�nh vua Thổ Ayoub, kh�ng phải ở Syria, nhưng tr�n đất Ai Cập, nơi tập trung lực lượng của đế quốc Thổ. Cũng như năm 1221, binh Th�nh gi� chiếm được Damietta, nhưng thất bại ở Mansourah (1250), em vua l� Robert quận c�ng Artois tử trận. Vua v� qu�n sĩ đều bị bắt v� chỉ được chuộc bằng một số tiền khổng lồ. Sau đ�, nh� Vua qua Syria viếng thăm v� an ủi qu�n binh đồn tr� ở đ�y, v� trở lại một lần nữa v�o năm 1254. Năm 1270, tuy đ� gi� yếu (65t) v� c�c quan can ngăn, th�nh Louis quyết ra đi chuyến nữa, đ� l� cuộc viễn ch�nh thứ t�m. Th�nh nh�n xuất qu�n qua Tunis, nhưng �n dịch l�m ti�u hao qu�n binh Th�nh gi�, ch�nh vua cũng l�m bệnh từ trần ng�y 25.8.1270.

Từ đ�, lực lượng của qu�n Thổ Nhĩ Kỹ trở th�nh v� địch, tấn c�ng khắp c�c nơi người C�ng gi�o đ�ng qu�n ở Đ�ng phương, trong khi hầu quốc Antiokia tan r� từ năm 1268. Saint-Jean d'Acre thất thủ năm 1290. Năm liền sau, đến lượt c�c căn cứ kh�c c�n lại, trừ Cypro v� Rhodes thuộc nh� Lusignan v� d�ng Bệnh viện Th�nh Gioan th�nh Gierusalem... Thế kỷ XIV v� XV, tuy tinh thần nghĩa binh vẫn c�n, nhưng cục thế đ� thay đổi: đ� l� binh Th�nh gi� tự vệ ở �u ch�u chống lại hiểm họa Thổ Nhĩ Kỳ. Trong khi ấy, kh�ng c� những cuộc viễn chinh như trước.

Đọc những d�ng lịch sử tr�n, ch�ng ta thấy binh Th�nh gi� trải qua những hồi thịnh suy, khởi đầu l� � định th�nh thiện của đức Urban II, nối tiếp bằng chủ đ�ch ri�ng tư của c�c nh� ch�nh trị hơn l� qu�n binh Th�nh gi�, để rồi kết th�c bằng nhiều thảm bại, đến độ vua th�nh Louis, người đầy thiện ch�, cũng kh�ng l�m lại được �m�a xu�n� của lịch sử nghĩa binh.

�Thi�n Ch�a muốn !� (Dieu le veut). Sự thất bại tr�n chiến trường l�m tan vỡ mọi hy vọng đ� được dặt ra ở Clermont V�zelay, n�i l�n � muốn của Thi�n Ch�a kh�ng lệ thuộc v�o � định của con người, cũng kh�ng lệ thuộc v�o những lời tha thiết k�u cầu của c�c th�nh. Sự Quan ph�ng của Thi�n Ch�a đ�i khi cho người ta thấy những c�ng việc m�nh c� thể l�m được, nhưng c�n cần phải c� sự kh�n ngoan v� ki�n nhẫn để đạt th�nh c�ng. Kh�n ngoan v� ki�n nhẫn, hai đức t�nh n�y kh�ng phải l� những g� nổi bật ở qu�n binh Th�nh gi�. Mục đ�ch trần thế l� chiếm lại Đất Th�nh đ� kh�ng thực hiện được, nhưng nhờ c� những cuộc �th�nh chiến� n�y m� rất nhiều người đ� ăn năn s�m hối, chịu gian khổ hy sinh, hăng h�i dấn th�n v� ch�nh nghĩa đức tin. Phải chăng đ� lại kh�ng phải l� � muốn của Ch�a, đấng cần tấm l�ng hơn lễ vật.

N�i thế kh�ng c� nghĩa l� về phương diện thế tục, c�c cuộc viễn chinh Th�nh gi� đ� thảm bại, đến độ kh�ng đem lại được một hậu quả n�o tốt đẹp. Sự thực, c�c cuộc viễn chinh đ� mở rộng đường giao th�ng v� thương mại, cải tiến nền kinh tế của �u ch�u phong kiến, nhất l� sự trao đổi giữa ba nền văn minh Trung cổ : Latinh, Hy lạp v� Islam. Những văn minh n�y thấm nhuần v�o c�c cơ cấu x� hội, để một thế giới mới xuất hiện.


3. Lạc gi�o Cathar hay Albigens� v� binh Th�nh gi� th�nh Albi.

Lạc gi�o Cathar được n�i trong lịch sử dưới nhiều danh hiệu: Bogomil, Patarin, Albigens�. Gi�o hội C�ng gi�o suốt bốn thế kỷ phải đối ph� với lạc gi�o n�y, nhất l� ở Bảo Gia Lợi (từ thế kỷ X), rồi ở Bắc � v� Nam Ph�p (thế kỷ XII v� XIII).[33]

Gi�o thuyết Cathar na n� giống gi�o thuyết của Man�s (= 273), nhưng kh�ng c� t�nh thần thoại của Manik�s nguy�n thủy, dầu vậy người ta cũng gọi n� l� lạc gi�o T�n Manik�s. Sự thực đ�y l� một gi�o thuyết Slavo cũ kỹ đượm mầu Kit� gi�o. Cuộc tranh chấp giữa Gi�su Kit� v� Satanael, l� một tư tưởng bắt nguồn từ Thần gi�o của người Slavo pha lẫn thần thoại Bielobog (Thần trắng) v� Tchernobog (Thần đen). C�c ph� thủy Volkivy (Carphatia) n�i: �C� hai phần, một tr�n cao, một dưới thấp�. Thiện ở tr�n cao, �c dưới thấp gồm vật chất v� x�c thịt.[34] Do đấy, ph�t sinh một thứ lu�n l� cực đoan: khinh ch� x�c thịt, kinh tởm h�n nh�n, ch�n gh�t sự s�ng...

Để c� mầu sắc t�n gi�o, họ cũng lập ra nhiều �B� t�ch�. C�c t�n hữu phải khu�n m�nh trong kỷ luật sắt, v� chịu kiểm so�t nghi�m ngặt do cấp l�nh đạo b� mật điều khiển. Guồng m�y tổ chức của lạc gi�o rất c� hệ thống từ trung ương tới hạ tầng, c� cơ quan đầu n�o, cơ quan hỗ trợ, th�ng tin tuy�n truyền, gi�o dục v� đặc biệt những trung t�m đ�o tạo phụ nữ th�nh chiến sĩ can trường. Nhờ c� tổ chức quy củ lạc gi�o h�nh động g�y ảnh hưởng mạnh mẽ trong quần ch�ng. Nhưng v� đạo qu� khắt khe, nhiều người chờ đến khi sắp chết mới xin gia nhập v� chịu �b� t�ch Consolamentum�. Đ�y l� �b� t�ch� ch�nh yếu được th�ng ban qua lễ nghi đặt tay, kẻ thụ l�nh phải thề từ bỏ v� th� gh�t đạo C�ng gi�o, phải giữ chay tịnh v� trinh khiết trọn đời. Coi Gi�o hội C�ng gi�o như tử th�, đ� l� đặc t�nh cố hữu của lạc gi�o Cathar.

Thế kỷ X ở Đ�ng phương, nh�m Bogomil (bạn của Thi�n Ch�a) đ� bắt đầu g�y s�ng gi� cho c�c vua Bảo Gia Lợi. Sang thế kỷ XII, người ta chứng kiến nhiều cuộc ph� hoại của nh�m n�y tại Constantinopoli.[35] Cũng thời gian tr�n, lạc gi�o x�m nhập T�y �u, nhiều tiểu tổ đ� thấy c� v�o đầu thế kỷ XI ở Mainz, Goslar, Cologne nước Đức, ở Ch�lon, Rouen, Orl�ans, Nevers nước Ph�p. Nhưng nguy hiểm hơn cả l� ở Bắc � (Lombardia), nơi họ mang t�n l� Patarin, v� ở cả miền Nam nước Ph�p (Aquitaine, Provence, Languedoc) nơi họ c� t�n l� Albigens�. Xứ Languedoc chịu ảnh hưởng s�u xa của lạc gi�o hơn hết, v� nơi đ�y h�ng Gi�o phẩm k�m t�i thiếu đức, trong khi người Cathar n�u gương �trọn l�nh�, thu h�t d�n ch�ng, l�i cuốn cả h�ng gi�o sĩ.

Đứng trước t�nh trạng nguy ngập n�y, c�c thừa sai d�ng Xit�, cả th�nh Benađ� v� kh�m sai T�a th�nh đ� đ�ch th�n rao giảng Ph�c �m v� thuyết gi�o. Song c�c ng�i kh�ng đạt được những kết quả l�u bền.[36] Sự tự tin đến khinh địch của nhiều vị kh�m sai, l� một trong những nguy�n nh�n g�y n�n thất bại đ�. Nhưng người ta đ� nghĩ đến biện ph�p mạnh để cứu miền Languedoc n�y, v� cho đ� l� một tr�ch nhiệm.

Đức Th�nh Cha Innocent� III đ� kh�ng ngần ngại l�n tiếng một c�ch thẳng thắn. Năm 1199, ng�i viết: ch�ng ta h�y li�n kết với mọi d�n tộc, để chuẩn bị một lực lượng chống lại lạc gi�o...� Nhưng đấy chỉ l� lời đe dọa, để m�i sau mới thực hiện. Nghĩa l� cho tới khi xảy ra vụ đức kh�m sai Pierre de Castelnau bị �m s�t năm 208, chiến tranh mới b�ng nổ, v� được tuy�n bố bằng những lời lẽ y như khi h� h�o binh Th�nh gi� cứu Đất Th�nh: �...Ta thuận ban cho tất cả những ai tham gia cuộc th�nh chiến n�y để bảo vệ đức tin, một �n x� m� ta vẫn ban cho c�c kẻ h�nh hương viếng Đền Th�nh Pher� tại Roma hoặc Th�nh Giacob� th�nh Compostella�. [37]

Binh Th�nh gi� ban đầu (1209) đặt dưới quyền chỉ huy của kh�m sai Amaud-Amaury, nhưng từ năm 1211 được trao ph� cho tướng Simon de Montfort (1150-1218) với 25.000 qu�n. C�c cuộc h�nh qu�n kh�ng nhằm v�o th�nh Albi, cho bằng v�ng nhỏ hẹp nằm hướng đ�ng nam th�nh Toulouse giữa hai s�ng Aude v� Ari�ge, đ� l� s�o huyệt của phe Cathar, nơi c� nhiều th�i ấp của c�c l�nh ch�a đỡ đầu (Minerve v� Mirepoix). Những trận chiến �c liệt diễn ra ở B�zier (1209), Lavaur (1211), Muret (1213), Toulouse (1218) đ� đ�nh bại li�n qu�n Albigens�, gồm vua Pedro II nước Aragon c�ng với hai quận c�ng Toulouse v� Poix; trận Muret đ� giết được vua Pedro. Năm 1213, đại C�ng đồng Latran IV phong cho tướng Simon de Montfort l�m quận c�ng th�nh Toulouse. Tướng De Montfort tuy kh�ng phải l� người chịu tr�ch nhiệm về vụ thảm s�t B�zier, nhưng trong việc dẹp c�c l�nh ch�a (feudit) v� lạc gi�o, �ng đ� kh�ng từ bỏ những biện ph�p mạnh m� �ng cho l� cần phải c�. Những l�n kh�i thi�u hủy c�c l�u đ�i, th�i ấp bốc l�n l�m đen cả bầu trời Languedoc. H�ng mấy ng�n người Cathar �ch�nh quy� (kh�ng kể thường d�n) bị giết hoặc thi�u sinh.

Binh Th�nh gi� đ� thắng, nhưng đ� kh�ng cảm h�a được l�ng người, n�n lạc gi�o Albigens� vẫn c�n. Khi th�nh Minerve bị hạ, h�ng trăm người Cathar phải l�n hỏa đ�i. V� cảm thương cho số phận của họ, đức kh�m sai Guy Vaux-Cernay đến khuy�n răn họ suy nghĩ lại, th� được họ trả lời một c�ch hi�n ngang, như sau: Tại sao c�c �ng giảng dạy ch�ng t�i? Ch�ng t�i kh�ng thể tin theo c�c �ng, ch�ng t�i đ� thề bỏ Gi�o hội Roma. D� sống, d� chết kh�ng thể l�m ch�ng t�i bỏ được đức tin của ch�ng t�i�. N�i xong, tất cả nhảy v�o đống lửa.[38]


4. Việc dẹp y�n lạc gi�o Cathar: th�nh Đaminh v� t�a Truy t� (Inquisition)

Kh�ng phải gươm hay lửa đ� dẹp được lạc gi�o. Muốn cứu Languedoc khỏi hiểm họa Cathar phải d�ng biện ph�p kh�c, l�c n�y Gi�o hội đ� t�m ra biện ph�p đ�. H�ng Gi�o phẩm, khi bỏ lối sống Ph�c �m v� bỏ qu�n sứ mạng giảng dạy của m�nh, ch�nh l� những người phải chịu tr�ch nhiệm về cuộc khủng hoảng n�i đ�y. Vấn đề trước hết được đặt ra l� lạc gi�o Cathar đ� th�nh c�ng nhờ c� một �đời sống khắc khổ�.

�Qu� vị kh�ng thể lấy lời n�i để chinh phục những người c� con mắt chỉ d�i theo gương l�nh. Qu� vị h�y xem người lạc gi�o, họ l�i cuốn người d�n chất ph�c bằng h�nh ảnh th�nh thiện v� ngh�o kh� Ph�c �m. Nếu qu� vị đưa ra một h�nh ảnh tr�i ngược, qu� vị sẽ x�y dựng �t m� ph� hoại nhiều, v� sẽ kh�ng thu được �ch lợi g� ? [39] Đ� l� những lời kh�n ngoan của nh� truyền gi�o T�y Ban Nha: th�nh Đaminh (1170-1221).

Trước hết phải c� gương l�nh, nhưng cũng phải d�ng lời giảng dạy cho những người d�n thất học. Đại C�ng đồng Latran IV (1215) đ� c� những lời khuy�n như sau: �C�ng đồng nhận thấy c� nhiều gi�m mục kh�ng thể đ�ch th�n thi h�nh việc rao giảng Lời Ch�a, nhất l� những vị c� địa phận rộng lớn. Bởi vậy C�ng đồng truyền cho c�c vị ấy chọn một số người c� khả năng thi h�nh sứ mạng giảng Lời Ch�a một c�ch hữu hiệu, v� khi đ� c� uy t�n trong lời n�i việc l�m qu� vị sẽ đến tận nơi, tức những nơi m� c�c gi�m mục kh�ng thể đ�ch th�n tới, dể thăm viếng người d�n được ủy th�c v� qu� vị sẽ dạy d�n bằng lời n�i c�ng gương s�ng�.[40]

Ch�nh v� muốn thể hiện � muốn của C�ng đồng n�i tr�n, m� th�nh Đanimh c� � định lập một d�ng tu chuy�n việc giảng dạy mang t�nh hộ gi�o. D�ng tu của th�nh nh�n trước hết được đức Cha Foulques th�nh Toulouse ủng hộ, v� đức Th�nh Cha Honori� III ch�nh thức ch�u ph� ng�y 22.12.1216. �u cũng l� � ch�a Quan ph�ng, để c� những tay thợ truyền gi�o đắc lực v� thức thời trong đạo binh Th�nh gi� thi�ng li�ng m� Gi�o hội đang cần đến.

Năm 1233, đức Th�nh Cha Gregori IX trao cho d�ng Đaminh một sứ mạng rất tế nhị : T�a Truy t� (Inquisition). T�a n�y đ� c� từ năm 1184 dưới triều Gi�o ho�ng Luci� III, do c�c gi�m mục v� kh�m sai T�a th�nh nắm giữ, c� mục đ�ch điều tra v� tố c�o những người theo lạc gi�o v� trừng phạt c�c kẻ cố chấp g�y nhiễu loạn. Từ nay Gi�o hội trao c�ng việc n�y cho một cộng đo�n chuy�n m�n, c� người thừa h�nh, c� kế hoạch v� phương ph�p. Đ�y l� một sứ mạng vừa kh� khăn vừa nguy hiểm.[41]

Thời nay, người ta được l�m quen với những bảo đảm thường xuy�n của c�ng l�, của tổ chức Nh�n quyền Quốc tế, n�n dễ c� những lời lẽ rất gay gắt mỗi khi n�i đến t�a �n n�y. Nhất l� người ta tố c�o n� độc t�i, bởi v� mỗi khi điều tra một vụ, quan �n chỉ cần hỏi nh�n chứng hoặc đọc một số t�i liệu, sau đ� quan �n t�y t�i thẩm ph�n c�ng lương t�m m�nh m� tuy�n �n. Bản �n c�ng bố kh�ng ai được chống lại, t�n người cung cấp t�i liệu cũng như nh�n chứng được triệt để giữ k�n. Cứ kh�ch quan m� n�i, bản �n do một quan t�a c� lương t�m ph�n quyết v� c�ng bố phải chăng lại kh�ng v� tư hơn những bản �n, tuy c� tranh nghị s�i nổi, nhưng lại bị �p lực của dư luận hoặc la lối của lũ đ�ng v� tr�ch nhiệm ?

Đứng trước tượng Ch�a Chuộc tội, suy nghĩ trong thinh lặng, quan �n của t�a Truy t� dễ tho�t được những thi�n kiến v� ảnh hưởng của hận th�; �t l� thế. Quyền h�nh của quan t�a rất lớn, nhưng đừng tưởng �ng c� quyền buộc tội v� nghi�m phạt một c�ch độc đo�n. �ng phải trả lẽ trước mặt đức Th�nh Cha, v� thực sự đ� c� nhiều vị bị khiển tr�ch, trừng phạt v� mất chức. Ngo�i ra, c�n c� một cố vấn kh�n ngoan lu�n lu�n theo s�t �ng trong khi thi h�nh nhiệm vụ, c� thể can gi�n v� gi�p �ng giải quyết nhiều vụ l�m bối rối lương t�m. Từ giữa thế kỷ XIII, c�n th�m một khoản luật nữa cho quan t�a, l� kh�ng một bản �n nặng n�o, như l� t� chung th�n hay xử tử được c�ng bố, nếu chưa c� sự đồng � của đức gi�m mục địa phận. Nguy�n điều đ�, cũng đủ đảm bảo cho bị c�o khỏi sự n�ng nảy hoặc thiếu v� tư của một t�a �n lưu động.

Bản �n thường được c�ng bố trong một khung cảnh trang nghi�m. Mở đầu bằng một b�i thuyết tr�nh, m� ở T�y Ban Nha người ta gọi l� auto-da-f� (acte de foi), nhằm g�y cho c�c người dự cuộc c� cảm tưởng về quyền t�i ph�n của Gi�o hội, đồng thời để mọi người chứng kiến sự hối hận hay cố chấp của phạm nh�n. Thường l� �n t� ở, tuy nhi�n cũng c� nhiều c�ch đền tội kh�c, như h�nh hương, bố th�. �n tử h�nh (hỏa thi�u) chỉ d�nh cho những đầu đảng cố chấp hoặc đ� được tha nay t�i phạm. Nhưng cũng c� nhiều đầu đảng như Gottachalk, B�renger, Ab�lard, Henri Lausanne, Wiclif chỉ phải chịu h�nh phạt theo gi�o luật, nặng lắm l� bị quản th�c trong một tu viện.

N�i thế, kh�ng c� nghĩa l� tất cả đều tốt đẹp. Sự thực, t�a �n n�y đ�i khi v�o tay những gi�m mục hay nh� thần học qu� nghi�m khắc n�n lịch sử của n� kh�ng khỏi những vết nhơ, như nhiều tổ chức kh�c. Lại cũng kh�ng n�n lẫn lộn với t�a Truy t� c� t�nh ch�nh trị, được th�nh lập năm 1478 tại T�y Ban Nha dưới triều Fernando V v� Isabella, để thay thế cho t�a Truy t� n�i tr�n hầu như kh�ng c�n.

T�a Truy t� mới n�y ban đầu được trao cho linh mục Thomas Torquemada (1420-98) d�ng Đaminh, rồi đến đức hồng y Jimen�s (1436-1517) d�ng Phansinh, c� mục đ�ch tầm n� c�c người Do Th�i v� Mauro đ� bị �n, l� th� địch nguy hiểm của đức tin v� quốc gia. T�a Truy t� n�y thật sự cũng kh�ng qu� bạo t�n như người ta ph� ph�n, n� buộc c�c t�n đồ Do Th�i v� Mauro theo đạo C�ng gi�o, nếu muốn được ở lại tr�n đất T�y Ban Nha (v� đ� c� lệnh nh� vua trục xuất họ). Do đ�, t�a �n n�y kh�ng những được to�n d�n chấp nhận m� c�n được hoan ngh�nh, v� nhờ c� n� m� người T�y Ban Nha bảo to�n được đức tin C�ng gi�o, tho�t khỏi mọi xu hướng, nguy hiểm đến mất đạo trong thế kỷ XV v� XVI dưới triều Felipe II (1557-98). T�a �n giống như thế c�n hoạt động cả ở H� Lan, để tầm n� những người theo lạc gi�o.[42]

 

[1] S�ch tham khảo: Dom H. Poulet: Histoire du christianisme (le moyen �ge) - A. Fliche: L�Europe occidentale de 888 � 1125, v� Diehl - Marcais: Le monde oriental de 395 � 1081 trong Histoire g�n�rale (Glotz) II, Q. II v� III - G. de Plinval: Le drame ext�rieur de la chr�tient� trong Histoire illustr�e de l��glise, Paris 1946-48, Q. I, tr 363-408.

[2] Diehl - Macais: op. cit., tr 158-185.

[3] Diehl - Marcais: op. cit., tr 114-151.

[4] Diehl - Marcais: op, cit., tr 185-196 - Xem L. Br�hier trong Hist. de l��glise, Q. V, tr 127-130 v� 134-140, 152-154.

[5] Xem Aigrain trong Hist. de l��glise Q. V, tr 224-228 v� 261-263. Về cuộc bổ v�y th�nh Comstantinopoli, xem Deihl-Mar�ais: op.cit., tr 251-252

[6] Xem Aigrain trong Hist. de l��glise Q. V, tr 358-359.

[7] Diehl - Marcais: op. cit., tr 195 - Xem L. Br�hier v� Aigrain trong Hist. de l��glise, Q. V, tr 138-140 v� 267-268, 276.

[8] J. Labourt: Le christianisme dans l�empire perse sous la dynastie sassonide (224-632)- Xem Amann v� Tisserant: Nestorius trong Dict. de Th�ol. Cath.

[9] J. Pargoire: op. cit., tr 167-168 - Xem Deihl- Marcais: op. cit., tr 208.

[10] R. Aigrain trong Hist. de L'�glise, Q. V, tr 226-230 - Xem G. Bardy: Revue apolog�tique 1930, tr 513 v� tiếp - W. Seston: M�lang. �cole fr. de Rome 1936, tr 101-124.

[11] R. Aigrain trong Hist. de l��glise, Q. V, tr 270-275 - E. Amann, Q. VI, tr 194-195

[12] E. Amann trong Hist. de l��glise, Q. VIII. tr 423 - P. Guirard trong Hist g�n�rale (Glotz) II, Q. IV, 2: �L�essror des �tats d� Ocident�, tr 288-313 - Về phong tr�o h�nh hương Compostella, ibid, tr 301-302. Xem Revue des questions histonques 1934

[13] Amann trong Hist. de l��glise, Q. VIII, tr 224-427.

[14] Xem M. Jacquin: Hist. de l��glise Q. II, tr 287-291, ch� th�ch 3. Về b� Monothelisme, xem L. Br�hier trong Hist. de L��glise Q. V, tr 111-124, 160-176 v� 183-190.

[15] J. Pargoire: op. cit., tr 199-214

[16] G. de Plinval trong op. cit., Q. I, tr 377-379.

[17] L. Br�hier: La querelle des images, Paris 1904, v� trong Hist. de l��glise Q. V, tr 431-470.

[18] C� điều đ�ng ch� � l� c�ng đồng Hiera c�ng khai nh�n nhận sự n�n cầu nguyện c�ng Đức Trinh Nữ Maria, v� những �ng vua chủ trương Ph� ảnh tượng cuồng nhiệt nhất cũng kh�ng bao giờ bỏ cờ th�nh Gi�.

[19] Mansi: Concil. XII, 1069.

[20] C�c thượng phụ gi�o chủ Tarasius. Theodotus, Cassiteras, Photius. Nicolas �Mysticus� đều l� những quan thượng thư triều đ�nh.

[21] Về Pholius, xem Amnan trong Hist. de l��glise, tr 465-501 v� Dist. de Th�ol. Cath: Photius - M. Jugie: Le schisme byzantin, Paris 1941 - H. Gr�goire �Du� nouveau sur le patriarche�, Bulletin de la Classe des lettres de l�Acad�mie royale de Belgique XX (1934), tr 36-53.

[22] L. Dujcev: Boris trong Dict. d�Histoire �t de G�ographie eccl�siastiques.

[23] Xc chương 6 mục II, 4 - E. Amann trong Hist. de l��glise Q. VI, tr 452-461

[24] E. Amann trong Hist de l��glise Q. VII, tr 138-152 - Xem L. Br�hier Le schisme oriental du XI e si�cle, 1899 - E. Amann: Michel C�rulaire trong: Dict. de Th�ol. Cath

[25] Fliche: La r�forme gr�gorienne Q. I. Louvain 1924, tr 271-276

[26] C� thể xem nội dung bản �n trong Dict. de Th�ol. Cath. (Michel C�rulaire). Xem Patrologie Latine CXLIII, 1002-1003.

[27] S�ch tham khảo: L. Br�hier L��glise et l'Orient au moyen �ge: Les Croisades, Paris 1907 - R. Grousset: . Histoire des Croisades et du royaume franc de J�rusalem, 3 Q, Paris 1934-35; L��pop�e des Croisades 1930 - P. Rousset: Les origines et les caract�res de la premi�re Croisade: Neuch�tel 1945.

[28] R. Grousset: L��pop�e des Croisades. Tr 1-46

[29] Th�nh Benađ�: Epist. 467. Xem Vacandard: Vie de saint Bernard. Paris 1895, Q II, tr 229-303.

[30] R. Grousset: Hist. des Croisades et du royoume franc. Q. II. tr 225-271.

[31] Th�nh Benađ�: De consideratione II, I. Xem Vacandard: op. cit., tr 415-435

[32] Về c�c d�ng tu Hiệp sĩ, xem L. Br�hier op. cit., tr 96-98.

[33] S�ch tham khảo: A. Luchaire Innocent III 1904-08, Q. II (La Croisade des Albigeois) - J. Guiraud: Histoire de I�Inquisilion au moyen �ge Q. I v� II, Paris 1935-38 - P. Belperron: Croisade con tre les Albigeois, Paris 1942.

[34] Mythologie g�n�rale của F. Guirand (Larousse), tr 254.

[35] E. Amann trong Hist. de l��glise Q. VII, tr 434-437.

[36] Xem Vacandard: op. cit., Q. II, tr 202-234.

[37] J. Guirand: op. cit., Q. I, tr 376.

[38] P. Belperron: op. cit., tr 206.

[39] Tr�ch dẫn của Guiraud: Saint Dominique (�Les Saint�), tr 26.

[40] Tr�ch dẫn của Guiraud: op. cit., tr 72.

[41] L. Tanon: Histoire des tribunaux de I�Inquisition en France. Paris 1893 - E. Vacandard: L�Inquisition. Paris 1914 - Inquisition trong Dict. de Th�ol. cath - J. Guiraud: L�Inquisition m�di�vale, Paris 1928 - Về � nghĩa tinh thần của t�a Truy t�, xem D. Jordan: La responsabilit� de l��glise dans la r�pression de I'h�r�sie au moyen �ge Paris 1907 - H. Maille: L��glise et la repression sanglante de I'h�r�sie, Li�ge 1909.

[42] Xem Inquisition trong Encyclop�die Universelle Dictionnaire của P. Gu�rin. T�a Truy t�a của c�c vua T�y Ban Nha dần dần hết h�nh động v� b�i bỏ hẳn do hiến ph�p năm 1820.