HOME

 
 

Phần Nhất :
THƯỢNG CỔ V� TRUNG CỔ

Chương Ch�n

GI�O HỘI THỜI HO�NG KIM

VĂN MINH TRUNG CỔ (t.k. XII-XIII)
 

I. Tổ chức Gi�o quyền

1. Ng�i Gi�o ho�ng v� Gi�o triều Roma

2. Tổ chức Gi�o quyền tại c�c địa phận

3. Đời sống gi�o d�n

II. C�c d�ng tu

1. Những d�ng tu �nhập thế�

2. Những d�ng tu �h�nh khất�: th�nh Đaminh v� th�nh Phan sinh

3. C�ng cuộc tuy�n gi�o tại miền Đ�ng Bắc �u ch�u, ở � Ch�u v� Phi ch�u

III. Phụng vụ, nghệ thuật, văn h�a

1. B� t�ch phụng vụ v� sống đạo

2. Nghệ thuật th�nh

3. Kinh viện Học ph�i

4. Đại học

 

Hai thế kỷ XII v� XIII lịch sử Gi�o hội được nh�n nhận l� thời ho�ng kim của văn minh t�n gi�o Trung cổ,[1] tuy đ� cũng l� những thi�n kỷ đen tối, nhiễu loạn v� suy vi tại nhiều Quốc gia �u ch�u.[2] Thật vậy, l�m g� người ta lại kh�ng cảm nghĩ về một t�nh trạng bất ổn khi biết bao ch�nh thể lần lượt sụp đổ, khi đế quốc La Đức li�n mi�n g�y biến tr�n đất �, l�m đảo lộn cả miền Trung �u từ Bắc xuống Nam suốt hai thế kỷ, với những cuộc giao tranh đẫm m�u giữa phe Gi�o ho�ng (Guelfe) v� phe Ho�ng đế (Gibelin). Bị c�c ho�ng đế La Đức đe dọa ngay tại Roma, c�c Gi�o ho�ng thuộc l�ng phải lưu vong. Người ta t�nh trong 110 năm (1088-1198), c�c ng�i chỉ được ngồi tại gi�o đ� c� 55 năm.[3] Rồi đến chiến tranh giữa c�c vua ch�a, cuộc t�i chiếm Palestina của Hồi gi�o v� Thổ Nhĩ Kỳ. Cũng thời gian ấy, lạc gi�o Cathar hay Albigenses nổi l�n ở T�y phương.[4] T�nh trạng như thế ai bảo kh�ng phải l� đen tối nhất?

Tuy nhi�n, thời bị coi l� đen tối v� nhiễu loạn đ� lại ch�nh l� thời uy quyền của Thi�n Ch�a được s�ng tỏ hơn hết trong Gi�o hội. H�ng Gi�o phẩm, gi�o sĩ c� uy t�n v� can đảm bảo vệ đức tin, gi�o d�n nhiệt th�nh sống đạo, h�ng tu sĩ dấn th�n phục vụ d�n Ch�a. Đ� l� kết quả tinh thần Kit� gi�o đ� ảnh hưởng th�m s�u v�o đời sống x� hội thời Trung cổ. Gi�o hội hơn khi n�o hết, được coi l� �Th�nh tr� Thi�n Ch�a� (Civitas Dei) m� th�nh �utinh đ� n�i đến. Quyền tối cao của ng�i Gi�o ho�ng bao tr�m cả Gi�o hội, v� được c�c Quốc gia k�nh trọng nh�n nhận. C�ng cuộc canh t�n Gi�o hội th�nh c�ng nhất trong việc cải thiện đời sống h�ng gi�o sĩ. Đời sống tu tr� cũng được cải tổ, nhất l� c� những đường lối hoạt động mới: d�ng tu �nhập thế�, d�ng tu �h�nh khất�. Sau hết, người ta n�i đ�y l� thời thịnh vượng nhất về văn h�a v� nghệ thuật Kit� gi�o Trung cổ, tưởng kh�ng phải qu� đ�ng.


I

TỔ CHỨC GI�O QUYỀN


1. Ng�i Gi�o ho�ng v� Gi�o triều Roma

Cuộc �c�ch mạng� của đức Gregori VII (1073-85) đ� trả lại quyền độc lập cho ng�i Gi�o ho�ng. v� dần đưa c�c ng�i tiến tới quyền uy tột đỉnh dưới thời đức Innocent� III (1198-1216). Đ� l� bước tiến quan trọng của văn minh Kit� gi�o. Đức Gi�o ho�ng l� Gi�m mục th�nh Roma, đồng thời l� thủ l�nh tối cao trong Gi�o hội, đấng kế vị th�nh Pher�, đại diện Ch�a Kit� ở trần gian. Đức Th�nh Cha c� quyền tối cao tr�n to�n thể Gi�o hội v� tr�n mỗi người t�n hữu. Đ�y l� lời ph�t biểu của đức Innocent� III, vị đại Gi�o ho�ng thế kỷ XIII: �Ta đ� được Thi�n Ch�a đặt tr�n c�c D�n tộc v� c�c Quốc gia�. �Gi�o hội Roma l� Mẹ v� l� Th�y c�c Gi�o hội khắp ho�n cầu�. �Ta nắm mọi quyền h�nh của Ch�a Kit� tr�n mặt đất, v� bước theo Người ta phải mưu h�a b�nh cho nh�n loại�.[5]

Đức Innocent� III khi l�n ng�i mới 37 tuổi, h�nh d�ng b� nhỏ, tr� �c th�ng minh, kh�n ngoan phi thường. Người ta gọi Innocent� l� Salomon thời Trung cổ. Ch�nh ng�i đ� đem quyền uy Gi�o ho�ng l�n tuyệt đỉnh. Hết mọi c�ng việc lớn lao tr�n thế giới đều tới tay ng�i, ng�i can thiệp v�o c�c việc đạo cũng như đời: trừng phạt những �ng vua phạm luật h�n nh�n (Philippe-Auguste), hoặc cướp di sản Gi�o hội (John Lackland), hạ bệ �ng vua n�y (Otton IV), phong tước cho �ng ho�ng kia (Friedrich II), h�a giải những vụ tranh chấp giữa c�c vua C�ng gi�o, bảo vệ quyền độc lập T�a th�nh, mộ binh Th�nh gi� Gierusalem v� Albi. Quyền uy v� thế lực của ng�i Gi�o ho�ng c�n được thể hiện tại C�ng đồng Latran IV (1215) do đức Innocent� triệu tập, quy tụ 400 tổng gi�m mục v� gi�m mục, 800 bề tr�n c�c d�ng tu, v� vua ch�a đại diện c�c quốc gia, khiến C�ng đồng đ�ch thực l� C�ng đồng của thế giới Kit� gi�o. C�ng đồng nhằm hai mục đ�ch: canh t�n Gi�o hội v� giải ph�ng Đất Th�nh. Đức Th�nh Cha băng h� v�o mấy th�ng sau, để lại nhiều t�c phẩm tu đức như Về sự khinh ch� thế gian, Về Mầu nhiệm Th�nh Lễ. Th�nh ca Stabat Mater v� kinh Veni Sancte Spiritus cũng l� t�c phẩm của ng�i.

Ơn �bất khả ngộ� của vị đại diện Ch�a Kit� cũng đ� được th�nh T�ma Aquino (+ 1274) n�i đến v� b�nh vực từ thời n�y.[6] Năm 1234, đức Th�nh Cha Gregori IX d�nh cho T�a th�nh quyền tuy�n bố Hiển th�nh v� Ch�n phước. [7] V� cho tới khi đ�, việc nh�n nhận một đấng th�nh l� do tiếng n�i của d�n với sự chấp thuận của tổng gi�m mục địa phận. Đại C�ng đồng Latran IV cũng khẳng định, chỉ T�a th�nh mới c� thẩm quyền x�c nhận những h�i cốt c�c th�nh, để đưa ra cho gi�o d�n k�nh viếng. Từ thế kỷ XII, c�c Gi�o ho�ng giữ lại quyền tha giải một số trọng tội, v� do đấy t�a X� giải được thiết lập. T�a n�y c� quyền tha giải c�c tội vạ v� chuẩn chước những luật lệ. Ngo�i ra, c�n c� nhiều t�a �n do T�a th�nh thiết lập, đặc biệt t�a Truy t� (Inquisition), n�i l�n quyền t�i ph�n của Gi�o hội thời đ�. Đại C�ng đồng trước đ�y c� thể do ho�ng đế triệu tập, từ thế kỷ XII (Latran I, 1123) chỉ đức Th�nh Cha mới c� quyền đ�, cũng như quyền ch�u ph� c�c Sắc lệnh của C�ng đồng.[8]

V� c�ng việc mỗi ng�y th�m nhiều, đức Gi�o ho�ng cần c� th�m phụ t� v� cố vấn. Từ thế kỷ XI đ� c� tổ chức Gi�o triều Roma (Curia Romana), gồm những t�a sau đ�y: Chưởng ấn T�ng t�a, Nội vụ T�ng t�a, t�a X� giải, t�a Thượng thẩm. Đứng h�ng đầu c�c phụ t� v� cố vấn l� hồng y. Đ�y l� những vị c� t�i học rộng, c� t�m hồn đạo đức tr� ph�n đo�n v� kh�n ngoan trổi vượt, do Gi�o hội tuyển chọn. C�c ng�i vừa l�m cố vấn vừa đứng phụ tr�ch c�c Bộ, c�c t�a v� văn ph�ng tại Gi�o triều. Tổ chức Hồng y đo�n được ấn định r� rệt do đức Eugeni� III (1150), v� kể từ năm 1170 việc bổ nhiệm hồng y d�nh cho đức Th�nh Cha. Con số hồng y bấy giờ rất thấp: thế kỷ XI khoảng 50 vị, thế kỷ XII v� XIII chỉ c� từ 20 đến 30. Năm 1586, đức Sixt� V ấn định con số Hồng y l� 70.

Ngay từ những thế kỷ đầu, đức Gi�o ho�ng thường cử đại diện tham dự c�c c�ng đồng hoặc can thiệp v�o những c�ng việc hệ trọng, đ� l� sứ thần (l�gat). C�c vị n�y được chọn trong h�ng gi�o sĩ Roma hoặc trong h�ng gi�m mục � trực thuộc T�a th�nh. C�ng việc của c�c ng�i rất quan trọng, nhất l� thời đức Gregori VII, n�n từ trung tuần thế kỷ XI việc đi sứ được trao cho c�c hồng y, v� v� thế mang th�m danh hiệu de latere (đặc sứ). Nhiệm vụ l�m sứ giả c�n được ủy th�c một c�ch l�u bền cho một số tổng gi�m mục ch�nh t�a, c�c vị n�y mang tước hiệu Legati nati. C�n chức đại sứ (nonce) được d�nh cho c�c gi�m chức (thường l� gi�m mục), c� nhiệm vụ đi c�ng c�n về một c�ng việc ri�ng biệt, cả vấn đề ch�nh trị, c� li�n quan với những việc thường vụ. Vị đại sứ (inter-nonce) c� t�nh c�ch bền vững v� cấp ngạch như vị đại sứ to�n quyền (ministre pl�nipoten-tiaire). Kh�m sứ (d�l�gu�) cũng l� đại diện đức Th�nh Cha, nhưng kh�ng c� t�nh c�ch ngoại giao.

�t quyền h�nh trước kia d�nh cho c�c tổng gi�m mục v� c�ng đồng gi�o tỉnh, nay được trao cho đức Gi�o ho�ng, như quyền kiểm so�t v� hợp thức h�a việc bầu cử gi�m mục. Từ thế kỷ IX, đ� c� luật c�c tổng gi�m mục sau ba th�ng được tấn phong, phải xin đức Th�nh Cha trao ban Pallium (�o cho�ng). Thế kỷ XI trở đi c�c ng�i phải đ�ch th�n tới Roma để l�nh nhận. Sang thế kỷ XII, c�c gi�o chủ tuy�n thệ tu�n phục đức Th�nh Cha, v� cứ định kỳ phải đến Roma bệ kiến (visitatio liminum, ad limina) để b�o c�o t�nh h�nh. Đến thế kỷ XV, việc tuy�n thệ v�ng phục v� bệ kiến đức Th�nh Cha c�n buộc cả c�c gi�m mục.

Đức Th�nh Cha l� người đứng đầu Gi�o hội C�ng gi�o v� l� người đứng đầu Quốc gia Vatican, đồng thời l� gi�m mục th�nh Roma. Ng�i c� sự cộng t�c v� gi�p đỡ của Hồng-y-đo�n v� Gi�o triều Roma, từ năm 1965 c� th�m Thượng Hội đồng Gi�m mục Thế giới. Khi đức Gi�o ho�ng băng h�, Hồng-y-đo�n tạm nắm quyền cai trị Gi�o hội, v� bầu Gi�o ho�ng mới trong một ph�ng, gọi l� �mật tuyển viện� (conclave).[9] C�ng đồng Latran III (1179) quy định thể thức bầu cử Gi�o ho�ng, đ�i 2/3 số phiếu cử tri.

Để c� tiền chi ph� tại Gi�o triều, nhất l� v� c�c nh�n vi�n l�m việc mỗi ng�y th�m đ�ng, ngo�i những lợi tức của nước T�a th�nh, tiền đ�ng gop của c�c th�nh đường, tu viện, tiền vua ch�a nhiều Quốc gia nộp h�ng năm, c�n c� loại thuế đặc biệt v� bất thường, như thuế Pallium do một tổng gi�m mục phải nộp khi l�nh nhận �o cho�ng, thuế servitia communia do gi�m mục hay đan viện phụ phải đ�ng gop khi nhận quyền, thuế visitationes do c�c gi�m mục mỗi khi đến bệ kiến đức Th�nh Cha. Hầu hết c�c loại thuế (taxe) n�y bắt nguồn từ th�i quen t�nh nguyện d�ng biếu T�a th�nh, đ� c� từ l�u đời.

Việc bi�n soạn bộ gi�o luật bắt đầu từ thế kỷ XII do linh mục Gratianus d�ng Biển đức, một luật gia trứ danh thời đ�. Sau nhiều năm l�m việc, một bộ luật th�nh h�nh v�o khoảng năm 1142, nhan đề Concordia discordantium canonum, đến sau quen gọi l� Decretum Gratiani. C�ng cuộc được tiếp tục do th�nh Raymunđ� Penafort (1175-1275) d�ng Đaminh theo lệnh của đức Gregori IX: Decretales Gregorii gồm 5 quyển (1234), v� cứ tiếp tục m�i. Cuối thế kỷ XV, lần thứ nhất bộ luật được ấn h�nh do luật gia Jean Chapuis: Corpus juris canonici (Paris 1499-1502).


2. Tổ chức Gi�o quyền tại c�c địa phận

Dưới quyền đức Th�nh Cha v� trực tiếp chịu tr�ch nhiệm với ng�i, trong việc cai quản c�c gi�o tỉnh v� địa phận l� gi�o chủ, tổng gi�m mục v� gi�m mục. Trong khi h�ng gi�m mục mỗi ng�y th�m quan trọng trong l�nh vực ch�nh trị, đặc biệt trong đế quốc La đức m� phần lớn c�c vị l� l�nh ch�a, th� sự độc lập trong l�nh vực t�n gi�o v� quyền b�nh gi�m mục bị suy giảm, kh�ng những v� sự tập trung quyền h�nh của ng�i Gi�o ho�ng, nhưng c�n v� l� do kh�c. Đ� l� ảnh hưởng của hội đồng kinh sĩ, sau khi được cải tổ, trở th�nh lớn trong địa phận. Uy thế của c�c kinh sĩ đ� khiến ho�ng đế v� c�c Gi�o ho�ng, cũng phải c� những hội đồng như vậy tại nhiều th�nh đường ở Đức v� Roma.[10]

Từ thỏa hiệp Worms (1122), việc tuyển cử gi�m mục trong thế kỷ XII ho�n to�n ở trong tay hội đồng kinh sĩ, sau khi gạt c�c gi�o sĩ kh�c cũng như gi�o d�n ra ngo�i. C�c kinh sĩ c�n l� cố vấn của gi�m mục, cộng t�c với gi�m mục trong việc cai quản địa phận, tựa như hồng y tại Gi�o triều Roma. Trong nhiều việc quan trọng, gi�m mục phải c� sự chấp thuận, hay �t ra phải nghe lời b�n của hội đồng. Khi t�a gi�m mục trống ng�i, hội đồng kinh sĩ cai quản địa phận cho tới khi c� chủ chăn mới. Từ đầu thế kỷ XIII, người được đề cử l�m gi�m mục thường bị cử tri đo�n đ�i hỏi một số quyền lợi, gọi l� �điều ước tuyển cử� (capitulations �leclorales). Tại nhiều địa phận, người ta c�n buộc ai muốn ứng cử gi�m mục, phải l� người thuộc h�ng qu� tộc như một điều kiện. Lề lối tuyển cử như thế dĩ nhi�n sẽ c� những hậu quả kh�ng tốt.

V� c�c gi�m mục thời đ� phải cai trị những địa phận rộng lớn, lại mắc vướng nhiều c�ng việc trần thế, như nhiệm vụ tư ph�p, ph�ng vệ xứ sở, x�y đồn đắp lũy, giữ g�n an ninh trật tự...,[11] n�n tr�ch nhiệm mục vụ được trao cho những tổng ph� tế (archidiacre) trong hội đồng kinh sĩ. Những vị n�y l� phụ t� gi�m mục, ban đầu c� rất nhiều quyền h�nh, nhưng rồi giảm bớt dần. Cuối thế kỷ XII, c�c gi�m mục tự đặt lấy cho m�nh vị tổng đại diện (vicaire g�n�ral), c�ng nhiều vi�n chức kh�c. C�c vị n�y l� những người được t�n nhiệm v� trao ph� nhiều quyền h�nh, khiến thế lực của tổng ph� tế hết dần, nhất l� sau C�ng đồng Trento (1545-63).

Để c� người trợ gi�p m�nh cả về nghĩa vụ gi�m mục, nhất l� trong những địa phận qu� đ�ng d�n, nhiều tổng gi�m mục hoặc gi�m mục c� th�m phụ t�, đ� l� những gi�m mục phụ t� hay hiệu t�a. Khi Hồi qu�n x�m chiếm Đ�ng phương v� nước T�y Ban Nha, cũng như sau n�y qu�n M�ng Cổ đ�nh ph� Đ�ng �u, nhiều vị gi�m mục bị trục xuất khỏi địa phận. Đến khi những vị n�y từ trần, T�a th�nh đặt người kế vị để duy tr� quyền h�nh xưa, cũng v� hy vọng sẽ lấy lại những t�a đ� mất. C�c gi�m mục n�y được tấn phong v� mang hiệu t�a, kh�ng c� thẩm quyền gi�m mục thật sự nhưng chỉ để cộng t�c chặt chẽ với c�c gi�m mục c� địa phận rộng lớn. Từ cuối thế kỷ XIII, nhiều gi�m mục hiệu t�a được cử l�m đại diện T�ng t�a tại nhiều địa phận, c� thực quyền hầu như một gi�m mục ch�nh t�a.

Sự th�nh c�ng lớn nhất của cuộc �c�ch mạng Gregorian� l� một h�ng gi�o sĩ đạo đức c� khả năng. Cũng như h�ng gi�m mục, c�c linh mục nắm giữ vai tr� quan trọng trong x� hội. Tại c�c quốc gia, linh mục được coi l� người trung gian giữa Thi�n Ch�a v� nh�n loại được mọi người k�nh trọng, mặc dầu c� những gương xấu c� nh�n. C�c vị kh�ng phải chỉ thi h�nh nhiệm vụ thi�ng li�ng, như ban ph�t c�c b� t�ch, giảng dạy gi�o l�, huấn luyện c�c chủng sinh, sửa phạt kẻ lầm lỗi, n�ng đỡ tội nh�n hối cải, nhưng c�n đứng ra l�m trọng t�i trong c�c vụ tranh chấp, b�nh vực kẻ h�n k�m, thương gi�p người ngh�o khổ. Sau hết, v� l� những bậc tr� thức, c�c vị điều khiển học đường, dạy đại học, viết s�ch, cổ v� nghệ thuật. Nhiều nh� thần học nhiều gi�o sư đại học, khi l�n chức gi�m mục hay Gi�o ho�ng rồi, vẫn kh�ng rời bỏ b�t nghi�n v� s�ch vở.[12]


3. Đời sống gi�o d�n

Kh�ng thời n�o gi�o d�n nhiệt th�nh sống đạo bằng thời n�y. Tinh thần Kit� gi�o đ� thấm nhuần v�o đời sống c�ng cũng như tư, ch�nh trị cũng như x� hội, kinh tế cũng như trong c�c chuyến đi th�m hiểm (Marco Polo, 1271-92). Gi�o quyền v� ch�nh quyền hợp t�c với nhau một c�ch tốt đẹp. C�c Quốc gia T�y phương đều nh�n nhận m�nh c�ng chung một �Nhiệm thể�, được đặt dưới một quyền uy tối cao thi�ng li�ng v� trần thế. Tất cả mọi người đều sung sướng v� h�nh diện tuy�n xưng đức tin C�ng gi�o, t�nh nguyện đặt m�nh dưới quyền Gi�o hội trong c�c vấn đề t�n l� v� lu�n l�.[13]

Sự nhiệt th�nh sống đạo của gi�o d�n thời n�y được minh chứng, kh�ng những bằng sự gia nhập binh Th�nh gi�,[14] m� c�n bằng hoạt động b�c �i cụ thể: nhiều cơ sở từ thiện như bệnh viện, lữ qu�n, c� nhi viện, trại phong, được thiết lập khắp nơi. C�c nh� giảng thuyết đều nhấn mạnh những c�ng t�c x� hội b�c �i. Nhiều đại th�nh xuất hiện trong thời n�y: Phan sinh, Đaminh, Anb� Cả, T�ma Aquino, Bonaventura, vua Louis IX nước Ph�p v� mẹ l� b� Blanca xứ Castilla, Elisabeth nước Hung Gia Lợi, Hedwigia xứ Silesia, Gertrudes Cả, Mechtilda Hackeborn.

Đ�y c�n l� �thời đại th�nh đường�, ch�nh những người thời đ� cũng c�ng nhận như thế. Nh� bi�n ni�n sử Raoul Glaber (+ 1050) viết: �Năm thứ ba thế kỷ XI bắt đầu, c�ng một sự việc xảy ra khắp nơi. Người ta bắt đầu t�i thiết những đại th�nh đường, mặc dầu một phần lớn những ng�i nh� được x�y cất thật ki�n cố n�y kh�ng hề cần đến... Gi�o d�n h�nh như đua nhau x�y cất những th�nh đường nguy nga đồ sộ, v� cho đấy l� vinh dự. Người ta muốn n�i thế giới đang chuyển m�nh v� cởi bỏ hết những cũ n�t, để mặc lấy một bộ �o đ�nh đầy th�nh đường mầu trắng�.[15] Chung quanh th�nh đường ch�nh t�a (cath�drale), v� đức tin, v� nhu cầu, v� nghệ thuật, v� hội đo�n, người ta x�y cất th�m nhiều th�nh đường kh�ng những trong th�nh phố m� cả ở th�n qu� nữa, để thiết lập gi�o xứ (paraecia: v�ng l�n cận) c� linh mục cai quản.

Nhưng sự thống nhất Kit� gi�o mới l� điểm đ�ng ch� � hơn hết. C�c Gi�o ho�ng lần lượt được tuyển chọn trong những nước lớn T�y Phương. Sau nhiều vị người Đức, đến những vị quốc tịch Ph�p, Anh, cũng như những vị người � hoặc Roma, l�n ng�i Gi�o ho�ng. Nhiều gi�o sư nổi tiếng ở Paris, như Pietro Lombardo, Boecius xứ Dacia, Lawrence người Anh, Henry người Đức, Alexander người Hung..., nhiều sinh vi�n từ c�c nước xa x�i đến. Trong h�ng gi�o sư đại học Paris, nổi tiếng nhất l� th�nh Anb�, th�nh Bonaventura, th�nh T�ma, John Duns Scot..., c�c ng�i đều l� người Đức, �, Anh. Ngạn ngữ thời đ� c� c�u: Gi�o ho�ng; Đức, ho�ng đế, Paris thần học. C�u ngạn ngữ cho ta thấy thời ấy t�n gi�o, văn h�a, đến cả ch�nh trị nữa, kh�ng phải chỉ ở phạm vi th�nh thị hay quốc gia, m� thực sự c� t�nh đại lục �u ch�u thống nhất. [16] C� thế binh Th�nh gi� mới được tuyển mộ tại c�c nước �u ch�u, v� họ thuộc đủ mọi sắc tộc v� ng�n ngữ. Cũng ch�nh v� thế, những cuộc h�nh hương Gierusalem, Roma, Compostella, Cologne, mới quy tụ được h�ng trăm ng�n người thuộc đủ mọi d�n tộc. Đ� l� kết quả của một đức tin, một ph�p Rửa, một quyền b�nh.

Thiện �ch chung�, �Hạnh ph�c chung�, �Tự� do chung�, đ� l� những khẩu hiệu được ghi tr�n những c�ng văn, thư từ, cũng như tr�n c�c t�c phẩm của những nh� th�ng th�i. Ch�ng t�i muốn n�i đến tinh thần cộng đo�n, một đặc điểm nữa của thời đại. Theo đ�, nhiều đo�n thể chịu chung một tr�ch nhiệm, trong khi c�ng t�c v� lao khổ chia đồng đều c�n xứng theo khả năng. �Đo�n kết g�y sức mạnh�, �Chim c� tổ, c�o c� hang; người ta c� nước, c� l�ng, ai ơi.!� Đ� l� những c�u ca dao rất quen thuộc của người thời Trung cổ, giải th�ch tại sao những th�nh thị thời ấy nh� cửa s�t nhau, đường lối chật hẹp, v�y quanh một th�p chu�ng c� Th�nh gi� tr�n đỉnh. Ngọn th�p cao kh�ng những để c� chu�ng b�o hiệu giờ cầu nguyện hoặc ngủ nghỉ l�m ăn, m� c�n để l�m điếm canh bảo vệ an ninh trật tự c�ng cộng ng�y đ�m. Mọi người đo�n kết nỗ lực đ�o h�o, đắp lũy, x�y cất chợ b�a, trại phong, thiết lập tu viện cho c�c d�ng tu �h�nh khất�[17]

Người ta kh� m� tưởng tượng ra đời sống t�n gi�o tại c�c đ� thị thời Trung cổ, nếu kh�ng biết đưa những cảnh tượng mầu sắc của c�c tổ chức nghề nghiệp. Đ�y kh�ng phải l� cảnh tượng với những tiếng rao h�ng theo lối cổ điển, hoặc những tiện bu�n b�n dọc theo đường phố m� th�i, nhưng người ta c�n chen ch�c nhau trong những th�nh đường c� đấng th�nh Bổn mạng ri�ng, với cờ hiệu v� đồng phục. Nhất l� mỗi khi c� những việc như ch�n t�ng, bầu cử, nhận hội vi�n mới, đều c� những lễ nghi cổ truyền được cử h�nh, trong đ� lời cầu nguyện pha lẫn với điệu vũ tiếng nhạc, kết th�c bằng những c�ng t�c từ thiện.[18] Gi�o quyền rất quan t�m đến những tổ chức nghề nghiệp n�y, nhất l� lo cho họ quy chế hợp với tinh thần Ph�c �m. Nhờ đấy giới học nghề được giảng dạy về gi�o l� v� nghề nghiệp, được �ng chủ đỡ đầu v� đối xử như con c�i anh em, đồng thời được bảo đảm khỏi những h� khắc v� sự b�c lột nhau.


II

C�C D�NG TU


1. Những d�ng tu �nhập thế�

Đời sống tu tr� thế kỷ XII-XIII mang một sắc th�i mới. Nhiều d�ng t�u chi�m niệm vẫn tiếp tục sinh hoạt v� trở n�n thịnh vượng trong thế kỷ XII: Chartreux, Xit�, Clairvaux.[19] C�c d�ng tu n�y tuy c� rất nhiều ảnh hưởng trong việc thống nhất tinh thần �u ch�u, nhưng chưa th�ch nghi đủ. L� tưởng xa l�nh thế gian v� sự k�n cổng cao tường vẫn c�n l�m c�c tu sĩ xa c�ch một x� hội c� chiều hướng sống cộng đo�n. V� thế sẽ xuất hiện những tu sĩ �nhập thế�, nghĩa l� những tu sĩ dấn th�n v�o đời, đụng chạm với đời để phục vụ tha nh�n, đem họ về với Ch�a.

Những d�ng tu mới n�y đều c� khu�n mặt tương tự giống nhau. Đ� l� c�ng t�c b�c �i x� hội: săn s�c bệnh nh�n, thương gi�p người ngh�o, cho kh�ch đỗ nhờ, chuộc kẻ l�m t�i, giảng dạy gi�o l�...[20] Nhiều d�ng bắt nguồn từ những c�ng t�c từ thiện v� lấy đ� l�m mục đ�ch ch�nh, người ta gọi l� d�ng �cứu tế� hay �trợ thế�. Trước hết c� d�ng Bệnh viện Th�nh Gioan th�nh Gierusalem (1113), mặc dầu v� ho�n cảnh của thời đại, d�ng tu n�y đ� biến th�nh d�ng Hiệp sĩ, nhưng vẫn kh�ng bỏ nhiệm vụ săn s�c bệnh nh�n v� thương gi�p người ngh�o. Ho�n cảnh v� nhu cầu của thời binh Th�nh gi� đ� buộc c�c tu sĩ vừa hoạt động b�c �i vừa thi h�nh qu�n sự, đặng bảo vệ, đ�n tiếp, săn s�c gi�o d�n h�nh hương. Từ đ�, khai sinh th�m nhiều d�ng tu Hiệp sĩ kh�c: d�ng đền thờ (1119), d�ng Teutonic (1128), d�ng Mang kiếm (Porte-Glaive 1202)... D�ng Th�nh Lazar� th�nh Gierusalem (1120) chuy�n săn s�c người c�i, được coi l� nổi danh nhất.

Tr�n những trục giao th�ng ở T�y phương, đặc biệt con đường h�nh hương Th�nh Giacob� th�nh Compostella, c� nhiều trạm cứu tế, qu�n trọ, đồn bốt canh g�c. D�ng Th�nh Giacob� Cầm kiếm (1170) được thiết lập, nhằm mục đ�ch bảo vệ đền th�nh v� những nơi hiểm yếu tr�n đường lộ, chống sự quậy ph� của Hồi qu�n. C�c gi�o sĩ d�ng n�y lo nhiệm vụ thi�ng li�ng tại c�c trạm cứu tế, qu�n trọ, nơi c�c tu sĩ nam nữ đ�n tiếp v� săn s�c c�c kh�ch h�nh hương. Nhiều s�ch vở n�i về c�c tổ chức h�nh hương, kể lại những nguy hiểm tr�n đường trường, c�ng những hoạt động tiếp viện lương thực, thuốc men của c�c tu sĩ d�ng n�y. [21]

Trạm cứu tế, qu�n trọ c�n được thiết lập cả ở những v�ng đối n�i. Tại đ�o Grand-St-Bernard tr�n rặng Alpes Pennines, một cộng đo�n kinh sĩ sẵn s�ng tiếp đ�n v� cơm nước cho c�c lữ kh�ch, đồng thời t�m kiếm những người thất lạc trong b�o tuyết. Vấn đề qua s�ng th� c� hội đo�n gồm những chuy�n vi�n t�nh nguyện bắc cầu. Một trong những hội đo�n n�y đầu thế kỷ XIII đ� ho�n th�nh một cầu treo thứ nhất trong lịch sử tại Saint-Gothard (rặng n�i Alpes), mở lối cho trục giao th�ng quan trọng. Miền Nam nước Ph�p c� tu hội Anh Em Bắc cầu (les Fr�res Pontifes), con c�i th�nh B�nezet (+ 1184), người đ� bắc c�y cầu qua s�ng Rh�ne tại Avignon. Tu hội n�y c�n hoạt động cho đến thế kỷ XV.

Nhưng c�c tổ chức b�c �i x� hội nhằm v�o việc săn s�c bệnh nh�n hơn cả. Nhiều phong tục, đ�i khi rất xa xưa, lưu truyền từ tổ chức n�y qua tổ chức kh�c, c�n n�i l�n tinh thần Kit� gi�o trong những c�ng t�c bệnh viện. Anh em ngh�o đ�i v� đau yếu kh�ng phải l� �kho b�u của Gi�o hội� sao ? Đ�n rước họ l� đ�n rước Ch�a Kit�. Hết mọi kẻ �mang dấu ngh�o kh� v� đau khổ� phải được tiếp rước như tiếp rước ch�nh Ch�a. Phần lớn c�c hội đo�n hoạt động trong bệnh viện đều đứng biệt lập, nhưng cũng c� một số như hội đo�n Th�nh Ant�n, Th�nh �utinh hợp t�c với nhau v� biến th�nh d�ng tu. Nổi tiếng nhất l� d�ng Ch�a Th�nh Thần do Guy th�nh Montpellier s�ng lập (1180). D�ng tu n�y đồng thời chuy�n săn s�c trẻ em bị bỏ rơi.

Thế kỷ XIII c�n c� những d�ng tu rất thực tế, với mục đ�ch t�m kiếm những linh hồn sống trụy lạc, v� x�y lại cuộc đời cho c�c kỹ nữ ho�n lương, như d�ng Th�nh Maria-Magdalena (1232) ở Đức. Việc chuộc kẻ l�m t�i c� hai d�ng lớn: d�ng Ch�a Ba Ng�i (1198) do Th�nh Gioan Matha v� th�nh Felix Valois, d�ng Cứu chuộc (1222) do th�nh Pher� Nolasc�, với sự gi�p đỡ của th�nh Raymunđ� Penafort d�ng Đaminh. Hai d�ng n�y, một đ� chuộc được h�ng triệu người, v� một đ� hy sinh tới 1.500 đấng tử đạo. Đ� l� những th�nh quả qu� b�u của một sứ mạng cấp thiết v� cao cả.[22]

Những nh� giảng thuyết lưu động cũng đ� tạo n�n một khung cảnh kh� đặc biệt cho đời sống tu tr� thế kỷ XII. C�c ẩn tu sĩ trước kia kh�ng bao giờ ra mặt với đời v� c�n xa l�nh, nhưng l�c n�y �hang động� của c�c th�y bị d�n ch�ng lũ lượt tới �hỏi thăm�, khiến c�c th�y kh�ng thể kh�ng đ�n tiếp họ, rồi đi đến việc khuy�n dạy v� cải h�a họ. Nhiều vị trở th�nh những nh� l�nh đạo tinh thần của quần ch�ng, đ� l� những nh� giảng thuyết lưu động. Bề ngo�i, nh� giảng thuyết kh�ng kh�c một ẩn tu sĩ, cũng ăn mặc th� sơ, cũng sống khắc khổ, nhưng kh�ng c�n tĩnh tu ở một chỗ nhất định. Ngược lại, c�c th�y đi khắp nơi từ xứ n�y sang xứ kh�c như những t�ng đồ rao giảng sự s�m hối, từ bỏ của cải, từ bỏ th� vui trần gian, k�u m�ời sống thanh bần v� tiết độ. Cuộc sống bỏ m�nh như thế, c�c th�y l�m gương trước: chỉ sống bằng của bố th�. H�nh ảnh của những nh� giảng thuyết n�y l�m ta li�n tưởng đến c�c nh� truyền gi�o thời Sứ đồ.[23] Ảnh hưởng của c�c th�y thật lớn lao, nhiều người từ bỏ hết mọi sự lũ lượt đi theo. Thế kỷ XII, nước Ph�p c� nhiều nh� giảng thuyết như thế: th�nh Robert th�nh Arbrisselle (+ 1117), th�nh Norbert (+ 1134) l� những nh�n vật đại diện cho c�c nh� giảng thuyết lưu động n�y, đến sau c� th�nh Đaminh v� th�nh Phansinh.


2. Những d�ng tu �h�nh khất" : th�nh Đaminh v� th�nh Phansinh

Đại C�ng đồng Latran IV (1215) đ� c� chỉ thị kh�ng cho lập th�m d�ng mới. Tuy nhi�n, c� những trường hợp v� nhu cầu cuộc sống của con người m� luật ph�p phải nhượng bộ. D�ng Thuyết gi�o do th�nh Đaminh s�ng lập đ� được ch�u ph� ng�y 22.12.1216, nghĩa l� khi C�ng đồng vừa bế mạc được một năm. Tuy nhi�n đức Th�nh Cha cũng dạy th�nh Đaminh phải chọn lấy một lề luật đ� c� sẵn, v� th�nh nh�n đ� chọn tu luật th�nh �utinh. Trong khi đ�, d�ng H�n mọn của th�nh Phansinh đ� được chấp nhận cho sinh hoạt từ năm 1209. Đ�y l� hai d�ng h�nh khất đầu ti�n.

Th�nh Phansinh (1182-1226) qu� th�nh Assisi nước � l� tấm gương phản chiếu đức khi�m nhường v� ngh�o kh� của Ch�a Kit�.[24] Th�nh nh�n chỉ l� một ph� tế, nơi hoạt động của ng�i l� giữa quần ch�ng chứ kh�ng ở chốn Gi�o triều cung điện vua ch�a hay giới đại học. Ng�i rao giảng Tin Mừng bằng đời sống ho�n to�n tho�t tục. Khu�n mặt, cử chỉ v� lời n�i của th�nh nh�n l�m người ta hồi tưởng đến những nh� truyền gi�o thời Thượng cổ. �C�y huệ ngo�i đồng Ch�a nh�n l�nh cho mặc lộng lẫy�, �Kh�ng một con sẻ n�o sa xuống đất ngo�i � muốn của Cha tr�n Trời�, đ� l� những dụ ng�n m� th�nh nh�n ưa th�ch suy gẫm mỗi khi mơn trớn một b�ng hoa hay một con vật. Th�nh nh�n tin tưởng ch�ng cũng được g�m trong biển �i �n của Ch�a như ch�nh m�nh, n�n ng�i gọi ch�ng tất cả l� anh chị em.

Cả cuộc đời th�nh Phansinh l� một b�i ca d�i ch�c tụng Thi�n Ch�a. Ng�i được thừa hưởng một di sản đặc biệt do c�c ẩn tu sĩ miền đồi n�i nước � để lại. Đ� l� t�nh y�u Thi�n Ch�a trong thi�n nhi�n, t�nh y�u Ch�a Kit� ảnh hưởng mọi tạo vật. Ch�nh Ch�a Kit� l� đấng th�nh nh�n đi t�m v� y�u mến, khi cất tiếng rao giảng cho chim trời c� biển, khi thuần h�a con ch� s�i th�nh Gubbio, hoặc sống trầm lặng trong bụi rậm tr�n n�i Alvemo. Ch�ng ta h�y đọc một đoạn B�i ch�c tụng Thi�n Ch�a trong c�c tạo vật do th�nh nh�n soạn: �Ch�c tụng Ch�a, Đấng tạo dựng vạn vật, nhất l� anh bạn mặt trời chiếu s�ng ch�ng con ban ng�y. Ch�a đ� d�ng anh để soi s�ng ch�ng con. Anh đẹp đẽ, huy ho�ng v� rực� rỡ! Anh cho ch�ng con một h�nh ảnh về Ch�a. Ch�c tụng Thi�n Ch�a, Đấng dựng n�n c� em mặt trăng v� c�c sao tr�n Trời. Ch�a đ� tạo dựng n�n họ trong s�ng, qu� y�u v� xinh đẹp. Ch�c tụng Thi�n Ch�a, Đấng dựng n�n anh bạn gi� v� kh�ng kh�. m�y mưa v� v�m trời xanh thẳm với kh�ng trung v� thời gian. Ch�c tụng Thi�n Ch�a, Đấng dựng n�n cậu em lửa dể soi s�ng ch�ng con trong đ�m tối. Cậu em đẹp đẽ hớn hở, cứng c�t v� h�ng dũng lắm thay!

Đ� l� mấy n�t h�nh ảnh đấng th�nh tổ phụ của d�ng anh em h�n mọn, một d�ng h�nh khất đầu ti�n được đức Th�nh Cha Innocent� III chấp thuận từ năm 1209, tuy hiến ph�p d�ng m�i đến năm 1223 mới được đức Honori� III ban Sắc ch�u ph�. Số tu sĩ ngay từ đầu th�m đ�ng một c�ch nhanh ch�ng. Cứ hai người một, c�c th�y H�n mọn đi giảng Tin Mừng v� sự ăn năn hối cải khắp nước � v� nhiều nước kh�c, hun n�ng l�ng đạo đức của gi�o d�n thời Trung cổ. Năm 1212, th�nh nh�n hướng dẫn th�nh nữ Clara (+ 1253) lập d�ng Nh�. Ngo�i ra, c�n rất nhiều người c� đ�i bạn nghe theo th�nh nh�n sống tu th�n tại gia, đ� l� gốc t�ch d�ng Ba Phansinh (1221). Năm 1124, th�nh Phansinh được Ch�a cho in năm Dấu, v� mang những Dấu đ� cho tới khi từ trần năm 1226, được đức Gregori IX tuy�n th�nh v�o hai năm sau.

Th�nh Đaminh (1170-1221) sinh tại Caleruega nước T�y Ban Nha, thuộc d�ng qu� ph�i Guzman. Những chi tiết về cuộc đời ni�n thiếu cũng như đời sống khắc khổ của th�nh nh�n �t được lịch sử nhắc tới. Những chi tiết ấy ngo�i ra c�n bị người ta qu�n đi ngay từ ban đầu để chỉ quan t�m đến đời sống t�ng đồ của th�nh nh�n c� qu� nhiều th�nh t�ch vẻ vang. Th�nh nh�n l� ai, kể từ khi được lịch sử n�i đến? L� một sinh vi�n thần học ở Palencia, l� một kinh sĩ tại th�nh đường ch�nh t�a Osma, l� bề tr�n cộng đo�n kinh sĩ, khi bậc gi�o sĩ n�y được cải tổ, l� thư k� th�p t�ng đức cha Diego (+ 1215) gi�m mục địa phận mỗi khi xuất ngoại, v� sau c�ng ở lại miền Nam nước Ph�p, thi h�nh sứ mạng thuyết phục lạc gi�o bằng lời giảng dạy. Lối hoạt động t�ng đồ bằng giảng thuyết của Đaminh được đức Innocent� III chấp nhận ng�y 17.11.1206.[25] Năm 1207, th�nh nh�n thiết lập lại Prouille (Aude) một trung t�m truyền gi�o, v� một nữ tu viện chuy�n cầu nguyện yểm trợ cho c�c nh� truyền gi�o, đ� l� d�ng Nh� Đaminh.

Tại miền Nam nước Ph�p, Đaminh nhận thấy r� những kế hoạch nham hiểm của lạc gi�o Albigens�, hiểu r� t�m l� của quần ch�ng, tức những người chỉ bằng l�ng chấp nhận những vị t�ng đồ, kh�ng phải chỉ giảng dạy m� c�n sống ngh�o nữa. Th�nh nh�n kh�ng lấy đ� l�m ngạc nhi�n, ng�i quyết đem luật kinh sĩ v�o đời sống t�ng đồ. Ng�i thi h�nh ch�nh s�ch đi bộ, kh�ng mang tiền bạc, ăn xin từng nh�, h�m m�nh h�nh x�c, �p dụng đường lối ấy v�o c�ng cuộc giảng dạy v� cảm h�a lạc gi�o. Cuộc đời 10 năm truyền gi�o trong ngh�o kh� đ� đem lại cho th�nh nh�n nhiều kinh nghiệm qu� b�u: vui vẻ, nhẹ nh�ng v� th�nh c�ng. Nhưng kinh nghiệm n�y sẽ được truyền lại cho một d�ng tu ng�i sắp th�nh lập.

Năm 1216, th�nh Đaminh thiết lập tu viện thứ nhất tại Toulouse, v� sang Roma xin đức Th�nh Cha ch�u ph� d�ng mới. Chỉ một năm sau, với một nh�m tu sĩ trong tay, th�nh nh�n đ� chiếm được những yếu điểm trong Gi�o hội: ở Roma cạnh Gi�o ho�ng, ở Paris, ghế gi�o sư thần học, ở Bolonia, ghế gi�o sư luật khoa. Nhờ c� ba địa điểm đ� m� d�ng Đaminh được x�y tr�n một nền tảng thật vững chắc. Trước khi qua đời (1221), Đaminh đ� ho�n tất mọi c�ng việc: một hiến ph�p ho�n bị, 8 tỉnh d�ng, 60 tu viện. Đ�y l� d�ng tu thứ nhất gồm những gi�o sĩ chuy�n giảng dạy, v� cũng l� một cuộc c�ch mạng nhằm đem lại cho h�ng linh mục việc giảng thuyết, m� xưa kia chỉ d�nh cho c�c gi�m mục. Đ� l� � nghĩa danh hiệu Thuyết gi�o m� đức Honori� III đ� đặt cho d�ng tu h�nh khất n�y, đồng thời đức Th�nh Cha đ� n�i như một lời ti�n tri rằng: �C�c tu sĩ Đaminh sẽ l� những chiến sĩ đức tin v� l� �nh s�ng mu�n d�n�.[26] D�ng Ba Đaminh d�nh cho gi�o d�n sống ngo�i đời, ch�nh thức hoạt động từ năm 1286.

Nhiều d�ng h�nh khất lần lượt ra đời trong thế kỷ XIII: d�ng Cứu chuộc (1222) do th�nh Pher� Nolasc� v� th�nh Raymund� Penafort; d�ng C�tminh (1226) do hiệp sĩ Berthold di Calabria v� th�nh Simon Stock; d�ng T�i tớ Đức Mẹ (Servites, 1233) do bảy th�nh Bonfili� Monaldi, Bonajuncta Manetto, Manetto Antellens, Amiđe�, Agucci, Sostenc�, Alexi Falconeri với sự gi�p đỡ của th�nh Pher� Verona. Đức Th�nh Cha Alexanđr� IV quy tụ tất cả c�c ẩn tu sĩ th�nh một d�ng tu mang t�n d�ng ẩn sĩ Th�nh �utinh (1256), gọi tắt l� d�ng �utinh (kh�ng n�n lẫn với c�c Kinh sĩ �utinh). Đ�y l� thế kỷ của d�ng tu h�nh khất, c�c tu sĩ nhan nhản khắp nơi trong những bộ �o tung bay, lưng thắt d�y lớn, đầu để v�ng t�c (couronne), ch�n đi giầy hoặc d�p. Nhất l� ở c�c đ� thị, nơi nhiều tu viện được x�y cất gần cổng th�nh hoặc ở ngoại �, nếu trong th�nh qu� chật chội.

Đời sống khi�m tốn thanh bần của c�c tu sĩ thật l� gương s�ng v� cảm động. Một ng�i nh�, một th�nh đường, một khu vườn, đ� l� tất cả cơ sở của tu viện. Của ăn �o mặc đều do d�n bố th� hằng ng�y. Cần phải c� tinh thần tho�t tục v� ph� th�c cao độ, cũng c�n cần phải c� l�ng quảng đại của gi�o d�n v� sự kh�n ngoan của hiến ph�p d�ng, để đời sống ngh�o kh� v� ăn xin n�y kh�ng l�m cản trở đời tu tr� việc học h�nh v� sứ mạng t�ng đồ. Khi bữa ăn gần đến, hai tu sĩ bước ra khỏi nh�, mang bị tr�n vai, v�o từng nh� xin b�nh ăn cho cả tu viện. Sau đ�, hai b�ng tu sĩ kh�c đi v�o c�c v�ng th�n qu�, đ� l� nh� giảng thuyết với người bạn đồng h�nh. Khi c�c th�y tới l�ng, người ta k�o chu�ng gọi gi�o d�n tụ họp trong th�nh đường cầu nguyện, nghe giảng, xưng tội. Sau đ�. d�n ch�ng v�y quanh c�c th�y nghe tin tức v� kể chuyện vui. Lối sống b�nh d�n của c�c th�y g�y được cảm t�nh nơi mọi người, đ�i khi th�n mật đến cả dỡn đ�a.

Cả ng�i Gi�o ho�ng cũng t�n nhiệm c�c tu sĩ n�y, v� coi những d�ng tu h�nh khất như �của ri�ng� m�nh. Đức Honori� III (1216-27), đức Gregori (1227-41) đều hết sức n�ng đỡ để c�c d�ng n�y được ph�t triển, v� c�n lấy đ� l�m mẫu mực th�ch nghi c�c nh�m ẩn tu sĩ, c�c nh� giảng thuyết lưu động, những đo�n s�m hối. Chế độ tập quyền của c�c d�ng h�nh khất - một bề tr�n tổng quyền, tổng hội, tỉnh hội, học viện, b�i sai - đ� gi�p cho Gi�o hội c� những chiến sĩ đắc lực: những �khinh binh� (expediti). Nhiều trọng tr�ch được trao cho c�c d�ng n�y, như việc thuyết phục lạc gi�o, t�a Truy t�, thực thi những Sắc lệnh cấm đo�n của T�a th�nh. C�ng việc thật nguy hiểm; nhiều tu viện phải giải thể trước sự trả th� của vua ch�a v� của lũ đ�ng, nhiều tu sĩ bị bắt bớ v� bị giết.[27]

�Chi�m niệm v� rao truyền những điều m�nh chi�m niệm cho tha nh�n� đ� l� ch�m ng�n của d�ng Thuyết gi�o. C�c tu sĩ d�ng n�y đ� tỏ ra trung th�nh với l� tưởng đ�. Trước thế kỷ XIII, những nh� giảng thuyết c�n hiếm: thường chỉ c� một số gi�m mục, đan viện phụ d�ng Biển đức, v�i ba gi�o sĩ� tại những trung t�m học tập. B�i giảng thuyết phần nhiều bằng La ngữ với lối tr�nh b�y b�ng bảy theo lối dụ ng�n Ph�c �m; đ� kh�ng phải l� �m�n ăn hợp vị� của d�n ch�ng. V� thế d�ng h�nh khất đ� ra đời đ�ng l�c, để cung cấp cho Gi�o hội những đo�n �thuyết gi�o đời mới� v� l�m thay đổi bộ mặt của giảng đ�i. Song song với việc giảng thuyết cho giới tr� thức, c�n c� lối giảng dạy bằng thường ngữ, những b�i giảng n�i thẳng, n�i thật, với giọng điệu ch�m hiếm v� h�i hước rất th�ch hợp với quần ch�ng, đ�i khi th�m v�o một t�ch truyện ngắn, khiến lời giảng linh động động v� thiết thực.[28]

Sau b�i giảng, vị giảng thuyết đi ngồi t�a H�a giải hoặc l�n b�n thờ d�ng Th�nh Lễ. Đ�y l� thế kỷ kh�ng những việc rao giảng Lời Ch�a được canh t�n, m� đời sống nhiệm t�ch của gi�o d�n cũng được khuyến kh�ch. C�ng đồng Latran IV buộc rước lễ m�a phục sinh, nhưng lại thiếu chủ chăn. �C�c con trẻ đ�i b�nh, nhưng than �i ! Hầu như kh�ng c� ai bẻ b�nh cho�, lời đức Th�nh Cha Innocent� III.[29] V� thế c�c tu viện h�nh khất mở rộng cửa đ�n rước c�c hối nh�n. Nhiều loại s�ch Summa v� Spectacula được viết ra gi�p c�c cha giải tội thi h�nh nhiệm vụ, đức Th�nh Cha cũng ban nhiều quyền h�nh. Thực tế, c�c th�y d�ng h�nh khất đ� trở th�nh những vị linh hướng chuy�n nghiệp v� m� phạm của thời Trung cổ, khiến ảnh hưởng của những d�ng tu n�y vượt xa ảnh hưởng của c�c nh� tu đức, c�c nh� truyền gi�o t�c động v� c�c tu sĩ khắc khổ thời trước. Hoạt động của c�c th�y c�n vượt ra ngo�i bi�n giới �u ch�u Kit� gi�o nữa, đ� l� sự hợp t�c với nhiều d�ng tu kh�c trong c�ng cuộc truyền gi�o cho d�n ngoại.


3. C�ng cuộc truyền gi�o tại miền đ�ng Bắc �u ch�u, ở � ch�u v� Phi Ch�u.

Thế kỷ XIII c�ng cuộc truyền gi�o của c�c tu sĩ tiếp tục mở rộng bi�n cương, sang c�c nước v�ng duy�n hải Baltic, v� đạt được kết quả. B�n cạnh c�c th�y d�ng Xit�, c�n c� những tu sĩ h�nh khất Phan sinh v� Đaminh, những nh� truyền gi�o kh�ng phải chỉ giảng Tin Mừng m� c�n hoạt động văn h�a nữa. Cả c�c Gi�o ho�ng, nhất l� đức Innocent� III, cũng rất quan t�m đến c�c nước Bắc �u, � ch�u v� Phi ch�u, c�c ng�i d�nh lấy việc l�nh đạo c�ng cuộc truyền gi�o n�y.[30]

Tại xứ Livonia linh mục kinh sĩ Anb� Buxhovden đ� thu được những th�nh quả quan trọng. Ng�i được tấn phong chức gi�m mục năm 1199, đức Th�nh Cha Innocent� III cũng gởi đến một đạo binh Th�nh gi�. Năm 1201, đức cha Anb� x�y dựng th�nh Riga v� đặt t�a Gi�m mục ở đ�. Năm sau, ng�i thiết lập d�ng tu Hiệp sĩ Mang kiếm (Porte-glaive) theo hiến ph�p d�ng Dền thờ, gi�p ng�i cải h�a d�n tộc xứ Estonia, Semigalla, Courland v� đảo Oesel. Anb� th�nh Riga (+ 1229) l� vị đại gi�m mục thừa sai thời Trung cổ, trong 30 năm hoạt động t�ng đồ, ng�i đ� l�m đức tin cũng như văn minh Kit� gi�o b�nh trướng khắp v�ng Bắc �u. Năm 1255, đức Th�nh Cha Alexandr� IX thiết lập t�a lổng gi�m mục Riga cho c�c nước kể tr�n c�ng với nước Phổ (Prussia).

T�ng đồ của d�n Phổ l� cha d�ng Xit� Christian Oliva, được đức Th�nh Cha Innocent� III sai đến năm 1209, được tấn phong gi�m mục năm 1215. Nhưng những kết quả đầu ti�n đ� bị người ngoại gi�o nổi dậy t�n ph� b�nh địa, binh Th�nh gi� hầu như bất lực. Đức cha Christian v� quận c�ng Conrad Masovia người Ba Lan năm 1226 phải k�u gọi sự tiếp tay của d�ng Hiệp sĩ Teutonic. Vị tổng thủ l�nh Herman Salza (1209-39) l� một ch�nh trị gia c� biệt t�i, đ� đảm nhiệm c�ng việc kh� khăn n�y, dưới sự bảo trợ của ho�ng đế Friedrich II, với sự khuyến kh�ch của đức Gregori IX. Sau 50 năm chiến đấu (1230-83), c�c Hiệp sĩ Teutonic được c�c Hiệp sĩ Mang kiếm xứ Livonia tiếp sức, rồi cả hai hiệp nhất th�nh một (1237), đ� th�nh c�ng trong việc khuất phục d�n Phổ. B�n cạnh những hoạt động qu�n sự v� khai hoang c�n c� c�c cha d�ng h�nh khất, nhất l� d�ng Đaminh, hoạt động truyền gi�o.

Từ đầu năm 1243, sứ thần T�a th�nh Guillerma, gi�m mục th�nh Modena, thiết lập t�a gi�m mục tại Culm, Pomerania, Ermland v� Samland, tất cả đều đặt dưới quyền tổng gi�m mục th�nh Riga. D�ng Hiệp sĩ Teutonic giữ cho m�nh hai phần ba đất đai đ� chiếm được, c�n một phần ba d�nh cho c�c gi�m mục. Đ� l� nguồn gốc Quốc gia Teutonic tr�n đất Phổ, m� vị tổng thủ l�nh d�ng đương nhi�n th�nh một �ng vua đ�ng đ� tại th�nh qu�ch Marienburg từ năm 1309. Sau một thời rất thịnh vượng v� thế lực, Quốc gia Teutonic bắt đầu suy yếu từ cuối thế kỷ XIV do những cuộc tranh gi�nh nội bộ, kỷ luật lỏng lẻo, rồi chiến tranh với Ba Lan v� Lituania. Năm 1525, vị tổng thủ l�nh Anb� Brandenburg theo gi�o ph�i Luther, d�ng Teutonic tan vỡ từ đấy.

Lituania l� d�n tộc cuối c�ng ở Đ�ng �u theo đạo C�ng gi�o. �ng ho�ng Mindowe theo đạo năm 1250, do hoạt động của c�c hiệp sĩ Teutonic, v� �ng được đức Th�nh Cha Innocent� IV phong vương. Đức Th�nh Cha cũng cử đến xứ Lituania một gi�m mục (1253). Nhưng h�nh như Mindowe về sau đ� bỏ đạo, n�n Kit� gi�o chỉ được b�nh trướng sau đ� tr�n 100 năm, khi �ng ho�ng Jagellon chịu ph�p Rửa tại Cracovia (1386), để kết h�n với Hedwidgia, nữ ho�ng Ba lan. Đạo C�ng gi�o được tuy�n bố l� quốc gi�o, d�n Lituania theo đạo hầu hết, mặc dầu chỉ bề ngo�i. T�a tổng gi�m mục được thiết lập ở Wilna, Jagellon lấy vương hiệu l� Wladislas V (1386-1434) cai trị cả Ba Lan lẫn Lituania, đ�nh bại c�c hiệp sĩ Teutonic tại trận Tannenberg năm 1410.

Binh Th�nh gi� v� nhất l� cuộc x�m lăng ồ ạt của qu�n M�ng Cổ v�o Đ�ng �u từ năm 1223 (chỉ được cản lại sau trận Liegnitz ở Silesia năm 1241), đ� khiến Gi�o hội phải quan t�m đến c�ng cuộc truyền gi�o � ch�u. Đức Th�nh Cha Innocent� IV v� vua th�nh Louis nước Ph�p đ� nhiều lần sai c�c cha d�ng Phansinh v� Đaminh đi điều đ�nh với người M�ng Cổ v� t�m c�ch giảng đạo cho họ. Hai cha d�ng Phan sinh Jean de Plan-Carpin (1245-47) v� Guillaume de Rubroek (1253-55) đ� can đảm đến tận chỗ đ�ng qu�n của vua M�ng Cổ tại Karakoroum.[31]

Cuộc th�m hiểm của Marco-Polo (1271-92) đ� l�m cho T�y phương hiểu biết th�m về Đ�ng �, nhất l� Trung Hoa: nhiều tin tức thật hấp dẫn. Cha d�ng Phansinh Jean de Montcorvin được lệnh l�n đường v� tới Bắc Kinh năm 1294, truyền gi�o ở đấy cho tới khi qua đời, với sự cộng t�c của nhiều cha c�ng d�ng, như Arnold th�nh Cologne, ch�n phước Odoric Pordenone, v� đ� thu lượm nhiều kết quả. Nhiều th�nh đường được x�y cất ở Bắc Kinh v� nhiều nơi kh�c. Năm 1307, đức Th�nh Cha Clement� V đặt cha De Montcorcin l�m tổng gi�m mục v� sau th�m nhiều cha d�ng Phansinh l�m gi�m mục phụ t�, song chỉ c� bốn vị tới nơi. Kh�ng may, c�ng cuộc truyền gi�o đang tiến triển, th� vua M�ng Cổ bị lật đổ: nh� Minh l�n cầm quyền (1368), coi đạo C�ng gi�o như kẻ th�.

Việc cứu đất th�nh cũng l� cơ hội để th� nghiệm c�ng cuộc truyền gi�o cho d�n Hồi ở Syria v� Bắc Phi. Trong cuộc viễn chinh Damietta năm 1219, th�nh Phansinh Assisi đ�ch th�n tới gặp vua Hồi gi�o El-Kamil ở Ai Cập để thuyết phục �ng, nhưng việc kh�ng th�nh. Năm cha d�ng Phansinh sang Maroc đ� được ph�c tử đạo ở đấy (1220); nhiều thừa sai kh�c sang sau.

D�ng Đaminh cũng hoạt động kh�ng k�m trong thế giới Hồi gi�o ở Tiểu � v� Bắc Phi, c�c cha đặc biệt ch� � đến giới tr� thức; năm 1250 nhiều học viện Ả Rập (Studium Arabicum) được thiết lập ở Barcelona, Valencia, Tunis. Người ta để � đến c�ng việc hộ gi�o, qua tờ tạp ch� Propugnaculum Fidei của cha Ricoldo Monte Croce (+ 1320) chống s�ch Coran, v� tạp ch� Pugio Fidei của cha Raymond Martin (+ 1279) chống Do Th�i gi�o, đ� l� những t�i liệu gi� trị d�nh cho m�n Đ�ng phương học Trung cổ. Ngo�i ra c�c cha c�n th�nh lập �Đo�n Viễn chinh v� Ch�a Kit�� (Societas Peregrinantium pro Christo, 1300); rồi hai tu hội �Anh em Thống nhất Th�nh-Gregori� (1337) v� �Anh em Armeno Th�nh-Balili�� (1356), đ� l� những hội đo�n truyền gi�o hoạt động trong nhiều thế kỷ. Năm 1318, đức Gioan XXII thiết lập gi�o tỉnh Sultanich (Ba Tư) v� trao cho c�c thừa sai Đaminh, nhưng chỉ tồn tại cho đến nạn hắc tử dịch (1348).

Ở Tunis, Raymundo Lullo, triết gia nổi tiếng d�ng Ba Phansinh bị n�m đ� chết năm 1316, sau một thời gian hoạt động t�ng đồ rất hăng say. Lullo kh�ng tựa v�o c�c cuộc �th�nh chiến� để truyền gi�o, cho bằng d�ng phương tiện si�u nhi�n v� văn h�a. Một chủng viện Phansinh được thiết lập tr�n đảo Majorca, v� sau đ� một trường dạy ng�n ngữ Đ�ng phương (Hy Lạp, Ả Rập, Hy B�, Syriac). Nhưng v� Islam đ� c� luật cấm c�c thừa sai C�ng gi�o kh�ng được truyền b� đạo tr�n đất Hồi gi�o, n�n c�c ng�i chịu thu hẹp hoạt động t�n gi�o với nh�m gi�o d�n cũ v� những t�n hữu bị bắt l�m t�i.


III

PHỤNG VỤ, NGHỆ THUẬT, VĂN H�A


1. B� t�ch phụng vụ v� s�ng đạo
[32]

C� nhiều thay đổi trong việc ban ph�t b� t�ch Th�nh Thể. Từ thế kỷ XII, gi�o d�n thường chỉ c�n được rước M�nh Ch�a dưới h�nh b�nh mỏng nhỏ; việc rước lễ hai h�nh bỏ dần. Cũng từ đấy Gi�o hội chỉ cho trẻ con đến tuổi kh�n (10 hoặc 7 tuổi trở l�n) mới được tới Tiệc Th�nh; th�i quen cho trẻ sơ sinh rước lễ kh�ng c�n ở T�y phương từ thế kỷ XII n�y. Sự thay đổi nhằm tr�nh những lạm dụng v� bất k�nh, đồng thời để gi�o d�n trọng k�nh Th�nh Thể hơn. Một Sắc lệnh của c�ng đồng gi�o tỉnh Paris (khoảng từ 1196 đến 1208) chống lại quan điểm sai lầm của một số nh� thần học về sự �Truyền ph�p�, đ� dạy chủ tế n�ng B�nh Th�nh l�n cao, để mọi người nh�n thấy v� thờ lạy. Th�i quen quỳ gối trước Th�nh Thể khi đem cho bệnh nh�n cũng c� từ thế kỷ XI. Đức Th�nh Cha Gregori X (1271-76) truyền gi�o d�n phải quỳ trong Th�nh Lễ từ khi d�ng B�nh Th�nh l�n cho tới khi rước lễ, trừ m�a Gi�ng sinh v� Phục sinh.

Sự năng rước lễ kh�ng tiến theo việc t�n s�ng Th�nh Thể. Thời n�y cũng như nhiều thế kỷ trước, gi�o d�n rất �t rước lễ. Thế kỷ XI-XIII, cả những gi�o d�n đạo đức v� tu sĩ chỉ tới Tiệc Th�nh v�o khoảng từ 3 đến 6 lần mỗi năm. Th�i quen cất giữ M�nh Th�nh trong nh� tạm để cho gi�o d�n rước lễ v� k�nh viếng, chỉ bắt đầu c� từ thế kỷ XI.

Đại c�ng đồng Latran (1215) c� luật truyền cho mọi gi�o d�n đến tuổi kh�n, phải xưng tội với cha sở m�nh mỗi năm �t l� một lần v� rước lễ trong m�a Phục sinh. Sự si�ng n�ng d�ng Th�nh Lễ của c�c linh mục cũng giảm s�t, khiến c�ng đồng Latran IV phải than tr�ch, v� c� những linh mục chỉ d�ng Th�nh Lễ c� bốn lần trong một năm. Nhiều c�ng đồng miền thế kỷ XIII phản đối th�i quen d�ng Th�nh Lễ hai ba lần trong một ng�y, v� chỉ cho ph�p d�ng hai Lễ trong ng�y Gi�ng sinh v� Phục sinh, v� nhu cầu gi�o d�n m� th�i. Năm 1260, sau ph�p lạ xảy ra ở Bolsena (�), đức Urban IV lập ra lễ Th�nh Thể, v� th�nh T�ma Aquino soạn c�c kinh cho ng�y lễ n�y.

Gi�o l� thần học về sự biến đổi bản t�nh b�nh v� rượu th�nh M�nh v� M�u Ch�a được x�c định, chống lại B�renger th�nh Tours (1076). Từ đấy xuất hiện danh từ transsubstantiatio (biến thể), đầu ti�n do gi�m mục St�phane th�nh Autun (+ 1140), đến sau được c�c nh� thần học v� gi�o luật sử dụng từ hạ b�n thế kỷ XII, v� C�ng đồng Latran IV ch�nh thức chấp nhận.

Kinh nguyện của gi�o d�n cho tới thế kỷ XII thường l� hai kinh Lạy Cha v� Tin k�nh, rồi th�m kinh K�nh mừng Maria v� Lạy Nữ vương. Từ cuối thế kỷ XI, kinh Lạy Nữ vương được coi l� bản th�nh ca của c�c nh�m h�nh hương, l� h�nh kh�c của binh Th�nh gi� Gierusalem v� như qu�n ca của thủy qu�n T�y Ban Nha.

Những h�nh phạt nặng nề để đền tội đ� giảm bớt từ những thế kỷ đầu thời Trung cổ, v� c�n được giảm hơn nữa từ khi Gi�o hội ban �n x�. Đ� l� sự tha thứ một phần h�nh phạt, m� lẽ ra phải chịu ở đời n�y hoặc trong lửa luyện ngục. Sự tha thứ n�y c� thể ban ngo�i t�a H�a giải v� chỉ ban cho những ai đ� được sạch tội. Để lĩnh �n x�, người ta phải l�m những việc thiện đ� chỉ định, như cầu nguyện, ăn chay, bố th�, g�p c�ng g�p của trong việc x�y cất hoặc tr�ng tu th�nh đường, h�nh hương, gia nhập binh Th�nh gi�... C� tiểu �n x� v� đại �n x�, l� khi tha một phần hay tất cả h�nh phạt. Việc ban �n x�, nhiều khi đi tới chỗ �lạm ph�t�, nhất l� từ cuối thế kỷ XIII, khiến nhiều nh�n vật như th�nh Anb� Cả, Berthold th�nh Ratisbon, Humberto di Romanis, phải c� những lời than tr�ch v� phản đối; nhiều c�ng đồng miền cũng l�n tiếng can ngăn.

Việc s�ng k�nh những vật kỷ niệm th�nh v� h�i cốt c�c th�nh rất thịnh trong những thế kỷ XII v� XIII, nhất l� từ khi binh Th�nh gi� đem rất nhiều kỷ vật từ Đất Th�nh về T�y phương. Từ đ� sinh ra sự mua b�n vật th�nh; khiến Gi�o quyền phải can thiệp v� ngăn ngừa. Việc t�n s�ng Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thi�n Ch�a, được c�c nh� thần học v� c�c d�ng tu cổ v�. Lễ Đức Mẹ V� nhiễm Nguy�n tội đ� c� ở Byzantin từ thế kỷ VIII, rồi ở Ph�p v� Anh thế kỷ XI v� XII, nhưng c�n c� nhiều người chưa chấp nhận. Thế kỷ XIII, lễ đ� được mừng nhiều nơi: năm 1263, d�ng Phan sinh ch�nh thức chấp nhận v� truyền b�. Sự� s�ng k�nh kinh M�n c�i cũng bắt đầu từ tiền b�n thế kỷ XIII, nhưng m�i hai thế kỷ sau mới thực sự phổ biến do ch�n phước Alano Rupe (+ 1475) d�ng Đaminh, v� ch�nh ng�i đ� minh chứng th�nh Đaminh l� người s�ng lập v� truyền b� đầu ti�n. Ngo�i ra c�n c� phong tr�o h�nh hương Loretta, viếng ng�i nh� Đức Mẹ, m� người ta tin l� năm 1291 đ� được Thi�n thần đưa từ Nazar�t đến Tersatto (Croatia), 3 năm sau đến Recanati, v� năm 1295 đến Loretta gần th�nh Ancona.

Nhưng đời sống đạo đức bắt đầu xuống dốc từ giữa thế kỷ XIII. Cuộc tranh chấp l�u d�i giữa nh� Hohenstauphen v� ng�i Gi�o ho�ng l�m lay chuyển mọi cơ cấu v� trật tự x� hội. Đế quốc La Đức cũng như ng�i Gi�o ho�ng mất đi nhiều uy t�n v� thế lực. Nước Ph�p mỗi ng�y th�m mạnh, vượt cả ng�i Gi�o ho�ng về ch�nh trị. T�m trạng người d�n chống ảnh hưởng của Gi�o hội trong c�c vấn đề quốc gia.

Người ta chỉ tr�ch h�ng gi�o sĩ v� c�c d�ng tu. Nhiều tu viện sa s�t kh�ng c�n theo đ�ng đường lối của vị s�ng lập. Nhiều gi�m mục, kinh sĩ, phần lớn thuộc h�ng qu� tộc, sống cuộc đời xa hoa. H�ng gi�o sĩ cấp dưới l�m t�nh trạng lệ thuộc v� ngh�o khổ, nhiều người kh�ng được huấn luyện chắc chắn, thiếu cả một nền đạo đức cần thiết. Đức Th�nh Cha Innocent� IV, trong đại C�ng đồng Lyon I (1245), đ� gọi đời sống h�ng gi�o sĩ c�c cấp bấy giờ l� một trong năm vết thương của Gi�o hội, v� l� nguy�n nh�n ch�nh g�y đau khổ cho Th�n M�nh Ch�a Kit�. Tại c�ng đồng Lyon II (1274), đức Gregori X tuy�n bố đời sống gương xấu của h�ng Gi�o phẩm phải g�nh chịu tr�ch nhiệm sự suy vong của thế giới.

Robert Grosset�te, gi�m mục th�nh Lincoln, trong b�i diễn văn �De Corruptelis Ecclesiae� đọc trước mặt đức Th�nh Cha Innocent� IV tại Lyon (1250), đ� can đảm chỉ tr�ch sự qu� lạm trong việc chước chuẩn v� ban chức tước, nhưng kh�ng được mấy kết quả. Tại c�ng đồng Lyon II, cha Humberto di Romanis, nguy�n bề tr�n tổng quyền d�ng Đaminh, cũng đệ tr�nh một chương tr�nh cải tổ được bi�n soạn theo lệnh của đức Gregori X. Trong đ�, cha đặc biệt đả k�ch sự nghỉ việc l�u ng�y của Gi�o triều, sự b�y ra lắm ng�y lễ nghỉ việc, đời sống xa hoa v� thiếu tư c�ch của h�ng Gi�o phẩm, sự dốt n�t v� bất xứng của một số linh mục cai quản gi�o xứ, v.v... Nhiều kiến nghị kh�c n�i l�n t�nh trạng đen tối của Gi�o hội, tố c�o những lạm dụng trong việc ban ph�t b� t�ch, t�n s�ng xương th�nh giả, sự phạt vạ tuyệt th�ng một c�ch qu� n�ng nảy v� qu� nhiều, nhất l� đời sống lắm gương xấu của nhiều gi�o sĩ.


2. Nghệ thuật th�nh

Lối kiến tr�c Roman đ� c� từ thế kỷ VIII, đặc biệt nhất trong xứ Lombardia. C�c cha d�ng Biển đức l� những người truyền b� lối kiến tr�c n�y ở T�y phương. N� c�n được c�c vua ch�a, gi�m mục, đan viện phụ cổ v�, v� thế đ� trở n�n rất thịnh vượng trong những năm từ 1080 đến 1200. C�c đan viện Cluny, Hirsau v� Xit� đ� g�p phần quan trọng trong ng�nh kiến tr�c n�y. Những t�a nh� kiểu Roman ở Ph�p, như đại th�nh đường Clermont v� Saint-Sernin Toulouse; ở � c� th�nh đường Modena, Parma, Pisa; ở Đức c� th�nh đường Mainz, Worms, Tr�ves, Spira, đan viện Marie-Laach. [33]

Dần dần c� một kiến tr�c lối mới h�nh ti�m cung, khung v�m cứng c�t, cột cuốn theo h�nh cung, xuất hiện trước hết ở Ph�p quốc. Từ thế kỷ XII, n� h�nh th�nh một lối kiến tr�c mang t�n Gothic. Kiểu n�y xuất xứ từ miền Bắc nước Ph�p, hay n�i đ�ng hơn xứ Ile-de-France v� Picardie. C�ng tr�nh cổ k�nh nhất c�n lại tới ng�y nay l� vương cung th�nh đường Saint-Denis ở Paris, thực hiện năm 1140, do đan viện phụ Suger (1081-1151). Sau đ� l� vương cung th�nh đường Notre-Dame de Paris, th�nh đường Sen v� Laons thuộc thế kỷ XII. Đại th�nh đường Canterbury b�n Anh quốc cũng x�y cất theo lối n�y (1177).

Sang thế kỷ XIII, lối kiến tr�c Gothic n�i tr�n được phổ biến khắp nơi cho đến hết thế kỷ XV, ri�ng ở miền Nam nước Đức th�m một thế kỷ nữa. Đ� l� lối kiến tr�c h�a điệu, trang nghi�m, hướng thượng, như muốn l�i k�o t�m hồn con người l�n cao, thanh tho�t khỏi trần tục. N� l�m vẻ vang nghệ thuật Kit� gi�o v� l�m phong ph� nền văn minh Trung cổ.

Ở Ph�p quốc, kiểu Gothic được ph� diễn tr�n những ng�i th�nh đường lộng lẫy đồ sộ th�nh Amiens, Chartres, Reims, Bourges v� nguyện đường cung điện vua th�nh Louis (Sainte-Chapelle), cũng như th�nh đường Salisbury b�n Anh quốc, v� nhiều ng�i đền kh�c. Ở Đức ngược lại, kiểu Gothic đầu ti�n l� th�nh đường Ste-Elisabeth ở Marburg (1235-83) v� th�nh đường Đức B� ở Tr�ves (1242-57): rồi đến những đại th�nh đường ở Cologne Freiburg, Ratisbon, v� ng�i th�nh đường bằng gạch Ste-Marie ở Lubeck. B�n T�y Ban Nha, kiến tr�c Gothic c� kiểu ri�ng được thấy r� n�t tại những đại th�nh đường ở Burgos, Le�n v� Toledo. Ở � lối kiến tr�c n�y cũng đ� c� từ thế kỷ XIII, như đại th�nh đường th�nh Sienna, Oviedo, Florencia v� những th�nh đường thuộc c�c d�ng h�nh khất; nhưng n� c� nhiều n�t ri�ng biệt kh� quan trọng, như t�a nh� rộng r�i, th�p chu�ng rời, v.v...

Về sự tr�nh b�y b�n trong th�nh đường, người ta thấy c� cung nguyện (choeur), nhất l� trong những th�nh đường tu viện, được t�ch ri�ng bằng một bức tường, tr�n bức tường đ� nổi bật l�n một giảng đ�i hoặc một y�n đọc s�ch, gọi l� lectorium hay doxal. Thế kỷ XIII, khi c�c tu sĩ d�ng h�nh khất đảm nhiệm việc giảng thuyết, người ta mới đặt giảng đ�i ở khoảng giữa th�nh đường.

B�n thờ ch�nh c� t�n lọng theo lối xưa, c�n duy tr� cho tới thế kỷ XIII, c� nơi l�u hơn nữa. Nhưng từ thế kỷ IX người ta th�m b�n nhỏ để đặt h�i cốt th�nh. Đến sau, dưới thời kiến tr�c Gothic, người ta thay thế b�n nhỏ v� đơn giản ấy bằng những c�ng tr�nh đi�u khắc v� hội họa. Ngo�i b�n thờ ch�nh, c�n nhiều b�n thờ cạnh lớn hay nhỏ.

Trong 10 thế kỷ đầu, người ta tr�nh tiếng �thờ tượng ảnh gỗ đ� như người ngoại đạo, n�n nghệ thuật đi�u khắc �t thấy trong c�c th�nh đường C�ng gi�o; Đ�ng phương c�ng kh�ng c�. Nhưng từ thế kỷ XII, những t�c phẩm đi�u khắc bắt đầu xuất hiện để trang tr� những đầu cột, cửa lớn, giảng đ�i, giếng Rửa tội. Lắm c�ng tr�nh tinh vi vĩ đại như bức chạm nổi trong th�nh đường Saint-Sernin ở Toulouse, cửa lớn th�nh đường V�zelay v� Autun, cửa th�nh đường đan viện Saint-Denis. Ở �, ng�nh đi�u khắc tiến bộ hơn cả, nhờ c� sự nghi�n cứu cảnh thi�n nhi�n v� sự trở lại thời cổ. Hai cha con họ Pisano, Niccolo (1206-80) v� Giovanni (1250-1328) l� những nh� đi�u khắc đầu ti�n của nước �. Niccolo l� t�c giả những giảng đ�i hai th�nh đường Pisa v� Sienna, c�n Giovanni l� t�c giả m�i tr�n th�nh đường th�nh Sienna v� giếng Rửa tội ở Pisa.

Tr�n những bức tường rộng lớn của c�c th�nh đường đều c� những họa phẩm. Sau thời khủng hoảng do b� Ph� ảnh tượng, ng�nh hội họa đ� tiến tới kh� ho�n bị. Ở �, hội họa c� t�nh chất kh�ng lệ thuộc Byzantin, với nhau họa phẩm thật linh động. Cimabue (1240- 1302) người th�nh Florencia đại diện cho c�c họa sĩ thời n�y. Nghệ thuật tiểu họa (miniature) cũng để lại nhiều t�c phẩm gi� trị c�n lưu giữ tới ng�y nay. Nghệ thuật vẽ tr�n kiếng bắt đầu c� từ thế kỷ IX, nay trở n�n kh� thịnh vượng tại Ph�p v� Đức.

Thi phẩm của c�c thi sĩ C�ng gi�o thế kỷ XII-XIII đều thấm nhuần tinh thần Ph�c �m, v� hướng về ch�n l� bất diệt. C�c thi nh�n d� l� gi�o sĩ hay gi�o d�n đều tr�nh b�y đường lối phượng thờ Thi�n Ch�a v� phục vụ tha nh�n. Nổi tiếng nhất l� thi sĩ Dante Alighieri (1265-1321) qu� th�nh Florencia, t�c giả cuốn Divina Comedia (1307-21). �ng diễn tả một cuộc h�nh tr�nh tưởng tượng qua hỏa ngục, luyện ngục, Thi�n đ�ng, theo ảnh hưởng của thi h�o Virgilius v� Beatrix, người bạn g�i của �ng khi c�n thanh ni�n. �ng tr�nh b�y nhiều vấn đề cao si�u thuộc vũ trụ quan thời Trung cổ, tuy theo quan điểm ri�ng của �ng, nhưng rất gi� trị. Đ� l� một �ng thi ca, s�nh được với những t�c phẩm gi� trị của c�c nh� kinh viện học, dựa theo triết học của Aristot v� thần học của th�nh T�ma, nhưng về một v�i kh�a cạnh �ng chịu ảnh hưởng của th�nh �utinh v� Platon.[34]


3. Kinh viện học ph�i

Trong những thế kỷ đầu thời Trung cổ, khoa học th�nh hầu như chỉ giới hạn trong việc ch� giải những bộ s�ch đ� c� sẵn, chứ kh�ng c� khảo cứu v� s�ng kiến, ngoại trừ một �t vấn đề thần học được đem ra b�n c�i. Tuy nhi�n, n� cũng để lại nhiều t�i liệu l�m căn bản, để c�c người đi sau c� thể dựa v�o đ� được mở rộng th�m kiến thức v� s�ng kiến.

Từ cuối thế kỷ XI, nhờ tiếp x�c mật thiết với đời sống t�n gi�o v� văn minh, một nh�m tr� thức mới mẻ v� độc đ�o xuất hiện, tuy thuộc nhiều khuynh hướng kh�c nhau nhưng c� tinh thần hiệp nhất. Đ� l� Kinh viện học ph�i (Scolastique), cũng gọi l� ph�i Khoa học kinh điển. Danh từ n�y n�i l�n một khoa học mới được khai sinh do nhu cầu trong việc giảng dạy triết học v� thần học. Thực ra n� ph�t sinh từ những cố gắng của c�c nh� biện chứng học thế kỷ XI, cũng như c�c đối thủ của họ (Fulbert th�nh Chartres, B�renger, Lanfranc v.v ...), v� bắt nguồn từ th�nh �utinh, Boecius, th�nh Gioan Đamascen v� John Scotus Erigena.[35]

Học ph�i n�y chủ trương một khoa triết thần, trong đ� l� tr� v� đức tin, l� luận v� mặc khải đi đ�i với nhau. Chứng điển, đức tin, l� luận l� những �cấu th�nh yếu tố� (�l�ments constitutifs) của n�, l� cứ điểm để x�c nhận một ch�n l�. Ch� giải, tranh luận l� những h�nh thức căn bản hoạt động của học ph�i. Phương ph�p đặc biệt của n� l� tranh luận c� biện chứng v� tổng hợp c� hệ thống. Học ph�i c�n chủ trương triết học phải gi�p l� tr� đi s�u v�o đức tin. Triết học, tuy người ta gọi l� đầy tớ của thần học� (ancilla theologiae), nhưng vẫn c� mục đ�ch, phương ph�p v� gi� trị ri�ng. N�i cho đ�ng, triết học l� bạn v� trợ t�, chứ kh�ng phải đầy tớ, c�ng kh�ng phải l� n� lệ của thần học. Chắc chắn học ph�i kh�ng khỏi c� những sai lầm v� khuyết điểm, n� hay lạm dụng thế gi� v� cố chấp b�m v�o thuần l�, đến độ coi thường sự ph� ph�n của lịch sử v� thực nghiệm. Tuy nhi�n, lịch sử vẫn phải c�ng nhận Kinh viện học ph�i đ� c� một thời oanh liệt, v� để lại một sự nghiệp kh�ng thể x�a mờ.

Kinh viện học ph�i hoạt động mạnh nhất ở Ph�p, một Quốc gia tiến bộ hơn cả ở �u ch�u, trong l�nh vực t�n gi�o cũng như văn h�a. Nhưng �tổ phụ� của học ph�i lại l� th�nh Anselm� (1033- 1109) qu� xứ Lombardia, tổng gi�m mục th�nh Canterbury, gi�o chủ Anh quốc, kế vị Lanfranc. Ch�m ng�n của ng�i trong l�nh vực khoa học l�: �T�i kh�ng t�m hiểu để tin, nhưng t�i tin để hiểu�. Th�nh nh�n để lại nhiều s�ch loại thần học v� hộ gi�o, đặc biệt cuốn Tại sao Thi�n Chứa l�m Người? (Cur Deus hom), b�n về ơn cứu chuộc. Trong số c�c m�n đệ của th�nh Anselm�, người ta ch� � đến gi�o sư thần học Anselme th�nh Laon (+ 1117), t�c giả nhiều s�ch ch� giải Th�nh Kinh, thần học, như cuốn Ch� giải th�ng thường v� xen kẽ (Glose ordinaire et interlin�aire). Guillaume de Champeaux (1068-1121), học tr� của Anselme th�nh Laon, cũng l� gi�o sư thần học tại th�nh đường ch�nh t�a Paris, v� l� người s�ng lập tu viện c�c kinh sĩ v� trường Saint-Victor Paris. Guillaume đến sau l�m gi�m mục Ch�lon-sur-Marne, v� l� bạn th�n của th�nh Benađ�. �ng l� đại diện cho ph�i duy thực cực đoan trong vấn đề �� niệm tổng xưng� (universaux).[36]

Triết gia nổi tiếng thế kỷ XII, cũng l� nh� thần học c� thế gi�, l� đan sĩ Pierre Ab�lard (1079-1142) học tr� của Guillaume de Champeaux. Ab�lard kh�ng phải l� người chủ trương thuyết duy danh (nominalisme) như người ta tưởng. �ng chống lại ph�i duy thực (r�alisme) v� thay thế bằng một học thuyết kh�c: kh�i niệm luận (conceptualisme), nghĩa l� �ng muốn đứng giữa hai chủ thuyết. Theo �ng, �� niệm tổng xưng� l� những kh�i niệm của tinh thần. Sau đ�y l� những t�c phẩm ch�nh của �ng: Biện chứng luận, Lu�n l� học, Thần học nhập m�n, Thần học Kit� gi�o. Hugues de Saint-Victor (+ 1141) cũng l� một nh� thần học nổi tiếng thế kỷ XII, đồng thời l� nh� biện chứng học v� thần b� học, gi�o sư tại đan viện Saint-Victor Paris. Nhưng thời danh hơn cả c� lẽ l� Pietro Lombardo (1100-1160), sinh qu�n tại Lumello xứ Lombardia, từng giữ chức gi�o sư thần học đại học Paris, trước khi l�n chức gi�m mục. T�c phẩm nổi tiếng nhất của �ng l� bộ Bốn quyển L� đo�n (Sententiarum Libri quattuor), được trọng dụng tại c�c trường, v� được th�nh T�ma Aquin� ch� giải.

Thế kỷ XIII l� thời ho�ng kim của Kinh viện học ph�i, nhờ c� nhiều viện đại học được thiết lập, với sự tham gia của c�c d�ng tu h�nh khất. Cho tới khi đ�, c�c triết gia Kit� gi�o T�y phương chỉ biết những bộ s�ch lu�n l� của Aristot, qua bản dịch v� ch� giải của Boecius. Nhưng từ hậu b�n thế kỷ XII, c�c t�c phẩm của triết gia th�nh Stagira (tức Aristot) về vật l�, si�u h�nh, t�m l�, lu�n l� v� ch�nh trị được phổ biến, đặc biệt do những triết gia Mauro (T�y Ban Nha). Ch�nh triết học của Aristot c� sẵn nhiều sai lầm, th�m v�o đ� những bản dịch từ tiếng Ả Rập v� ch� giải của những triết gia Hồi gi�o v� Do Th�i nhiễm tư tưởng duy l� v� phiếm thần. V� thế c�c s�ch vạn vật học v� si�u h�nh học của Aristot bị cấm dạy tại đại học Paris (1210).[37]

Tuy nhi�n, kh�ng l�u sau c�c t�c phẩm của Aristot được c�c giới hoan ngh�nh, v� n� rất th�ch hợp với việc giảng dạy ở đại học. Theo lệnh của đức Th�nh Cha Gregori IX, Guillaume th�nh Auxerre v� nhiều t�c giả kh�c lo việc sửa sai c�c t�c phẩm đ�. Người ta cũng lo cho c� những bản dịch từ nguy�n bản Hy Lạp để được ho�n bị hơn. Theo lời y�u cầu của th�nh T�ma Aquino, cha Guillaume Moerbeke d�ng Đaminh, đến sau l�m gi�m mục th�nh Corint� (+ 1286), đ� đặc biệt tham gia v�o c�ng việc phi�n dịch n�y. Nhờ c� th�nh Anb� Cả v� th�nh T�ma Aquino m� triết học của Aristot, sau khi được �Rửa tội� v� được giảng giải theo tinh thần Kit� gi�o, đ� trở th�nh triết học của Kinh viện học ph�i v� chiếm địa vị ưu đ�i trong thế kỷ XIII. Điều đ� rất quan trọng kh�ng những đối với triết học v� thần học, m� cả vạn vật học v� ch�nh trị học nữa.

C�c cuộc tranh luận giữa nhiều trường ph�i với nhau đ� g�y n�n một bầu kh� s�i nổi h�o hứng, th�c đẩy sự tiến bộ của mọi ng�nh khoa học. Ri�ng về vấn đề độc lập của triết học đối với thần học đ� tạo n�n hai học ph�i T�ma v� �utinh mới (N�o-Augustin). Tuy nhi�n, sự nguy hiểm của chủ nghĩa duy l� v� phiếm thần Ả Rập vẫn c�n. Chịu ảnh hưởng của triết gia Hồi gi�o Averroes th�nh Cordoba (1126-98), gi�o sư Siger de Brabant (1235-82) v� Boecius xứ Dacia đ� chủ trương nhiều vấn đề nghịch với gi�o l� C�ng gi�o về nguồn gốc thế giới, linh hồn v� quyền tự do. Học thuyết của hai �ng bị gi�m mục St�phane Tempier th�nh Paris l�n �n. Siger h�nh như đ� trở lại theo triết học của Aristot. Dầu vậy, ảnh hưởng của Averroes vẫn tiếp tục hoạt động v� lan tr�n sang Ph�p v� �.[38]

Những bậc thầy đ� tạo n�n thời ho�ng kim n�y do Kinh viện học ph�i đều thuộc hai d�ng tu Phan sinh v� Đaminh. Trung t�m hoạt động l� viện đại học Paris. Những nh� th�ng th�i từ khắp nơi Ph�p, �, Anh, Đức, T�y Ban Nha đến tham gia. C� bốn đại tiến sĩ kinh viện: Alexander Hales, th�nh Anb� Cả, th�nh T�ma v� th�nh Bonaventura, th� hai Phansinh, hai Đaminh; nếu kể theo quốc tịch, th� hai �, một Đức, một Anh.

Alexander Hales (+ 1245) nước Anh l� một học giả nổi tiếng của d�ng Phansinh, gi�o sư thần học đại học Paris, chuy�n ch� giải s�ch Sententiae của Pietro Lombardo. �ng được truy tặng danh hiệu Doctor irrefragabilis (tiến sĩ kh�ng thể bắt bẻ).

Th�nh Anb� Cả (1200-80) sinh tại Lauingen nước Đức theo học ở Padua v� Cologne, v�o d�ng Đaminh hồi 23 tuổi. Sau một thời gian dạy tại Đaminh học viện Cologne, Anb� sang Paris, nắm giữ một ghế gi�o sư đại học. Năm 1260, th�nh nh�n l�n chức gi�m mục th�nh Ratisbon, rồi l�m kh�m sai T�a th�nh mộ binh Th�nh gi� ở Đức v� Bohemia dưới triều Gi�o ho�ng Urban IV. Sự nghiệp khoa học của th�nh nh�n thật vĩ đại v� thuộc đủ mọi ng�nh: Th�nh Kinh, thần học, triết học, vạn vật học, vật l�, h�a học... Trong số c�c nh� kinh viện, Anb� kể l� người c� tr� �c hiểu biết rộng r�i nhất về triết học, thần học v� vạn vật học. Thi�n hạ tặng ng�i danh hiệu Doctor Universalis (Tiến sĩ uy�n b�c).

Th�nh T�ma Aquino (1225-74) sinh qu�n tại Rocasecca nước �, thuộc ho�ng tộc Hohenstauphen. Hồi c�n nhỏ, T�ma được gi�o dục tại đan viện Casino, sau đ� được gởi đi Napoli học văn chương v� triết l�. Cũng tại đ�y T�ma v�o d�ng Đaminh v� được bề tr�n sai đi Cologne học thần học với th�nh Anb�. Sau đ�, th�nh nh�n lần lượt dạy tại c�c đại học Paris, Roma, Napoli, v� viết rất nhiều s�ch, đặc biệt nhất l� bộ Tổng yếu Thần học (Summa Theologica, 1266-73). Ng�i qua đời hồi 49 tuổi tại đan viện Xit� ở Fossanova, tr�n đường di dự đại C�ng đồng Lyon II năm 1274. Th�nh nh�n được truy tặng danh hiệu Doctor communis (Tiến sĩ của mọi giơi), do đạo l� rất uy t�n v� nhiều t�n nhiệm, được c�c bậc tr� thức nại đến. C�n danh hiệu Doctor Angelicus (Tiến sĩ Thi�n thần) người ta tặng th�m cho th�nh nh�n từ thế kỷ XV, l� để nh�n nhận ng�i c� tr� chứng minh s�u sắc cũng như đời sống trinh khiết vẹn to�n giống như Thi�n thần.[39]

Th�nh Bonaventura (1217-74) sinh tại Bagnorea xứ Toscana, d�ng Phansinh, cũng l� bậc th�nh thiện kh�ng k�m th�nh T�ma. Th�nh nh�n l� học tr� của Alexander Hales, v� rồi cũng trở th�nh bậc th�y trong d�ng v� tại đại học Paris. Ch�nh ở đ�y, ng�i đ� c�ng với th�nh T�ma b�nh vực tu luật cũng như hoạt động khoa học của c�c d�ng tu h�nh khất, chống lại sự chỉ tr�ch của h�ng gi�o sĩ triều. Sau một nhiệm kỳ bề tr�n tổng quyền d�ng, năm 1273 th�nh nh�n được đức Gregori X đặt l�m hồng y gi�m mục th�nh Albano. Năm sau, th�nh nh�n tham dự C�ng đồng Lyon, nhận c�ng t�c h�a giải với Gi�o hội Ch�nh thống Hy Lạp, nhưng ng�i từ trần trong khi C�ng đồng chưa bế mạc.[40] Th�nh Bonaventura l� nh� thần học thuần l� v� hướng về thần b� học, do đ� người ta tặng ng�i danh hiệu Doctor Seraphicus (Tiến sĩ sốt sắng như Thi�n thần S�raphim).

Ngo�i những bậc đại tiến sĩ n�i tr�n, Kinh viện học ph�i c�n c� nhiều bậc th�ng th�i kh�c, thuộc nhiều d�ng tu v� cả h�ng gi�o sĩ triều nữa, như Robert Grosset�te (+ 1253) người Anh, gi�o sư đại học Oxford, gi�m mục th�nh Lincoln, Vincent de Beauvais (+ 1264) d�ng Đaminh Ph�p, t�c giả bộ B�ch khoa Từ điển, Pedro de Espana qu� th�nh Lisboa, gi�o sư triết học tại Paris, h�nh nghề y sĩ tại Sienna, tổng gi�m mục th�nh Braga (Bồ Đ�o Nha), năm 1273 l�n chức hồng y v� l� th�i y của đức Gregori X, sau đ� được bầu l�n ng�i Gi�o ho�ng, tức Gioan XXI (1276-77), Roger Bacon (1214-1294) d�ng Phansinh người Anh, học tr� của Grosset�te, gi�o sư triết học ở Paris v� Oxford, biệt hiệu Doctor admirabilis (Tiến sĩ đ�ng phục); kinh sĩ Henri Gand (+ 1293), biệt hiệu Doctor solemnis (Tiến sĩ trọng thức), gi�o sư đại học Paris, l� một trong những bậc th�ng th�i thuộc h�ng gi�o sĩ triều; ch�n phước Raymundo Lullo người T�y Ban Nha, d�ng Ba Phansinh, tử đạo tại Tunis năm 1315 l� một triết gia h�ng đầu.


4. Đại học

Đầu thời Trung cổ, nền gi�o dục cao cấp hầu như ho�n to�n dưới sự điều khiển v� kiểm so�t của Gi�o hội. Nhưng m�n học vẫn l� văn phạm, h�ng biện, biện chứng, to�n ph�p, kỷ h�, thi�n văn v� �m nhạc. Thần học đặc biệt chỉ để hiểu biết Th�nh Kinh v� học hỏi về nghĩa vụ. Người ta �t quan t�m đến việc r�n luyện đời sống thi�ng li�ng, cũng như đ�o tạo một h�ng gi�o sĩ đạo đức th�m s�u. Nhưng rồi tr�nh độ gi�o dục v� nghi�n cứu khoa học mỗi ng�y l�n cao, khiến c� nhiều thay đổi trong nền học vấn. Trong khi nhiều học viện xưa của c�c tu viện, hoặc của th�nh đường ch�nh t�a xuống dốc v� kh�ng c�n, th� một số gi�o sư thế kỷ XI v� XII, như Ab�lard (+ 1142) ở Paris, Irnerio (+ 1140) ở Bolonia, đ� tự nhận lấy tr�ch nhiệm gi�o dục với tư c�ch độc lập. Khả năng của c�c �ng cũng như phương ph�p biện chứng mới được d�ng trong việc giảng dạy triết học v� thần học ở Paris, hoặc luật Roma v� luật Gi�o hội ở Bolonia, đ� thu h�t được rất đ�ng th�nh giả tạo n�n một thời �chen nhau đi học�. [41]

Những học đường tự� do n�y ban đầu chưa c� quy chế v� thường bấp b�nh. Sang thế kỷ XII, trước hết ở Paris, nền gi�o dục cao đẳng bước một bước tiến quyết định, khi c� nhiều t�a nh� bề thế được x�y cất ngay tr�n khu đất của vương cung th�nh đường Notre Dam. C�c gi�o sư giảng dạy những m�n ch�nh như thần học, luật khoa, y khoa, triết học, li�n kết với nhau th�nh đo�n thể nhằm bảo vệ quyền lợi cho nhau, rồi tự thảo ra một quy chế c� sự chấp thuận của Gi�o quyền v� Ch�nh quyền, với nhiều đặc �n như an ninh bản th�n, quyền tự trị, miễn thuế, v.v...

Đ� l� những học viện (studium generale), danh từ n�y đ� c� từ đầu thời Trung cổ. C�n danh từ "đại học" (universitas) theo nghĩa ng�y nay l� bao gồm mọi m�n học (universitas litterarum) chỉ thấy c� từ cuối thế kỷ XIV, trước hết ở Đức. V� trước đ�, người ta d�ng tiếng �universitas� để chỉ một hiệp hội gi�o sư (ph�n khoa), hoặc một nh�m sinh vi�n c�ng quốc tịch, hay một đo�n thể gi�o sư v� sinh vi�n (universitas magistrorum et scholarium) c�ng một học viện. Đ� l� những đại học Paris (1200), Bolonia, Oxford. Nhiều đại học kh�c thay nhau ra đời trong thế kỷ XIII n�y. Đức Th�nh Cha Gregori X thiết lập đại học Toulouse (1229), đức Innocent� IV s�ng lập một học viện tại Gi�o triều Roma (1244-45), ho�ng đế Friedrich II mở đại học Napoli (1224), vua Femando xứ Castilla s�ng lập đại học Salamanca (1243). Cho tới năm 1400, đ� c� 44 viện đại học, phần lớn do Sắc lệnh của T�a th�nh. C�c đại học thế kỷ XIII, trừ ở Anh quốc, đều thuộc c�c Quốc gia Latinh. Đức quốc cũng như c�c Quốc gia kh�c ở Bắc �u sang thế kỷ XIV mới c� đại học: Praga (1348), Vienna (1365), Heidelberg (1386), Cologne (1388), v.v... C�c đại học n�y dĩ nhi�n l� C�ng gi�o, đức Th�nh Cha đứng l�nh đạo tối cao để bảo vệ gi�o l� được tinh tuyền, v� để những người xuất th�n từ c�c trường đ� được �quyền giảng dạy khắp nơi (facultas ubique docendi). Thần học đứng đầu c�c ph�n khoa, c�c gi�o sư phần đ�ng thuộc h�ng gi�o sĩ, nhận th� lao của Gi�o hội. Lễ th�nh bổn mạng của mỗi ph�n khoa được tổ chức rất long trọng.

C�c đại học thời Trung cổ được thiết lập theo tinh thần Kit� gi�o, đặt tr�n nền tảng hiệp nhất thế giới v� c� t�nh quốc tế trong hoạt động, n�n đ� trở th�nh nơi đ�o tạo những bậc th�ng th�i, v� cũng l� nơi quyền uy Gi�o hội được đề cao trong l�nh vực tr� thức.

Paris v� Bolonia lừng danh hơn cả, quy chế của hai viện đại học n�y được d�ng l�m khu�n mẫu cho nhiều đại học kh�c. Ở Bolonia, trường Luật đ� c� từ năm 1084 v� nổi tiếng khắp nơi (�Bolonia docet�). Paris được coi l� �th�nh phố của triết học v� thần học�, c�c sinh vi�n phần đ�ng theo ph�n khoa nghệ thuật (facult� des arts), chia th�nh bốn theo bốn quốc tịch kh�c nhau: Ph�p, Picard, Normand, v� Anh; trong sinh vi�n Anh c� cả người Đức v� Bắc �u. Khoảng năm 1300, người ta t�nh số sinh vi�n ở Paris l�n tới 30.000 (h�nh như hơi qu�). Cho tới cuối thế kỷ XIII, viện trưởng thường l� vị chưởng ấn t�a gi�m mục Notre-Dame. Hai d�ng tu h�nh khất lớn cũng c� học viện ở Paris từ năm 1218-20. Ngo�i ra, họ c�n chiếm những ghế gi�o sư thần học trong dại học d�ng Đaminh năm 1229, D�ng Phansinh năm 1231. Hai d�ng n�y cử đến những nh�n vật xuất sắc nhất, khiến đại học Paris trở n�n rất nổi tiếng v� c� tầm quan trọng quốc tế.

Nhưng từ năm 1252, c�c d�ng h�nh khất bị tấn c�ng dữ dội bởi một số linh mục triều, c� sự cầm đầu của gi�o sư thần học Guillaume de Saint -Amour. �ng n�y viết cuốn Những nguy hiểm của thời đại mới nhất (De periculi novissimorum temporum, 1255). �t l�u sau (1269-72) hai gi�o sư G�rard th�nh Abbeville v� Nicolas th�nh Lisieux c�ng với nhiều đồng bạn cũng đứng l�n đả k�ch hai d�ng Phansinh v� Đaminh. Nhưng c�c gi�o sư của hai d�ng n�y vẫn nắm vững được địa vị m�nh tr�n bậc đại học, nhờ c� sự biện hộ kh�o l�o của T�ma, Bonaventura v� nhiều vị kh�c. Đức Th�nh Cha Alexanđr� IV cũng l�n tiếng b�nh vực.[42]

Từ thế kỷ XIII đến XIV, đại học Paris trở th�nh �đại cường� thứ ba ở T�y phương sau Gi�o ho�ng v� Ho�ng đế, v� đ� nhiều phen nắm giữ vai tr� ch�nh trị rất quan trọng. Để n�ng đỡ c�c sinh vi�n về tinh thần cũng như vật chất, người ta d�nh cho họ nhiều học bổng (bourses), mở lưu x�, thư viện, qu�n ăn. Lưu x� sinh vi�n lớn nhất ở Paris bấy giờ (1257) l� ng�i nh� của Robert de Sorbon (1201-74), tuy�n �y tại triều đ�nh vua th�nh Louis. Để ghi nhớ vị s�ng lập, ng�i nh� đ� mang t�n Sorbonne; từ thế kỷ XVI, t�n đ� c�n được đặt cho ph�n khoa thần học. Phần lớn d�ng tu ở Paris đều c� học viện ri�ng.

 

[1] S�ch tham khảo : Dom Ch. Poulet Histoire du Christianisme II: Le Moyen �ge VIII-XV, Paris 1934 - H. Pirenne, G. Cohen, H. Focillon: La civilisation occidentale au moyen �ge du XIe au milieu du XVe si�cle VIII, trong Histoire du moyen �ge (Glotz), Paris 1933 - M. H.

[2] Vicaire: L�apog�e de la civilisation m�di�vale, trong Histoire illustr�e de l��glise (Plinval - Pittet), Paris 1946-48, Q. 1, tr 409-460 - C. Bihlmeyer - H. Tuchle: Histoire de l��glise (bản dịch Ph�p văn của M. Grandclaudon), Paris 1962-68.

[3] Xem chương Bảy, III, 3.

[4] Xem chương T�m, III, 3.

[5] A. Luchaire: Innocent III, Rome et Italie, Paris 1904, tr 30.

[6] Summa Theologica 2, 2 Q. I a. 10.

[7] Ch�ng t�i d�ng từ Tuy�n bố hay �ghi v�o sổ bộ� (canoniser), v� thấy n� chỉnh hơn từ phong th�nh, l�m như trước khi phong, c�c đấng chưa l� th�nh.

[8] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., Q. II, tr 131-132, 197-201.

[9] Bởi từ Latinh cum clave (với ch�a kh�a), nơi Hồng-y-đo�n hội để bầu Gi�o ho�ng, c� từ năm 1271. Đức Clement� IV (Ph�p) qua đời ng�y 29.11.1268, c�c hồng y cử tri bất đồng trong việc bầu đấng kế vị. D�n th�nh Roma mệt v� sự bất đồng v� chậm trễ k�o d�i cả mấy năm trời, họ b�n �nhốt� c�c hồng y trong ph�ng họp, kh�a lại, cho tới khi một trong c�c vị được bầu l�m Gi�o ho�ng với 2/3 số phiếu. Ng�y 1.9.1271, Tedaldo Visconte đắc cử, tức Gregori X, ng�y 27.3.1272 mới đăng quang nhận quyền.

[10] C. Bihlmeyer - H. T�uchle: op. cit., Q. I, tr 207-209.

[11] M. H. Vicaire trong op. cit., Q. I, tr 418.

[12] Ch. Petit-Dutaillis: La Monarchie f�odale en France et en Angleterre Paris 1933, tr 18 - M. H. Vicaire trong op. cit., Q. I, tr 418.

[13] C. Bihlmeyer - H Tu�chle: op., cit., Q. II. Tr 321-325.

[14] Xem chương T�m, III, 1.

[15] R. Glaber Historiarum sui temporis libri V. �d. Prou Paris 1886 tr 62.

[16] Về sự thống nhất Gi�o hội thế XIII, xem B. Landry L�Id�e de chr�tient� chez les scholastiques du XIIIe si�cle. Paris 1929 - Dom J. Leclercq: Jean de Paris et l�' eccl�siologie au XIIIe, Paris 1942.

[17] Xem H. Pirenne: Les villes du moyen �ge. Bruxelles 1927.

[18] Xem P. Boissonnade: Le travail dans l�Europe chr�tienne moyen �ge (Ve- XVe si�cles) Paris 1930 - Fr. Olivier - Martin: L'organisation corporative de France d'ancien r�gime, Paris 1938 - M. H. Vicaire trong op. cit., Q. I, tr 427-430.

[19] Xem chương S�u, IV, tr 266 v� tiếp.

[20] L. Lallemand: Histoire de la charit�, III: Le moyen �ge, Paris 1906, đặc biệt phần I v� II (bệnh viện v� trại phong).

[21] Xem J. Vielliard: Le guide du p�lerin de St-Jacques de Compostelle, M�con 1938

[22] M. H. Vicaire trong op. cit., Q. I, tr 432-433.

[23] J. Von Walter Die ersten Wanderprediger Frankeichs II, Leipzig 1903-06.

[24] J. Joergensen: Saint Francois d�Assise, sa vie et son oeuvre (bản dịch Ph�p văn của T.de Wizewa) Paris 1908- Cuthbert Vie de saint Francois d�Assise, Paris 1927

[25] P. Mandonnet v� M. - H. Vicaire: Saint Dominique, l�id�e, l'homme et l�oeuvre II, Paris 1938 - P. Mandonnet: Fr�res Pr�cheur trong Dict de Th�ol. Cath

[26] �Nos attendentes Fratres Ordinis tui futuros pugiles fidei et vera mundi lumina, confirmamus Ordinem tuum� (Potthas, số 5502, 5403).

[27] Xem chương T�m, III, 4.

[28] A. Lecoy de la March: La chaire francaise au moyen �ge, sp�cialement au XXIIIe si�cle, Paris 1886 - Xem Gilson: La technique du sermon m�di�val, trong Les id�es et les lettres, Paris 1932.

[29] T�ng huấn ng�y 29.1.1204. Migne: Patrologie latine. CCXV, cột 274A.

[30] C. Bihlmeyer H. Tuchle: op. cit., Q. II, tr 278-281 - Xem J. Richard, M. H. Vicaire, S. Sugraneyes: Les Missions m�di�vales trong: Hist. Universelle des Missions Catholiques (S. Delacroix) Q. I. Paris 1956, tr 173-220.

[31] Về c�ng cuộc truyền gi�o của hai d�ng Phansinh v� Đaminh cho Đ�ng Bắc v� Đ�ng Nam � ch�u thế kỷ XIII-XV, xem Một Gi�o sư Sử học: Gi�o hội C�ng gi�o ở Việt Nam, Q. I, chương Một, II-IV, tr 11 v� tiếp.

[32] C. Bihlmeye - H. Tuchle: op. cit., Q. II, tr 231-236, 303-308 v� 321-325 - Xem Dom L. Gougaud: D�votions et pratiques asc�tiques du Moyen �ge. Maredsous 1925, tr 1-73.

[33] S�ch tham khảo: M. Denis: Histoire de l'art religieux, Paris 1939 - F. Benoit: L'architecture, l'Occident m�di�val, Du Romain au Roman, Paris 1933: Romanogothique et Gothique, Paris 1934 - H. Focillon: L�art de sculpteurs Romans, Paris 1931: Peintures Romanes des �glises de France, Paris 1938 - H. Martin: Miniatures francaises du XIIe au XVe si�cle. Paris-Bruxelles 1924 - C. Bihlmeyer - H. Tu�chle: op., cit., Q. II, tr 236-239, 308-310 v� 324.

[34] Xem Giovanni Papini: Dante vivo, Florence 1933 (bản dịch Ph�p văn của J. Bertrand, 1934 - H. Hauvette: Etudes sur la Divine Com�die. Paris 1922 - E. Gilson: Dante et la philosophie. Paris 1939.

[35] C. Bihlmeyer - H. Tu�chle: op. cit., Q. II, tr 239-246 v� 313-321 - Xem G. Robert Les �coles et l�enseignement de la th�ologie pendant la premi�re moiti� du XlIe si�cle. Paris 1909 - G. Par�, A. Brunet v� P. Tremblay: La Renaissance du XIIe si�cle, Paris 1909 - G. Par�, A. Brunet v� P. Tremblay: Lo Renaissance du XIIe si�cle, les �coles et l�enseignement. Paris 1933.

[36] �� niệm tổng xưng� l� danh từ triết học, nghĩa l� một � niệm biểu thị cho nhiều vật c�ng loại. V� dụ � niệm �người� biểu thị cho anh A, anh B. � niệm đ� c� thật hay kh�ng, hay chỉ l� danh từ hoặc � niệm su�ng. C�c triết gia b�n c�i rất s�i nổi trong thế XI-XII. Ph�i duy thực (r�alisme) n�i l� thật trong căn bản của mỗi vật, c�n duy danh (nominalisme) của Roscelisme th�nh Compi�ge bảo n� chỉ l� danh từ su�ng.

[37] Xem S.D Wingate: The medieval Latin versions of Aristolelian Scientific corpus, London 131.

[38] Xem P. Mandonnet: Siger de Brabant et l�Averroisme latin au XIIIe si�cle, Louvain 1908-11.

[39] Về triết học của hai th�nh T�ma v� Bonaventura. xem E. Gilson: Le Thomisme, Paris 1942; La philosophie de saint Bonaventure, Paris 1924

[40] Đức hồng y Pietro di Tarantasia d�ng Đaminh (tức ch�n phước Innocent� V sau n�y c�ng với th�nh Bonaventura d�ng Phansinh đ� gi�p C�ng đồng th�nh c�ng trong việc h�a giải v� hiệp nhất Gi�o hội Đ�ng phương với T�a th�nh Roma, nhưng chỉ được một thời gian kh�ng l�u.

[41] C. Bihlmeyer - B. Tucle: op. cit.; Q. II, tr 310-313 - Xem H. Rashdall: The Universities of Europe in the Middle Ages, Oxford 1936 - St-d'Irsay: Hist. des Universit�s francaises et �trang�res, Paris 1933-35.

[42] D. L. Douie: The conflict betwen seculars and the Mendicants... London 1954