HOME

 
 

Phần Nh� :
CẬN KIM V� ĐƯƠNG KIM THỜI ĐẠI

Chương Năm

GI�O HỘI V� CHỦ NGHĨA TỰ DO CH�NH TRỊ (t.k. XIX) 
 

I. Gi�o hội tại c�c nước C�ng gi�o                               

1. Đức Pi� VII v� Napol�on Bonaparte

2. Gi�o hội C�ng gi�o ở Ph�p v� Bỉ sau thời Napol�on I

3. Gi�o hội chịu nhiều sự thử th�ch ở T�y Ban Nha v� Bồ Đ�o Nha

4. Nước T�a th�nh từ thời đức Le� XII đến đức Pi� IX

II. Gi�o hội C�ng gi�o tại c�c nước Tin l�nh v� Ch�nh thống                      

1. T�nh h�nh s�ng sủa hơn ở Đức v� �o

2. Gi�o hội C�ng gi�o tại Anh quốc v� nhiều nước kh�c

3. Gi�o hội C�ng gi�o v� Ch�nh thống tại Nga, Ba Lan, v� Hy Lạp

III. Đời sống nội bộ của Gi�o Hội                                

1. Kỷ luật, phụng vụ, nghệ thuật th�nh

2. Sự phục hưng c�c d�ng tu v� đời sống đạo của gi�o d�n

3. Khoa học th�nh v� lạc thuyết

 

Chủ nghĩa Tự do ch�nh trị, trong quan niệm của n� đối với cuộc sống con người, kh�ng thể kh�ng đụng chạm đến vấn đề t�n gi�o. N� tuy�n bố tự do tư tưởng v� chủ trương kh�ng can thiệp v�o việc của lương t�m. N� đề cao tự do t�n ngưỡng, th�ng hảo với Gi�o quyền. N� đả ph� c�i gọi l� �Đế quyền t�n gi�o� (C�saro-papisme) của thời đại cũ, v� chủ trương b�nh đẳng t�n gi�o. Tuy n� chủ trương t�ch biệt đạo đời, nhưng coi m�nh ở tr�n Gi�o hội, d�nh lấy quyền quyết định những g� thuộc thẩm quyền Gi�o hội v�, mỗi khi x�t thấy Gi�o hội vượt qu� quyền hạn, lập tức n� cảnh c�o v� bắt quay trở về trật tự. Do đấy n� gi�p chủ nghĩa duy l� dễ b�nh trướng; c�n chủ nghĩa duy vật được n� ngầm b�nh vực, n�n vẫn ph�t triển c�ng với đ� tiến bộ của kỹ thuật. Tất cả đều bất lợi cho Gi�o hội.

Đứng trước chủ nghĩa Tự do ch�nh trị, Gi�o hội c� th�i độ r� rệt. Những g� kh�ng thể dung h�a với đức tin C�ng gi�o, Gi�o hội phủ nhận v� chống trả, đồng thời cương quyết bảo vệ quyền uy thuộc l�nh vực m�nh. Về ph�a ch�nh quyền, v� nhận thấy t�n gi�o, nhất l� đạo C�ng gi�o, c�n cần thiết v� c� nhiều ảnh hưởng, n�n cũng kh�o l�o h�a ho�n bằng những hiệp ước. Dầu sao, đạo C�ng gi�o kh�ng c�n được nh�n nhận l� quốc gi�o tại nhiều nước �u ch�u như xưa nữa.[1]


I

GI�O HỘI TẠI C�C NƯỚC C�NG GI�O


1. Đức Pi� VII v� Napol�on Bonaparte

Sau chiến thắng Marengo (5.6.1800), Bonaparte ngỏ � muốn điều đ�nh với T�a th�nh, v� �ng nhận thấy cần phải th�ng hảo với Roma để t�i lập trật tự trong tư tưởng cũng như trong đời sống. Ho�n cảnh l�c đ� cũng thuận tiện. Đức Pi� VII (1800-23) l�n thay thế đức Pi� VI, l� một vị Gi�o ho�ng hiền l�nh v� ưa h�a giải. C�ng cuộc được tiến h�nh c�ng một l�c ở Paris v� Roma: ng�y 15.7.1801 Hiệp ước được k� kết.[2]

Tuy kh�ng trả lại c�c đặc �n cũ cho Gi�o hội Ph�p, nhưng Hiệp ước c�ng nhận người C�ng gi�o c� quyền tự do giữ đạo. Đạo C�ng gi�o tuy kh�ng c�n được nh�n nhận l� quốc gi�o, nhưng cũng x�c định l� �Đạo của đa số người Ph�p�. C�c gi�o phận ph�n chia lại ranh giới: 10 t�a Tổng Gi�m mục v� 50 t�a Gi�m mục. Ch�nh phủ bổ nhiệm c�c gi�m mục, nhưng quyền thừa nhận chiếu theo gi�o luật thuộc T�a th�nh. C�c gi�m mục v� linh mục hứa trung th�nh với Ch�nh phủ, v� Ch�nh phủ phải lo cho c� lương bổng xứng đ�ng. Tất cả mọi t�i sản thuộc Gi�o hội đ� bị tịch th�u v� b�n đi Gi�o hội kh�ng đ�i lại, v� người mua c� quyền giữ m� kh�ng mắc vạ nữa. Về h�ng Gi�m mục cũ, trước cũng như trong thời c�ch mạng, T�a th�nh buộc từ chức hết, để thiết lập một h�ng Gi�o phẩm mới. Kết quả của bản Hiệp ước n�y một phần nhờ thiện ch� của Bonaparte, nhưng nhất l� c� sự nh�n nhượng s�ng suốt v� can đảm của đức Th�nh Cha Pi� VII. Hiệp ước ban đầu bị một số gi�m mục di cư phản đối v� kh�ng tu�n phục nhưng rồi cũng d�n xếp xong. C�c linh mục đ� kết h�n được giải vạ, những linh mục kh�c trở lại l�m việc như xưa.

Hiệp ước 1801 thực sự đ� đưa Gi�o hội Ph�p qua cơn s�ng gi� b�ch hại, v� cảm thấy được bảo đảm tự do. Nhưng m�i đến ng�y 18.4.1802, Hiệp ước ấy mới được ch�nh thức c�ng bố, k�m theo 77 điều khoản (articles organiques) l�m quy chế cho việc �p dụng, do luật sư Portalis soạn thảo. Trong quy chế n�y, nhiều điều khoản Bonaparte đ� vượt ra ngo�i Hiệp ước. �ng đ�i c�c Sắc lệnh của T�a th�nh muốn c�ng bố phải c� sự ưng thuận của ch�nh quyền, Sứ thần T�a th�nh kh�ng được can thiệp v�o Gi�o hội Ph�p nếu kh�ng qua Ch�nh phủ... Tất cả những điều khoản đ� đều biểu lộ tinh thần Ph�p gi�o, v� bị đức Th�nh Cha phản đối, nhưng Bonaparte kh�ng thay đổi Đức Pi� VII phải nhẫn nhục l�m thinh, ng�i cử đức hồng y Caprara đến chủ tọa lễ nghi c�ng bố Hiệp ước.

Năm 1804, Bonaparte được d�n ch�ng t�n l�n ng�i Ho�ng đế. Ng�y 2 th�ng 12 năm ấy, đức Th�nh Cha đ�ch th�n sang Paris đặt vương miện cho �ng tại th�nh đường Notre-Dame; cũng dịp n�y th�nh đường được cung hiến v� n�ng l�n h�ng Vương cung Th�nh đường. Từ đấy Napol�on c� tham vọng nắm giữ cả quyền đời lẫn quyền đạo. Bấy giờ �ng đ� l�m chủ một phần lớn c�c nước T�y phương, �ng muốn chiếm cả nước T�a th�nh nữa. Từ năm 1805 đến 1809, �ng lần lượt chiếm Ancona, Civita Vecchia, Benevento, Pontecorvo, Spoleta, Macerata, Camerino, Urbino... v� Roma. Đức Th�nh Cha phản ứng bằng một �n vạ tuyệt th�ng, qua Sắc lệnh Quam memoranda (1809), phạt �thủ phạm v� t�ng phạm trong việc bạo h�nh�. Nhưng tướng Miollis theo lệnh của Napol�on bắt đức Th�nh Cha đem nhốt tại Savona (1809)

Bắt giam đức Th�nh Cha rồi, Napol�on tưởng c� thể d�ng �p lực để bắt ng�i phải l�m theo � m�nh; nhưng �ng đ� lầm.[3] Việc thứ nhất của �ng l� ly dị Josephine để cưới Marie-Louise, đ� bị đức Th�nh Cha phản đối v� tuy�n bố h�n nh�n bất th�nh (1810). Kế đ� l� vấn đề thừa nhận c�c gi�m mục được bổ nhiệm. Từ khi bị giam ở Savona, đức Th�nh Cha quyết định kh�ng chấp nhận c�c gi�m mục do Napol�on bổ nhiệm. Napol�on b�n d�ng quyền bắt c�c gi�o sĩ phải chấp nhận v� v�ng phục, nhưng �ng gặp sự kh�ng cự. Năm 1811, �ng triệu tập C�ng đồng T�y phương để giải quyết vấn đề, song C�ng đồng cũng kh�ng chiều theo � �ng. Sau c�ng, đức Pi� nh�n nhượng cho ph�p c�c gi�m mục n�i tr�n được thi h�nh chức vụ �nh�n danh đức Gi�o ho�ng �, nhưng chỉ cho những gi�m mục đ� được bổ nhiệm từ 6 th�ng trở về trước, ch�a nhận được sự chấp thuận của T�a th�nh.

Napol�on vẫn chưa bằng l�ng với sự nh�n nhượng ấy. Năm 1813, �ng giải đức Th�nh Cha l�n Fontainebleau, buộc �p ng�i k� một Hiệp ước mới, theo như � muốn của �ng. Đức Pi� bấy giờ đ� mỏi mệt, gi� yếu (tr�n 70 tuổi) lại thiếu cố vấn, n�n đ� cầm b�t k� ng�y 25 th�ng 1. Nhưng ngay sau đ�, được nghe những lời lẽ của hai hồng y Consalvi v� Pacca, ng�i đ� c�ng bố một T�ng thư (23.3.1813) hủy bỏ hiệp ước n�i tr�n, tiếp tục chịu l�m �t� nh�n�. Sau đấy, Napol�on đang ở thời xuống dốc, thua nhiều trận, thất bại nhiều nơi, n�n �ng đ� phải trả tự do cho đức Th�nh Cha (th�ng năm 1814)[4]


2. Gi�o hội C�ng gi�o ở Ph�p v� Bỉ sau thời Napol�on I

Th�ng 4 năm 1814 Napol�on tho�i vị, Louis XVIII (1814-24) nh� Bourbon l�n cầm quyền, cố gắng h�a giải với T�a th�nh, để t�i thiết cơ cấu tổ chức của thời tiền C�ch mạng. Kết quả, một Hiệp ước được k� kết ng�y 11.6.1817, hủy bỏ Hiệp ước 1801. Nhưng Hiệp ước mới n�y kh�ng được Quốc hội biểu quyết chấp thuận, n�n t�nh trạng t�n gi�o thời Napol�on vẫn duy tr�, chỉ c� con số gi�o phận thay đổi như sau: 14 t�a Tổng Gi�m mục v� 80 t�a Gi�m mục (năm 1822). Thời Trung hưng bắt đầu: nhiều chủng viện được t�i thiết, h�ng gi�o sĩ được tăng lương, một số hội d�ng ch�nh thức trở lại hoạt động, những tu hội thiết lập ngay trong nước được dung thứ.[5]

Tuy nhi�n, thời Trung hưng đ� kh�ng đem lại cho nước Ph�p một h�a b�nh l�u d�i, v� c� nhiều h�nh động t�n nhẫn đối với những phần tử c�ch mạng c�n ham say tư tưởng của Voltaire v� Rousseau. Chống lại h�ng qu� tộc, kh�ng những c� giới trưởng giả, nhưng c�n �đệ tứ giai cấp�, tức giai cấp bất m�n gồm giới thợ thuyền v� sản mỗi ng�y th�m đ�ng. Chủ trương Ph�p gi�o vẫn c�n. Khi vua Charles X (1824-30) đưa ra chương tr�nh phục hưng Gi�o hội, b�i bỏ tự do b�o ch�, giải t�n D�n viện, liền bị cuộc C�ch mạng th�ng Bảy năm 1830 lật đổ v� đưa Louis Philippe (1830-48) l�n ng�i. Cuộc C�ch mạng n�y, �t l� ở Paris, c� t�nh chất phản t�n gi�o: nhiều th�nh đường, tu viện bị ph�, c�c s�ch b�o chống Gi�o hội được dịp tung ra, dư đảng Jacobin qu� kh�ch g�y phong tr�o mạt s�t h�ng gi�o sĩ.

Cuộc C�ch mạng biểu lộ t�m trạng của người d�n Ph�p. Về phương diện t�n gi�o, sự t�ch biệt đạo đời mỗi ng�y th�m r� rệt v� khơi s�u; đ� l� th�nh c�ng của phe triết gia v� c�ch mạng. Cuộc sống l�nh đạm, v� t�n ngưỡng, chống Gi�o hội lan tr�n khắp nơi, kh�ng những lọt v�o giới trưởng giả, m� cả quần ch�ng th�nh thị, đến cả nhiều nơi ở th�n qu�. T�nh trạng Gi�o hội ở Ph�p bấy giờ thật th� thảm, nhất l� vấn đề thiếu linh mục: c� tr�n 10.000 gi�o xứ kh�ng linh mục. Đ�ng kh�c, v� truyền chức vội v�ng, nhiều linh mục học h�nh thiếu s�t v� k�m tinh thần. May mắn trong số cũng c� những nh�n vật thời danh, như th�nh Gioan Vianney (1786-1859), cha sở Ars.

Linh mục H. Lacordaire (1802-61) v� cha G. Ravignan (1795- 1858) d�ng T�n d�ng t�i h�ng biện Phục hưng Gi�o hội Ph�p, cổ động ơn thi�n triệu gi�o sĩ v� t�ng đồ gi�o d�n. Phong tr�o Phục hưng lại nổi dậy: số chủng sinh th�m đ�ng; gi�o d�n cũng t�ch cực tham gia. Nhiều hội đo�n được thiết lập: Fr. Ozanam (1813-53) lập hội th�nh Vinhsơn-Phaol�; P. Jaricot (1799-1862) lập hội M�n c�i li�n tiếp v� hội Truyền b� Đức tin; cha Chevrier (+ 1879) lập hội Thợ thuyền Prado (Lyon); Don Gu�raner (1805-75), đan viện phụ Solesmes, cổ v� việc thống nhất lễ nghi phụng vụ; k� giả Veuillot chủ trương tờ L� Univers phục vụ Gi�o hội.

Đồng thời trong l�nh vực văn chương, nhiều văn h�o C�ng gi�o xuất hiện, như Chateaubriand (1768-1848) t�c giả cuốn Tinh hoa Kit� gi�o (G�nie du Christianisme 1802), De Maistre (1735-1821) viết nhiều t�c phẩm b�nh quyền tối cao v� ơn v� ngộ của ng�i Gi�o ho�ng. Năm 1830, linh mục F. de Lamennais (1782- 1854), c�ng với Lacordaire, Gerbet, chủ trương tờ nhật b�o L�Avenir (1830-1831), can đảm tố c�o chủ nghĩa v� thần, b�nh vực quyền phổ thế v� tối cao của Gi�o ho�ng, nhưng lại c� những tư tưởng �t�o bạo� kh�c. Cho rằng Kit� gi�o l� nguồn mạch tự do ch�n ch�nh, nh�m L�Avenir đ� n�u l�n quyền tự do t�n ngưỡng v� t�n gi�o, tự do ng�n luận, tự do gi�o dục, tự do hiệp hội, sau c�ng chủ trương quyền ho�n to�n độc lập của c�c d�n tộc v� sự t�ch biệt đạo đời. C�c gi�m mục lo ngại tờ b�o v� xin T�a th�nh để � kiểm duyệt. De Lamenais đ�ng cửa t�a b�o, c�ng với Lacordaire v� Montalembert sang Roma. Khi đến nơi, cả ba nhận được Th�ng điệp Mirari vos đề ng�y 15.8.1832 của đức Gregori XVI, trong đ� chủ trương �tự do t�n ngưỡng� v� nhiều tư tưởng kh�c của nh�m L�Avenir bị l�n �n.[6]

De Lamennais ban đầu v�ng phục, nhưng sau đ� �ng hồi tục v� bỏ đạo,[7] trong khi Lacordaire, Montalambert, Gerbert vẫn trung th�nh với Gi�o hội. Ri�ng linh mục Lacordaire, năm 1839 v�o d�ng Đaminh, trở th�nh người Phục hưng d�ng n�y tại Ph�p, đồng thời đem t�i giảng thuyết v� văn chương phục vụ Gi�o hội, b�nh quyền tối cao cũng như ơn v� ngộ của Gi�o ho�ng.

Cuộc c�ch mạng th�ng 2 năm 1848 lật đổ Louis Philippe, thiết lập nền Cộng h�a đệ nhị. Gi�o hội Ph�p từ đ�y được tự do hơn. Louis Bonaparte ch�u Napol�on I l�m tổng thống (1848-52), sau đ� l�n ng�i Ho�ng đế tức Napol�on III (1852-70),s�ng lập đệ nhị Đế ch�nh. Louis Bonaparte t�m c�ch giao hảo với T�a th�nh v� h�ng gi�o sĩ Ph�p, �ng kh�n kh�o lợi dụng đạo để củng cố chế độ của �ng, nhưng đồng thời cũng biết mềm dẻo với chủ nghĩa tự do. Gi�o hội nhờ đ� được đảm bảo. Nhiều d�ng tu cũ v� mới c� cơ hội phục hồi v� ph�t triển. Nhiều hội đo�n C�ng gi�o hoạt động rất mạnh mẽ v� kết quả, chủ trương Ph�p gi�o giảm đi dần. Năm 1858, Napol�on III li�n minh với Victor Emmanuel II v� Cavour, kẻ th� của nước T�a th�nh, khiến �ng thay đổi ch�nh trị đối với Roma.

Hội nghị Vienna 1814-15 đ� thống nhất hai d�n tộc Bỉ v� H� Lan th�nh một nước dưới quyền của Wilhelm I (1815-40) d�ng họ Orange Nassau. Việc thống nhất n�y gặp liều kh� khăn: t�nh t�nh, phong tục, t�n gi�o của hai d�n tộc kh�c nhau. Người C�ng gi�o tuy chiếm hai phần ba d�n số v� được tuy�n bố l� b�nh dẳng với người Tin l�nh, nhưng vẫn bị kỳ thị v� thua k�m, nhất l� họ phải tranh đấu quyền tự do gi�o dục. Cuộc c�ch mạng 1830 ở Ph�p l� cơ hội cho d�n Bỉ nổi dậy (th�ng 8 đến 10) để t�ch rời người H� Lan, lập vương quốc ri�ng với L�opold I (1831-65) thuộc d�ng d�i Saxonia- Cobourg.

Hiến ph�p Bỉ 1831 nh�n nhận quyền ho�n to�n tự do về t�n gi�o, gi�o dục v� ng�n luận; tuy chủ trương t�ch biệt đạo đời, nhưng cũng trợ cấp cho việc phượng tự. Sự kh�o l�o của đức cha Sterckx, tổng gi�m mục Malines (hồng y năm 1838) đ� đạt được th�nh c�ng trong việc xin đức Th�nh Cha Gregori XVI l�m ngơ cho hiến ph�p �tự do� n�i tr�n. Gi�o hội C�ng gi�o ở Bỉ hưởng quyền tự do từ đấy: nhiều học đường, tu viện, cơ quan từ thiện được thiết lập. Tại Malines, viện đại học C�ng gi�o th�nh lập năm 1834, năm sau chuyển sang Louvain, trở th�nh một trong những trung t�m ch�nh yếu của triết học T�n kinh viện v� gi�o sử. Tuy nhi�n, Gi�o hội Bỉ kh�ng thể tr�nh được nhiều phần tử v� t�n ngưỡng, cấp tiến v� b� Nhiệm; những cuộc đụng độ thường hay xảy ra.[8]


3. Gi�o hội chịu nhiều thử th�ch ở T�y Ban Nha v� Bồ Đ�o Nha
[9]

T�y Ban Nha từ năm 1808 đến 1813 bị đặt dưới quyền đ� hộ của Joseph Bonaparte, anh Napol�on I. Bấy giờ ảnh hưởng c�ch mạng đ� từ Ph�p tr�n sang b�n đảo. Một hiến ph�p �tự do� ban h�nh tại Cadiz năm 1812: phần lớn c�c tu viện cũng như t�a Truy t� bị b�i bỏ. Chiến tranh gi�nh độc lập đ� đưa Fernando VII trở lại ngai v�ng (1814-33). T�n vương cố gắng Phục hưng Gi�o hội. Nhưng v� chủ trương qu�n chủ chuy�n chế v� giai cấp n�n đ� kh�ng l�m được g� khả quan hơn ở Ph�p. Năm 1820, một cuộc c�ch mạng căm th� Gi�o hội b�ng nổ. Nhiều tu viện bị giải t�n, c�c cha d�ng T�n bị trục xuất, t�i sản Gi�o hội bị sung c�ng; những gi�o sĩ chống đối v� kh�ng tuy�n thệ trung th�nh với hiến ph�p mới bị giam giữ, lưu đ�y hoặc bị giết.

Louis XVIII nước Ph�p phải đem qu�n sang t�i lập trật tự bằng một chế độ qu�n chủ độc đo�n (1823): c�c đạo luật của Ch�nh phủ c�ch mạng đều phải hủy bỏ. Nhưng Fernando, sau khi cưới Marie Christine d�ng d�i Bourbon (1829) đ� b�i bỏ luật salique, để trở lại luật �cho con g�i c� quyền nối ng�i�, khiến sau n�y nhiều biến loạn diễn ra l�u năm, m� Gi�o hội phải g�nh chịu hậu quả. Fernando băng h� năm 1833, con g�i �ng l� Isabella II mới 3 buổi được đưa l�n ng�i nữ ho�ng (1833 v� 1843-68), dưới quyền nhiếp ch�nh của Marie Christine (1833-43). Nhưng xứ Basque v� Aragon tuy�n bố ủng hộ em của Fernando l� Don Carlos. Cuộc nội chiến bắt đầu v� k�o d�i 7 năm (1834-40). Chủ nghĩa tự do phản t�n gi�o mở một cuộc b�ch hại Gi�o hội ngay tr�n đất của Isabella. C�c nam tu viện bị giải t�n hết, chỉ cho giữ lại một v�i nữ tu viện, t�i sản Gi�o hội đều bị tịch th�u (1837-38). H�ng gi�o sĩ chịu bắt bớ, h�nh hạ, số t�a Gi�m mục r�t xuống chỉ c�n 6 (1841).

Năm 1843, tướng Narvaez, quận c�ng Valencia, lật đổ Espartero, một vi�n tướng nắm quyền nhiếp ch�nh một c�ch độc đo�n; t�nh thế bắt đầu được cải thiện. Năm 1851, một thỏa hiệp được k� kết giữa T�a th�nh v� Ch�nh phủ T�y Ban Nha, nhằm giải quyết vấn đề t�n gi�o: đạo C�ng gi�o được tuy�n bố l� �Đạo ch�nh thức v� duy nhất của Quốc gia T�y Ban Nha�. Tinh thần C�ng gi�o T�y Ban Nha từ đấy được chấn chỉnh nhờ ở hoạt động của triết gia hộ gi�o Balmez v� ch�nh trị gia Donoso Cort�s, đại diện cho c�c nh� ch�nh trị x� hội C�ng gi�o bảo thủ.

Lịch sử Bồ Đ�o Nha tiền b�n thế kỷ XIX, cũng như ở T�y Ban Nha, gặp phải nhiều biến cố đau thương: vua Juan VI phải lưu vong b�n Braxin khi qu�n đội Ph�p đ�nh chiếm Bồ Đ�o Nha năm 1807. Braxin nổi dậy đ�i độc lập v� t�n th�i tử Don Pedro l�n ng�i Ho�ng đế (1822). Việc tranh ng�i xảy ra ở Bồ Đ�o Nha sau khi Juan VI mất năm 1826, đa số d�n ch�ng ủng hộ con thứ của Juan l� Don Miguel (1826-34), trong khi Don Pedro muốn gi�nh quyền cho con g�i m�nh l� Maria da Gloria mới 7 tuổi. Nhờ c� sự gi�p đỡ của c�c nước Anh, Ph�p, T�y Ban Nha, Don Pedro đ� thắng v� Don Miguel phải đi khỏi nước.

V� người C�ng gi�o ủng hộ Don Miguel, n�n sau khi �ng n�y bị lật đổ, một cuộc b�ch hại đạo đ� diễn ra trong 7 năm, g�y nhiều thiệt hại nặng nề: triệt hạ c�c tu viện, tịch th�u t�i sản Gi�o hội, c�ch chức c�c gi�m mục, giam giữ nhiều gi�o sĩ. Từ năm 1840, t�nh thế lắng dịu một ch�t; nhưng thể chế Gi�o hội quốc gia vẫn c�n, d�n ch�ng phần lớn xa l�a Gi�o hội, hội Tam điểm l�m chủ t�nh thế, nhiều gi�m mục, linh mục thiếu học, k�m tinh thần bị l�i cuốn. Về ch�nh trị, Bồ Đ�o Nha lệ thuộc v�o Anh quốc.


4. Nước T�a th�nh từ thời đức Le� XII đến đức Pi� IX
[10]

C�c Gi�o ho�ng kế vị đức Pi� VII đều gặp phải những kh� khăn về vấn đề đất nước T�a th�nh, những m�u thuẫn giữa chủ trương chế độ cũ v� khuynh hướng cấp tiến chuộng mới. Vị Sứ thần T�a th�nh tại Đức, hồng y Annibal della Genga, được bầu l�n ng�i Gi�o ho�ng, tức Le� XII (1823-29); ng�i rất quan t�m đến c�ng việc Phục hưng Gi�o hội tại nhiều nước v� đ� thu được một số kết quả. Trong việc cai trị nước T�a th�nh, với sự hợp t�c của đảng Zelanti, ng�i t�m hết c�ch để t�nh thế trở lại như xưa, đồng thời d�ng biện ph�p cứng rắn đối với những phần tử b� Nhiệm v� đảng Carbonari.

Đức Pi� VIII (1829-30), thuộc h�ng qu� tộc Castiglioni, l� một vị Gi�o ho�ng đầy thiện ch�, th�ng minh v� rất � thức tr�ch nhiệm; nhưng v� triều đại qu� ngắn (20 th�ng), n�n ng�i chưa l�m được g� đ�ng kể. Việc cai quản nước T�a th�nh, ng�i trao hết cho hồng y Quốc vụ khanh.

Đức hồng y Cappellari d�ng Camaldoli đắc cử ng�i Gi�o ho�ng, tức Gregori XVI (1831-46), l� một nh� thần học v� gi�o luật nổi tiếng, nhưng lại �t kinh nghiệm về ch�nh trị. Đời ng�i gặp nhiều s�ng gi�. Những cuộc nổi dậy đ�nh chiếm nước T�a th�nh (1831- 32); phải nhờ qu�n đội �o mới dẹp y�n, nhưng lại mất Bolonia về tay �o quốc trong 7 năm v� qu�n đội Ph�p chiếm đ�ng Ancona. Bấy giờ một cao tr�o d�ng l�n chống đế quốc �o thực d�n, qu�n của Gi�o ho�ng phải tốn nhiều c�ng mới dẹp được những vụ bạo động.

Từ năm 1821, nhiều cường quốc đ� gởi đến Gi�o triều những khuyến c�o đ�i cải tổ nước T�a th�nh, v� năm 1831 họ nhắc lại một lần nữa. Nhưng đức Th�nh Cha cũng như c�c hồng y Quốc vụ khanh Bernitti v� Lambruschini đ� kh�ng l�m được g� cho c�ng cuộc cải c�ch, như cho thường d�n tham gia ch�nh quyền, nh�n nhận quyền h�nh ch�nh tại c�c thị x�. Đ� từ l�u ng�nh h�nh ch�nh lẫn tư ph�p gặp nhiều thiếu s�t v� đến l�c c� thể n�i l� trầm trọng. Đường hỏa xa, d�y điện kh�ng được ph�p đặt tr�n đất T�a th�nh. C�ng nợ gia tăng mỗi năm một c�ch đ�ng lo ngại. Gi�o triều c�n c� th�i độ ti�u cực trước phong tr�o thống nhất Quốc gia � mỗi ng�y d�ng cao, m� c�c thủ l�nh đang t�m hết c�ch để tạo dựng một thời đại Phục hưng. Đảng �� Đại Lợi Trẻ� được th�nh lập (1831) do luật sư G. Mazzini (1805-72) điều khiển, l� một đảng C�ch mạng b�i t�n gi�o. N� tung ra khắp đất � những hoạt động k�n đ�o nhằm lật đổ c�c �bạo ch�a�, nhất l� quyền tối cao của Gi�o ho�ng. Cả h�ng gi�o sĩ cũng nhiễm phần n�o tư tưởng c�ch mạng n�y. Nhiều nh� �i quốc �n h�a, như thi sĩ A. Mazoni, hai linh mục triết gia V. Gioberti v� M. Azeglio đều đ�ng vai h�a giải giữa ng�i Gi�o ho�ng v� chủ nghĩa Tự do ch�nh trị, c�c �ng mơ ước một li�n bang � quốc dưới vương quyền của đức Gi�o ho�ng v� binh quyền của xứ Piamonte v� Sarđenia. Người ta mỗi ng�y th�m x�c t�n một cuộc C�ch mạng thế n�o cũng xảy ra.

Cuộc C�ch mạng đ� c�ng đến gần hơn, khi đức Pi� IX (1846-78), thuộc d�ng qu� tộc Mastai Ferretti, gi�m mục Imola, hồng y từ năm 1840, l�n ng�i Gi�o ho�ng. Vốn l� con người thức thời mềm dẻo, nh� nhặn, ng�i bắt tay v�o việc với đường hướng mới, cố gắng thực hiện cuộc cải c�ch hết sức rộng r�i trong việc cai trị nước T�a th�nh.

Nhiều t� nh�n ch�nh trị được ph�ng th�ch, việc kiểm duyệt giảm nhẹ. Roma tổ chức th�nh một thị x� d�n sự, nhiều thường d�n gia nhập ch�nh quyền v� cuối c�ng, ng�y 14.3.1848, một hiến ph�p được ban h�nh, dự liệu hai nghị viện: một do đức Th�nh Cha đề cử, một do d�n đầu phiếu: Hồng-y-đo�n đứng tr�n cả hai viện v� được coi l� thượng viện. Những cải c�ch n�y đ� g�y được một bầu kh� h�a dịu: nhưng n� đến qu� muộn v� kh�ng c� thể ngăn cản được gi�ng tố c�ch mạng nổi dậy khắp �u ch�u năm 1848. D�n ch�ng bị tuy�n truyền nhồi sọ bởi những nh�m c�ch mạng qu� kh�ch, bỗng v�ng l�n, đ�i hỏi những điều kh�ng ai c� thể thỏa m�n nổi.

Th�ng 4 năm 1848, Carlo Alberto, vua xứ Piamonte, tuy�n chiến với �o quốc. V� đức Th�nh Cha, tuy đ� t�n th�nh việc thống nhất ng�nh quan thuế, nhưng từ chối tham gia cuộc �th�nh chiến� giải ph�ng d�n tộc �, ng�i đ� mất hết cảm t�nh đối với c�c nh� �i quốc. Vị chủ tịch hội đồng nội c�c, b� tước Pellegrino Rossi bị �m s�t ch�nh ng�y khai mạc viện d�n biểu (15.11.1848); cả đức Th�nh Cha cũng bị d�n ch�ng bủa v�y v� đe dọa tại điện Quirinal. Để khỏi mất tự do, ng�i tr� h�nh chạy trốn xuống th�nh Gaeta thuộc xứ Napoli ng�y 24.11.1848. Ở Roma, một Nghị hội lập hiến th�nh lập v� tuy�n bố nền Cộng h�a (9.2.1840) dưới sự điều khiển của �tam đầu chế�: Mazzin Saffi v� Armellini. Qu�n c�ch mạng đ� kh�ng tha x�c phạm đến c�c th�nh đường v� tu viện ở gi�o đ�.

Từ Gaeta, đức Th�nh Cha Pi� l�n tiếng k�u gọi sự can thiệp của c�c cường quốc �u ch�u. Qu�n đội Ph�p dưới quyền chỉ huy của tướng Oudinot chiếm Roma th�ng 7 năm 1849, t�i lập quyền Gi�o ho�ng. Đức Th�nh Cha trở về kinh th�nh mu�n thuở th�ng 4 năm 1850, cố gắng h�n gắn lại c�c vết thương do cuộc c�ch mạng g�y n�n. Nhưng ch�nh ng�i v� vị hồng y Quốc vụ khanh bảo thủ Antonelli, đ� kh�ng chấp nhận ch�nh thể Lập hiến. Chế độ độc đo�n cũ vẫn duy tr�, chỉ mở rộng th�m cho thường d�n gia nhập guồng m�y cai trị tại c�c tỉnh v� l�ng x�. Qu�n đội Ph�p tr� đ�ng tại Roma (1849-70) bảo vệ đức Th�nh Cha. C�c tỉnh miền Bắc cũng c� qu�n đội �o trấn đ�ng cho tới năm 1859 sau khi đ�nh bại Carlo Alberto (1849); �ng n�y từ chức v� nhường ng�i cho con l� Victor-Emmanuel II (1849-78).


II

GI�O HỘI C�NG GI�O

TẠI C�C NƯỚC TIN L�NH V� CH�NH THỐNG


1. T�nh h�nh s�ng sủa hơn ở Đức v� �o
[11]

Từ cuối thế kỷ XVIII, �Th�nh Đế quốc La Đức� (Saint Empire Romain Germanique), do Otton I thiết lập (962), bắt đầu sa s�t v� chia th�nh 300 Quốc gia v� th�nh phố tự trị, m� vị ho�ng đế cuối c�ng l� Franziskus II (1792-1806). V� ở cạnh nước Ph�p, lại c� sẵn chủ trương tự do tư tưởng của phong tr�o �Chiếu s�ng� (Aufklarung), đế quốc kh�ng khỏi chịu ảnh hưởng của C�ch mạng. D�n ch�ng v�ng l�n lật đổ chế độ đế quốc. Ho�ng đế Franziskus II k�u gọi c�c �ng ho�ng C�ng gi�o miền Nam đo�n kết gi�p �ng �dẹp loạn� nhưng họ đ� trốn chạy hết. Cũng như ở Ph�p, Gi�o hội bị b�c lột hết t�i sản, bị đ�n �p, b�ch hại, tuy kh�ng d� man bằng. C�ch mạng muốn thế tục h�a Gi�o hội, biến h�ng Gi�o phẩm th�nh c�ng cụ của ch�nh quyền. Thấy �Th�nh Đế quốc� mất hết � nghĩa, kh�ng c�n đủ khả năng để bảo vệ ng�i Gi�o ho�ng v� Hội th�nh nữa, ho�ng đế Franziskus tuy�n bố tho�i vị (6.8.1806) v� từ đấy �ng mang t�n Franziskus I vua nước �o (1806-35).

Cũng năm 1806, Napol�on I thiết lập li�n bang Rhenani, quy tụ c�c �ng ho�ng người Đức hai miền Nam v� T�y phục quyền �ng, trong đ� kh�ng c� Phổ v� �o. Napol�on muốn li�n bang n�y k� Hiệp ước với T�a th�nh như �ng đ� l�m năm 1801; nhưng quận c�ng gi�o chủ Dalberg c� những đ�i hỏi qu� đ�ng v� thi�n về một Gi�o hội quốc gia: muốn đứng ngo�i ảnh hưởng Roma, c� c�ng đồng ri�ng, gi�o chủ ri�ng. Hồng y Quốc vụ khanh Consalvil (1757-1824) d� cố gắng rất nhiều, nhưng vẫn kh�ng th�nh. Cuối c�ng T�a th�nh điều đ�nh với từng Quốc gia một. Sau khi Napol�on đi đ�y, li�n bang Rhenani bị Nghị hội Vienna (1815) giải t�n v� thay thế bằng một li�n bang Đức quốc, gồm 39 nước lớn nhỏ n�i tiếng Đức, trong đ� c� cả Phổ v� �o, lấy Vienna l�m kinh đ�.

Năm 1817, một hiệp ước được k� giữa T�a th�nh v� Bavaria chia Quốc gia n�y ra l�m 2 tổng gi�o phận v� 6 gi�o phận, nh� Vua bổ nhiệm gi�m mục, đức Th�nh Cha thừa nhận theo gi�o luật. Nhưng sau đ�, c�c �ng ho�ng cũng đưa ra những điều khoản k�m theo Hiệp ước 1801 của Napoleon. T�a th�nh phản đối nhưng v� hiệu. Tuy nhi�n, dưới thời vua Ludwig I (1825-48) học tr� cũ của nh� thần học Sailer, Gi�o hội Bavaria được thở một bầu kh� rất dễ chịu. Năm 1826, viện đại học ở Landshut chuyển sang Munich, quy tụ những nh� th�ng th�i C�ng gi�o nổi tiếng như Gorres Dollinger, Phillips..., v� trở th�nh trung t�m đầu n�o C�ng gi�o Đức thời đ�. Nh� Vua c�n cho thiết lập nhiều đại chủng viện, tr�ng tu v� kiến thiết th�m nhiều ng�i th�nh đường như vương cung th�nh đường Th�nh Bonifaci� ở Munich. Được sự l�nh đạo tinh thần của nhiều vị gi�m mục t�i đức, như Sailer th�nh Ratisbon (+ 1832), Reisach tổng gi�m mục Munich-Freising (Hồng y, 1855), đời sống C�ng gi�o ở Bavaria phục hồi tr�ng thấy.

Nhiều Quốc gia như Wurtemberg Hesse, Nassau, thuộc c�c �ng ho�ng Tin l�nh cũng muốn điều đ�nh với T�a th�nh, nhưng họ đặt qu� nhiều điều kiện n�n T�a th�nh b�c bỏ (1818). Kết quả, nhiều �ng ho�ng c�ng bố bản D�n hiến gi�o sĩ giống như ở Ph�p thời C�ch mạng.

Sau 5 năm điều đ�nh với đại sứ Phổ tại Roma, ng�y 16.7.1821 đức Th�nh Cha Pi� VII ban h�nh T�ng chiếu De saltute animarum giải quyết c�c vấn đề bang giao giữa T�a th�nh v� Quốc gia Phổ. T�ng chiếu được vua Friedrich Wilhelm III (1797-1840) nh�n nhận như luật ph�p quốc gia, miễn �kh�ng đụng chạm tới quyền tối cao của �ng�. Nhưng 4 năm sau, xảy ra vụ �h�n nh�n kh�c t�n gi�o�, nh� Vua theo gương c�c Quốc gia Tin l�nh kh�c, t�m c�ch đ�n �p h�ng gi�o sĩ C�ng gi�o. Từ năm 1803, nước Phổ đ� c� đạo luật ấn định con c�i của h�n nh�n kh�c t�n gi�o phải theo đạo của người cha, nhưng m�i đến năm 1825 mới đem thi h�nh. T�a th�nh phản đối v� đức tổng gi�m mục th�nh Cologne can đảm theo đ�ng Sắc lệnh T�a th�nh, nghĩa l� kh�ng chứng h�n cho những đ�i t�n h�n kh�c t�n gi�o, kh�ng chịu cam kết rửa tội v� gi�o huấn c�c con theo đạo C�ng gi�o. Đức tổng gi�m mục bị tống giam, đức Th�nh Cha l�n tiếng v� to�n thể gi�o d�n ủng hộ. Kế đ�, đức tổng gi�m mục th�nh Posen cũng bị giam giữ. Cả �u ch�u C�ng gi�o l�n �n h�nh động của Friedrich Wilhelm III, nhưng �ng quyết kh�ng nhượng bộ.

Năm 1840, Friedrich Wilhelm IV (1840-61) l�n kế nghiệp cha. T�n vương th�nh thật muốn điều đ�nh với T�a th�nh, tha cho hai tổng gi�m mục được trở về địa phận v� trả lại danh dự. Từ đấy Gi�o hội được tự do hoạt động, nhất l� từ khi nước Phổ c� hiến ph�p 1848. T�a tổng gi�m mục Cologne với đức cha Geissel trở th�nh trung t�m Phục hưng C�ng gi�o. Cuối năm 1848, đức cha tổ chức v� chủ tọa hội nghị c�c gi�m mục Đức tại Wurzburg (Bavaria) soạn thảo quy chế h�ng gi�o sĩ, đồng thời y�u cầu cho người C�ng gi�o quyền tự do gi�o dục, c�c d�ng tu được t�i thiết hoặc th�nh lập th�m, c�c gi�m mục được tự do giao dịch với T�a th�nh v� gi�o d�n; tất cả đều được Friedrich Wilhelm IV chấp thuận. Từ đấy c�c d�ng tu lại xuất hiện, c�ng việc truyền gi�o v� tuần đại ph�c được tổ chức ở tỉnh th�nh cũng như ở th�n qu�, đem lại nhiều kết quả. Từ năm 1852, người C�ng gi�o đ� c� một lực lượng ch�nh trị kh� mạnh, họ c�n cố tranh đấu đ�i quyền b�nh đẳng với đạo Tin l�nh nữa.

Tại c�c Quốc gia kh�c thuộc những �ng ho�ng Tin l�nh, Gi�o hội vẫn gặp nhiều kh� khăn v� bị ch�n �p. Nhưng từ năm 1848 đức tổng gi�m mục th�nh Freiburg (Bade) đ� l�n tiếng đ�i quyền c�ng d�n C�ng gi�o, v� ng�i th�nh c�ng. Đến năm 1850, khi đức cha Ketteler (+ 1877) l�n l�m gi�m mục th�nh Mainz (Palatinat), th� t�nh thế thay đổi hẳn: ng�i l� người thứ nhất đề ra chủ nghĩa X� hội C�ng gi�o ở Đức. Ng�i chủ trương sự bắt tay cộng t�c trong c�ng b�nh v� huynh đệ C�ng gi�o, chống lại chủ nghĩa x� hội đấu tranh muốn giải quyết t�nh trạng x� hội bằng c�ch thanh to�n nhau. Ng�i cũng rất quan t�m đến việc cải thiện h�ng gi�o sĩ trong gi�o phận. Năm 1851 hội nghị c�c gi�m mục họp tại Freiburg, đ�i quyền tự do cho Gi�o hội, kh�ng được đ�p lời, năm 1853 c�c gi�m mục lại hội nhau lần nữa, với sự cộng t�c của c�c cha sở. Cuối c�ng, ch�nh quyền phải nhượng bộ.

Bavaria năm 1848 vua Ludwig I, sau vụ sủng phi Lola Montez đ� phải tho�i vị; một Ch�nh phủ �tự do� l�n cầm quyền. C�c gi�m mục hội nhau tại Freising năm 1850 v� một lần nữa năm 1853, y�u cầu Ch�nh phủ cho thi h�nh Hiệp ước 1817 v� b�i bỏ những điều khoản chủ trương Đức gi�o: c�c ng�i đ� đạt được một số kết quả (1852-54). N�i t�m, từ năm 1850 t�nh h�nh C�ng gi�o ở li�n bang Đức quốc s�ng sủa hơn nhiều, v� c� ảnh hưởng lớn trong đời sống x� hội.

Nước �o bấy giờ l� một đế quốc rộng lớn c� thế lực, gồm nhiều chủng tộc kh�c nhau. Gi�o hội C�ng gi�o ở đ�y �t bị thế tục h�a, n�n kh�ng c� chương tr�nh Phục hưng như ở nhiều nước kh�c. Tuy nhi�n, phe triết gia v� chủ trương Josephisme c�n ảnh hưởng trong nước v� mạnh hơn bất cứ nơi n�o kh�c. Metternich l� một ch�nh trị gia độc t�i kh�t tiếng nắm quyền thủ tướng suốt 39 năm (1809-48) dưới hai triều ho�ng đế Franziskus I (1792-1835) v� Ferdinandus I (1835-48); �ng l� kẻ th� của mọi khuynh hướng tự do v� nhất l� kẻ th� tinh thần quốc gia chủng tộc. Với ch�nh s�ch bảo thủ ấy, �ng tin sẽ cứu được �u ch�u khỏi thảm họa, hay �t ra l�m n� đến chậm hơn. Đối với t�n gi�o, �ng coi đ� l� đầu n�o v� l� con mắt của ch�nh quyền. V� thế Gi�o hội được bảo vệ một c�ch �n cần, nhưng bằng đường lối quan lại.

Trong t�nh trạng đ� cho tới cuộc C�ch mạng th�ng 3 năm 1848, nhiều nh� truyền gi�o xuất hiện, nổi tiếng hơn cả c� th�nh Clemenl�-Maria Hofbauer (1751-1820) d�ng Ch�a Cứu thế, t�ng đồ th�nh Vienna v� Varsovia. Th�nh nh�n hoạt động chấn hưng tinh thần C�ng gi�o khắp miền Trung �u bằng giảng thuyết, giải tội, tổ chức hội đo�n, đồng thời b�nh trướng d�ng l�n ph�a Bắc n�i Alpes. Trong số những bạn th�n t�n, c� nhiều nh�n vật lỗi lạc, như sử gia ki�m triết học Schlegel, thi sĩ Werner, ch�nh trị gia ki�m kinh tế học Muller, cả ba đều l� người Đức miền Bắc theo đạo C�ng gi�o.

Cuộc C�ch mạng 1848 lật đổ Metternich. Hiến ph�p 1849 nh�n nhận quyền tự do t�n gi�o. H�ng gi�m mục �o họp tại Vienna năm 1848 đưa c�c nguyện vọng l�n ch�nh quyền; đứng đầu l� đức hồng y Fr. J. Schwarzenberg (+ 1885), tổng gi�m mục Salzburg, đức cha J. Othamar Rauscher (+ 1875), Gi�m mục Seckau (Vienna n. 1853, Hồng y n. 1855). Năm 1850, ho�ng đế Franz-Josef I (1848- 1916) từ bỏ việc can thiệp v�o c�c Sắc lệnh T�a th�nh, cho h�ng gi�o sĩ tự do li�n lạc với Roma, đồng thời nh�n nhận c�c gi�m mục c� to�n quyền trong vấn đề kỷ luật Gi�o hội v� tổ chức phụng vụ.

Ng�y 18.8.1855, nhờ ở những cố gắng của đức tổng gi�m mục Rauscher, một Hiệp ước được k� với T�a th�nh, chấm dứt chủ trương Josephisme: Gi�o hội đạt nhiều thắng lợi. Nhưng nội t�nh đế quốc bất an, vấn đề quốc gia chủng tộc, phản ứng của c�c phần tử cấp tiến v� gi�o ph�i Tin l�nh, tất cả những yếu tố ấy cản trở việc thực thi Hiệp ước. V� sự thực Hiệp ước 1855 kh�ng tồn tại l�u d�i.


2. Gi�o hội C�ng gi�o tại Anh quốc v� nhiều nước kh�c

Người Anglo-Saxon thời bấy giờ l�m chủ cả quần đảo Britannia, tại đ�y chiến tranh gi�nh độc lập Hoa Kỳ (1775-83) v� C�ch mạng ph�p (1789) đ� l�m giảm đi phần n�o những �p bức m� Gi�o hội phải chịu từ l�u. Ở Anh cũng như �i Nhĩ Lan d�n C�ng gi�o được tự do sống đạo, x�y cất học đường, h�nh nghề luật sư v� l�m c�ng chức hạng trung (1791-92). Người C�ng gi�o �i Nhĩ Lan c�n được quyền đầu phiếu v�o trong qu�n đội c� thể l�n đến cấp đại t� (1793).[12]

Trong khi đ�, gi�o d�n T� C�ch Lan cũng được hưởng đạo luật �Giảm khinh� (Reliefbill): những lệnh luật bất b�nh đẳng d�nh cho họ được b�i bỏ. Nhưng năm 1800, vua George III (1760-1820) ban h�nh đạo luật �Thống nhất� (Union Act) s�p nhập �i Nhĩ Lan v�o Anh quốc, lập tức một phong tr�o quốc gia �i v�ng l�n. Phong tr�o do luật sư D. O�connell (1775-1847) ph�t động bằng những cuộc biểu t�nh, quyết đ�i x�a bỏ đạo luật �Thống nhất� v� tranh đấu cho quyền b�nh đẳng giữa người C�ng gi�o v� Anh gi�o. Cuộc đấu tranh c� kết quả, năm 1829 Quốc hội chấp thuận đạo luật cho d�n �i b�nh đẳng với d�n Anh v� giải ph�ng d�n C�ng gi�o, sau khi buộc h�ng gi�m mục C�ng gi�o tuy�n bố rằng ơn v� ngộ của Gi�o ho�ng cũng như quyền tối thượng của ng�i trong c�c vấn đề thế tục kh�ng phải l� t�n điều. Người C�ng gi�o từ đấy c� thể ứng cử v�o Quốc hội v� giữ những chức vụ cao cấp trong ch�nh quyền, chỉ trừ chức thủ tướng vương quốc Anh v� ph� vương �i Nhĩ Lan.

Năm 1838, một đạo luật kh�c tha cho người C�ng gi�o �i khỏi đ�ng thuế cho h�ng gi�o sĩ Anh gi�o. Nhưng v� tất cả đất đai nằm trong tay người Anh, n�n đời sống n�ng d�n �i Nhĩ Lan c�n th� thảm lắm. Vấn đề n�y m�i đến năm 1903 mới giải quyết dứt kho�t bằng đạo luật �Đất đai� (Land Act). Trong những năm đ�i (1845-47) hai triệu người �i Nhĩ Lan di cư sang Hoa Kỳ, Anh quốc v� �c Đại Lợi; h�ng trăm ng�n người chết đ�i. Năm 1845, Gi�o hội C�ng gi�o tại đ�y mới được quyền c� t�i sản. Tất cả đều nhờ những cuộc biểu t�nh tranh đấu của d�n tộc �i, dưới sự l�nh đạo của nh� �i quốc O�connell. Năm 1844, �ng bị ch�nh quyền Anh bắt giam một năm. �ng từ trần v�o 2 năm sau, thọ 72 tuổi. Từ năm 1838, cha d�ng Capuxin� Theobald Mathew (+ 1856) ph�t động chiến dịch chống nạn say rượu, kh� trầm trọng trong d�n �i Nhĩ Lan bấy giờ.

Anh quốc, số gi�o d�n C�ng gi�o qu� b� nhỏ (70.000) v�o đầu thế kỷ XIX, gia tăng một c�ch hết sức ngoạn mục, kh�ng những v� d�n �i Nhĩ Lan di cư sang, nhưng c�n v� c� nhiều t�n hữu Anh gi�o trở lại, đặc biệt những nh�n vật cao cấp v� tr� thức. Tuy nhi�n, cũng c� một số người C�ng gi�o đi theo Anh gi�o.

Thời Phục hưng C�ng gi�o bắt đầu ngay giữa l�ng Anh gi�o, với những phong tr�o Tracts, Puseyisme v� Ritualisme ph�t xuất từ viện đại học Oxford (1833) m� đứng đầu l� hai gi�o sư thần học Newman v� Pusey.[13]

Đạo C�ng gi�o bắt đầu c� tiếng n�i qua đức cha Wiseman, Đại diện T�ng t�a ở Lon don. Luật sư Lockhart, ch�nh trị gia Ward, rồi mục sư Newman lần lượt sang h�ng ngũ C�ng gi�o. Newman sau một thời gian nghi�n cứu c�c th�nh gi�o phụ, đ� tuy�n xưng đức tin C�ng gi�o trong tay cha Dominic năm 1845, thụ phong linh mục tại Roma, v�o d�ng Diễn giảng v� khuếch trương d�ng n�y tại Anh quốc. Thủ tướng Gladstone đ� cho biến cố n�y l� một thắng lợi của Gi�o hội C�ng gi�o, �ng n�i: �Roma đ� đạt được một thắng lợi lớn nhất tại Anh quốc kể từ thời Cải c�ch�. Phong tr�o trở lại Mẹ Gi�o hội vẫn tiếp tục: Faber, Manning v� nhiều nh�n vật kh�c đều trở th�nh những người C�ng gi�o c� uy t�n.

Gi�o hội ở Anh quốc từ đấy, dưới sự l�nh đạo tinh thần của Wiseman (1802-65), Newman (1801-90) v� Manning (1808-92), trở n�n vững mạnh v� tiến triển, nhất l� nhờ ở những s�ch b�o, như cuốn T�ự biện hộ (Apologia pro vita sua) của nh� thần học hộ gi�o Newman. Năm 1850, con số gi�o d�n l�n 700.000 (tr�n 18 triệu d�n). Th�ng 9 năm ấy, bất chấp những tiếng phản đối của d�n kh�ng C�ng gi�o v� ch�nh quyền Anh, đức Th�nh Cha Pi� IX t�i thiết h�ng Gi�o phẩm, lập t�a Tổng Gi�m mục Westminster (London) với 12 gi�o phận phụ thuộc. Đức cha N. Wiseman được cử l�m tổng gi�m mục v� hồng y ti�n khởi, năm 1865 đức cha H. Ed. Manning l�n kế vị v� được phong hồng y năm 1875. Bốn năm sau, đức cha J. H. Newman cũng được thăng hồng y, v� trở th�nh người trứ danh nhất của Gi�o hội C�ng gi�o ở Anh thời Phục hưng.

Việc t�i lập h�ng Gi�o phẩm ở H� Lan (th�ng 3 năm 1853) kh�ng c� những pha ngoạn mục như ở Anh quốc. Nhưng l� kết quả của một việc l�m ki�n nhẫn, vững chắc, c� hệ thống, giống như người H� Lan lấn đất dần ra biển. Năm 1830, khi d�n Bỉ t�ch rời khỏi H� Lan, số người C�ng gi�o ở H� Lan chỉ c�n một phần ba v� phải sống dưới một chế độ ngột ngạt của Wilhem I (1815-40) v� Wilhehm II (1840-49). M�i đến năm 1848, nhờ c� cuộc C�ch mạng nổi dậy khắp �u ch�u, Hiến ph�p H� Lan mới sửa lại v� nh�n nhận quyền tự do t�n gi�o. Dưới triều đại h�a b�nh thịnh vượng của Wilhelm III (1849-89), năm 1853 đức Th�nh Cha Pi� IX t�i lập tổng gi�o phận Utrecht, với 4 gi�o phận phụ thuộc; th�m 2 gi�o phận nữa v�o 2 năm sau.[14]

Năm 1815, Lục X�m Bảo, một c�ng quốc C�ng gi�o, bị s�p nhập v�o H� Lan của Wilhelm I cho tới năm 1839. Sau đ�, l� một nước độc lập trong li�n bang Đức quốc, v� về t�n gi�o l� một gi�o phận Đại diện T�ng T�a (1840). Khi li�n bang Đức quốc giải t�n (1866), Lục X�m Bảo trở th�nh một Quốc gia trung lập, v� được thiết lập một gi�o phận ch�nh t�a năm 1870.

Đạo C�ng gi�o ở Thụy Sĩ đầu thế kỷ XIX hầu như mất hẳn tại nhiều th�nh phố lớn, như Berne, B�le, Zurich, Neuch�tel, cả ở Lausanne v� Gen�ve, l� những nơi đ� gần 3 thế kỷ kh�ng một linh mục C�ng gi�o n�o được thi h�nh sứ mạng của m�nh. Cuộc C�ch mạng Ph�p 1789 g�y ảnh hưởng kh�ng �t tại xứ n�y: cũng c� những vụ đ�n �p, b�ch hại, như việc giải t�n dan viện cổ k�nh Saint-Gall, trục xuất vị Sứ thần T�a th�nh, nhưng n� lại dẫn d�n việc phục hồi Gi�o hội C�ng gi�o tại Berne v� Gen�ve. Gi�o d�n ở Gen�ve v� 20 th�n x� l�n cận năm 1819 được trao cho đức gi�m mục gi�o phận Lausanne - Gen�ve, đặt trụ sở tại Fribourg. Việc Phục hưng Gi�o hội C�ng gi�o tại Thụy Sĩ trong thế kỷ n�y đ� gặp trở ngại bởi nhiều biến loạn, bởi ph�i trưởng giả cấp tiến thường được sự trợ gi�p của gi�o ph�i Tin l�nh v� b� Nhiệm...

Trong c�c Quốc gia Scandinavian, Đan Mạch l� nước đầu ti�n từ bỏ chủ trương Gi�o hội quốc gia. Luật ph�p căn bản th�ng 6 năm 1849 nh�n nhận sự ho�n to�n tự do t�n ngưỡng v� đặt người C�ng gi�o ngang h�ng với mọi c�ng d�n kh�c về phương diện d�n sự v� ch�nh trị. Tuy nhi�n, con số của họ bấy giờ chỉ v�o khoảng từ 600 đến 700.

Na Uy hiệp nhất với Thụy Điển cho đến năm 1905. Quyền tự do t�n ngưỡng ở Na Uy được c�ng nhận năm 1845, trong khi ch�nh quyền Thụy Điển (năm 1779) chỉ cho ph�p những người C�ng gi�o ngoại quốc (nh�n vi�n sứ qu�n chẳng hạn) được giữ đạo của m�nh. Năm 1783 một địa phận Đại diện T�ng t�a được th�nh lập. Đối với người d�n Thụy Điển luật cấm theo đạo C�ng gi�o vẫn c�n m�i cho đến năm 1860.

B�n Hoa Kỳ, tuy l� đất tự do, đạo C�ng gi�o cũng gặp phải nhiều kh� khăn bởi những Ch�nh phủ theo Tin l�nh. Kh�ng những c� sự kỳ thị m� c�n c� nhiều vụ b�ch hại do đảng �Thổ d�n Mỹ� (Native America Party), rồi đảng �Kh�ng biết g� hết� (Know- nothing Party): họ ph� ph�ch, thi�u hủy th�nh đường, h�nh hạ c�c linh mục, c� khi s�t hại nữa; đến sau th�m đảng Ku Klux Klan (1866). Năm 1789, đạo luật �Ch�nh gi�o chia ly� được ban h�nh. Tuy nhi�n, Gi�o hội Cộng gi�o vẫn tiến triển nhờ ở sự b�nh trướng đất đai: Louisiana, Texas, nhất l� nhờ ở những nh�m di cư C�ng gi�o �i Nhĩ Lan, � , Đức, Canada, Ba Lan... Năm 1789, gi�o phận ch�nh t�a thứ nhất được thiết lập tại Baltimore, cha J. Carrol (= 1815) l�m gi�m mục ti�n khởi, năm 1808 Baltimore được n�ng l�n h�ng gi�o tỉnh. Việc thứ nhất của đức cha Carrol l� triệu tập c�ng đồng địa phận, s�ng lập học viện Georgetown (1791), v� một đại chủng viện. C�c cha hội Saint-Sulpice được mời đến điều khiển chủng viện. Nhiều d�ng tu bị trục xuất khỏi �u ch�u sang cộng t�c. Nhờ đấy, con số một gi�o phận đầu thế kỷ đ� l�n 6 tổng gi�o phận v� 7 gi�o phận v�o năm 1850.[15]


3. Gi�o hội C�ng gi�o v� Ch�nh thống tại Nga, Ba Lan v� Hy Lạp
[16]

Gi�o hội Ch�nh thống ở Nga đầu thế kỷ III phải chịu những biến chuyển đau thương do ch�nh s�ch của ho�ng đế Petrov Cả (1682- 1725), muốn mở cửa đ�n ảnh hưởng T�y phương v� quyết đưa nước Nga l�n h�ng cường quốc. V� thượng phụ gi�o chủ Ađrian chống đối ch�nh s�ch độc t�i của Nga ho�ng, n�n khi vị n�y qua đời (1700), t�a Gi�o chủ Matscơva phải bỏ trống suốt 20 năm liền, để rồi đuợc trao cho một vị gi�m quản. Năm 1721, ho�ng đế Petrov b�i bỏ hẳn chức Thượng phụ v� c�ng bố hiến chế mới. Hiến chế n�y tổ chức Gi�o hội Nga dựa theo thể chế �T�n gi�o Nghị hội� của Tin l�nh; một �Th�nh Hội đồng� (Saint Synode) gồm từ 11 đến 14 gi�m mục, linh mục đại diện ho�ng đế nắm mọi quyền quyết định v� cai trị Gi�o hội. C�c gi�m mục c� quyền như nhau, những từ ngữ �gi�o chủ�, �tổng gi�m mục�, chỉ l� những t�n hiệu danh dự. Hiến chế c�n n�i đến việc tổ chức c�c gi�o xứ v� tu viện một c�ch tỉ mỉ. Thể chế �Đế quyền t�n gi�o� n�y đứng vững m�i cho đến cuộc C�ch mạng 1905.

Đế quốc Nga trở n�n thịnh vượng dưới triều Katharina II (1762-96), nhưng lại l� thời đau thương của Gi�o hội C�ng gi�o Katharina l� một nữ ho�ng th�ng minh, t�i giỏi, chịu ảnh hưởng của phe triết gia T�y phương, nhưng cũng rất độc t�i. B� quyết qu�t sạch mọi vết t�ch �tự trị� c�n lại của Gi�o hội Ch�nh thống. Dưới triều đại n�y, nước Nga mở rộng sang Ba Lan bấy giờ bị cắt l�m ba mảnh cho ba nước Nga, Phổ, �o trong những năm 1772, 1793, 1795. Cả mấy triệu người C�ng gi�o Ba Lan chịu đặt dưới quyền thống trị của Katharina. Trong việc ph�n chia n�y, người ta đ� cam kết d�nh quyền tự do sống đạo cho người C�ng gi�o thuộc hai lễ nghi: Latinh v� Ruthen.[17] Nhưng những cam kết đ� chỉ l� một thứ b�nh vẽ. Ngược lại, ch�nh quyền Nga c�n bắt khối Ruthen phải t�ch rời Gi�o hội Roma, c�c th�nh đường bi tịch th�u, c�c t�a Gi�m mục (trừ Polosk) bị b�i bỏ, để những gi�m mục Ch�nh thống Nga đến thay thế. Sau c�ng, Gi�o hội C�ng gi�o Ruthen chỉ c�n v�o khoảng 200 gi�o xứ. Gi�o hội Latinh cũng kh�ng tr�nh được những thử th�ch, tuy kh�ng �c liệt bằng.

Mặc dầu Gi�o hội Ch�nh thống được đặt dưới quyền của Nga ho�ng vẫn kh�ng khỏi chia ra l�m nhiều phe ph�i, một phần do phản ứng của d�n ch�ng trước sự �p đảo của ch�nh quyền, một phần do sự bất m�n đối với h�nh động qu� h�nh thức của Gi�o hội Ch�nh thống. Gi�o ph�i Raskolniki (ly khai) đ� c� từ thế kỷ XVI, gi�o ph�i quan trọng hơn cả l� Staroviery (cựu t�n hữu) khai sinh v�o khoảng giữa thế kỷ XVII, khi thượng phụ gi�o chủ Nikon (1652-58) muốn c� một v�i cải c�ch; năm 1725 th�m gi�o ph�i Molokane (ăn b�nh sữa) chủ trương ăn b�nh sữa trong m�a Chay, điều m� Gi�o hội Ch�nh thống nghi�m cấm. Năm 1824, tại miền Nam một gi�o ph�i nữa xuất hiện giống như Pietisme ở Đức, đ� l� ph�i Stundiste (học Th�nh Kinh). Ngo�i ra c�n nhiều gi�o ph�i kh�c �t quan trọng hơn.

Lịch sử Gi�o hội C�ng gi�o ở Nga v� Ba Lan tiền b�n thế kỷ XIX c� hai giai đoạn tr�i ngược nhau. Ho�ng đế Paulus I (1796-1801), con của Katharina II, đ� chấm dứt việc b�ch hại v� cho người C�ng gi�o thuộc hai lễ nghi Latinh v� Ruthen một thể chế mới. Đối với Gi�o hội Ruthen, Nga ho�ng cho t�i lập c�c t�a Gi�m mục Polosk, Lusk v� Brest; đối với Gi�o hội Latinh, tổng gi�o phận Mohilev (t�a tại Petrograd) được th�m 5 gi�o phận phụ thuộc, v� Varsovia cũng th�nh một gi�o phận. Một Hội đồng Gi�m mục (Coll�ge eccl�siastique) được thiết lập tại Petrograd để điều khiển Gi�o hội C�ng gi�o Nga, nhưng phải hoạt động theo tinh thần một Gi�o hội quốc gia. Ho�ng đế Alexandrov I (1801-25) c� th�i độ rất c�ng minh đối với người C�ng gi�o, �ng c�n ngỏ � muốn theo đạo n�y; việc �ng thực hiện tr�n giường chết, chưa được ch�nh thức x�c nhận. Dưới triều đại �ng, Varsovia trở th�nh t�a Gi�o chủ C�ng gi�o Ba Lan với 7 gi�o phận phụ thuộc.

Ngược lại, con người t�n bạo độc đo�n Nikolai I (1825-55), em của Alexandrov I, đ� đ�i bắt chước Katharina II. Nh�m C�ng gi�o Ruthen bấy giờ lại bị �p buộc trở về với Gi�o hội Ch�nh thống Nga; Nikolai d�ng cả những biện ph�p xảo quyệt v� bạo lực để đạt mục đ�ch. Tại xứ Lithuania v� Siberia, Gi�o hội Ruthen bị tước hết gi�m mục, th�nh đường, tu viện, chủng viện; người ta quốc hữu h�a t�i sản Gi�o hội, bỏ t� c�c linh mục, tu sĩ chống đối, hoặc đưa đi đ�y Siberia, nhiều vị chết v� đức tin. J. Siemaszko, gi�m mục xứ Lithuania cũng như nhiều gi�m mục ở Bi�lorussia v� Brest, tại một c�ng đồng họp ở Polosk th�ng 2 năm 1839, đ� tuy�n bố chuyển sang h�ng ngũ Gi�o hội Ch�nh thống Nga c�ng với 1.300 gi�o sĩ; Roma mất đi khoảng 1.600.000 gi�o d�n.

Gi�o hội C�ng gi�o Latinh cũng kh�ng tr�nh được những cuộc bắt bớ, vấn đề ly khai dĩ nhi�n được ch�nh quyền cổ v�. Cuộc v�ng dậy của d�n Ba Lan v�o những năm 1830-31, điều m� đức Gregori XVI kh�ng t�n th�nh, đ� n�n cớ cho những cuộc đ�n �p d� man đẫm m�u. Trong một Huấn từ năm 1842, đức Th�nh Cha c�ng khai l�n �n cuộc b�ch hại đạo C�ng gi�o ở Nga, v� th�ng 12 năm 1845, khi ho�ng đế Nikolai đến viếng thăm Roma v� Vatican, đức Th�nh Cha đ� c� những lời lẽ cứng rắn v� nghi�m khắc. Kết quả, một thỏa hiệp mới được c�ng bố tại Nga, với một v�i thay đổi.[18]

D�n Hy Lạp cũng như Gi�o hội Ch�nh thống Hy Lạp thế kỷ XIX đều phải chịu nhiều khổ nhục dưới �ch đ� hộ của Thổ Nhĩ Kỳ. Thượng phụ gi�o chủ Constantinopoli bấy giờ chỉ l� một c�ng chức trong ch�nh quyền, ho�n to�n lệ thuộc v�o nh� Vua. Tuy nhi�n, nhiều biến cố ch�nh trị dồn dập xảy ra đ� b� buộc ch�nh quyền Thổ Nhĩ Kỳ phải c� th�i độ nh�n nhượng đối với c�c người kh�ng Hồi gi�o. Trong thời chiến tranh gi�nh độc lập (1821-29), Hy Lạp được c�c nước Anh, Nga, Ph�p trợ gi�p đ� tho�t được �ch Thổ Nhĩ Kỳ. Dưới triều Otton I (1832-62), năm 1833 Gi�o hội Ch�nh thống Hy Lạp tuy�n bố tự trị, nghĩa l� kh�ng lệ thuộc v�o thượng phụ gi�o chủ Constantinopoli nữa, việc n�y đến năm 1850 mới được vị thượng phụ nh�n nhận. Sau đ� �t l�u, Gi�o hội ho�n to�n bị đặt dưới quyền quốc gia. Đứng đầu l� gi�o chủ ở Ath�na với một hội đồng gồm 5 gi�m mục v� một vị tổng quản do ch�nh quyền đề cử.


III

ĐỜI SỐNG NỘI BỘ CỦA GI�O HỘI [19]


1. Kỷ luật, phụng vụ, nghệ thuật th�nh

Sau đại C�ch mạng Ph�p v� phong tr�o thế tục h�a Gi�o hội ở Đức Hội th�nh bị tước đoạt hầu hết t�i sản, để từ đấy phải nhờ v�o lương bổng của Quốc gia. Nhưng nh�n v�o kh�a cạnh kh�c, Gi�o hội lại được giải tho�t khỏi mọi lo �u về thế lực, để dồn hết t�m lực v�o sứ mạng thi�ng li�ng. Chắc chắn c� điểm hay n�y, l� từ nay h�ng qu� tộc kh�ng c�n quyền ưu ti�n trong việc được đề cử l�n chức gi�m mục, hoặc giữ những nhiệm vụ quan trọng nữa.

Kể từ khi cuộc C�ch mạng khai diễn, h�ng gi�o sĩ Ph�p d� từ bỏ quyền th�u thuế thập ph�n cũng như đặc �n miễn thuế. Dần dần thuế thập ph�n được b�i bỏ khắp nơi. Những đặc �n về tư ph�p cũng kh�ng c�n, nghĩa l� h�ng gi�o sĩ phải chịu h�nh luật như c�c c�ng d�n kh�c. T�a th�nh nh�n nhận t�nh trạng mới, kh�ng phải theo nguy�n tắc, nhưng v� �l� do ho�n cảnh� (temporum ratione habita), như c� ghi trong nhiều Hiệp ước mới. Khi gi�o luật bị d�n luật qua mặt, biện ph�p �l�m thinh� hoặc �bỏ qua� (tolerari posse) được �p dụng, miễn kh�ng x�c phạm đến luật Thi�n Ch�a.

Cũng như trong Hiệp ước giữa Vatican với Ch�nh phủ Ph�p năm 1801, hầu hết c�c Ch�nh phủ đều hủy bỏ chế độ quốc gi�o v� khẳng định sự b�nh đẳng giữa c�c t�n gi�o. Chủ trương tự do t�n ngưỡng (liberi� de conscience), đ� bị đức Th�nh Cha Gregori XVI gắt gao l�n �n l� phi l� v� sai lầm (Th�ng điệp Mirari vos 1832), l�c n�y lại được hầu hết c�c nước đem ra �p dụng, v� Gi�o hội C�ng gi�o tại những nước m�nh l� thiểu số, cũng dựa v�o đấy để đ�i quyền tự do.

N�i chung, t�nh trạng x� hội, đời sống tr� thức v� tinh thần của h�ng gi�o sĩ thế kỷ XIX phục hồi đ�ng kể. Nước Ph�p c� th�nh Gioan Vianney, cha sở Ars (1786-1859), n�u gương s�ng ch�i về đời sống t�ng đồ.[20] Gi�o d�n bắt đầu hướng về đức Th�nh Cha hơn xưa, c�c gi�m mục v� linh mục can đảm b�nh vực quyền lợi Gi�o hội. Những c�ng đồng miền, những cuộc hội họp của h�ng Gi�m mục g�y rất nhiều ảnh hưởng v�o đời sống đạo đức gi�o sĩ cũng như gi�o d�n. Nhiều nh�n vật đứng ra viết s�ch, giảng thuyết b�nh vực quyền tối cao v� ơn v� ngộ của Gi�o ho�ng, như triết gia văn h�o De Maistre (1753-1821), cha H. Lacordaire (1802-61) d�ng Đaminh

Về kỷ luật Gi�o hội, người ta thấy c� khuynh hướng khoan hồng hơn l� nghi�m trị, nhất l� đối với thường d�n. Rất �t khi đi đến biện ph�p phạt vạ c�ng khai. Luật chay l�ng v� ki�ng kỵ được giảm bớt. Về c�c ng�y lễ buộc, C�ch mạng Ph�p đ� b�i bỏ hết; khi trật tự v�n hồi, Gi�o hội cũng c� th�i độ �n h�a, nhiều lễ kh�ng c�n buộc như xưa, v� được �p dụng kh�ng những trong nước Ph�p m� c�n ở nhiều nước kh�c.

Về lễ nghi phụng vụ tuy kh�ng c� g� thay đổi quan trọng, nhưng c� những bước tiến đi đến sự thống nhất v� tốt đẹp hơn. C�ng đồng Trento mặc dầu đ� c� nhiều chỉ thị cải c�ch, song vẫn c�n những bất đồng về nhiều điểm thứ yếu. Don Gu�ranger, đan viện phụ Solesmes, v� l� người c� c�ng cải c�ch đời sống đan viện ở Ph�p, mở chiến dịch b�i trừ c�c lễ nghi ri�ng rẽ bằng những bộ s�ch lớn, nhan đề Lễ nghi phụng vụ (Institutions liturgiques 1840-51) v� Năm phụng vụ (L'ann�e liturgique, 1841-66); ng�i đ� th�nh c�ng.[21] Chỉ c�n Lyon giữ lễ nghi cũ của m�nh, giống hệt như lễ nghi Ambrosian được cử h�nh ở Milan, v� lễ nghi Mozarab tại một v�i th�nh đường ở Toledo.

Don Gu�ranger c�ng hai m�n đệ Don Pothier v� Don Mocquereau c�n lo phục hưng nhạc Gregorian. C. Bordes, tuy�n �y th�nh đường Saint-Gervais ở Paris, với sự cộng t�c của V. d'Indy, năm 1894 đ� thiết lập một trường �m nhạc (Schola Cantorum) nhằm truyền b� b�nh ca Gregorian theo phương ph�p của Solesmes. B�n Đức, G. Ett ở Munich v� C. Proske ở Ratisbon, cũng đ� g�p nhiều c�ng v�o c�ng cuộc phục hưng n�y, bằng c�ch gạt bỏ những nhạc điệu v� vị hoặc qu� trần tục của thế kỷ XVIII.

Lợi dụng thời canh t�n nghệ thuật thế kỷ XIX, đặc biệt ng�nh hội họa ở Ph�p, nghệ thuật th�nh c� bước tiến quan trọng. Việc Quốc gia thay thế Gi�o hội trong sự giữ g�n v� x�y cất th�m c�c cơ sở t�n gi�o, đ� đem đến một nghệ thuật �theo kiểu mẫu� (acad�mique), tuy nhi�n kh�ng phải l� kh�ng c� những s�ng kiến mới mẻ. Đằng kh�c người ta muốn quay về nghệ thuật thời Trung cổ hơn l� những s�ng t�c tự do. Ở Ph�p, do ảnh hưởng của hai nh� kiến tr�c Rio v� Montalembert, người ta đ� th�i x�y cất những th�nh đường theo lối t�n cổ điển (n�o-classique) của thế kỷ XVIII, để trở lại kiểu Gothic.[22]

Viollet le Duc (1814-79) nghi�n cứu ng�nh kiến tr�c thời Trung cổ, sau đ� đảm nhận việc tr�ng tu vương cung th�nh đường Notre-Dame ở Paris, đan viện Saint-Denis, Sainte-Chapelle, v.v�; rất nhiều th�nh đường, th�nh điện cổ k�nh bị ph� hủy nay được kiến thắt lại dần dần. Ở Đức, c� Reichensperger (1808-95) cũng theo lối kiến tr�c của Viollet le Duc, đ� tr�ng tu nhiều th�nh đường hoặc t�i thiết theo đ�ng kiểu mẫu xưa, như đại th�nh đường Cologne (1824-80); trong số những c�ng tr�nh kiến tr�c mới, phải kể đến th�nh đường Th�nh Bonifaci� ở Munich (1835-50).


2. Sự phục hưng c�c d�ng tu v� đời sống đạo của gi�o d�n

Sự phục hưng c�c d�ng tu ở Ph�p v� Đức sau thời C�ch mạng rất quan trọng, s�nh được với thời thịnh của thế kỷ thứ XII v� XIII. Hai yếu tố sau đ�y gi�p ta hiểu nguy�n nh�n của cuộc phục hưng n�y: d�n số T�y �u gia tăng vượt mức,v� những thử th�ch đ� l�m đời sống đạo gi�o d�n th�m sốt sắng v� quảng đại. Đặc biệt, v� cũng lạ l�ng l� c�c d�ng tu ấy b�nh trướng mau lẹ, bất chấp những h�nh động chống đối của kẻ th� v� sự b�ch hại hoặc l�m kh� dễ của nh� cầm quyền. Ở Ph�p, cuộc C�ch mạng 1789 đ� giải t�n cả 100.000 tu sĩ nam nữ, nhưng con số đ� trở lại v� l�n tới 300.000 v�o cuối thế kỷ XIX. Sự phục hưng bắt đầu từ những d�ng tu cũ.[23]

Tu hội Nữ tử B�c �i được Napol�on I cho hoạt động trở lại từ năm 1807; b�nh trướng khắp thế giới v� trở th�nh d�ng tu đ�ng nhất v� c� lẽ cũng chiếm hạng nhất trong c�ng cuộc từ thiện.[24]

Đức Th�nh Cha Pi� VII t�i lập d�ng T�n Ch�a Gi�su, trước hết ở Nga (1801) v� vương quốc Sicilia (1804), sau đ� ra c�ng chiếu Sillicitudo omnium Ecclesiarum (7.8.1814) ch�nh thức t�i lập d�ng n�y sau 41 năm bị giải t�n; bởi v�, như ng�i n�i: �Những tay l�i đầy kinh nghiệm v� h�ng tr�ng của con thuyền Pher� n�y, sẽ c� một sứ mạng đặc biệt trong th�' kỷ XIX�. Dưới thời bề tr�n tổng quyền Ph. Roothaan (1829-53), d�ng T�n thực sự đ� nhận lại sứ mạng �Khinh binh� Ch�a Kit� v� hoạt động hăng h�i kh�ng k�m xưa, len lỏi v�o hết mọi l�nh vực quan trọng đời sống Gi�o hội.Từ năm 1850, c�c cha d�ng T�n người � ph�t h�nh tại Roma tờ La Civilt� Cattolica (Văn minh C�ng gi�o) l� một trong những cơ quan ng�n luận C�ng gi�o c� ảnh hưởng lớn nhất.

Năm 1839, nh� h�ng biện trứ danh H. Lacordaire cũng hoạt động r�o riết cho việc t�i lập d�ng Đaminh đ� bị trục xuất khỏi nước Ph�p từ năm 1790, ba tỉnh d�ng được t�i lập trong những năm từ 1850 đến 1865. Khi l�n tiếng đ�i quyền sống cho một d�ng tu đ� bị ch�nh quyền b�i bỏ, tức l� Lacordaire đ� mở lối cho sự phục sinh của nhiều hội d�ng kh�c.[25]

Nhiều hội d�ng từ từ lấy lại những tu viện cũ của m�nh, hoặc x�y cất những cơ sở mới. Ở Bavaria dưới triều Ludwig I, nhiều đan viện Biển đức được t�i thiết, v� b�nh trướng sang Bắc Mỹ v�o những năm 1846 v� 1854. Ở ph�p, như n�i tr�n, Don Gu�ranger đan viện phụ Solesmes c� c�ng cải tổ đời sống đan viện Biển đức từ năm 1837. A. Gratry năm 1852 c�ng với đức cha Perraud, gi�m mục Autun (sau l�n chức Hồng y, +1906), phục hưng d�ng Diễn giảng.

Phần lớn c�c tu hội th�nh lập trong thế kỷ XIX đều c� gốc ở Ph�p, rồi b�nh trướng sang nhiều Quốc gia kh�c một c�ch mau ch�ng. C�c tu hội n�y thường c� mục đ�ch truyền gi�o trong v� ngo�i nước, hoặc đảm nhận việc gi�o dục thanh thiếu ni�n; chưa kể những tu hội chuy�n hoạt động tại c�c bệnh viện. Những hội d�ng truyền gi�o ch�ng t�i sẽ n�i trong chương VII; ở đ�y chỉ kể một số tu hội chuy�n gi�o dục, b�c �i, x� hội.

1800: D�ng c�c B� Th�nh T�m Ch�a (Les Dames du Sacr� Cocur) được th�nh lập ở Paris do th�nh nữ Mađalena Sophia Barat (+ 1865), c� mục đ�ch gi�o dục c�c thiếu nữ. Hiến ph�p d�ng n�y phỏng theo d�ng T�n.

1817: Tu hội Marianiste (Soci�t� de Marie, Les Marianistes) gồm hai ng�nh Nam v� Nữ, do cha G. J. Chaminade (+ 1850), người đảm nhận việc gi�o dục v� truyền b� sự s�ng k�nh Đức Maria.

1817: D�ng Tiểu đệ Mariste (Institut des Petits Fr�res Maristes des �coles), chuy�n dạy gi�o l� trong c�c trường trung tiểu học v� lập lưu học x�.

1835: D�ng Đấng Chăn L�nh (Les Soeurs du Bon Pasteur) ở Angers do th�nh nữ Maria Euphrasia Pelletier (+1868), c� mục đ�ch hoạt động b�c �i x� hội, đặc biệt gi�p đỡ c�c thanh thiếu nữ ho�n lương. D�ng Đấng Chăn L�nh hiện nay l� một trong những d�ng tu lớn, c� mặt hầu khắp thế giới.

1840: D�ng Tiểu muội của Người ngh�o (Les Petites Soeurs des Pauvres), do b� J. Jugan (+1879) th�nh lập tại Saint-Servan (Bretagne) với sự cộng t�c của linh mục Le Pailleur, mục đ�ch hoạt dộng b�c �i x� hội, đặc biệt săn s�c người gi� cả ốm đau. D�ng b�nh trướng mau lẹ v� được c�c giới hoan ngh�nh. Năm 1845, b� Jugan được H�n l�m viện Ph�p trao tặng giải thưởng Montyon.

1842: D�ng Đức B� N�i Sion (Congr�gation de Notre-Dame de Sion) gồm hai ng�nh Nam Nữ, c� mục đ�ch gi�o dục người Do Th�i trở lại, do hai anh em Ratisbonne: Theodore (+1884) v� Alphonse (+ 1883). Cả hai từ Do Th�i gi�o trở lại, anh năm 1827, em năm 1842. Alphonse đ�n sau l�n chức Hồng y (H. de Bonnechose) .[26]

1845: D�ng Assumptioniste (Les Augustins de l'Assomp-tion) theo lề luật th�nh �utinh, do đức �ng Em. d'Alzon (1810-81), bề tr�n gi�o phận Nimes, s�ng lập. D�ng chuy�n ng�nh gi�o dục thiếu ni�n, chấn hưng đời sống C�ng gi�o, cổ v� sự hiệp nhất Kit� hữu, bằng b�o ch� (tờ La Croix de Paris) v� truyền gi�o.

1849: Tu hội Chị Em Đấng Cứu Chuộc (Les Soeurs du Tr�s Saint Sauveur) cũng gọi l� Chị Em Niederbronn được thiết lập tại Niederbronn (Alsace) do b� Elisabeth Eppinger (+1867), c� mục đ�ch săn s�c người ngh�o khổ bệnh tật; rất thịnh vượng trong c�c nước Ph�p, Đức, �o.

Đời sống C�ng gi�o thời n�y bị ảnh hưởng chủ nghĩa duy l�, n�n sa s�t về đức tin v� l�ng đạo. Nhưng rồi người ta nhận thấy ngay nơi h�ng gi�o sĩ cũng như gi�o d�n, một đức tin sống lại v� thực h�nh. Đ� l� nhờ ở sự si�ng năng chịu c�c b� t�ch; nhờ ở những cuộc tĩnh t�m, những tuần đại ph�c, những cuộc h�nh hương, những tổ chức hội đo�n; nhờ ở l�ng quảng đại hy sinh của nhiều hội từ thiện đủ ng�nh, như x�y cất hoặc coi s�c th�nh đường, thương gi�p người ngh�o khổ, truyền b� đức tin; nhờ ở sự quan t�m đến nền gi�o dục thanh thiếu ni�n, nhất l� dạy gi�o l�; nhờ ở phong tr�o phục hưng c�c hội d�ng; sau hết, nhờ ở gi�o d�n sốt sắng trung th�nh với c�c nh� cầm quyền Gi�o hội. L�ng t�n s�ng đối với Th�nh Thể, Th�nh T�m Ch�a Gi�su v� Đứ�c Mẹ cũng nổi bật trong thời n�y.[27]

Điểm đặc biệt của thời đại n�y l� sự tham gia nồng nhiệt của gi�o d�n, kể cả giới tr� thức v� gi�u sang, v�o c�ng cuộc truyền gi�o v� b�nh vực quyền lợi Gi�o hội. Trước hết, tất cả mọi người đều lo lắng v� cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kit� gi�o. Những kết quả đạt được ở Anh v� Đức n�i tr�n, chứng minh điều đ�. Rất nhiều hội đo�n được th�nh lập dưới nhiều h�nh thức kh�c nhau, nhưng c�ng một mục đ�ch hoạt động t�n gi�o, văn h�a, x� hội, b�c �i. Ngo�i những hội đo�n truyền gi�o sẽ n�i đến trong chương VII dưới d�y, người ta kh�ng thể qu�n được Hội B�c �i Th�nh Vinh sơn-Phao l� do ch�n phước Fr�d�ric Ozanam (1813-53) s�ng lập ở Paris năm 1833, lan rộng mau ch�ng khắp nước Ph�p, v� tr�n thế giới; ở Đức, Hội Th�nh Elisabeth thiết lập tại Tr�ves năm 1840, c� mục đ�ch thăm viếng v� gi�p đỡ người ngh�o khổ bệnh tật, giống như Hội �i hữu C�ng gi�o (Association Catholique des compagnons) th�nh lập năm 1846 ở Elberfeld, sau được linh mục Ad. Kolping (+ 1865) tổ chức tại Cologne, v� từ đấy ph�t triển mạnh mẽ.


3. Khoa học th�nh v� lạc thuyết

Trong thời C�ch mạng, nhiều tu viện, đại chủng viện, đại học C�ng gi�o bị đ�ng cửa. Tuy nhi�n, những tổn hại do ph�i triết gia v� duy l� g�y ra cho nền học vấn của Gi�o hội c�n nặng nề hơn. Nhiệm vụ của Gi�o hội l�c n�y, kh�ng phải chỉ lo x�y dựng lại một nền thần học cổ truyền, nhưng v� đứng trước một lớp người tr� thức sa s�t đức tin, n�n cần phải đề cập đến vấn đề đức tin với khoa học, thức tỉnh lương t�m t�n gi�o, biện hộ cho tất cả mọi t�n điều cũng như cho ch�nh Gi�o hội v� to�n thể Kit� gi�o.[28]

Ph�p nhiều nh�n vật thuộc h�ng gi�o d�n cũng như gi�o sĩ: Chateaubriand, De Maistre, De Bonald, Lacordaire, Montalembert, v v l� những nh� văn hộ gi�o của thời đại. Ở Anh, Gi�o hội C�ng gi�o c� Newman, một triết gia hộ gi�o nổi tiếng nhất. Ở �, c� đức hồng y Angelo Mai d�ng T�n, người c� c�ng sưu tầm v� xuất bản nhiều t�c phẩm cổ; trong khi ở T�y Ban Nha, linh mục J. Balm�s l� một nh� b�nh luận, một triết gia c� uy t�n.

Nước Đức mới thật g�p nhiều c�ng trong l�nh vực n�y, đặc biệt khoa thần học v� gi�o sử. Điều đ� được chứng minh bởi những ph�n khoa thần học đ� c� từ trước ở Freiburg, Wurzburg, Breslau, Landshut-Munich; cũng c�c ph�n khoa ấy được mở th�m tại Tubinge, Bong, Munster v� Braunsberg. Đ� l� những trung t�m th�nh khoa gi�p v�o việc canh t�n tư t�ởng v� đời sống C�ng gi�o, trong khi nhiều chủng viện ở Đức cũng như ở nhiều nước kh�c, c� mục đ�ch đ�o tạo lớp người l�nh nhận sứ vụ thi�ng li�ng. Việc tiếp x�c giữa ph�n khoa thần học C�ng gi�o với Gi�o hội Tin l�nh ở Đức v� với những nh� b�c học l� cơ hội để nhận r� đối phương, đặng bảo vệ đức tin một c�ch hữu hiệu. Sự cộng t�c một c�ch ch�n th�nh giữa gi�o d�n tr� thức v� h�ng gi�o sĩ đang phải bận t�m tranh đấu cho quyền tự do của Gi�o hội, quả l� một dấu hiệu tốt dẹp đưa đến sự hợp t�c trong c�c trường trung học v� đại học.

Nước �o cũng c� ph�n khoa thần học trong nhiều đại học như Vienna, Graz, Innsbruck, Praga, v.v... Ở Bavaria, Ludwig I thiết lập 5 trường cao đẳng c�ng lập dạy triết l� v� thần học, d�nh cho việc đ�o tạo h�ng gi�o sĩ; ngo�i ra c�n c� một chủng viện ở Eichstalt từ năm 1843.

Những trung t�m quan trọng hon cả l� c�c ph�n khoa thần học ở Tubinge, Munich v� Freiburg. Học viện C�ng gi�o Tubinge do c�c gi�o sĩ Drey, Mohler v� Hirscher thiết lập, v� được c�c �ng Kuhn, Hefele c�ng nhiều nh� thần học v� sử gia kh�c tiếp nối c�ng việc, học viện n�y đặc biệt chuy�n khoa sử học ph� b�nh. Tờ Theologische Quartalschrift (Thần học Tam c� nguyệt Tập san) ph�t h�nh từ năm 1819 được coi l� tờ b�o về thần học l�u đời nhất. Ở Munich, Doellinger cả mấy chục năm giữ ghế gi�o sư thần học v� ch�nh trị t�n gi�o. Ở Freiburg, Staudenmaier v� Hirscher đều l� những nh� canh t�n khoa học th�nh.

Trong mấy thập ni�n đầu thế kỷ XIX, triết học cũng như thần học C�ng gi�o đ� đụng độ với thuyết duy t�m của Em. Kant ở Đức. Nhưng trong khi b�nh vực đạo l� C�ng gi�o, nhiều người đ� kh�ng tr�nh được những chủ trương sai lầm về thần học. Trước hết c� G. Herm�s (+1831) với thuyết Hermesianisme, Herm�s l� gi�o sư thần học ở Bonn từ năm 1818, vốn l� người đạo đức, đời sống kh�ng c� ai ch� tr�ch. �ng muốn dung h�a thần học C�ng gi�o với triết học Đức. Bị nhiễm tư tưởng của Kant v� Fichte, �ng chủ trương c�c t�n điều c� thể chứng minh được bằng l� luận triết học, do đ� �ng phủ nhận phương ph�p thần học của ph�i Kinh viện. Herm�s l�i cuốn được nhiều sinh vi�n theo, nhất l� ở Bonn, Breslau v� Tr�ves. [29]

Đối thủ đ�ng sợ hơn cả của Herm�s l� linh mục A. Binterim, cha sở Bilk gần Dusseldorf. Vị linh mục n�y đ� đứng l�n tố c�o, vạch trần những sai lầm của Herm�s, l�m s�i nổi cả một thời. Sau khi Herm�s mất, theo lời y�u cầu của thủ tướng �o quốc Metternich, đức Th�nh Cha Gregori XVI ban Đoản sắc Dum acerbissimus (26.9.1835) l�n �n chủ trương của Herm�s, cho rằng �ng đ� bỏ con đường �Vương đạo của c�c Gi�o phụ�. Đức cha Droste Vischering v� người kế vị ng�i, đức gi�m mục Geissel, đều can thiệp v� đứng về phe c�c thần học chống lại Hermesianisme, khiến ph�i n�y phải tan dần.

Triết gia Fr. X. Baader, gi�o sư đại học Munich, cũng bị nhiễm tư tưởng của nh� thần b� Bohme (+ 1624) v� nhiều triết gia c�ng thời. �ng x�y dựng một chủ thuyết th�ng thần học (th�osophie), cho rằng những tương quan giữa khoa học v� đức tin, cũng như t�n điều về Ch�a Ba Ng�i, về sự s�ng tạo, v.v... chỉ c� gi� trị chủ quan; �ng cũng chối bỏ quyền Gi�o ho�ng v� chủ trương một đạo C�ng gi�o d�n chủ. Nhưng �ng đ� r�t lại hết mọi sai lầm đ� tr�n giường bệnh trước khi chết (1841).[30]

A. Gunther (+ 1861), một linh mục người �o, cũng như Herm�s, đề cao l� tr� một c�ch qu� đ�ng trong vấn đề đức tin. �ng thuộc nh�m tr� thức của th�nh Clement� Maria Hofbauer v� l� một trong những nh� canh t�n Gi�o hội �o. M�n ph�i của �ng ở �o v� Đức quy tụ được nhiều m�n đệ v� đồng ch� t�i giỏi. Chịu ảnh hưởng của Descartes, �ng chủ trương l� tr� c� thể tự hiểu biết những mầu nhiệm đức tin, m� khỏi cần mặc khải v� th�nh truyền. Đạo l� của �ng bị đức Gi�o ho�ng Pi� IX kết �n (1857) v� c�c s�ch của �ng đều bị cấm; �ng c�i đầu v�ng theo ngay.[31]

Đi ngược với c�c gi�o l� n�i tr�n l� Truyền thống chủ nghĩa (Traditionalisme) của De Lamennais v� gi�o sư triết học Bautain ở Strasbourg.[32] Trong khi đả k�ch chủ nghĩa duy l� thế kỷ XVIII, 2 �ng đ� đi tới chỗ phủ nhận gi� trị l� tr� của con người trong việc t�m kiếm Thi�n Ch�a v� l�i tất cả l� tr�, lu�n l� v� x� hội về mặc khải v� truyền thống. Bautain phải bỏ ghế gi�o sư ở Strasbourg do sự can thiệp của đức gi�m mục gi�o phận v� đức Th�nh Cha Gregori XVI (1835, 1840). Bautain, vị linh mục đạo đức, đ� c�i đầu v�ng phục, sau n�y l�n chức bề tr�n gi�o phận Paris v� l� gi�o sư thần học lu�n l� ở Sorbonne (+ 1867); c�n De Lamennais hồi tục v� bỏ đạo từ năm 1834.

Ở Đức, gi�o ph�i mang t�n �C�ng gi�o Đức� ph�t hiện năm 1844, nh�n c� Phong tr�o t�n s�ng v� k�nh viếng �tấm �o� của Ch�a Gi�su tại Tr�ves. Linh mục J. Ronge (+ 1887) c� những lời l� v� lễ đối với việc k�nh viếng n�y liền bị huyền chức, rồi đến lượt linh mục J. Czerski. Tại Schneidemuhl, Breslau v� nhiều nơi kh�c, nhiều gi�o đo�n �C�ng gi�o Đức� được th�nh lập v�, th�ng 3 năm 1845, một �C�ng đồng c�c Gi�o hội� triệu tập tại Leipzig, tuy�n bố chỉ nhận Th�nh Kinh l� mẫu mực đức tin, phủ nhận quyền tối cao của Gi�o ho�ng, chối bỏ việc xưng tội, luật độc th�n gi�o sĩ, �n x�; đả k�ch việc s�ng k�nh c�c th�nh, ăn chay ki�ng kỵ v� h�nh hương chỉ nhận hai b� t�ch: Rửa tội v� Tiệc ly, đồng thời cho v�o Lễ quy một nghi thức d�n sự. Nhờ c� nhiều người Tin l�nh đỡ đầu, n�n gi�o ph�i được một thời thịnh vượng, số t�n đồ l�n tới 60.000 (1847), phần lớn trong xứ Silesia. Sau đ�, l� thời xuống dốc, ch�nh Ronge đ� đi theo chủ nghĩa duy l� v� từ chối Ch�a Gi�su l� Thi�n Ch�a. Vả lại, ch�nh trị cấp tiến của phe Ronge bị c�c nh� cầm quyền theo d�i. Hầu hết c�c t�n đồ bỏ sang phong tr�o �bạn của c�c triết gia� (1859). Sau c�ng, chỉ c�n một v�i nh�m sống s�t ở Saxonia cho đến năm 1918.[33]

�Gi�o hội C�ng gi�o Ph�p� do P. Ch�tel th�nh lập ở Paris năm 1831, b�nh trướng trong 30 tỉnh. Ch�tel tự xưng l� �Thượng phụ gi�o chủ Gaulois�, phủ nhận quyền Gi�o ho�ng, từ chối việc xưng tội, bỏ Th�nh Lễ bằng tiếng Latinh, chỉ tr�ch việc ki�ng kỵ v� luật độc th�n gi�o sĩ. Đạo l� của �Gi�o hội� n�y đượm m�i duy l�. Năm 1842, �Đền th�nh� của Ch�tel bị cảnh s�t đ�ng cửa: vị �Thượng phụ gi�o chủ� chết năm 1857 trong c� đơn, khiến gi�o ph�i tan r�.


 

[1] S�ch tham khảo: Rohrbacher Histoire Universelle de l��glise Catholique, Q XIII, Paris 1874, tr 376-770 - C. Bihlmeyer H. Tuche: Histoire de l��glise (bản dịch Ph�p văn của G. Grandclaudon), Paris 1962-67, Q. IV - J. Bochenski v� G. Castella. Le d�chainement des forces laiques, v� M. H. Vicaire: Le rayonnement spirituel de l��glise, trong Histoire illustr�e de l��glise (G. de Plinval- I. Pittet), Paris 1746-1748, Q. II, tr 213-326 - E. Lousse - J. Roland: Lịch sử Văn minh Hiện kim (bản dịch Việt văn của Văn Quy - Đ�ng B�ch). Tr� Ch�nh - Ph�t Diệm 1751.

[2] Xem Mathieu: Le concordal de 1801. Paris 1902 - A. Braudrillard: Quatre cents ans de Concordat. Paris 1905 - A. Boulay de la Meurthe: Histoire de la n�gociation du concordal de 1801, Tours 1920.

[3] Arnauld de Montor: Histoire du Pape Pie VII. Q. II, tr 258-263, 270 - J.M. Bochenski - G. Castella. op. cit., tr 221-224.

[4] Th�ng 6-11 năm 1812, Napol�on dẫn 600.000 qu�n sanh đ�nh Nga, nhưng thất bại nặng nề: khi r�t qu�n về chỉ c�n khoảng 40.000. Sau trận Leipzi (1813), qu�n của Napol�on phải triệt tho�i khỏi Phổ, T�y Ban Nha, H� Lan, �. Năm 1814 bị đệ VI Li�n minh (Anh, �o, Phổ, Nga, T�y Ban Nha, Napoli, Thụy Điển) đ�nh bại, Napol�on phải tho�i vị v� chịu lưu đ�y ở đảo Elba (20.4.1814). Nhưng ng�y 25.2.1815, �ng vượt ngục về tới Paris (20 th�ng 3), lại cầm qu�n chiến đấu 100 ng�y (th. 3-6 năm 1815). Tại trận Waterloo 18.6.1815, qu�n của Napol�on bị đ�nh tan t�nh, �ng bị truất ng�i v� bị đ�y ra đảo Ste-H�l�ne, �ng từ trần tại đ� năm 1821, thọ 52 tuổi. Thi h�i Napol�on được đưa về Paris ch�n t�ng trong nguyện đường Les Invalades (1840).

[5] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., tr 119-124 - Xem L. Baunard: Un si�cle de l��glise de France (1800-1900), Paris 1922.

[6] �... absurda illa ac erronea sententia seu potius deliramentum asserendam esse ac vindicandam cujuslibet libertatem conscientiae (Th�ng điệp Mirari nos 1832). Xem M. H. Vicaire: op. cit., Q. II, tr 287-291.

[7] Xem V. Giraud: La vie tragique de Lamennais, Paris 1933 - R. Br�hat: Lamennais, le trop chr�tien, Paris 1941.

[8] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 128-129 - Xem E. de Moreau: L��glise en Belgique des origines au XXe si�cle. Li�ge 1915 - P. Allard: L�Etat et l��glise en Belgique. Paris 1872.

[9] R. Ballester Bibliografia de la Historia de Espana, Gerona 1921 - ]. Becker Relaciones diplom�ticas entre Espana y  la S. Sede durante et siglo XIX, Madrid 1908 - de Almeida. Historia da em Portugal. Coimbr� 1910-26 - M. de Oliveira. Historia Ecles. da Portugal, Lisbonne 1958.

[10] Xem C. Castella. Histoire des Papes - A. Ventrone: L� amministrazione dello Stato Pontificio, Rome 1942 - G. Mollat: La question romaine de Pie VI � Pie XI.

[11] C. Bihlmeyer - H. Tuchle; op. cit., Q. IV tr 110-119 - Xem G. Goyau: L�Allemagne religeuse, Paris 1905 - F. Engel - Janori: Osterreich und der Vatikan 1846-1918, I, 1958.

[12] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 126-128 - Xem Mac Caffrey: History of the Cathol. Church in the 19th century (1789-1909), Dublin 1909 Thureau- Dangin: La renaissqnce Catholique au XIXe si�cle, Paris 1923.

[13] Đ� l� phong tr�o t�m hiểu nguồn gốc Anh gi�o qua c�c th�nh gi�o phụ bằng truyền đơn (tracts), do mục sư Newman v� Pusey ph�t động từ năm 1833 đến 1841. Từ đấy, ph�t sinh ra phong tr�o Ritualisme nhằm trở lại những lễ nghi long trọng xưa v� sự trang ho�ng lộng lẫy b�n thờ: hương nến, đ�n, hoa.

[14] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit.,. Q. IV, tr 129, 106-107.

[15] Xem A. Lugan: Le Catholicisme aux �tats Unis, Paris 1930.

[16] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 22-24, 129-130, 152 - P. Lescoeur: L�Eglise Catholique en Pologne sous le govemement Russe, Paris 1876; L� �glise Catholique et le gouvernement Russe, Paris 1903 - D. Tolstoi: Le Catholicisme romaine en Russie, Paris 1867 - L. Andr�: Elats chretiens des Balkans depuis 1815, Paris 1918.

[17] Khối C�ng gi�o Ruthen nguy�n thủy l� nh�m Ch�nh thống Đ�ng Phương (xứ Galicia) đ� hiệp nhất với Roma từ năm 1595. Họ c�n c� t�n l� khối C�ng gi�o  �Hiệp nhất� (Uniates).

[18] A. Bondou. Le Saint-Si�ge et la Russie, leurs relations diplomatiques au XIXe si�cle (1814-63), Paris 1922-25.

[19] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., Q. IV, 139-151.

[20] Xem J. Jolinon: Imagerie du Cur� d�Ars par un paysan de son temps, Gen�ve 1947

[21] Dom Cozier: L'Oeuvre de Dom Gu�ranger, Solesmes 1933.

[22] A. Reichersperger: L�Art gothique au XIXe si�cle (dịch), Bruxelles 1867

[23] M. H. Vicaire: op. cit., Q. II, tr 261-326.

[24] Tu hội Nữ tử B�c �i c� con số đ�ng nhất trong c�c d�ng tu: 46.000 nữ t�u hoạt động trong 55 Quốc gia, 1.200 tập sinh (Việt Nam C�ng gi�o Ni�n qi�m), S�i G�n 1964, tr 456). C�ng việc đ�ng kh�m phục nhất l� c�c nữ tu B�c �i điều khiển v� hoạt động tại 31 trại c�i (phong) tr�n thế giới: 5 trại ở �u Ch�u (�, T�y Ban Nha, Bồ Đ�o Nha), 7 ở Phi ch�u (Maroc, Congo-K, Ethiopia, Madagascar), 8 ở � ch�u Ấn Độ, Việt Nam, Th�i Lan), 11 ở Mỹ ch�u (Missi 1971, 10, tr 325).

[25] H. D. Noble: Lacordaire, trong Dict. de Th�ol. Catholique, Le P. Lacordaire ressucite en France 1� Ordre de Saint Dominique, Paris 1938.

[26] Xem Les P�res Ratisbonne et Notre-Dame de Sion, Paris 1931.

[27] G. de Bertier de Sauvigny: Les r�veilles forces spirituelles, trong Nouvele Hist. de l��glise. Q. IV. Paris 1966, tr 438-468.

[28] E. Hocedez: Hist de la th�logie du XIXe si�cle, Bruxelles 1947-52 - A. D Sertillnanges: Le Chiristianisme et les philosohphies, Q. II, Paris 1941

[29] Kl. Kopp: Die Philosophie des Hermes, 1912.

[30] Xem E. Susini: Fr. Von Baader, Lettres in�dites. Paris - Vienne 1942-51.

[31] P. Knoodt: A Gunther, 1881 .

[32] Ferraz: Hist. de la philosophie en France au XIXe si�cle. Traditionalisme et ultramontanisme, Paris 1880.

[33] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 151.