HOME

 
 

Phần Nh� :
CẬN KIM V� ĐƯƠNG KIM THỜI ĐẠI

Chương S�u

GI�O HỘI ĐỨNG TRƯỚC VẤN ĐỀ
T�N GI�O, CH�NH TRỊ, X� HỘI
THỜI CẬN ĐẠI (1850-1914)
 

I. Gi�o hội từ đức Pi� IX đến đức Pi� X                       

1. Đức Th�nh Cha Pi� IX từ năm 1850
v� việc �� Đại Lợi Trẻ� x�m chiếm nước T�a th�nh (1870)

2. Đại C�ng đồng Vatican I (1869-70)

3. Đức Le� XIII (1878-1903) v� đức Pi� X (1903-14)

II. Gi�o hội tại c�c nước �u ch�u thời Cận kim           

1. Gi�o hội C�ng gi�o Đức với �Mặt trận Văn h�a�

2. Gi�o hội C�ng gi�o ở �o, Thụy Sĩ v� Bắc �u

3. Gi�o hội C�ng gi�o ở Ph�p, Anh, T�y Ban Nha v� Bồ Đ�o Nha

4. Gi�o hội C�ng gi�o v� Ch�nh thống ở Đ�ng �u

III. Đời sống nội bộ của Gi�o hội Cận đại

1. Kỷ luật, phụng vụ v� nghệ thuật

2. Sống đạo, hội đo�n v� d�ng tu

3. Khoa học th�nh v� Duy t�n thuyết

 

Lịch sử Gi�o hội cuối thế kỷ XIX sang XX l� một cuộc đối ph� li�n mi�n với c�c lạc thuyết, di sản của chủ nghĩa tự do thế kỷ XVIII, đặc biệt trong hai nước Đức v� Ph�p. Ở Đức, phong tr�o b�i t�n gi�o do Bismarck cầm đầu lấy t�n l� �Mặt trận Văn h�a�. Ở Ph�p, tr�i lại, n� kh�ng phải do một người cầm đầu, nhưng l� cả một tổ chức, tức hội Tam điểm, với những �Mặt trận� mang danh hiệu kh�c nhau. Cấp tiến, X� hội Cấp tiến, X� hội Cộng sản... V� do một tổ chức cầm đầu, n�n n� tồn tại l�u hơn v� tai hại cũng nhiều hơn.

Về phương diện ch�nh tại, từ hạ b�n thế kỷ XIX, lịch sử Gi�o hội đi ra hai ngả đường c� vẻ tr�i ngược nhau. Một đ�ng, quyền lợi trần thế cũng như t�i sản bị tước đoạt dần, v� kết th�c v�o năm 1870, khi th�nh Roma bị x�m chiếm v� s�p nhập v�o nước � �thống nhất�: l�nh thổ T�a th�nh bị thu hẹp trong một khu đất tr�n đồi Vatican. Nhưng trong khi đ�, quyền thi�ng li�ng của ng�i Gi�o ho�ng lại được k�nh trọng v� vươn l�n rất cao. Ch�nh năm 1870, đại C�ng đồng Vatican tuy�n bố t�n điều �v� ngộ� của Gi�o ho�ng. Từ đấy, sự trọng k�nh v� l�ng trung th�nh của người C�ng gi�o đối với T�a th�nh mỗi ng�y th�m r� rệt v� mạnh mẽ.

Đến thời Le� XIII, đức Gi�o ho�ng mặc dầu chỉ c�n l� �ng Vua của một nước nhỏ nhất tr�n thế giới, nhưng tiếng n�i của ng�i trong l�nh vực ch�nh trị, x� hội cũng như t�n gi�o, vẫn đầy uy t�n v� được thế giới k�nh nể. Sang thế kỷ XX, th�nh Gi�o ho�ng Pi� X đ�ng vai bảo vệ đức tin, qua những cuộc chiến đấu chống c�c lạc thuyết mới, đồng thời cải c�ch lễ nghi phụng vụ v� gi�o luật.[1]


I

GI�O HỘI TỪ� ĐỨC PI� IX ĐẾN ĐỨC PI� X


1. Đức Th�nh Cha Pi� IX từ năm 1850
v� việc �� Đại Lợi Trẻ� x�m chiếm nước T�a th�nh (1870)
[2]

Sau cuộc cải c�ch kh�ng th�nh của đức Th�nh Cha Pi� IX, [3] t�nh h�nh nước T�a th�nh mỗi ng�y th�m đen tối. Khi nhận thấy việc thiết lập một li�n bang � Đại Lợi dưới quyền l�nh đạo của đức Gi�o ho�ng chỉ l� giấc mơ, cũng như việc x�y dựng một nền cộng h�a l� điều kh�ng thể c� được, c�c nh� �i quốc � quay sang ủng hộ Victor Emmanuel II (1849-78), vua xứ Sarđenia v� Piamonte, đang c� tham vọng x�y dựng một nước �� Đại Lợi Trẻ� thống nhất. Từ năm 1848, ch�nh trị t�n gi�o đ� c� khuynh hướng b�i Gi�o Hội. C�c cha d�ng T�n bị trục xuất, đạo luật h�n nh�n được ban h�nh, c�c quyền lợi Gi�o hội v� c�c đặc �n gi�o sĩ bị b�i bỏ. Thủ tướng Cavour (1852-61) tung ra khẩu hiệu �Gi�o hội tự do trong Quốc gia tự do�. Nh� ch�nh trị n�y l�m việc rất hăng say, để đ�nh đuổi qu�n �o v� thống nhất nước �. �ng đ� d�ng đến mọi phương tiện, đến cả c�c lực lượng của nhiều hội k�n v� c�ch mạng.

Năm 1856, tại nghị hội Paris sau chiến tranh Crim�a. Cavour n�u vấn đề � Đại Lợi. V� một m�nh người � kh�ng thể thực hiện nổi c�ng cuộc thống nhất, �ng t�m c�ch li�n minh với Ph�p quốc. Th�ng 7 năm 1857, một thỏa hiệp được k� kết giữa hai nước. Năm 1859, Cavour đ�nh bật được qu�n �o ra khỏi Lombardia. Đức Th�nh Cha y�u cầu �o qu�n r�t khỏi nước T�a th�nh, nhưng họ vừa ra đi, d�n ch�ng liền v�ng dậy trong hai tỉnh Romania, Umbria v� tại c�c bi�n trấn. Họ tuy�n bố b�i bỏ quyền Gi�o ho�ng, v� đ�i s�p nhập l�nh thổ T�a th�nh v�o Piamonte, nghĩa l� v�o nước � thống nhất đang th�nh h�nh. Đức Th�nh Cha Pi� IX ra vạ tuyệt th�ng cho tất cả những ai tham dự v�o việc �cướp đất T�a th�nh�, nhưng v� hiệu. Tại những v�ng chiếm đ�ng, ch�nh quyền Piamonte ban h�nh c�c đạo luật chống Gi�o ho�ng. Năm 1866, nhiều vụ bạo h�nh xảy ra: tịch th�u t�i sản Gi�o hội, tục h�a c�c học đường, v.v...

Từ năm 1859, c�c c�ng quốc Toscana, Modena v� Parma đ� lần lượt s�p nhập với t�n Quốc gia. Tỉnh Romania kể như mất về tay Victor Emmanuel. Năm 1860 Garibaldi, nh� �i quốc qu� kh�ch v� chống Gi�o hội, chiếm Sicilia v� Napoli, lật đổ Fran�ois nh� Bourbon, �ng ho�ng �ngoại quốc� cuối c�ng tr�n đất �. Hồng y quốc vụ khanh Antonelli từ chối lời y�u cầu của Cavour đ�i chấm dứt việc mộ �l�nh đ�nh thu� trong qu�n đội Gi�o ho�ng. Qu�n giải ph�ng từ Sardenia đ� x�m nhập tỉnh Umbria v� c�c bi�n trấn. Qu�n lực của Gi�o ho�ng, dưới quyền chỉ huy của tướng Lamorici�re, bị đ�nh bại ở Castelfidardo (18.9.1860) v�, sau một cuộc biểu t�nh, c�c tỉnh n�y đều bị s�p nhập v�o � quốc: Victor Emmanuel được t�n l�n l�m Vua (th�ng 8 năm 1861).

Như vậy, nước T�a th�nh đ� mất hai phần ba đất đai, chỉ c�n th�nh phố Roma v� v�ng phụ cận (Patrimoine de St-Pierre). Đứng trước những đ�i hỏi v� đề nghị của Piamonte, đức Pi� IX v� Antonelli vẫn giữ lập trường �Non possumus � (ch�ng t�i kh�ng c� thể). Roma l�c đ� c�n được qu�n đội Ph�p bảo vệ, trận đ�nh �p của (Garibaldi năm 1862 thất bại ở Aspromonte. Bằng một thỏa hiệp th�ng 9.1864. ch�nh quyền � cam kết với nước Ph�p sẽ t�n trọng phần đất c�n lại của T�a th�nh v� bảo vệ chống mọi cuộc x�m lăng. Tuy nhi�n, Garibaldi đ� �m mưu với Piamonte để tấn c�ng đất T�a th�nh một lần nữa, nhưng �ng bị Ph�p qu�n v� vệ binh Gi�o ho�ng đ�nh tan ở Mentana (3.11.1867).

Cuộc chiến tranh Ph�p - Đức đưa nước T�a th�nh tới chỗ sụp đổ ho�n to�n. Qu�n Ph�p phải r�t khỏi Civita Vecchia v� Napol�on III bị truất phế sau trận S�dan (2.9.1870). Ng�y 20.9.1870, Piamonte được đại sứ Phổ Von Arnim khuyến kh�ch, đem qu�n chiếm kinh th�nh mu�n thuở v� Vatican. Đức Th�nh Cha phản đối vụ �cướp đất T�a th�nh� v� ra vạ tuyệt th�ng c�c kẻ �m mưu cũng như tham dự, nhưng v� �ch. Th�ng 6.1871, Roma trở th�nh kinh đ� � Đại Lợi v� điện Quirinal được chọn l�m ho�ng cung.[4] Cuộc xung đột giữa ng�i Gi�o ho�ng v� quốc vương � l�n tột độ. Ng�y 13.5.1871, ch�nh quyền � ban h�nh đạo luật mang t�n �luật đảm bảo� (loi des garanties), đơn phương giải quyết số phận nước T�a th�nh.

Vương quốc nh�n nhận sự bất khả x�m phạm v� quyền tối cao thi�ng li�ng của ng�i gi�o ho�ng, cấp cho ng�i mỗi năm số tiền 3.225.000 bảng � (lires), d�nh cho ng�i hai điện Vatican v� Latran c�ng biệt thự Castel Gandolfo tr�n bờ hồ Albano, đồng thời bảo đảm quyền tự do của ng�i trong l�nh vực t�n gi�o. C�c gi�m mục � sẽ do đức Th�nh Cha bổ nhiệm. Quốc vương kh�ng c�n đ�i c�c gi�m mục phải tuy�n thệ trung th�nh, v� từ bỏ lu�n cả quyền đề cử. Đức Pi� IX phủ nhận �luật đảm bảo� (15.5.1871), v� sau hai lần nhận khoản tiền nộp, ng�i từ chối kh�ng nhận nữa, để chỉ tr�ng nhờ tiền bạc c�ng đức của gi�o d�n (�Denarius Sancti Petri�), v� sự thực gi�o d�n đ� tận t�nh gi�p đỡ ng�i.

Từ đ�, đức Th�nh Cha tự giam m�nh trong khu Vatican kh�ng hề bước ch�n ra ngo�i, v� �vấn đề Roma� trở th�nh c�i gai đ�m tr�n th�n m�nh vương quốc � cho đến năm 1929. C�c người kế vị đức Pi� IX vẫn tiếp tục phản đối v� l�n �n h�nh động x�m lăng t�n nhẫn, đến dộ ti�u diệt một Quốc gia đ� c� cả ng�n năm, đồng thời đ�i một sự bồi thương tương xứng. Sự bang giao giữa Vatican v� Quirinal v� c�ng căng thẳng: nh� cầm quyền � d�ng bạo lực ngay lrong th�nh Roma. Do đấy, năm 1874 đức Th�nh Cha ch�u ph� Sắc lệnh Non expedit của t�a X� giải c� từ 6 năm trước, cấm người c�ng gi�o � tham gia c�c cuộc bầu cử mang t�nh ch�nh trị trong vương quốc, cho rằng l�m như thế l� ủng hộ c�c đảng ph�i qu� kh�ch (2 năm sau, việc tham dự c�c cuộc bầu cử cấp x� v� tỉnh được ban ph�p).

X�t về nội bộ Gi�o hội, triều Gi�o ho�ng Pi� IX được coi l� một thời vẻ vang v� lắm biến cố trọng đại. Đ� l� thời Roma trở th�nh trung t�m điểm thế giới C�ng gi�o. Sự tập trung quyền cai trị Gi�o hội, sự phục t�ng của h�ng Gi�o phẩm đối với ng�i Gi�o ho�ng v� T�a th�nh nổi bật trong thời n�y. Dĩ nhi�n l� kh�ng thể tr�nh khỏi những phản ứng của phe triết gia, phong tr�o c�ch mạng v� chủ nghĩa tự do. Những tiến triển trong cơ cấu tổ chức Gi�o hội, cũng như trong c�ng cuộc truyền b� đức tin, được chứng minh bởi việc t�i lập h�ng Gi�o phẩm C�ng gi�o tại Anh quốc v� H� Lan, bởi việc thiết lập tr�n thế giới nhiều T�a Tổng Gi�m mục (29), Gi�m mục (132), nhiều Đại diện hoặc Phủ do�n T�ng t�a, bởi việc k� thỏa hiệp với c�c nước Nga, T�y Ban Nha, �o, Wurtemberg, Bade v� với nhiều Quốc gia Mỹ ch�u Latinh. Một biến cố quan trọng nữa của triều đại l� sự phục hưng v� phổ biến trường ph�i R�ma, m� trước đ�y chỉ hạn hẹp trong nước T�y Ban Nha v� �. Đ� l� nhờ ở sự hoạt động của hai d�ng T�n v� Đaminh, cũng l� những d�ng đứng ra b�nh vực quyền tối cao v� ơn v� ngộ của vị Đại diện Ch�a Kit�.

Cho tới ng�y nay kh�ng c� Gi�o ho�ng n�o ưa d�ng quyền tối cao của m�nh như đức Pi� IX. Từ năm 1849, ng�i đ� thăm d� � kiến của h�ng Gi�m mục, rồi ng�y 8.12.1854 ng�i c�ng bố T�ng chiếu Ineffabilis Deus về t�n điều Đức Mẹ V� nhiễm Nguy�n tội, m� thời Trung cổ đ� nhiều lần b�n đến. Một biến cố trọng dại kh�c: năm 1858 Đức Mẹ hiện ra ở hang Massabielle (Lourdes) với th�nh nữ Bernadette 18 lần, l�m nhiều dấu lạ v� xưng m�nh l� �V� nhiễm Nguy�n tội�

Ng�y 8.12.1864, Th�ng điệp Quanta Cura gởi đến c�c Gi�m mục bản Syllabus, t�m tắt 80 �điều sai lầm của thời dại ta�, tức những lạc thuyết đ� bị l�n �n trong ho�n cảnh x� hội đương thời. Lạc thuyết tai hại hơn cả của thế kỷ XIX l� chủ nghĩa Tự nhi�n (Naturalisme), con đẻ của chủ nghĩa Tự do tư tưởng thế kỷ XVIII. N� chủ trương đạp đổ mọi t�n gi�o, nhất l� C�ng gi�o, đứng đầu phải kể đến A. Comte (1798-1857). Tiếp đến l� chủ nghĩa X� hội v� chủ nghĩa Cộng sản của Karlmarx (1818-83), L�nine (1870-1924).

Những lạc thuyết n�i tr�n c� nhiều nguy hiểm, khi đem ra �p dụng để giải quyết những vấn đề quan trọng đời sống c� nh�n cũng như đo�n thể. V� thế trong Th�ng điệp Quanta Cura, đức Th�nh Cha kết �n Tự nhi�n chủ nghĩa; ng�i đ�i ch�nh quyền kh�ng được phủ nhận địa vị t�n gi�o trong Quốc gia v� kh�ng được đặt c�c t�n gi�o ngang h�ng với nhau. Ng�i cũng kết �n chủ trương � d�n c� gi� trị vượt tr�n luật tự nhi�n v� Thi�n Ch�a, l�n �n cả chủ nghĩa X� hội cộng sản, v� đ�i phải bảo vệ quyền gi�o dục gia đ�nh. Sau c�ng, ng�i phủ nhận chủ trương Gi�o ho�ng Roma c� thể v� phải tiến bộ đồng điệu với đ� tiến của văn minh t�n tiến v� tự do chủ nghĩa. Bản Syllabus đ� g�y nhiều phẫn nộ trong c�c giới cấp tiến, họ cho đ� l� bản �tuy�n chiến� với văn minh thế giới; trong khi đức Th�nh Cha thực sự kh�ng bao giờ chống đối sự tiến bộ của văn minh nh�n loại, nhưng chỉ phi b�c v� l�n �n những g� nghịch với lề luật Thi�n Ch�a v� Gi�o hội.

Sự nghiệp lớn nhất v� cũng l� biến cố trọng đại nhất của đức Pi� IX l� C�ng đồng Vatican I, m� ch�ng t�i sẽ tr�nh b�y dưới đ�y. Những năm cuối c�ng của ng�i l� những năm tr�n đầy lo �u v� buồn thảm: nước T�a th�nh bị x�m chiếm, gi�o ph�i �Cựu C�ng gi�o�, �Mặt trận Văn h�a� ở Đức v� Thụy Sĩ, phong tr�o tự do v� b�i Gi�o hội ở nhiều nước. Với sự can đảm v� b�nh tĩnh nhẫn nhục trước những đau khổ ấy, đức Pi� IX được cả thế giới C�ng gi�o trọng k�nh v� y�n mến. Đức Th�nh Cha băng h� ng�y 7.2.1878, thọ 86 tuổi sau 31 năm 7 th�ng ở ng�i: triều Gi�o ho�ng l�u nhất sau th�nh Pher�.


2. Đại C�ng đồng Vatican I (1869-70)
[5]

Ng�y 6.12.1864, tức 2 ng�y trước khi c�ng bố bản Syllabus, trong một phi�n họp của th�nh Bộ Lễ nghi, đức Th�nh Cha Pi� IX th�ng b�o ri�ng cho c�c hồng y biết từ l�u ng�i đ� c� � triệu tập một đại c�ng đồng, �để nhờ phương tiện bất thường n�y m� giải quyết những c�ng việc bất thường của cộng đồng Kit� gi�o�. Nh�n ng�y đại lễ mừng Mười t�m Trăm Năm cuộc Tử đạo của hai th�nh T�ng đồ Pher� v� Phaol� năm 1867, trước cử tọa 500 gi�m mục v� đ�ng đảo gi�o d�n đến tham dự, đức Th�nh Cha c�ng khai loan b�o về đại C�ng đồng, �trong đ� sẽ triệu tập hết c�c Gi�m mục tr�n thế giới C�ng gi�o, để c�ng nhau đồng t�m hiệp lực t�m những phương ph�p cần thiết v� hữu �ch, đặng đối ph� với biết bao sự dữ đang đ� nặng tr�n Gi�o hội�

Ng�y 29.6.1868, đức Th�nh Cha ban h�nh T�ng chiếu Aeterni Patris Unigenitus, ch�nh thức triệu tập C�ng đồng v� quyết định khai mạc v�o ng�y lễ Đức Mẹ V� nhiễm nguy�n tội 8.12.1869. Đức Th�nh Cha cũng viết thư cho c�c Gi�o hội Ch�nh thống Đ�ng Phương v� Tin l�nh, mời họ trở về �đo�n chi�n duy nhất� của Ch�a Kit� v� tham dự C�ng đồng, nhưng kh�ng được hưởng ứng. T�ng chiếu c�n n�i đến mục đ�ch chung của C�ng đồng l� cứu x�t rất cẩn thận v� x�c định r� r�ng c�c vấn đề li�n hệ việc khuếch trương Gi�o hội, bảo to�n đức tin, canh t�n lễ nghi phụng vụ, chấn hưng đời sống gi�o sĩ d�ng triều, đ�o tạo h�ng gi�o sĩ, cải c�ch phong h�a, gi�o dục thanh thiếu ni�n theo tinh thần Kit� gi�o, x�y dựng h�a b�nh thế giới v� t�nh th�n hữu giữa c�c d�n tộc.

Việc loan b�o triệu tập C�ng đồng g�y x�n xao trong quần ch�ng, nhất l� từ khi tờ Civilla Cattolica nh�ng 2 năm 1869 của c�c cha d�ng T�n loan tin sẽ c� cuộc tranh luận về �ơn v� ngộ� của Gi�o ho�ng, v� ti�n đo�n C�ng đồng sẽ đồng thanh ph�n quyết. Ở Đức sử gia Doellinger đứng đầu phong tr�o chống �v� ngộ�. Chủ tịch Quốc hội Bavaria, ho�ng th�n Hohenlohe cũng k�u gọi c�c ch�nh quyền �u ch�u can thiệp v�o những �h�nh động� m� �ng cho l� �nguy hại� của C�ng đồng. C�c gi�m mục Đức hội ở Fulda, th�ng 9.1869, phải phổ biến một văn thư trấn an dư luận; đa số cho rằng việc ph�n quyết v� c�ng bố kh�ng c� lợi cho ho�n cảnh l�c n�y.

Sau nhiều năm chuẩn bị, C�ng đồng khai mạc long trọng trong vương cung th�nh đường Th�nh Pher� ng�y 8.12.1869. Hiện diện c� 774 nghị phụ, gồm 49 hồng y, 10 thượng phụ gi�o chủ, 10 trưởng gi�o chủ, 127 tổng gi�m mục, 529 gi�m mục, 6 gi�m chức biệt hạt, 16 đan viện phụ, 26 bề tr�n tổng quyền c�c d�ng tu, 1 gi�m quản T�ng t�a.[6] C�ng đồng th�nh lập 5 ủy ban chuy�n m�n về c�c vấn đề đức tin, kỷ luật, c�c hội d�ng, ch�nh trị t�n gi�o, Gi�o hội Đ�ng phương v� Truyền gi�o, c� nhiệm vụ nghi�n cứu c�c vấn đề li�n hệ, soạn thảo th�nh dự �n để đem ra tr�nh b�y v� tranh luận trong c�c phi�n họp; sau đ� thu thập t�i liệu, � kiến đ� được ph�t biểu, lập th�nh văn kiện v� c�ng bố tại c�c phi�n họp kho�ng đại. C�ng đồng nhận được rất nhiều dự �n v� đề nghị. Sau phi�n họp kho�ng đại lần III 24.4.1870, Hiến chế Dei Filius (thuộc dự �n De Fide Catholica) được C�ng đồng chấp thuận v� c�ng bố, trong đ� c�c chủ thuyết v� thần, duy l�, duy truyền thống, duy thực nghiệm, duy vật, phiếm thần, đều bị kết �n. Kế đ�, C�ng đồng b�n đến vấn đề kỷ luật h�ng Gi�m mục, v� đời sống thường ng�y của c�c gi�o sĩ.

Nhưng vấn đề �ơn v� ngộ� của Gi�o ho�ng mới thật đ�ng ch� �. Ngay từ đầu đ� c� những cuộc tranh luận v� c�ng s�i nổi b�n ngo�i cũng như b�n trong C�ng đồng. Theo sự y�u cầu của 480 nghị phụ, vấn đề được đưa v�o dự �n De Ecclesia Christi v� trao cho c�c nghị phụ từ ng�y 6.3.1870, để ghi ch� những nhận x�t ri�ng. Cuộc tranh luận k�o d�i từ th�ng 5 đến th�ng 7. Nghị trường chia l�m hai phe: đại đa số chủ trương việc ph�n quyết của C�ng đồng về t�n điều n�y l� hợp thời v� cần thiết; phe chống tuy thiểu số nhưng quan trọng, gồm nhiều gi�m mục Đức (trong đ� c� Hefele, Ketteler, Dinkel, Scherr, Melchers), �o-Hung (Rauscher, Schwarzenberg, Simor, Strossmayer), Ph�p (Dupanloup, Darboy, Maret, Ginoulhiac) v� một v�i vị người Hoa Kỳ, phần nhiều viện lẽ việc ph�n quyết sẽ g�y nhiều x�o trộn, chống đối Gi�o ho�ng v� c� thể đi đến ly gi�o...

Đức cha Hefele, gi�m mục th�nh Rottenburg, đưa trường hợp đức Gi�o ho�ng Honori� I (625-638) ra để b�nh vực lập trường của phe m�nh.[7] Nhưng c�c l� luận cũng như mọi nỗ lực của phe n�y kh�ng đạt kết quả. Phi�n họp 13.7.1870, dự �n De Ecclesia Christi được đem ra biểu quyết. C� 601 vị hiện diện: 451 thuận, 88 kh�ng thuận, 62 thuận với điều kiện. Ng�y h�m sau, 57 nghị phụ (trong số c� 12 Đức) thuộc phe chống �v� t�nh hiếu thảo� đ� xin đức Th�nh Cha cho ph�p rời Roma, để khỏi phải b�y tỏ sự bất đồng trong phi�n họp kho�ng đại tới, nhưng sẵn s�ng v�ng theo một khi t�n điều được ph�n quyết.

Ng�y 18 th�ng 7, phi�n họp kho�ng đại lần IV của C�ng đồng, c� 537 nghị phụ tham dự. Hiến chế Pastor Aeternus (thuộc dự �n De Ecclesia Christi) đuợc đưa ra cho C�ng đồng biểu quyết v� c�ng bố: 535 phiếu thuận, 2 phiếu kh�ng thuận. Hiến chế gồm 4 chương n�i về nguồn gốc, sự li�n tục, � nghĩa v� bản t�nh của quyền tối thượng v� �ơn v� ngộ� của Gi�o ho�ng. Đức Th�nh Cha c� quyền trực tiếp v� tối cao tr�n Gi�o hội trong c�c vấn đề thuộc t�n l�, lu�n l�, kỷ luật v� cai trị Hội th�nh. Trong chương IV c� c�u: c�c ph�n quyết �từ tr�n ngai(ex cathedra) của đức Gi�o ho�ng về c�c vấn đề đức tin v� lu�n l� �kh�ng thể sai lầm được�, v� do đấy �tự ch�ng (chứ kh�ng phải do sự đồng � của Gi�o hội) kh�ng c� thể sửa đổi được�.[8] Nh�n dịp n�y, đức Th�nh Cha đọc một b�i diễn văn giải th�ch về c�c điều được ph�n quyết, ng�i n�i: �Quyền tối cao của ng�i Gi�o ho�ng, thưa chư huynh đồng k�nh, sẽ kh�ng b�p chết nhưng tăng th�m, sẽ kh�ng ti�u diệt nhưng x�y dựng, v� ở nhiều trường hợp c�n củng cố trong chức vị,  hiệp nhất trong đức �i, trợ lực v� bảo vệ c�c quyền lợi của chư huynh, nghĩa l� của h�ng Gi�m mục�. Cuối phi�n họp, đức Th�nh Cha tuy�n bố C�ng đồng tiếp tục.

Cho tới đ�y, C�ng đồng kể như mới bắt đầu. Trong số 51 dự �n, chỉ c� 2 được biểu quyết v� c�ng bố, về c�c vấn đề kỷ luật, chỉ c� 4 được đem ra tranh luận, nhưng chưa kết th�c. Phi�n họp kho�ng đại IV cũng l� lần ch�t. V� ngay h�m sau, tức 19.7.1870, chiến tranh Ph�p-Đức b�ng nổ, khiến nhiều nghị phụ phải rời Roma trở về gi�o phận. Từ đấy, số nghị phụ trong c�c phi�n họp chỉ c�n v�o khoảng tr�n dưới 100. Phi�n họp 89 ng�y 1.9.1870 l� phi�n họp cuối c�ng c� 104 nghị phụ tham dự. Ng�y 20.9.1870, th�nh Roma bị qu�n giải ph�ng Garibaldi x�m chiếm, kết th�c c�ng cuộc thống nhất nước �. Đ�ng một th�ng sau, ng�y 20 th�ng 10, đức Th�nh Cha c�ng bố Văn thư đ�nh ho�n C�ng đồng �chờ cho tới khi c� ho�n cảnh thuận tiện sẽ tiếp  tục�.

Từ th�ng 9 năm 1870 đến th�ng 12 năm 1872, tất cả c�c nghị phụ kh�ng c� mặt tại phi�n họp kho�ng đại IV, lần lượt đệ thư l�n đức Th�nh Cha xin nh�n nhận Hiến chế Pastor Aeternus. Trong khi đ�, từ ng�y 22 đến 24 th�ng 9 năm 1871 , phe chống đối của gi�o sư Doellinger (1799-1890) phần nhiều l� người Đức, Thụy Sĩ, �o, hội nhau tại Munich v� quyết định th�nh lập một Gi�o hội độc lập, tự xưng l� �Cựu C�ng gi�o�. Họ tổ chức th�nh một gi�o đo�n, đặc biệt bỏ xưng tội (1874), bỏ luật độc th�n gi�o sĩ (1878), v� phủ nhận t�n điều Đức Mẹ V� nhiễm Nguy�n tội. Họ kh�ng g�y được ảnh hưởng g� s�u xa (53.000 t�n đồ năm 1879). Sau n�y, khi Bismarck đứng l�n chống Gi�o hội, đ� t�m c�ch che chở v� b�nh vực họ. Nhưng rồi họ mất sự n�ng đỡ v� t�n lụi dần khi Bismarck trở lại ch�nh s�ch giao hảo với T�a th�nh dưới triều đức Le� XIII.

V� C�ng đồng đ�nh ho�n bất ngờ, n�n nhiều dự �n bỏ dở. Tuy nhi�n, t�i liệu C�ng đồng đ� gi�p �ch cho việc soạn thảo bộ Gi�o luật. Đức Th�nh Cha Pi� X (1903-14) đ� x�c tiến việc soạn thảo n�y (Motu Proprio, 29.3.1904). Bộ Gi�o luật (Codex Juris Canonici) được đức Gi�o ho�ng Beneđict� XV (1914-22) ch�nh thức c�ng bố năm 1917.


3. Đức Le� XIII (1878-1903) v� đức Pi� X (1903-14)

Đức Pi� IX mất ng�y 20.2.1878, hồng y Gioachim Pecci, tổng gi�m mục Perusa, được bầu l�n kế vị, tức Le� XIII. Mặc dầu đ� 68 tuổi, triều đại của ng�i k�o d�i tới 25 năm. Đức t�n Gi�o ho�ng được coi l� người của �phe �n h�a�. Ng�i l� một nh� th�ng th�i, một ch�nh trị gia lỗi lạc (nguy�n Sứ thần T�a th�nh tại Bruxelles), mềm dẻo, hiếu h�a, xứng một l�nh tụ, v� l� một trong những Gi�o ho�ng trứ danh nhất của Cận đại. Với sự cộng t�c của những hồng y Quốc vụ khanh t�i ba: Jacobini (1880-87) v� Rampolla (1887-1903), ng�i đ� thu được nhiều th�nh quả to lớn tr�n l�nh vực t�n gi�o, ngoại giao v� x� hội, khiến ng�i Gi�o ho�ng dưới thời ng�i đạt tới mức hầu như chưa từng c� về uy quyền trong Gi�o hội v� ảnh hưởng tr�n thế giới.[9]

Thời ấy, Gi�o hội gặp rất nhiều kh� khăn tr�n ch�nh trường �u ch�u, nhưng với t�i ba phi thường, đức Le� XIII đ� h�a giải th�nh c�ng, nối lại mối bang giao với c�c ch�nh quyền, bằng sự nh�n nhận chế độ D�n chủ của c�c Quốc gia t�n tiến. Chỉ c� việc điều đ�nh với vương quốc � c�n gặp lắm trở ngại v� ảnh hưởng của b� Nhiệm. Nh� cầm quyền � lu�n lu�n tỏ ra �c cảm với T�a th�nh. Đ�ng kh�c, ch�nh s�ch ngoại giao của Ph�p l�m cản trở cuộc mật d�m giữa Vatican v� thủ tướng � Crispi để đi tới một hiệp ước. Trong t�nh thế ấy, người C�ng gi�o � vẫn c�n theo lệnh của đức Pi� IX l�, kh�ng tham dự c�c cuộc bầu cử (ne elettori, ne eletti).

Đức Le� XIII đ� kh�ng thể l�m nước Ph�p bỏ ch�nh s�ch th� nghịch Gi�o hội, cũng kh�ng th�nh c�ng trong việc thống nhất c�c lực lượng C�ng gi�o Ph�p th�nh một mặt trận chung. Cuối đời ng�i, việc t�ch biệt dạo đời ở Ph�p đ� được chuẩn bị để tuy�n bố. Cả trong những Quốc gia c� truyền thống hơn, như T�y Ban Nha, b�Nhiệm vẫn kh�ng th�i hoạt động.

Tr�i lại, đức Le� đ� th�nh c�ng trong việc l�m lắng dịu �Mặt trận Văn h�a� ở Đức. Sự kh�n ngoan v� cương trực của ng�i được c�c giới C�ng gi�o đều biết đến. Bằng chứng l� trong việc tranh chấp giữa hai nước Đức v� T�y Ban Nha về quần đảo Carolina, do sự đề nghị của thủ tướng Bismarck, hai b�n đ� thỉnh � đức Th�nh Cha v� được ng�i giải quyết thỏa đ�ng (1885). Hai lần (1888 v� 1903) đức Le� XIII tiếp kiến ho�ng đế Wilhelm II (1888-1918) tại điện Vatican. Nh�n dịp lễ Kim kh�nh, rồi Ngọc kh�nh chức linh mục của đức Le� (năm 1887 v� 1897), hầu hết c�c vua ch�a tr�n thế giới đ� gởi đến ng�i lời mừng ch�c v� lễ vật; chỉ c� nước � kh�ng n�i g�.

Sự nghiệp của đức Th�nh Cha Le� XIII b�n trong Gi�o hội kh�ng k�m vĩ đại. H�ng Gi�o phẩm ho�n cầu c� th�m 248 t�a Tổng gi�m mục v� Gi�m mục, 48 t�a Đại diện v� Phủ do�n. Ranh giới c�c xứ Truyền gi�o mở rộng[10]. Đức Th�nh Cha theo đuổi c�ng cuộc cải c�ch của C�ng đồng Vatican, v� qua nhiều Th�ng điệp ng�i l�m s�ng tỏ đời sống người Kit� gi�o phải c� trong gia đ�nh, ngo�i x� hội v� Quốc gia, giao hảo với thế giới t�n tiến, mời gọi người C�ng gi�o tham gia t�ch cực v�o đời sống x� hội văn h�a.

Đức Th�nh Cha chống lại ch�nh s�ch độc t�i, nhưng cũng chống trả ch�nh s�ch c� nh�n �ch kỷ, ng�i k�u mời sự hợp t�c giữa Ch�nh quyền v� Gi�o quyền, sự th�ng hảo giữa hai quyền. Ng�i kh�o l�o đề cập đến những tương quan giữa Gi�o hội v� văn minh nh�n loại, giữa thế quyền v� thần quyền, giữa tự do ch�n ch�nh v� giả hiệu, đến vấn đề thợ thuyền (Th�ng điệp Rerum Novarum, 1891), đến những nguy cơ của X� hội chủ nghĩa v� b� Nhiệm, đến ch�nh thể D�n chủ Kit� gi�o, đến sự th�nh thiện của h�n nh�n, đến việc trở lại đức tin C�ng gi�o, v.v... Ng�i cổ v� sự t�n s�ng Th�nh Thể, Th�nh T�m, kinh M�n c�i, d�ng Ba, v� khuyến kh�ch học th�nh khoa. Trong th�ng điệp Aeterni Patris (1879), đức Th�nh Cha giới thiệu th�nh T�ma như l� vị t�n sư trong c�c ph�n khoa triết học v� thần học; đồng thời đưa ra nhiều biện ph�p đề cao triết học của th�nh tiến sĩ trong nhiều đại học, như Louvain, Fribourg, nơi c�c cha Đaminh được trao cho việc giảng dạy triết học v� thần học (1890). Để cổ v� khoa Th�nh Kinh, ngo�i việc thiết lập trường Th�nh Kinh ở Gierusalem do c�c cha d�ng Đaminh (1890), năm 1902 ng�i cho lập ủy vụ Th�nh Kinh (Đoản sắc Vigilantiae studiique), c� nhiệm vụ cổ động phong tr�o khảo s�t Th�nh Kinh v� lo cho sự học hỏi n�y khỏi bị sai lầm. Đối với khoa lịch sử, ng�i mở cửa c�ng h�m v� thư viện Vatican, để những nh� th�ng th�i c�c nước, c�c t�n gi�o c� thể đến nghi�n cứu (1881). Tinh thần của đức Le� vẫn minh mẫn v� đầy nghị lực cho tới ng�y từ trần 20.7.1903, thọ 93 tuổi.

L�n kế vị đức Th�nh Cha Le� XIII l� một đấng th�nh, đặc biệt ch� t�m v�o đời sống đạo đức v� mục vụ của Gi�o hội, đ� l� th�nh Gi�o ho�ng Pi� X, nguy�n l� hồng y Giuseppe Sarto, gi�o chủ Venecia, con một gia đ�nh b�nh d�n. Chương tr�nh hoạt động của ng�i l� �Tạo dựng mọi sự trong Ch�a Kit�� (Instaurare omnia in Christo), gồm t�m trong ba điểm: 1) Cổ v� sự t�n s�ng Th�nh Thể 2) Chiến đấu chống Duy t�n thuyết; 3) Cải c�ch gi�o luật v� phụng vụ. [11]

Người ta gọi đức Pi� l� Gi�o ho�ng của Th�nh Thể. Bằng nhiều Sắc lệnh, ng�i sửa đổi những tập tục trong việc s�ng k�nh b� t�ch cao cả n�y. Sắc lệnh Sacra Tridentina Synodus (20.12.1905) đập tan những t�n t�ch c�n lại của thuyết Jansenius, cổ v� việc si�ng năng rước lễ v� rước lễ h�ng ng�y, miễn l� sạch tội trọng v� c� � ngay l�nh. Sắc lệnh Quam Singulari (4.8.1910) kết �n tục lệ bắt trẻ em chờ đợi đến 14, 15 tuổi mới được rước lễ lần đầu, đồng thời khuyến kh�ch trẻ em xưng tội rước lễ từ khi bắt đầu đến tuổi kh�n. Trong đời ng�i, nhiều Đại hội Th�nh Thể được tổ chức rất long trọng ở London, Cologne, Madrid, Vienna, Montr�al, Malte, Lourdes.

Đức Pi� cũng lo chống lại c�c lạc thuyết của thời đại, mang t�n chung l� Duy t�n thuyết (Modernisme). Đức Th�nh Cha nhận thấy sự tai hại của thuyết đ� n�n đ� gắt gao kết �n. Từ năm 1903 đến 1906, c�c s�ch của A. Loisy, A. Houtin, L. Laberthonni�re v�  Ed. Le Roy lần lượt bị liệt v�o Mục lục S�ch cấm (Index). Th�ng  điệp Pascendi divini gregis (8.9.1907) c�ng khai kết �n Duy t�n thuyết, đồng thời đưa ra những phương dược như sau: huấn luyện gi�o sĩ theo triết học v� thần học Kinh viện, loại bỏ c�c gi�o sư bị nhiễm lạc thuyết. Ng�y 1.9.1910, Tự sắc Sacrorum Antistitum truyền cho c�c linh mục ch�nh xứ v� gi�o sư phải tuy�n thệ chống Duy t�n thuyết.

Ngay từ khi l�n ng�i, đức Pi� đ� đặc biệt quan t�m đến việc soạn thảo một bộ Gi�o luật (Motu proprio 29.3.1904). Ủy ban soạn thảo được th�nh lập gồm nhiều hồng y, c�c nh� gi�o luật v� thần học nổi tiếng. Ng�i cũng ra nhiều văn kiện để đưa v�o bộ Gi�o luật mới, như Sắc lệnh Ne temere (2.8.1907) về h�n nh�n C�ng gi�o, Hiến chế Sapienti Consilio (29.6.1908) tổ chức lại c�c th�nh Bộ đ� c� từ thời Sixt� V v� lập th�m nhiều Bộ mới, Sắc lệnh Maxima Cura (20.8.1910) về việc thuy�n chuyển c�c cha sở. Do kinh nghiệm trong việc bầu đức Gi�o ho�ng năm 1903 (Ch�nh quyền �o phủ quyết chống hồng y Rampolla), đức Th�nh Cha đưa ra những khoản luật mới về việc tối quan trọng n�y, triệt để cấm mọi can thiệp của c�c nh� cầm quyền. Ngo�i ra, c�n c� những khoản luật kh�c nhằm cải tiến t�ng đồ mục vụ v� chương tr�nh đ�o tạo h�ng gi�o sĩ (1906-08). Về khoa Th�nh Kinh, năm 1907 đức Th�nh Cha trao cho d�ng Biển đức, dưới sự điều khiển của vị hồng y tương lai Gasquet, việc ấn lo�t một bản dịch Vulgata dựa theo khoa ch� giải (S�ng th�' k� ph�t h�nh năm 1926); v� sau đ� 2 năm, Th�nh Kinh Gi�o ho�ng học viện được th�nh lập (sau n�y đ� s�p nhập v�o đại học Gregorian). Nhiều việc cải c�ch kh�c li�n can đến lễ nghi phụng vụ, Hiến chế Divino afflatu (l.11.1911) sửa đổi việc đọc Th�nh vịnh trong kinh Thần vụ; Tự sắc về th�nh nhạc (11.11.1903) đề cao b�nh ca Gregorian trong phụng vụ v� cấm d�ng c�c bản nhạc đời trong th�nh đường. Sau c�ng, nhiều vị hiển th�nh v� Ch�n phước, trong đ� c� 28 Ch�n phước Tử đạo Việt Nam, đ� được tuy�n bố dưới triều đại n�y.

Trong l�nh vực ch�nh trị t�n gi�o, đức Pi� X gặp �t may mắn. Ng�i kh�ng phải l� nh� ngoại giao lỗi lạc như đức Le� XIII. Khi hồng y Quốc vụ khanh Rampolla từ chức, ng�i chọn một vị người T�y Ban Nha mới 38 tuổi tức hồng y Merry del Val (1903-14). Về việc bang giao với nước �, ng�i theo ch�nh s�ch của đức Le� XIII. Đến sau, v� t�nh thế thay đổi, tuy tr�n nguy�n tắc Sắc lệnh Non expedit vẫn c�n, nhưng đ� rộng ph�p cho người C�ng gi�o trong những trường họp bất thường v� hệ trọng, được tham gia c�c cuộc bầu cử, để tr�nh việc lựa chọn những phần tử th� nghịch Gi�o hội; trong trường hợp ấy c�c gi�m mục gi�o phận phải l�nh chịu tr�ch nhiệm (1905). Đời ng�i c�n chứng kiến ch�nh s�ch t�ch biệt đạo đời của nước Ph�p. Năm 1911, nước Bồ Đ�o Nha cũng theo ch�nh s�ch đ�. Đại chiến b�ng nổ, những cuộc tương t�n chết ch�c l�m đức Th�nh Cha buồn rầu qu� m� từ trần ng�y 20.10.1914. Sự th�nh thiện, l�ng nh�n hậu v� đời sống đơn giản của đức Pi� đ� thu h�t được l�ng mộ mến của mọi người.


II

GI�O HỘI TẠI C�C NƯỚC �U CH�U THỜI CẬN KIM


1. Gi�o hội C�ng gi�o Đức với �Mặt trận Văn h�a�

Sau khi cuộc C�ch mạng 1848 mở lối cho c�c quyền tự do, Gi�o hội C�ng gi�o cũng bước v�o con đường tiến triển mới, kể cả ở miền T�y Nam nước Đức, nơi c� phong tr�o b�i t�n gi�o tai hại nhất Chủ nghĩa D�n chủ của thời đại tiến tới những kết quả tốt đẹp; c�c tổ chức hội đo�n, cơ quan ng�n luận, hoạt động x� hội của Gi�o hội đều được tự do ph�t triển.

Hai c�ng đồng gi�m mục họp tại Wurzburg năm 1848, v� Freiburg năm 1851, l�n tiếng đ�i quyền đ�o tạo v� bổ nhiệm h�ng Gi�o sĩ c�ng quyền thi h�nh kỷ luật Gi�o hội, quyền x�y cất học đường v� tu viện, quyền tự do gi�o dục v� quản trị c�c t�i sản Gi�o hội. Kh�ng được đ�p ứng thỏa đ�ng, một c�ng đồng kh�c cũng họp tại Freiburg th�ng 6 năm 1853 đưa ra một kiến nghị kh�c, với những y�u cầu chi tiết hơn, do đức cha Ketteler soạn thảo. Trong khi đ�, c�c gi�m mục cứ thi h�nh những vấn đề quan trọng nhất m� c�c ng�i biết trước ch�nh quyền sẽ từ chối, để tạo n�n một �việc đ� rồi�.

T�nh trạng đ� dĩ nhi�n phải g�y ra những cuộc xung đột, v� c�c Ch�nh phủ vẫn cương quyết lập trường. Đức cha H. Von Vicari tổng gi�m mục Freiburg (1842-68) bị kiểm th�c v� sau c�ng bị bắt giam (1854) v� �tội l�m rối loạn c� nguy hại đến an ninh trật tự chung�. Nhưng th�i độ can đảm của vị tổng gi�m mục l�o th�nh đ� g�y nhiều ảnh hưởng. Ch�nh quyền nhận thấy cần phải thương thuyết với Gi�o hội để l�m giảm đi những kh� khăn ch�nh trị. Nhiều bang trong li�n bang Đức k� thỏa hiệp với Vatican, nhưng c�c thỏa hiệp ấy kh�ng tồn tại l�u d�i trước những chống dối m�nh liệt của c�c d�n biểu đảng Tự do.

T�nh h�nh Gi�o hội ở Phổ từ trung tuần thế kỷ XIX được coi l� thuận lợi hơn hết trong li�n bang Đức. Cả về ph�a ch�nh quyền, người ta cũng kh�ng thấy c� điều g� đ�ng ph�n n�n hay lo ngại cho đến năm 1866, ch�nh vua Withelm I (1861-88) đ� c�ng khai nh�n nhận điều đ�. Nhưng ngay sau cuộc chiến thắng �o quốc (1866) v� Ph�p quốc (1870-71), m� người ta coi như Gi�o hội Tin l�nh chiến thắng gi�o hội C�ng gi�o, v� sau khi t�n đế quốc Đức được th�nh lập (18.1.1871), phong tr�o b�i Gi�o hội C�ng gi�o lại bắt đầu.

Ở Đức, kh�ng như nhiều nước kh�c, chủ nghĩa Tự do của giai cấp trung sản gắn liền với chủ nghĩa Quốc gia, th�m v�o đ� ảnh hưởng triết học của H�gel, đ� từ l�u �c cảm với Gi�o hội. L�c n�y n� muốn t�i thiết một gi�o hội quốc gia tự trị v� tuy�n chiến với Gi�o hội Roma. N� l�i cuốn được nhiều người theo, nhất l� từ khi c� bản Syllabus (1864) của đức Pi� IX v� C�ng đồng Vatican (1869-70) về �ơn v� ngộ� của ng�i Gi�o ho�ng. Người ta muốn tước hết mọi quyền tự do của Gi�o hội, ph� vỡ mọi cơ cấu tổ chức, v� bắt Gi�o hội phải ho�n to�n lệ thuộc ch�nh quyền. Đ� l� �Mặt trận Văn h�a� (Kulturkampf), do nh� độc t�i Bismarck (1815- 98) cầm đầu.

Mặt trận Văn h�a cho t�n gi�o l� c�i g� lỗi thời v� cản trở bước tiến của khoa học. L� tưởng C�ng gi�o, theo họ l� l�m lạc hướng hoạt động tự nhi�n của con người, do đ� ph� phạm sức lực, thời giờ, tiền bạc. V� thế họ t�m c�ch đả ph� C�ng gi�o, m� họ cho l� kẻ th� số một của văn minh. Thực ra Mặt trận Văn h�a chỉ l� b�nh phong che đậy những tham vọng ch�nh trị của nh� độc t�i kh�t tiếng n�y. Sau chiến tranh Đức-Ph�p, người C�ng gi�o Đức chiếm được nhiều ghế trong Quốc hội, họ chủ trương �n h�a, y�u cầu đặt ra những khoản luật đảm bảo tự do t�n ngưỡng. Bismarck kh�ng nghe v� c�n t�m c�ch loại bỏ họ.

Mặt trận Văn h�a bắt đầu ở Phổ với sự tiếp tay của tổng trưởng Falk, khi �ng n�y b�i bỏ chi bộ C�ng gi�o ra khỏi bộ c�c t�n gi�o (8.7.1871), cho rằng chi bộ n�y kh�ng muốn ủng hộ ch�nh quyền. Mặt trận trở n�n s�i nổi từ khi c� cuộc xung đột với c�c gi�m mục về gi�o ph�i �Cựu C�ng gi�o�. Tiếp đến l� luật �Chống lại những lạm dụng t�a giảng� (10.12.1871): phạt t� c�c gi�o sĩ n�i đến vấn đề quốc gia tr�n giảng đ�i; luật kiểm so�t c�c học đường (th�ng 3.1872): đặt tất cả c�c tổ chức gi�o dục dưới quyền kiểm so�t của Ch�nh phủ; lệnh trục xuất d�ng T�n v� nhiều d�ng tu kh�c, như d�ng Ch�a Cứu thế, Lazarist, Ch�a Th�nh Thần v� c�c b�i Th�nh T�m Ch�a (4.7.1872), m� họ cho l� �c� họ h�ng� với d�ng T�n.

�c hại nhất l� �Tứ luật th�ng nătn� (11-14 th�ng 5) năm 1873. C�c luật n�y nhằm ph� mọi cơ cấu tổ chức Gi�o hội v� biến n� th�nh một Gi�o hội quốc gia, rồi đi đến chỗ tự trị (1873) đến chỗ trở th�nh c�ng cụ của ch�nh quyền (1875). C�c gi�m mục, gi�o sĩ, ai cưỡng lại sẽ bị trừng phạt, c� khi phải l�nh �n t� khổ sai. Hai tổng gi�m mục th�nh Melchers th�nh Cologne v� Ledochowski th�nh Gnesen-Posen v� bốn gi�m mục kh�c bị trục xuất. Năm 1874 v� 1875, �Tứ luật th�ng năm� được tăng cường bằng nhiều đạo luật kh�c, để chặn lại mọi phản ứng. Ngo�i ra c�n c� d�n luật về h�n nh�n bắt buộc mọi người phải theo (th�ng 2.1875). Trong th�ng điệp Quod nunquam ng�y 5.2.1875, đ�c Th�nh Cha Pi� IX tuy�n bố c�c đạo luật n�i tr�n v� hiệu lực, v� lẽ kh�ng ph� hợp với luật Thi�n Ch�a v� Gi�o hội. Th�ng điệp đ� được đ�p lại bằng những h�nh động thật d� man.

Những thiệt hại do Mặt trận Văn h�a g�y n�n kh�ng thể lường được. Năm 1878, chỉ c�n bốn gi�m mục tại vị, c�c chủng viện bị đ�ng cửa, khoảng 1.000 gi�o xứ bị phong tỏa, h�ng ng�n linh mục bị trục xuất. Tuy nhi�n, ch�nh quyền đ� thất bại trong việc �p dụng c�c đạo luật trước sự phản ứng quyết liệt của h�ng gi�o sĩ v� gi�o d�n. Chỉ c� một số �t gi�o sĩ, gi�o d�n ngả theo Mặt trận v� l�m tay sai cho ch�nh quyền, c�n hầu hết vẫn trung th�nh với đức Gi�o ho�ng v� h�ng Gi�o phẩm.. Cuộc đụng độ n�y đ� l�m họ th�m dũng cảm, với nhiều tổ chức hội đo�n C�ng gi�o rất chặt chẽ, được sự điều khiển của những nh�n vật như L. Windthorst, H. Von Mallinckrodt, hai anh em Augustus v� Petrus Reichensperger.

Tất cả mọi người bắt đầu ch�n ngấy những cuộc tranh chấp v� chỉ mong muốn h�a b�nh trở lại. Ch�nh quyền gặp nhiều kh� khăn, đảng X� hội d�n chủ hoạt động mạnh, rồi đến những rối loạn (vụ mưu s�t ho�ng đế Wilhelem I năm 1878) l� những tiếng c�i b�o động. Việc thủ tướng Bismarck trở lại ch�nh s�ch bảo thủ, v� sự cần đặt một h�ng r�o ngăn cản đ� tiến của X� hội chủ nghĩa bằng những đạo luật x� hội l�nh mạnh, đ� gi�p cho �cuộc chiến� phải tạm ngưng. Việc thay đổi ng�i Gi�o ho�ng cũng tiếp tay cho việc ngưng chiến n�y. Đức Th�nh Cha Le� XIII nhận thấy c� nhiệm vụ t�i thiết h�a b�nh tại Đức quốc v� phải đối ph� với ch�nh quyền Phổ. Sau những cuộc đ�m ph�n dọn đường của c�c Sứ thần T�a th�nh tại Munich (Masella) v� Vienna (Jacobini), v� sau việc b�i chức tổng trưởng Falk (1879), Bismarck bằng l�ng b�i bỏ dần những đạo luật chống Gi�o hội của �Mặt trận Văn h�a�. Nhiều gi�m mục được trở về địa phận, v� năm 1882 t�a đại sứ Phổ ở Vatican mở cửa lại với vị t�n đại sứ Von Schlozer. Việc thiết lập t�a Sứ thần T�a th�nh tại Berlin kh�ng th�nh, do sự phủ quyết của ho�ng đế. Hai tổng gi�m mục Melchers v� Ledochowski từ chức để ở lại Roma, l�n chức hồng y tại Gi�o triều.

Sự bang giao giữa Bismarck v� Le� XIII mỗi ng�y th�m tốt đẹp. Hai đạo luật mới 1886-87 b�i bỏ t�a �n t�n gi�o v� việc kiểm so�t c�c chủng viện, đồng thời nh�n nhận chương tr�nh học của Gi�o hội với một v�i điều kiện. Cũng khi ấy, nhiều d�ng tu trở lại hoạt động, c�c lễ nghi phụng vụ v� b� t�ch được cử h�nh tự do. Đạo luật �H�a b�nh� ban h�nh ng�y 29.4.1884 được đức Th�nh Cha Le� XIII gọi l� �con đường tiến tới h�a b�nh (aditus ad pacem). C�c th�nh phần kh�c trong đế quốc Đức đều c� những giao hảo tương tự.


2. Gi�o hội C�ng gi�o ở �o, Thụy Sĩ v� Bắc �u
[12]

�o quốc, t�nh h�nh Gi�o hội trở n�n đen tối từ năm 1860. Năm 1868, dưới thời thủ tướng Beust, hiệp ước 1855 bị c�c đạo luật của ch�nh quyền vi phạm v� lấn �t trong nhiều điểm quan trọng (vấn đề h�n nh�n v� gi�o dục). Đức cha Rudigier, gi�m mục th�nh Linz, bị tống giam v� một bức thư mục vụ; nhưng ng�i đ� được ho�ng đế Franz Josef (1848-1916) ph�ng th�ch. Th�ng 7 năm 1870, ch�nh quyền tuy�n bố hủy bỏ hiệp ước, viện lẽ �một trong hai b�n đ� thay đổi�. Sau c�ng, những đạo luật th�ng 5 năm 1874 tự � giải quyết mọi quyền ngoại giao của Gi�o hội. Những tiếng phản đối của đức Pi� IX v� của h�ng Gi�m mục kh�ng được ai nghe. Tuy nhi�n, việc thi h�nh c�c đạo luật chưa đến độ gắt gao, n�n c�n tr�nh được c�c vụ xung đột lớn, v� v� ho�ng đế chủ trương ch�nh s�ch �đối hợp chế� (dualisme), n�n Gi�o hội c�n được hưởng kh� nhiều tự do.

Gi�o ph�i �Cựu C�ng gi�o� đ� lọt v�o c�c đ� thị nước �o từ năm 1872, v� trở n�n mạnh sau năm 1897 nhờ c� phong tr�o Los Von Rom  (S�parons-nous de Rome). Trong c�c tỉnh kỹ nghệ Bắc Bohemia, Hạ �o v� Styria, l� những nơi thiếu linh mục (v� lẽ ch�nh trị như sự kỳ thị nh� Habsburg v� chủ nghĩa Quốc x� Đức), đạo c�ng gi�o bị đ�n �p; những cuộc rối loạn được Gi�o hội Tin l�nh Đức gởi tiền bạc, c�n bộ v� truyền đơn. Khoảng 20.000 người C�ng gi�o theo �Cựu C�ng gi�o� v� 50.000 theo Tin l�nh. Sau đệ nhất thế chiến, C�ng gi�o mất th�m 60.000 người nữa.

Từ năm 1902 đ� c� những đo�n qu�n tự vệ C�ng gi�o được tổ chức ho�n bị hơn, sự yểm trợ của hội đo�n Th�nh Boniafaci� v� hội đo�n gi�o dục. Mặt trận b�nh d�n của nam tước Vogelsang được biến th�nh đảng X� hội C�ng gi�o với sự chấp thuận của đức Th�nh Cha Le� XIII. Nhiều c�ng đồng miền được triệu tập (1908). Tuy nhi�n, chủ nghĩa Tự do chống Gi�o hội, hoặc l�nh đạm với t�n gi�o, mỗi ng�y th�m s�u rộng trong giới tr� thức. B�o ch� v� tư bản đều tỏ ra th� địch với Roma.

Thụy Sĩ cũng c� phong tr�o chống Gi�o hội từ năm 1870. Người C�ng gi�o h�nh như kh�ng c� một tiếng n�i trong Ch�nh phủ li�n bang. Hiến ph�p được duyệt lại năm 1874 khẳng định quyền Quốc gia tr�n Gi�o hội, v� một lần nữa trục xuất c�c cha d�ng T�n v� c�c d�ng tu m� họ cho l� c� li�n hệ với d�ng n�y, cấm lập tu hội mới hoặc t�i thiết những tu viện đ� bị giải t�n. Sứ thần T�a th�nh phải ra đi (th�ng 2.1874). Nh�m �Cựu C�ng gi�o� v� c�c gi�o ph�i được ch�nh quyền n�ng đỡ. Trong c�c v�ng Gen�ve, B�le v� Berne, Mặt trận Văn h�a hoạt động mạnh, nhằm ph� Gi�o hội: giải t�n, b�i chức, trục xuất, lưu đ�y...

T�nh h�nh thay đổi khi đức Le� XIII l�n cầm quyền (1878). T�a Gi�m mục B�le được t�i lập v�o m�a thu năm 1884 với đức cha Fiala. Đức Th�nh Cha cũng đ� cử gi�m mục Lachat l�m gi�m quản T�ng t�a Tessin: năm 1888 gi�o phận Lugano được thiết lập Gen�ve s�p nhập v�o Lausanne năm 1883 v� đức cha Mermillot được cử l�m gi�m mục, đặt trụ sở ở Fribourg; nhưng ng�i bị ch�nh quyền trục xuất ngay sau đ�. Ch�nh quyền Gen�ve cũng như tại nhiều tổng kh�c vẫn �c cảm với Gi�o hội, việc bang giao tiến h�nh một c�ch chậm chạp. Ch�nh phủ li�n bang phải mất nhiều năm mới gột được hết �c kỳ thị do Mặt trận Văn h�a g�y n�n: luật cấm rước kiệu m�i đến năm 1917 mới b�i bỏ.

C� điều đ�ng ch� � l� đời sống nội bộ của Gi�o hội C�ng gi�o Thụy Sĩ trở n�n sốt sắng v� hoạt động kể từ năm 1880. C�c học đường, c�c hội đo�n cũng như c�c tổ chức x� hội b�c �i ph�t triển khả quan. Tổng Fribourg năm 1889 thiết lập viện đại học c�ng gi�o thứ nhất (v� độc nhất) ở Thụy Sĩ. Sau khi khắc phục mọi kh� khăn ban đầu, n� đ� c� một uy t�n quốc tế v� thời danh. Ph�n khoa thần học được trao cho c�c cha d�ng Đaminh năm 1890. Cũng tại Fribourg, năm 1921 trung t�m quốc tế hiệp hội Tr� thức C�ng gi�o Pax Romana được th�nh lập. Năm 1903, lần thứ nhất Đại hội gi�o d�n C�ng gi�o họp lại Lucerne.

Ch�nh s�ch t�ch biệt đạo đời được đưa v�o Gen�ve năm 1907 v� B�le năm 1911, nhưng kh�ng c� g� đ�ng lo ngại. T�a Đại diện T�a th�nh được thiết lập ngay trong thời đệ nhất thế chiến, nhằm cứu trợ nạn nh�n chiến tranh, biến th�nh t�a Sứ thần tại thủ đ� Berne năm 1920.

Bỉ, nhiều cuộc đụng độ xảy ra, nhất l� trong vấn đề gi�o dục. Năm 1879, Ch�nh phủ thuộc đảng Tự do (1878-84) ban h�nh đạo luật, tổ chức một nền gi�o dục tiểu học �v� t�n gi�o� tại c�c l�ng x�. Người C�ng gi�o chống trả m�nh liệt, họ x�y cất trường tư thục khắp nơi. Cuộc bầu cử 1884, phe C�ng gi�o thắng thế v� chiếm đa số trong Quốc hội cũng như trong Ch�nh phủ cho đến năm 1919. Việc bang giao với T�a th�nh được t�i lập v� vấn đề gi�o dục được giải quyết trong tinh thần tự do. C�c d�ng tu b�nh trướng khắp nước, viện đại học Louvain l� trung t�m đầu n�o của đời sống tri thức c�ng gi�o, dần dần c� uy t�n trong v� ngo�i nước. Tuy nhi�n, b� Nhiệm v� chủ nghĩa X� hội b�i t�n gi�o vẫn c�n nhiều người theo.

Ở H� Lan, Gi�o hội C�ng gi�o gặp ho�n cảnh kh� thuận lợi, nhiều d�ng tu bị Mặt trận Văn h�a trục xuất, đều đến l�nh nạn tại vương quốc n�y. Nhưng v� ch�nh quyền chủ trương nền gi�o dục �v� t�n gi�o�, n�n người C�ng gi�o phải chịu nhiều hy sinh để x�y cất trường tư. Đến sau, c�c trường n�y cũng được ch�nh quyền trợ cấp, tiểu học từ năm 1889, trung học từ 1905. Hoạt động x� hội b�c �i, c�c hội đo�n, b�o ch� v� đ�i truyền thanh C�ng gi�o đều ph�t triển rộng r�i.

Tại c�c nước Scandinavian, chỉ c� một số rất �t C�ng gi�o, gia tăng chậm chạp bằng những vụ trở lại v� di d�n, đặc biệt sau đệ nhị thế chiến. Nhiều Phủ do�n T�ng t�a thiết lập năm 1868-69 tại Đan Mạch v� Na Uy, được n�ng l�n h�ng Đại diện T�ng t�a năm 1892, trong khi Đại diện T�ng t�a ở Thụy Điển đ� c� từ năm 1782. Đến sau th�m hai Đại diện T�ng t�a Trung v� Bắc Na Uy.

Đời sống nội bộ Gi�o hội Scandinavian thật đ�ng phấn khởi, nếu người ta hiểu r� những điều kiện kh� khăn của những gi�o đo�n �kiều ngụ� n�y. Ở Đan Mạch, c�c hội d�ng tự do hoạt động, đặc biệt trong ng�nh gi�o dục (với sự n�ng đỡ của ch�nh quyền) v� b�c �i x� hội: văn h�o J. Joergensen theo đạo năm 1892. Ở Na Uy, c�c tu sĩ hoạt động trở lại từ năm 1897. Trong số người Na Uy theo đạo, nổi tiếng hơn cả c� nh� thần học Knud Krogh Tonning (1910) v� nữ văn sĩ Sigrid Undset (1925). Thụy Điển năm 1860 mới b�i bỏ c�c đạo luật trừng phạt (lưu đ�y, tịch th�u t�i sản) những ai bỏ �đạo quốc gia Lutherian�; người C�ng gi�o từ đ� được ph�p th�nh lập gi�o xứ ri�ng; 10 năm sau, họ được tham gia hầu hết c�c chức vụ trong Ch�nh phủ. Nhưng người C�ng gi�o vẫn kh�ng được trợ cấp ngược lại họ phải đ�ng g�p cho Gi�o hội quốc gia Lutherian. C�c d�ng tu c�n bị cấm cho đến năm 1951. Ở Phần Lan, quyền tự do t�n gi�o m�i đến năm 1921 mới c�. Cho tới năm 1970, số gi�o d�n C�ng gi�o ở v�ng Scandinavian vẫn được coi l� thấp nhất ở �u ch�u: Đan Mạch 26.000 (0,53%), Na Uy 8.700 (0,23%), Thụy Điển 49.400 (0,63%), Phần Lan 2.800 (0,06%), � Nhĩ Lan 1.050 (0,6%) [13]


3. Gi�o hội C�ng gi�o ở Ph�p, Anh, T�y Ban Nha v� Bồ Đ�o Nha
[14]

Nước Ph�p phục hồi mau ch�ng sau cuộc thất trận năm 1870-71, lật đổ Napol�on III (4.9.1870). Ch�nh phủ đệ tam cộng h�a ban đầu c� th�i độ th�n hữu với đạo C�ng gi�o v� T�a th�nh, v� lẽ vết t�ch chiến tranh h�y c�n, v� v� những h�nh động d� man của c�ng x� Paris (th�ng 3-5 năm 1871), trong đ� đức tổng gi�m mục Darboy v� 62 con tin gồm gi�o sĩ v� gi�o d�n bị bắn chết, đ� l�m cho người ta hồi t�m suy nghĩ. Nhưng t�m trạng v� thần hoặc dửng dưng d� lan rộng khắp nơi, th�m v�o đ� cuốn tiểu thuyết Cuộc đời �ng Gi�su (1863) v� nhiều t�c phẩm kh�c về lịch sử Kit� gi�o của văn h�o bội gi�o Renan (1823-92).

Những cố gắng t�i thiết nền Qu�n chủ đều thất bại, Cộng h�a tả đảng v� đảng Cấp tiến th� địch Gi�o hội được b� Nhiệm ngầm gi�p, l�m chủ t�nh thế. Năm 1877, Gambetta l�n tiếng tại hạ viện: Bọn gi�o sĩ ch�nh l� kẻ th��. Dưới thời tổng trưởng gi�o dục Jules Ferry v� Paul Bert, khởi sự một cuộc chiến chống Gi�o hội C�ng gi�o, g�y nhiều thiệt hại nặng nề. C�c viện đại học C�ng gi�o thiết lập sau năm 1875 kh�ng c�n được quyền ph�t bằng cấp (1879) v� hết l� đại học. Những Sắc lệnh th�ng 3 năm 1880 b�i bỏ c�c cơ sở gi�o dục của d�ng T�n, c�n những d�ng tu kh�c chưa được ch�nh quyền thừa nhận, phải l�m đơn xin điều chỉnh trong v�ng 3 th�ng: 261 nam tu viện bị giải t�n.

Nhiều đạo luật kh�c (1880-83) buộc h�ng gi�o sĩ phải thi h�nh nghĩa vụ qu�n sự, b�i bỏ chức vụ tuy�n �y trong c�c binh chủng v� bệnh viện, hủy bỏ ng�y nghỉ ch�a nhật, v� d�nh mọi dễ d�i cho việc ly h�n. Ch�nh s�ch gi�o dục �v� t�n gi�o� miễn ph� v� cưỡng b�ch được �p dụng: cấm dạy gi�o l� trong c�c trường, loại bỏ c�c gi�o sĩ, tu sĩ ra khỏi ng�nh gi�o dục (1882-86).

Sự chia rẽ của người C�ng gi�o tr�n l�nh vực ch�nh trị c�ng l�m cho kẻ th� Gi�o hội th�m mạnh. Mặc dầu đ� c� lời k�u gọi của đức Th�nh Cha Le� XIII qua những Th�ng điệp 1884, 1890 v� 1892 (�re du �ralliement�) c�ng gương s�ng của đức hồng y Lavigerie (toast d'Alger), vẫn c� nhiều người C�ng gi�o kh�ng những thuộc h�ng qu� tộc, m� ngay trong h�ng Gi�o phẩm, gi�o sĩ v� một v�i d�ng tu, nhất định kh�ng chịu ở lại tr�n đất cộng h�a Ph�p. Họ thật c� l� khi phản kh�ng c�c nh� ch�nh trị cũng như những đạo luật chống gi�o hội, nhưng th�i độ qu� kh�ch của họ đ� l�m cho đối phương viện cớ bảo vệ Tổ quốc, th�m th� gh�t Gi�o hội.

Tuy nhi�n, ảnh hưởng của Gi�o hội h�y c�n kh� lớn trong đời sống của d�n Ph�p, v� nhiều d�ng tu vẫn tiếp tục hoạt động trong ng�nh gi�o dục tư. Ch�nh v� thế, kể từ đầu thế kỷ XX, nhiều biện ph�p mới nhằm triệt hạ c�c d�ng tu, nhất l� những hội d�ng chuy�n gi�o dục. Đạo luật 1.7.1901 về c�c đo�n thể cấm c�c hội d�ng kh�ng c� giấy ph�p; rồi cấm cả những d�ng tu trước kia đ� được ch�nh quyền nh�n nhận, sau c�ng cấm lu�n mọi hội d�ng hoạt động gi�o dục: tr�n 10.000 trường tư thục bị đ�ng cửa (1903-04), t�i sản của c�c d�ng tu bị tịch th�u, cả �tỉ bạc của c�c d�ng tu� được ph�n t�n trong tay những người cầm quyền v� c�c kẻ thừa h�nh.

Mục đ�ch của �đảng cầm quyền� bấy giờ l� thế tục h�a tất cả, nghĩa l� loại bỏ Kit� gi�o ra khỏi x� hội v� Quốc gia. Quốc hội đ� b�n c�i từ l�u về việc hủy bỏ bản hiệp ước 1801 v� thi h�nh ch�nh s�ch t�ch biệt đạo đời, m� vẫn chưa đạt kết quả. Nhưng v�o cuối thời Gi�o ho�ng Le� XIII, một cuộc xung đột với T�a th�nh về việc đề cử Gi�m mục xảy ra. Th�ng 4 năm 1904, bất chấp lệnh cấm c�c l�nh tụ C�ng gi�o (từ năm 1870), tổng thống Loubet (1899-1906) cứ sang Roma viếng thăm quốc vương �. �ng bị đức Th�nh Cha Pi� X l�n tiếng cảnh c�o v� cho mời hai gi�m mục Ph�p đến hội kiến về việc n�y, lập tức thủ tướng Combes tuy�n bố x� bản hiệp ước, cắt đứt mọi li�n lạc ngoại giao với R�ma (th�ng 7.1904), v� đưa ra dự �n t�ch biệt đạo đời (th�ng 10). Dự �n mặc dầu bị đức Gi�o ho�ng cũng như h�ng Gi�m mục v� gi�o d�n Ph�p kịch liệt phản đối, vẫn được hạ viện chấp thuận (341 phiếu thắng 233) ng�y 3.7.1905, v� Thượng viện (179 phiếu thắng 103) ng�y 6.10.1905.

Đạo luật �Ch�nh Gi�o Ph�n ly� ng�y 9.12.1905 bảo vệ quyền tự do t�n ngưỡng v� t�n gi�o, nhưng cấm Ch�nh phủ v� c�c l�ng x� kh�ng được gi�p đỡ hay trợ cấp cho bất cứ t�n gi�o n�o, đồng thời tr� t�nh th�nh lập �Hợp đồng t�n gi�o� (Associatioins cultuelles), để mọi t�i sản cũng như c�c cơ sở của Gi�o hội phải trao cho tổ chức n�y quản trị, dưới sự kiểm so�t của ch�nh quyền.

Như vậy, Gi�o hội C�ng gi�o bị tước đoạt lết mọi quyền h�nh v� của cải, r�t xuống th�nh một hội đo�n tư, bị đ�ng khung v� nằm trong tay ch�nh quyền. Gi�o d�n Ph�p một phần đ� ngả theo đạo luật �Ph�n ly� v� sống theo đường lối của Ch�nh phủ cộng h�a. Nhưng đức Th�nh Cha Pi� X kh�ng những đ� kết �n đạo luật n�y trong Th�ng điệp Vehementer nos (11.2.1906), m� c�n phủ nhận việc th�nh lập �Hợp đồng t�n gi�o� qua T�ng thư Gravissimo munere (10.8.1906), cũng T�ng thư n�y ban ph�p cho c�c gi�m mục được đưa ra những biện ph�p cần thiết để đối ph� với t�nh thế. T�i sản Gi�o hội phải khai b�o, để Ch�nh phủ tịch th�u dần. Nhưng d�n ch�ng bắt đầu c� những phản ứng đi đến biến động, khiến Ch�nh phủ Briand phải cho ph�p họ sử dụng th�nh đường v� cử h�nh c�c lễ nghi (1907-08).

T�nh h�nh Gi�o hội Ph�p trở n�n nghi�m trọng. Nhưng sự thử th�ch n�y đ� l� cơ hội để người C�ng gi�o Ph�p được đ�o luyện v� trở n�n vững tin. Ảnh hưởng của đạo nơi quần ch�ng trước đ�y bị mất m�t nay trở lại, v� đời sống đạo đức dậy l�n trong c�c đ� thị lớn. L�ng quảng đại đối với Gi�o hội v� nền gi�o dục thanh thiếu ni�n, sự dấn th�n v�o c�c c�ng t�c x� hội b�c �i thật lạ l�ng. Nhiều trường học c� đạo bị đ�ng cửa, nhưng hoạt động trở lại dưới h�nh thức trường tư. C�c nh� thần học gi�p Gi�o hội lướt thắng mọi gian nguy do chủ nghĩa Duy t�n g�y n�n, v� do chủ trương D�n chủ Kit� gi�o của Sangnier (1873-1950) trong phong tr�o Le Sillon (bị đức Pi� X l�n �n năm 1910, Sangnier v�ng phục ngay). Kể từ ng�y ban h�nh đạo luật t�ch biệt đạo đời, đức Th�nh Cha c� trọn quyền bổ nhiệm gi�m mục, v� gi�m mục bổ nhiệm c�c cha sở.

Sau việc t�i lập h�ng Gi�o phẩm (1850), Gi�o hội C�ng gi�o ở Anh tiến triển mau lẹ. Phong tr�o trở lại đem về cho Gi�o hội h�ng trăm nh�n vật quan trọng v� nổi tiếng. Phong tr�o chỉ ngưng lại một thời gian ngắn v�o năm 1896, khi đức Th�nh Cha Le� XIII tuy�n bố sự v� hiệu trong việc tấn phong gi�m mục v� linh mục của Anh gi�o. [15]

Cuộc sống b�n trong Gi�o hội Anh cũng t�ch cực hoạt động, mặc dầu phải đương đầu với nhiều kh� khăn; việc b�nh trướng c�c hội d�ng, học đường v� hội đo�n được nhiều tổ chức trong nước ủng hộ mạnh mẽ. Nổi tiếng nhất trong c�ng cuộc n�y l� đức hồng y Newman (1801-90) d�ng Diễn giảng, v� đức hồng y Manning, gi�m mục Westminster (1865-92), ng�i xứng đ�ng l� một nh� l�nh đạo tinh thần của thời Phục hưng, c� biệt t�i tổ chức v� được giới thợ thuyền London mến phục, do những c�ng t�c x� hội lớn lao. Chỉ tiếc một điều l� ng�i chủ trương qu� khắt khe, khi cấm c�c thanh ni�n C�ng gi�o theo học hai đại học Anh gi�o Oxford v� Cambridge. Kế vị ng�i l� đức hồng y Vaughan (1892-1903), rồi đức hồng y Bourne (1903-35). Theo đề nghị của đức hồng y Vaughan, đức Th�nh Cha Le� XIII đ� hủy bỏ lệnh cấm (của hồng y Manning) c�c sinh vi�n theo học hai đại học Oxford v� Cambridge. Năm 1911, đức th�nh Cha Pi� X thiết lập hai t�a Tổng Gi�m mục Birmingham v� Liverpool Đến lượt đức Th�nh Cha Beneđict� XV, năm 1916 thiết lập tổng gi�o phận thứ tư tại Newport-Cardiff thuộc xứ Galles, trong khi Westminster vẫn l� t�a Gi�o chủ Anh quốc. Từ khi vua George V (1910-36) l�n ng�i, Gi�o hội dần dần lấy lại quyền tự do ho�n to�n.

T� C�ch Lan, d�n số C�ng gi�o gia tăng dần l�n tới 500.000, đặc biệt do cuộc di d�n từ �i Nhĩ Lan sang. Đức Le� XIII t�i lập h�ng Gi�o phẩm năm 1878: hai t�a Tổng Gi�m mục Edinburg (với 4 t�a Gi�m mục) v� Glasgow.

�i Nhĩ Lan, ch�nh quyền Anh đ� phải nhượng bộ trước cuộc tranh đấu ki�n nhẫn của người C�ng gi�o. Từ năm 1869, dưới thời thủ tướng Gladstone, Gi�o hội �i hết lệ thuộc v�o ch�nh quyền. Đại chủng viện Maynooth thuộc tổng gi�o phận Dublin bắt đầu được trợ cấp. Nhưng viện đại học C�ng gi�o Dublin do đức cha Newman l�m viện trưởng ti�n khởi (1851-58) đ� kh�ng thể sống nổi v� thiếu thốn phương tiện. Năm 1908, Ch�nh phủ thiết lập đại học quốc gia �i Nhĩ Lan gồm ba học viện Dublin, Cork v� Galway, c� t�nh r� rệt C�ng gi�o.

T�y Ban Nha, cuộc C�ch mạng 1868 lật đổ nữ ho�ng Isabella II g�y nhiều biến động ch�nh trị v� nhiều thử th�ch cho Gi�o hội. H�a b�nh chỉ trở lại sau khi t�i lập triều đại Bourbon Cadiz v� việc con của Isabella l�n ng�i Vua, tức Alfonso XII (1875- 85). Hiến ph�p 1876 nh�n nhận Gi�o hội C�ng gi�o, T�ng truyền, Roma l�m quốc gi�o, tuy vẫn d�nh cho người kh�ng C�ng gi�o sự tự do t�n ngưỡng v� t�n gi�o, nhưng cấm kh�ng được l�m việc phượng tự c�ng khai (giảm nhẹ từ năm 1910). Gi�o hội Tin l�nh cũng hết sức hoạt động, song kh�ng đạt được kết quả n�o đ�ng kể. 

T�nh trạng đ� k�o d�i suốt thời nhiếp ch�nh của th�i hậu Maria Christina (1885-1902) v� con b�, tức Alfonso XIII (1902-31). Về mặt đối ngoại, ch�nh quyền T�y Ban Nha l�c đấy kh�ng được may mắn. Chiến tranh với Hoa Kỳ năm 1898 đ� l�m mất ba thuộc địa Cuba, Porto Rico v� Philippin. C�ng cuộc nội trị cũng gặp lắm tai biến x� hội lẫn t�n gi�o. Sự chia rẽ giữa người C�ng gi�o v� sự thất đảm của họ sau cuộc bại trận năm 1898 đ� l� cơ hội cho nh�m �cải c�ch�, đang muốn gạt bỏ di sản đạo đức của cha �ng để đi theo phong tr�o tự do v� chủ nghĩa thực nghiệm của �u ch�u, d�nh được những ghế gi�o sư trong c�c đại học v� chiếm được giới thanh ni�n tr� thức.

Theo gương nước Ph�p, phe tự do đương đầu với c�c d�ng tu, nhất l� dưới thời thủ tướng Canalejas (1910-12), đồng thời đ�i x�t lại thỏa hiệp 1851. Tuy nhi�n T�y Ban Nha đ� tr�nh được một cuộc ly khai với T�a th�nh. Sự thật đau thương nhất l� giới thợ thuyền tại c�c th�nh phố kỹ nghệ miền Đ�ng bị nhiễm tư tưởng cấp tiến, c�ch mạng, v� ch�nh phủ, bộc ph�t từ năm 1909, nh�n vụ �n xử Francisco Ferrer ở Barcelona. Nhiều biến động đẫm m�u xảy ra: đ�nh chiếm th�nh đường, tu viện, �m s�t gi�o sĩ, v.v...

Trong khi phần lớn d�n T�y Ban Nha c�n sống trung th�nh với Gi�o hội, th� t�nh h�nh Bồ Đ�o Nha mỗi ng�y trở n�n đen tối. Năm 1881, đức Th�nh Cha Le� XIII phải chia lại ranh giới v� giảm thiểu số gi�o phận (3 tổng gi�m mục Lisboa, Braga, Evora, v� 9 gi�m mục). Tuy nhi�n, vẫn kh�ng ti�u diệt được c�c tệ đoan v� gương xấu trong h�ng gi�o sĩ v� gi�o d�n.

Vua Carlos I v� th�i tử Lui Felipe phải tho�i vị ng�y 1.2.1908, do một cuộc dấy loạn. Vua Manuel II cũng bị lật đổ v�o th�ng 10 năm 1910 v� ch�nh thể Cộng h�a được thiết lập (Manuel lưu vong b�n Anh quốc v� chết năm 1932). Ch�nh quyền C�ch mạng chủ trương b�ch hại d�ng tu, trục xuất d�ng T�n, tịch th�u t�i sản của d�ng n�y, rồi ng�y 20.4.1911 tuy�n bố ch�nh s�ch t�ch biệt đạo đời với những h�nh động bạo quyền d� man. Đức Th�nh Cha Pi� X l�n tiếng phản đối qua Th�ng điệp Jam dudum (24.5.1911), việc bang giao với T�a th�nh bị cắt đứt hẳn từ năm 1913. Bầu kh� ngột ngạt bao tr�m khắp nước.


4. Gi�o hội C�ng gi�o v� Ch�nh thống ở Đ�ng �u
[16]

Trong nước Nga vua Alexandrov II (1855-81) k�o d�i cuộc b�ch hại C�ng gi�o của cha l� Nikolai I. Cuộc nổi dậy của Ba Lan năm 1863 khiến ch�nh quyền c� những biện ph�p mạnh đến độ d� man. Hầu hết c�c tu viện bị giải t�n, nhiều linh mục, tu sĩ đi đ�y (1863-64). Thỏa hiệp 1847 kh�ng c�n được t�n trọng, li�n lạc ngoại giao với T�a th�nh chấm dứt (1866), tiếng Nga l� ng�n ngữ duy nhất phải được d�ng trong c�c học đường v� lễ nghi phụng vụ (1869-70). D�n C�ng gi�o Ruthen bị ngược đ�i hơn nữa: 260.000 người (gi�o phận Chelm) bị cưỡng b�ch ghi t�n v�o Ch�nh thống gi�o (1875).

Năm 1881, Alexandrov II bị nh�m �v� ch�nh phủ� (nihiliste) giết chết, t�nh trạng Gi�o hội được s�ng sủa hơn dưới triều Alexandrov III (1881-94), �t l� đối với Gi�o hội Latinh. Th�ng 12 năm 1882, một thỏa hiệp mới được k� kết với đức Le� XIII; c�c gi�m mục Ba Lan được ph�ng th�ch, c�c chủng viện mở cửa lại. Năm 1894, li�n lạc ngoại giao với T�a th�nh cũng trở lại b�nh thường. Bản thỏa hiệp trong những năm 1897 v� 1907 được bổ t�c th�m một v�i điểm. Nhưng vị biện l� tối cao của �Th�nh Hội đồng�, t�n l� Pobjedonotsev (1880-1905), đại diện cho ph�i bảo thủ Nga, t�m hết c�ch để Nga h�a c�c học đường cũng như c�c Gi�o hội, v� �ng đ� kh�ng từ chối sử dụng bất cứ một biện ph�p n�o, hầu loại bỏ quyền tự do t�n gi�o của người C�ng gi�o cũng như Tin l�nh.

Cuộc C�ch mạng 1905 chấm dứt chế độ �Đế quốc T�n gi�o� ở Nga. Sắc lệnh Nga ho�ng Nikolai II (1894-1917) ban h�nh ng�y 17.4.1905, b�i bỏ mọi h�nh luật d�nh cho những người bỏ �Đạo Quốc gia� v� những gi�o sĩ ban ph�t c�c b� t�ch cho những người từ Ch�nh thống gi�o sang C�ng gi�o. Tuy�n c�o của Nga ho�ng ng�y 17.10.1905 c�ng bố quyền tự do t�n ngưỡng, k�m theo một hiến chế. Từ đ�, tr�n nguy�n tắc, Gi�o hội Ch�nh thống kh�ng c�n l� Gi�o hội �độc quyền� trong đế quốc Nga nữa. Từ năm 1905 đến 1910, tr�n 230.000 gi�o d�n trước kia bị cưỡng �p theo Ch�nh thống gi�o (hơn 2/3 thuộc c�c tỉnh miền T�y) nay trở lại với Gi�o hội C�ng gi�o Roma. Tuy nhi�n, do sự can thiệp của �Th�nh Hội đồng� v� c�c gi�m mục Ch�nh thống, người C�ng gi�o c�n gặp nhiều kh� khăn.

Nhiều người trở lại C�ng gi�o đ� phải đi khỏi nước để giữ đạo. Cuối thế kỷ XIX, th�m một số kh�c trở lại một c�ch lặng lẽ, đủ th�nh những vi�n đ� đầu ti�n cho việc phục hưng Gi�o hội C�ng gi�o ở Nga. Trong số n�y, đặc biệt c� triết gia Vladimir Soloviev (1853-1900), t�c giả cuốn Nước Nga v� Gi�o hội Phổ thế (1899). Đầu năm 1909, đế quốc Nga c� 131.193.000 d�n, th� tr�n 100 triệu theo Ch�nh thống gi�o; 13.500.000 C�ng gi�o (8.400.000 ở Ba Lan), 6.500.000 Tin l�nh v� hơn 5 triệu Do Th�i gi�o.

Ba Lan, Gi�o hội C�ng gi�o từ năm 1903 bị quấy nhiễu bởi gi�o ph�i Mariavit. Đ� l� gi�o ph�i tự xưng l� những �gi�o d�n triệt để theo gương Đức Trinh Nữ Maria�. Nguy�n l� một tu hội gồm c�c nữ tu sĩ v� linh mục, được th�nh lập theo những thần ảo của một b� g�a t�n l� Maria Kozowska với sự hợp t�c của linh mục J. Kowalski. Bị kết �n năm 1904, họ tuy�n bố ly khai với Gi�o hội. Năm 1906, đức Pi� X ra vạ tuyệt th�ng cho c�c hội vi�n cố chấp. Gi�o ph�i được ch�nh quyền Nga nh�n nhận v� bảo vệ, tiếp tục hoạt động trong xứ Ba Lan v� Lithuania: 200.000 năm 1911.

Năm 1909, gi�o ph�i Mariavit hiệp nhất với nh�m �Cựu C�ng gi�o�, v� Kowalski được tấn phong gi�m mục Ulrecht. Một Gi�o hội quốc gia Ba Lan theo lối �Cựu C�ng gi�o� khai sinh tại Hoa Kỳ năm 1900 đem về mẫu quốc, được ch�nh quyền nh�n nhận sự s�p nhập với gi�o ph�i Mariavit. Nhưng năm 1924, nh�m �Cựu C�ng gi�o� t�ch khỏi Mariavit, cả hai lụn bại dần từ đấy.

Sau cuộc chiến tranh Nga Thổ (1877-78) v� hội nghị Berlin (1878), c�c nước Rumani, Serbia, Bảo Gia Lợi tho�t quyền thống trị của Thổ Nhĩ Kỳ v� dần dần trở th�nh những vương quốc độc lập. Về phương diện t�n gi�o, Serbia năm 1879 v� Rumani năm 1885 t�ch rời khỏi t�a Gi�o chủ Ch�nh thống Constantinopoli để thiết lập những Gi�o hội tự trị theo kiểu Hy Lạp, trong đ� Quốc gia đứng tr�n Gi�o hội. C�n nước Bảo Gia Lợi từ năm 1870 đ� được vua Thổ Nhĩ Kỳ chấp thuận cho c� một khu vực t�n gi�o độc lập ngay tại Constantinopoli. Nhưng Gi�o hội Bảo bị thượng phụ gi�o chủ phạt vạ tuyệt th�ng (1872); m�i đến năm 1945 mới h�a giải xong. Quyền b�nh của ng�i Gi�o chủ Constantinopoli c�n bị s�t giảm hơn nữa do chiến tranh Balkan (1912-13), đến độ chỉ c�n tước vị Gi�o chủ �danh dự� đối với c�c Gi�o hội Ch�nh thống (trừ Nga), với con số 28 triệu t�n hữu (năm 1930), thuộc 20 Gi�o hội tự trị.

Gi�o hội Ch�nh thống ở Nga đ� biệt lập khỏi Gi�o hội Ch�nh thống Constantinopoli từ năm 1448, v� suốt thế kỷ XIX l� Gi�o hội quốc gia Nga, Nga ho�ng đồng thời l� gi�o chủ, �Th�nh Hội đồng� chỉ l� tay sai của ch�nh quyền. Gi�o hội Ch�nh thống Nga nhận sứ mạng truyền b� đức tin tại c�c nước Hồi gi�o v� trong trong c�c xứ thuộc địa Nga ở � ch�u, đặc biệt Siberia, nơi lưu đ�y của h�ng vạn người: năm 1840, một t�a Gi�m mục được thiết lập tại Kamtchatka. C�ng cuộc truyền gi�o đến sau được trao cho �hội Truyền gi�o Ch�nh thống� th�nh lập năm 1870. C�c gi�o ph�i, nhất l� ph�i Raskolniki, b�nh trướng mạnh mẽ. Hạ b�n thế kỷ XIX, đời sống xa hoa của cấp l�nh đạo v� giới thượng lưu l� mối nguy cơ cho đế quốc. Sự bất m�n của d�n ch�ng biểu lộ qua những h�nh động qu� kh�ch, do đ� chủ nghĩa �v� ch�nh phủ� ph�t sinh.

Thời n�y Gi�o hội Ch�nh thống Nga c� những nh�n vật nổi tiếng, như thi sĩ Dostoievski (1821-81), văn h�o Tolstoi (1828-1910). Tolstoi từ năm 1877 th�nh một tư tưởng gia cuồng t�n, một nh� cải c�ch x� hội qu� kh�ch muốn đạp đổ mọi t�n gi�o, chiến tranh, Quốc gia v� quyền tư hữu, chủ trương trở lại sự tinh khiết v� y�u thương Kit� gi�o nguy�n thủy. Mặc dầu bị �Th�nh Hội đồng� l�n �n, Tolsloi vẫn c� nhiều người theo. �ng l� một trong những nh�n vật dọn đường cho chủ nghĩa Cộng sản.

C�c Gi�o hội Đ�ng phương kh�c phần lớn kh�ng thể ph�t triển được. Nh�m Kit� hữu, quen gọi l� �của th�nh T�ma T�ng đồ� ở Ấn Độ (khoảng 350.000) đ� một thời theo gi�o ph�i Nestorius, nay đa số trở về với Roma. Nhiều Gi�o hội quốc gia theo gi�o ph�i Monophysisme như Gi�o hội Syriac cũng gọi l� Jacobit với 100.000 t�n hữu trong xứ Syria, Kurdistan v� Mesopotamia, dưới quyền một vị gi�o chủ ở Hins (Syria); Gi�o hội Copt� ở Ai Cập với 2 triệu t�n hữu thuộc gi�o chủ Alexanđria, c� t�a ở Le Caire; Gi�o hội Abyssina với 6 triệu người thuộc gi�o chủ ở Addis-Abeba; Gi�o hội Armen� (Gregorian) quan trọng nhất với 3 triệu gi�o d�n, rải rắc khắp �u ch�u, Ai Cập v� Mỹ ch�u, dưới quyền l�nh đạo tối cao của vị Catholicos ở Etchmiadzin (Nga) v� nhiều gi�o chủ. Khoảng 120.000 gi�o d�n Armen� đ� hiệp nhất với Roma, 40.000 theo Tin l�nh khi người Anh v� Hoa Kỳ đến trợ gi�p họ. Ngo�i ra c�n c� Gi�o hội Nestorius với con số t�n hữu 30.000 ở Kurdistan, Persia v� Irak, c� vị gi�o chủ ở Kosschanes (Kurdistan).

Đối với Gi�o hội C�ng gi�o Roma, c�c Gi�o hội Ch�nh thống Đ�ng phương c� những li�n lạc kh�ng mấy mật thiết, trong khi c�c đức Gi�o ho�ng hằng lưu t�m đến việc hiệp nhất v� tha thiết k�u mời c�c Gi�o hội ly khai.[17] Đức Th�nh Cha Gregori XIII (1573-85) thiết lập ủy ban gồm nhiều hồng y đặc tr�ch Gi�o hội Đ�ng phương, mở trường cho c�c gi�o sĩ Hy Lạp, Maronit v� Armen�. Đức Gregori XV (1621-23) v� Urban VIII (1623-1644) đều quan t�m đến c�c Gi�o hội Đ�ng phương cũng như c�c xứ Truyền gi�o. Từ thế kỷ XIX, sự li�n lạc giữa T�a th�nh với c�c Gi�o hội Đ�ng phương c�ng nhiều hơn. Ng�y 6.6.1848, đức Th�nh Cha Pi� IX gởi tới c�c anh em thuộc Gi�o hội Đ�ng phương bức T�ng thư In suprema Petri, n�i đến việc hiệp nhất v� long trọng hứa rằng sự hiệp nhất n�y sẽ t�n trọng c�c lễ nghi của họ, bằng l�ng để c�c gi�m mục Đ�ng phương tiếp tục giữ chức vụ cũ v� ngang h�ng với c�c Gi�m mục C�ng gi�o Roma; nhưng cần phải c� sự thống nhất: thống nhất trong đức tin v� nh�n nhận quyền tối cao của đức Gi�o ho�ng Roma. Nhưng sự k�u mời đ� kh�ng được hưởng ứng. C�c Gi�o chủ Đ�ng phương trả lời bằng một th�ng điệp về thần học.

Năm 1868, nh�n dịp đại C�ng đồng Vatican I (1869-70), T�ng thư Arcano divinae providentiae ng�y 8 th�ng 9 �gởi h�ng Gi�m mục thuộc c�c Gi�o hội theo Lễ nghi Đ�ng phương kh�ng th�ng hảo với T�a th�nh�, trong đ� đức Th�nh Cha Pi� IX nhắc đến hai đại C�ng đồng Lyon II (1274) v� Florencia (1439), đồng thời mời c�c vị đến tham dự C�ng đồng. Cũng năm 1868, một T�ng thư kh�c đề ng�y 13 th�ng 9 �gởi c�c anh em Tin l�nh v� c�c t�n hữu kh�ng C�ng gi�o�, trong T�ng thư, Đức Th�nh Cha mời gọi tất cả trở về �đo�n chi�n duy nhất của Ch�a Kit��. Nhất l� Đại hội Th�nh Thể ở Gierusalem năm 1893, trong dịp n�y việc cử đức hồng y Lang�nieux l�m đặc sứ T�a th�nh đ� đem lại nhiều hứa hẹn lạc quan. Đức Th�nh Cha Le� XIII lại tha thiết k�u gọi qua hai T�ng thư Praeclara gratulationis (1894) v� Satis cognitum (1896), c�ng khai cam kết t�n trọng c�c lễ nghi đ�ng k�nh của Đ�ng phương... Việc k�u mời vẫn tiếp tục dưới c�c triều Gi�o ho�ng sau n�y.


III

ĐỜI SỐNG NỘI BỘ CỦA GI�O HỘI CẬN ĐẠI


1. Kỷ luật, phụng vụ v� nghệ thuật
[18]

T�n điều về ơn v� ngộ của Gi�o ho�ng c�ng nhiều t�i liệu về kỷ luật của đại C�ng đồng Vatican I, đ� dứt kho�t trả lời những khuynh hướng �Gi�o hội quốc gia�. Từ nay, uy quyền Gi�o hội được n�u cao, gi�o d�n đo�n kết chặt chẽ v�y quanh vị Đại diện Ch�a Kit�, v� ng�i nhận quyền tối cao bởi Thi�n Ch�a. Nếu uy quyền của ng�i Gi�o ho�ng bị sa s�t trong l�nh vực ch�nh trị v� thế tục, th� quyền của ng�i lại nổi bật trong l�nh vực thi�ng li�ng v� t�n gi�o, ở một thời đại ch�nh s�ch t�ch biệt đạo đời được �p dụng tại nhiều nước.

Đức Th�nh Cha Pi� X vừa l�n cầm quyền đ� nghĩ ngay đến một bộ Gi�o luật mới, việc soạn thảo được trao cho luật gia trứ danh Gasparri (hồng y năm 1907, Quốc vụ khanh 1914-30; + 1934). Sau 15 năm l�m việc, bộ Gi�o luật th�nh h�nh v� được đức Th�nh Cha Benedict� XV c�ng bố nhằm ng�y lễ Ch�a Th�nh Thần Hiện xuống (27.5) năm 1917. Đ�y l� một c�ng tr�nh lớn lao, dung h�a khuynh hướng bảo thủ với những tiến bộ mới mẻ, đồng thời đặt sẵn một quy chế cho sự hiệp nhất Kit� gi�o v� khuếch trương sức sống của Gi�o hội. Năm 1917, một ủy ban đặc biệt được th�nh lập c� nhiệm vụ giải đ�p c�c thắc mắc. Nhiều hiệp ước k� kết sau n�y cũng dựa theo c�c khoản luật mới. Bộ Gi�o luật đ� được c�c giới hoan hỉ đ�n nhận, ph�n khoa gi�o luật xuất hiện tại nhiều viện đại học.

Kỷ luật Gi�o hội v� lễ nghi phụng vụ l� mục ti�u c�ng cuộc cải c�ch của nhiều Gi�o ho�ng thời hậu C�ng đồng Vatican I. Trong l�nh vực n�y, vị �đại Gi�o ho�ng của c�c linh hồn� đức Pi� X, đ� chiếm nhất. Từ việc canh t�n của đức Pi� X, một �phong tr�o lễ nghi phụng vụ� đ� nổi dậy trước đệ nhất thế chiến �t l�u. Phong tr�o n�y c� nhiều điểm tốt, muốn trở lại đặc t�nh cộng đồng trong c�c lễ nghi của thời Thượng cổ, nhằm mục đ�ch li�n kết chặt chẽ hơn giữa gi�o sĩ v� gi�o d�n trong th�nh Lễ Missa. Những trung t�m nghi�n cứu được thiết lập tại nhiều đan viện v� tu viện ở Ph�p, Đức, �o, H� Lan. Song song với phong tr�o n�y l� việc học Th�nh Kinh, m� kết quả l� bản dịch Ph�p văn Bible de Jerusalem (1950) của trường Th�nh Kinh, Gierusalem. Stuttgart ở Đức cũng l� nơi học hỏi Th�nh Kinh, ph�t sinh từ phong tr�o lễ nghi phụng vụ v� sự tiếp x�c với anh em Tin l�nh.

C�c nh� nghệ thuật t�n gi�o cũng rất hoạt động. Việc cải c�ch th�nh nhạc theo tinh thần cổ truyền ở Đức đạt tới những th�nh quả lạ l�ng, nhờ c� nhiều hội đo�n lấy th�nh nữ Cecilia l�m bổn mạng. Một tổng hội Th�nh Cecilia th�nh lập năm 1868 ở Đức do linh mục Fr. X. Witt (+1888), v� được đức Th�nh Cha Pi� IX chấp thuận năm 1870; nhiều nước kh�c l�m theo. Nhạc Gregogrian, cũng như c�c lễ nghi được canh t�n v� đem �p dụng, đặc biệt ở Solesmes v� Beuron. Đến lượt đức Th�nh Cha Pi� X ban chỉ thị cho một cuộc phục hưng b�nh ca v� truyền phải trở lại nhạc Gregogrian thuần t�y như xưa (1903-04).

Ng�nh kiến tr�c v� hội họa đều tham gia v�o phong tr�o phục hưng nghệ thuật th�nh n�y. Ở Ph�p, Đức cũng như ở Bỉ, H� Lan, Thụy Sĩ, phong tr�o bắt đầu v�o cuối thế kỷ XIX. V� d�n ch�ng ng�y c�ng thấy phải tổ chức những đại lễ c� t�nh cộng đo�n tại những nơi th�nh, nhiều ng�i th�nh đường theo lối t�n Gothic, t�n Roman, t�n Byzantin mọc l�n ở chung quanh c�c đ� thị lớn. Đ� l� những th�nh đường bằng b�-t�ng hay bằng gạch thay v� bằng đ�, giản dị, kh�c xa lối kiến tr�c cổ điển, lộng lẫy, xa xỉ. Th�nh đường thường x�y theo h�nh Th�nh gi�, để mọi con mắt đổ dồn l�n ph�a cung th�nh. Cũng v� lẽ đ�, nhiều t�a nh� kh�ng x�y cột, kh�ng c� gian b�n, kh�ng vẽ tranh cảnh, t�a H�a giải ẩn trong bức tường dầy, giếng Rửa tội biệt hẳn một nơi. Tất cả những b�i tr� trần thiết, như b�ch họa, khảm gi�n sắc, tượng ảnh, ph� đi�u, k�nh vẽ mầu, bi k�, đều muốn l�i k�o con người ra khỏi vật chất v� đưa họ vươn l�n cao.

Nghệ thuật đi�u khắc v� hội họa (b�ch họa, k�nh vẽ) trở n�n thịnh đạt v� tiến bộ, nhất l� từ khi c� cuộc Triển l�m Nghệ thuật t�n gi�o ở Paris năm 1911, rồi nhiều c�ng xưởng theo tập truyền thời Trung cổ được chấn chỉnh, như trường Beuron, trường Saint-Luc, trường Nghệ thuật Maredsous, trường Croix Latine ở Louvain, sau c�ng nhiều tập san về Nghệ thuật th�nh được ph�t h�nh (1935). Những t�c phẩm của nh�m họa sĩ Nabi (�linh hứng�, 1890): Denis, Desvalli�res, Vuillard, Bonnard, Couturier, v� của nhiều họa sĩ  kh�c như Servais, Woestijine, Munch, cũng như những nh� đi�u khắc Landowski, Dufrasne, Roux, đều c� những n�t nghệ thuật rất độc đ�o, l�m cho cả những người kh�ng hiểu g� về � nghĩ n� ph� diễn, cũng phải ch� mục nh�n xem v� ca ngợi (cuộc Đấu xảo Quốc tế ở Paris năm 1937).


2. Sống đạo, hội đo�n v� d�ng tu
[19] 

Từ thế kỷ XIX, lối sống đạo v� h�nh thức t�n s�ng kh�c nhau  tại mỗi v�ng mỗi miền trong Gi�o hội. Ở Ph�p quốc, miền T�y Bắc  giữ đạo sốt sắng hơn ở v�ng Đ�ng Nam, c� lẽ v� yếu tố lịch sử. Việc mở mang c�c trường trung học C�ng gi�o sau năm 1850, đ� đưa một số lớn người c� học thức trở lại đời sống đạo. Ngược lại, giới thợ thuyền mỗi ng�y th�m đ�ng lại sống ngo�i Gi�o hội một số lớn. L� do kh�c nhau: hoặc v� thiếu linh mục hoạt động ở c�c v�ng ngoại � rộng lớn, nơi sinh sống của giới cần lao v� sản, hoặc v� tư tưởng b�i gi�o sĩ, b�i t�n gi�o đ� nhiễm v�o đầu �c giai cấp n�y, hoặc v� tư c�ch độc đo�n, bảo thủ của h�ng gi�o sĩ. Từ cuối thế kỷ XIX, đ� c� phong tr�o �Linh mục thợ�, v� người ta bắt đầu thấy mọc l�n những tổ chức d�nh cho thợ thuyền, như tu hội Anh Em Th�nh Vinh sơn-Phaol� của cha Pr�vost (+ 1874) tại Vaugirard (1855), hội Le Prado của cha Chevrier (+ 1879) ở Lyon (1860). Nhiều linh mục triều tự hợp th�nh những hội đo�n, c� mục đ�ch hoạt động giữa giới thợ thuyền, như Hội T�ng đồ (Union apostolique) của Lebeurier.

Gi�o d�n thế kỷ XIX-XX cũng hoạt động rất hăng say. Đ�n �ng, đ�n b� t�ch cực tham gia v� hiểu biết sống đạo hơn xưa; họ biết d�ng S�ch Lễ, s�ch in đẹp v� phổ biến (cuối thế XIX). Nhiều người, nhất l� thuộc giới tr� thức, đ� biết san sẻ tr�ch nhiệm với h�ng gi�o sĩ trong việc điều khiển xứ đạo.

Việc t�n s�ng cổ truyền như t�n s�ng Th�nh Thể, Th�nh T�m, Đức Mẹ, vẫn hoạt động như xưa, nhưng nhiều hội đo�n thuộc thế hệ cũ t�n lụi dần. Ngược lại, người ta thấy ph�t hiện những phong tr�o, những hội đo�n thức thời hơn. Việc s�ng k�nh Đức Mẹ c� nhiều hội đo�n, như hội M�n c�i sống (1826) của c� Pauline Jaricot, hội Con Đức Mẹ (1847), bắt nguồn từ việc Đức Mẹ hiện ra với th�nh nữ Catharina Labour� (+ 1876), Đạo binh Đức Mẹ do anh Frank Duff (1921). Việc t�n s�ng Th�nh Thể cũng ph�t sinh những tể chức giờ th�nh, chầu M�nh Th�nh Ch�a ban đ�m, chầu M�nh Th�nh Ch�a li�n tiếp; từ đ� khai sinh ra nhiều d�ng tu chuy�n lo việc n�y. Năm 1874, Đại hội Th�nh Thể được tổ chức lần thứ nhất l� do nguyện vọng v� s�ng kiến của một thiếu nữ khi�m tốn đạo đức t�n l� Tamisier, con thi�ng li�ng của cha Chevrier. Đấy cũng l� nguồn gốc Đại hội Th�nh Thể to�n quốc v� quốc tế đ� lần lượt được tổ chức khắp nơi, quy tụ cả triệu gi�o d�n. Hai Sắc lệnh năm 1905 v� 1910 của đức Th�nh Cha Pi� X về việc si�ng năng rước lễ v� việc rước lễ của c�c trẻ em, rồi phong tr�o Nghĩa binh Th�nh Thể, nay gọi l� Thiếu nhi Th�nh Thể, đ� x�a bỏ đi những d� dặt qu� đ�ng đối với b� t�ch t�nh thương n�y.

Thế kỷ XIX, người ta c�n được mục k�ch nhiều cuộc h�nh hương vĩ đại, m� chủ nghĩa Duy l� trong thế kỷ trước đ� muốn b�p chết: đ� l� những cuộc h�nh hương Salette (1846), Lourdes (1858), Fatima (1917). Th�m v�o đ�, những cuộc h�nh hương Roma nh�n dịp c�c Năm th�nh (25 năm một lần), v� Năm Th�nh Mẫu (1954, 1958). Họ h�nh hương kh�ng phải để xem dấu lạ cho bằng cầu nguyện, xin ơn v� s�m hối.

Thế kỷ XIX cũng l� thế kỷ cầu nguyện rất nhiều, c� những hội cầu nguyện trở th�nh quốc tế, như hội M�n c�i, hội T�ng đồ cầu nguyện (1861). � chỉ thường dựa theo � của Gi�o hội: cầu cho sự trở lại của tội nh�n v� cho d�n Do Th�i, cầu cho sự hiệp nhất Kit� gi�o v� cho c�c linh hồn nơi luyện ngục (Montligeon). Trong số c�c đấng th�nh của thế kỷ XIX, ngo�i những nh� gi�o dục, thừa sai, c�n c� những vị sống chi�m niệm v� thần b�, cũng c� những vị sống th�nh thiện một c�ch rất đơn sơ, ho�n to�n ph� th�c trong t�nh y�u Ch�a, như th�nh nữ Teresa H�i đồng Gi�su (1873-97).[20]

C�c hội d�ng d�nh phần ưu ti�n trong c�c hoạt động b�c �i, x� hội v� văn h�a. Thế kỷ XIX-XX, nhiều d�ng tu ph�t triển mạnh, nhiều tu hội mới được th�nh lập, nhiều tu viện trước kia bị giải t�n hoặc sa s�t, nay lấy lại sức sống mới. Ngay sau cuộc đệ nhất thế chiến, người ta đ� n�i đến một �m�a xu�n của c�c d�ng tu�. C�c d�ng cũ hoạt động kh�ng ngừng trong việc cải tổ v� thi h�nh sứ mạng.

Năm 1893, đức Th�nh Cha Le� XIII thống nhất c�c đan viện d�ng Biển đức th�nh 14 tỉnh hội (congr�gation), nhưng vẫn nh�n nhận sự độc lập v� quyền h�nh của mỗi đan viện; đứng tr�n hết l� đức thống phụ (abb� primat) c� quyền kinh l� c�c nh�, vị n�y đặt trụ sở ở Roma. Năm 1957, cả d�ng c� 200 nh� với 12.561 đan sĩ. D�ng n�y nổi tiếng trong l�nh vực lễ nghi phụng vụ, th�nh nhạc v� nghệ thuật th�nh. Ngo�i ra phải kể đến 23.600 nữ đan sĩ sống trong 280 nh� với đủ mọi hoạt động, từ đời sống k�n v� chi�m niệm đến những c�ng t�c từ thiện b�c �i.

D�ng Xit� thế kỷ XIX cũng c� th�m nhiều nh� mới, nhưng ng�y nay chỉ c�n v�o khoảng 44 đan viện. Ng�nh Xit� �cải c�ch�, tức d�ng Trappist (từ năm 1664 ở Doligny la Trappe do đan viện phụ De Ranc�) c� đan viện phụ tổng quyền ri�ng từ năm 1892, với 64 nh�. Bốn ng�nh Phansinh Observantes năm 1897 được đức Th�nh Cha Le� XIII cho thống nhất th�nh một, mang t�n d�ng Anh em H�n mọn (Ordo Fratrum Minorum). D�ng T�n ph�t triển mạnh nhất từ trung tuần thế kỷ XIX, nổi tiếng trong c�c ng�nh x� hội: tr� thức, gi�o dục v� truyền gi�o. Năm 1850, đức Th�nh Cha Pi� IX d�ng quyền đặt cha Jandel (+1872) l�m bề tr�n tổng quyền d�ng Đaminh, vừa được cha Lacordaire t�i thiết tr�n đất Ph�p. Trong 22 năm dưới thời cha Jandel, d�ng đ� lấy lại phong độ v� tiến mạnh trong sứ vụ bảo vệ đức tin, bằng mọi h�nh thức truyền gi�o v� văn h�a.[21]

C�c d�ng tu th�nh lập trong thế kỷ XIX phần đ�ng chuy�n ng�nh truyền gi�o, ch�ng t�i sẽ n�i trong chương sau; ở đ�y chỉ kể hai d�ng thuộc ng�nh gi�o dục.

Tu hội Th�nh Phanxic� Sal�di�ng (Soci�t� de Saint Fran�ois de Sales) cũng gọi l� d�ng Sal�di�ng, th�nh lập tại Turino (�) năm 1859 do th�nh Gioan Don Bosco (1815-88), c� mục đ�ch gi�o dục nam thanh thiếu ni�n, đặc biệt những trẻ bụi đời. Từ năm 1875, d�ng đ� c� những xứ Truyền gi�o, như Patagonia (Achentina), Ratjaburi (Th�i Lan). Năm 1872, th�m d�ng nữ Saledi�ng do th�nh Gioan Bosco với sự hợp t�c của th�nh nữ Maria Mazzarello (+1881) lập tại Mornese (�), cũng một mục đ�ch gi�o dục như d�ng nam, nhưng cho nữ giới. D�ng nữ Sal�di�ng hiện đang hoạt động trong 71 Quốc gia, điều khiển c�c trường kỹ thuật, trung tiểu học v� c� nhi viện.

Tu hội Ch�a Cứu chuộc (Soci�t� du Sauveur), cũng gọi l� d�ng Salvatorian, do một linh mục triều t�n l� J. B. Jordan người xứ Bade (Đức) s�ng lập tại Roma năm 1881, như một tu hội �T�ng đồ gi�o dục� c� mục đ�ch truyền b� đức tin bằng giảng dạy v� s�ch b�o. Ng�nh nữ tu mang t�n Nữ tu Ch�a Cứu chuộc (Soeurs du Divin Sauveur) th�nh lập v�o 7 năm sau.

Sang thế kỷ XX, c� th�m nhiều tu hội mới như:

D�ng Nữ Biển Đức Th�nh Batilda được th�nh lập năm 1921 do mẹ B�n�dicte (Marguerite Waddington Delmas), theo s�ng kiến v� tinh thần của cha Dom Besse (+ 1920); nh� mẹ đặt tại Vanves. C�c nữ tu sống đời chi�m niệm, chỉ hoạt động trong đan viện, đ�n tiếp c�c gi�o sĩ, tu sĩ v� gi�o d�n đến tĩnh t�m.

Hội Phụ t� truyền gi�o (Soci�t� des Auxiliaires de Missions) do hai cha Lebbe v� Boland lập năm 1926, c� mục đ�ch đ�o tạo những linh mục triều đi gi�p c�c địa phận đ� được trao cho h�ng gi�o sĩ bản quốc. Hội đặt trung t�m ở Louvain (Bỉ).

D�ng Nữ tu Y viện Truyền gi�o (Medical Mission Sisters) do mẹ Anne Dengel th�nh lập tại Hoa Kỳ năm 1925, c� mục đ�ch truyền gi�o bằng c�ng t�c y tế tại những nước cần đến.

D�ng Tiểu đệ Ch�a Gi�su (Petits Fr�res de J�sus) do cha Ren� Voillaume s�ng lập tại El Abiod Sidi Cheikh (Algerie) năm 1936, theo tinh thần cha Charles de Foucauld (1858-1916), nh� truyền gi�o ở Maroc v� Sahara. C�c tiểu đệ sống ngh�o n�n tại c�c x�m b�nh d�n để l�m cho Ch�a Gi�su được biết v� được y�u. Năm 1939, th�m d�ng Tiểu muội Ch�a Gi�su (Petites Soeurs de J�sus) do chị Madeleine de J�sus th�nh lập, cũng c�ng một tinh thần v� mục đ�ch.

D�ng Thừa sai B�c �i do mẹ Ter�sa Calcutta, nữ tu truyền gi�o ở Ấn Độ, s�ng lập năm 1950 tại Calcutta. D�ng c� hai ng�nh Nữ v� Nam, sống chi�m niệm v� hoạt động truyền gi�o, b�c �i.

Thế kỷ XX, c�n xuất hiện những �tu hội đời� (instituts s�culiers); năm 1947, c�c hội n�y được đức Th�nh Cha Pi� XII ban T�ng hiến Provida Mater Ecclesia l�m quy chế căn bản. Đ� l� s�ng kiến của những gi�o d�n s�ng đạo muốn đem đời sống trọn l�nh Ph�c �m v�o giữa c�c ho�n cảnh của thời đại dưới h�nh thức �b�n tu sĩ�. Họ sống theo lương t�m, thi h�nh nhiệm vụ t�ng đồ gi�o d�n v� tiến tới bậc trọn l�nh Ph�c �m, trong khi cứ mặc �o đời v� hoạt động giữa đời.

D�ng nữ Th�nh Phao l� Thiện bản do linh mục Joseph Horderet s�ng lập năm 1873 tại Fribourg (Thụy Sĩ), mục đ�ch truyền gi�o bằng s�ch b�o. Opus Dei (C�ng việc của Thi�n Ch�a) l� tu hội đời thứ nhất được th�nh lập ở T�y Ban Nha năm 1928 do ch�n phước gi�m mục Escriv� de Balaguer. Tu hội gồm hai ng�nh Nam v� Nữ, c� mục đ�ch đem đức trọn l�nh Ph�c �m v�o c�c giới, nhất l� tr� thức. Tu hội n�y hiện đang hoạt động hầu khắp nơi một c�ch b�n c�ng khai, nhất l� ở T�y Ban Nha v� Mỹ ch�u, len lỏi v�o c�c cấp l�nh đạo v� giới tr� thức, g�y nhiều ảnh hưởng lớn lao. Hội Nữ t� Quốc tế C�ng gi�o (Auxiliaires F�minines Internationales Catholiques) do chị Yvonne Poncelet (+ 1955) s�ng lập năm 1937 tại Bruxelles (Bỉ), dưới sự hướng dẫn của cha Boland, theo tinh thần cha Lebbe. Nữ t� tự nguyện sống tận hiến trong bậc gi�o d�n. Tu hội Nữ tỳ Ch�a Gi�su v� Mẹ Maria (Ancelles de J�sus Marie) do chị Marcelle Veyrac th�nh lập năm 1947 tại Versailles (Ph�p), nay gọi l� tu hội Hiện diện v� Sống, c� mục đ�ch gieo rắc t�nh y�u Ch�a khắp nơi v� l�m chứng nh�n cho Ch�a Kit� bằng đời sống trọn l�nh. D�ng nữ Lao động Truyền gi�o do linh mục Roussel Galle s�ng lập năm 1950 tại St-Denis (Ph�p).


3. Khoa học th�nh v� Duy t�n thuyết
[22]

Khoa học th�nh được c�c đức Gi�o ho�ng, đặc biệt đức Le� XIII cổ v� v� đ� đạt những kết quả thiết thực. Đến l�c nước Ph�p theo kịp nước Đức, nhờ c� nhiều học viện C�ng gi�o th�nh lập tại Paris. Lille, Lyon, Angers, Toulouse (1875-77). C�c Gi�o ho�ng học viện ở Roma trước đ�y chỉ ch� trọng đến triết học v� thần học kinh viện, nhưng từ nửa thế kỷ nay đ� quan t�m đến m�n gi�o sử. Năm 1922-23, ph�n khoa gi�o sử v� truyền gi�o được mở tại viện đại học Gregorian. Nhiều đại học C�ng gi�o thiết lập trong thế kỷ XIX-XX đều c� ph�n khoa thần học, đ� l� những đại học Louvain (1834), Fribourg (1889), Washington (1889), Milan (1920), Nim�gue (1923). Hiệp hội c�c đại học C�ng gi�o được đức Th�nh Cha Pi� XII t�i lập năm 1949, hiện c� tr�n 20 viện l�m hội vi�n.

Ở Đức năm 1846, những cố gắng th�nh lập một viện đại học tư thục C�ng gi�o đ� kh�ng th�nh, v� trong nước n�y cũng như ở �o quốc ph�n khoa thần học phải nhập với c�c viện đại học của Ch�nh Phủ. Năm 1922, H�n l�m viện Th�nh Anb� được thiết lập tại Cologne, dạy triết học kinh viện, nhận in lại c�c t�c phẩm của th�nh tiến sĩ .

Năm 1915, đức Th�nh Cha Beneđict� XV n�ng ủy ban chủng viện thuộc Bộ Cơ mật l�n th�nh một Bộ, v� s�p nhập Bộ Học vụ (từ 1824) v�o Bộ mới với danh hiệu th�nh Bộ Chủng viện v� Đại học, ng�y 24.5.1931, đức Pi� XI ban h�nh Hiến chế Deus Scientiarum Dominus, nhằm phục hưng triết học v� thần học tại c�c đại học. Về to�n học v� vạn vật học, năm 1936 ng�i cho thiết lập Gi�o ho�ng H�n l�m viện Khoa học, nơi quy tụ nhiều nh� th�ng th�i tr�n thế giới.

Th�nh khoa tiến tới một kh�c quanh quan trọng v�o giữa thế kỷ XIX, nhờ c� sự phục hưng của Kinh viện học ph�i, m� trong thế kỷ XVIII đ� bị bỏ qu�n. Trường ph�i T�ma vẫn hoạt động tr�n đất T�y Ban Nha (đại học Salamanca từ 1239) nhất l� trong c�c học viện d�ng Đaminh, nổi tiếng hơn cả c� cha Gonz�lez (đến sau l�n chức Hồng y, +1894). Nhưng � Đại Lợi mới l� nơi để trường ph�i được ph�t triển sang nhiều nước kh�c, ti�n phong trong c�ng cuộc n�y l� linh mục Buzetti (+1824) th�nh Placencia, rồi đến c�c cha d�ng T�n Perrone, Franzelin, Liberatore, Palmieri; linh mục Sanseverino; thuộc d�ng Đaminh c� hồng y Zigliara v� cha Lepidi. Cha Kleutgen d�ng T�n đ� từ Roma đem học thuyết T�ma về Đức, v� được nhiều nh� thần học ở Bonn, Munster, Freiburg, Mainz, Cologne theo.

Trường ph�i T�ma nổi bật khắp nơi, v� đạt tới đỉnh th�nh c�ng khi đức Th�nh Cha Le� XIII c�ng bố Th�ng điệp Aeterni Patris 1879, truyền cho c�c gi�o sư triết học cũng như thần học phải lấy th�nh T�ma l�m �khu�n v�ng thước ngọc� (sagesse d'or), đồng thời đặt th�nh tiến sĩ l�m bổn mạng c�c trường C�ng gi�o.

Từ cuối thế kỷ XIX, c�c nh� th�ng th�i C�ng gi�o đ� hiệp lực với nhau để ph�t h�nh những tạp ch� về thần học v� triết học. Những bộ từ điển vĩ đại như Dictionnaire de Th�ologie Catholique, Dictionnaire de la Bible, Dictionnaire d�Histoire et de Geographie Eccl�siastiques, c�ng nhiều bộ s�ch thần học, triết học, ch� giải Th�nh Kinh được lần lượt xuất bản. Những cuộc hội nghị quốc tế khoa học C�ng gi�o được nh�m họp tại Paris (1888, 1891), Bruxelles (1894), Fribourg (1897), Munich (1900). Sau đệ nhị thế chiến, hội nghị thường họp ở Roma.

Đại diện cho c�c khoa học th�nh thế kỷ XIX-XX, phải kể đến những nh�n vật sau đ�y:

Khoa Ch� giải Th�nh Kinh c� những gi�o sư người Đức, như P. Schanz, Fr. Kaulen, J. Sickenberger, R. Cornely d�ng T�n. C�c cha d�ng Đaminh điều khiển trường Th�nh Kinh ở Gierusalem do cha J. Lagrange s�ng lập năm 1890, với sự cộng t�c của cha Louis Vincent. C�c cha d�ng T�n điều khiển học viện Th�nh Kinh ở Roma, v� một trường thực tập ở Gierusalem từ năm 1927. Cha V. Scheil d�ng Đaminh nổi tiếng l� nh� Đ�ng phương học. Vigouroux hội St-Sulpice, t�c giả bộ Dictionnaire de la Bible, cũng l� một gi�o sư th�nh Kinh nổi tiếng thế kỷ XX.

Khoa Hộ gi�o c� đức hồng y J. Newman d�ng Diễn giảng, v� nhiều nh� thần học người Đức, như Hermann Schell, Alois Schmid, c�ng ba cha d�ng Đaminh A. Weiss, A. Gardeil v� A. Sertillanges.

Khoa T�n l� c� những nh� thần học thuộc trường ph�i T�ma d�ng Đaminh v� d�ng T�n. Đại diện cho d�ng Đaminh l� đức hồng y Zigliara v� c�c cha A. Gardeil, Del Prado, Garrigou Lagrange. D�ng T�n c� hai hồng y Frenzelin v� Billot, v� c�c cha Perrone, Kleutgen, Palmieri v� Pesch.

Khoa Lu�n l� v� Gi�o luật c� c�c gi�o sư Fr. X. Linsenman, Val. Thalhofer, cha A. Lehmkuhl d�ng T�n, v� hai cha Đaminh Prummer v� Merkelbach.

Khoa Gi�o sử v� Gi�o phụ c� gi�o sư F. X. Kraus, cha II. Denifle d�ng Đaminh, gi�o sư F. X. Funk, cha Hartmann Grisar d�ng T�n, hồng y J. B. Pitra d�ng Biển đức, cha P. Mandonnet d�ng Đaminh v� gi�o sư L. Duchesne.

Thời đại n�y cũng như c�c thời kh�c kh�ng tr�nh được những cuộc tranh luận về thần học, rồi những lạc thuyết nổi dậy l�m bận t�m T�a th�nh. Frohschammer, gi�o sư triết học ở Munich, phủ nhận sự tương quan giữa khoa học với mặc khải v� quyền b�nh Gi�o hội. Sau khi bị l�n �n hai lần (1857, 1862), �ng bỏ đạo v� chết ngo�i Gi�o hội (1893). Hai triết gia Gioberti v� Rosmini chủ trương con người c� thể trực gi�c v� trực tiếp nhận biết Thi�n Ch�a, cũng bị l�n �n năm 1861 v� 1866. Cuối thế kỷ XIX, c� cuộc tranh luận s�i nổi về chủ thuyết �C�ng gi�o cải c�ch� (Catholicisme r�formateur). B�nh vực chủ thuyết n�y c� những gi�o sư nổi tiếng người Đức như Kraus, Schell, Funk, thi sĩ Fogazzaro người �, t�c giả cuốn Đấng Th�nh (bị cấm năm 1906), triết gia Von Hugel người Anh. Họ muốn n�ng cao uy quyền Gi�o hội C�ng gi�o bằng c�ch th�ch ứng m�nh liệt v�o đời sống t�n tiến, đồng thời đập tan tất cả mọi c�i m� họ cho l� �lạc hậu�. Gi�o sư Schell c� bốn t�c phẩm b�nh vực chủ thuyết n�y, nhưng c�c t�c phẩm của �ng đều bị liệt v�o loại s�ch cấm năm 1898; �ng c�i đầu v�ng theo ngay.

Nhưng đ�ng lo ngại hơn cả l� một luồng duy l� x�m nhập v�o triết học v� thần học C�ng gi�o đầu thế kỷ XX ở Đức, Ph�p, Anh, � m� sau n�y người ta gọi l� Duy t�n thuyết (Modernisme). N� bắt nguồn từ thuyết bất khả tri luận (agnosticisme) của Kant, chủ nghĩa nội tại (immanentisme) của Schleiermacher, cũng như thuyết tiến h�a (�volutionisme) của Darwin, l�m nền tảng cho sử học t�n quan (conception moderne de l'histoire). N� xuất đầu lộ diện ở �u ch�u ngay khi Mỹ ch�u chủ nghĩa (am�ricanisme) của Hecker v� Ireland ở Hoa Kỳ bị đức Th�nh Cha Le� XIII l�n tiếng cảnh c�o (Testem benevolentiae 22.1.1899).

Duy t�n thuyết chủ trương gạt bỏ mặc khải, chỉ d�ng suy luận tự nhi�n để giải th�ch đức tin v� Gi�o hội, l�m sao cho hợp với sử học ph� b�nh v� triết học t�n tiến; đồng thời x�c định c�c t�n điều chỉ l� những biểu hiện dễ thay đổi của một ch�n l� trong đạo, m� tự n� kh�ng c� ai c� thể hiểu được. Phong tr�o Duy t�n b�nh trướng mạnh nhất ở Ph�p v� �, ăn s�u v�o đầu �c c�n non trẻ của chủng sinh, đảo lộn tinh thần đạo đức của h�ng gi�o sĩ. Đ�y cũng l� phong tr�o đ�i cải c�ch t�a nh� b�n trong của Gi�o hội, phong tr�o của giới tr� thức, v� ăn s�u v�o bậc thượng lưu x� hội, nhất l� h�ng gi�o sĩ Chiến sĩ tiền phong của Duy t�n thuyết l� gi�o sư Alfred Loisy (1857-1940) t�c giả cuốn Ph�c �m v� Gi�o hội (L'�vangile et 1��glise, 1902) cắt nghĩa nguồn gốc đạo C�ng gi�o một c�ch v� c�ng tai hại. Sau đ�, được nhiều người t�n tuổi ủng hộ v� chạy theo, như Houtin, Tyrrel, Murri, Fracassini, Schnitzer, Kock� Quần ch�ng chỉ biết sau khi T�a th�nh d�ng biện ph�p cứng rắn vạch trần lạc thuyết. Ngay từ năm 1903, đức Th�nh Cha Pi� X đ� quyết liệt chống lại chủ thuyết nguy hiểm n�y. Sắc lệnh Lamentabili ng�y 3.7.1907 của Bộ Th�nh vụ đ� kết �n 65 luận đề, phần lớn r�t trong c�c t�c phẩm của Loisy. Th�ng điệp Pascendi dominici gregis 8.9.1907 tr�nh b�y gi�o thuyết n�y v� gọi n� l� � cực lạc thuyết�, đồng thời đưa ra những biện ph�p để đ�nh đổ. Sau c�ng trong Tự sắc Sacrorum Antistitum 1.9.1910, đức Th�nh Cha truyền cho c�c đại chủng sinh trước khi chịu chức phụ ph� tế, cũng như c�c linh mục gi�o sư hoặc c� nhiệm vụ coi s�c gi�o d�n phải tuy�n thệ chống Duy t�n thuyết�. Chỉ một số �t gi�o sĩ từ chối tuy�n thệ.

Duy t�n thuyết tan dần, khi những người khởi xướng ra n� bị loại khỏi ghế gi�o sư, hoặc tự � bỏ Gi�o hội. Loisy bị vạ tuyệt th�ng (7.3.1908), rồi đến Houtin; cả hai đều bỏ đạo. Trong khi đ�, nhiều người nhận ra lỗi lầm của m�nh, d� trở lại với Gi�o hội, v� tuy�n bố chủ trương Duy t�n kh�ng thể thỏa m�n nguyện vọng con người. Gi�o hội nhờ đ� cũng bớt lo �u, để hạ một v�i �v� kh� xuống, như đức Benneđict� XV b�i bỏ Bộ Mục lục S�ch cấm (Congr�gation de l�Index) v� trao sang Bộ Th�nh vụ.

Đức Pi� XI rất quan t�m đến c�ng việc sưu tầm nghi�n cứu khoa học, như x�y cất đ�i Thi�n văn ở Castel Gandolfo, viện Bảo t�ng ở Roma, viện Khảo cổ C�ng gi�o, tổ chức H�n l�m viện Khoa học (1935-36). Ng�i tuy�n bố: �Gi�o hội vẫn  ủng hộ khoa học, miễn sao kh�ng bao giờ đi ngược với ch�n l� đức tin C�ng gi�o�. Gi�o hội ủng hộ khoa học v� cũng c� �c t�n tiến biết sử dụng những ph�t minh mới của thời đại. Gi�o hội v� thế đ� đ�nh tan Duy t�n thuyết v� l�m cho c�c đồ đệ của chủ nghĩa n�y quy ch�nh dần dần.  

 

[1] S�ch tham khảo: Y. Congar: La Catholicit� en marche, r�alisations et espoirs de l��glise - G. Castella: L�Eglise devant les probl�mes poliliques - G. de Plinval: L' �glise en face des probl�mes moraux et religieux, trong: Histoire illustr�e de l��glise (G. de Plinval - R. Pittet) , Paris 1946-48, Q. II, tr 327-494 - C Bihlmeyer - H. Tuchle: Histoire de l��glise (bản dịch Ph�p văn của M. Grandclaudon), Paris 1962-67, Q. IV, tr 163-247.

[2] C. Bihlmeyer - H. Tu�chle: op. cit., Q. IV, tr 163-168 - Xem G. Mollat: La question romaine de Pie VI � Pie XI, Paris 1932.

[3] Xem chương tr�n, I, 4.

[4] Xin coi ảnh v� ghi ch� ở tr 199

[5] G. de Plinval: op. cit., Q. II, tr 449 v� tiếp - Xem Manning: Histoire du Concile du Vatican (bản dịch Ph�p văn) Paris 1872 - H. Jedin: Breve Historia de los Concilios, Barcelona 1960, tr 127-159.

[6] Nghị hội được coi l� phản ảnh của tổ chức Gi�o hội v� sự ph�n chia c�c Gi�o phận thời ấy: tr�n 2/3 nghị phụ từ c�c nước �u ch�u đến (176 �, 88 Ph�p, 41 T�y Ban Nha, 40 Ao-Hung, 34 Anh v� �i Nhĩ Lan, 16 Đức...) 79 vị từ Mỹ ch�u (40 Hoa Kỳ, 9 Canađa, 30 Trung v� Nam Mỹ), 42 vị thuộc Gi�o hội Đ�ng phương v� khoảng 60 từ c�c xứ Truyền gi�o. Chỉ nước Nga cản trở kh�ng cho c�c gi�m mục C�ng gi�o đi hội.

[7] Xem Phần Nhất, chương T�m, II, 1, tr 324 v� tiếp

[8] �... c�est pourquoi les d�finitions du Pontife Romain sont irr�formables d'elles m�mes et non par le consentement de 1��glise(Pastor Aeternus, IV ad f)

[9] Xem F. Mourret: Les directions� politiques, intellectuelles et sociates de L�on XIII, Paris 1920 (Histoire de l��glise, Q. IX, tr 403-444) - G. Goyau. L�on XIII, trong Dict de Th�ol. Cath.

[10] Xem chương sau, II. 1-4

[11] Xem R. Bazin: Pie X (Collection: Les granđs coeurs), Paris 1928 - Amann: Pie X, trong Dict.. de Th�ol, Cath.

[12] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 186-188, 193-195.

[13] 1971 Catholic Almanac.

[14] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 188-194.

[15] Xem chương Một, IV, 3, tr 57, ch� th�ch 1.

[16] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 195-196, 244-246.

[17] Xem Y. Congar: op. cit., Q. II, tr 372-378.

[18] C. Bihlmeyer H. Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 208-214 

[19] C. Bihlmeyer H. Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 214-222.

[20]             Nh�n kỷ niệm 100 năm ng�y tạ thế, th�nh nữ đ� được đức Gioan Phaol� II t�n phong Tiến sĩ Hội th�nh ng�y 19.10.1997.

[21] Sau đ�y l� những con số tu sĩ thuộc c�c d�ng nam đ�ng nhất trong năm 1970:
1- T�n Ch�a Gi�su: 33.828, 2- Phansinh: 26.666, 3- Sal�di�ng 21.905, 4- Lasan: 15.394, 5- Capuxin�: 14.127, 6- Biển đức: 10.936, 7- Đaminh: 9.399, 8- Marist 9.229, 9- Ch�a Cứu thế: 8.155, 10- Oblat: 7.387, 11- Lazarist: 5.817, 12- Verbit:  5.502, 13- Spiritain: 4.681, 14- Conventual: 4.590, 15- �utinh: 4.447, 16- C�t minh: 3.874, 17- Passionist: 3.824, 18- Cha Trắng: 3.659, 19- Trappist: 3.432, 20- Clarettiani: 3.416. Một v�i con số kh�c: Trợ thế Th�nh Gioan Thi�n Ch�a: 2.170, Montf�ortain: 1.855; Xit�: 1.536, Th�nh Thể: 1.458, Columban: 1.190, Thừa sai Paris: 789, St-Sulpice: 671, Tiểu đệ (Foucauld): 240
(Annuario Pontificio 1971).

Ba D�ng nữ c� con số tu sĩ lớn nhất (1970) l�: Nữ tử B�c �i Th�nh Vinh sơn Phaol�: 43.742, Sal�di�ng: 18.789, v� C�tminh: 13.643.

Một v�i con số kh�c: Đấng Chăn l�nh (Angers): 10.885, Phansinh Thừa sai Đức Maria: 10.120, Th�nh Phaol� de Chartres: 3.964, Ch�a Quan Ph�ng (Portieux): 1.341, Đức B� Truyền gi�o: 1.294, Kinh sĩ Th�nh - �utinh: 1.226, Tiểu muội (Foucauld): 960 (Annuario Pontificio 1971).

[22] C. Bihlmeyer � H.Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 222-229.