HOME

 
 

Phần Nh� :
CẬN KIM V� ĐƯƠNG KIM THỜI ĐẠI

Chương Bảy

HỘI TH�NH VỚI SỨ MẠNG TRUYỀN GI�O

(t k. XIX-XX)
 

I. Hoạt động truyền gi�o được cải tiến     

1 T�nh h�nh c�c xứ Truyền gi�o đầu thế kỷ XIX

2. Những dấu hiệu của thời đại giảng Tin Mừng

3. Những tổ chức v� phương tiện mới

II. Tin Mừng được rao giảng khắp nơi                         

1. Hải Dương Ch�u v� Bắc Cực nghe Tin Mừng

2. �nh s�ng Ph�c �m lọt v�o nội địa Phi ch�u

3. C�c xứ Tuy�n gi�o ở � ch�u

4. Truyền gi�o tại Mỹ ch�u

III.  Sự truởng th�nh của c�c xứ Truyền gi�o              

1. Tho�t ly quyền bảo trợ của c�c cường quốc

2. Gi�o hội trưởng th�nh với h�ng Gi�o phẩm địa phương

3. Gi�o hội ở � ch�u v� Phi ch�u sau hơn một thế kỷ truyền gi�o

4. Những Gi�o hội trưởng th�nh ở Mỹ ch�u v� Hải Dương ch�u

 

C�ng cuộc truyền gi�o thế kỷ XVI-XVIII đang diễn tiến tốt đẹp v� thu được nhiều kết quả, bỗng ngừng lại v�o cuối thế kỷ XVIII. Nhưng rồi c�ng việc được tổ chức lại với những lực lượng, v� phương tiện mới mẻ, hữu hiệu, tạo n�n một �Thời đại giảng Tin Mừng�. C�c đức gi�o ho�ng cũng như th�nh Bộ Truyền gi�o rất quan t�m đến sứ mạng quan trọng n�y.

Nhiều d�ng tu tự hiến một phần hoặc tất cả cho việc truyền gi�o. Đại chủng viện của hội Thừa sai Paris v� học viện Truyền gi�o ở Roma[1] cử từng đo�n thừa sai sang c�c nước xa lạ. Gi�o hội Ph�p đứng đầu về con số cũng như về phương tiện trong c�ng cuộc n�y. Để cổ v� tinh thần truyền gi�o, đồng thời để n�ng đỡ đời sống thừa sai bằng lời cầu nguyện v� trợ cấp phương tiện vật chất, rất nhiều hội đo�n được th�nh lập.

Sau một thế kỷ truyền gi�o, hoạt động của c�c thừa sai tại nhiều nơi bắt đầu gặp kh� khăn bởi hai cuộc thế chiến: tinh thần quốc gia v�ng dậy khắp nơi. Nhưng cũng may mắn, nhiều �Gi�o hội bản xứ� đ� trưởng th�nh, h�ng gi�o sĩ địa phương thay thế c�c thừa sai nước ngo�i, chẳng những để giữ vững Gi�o hội m�nh, m� c�n đ�ng vai truyền gi�o nữa.[2]


I

HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GI�O ĐƯỢC CẢI TIẾN


1. T�nh h�nh c�c xứ Truyền gi�o đầu thế kỷ XIX

Nhiều gi�o đo�n đ� được thiết lập trong những thế kỷ XVI-XVIII nay trở n�n kh� phồn thịnh, như Goa, Philippin, Việt Nam v� nhiều nước ở Mỹ ch�u. Tuy nhi�n, c�ng việc truyền gi�o n�i chung hầu như kh�ng tiến được. Nh�n v�o những c�nh đồng m�nh m�ng Trung Hoa, Ấn Độ, Indonexia..., người ta nhận thấy thiếu nhiều tay thợ. Nước Ph�p v� d�ng T�n trước đ�y cung cấp một số thừa sai đ�ng kể, nhưng nay d�ng T�n đ� giải thể (1773), c�n nước Ph�p l�m v�o cuộc C�ch mạng, tiếp đến l� chiến tranh �u ch�u. Hơn thế nữa, mọi cơ quan tổ chức đều t� liệt: Napol�on cản trở c�ng việc của th�nh Bộ Truyền gi�o khi đem c�c t�i liệu của Bộ n�y sang Paris. V� thế, khi c�ng cuộc hoạt động trở lại, con số thừa sai chỉ c�n v�o khoảng 300.

Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, năm 1800 chỉ c� 28 nh� truyền gi�o tại Trung Hoa, Việt Nam v� Ấn Độ, hợp t�c với 28 cha d�ng Lazarist v� một số thừa sai Đan�nh, Phansinh, �utinh..., trong việc điều khiển c�c gi�o xứ, m� phần lớn do c�c cha d�ng T�n để lại. Suốt đời đệ nhất Đế ch�nh (1804-15), hội Thừa sai Paris chỉ gởi sang � Đ�ng hai vị. Năm 1825, ở Th�i Lan chỉ c�n một nh� truyền gi�o đ� cao ni�n, v� kh�ng một vị ở Madagascar.

Đ� thiếu nh�n sự, tiền bạc lại c�ng thiếu hơn. T�i sản của Gi�o hội đ� bị tịch th�u hoặc giảm s�t đến mức độ khủng hoảng trong hầu hết c�c nước �u ch�u, đang ch�m ngập dưới kh�i lửa C�ch mạng v� chiến tranh của Napol�on I. Mối lo �u đầu ti�n của c�c vị hữu tr�ch thế kỷ XIX, l� t�m mọi c�ch cho c� một �Ng�n quỹ Truyền gi�o�.

Sự khủng hoảng về nh�n sự v� tiền bạc đưa đến sự khủng hoảng về tổ chức chuy�n m�n. Năm 1829, linh mục H. de Solages (1786-1832) một m�nh phải đảm nhận c�ng một l�c c�ng cuộc truyền gi�o tr�n đảo Bourbon (R�union ng�y nay), Madagascar v� nhiều h�n đảo nhỏ kh�c tr�n Th�i B�nh Dương. Vị thừa sai anh h�ng n�y cập bến Madagascar, đ� chết ở đấy v�o cuối năm 1832, sau một thời gian bị giam giữ, bỏ rơi, kh�ng được một ai săn s�c, dưới một t�p lều r�ch n�t.

Sự sa s�t của c�c xứ Truyền gi�o đầu thế kỷ XIX c�n do t�nh trạng chung của Gi�o hội thời ấy. Phe triết gia, rồi đến những phong tr�o c�ch mạng đ�i quyền tự do qu� kh�ch, đ� l�m lung lạc tinh thần đạo đức v� đức tin của d�n ch�ng, nhất l� giới tr� thức. Một khi đức tin của m�nh đ� yếu k�m, th� c�n ai nghĩ đến sứ mạng truyền đạo nữa.

Trong khi c�ng cuộc truyền gi�o của Gi�o hội C�ng gi�o bị chậm lại th�, về ph�a Gi�o hội Tin l�nh hồi cuối thế kỷ XVIII, với những phương tiện v� tiền bạc c� sẵn, c�c mục sư hăng say hoạt động v� th�u đạt nhiều kết quả. Tại những miền c�c thừa sai C�ng gi�o chưa tới hoặc kh�ng c�n, Gi�o hội Tin l�nh c� những bước tiến thật đ�ng kể, nhất l� tr�n nhiều quần đảo ở Th�i B�nh Dương. Khi c�c nh� truyền gi�o C�ng gi�o đến thường gặp phải sự kỳ thị c� khi th� nghịch, l�m cản trở sứ mạng truyền b� Ph�c �m. Tại nhiều xứ kh�c nơi người Tin l�nh c� thế lực, c�c thừa sai C�ng gi�o kh� lọt v�o được (như ở xứ Cap, Nam Phi), hoặc bị ch�n �p một c�ch c� hệ thống (như ở Canada).

Tuy nhi�n, cũng phải c�ng nhận sự hoạt động mạnh mẽ của Tin l�nh l� một th�c đẩy cho Gi�o hội C�ng gi�o. Chẳng hạn như ở Chota Nagpore, Hạ Uy Di (Hawai) v� nhiều nơi kh�c, sự c� mặt v� th�nh c�ng của c�c mục sư Tin l�nh đ� bắt buộc c�c nh� truyền gi�o C�ng gi�o tới sớm hơn. Đ� cũng l� yếu tố để nhận x�t một c�ch kh�ch quan về Hội th�nh C�ng gi�o so s�nh với Gi�o hội Tin l�nh.


2. Những dấu hiệu của �Thời đại giảng Tin Mừng�

�t ai để � đến văn chương C�ng gi�o thế kỷ XIX đ� g�p phần v�o việc �l�m hồi xu�n� Gi�o hội v� th�c đẩy c�ng cuộc giảng Tin Mừng. T�c phẩm Tinh hoa Kit� gi�o (G�nie du Christianisme, 1802) của văn h�o Chateaubriand (1768-1848), v� sau n�y những b�i diễn văn, như ơn Thi�n triệu của nước Ph�p (Vocation de la natio francaise, 1841) của nh� h�ng biện Lacordaire, đ� kh�ch động l�ng nhiệt th�nh của người thời đại, đồng thời gi�p cho Kit� gi�o c� uy t�n trong dư luận, một yếu tố quan trọng để b�nh trướng, m� từ nay kh�ng thể c�n dựa v�o quyền lực nữa. [3]

Cuốn Tinh hoa Kit� gi�o đặc biệt n�i đến c�c xứ Truyền gi�o. Kh�ng phải Chateaubriand l� người đ� tạo n�n phong tr�o y�u th�ch c�c xứ xa lạ, ưa sống với những người rừng r� đơn sơ chất ph�c, v� phong tr�o n�y đ� c� từ thế kỷ trước rồi, nhưng �ng đ� l�m cho Kit� gi�o th�m uy t�n v� được cảm t�nh. T�c phẩm của �ng gi�p nhiều người ch� � đến c�c xứ Truyền gi�o, c�n y�u th�ch nữa. Những t�nh cảm ấy nhiều khi được gợi l�n bởi một loại thi văn tưởng tượng, m� A. Bellessort đ� c� lời lẽ chỉ tr�ch trong cuốn Th�nh Phanxic� Xavi� của �ng; thế nhưng n� lại được b�o ch� của c�c nh� truyền gi�o khai th�c. Dĩ nhi�n người ta kh�ng n�n lấy đấy l�m t�i liệu lịch sử, nhưng con người thường được th�c đẩy tới h�nh động bởi những hứng th�. Loại văn chương như của Chateaubriand quả đ� l�m thức dậy trong nhiều t�m hồn một mối t�nh, m� Kit� gi�o thời ấy đang cần đến.

Nhưng nhất l� c� nhiều t�m hồn quảng đại sẵn s�ng nghe theo tiếng Ch�a gọi, đ� l� những �người sinh bởi Ch�a Th�nh Thần�. Tại c�c D�n ngoại, người t�n hữu cần được sinh s�i nảy nở bằng Lời Ch�a: Semen est Verbum Dei (Lời Ch�a l� hạt giống). Nhưng l�m sao tin được, nếu kh�ng được nghe n�i đến? V� l�m sao c� người rao giảng, nếu kh�ng c� kẻ được sai đi?� (Rm X, 14-15). Sự sai đi n�i đ�y do hai quyền: b�n ngo�i do c�c nh� cầm quyền Gi�o hội, b�n trong do ơn gọi của Ch�a Th�nh Linh.

Nhiều linh hồn sẽ nghe tiếng gọi n�y, v� đối với họ l� sự th�c đẩy l�n đường. G. Goyau viết: �Khoảng từ năm 1808 đến 1812, trong chủng viện Saint Sulpice ... c� một nh�m gi�o sĩ trẻ chỉ mơ ước đi truyền gi�o. Charles de Forbin Janson, khi c�n giữ chức tham ch�nh bồi tịch (auditeur au Conseil d'�tat), đi đ�u cũng n�i đến việc truyền gi�o ... Theo t�i sang Trung Quốc�, lời Forbin Janson n�i (1812) với linh mục P�rocheau... l� người mấy năm sau đ� trở th�nh t�ng đồ của tỉnh Tứ Xuy�n (Trung Hoa) từ năm 1817 đến 1850. Gi�o sĩ trẻ tuổi Eug�ne de Mazenod, sau khi được đọc những �Bức thư �x�y dựng" (Lettres �difiantes), đ� trở th�nh con người c� nhiệt huyết với c�ng cuộc truyền gi�o, bằng chứng l� năm 1816 De Mazenod đ� s�ng lập d�ng Thừa sai Oblat. Henri de Solages, nh� truyền gi�o ngh�o kh�, thầm lặng v� khi�m tốn, đ� đi t�m c�i chết v� đạo ở Madagascar�. [4] Forbin Janson, khi l�n chức gi�m mục Nancy, đ� th�nh lập đo�n Th�nh nhi (Sainte Enfance) tại Paris năm 1843, nhằm k�u gọi c�c thiếu nhi C�ng gi�o cầu nguyện, v� cứu trợ c�c thiếu nhi Trung Hoa.

Đ� cũng l� điều mơ ước của Phil�as Jaricot, anh của Pauline Jaricot, năm 1810 anh viết: �T�i sẽ l�m t�ng đồ, t�i sẽ sang Trung quốc ... T�i sẽ dến đấy như Ch�a Gi�su. Nếu người ta giết t�i, c�ng Tốt, bởi v� t�i đ� đọc trong lịch sử Gi�o hội rằng: M�u Tử đạo l� hạt giống sinh gi�o hữu�.[5]

Một h�m linh mục trẻ tuổi t�n Just de Breteni�res �p tai xuống đất nghe, rồi đứng dậy n�i: �T�i nghe c� tiếng người Trung Hoa k�u gọi t�i�; vị thừa sai anh h�ng đ� l�n đường, v� được ph�c Tử đạo ở Triều Ti�n.[6] Rồi đến th�nh Pher� Chanel (1803-41) vị anh hừng Tử đạo Futuna (Polynesia), cũng viết: � T�i như tr�ng thấy họ, những người ngh�o đ�i, thờ ngẫu tượng, ăn thịt người... Họ giơ tay van lạy ch�ng t�i. T�i nghe như c� tiếng họ g�o th�t: Ai sẽ đ�nh tan đi những tối tăm n�y, ai sẽ bẻ g�y những xiềng x�ch n� lệ n�y cho ch�ng t�i? H�y đến cứu ch�ng t�i!� Thật kh�ng kh�c trường hợp th�nh Phaol� xưa, nhận ra tiếng van xin của người xứ Macedonia: �H�y qua đ�y cứu ch�ng t�i(Cv. XVI, 9).

Đối với nhiều t�m hồn, tiếng gọi của Ch�a Th�nh Thần c�n l� sự th�c b�ch tổ chức những hội đo�n trợ lực c�c xứ truyền gi�o. V� nhất l� đối với nhiều người, đ� l� tiếng gọi đi l�m chứng nh�n bằng m�u v� bằng c�i chết v� đạo. Trong thời b�ch hại ở Trung Hoa (1800-1860; 1900), Việt Nam (1821-1887), Triều Ti�n (1835-1846) v� Nhật Bản (1868-1873), những trang sử đẫm m�u anh h�ng đ� ghi ch�p. Đ� l� những đấng Tử đạo Triều Ti�n: Pher� Ri, Pher� Ryou, Anr� Kim, Berneux, Develuy, những người đ� phải chịu mọi khổ h�nh d� man. H�ng trăm ng�n đấng Tử đạo Việt Nam dưới triều Minh Mạng v� Tự Đức k�o d�i hẳn suốt thế kỷ XIX: Vinh sơn Đỗ Yến, Philipph� Minh, Phaol� Tịnh, Delgado, Hermosilla, V�nard, v.v.. Ở Trung Hoa, c� c�i chết anh dũng của cha Gabriel Perboyre d�ng Lazarist (14.9.1840). Năm 1900, loạn Quyền phỉ nổi dậy: nhiều thừa sai Lazarist ở Bắc Kinh, nhiều trẻ n�t, nhiều gia đ�nh bị t�n s�t, nhiều l�ng C�ng gi�o bị thi�u hủy. Nhưng tất cả đều cam chịu một c�ch can trường để giữ vững l�ng trung th�nh với đức Tin. B�n Phi ch�u, ở Abyssinia (Ethiopia ng�y nay), Gh�br� Michael bị giam cầm, tra tấn cho tới chết (1854-55). Rồi đến 150 đấng Tử đạo xứ Ouganda dưới triều Mwanga (1884-88).


3. Những tổ chức v� phương tiện mới

Ch�a Th�nh Thần đ�ng vai ch�nh yếu, nhưng cũng phải c� những tổ chức của con người, v� Gi�o hội l� một x� hội trong đ� con người phải cộng t�c hoạt động v� chiến đấu. Đ� l� � nghĩa t�ng đồ trong sứ mạng truyền gi�o. Ng�y trước, c�c thừa sai hoạt động t�ng đồ thường t�m đến sự yểm trợ của thế quyền: nh� cầm quyền c� đạo hoặc vua ch�a tại những nơi m�nh truyền đạo; đường lối đ� đ� lỗi thời. Đến l�c người ta phải nhờ đến sự cộng t�c của c�c anh em c�ng đức tin, bằng c�ch tạo n�n � thức tr�ch nhiệm �T�ng đồ gi�o d�n �.

Sự trở lại của một �ng vua hay một l�nh ch�a trước đ�y đ� từng l�i cuốn cả d�n tộc theo. Với kinh nghiệm ấy, c�c thừa sai thường đặt trọng t�m v�o việc khuất phục những bậc l�nh đạo v� giới tr� thức, hy vọng sự trở lại của họ sẽ quyết định được tất cả. Nhưng từ khi cuộc C�ch mạng 1789 Ph�p b�ng nổ v� ảnh hưởng lan tr�n khắp nơi, t�m trạng người d�n đ� thay đổi, kh�ng c�n như x�a. Do đấy, việc giảng đạo ng�y nay phải dựa tr�n uy t�n của ch�nh đạo m�nh rao giảng, v� phải cho quần ch�ng biết những c�i hay c�i đẹp của kẻ đi rao giảng. N�i t�m, Gi�o hội từ nay chỉ c� thể hoạt động truyền gi�o một c�ch hữu hiệu, sau khi củng cố lại nội bộ v� tập trung lực lượng v�o những tổ chức kh�o l�o, kh�n ngoan v� thức thời.

Trước kia, Gi�o hội T�y phương đảm nhận sứ mạng truyền b� Ph�c �m cho D�n ngoại nhưng từ đ�y c�c đức Gi�o ho�ng trực tiếp nhận tr�ch nhiệm, m� trong tiền b�n thế kỷ XIX l� đức Th�nh Cha Gregori XVI (1831-46). Khi c�n l� hồng y Cappellari, đức Gregori đ� giữ chức tổng trưởng th�nh Bộ Truyền gi�o, x�c tiến v� thiết lập những cơ quan trung ương cần thiết. Một m�nh ng�i đ� th�nh lập 70 địa phận mới; ng�i th�c đẩy việc đ�o tạo h�ng gi�o sĩ địa phương, nhất l� cổ v� hội Truyền b� Đức tin (Oeuvre de la Propagation de la Foi) qua Th�ng điệp ng�y 15.8.1840.

Hội Truyền b� Đức tin l� một gương s�ng, gợi l�n v� th�c đẩy nhiều s�ng kiến v� tổ chức kh�c. Những s�ng kiến n�y thường ph�t xuất từ cấp dưới v� do những người �t tr�ch nhiệm hơn. Tuy nhi�n, ch�ng đ� trở th�nh những phong tr�o v� tổ chức của Gi�o hội, sau khi được h�ng Gi�o phẩm ban ph�p v� được Gi�o quyền trung ương chấp nhận.

Pauline Jaricot (1799-1862) l� một thiếu nữ th�nh Lyon, rất thiết tha với c�ng cuộc truyền b� Ph�c �m. Khi nghe biết đức cha Dubourg người đồng hương, gi�m mục New Orleans (Hoa Kỳ), đang mở cuộc lạc quy�n cho xứ Truyền gi�o, Pauline liền nảy ra � nghĩ �mỗi tuần một xu cho c�ng cuộc truyền b� đức tin�. Ch�nh từ � nghĩ đ� ph�t sinh một tổ chức, ban đầu gồm mấy chị em sống nghề k�o sợi ở Lyon (1818). Để tổ chức được ph�t triển, mỗi chị em t�m th�m 10 gi�o d�n kh�c rồi mỗi người đ� t�m th�m 10 người kh�c nứa, v� cứ thế m�i, khiến con số tăng gấp 10, gấp 100, gấp 1.000. Năm 1820, Pauline gởi đi c�c xứ Truyền gi�o số tiền gần 1.500 quan. Hai năm sau, hội từ thiện n�y được ch�nh thức th�nh lập. Vốn l� một gi�o d�n đạo đức, th�nh thiện, Pauline đem hết t�m lực v�o việc b�nh trướng đ�. Từ nước Ph�p, hội Truyền b� Đức tin mở rộng sang nước Bỉ, rồi đến c�c nước �, Thụy Sĩ, Đức, Anh...[7]

Ngay từ đầu, c�c đức Gi�o ho�ng đều hoan ngh�nh tổ chức m�ới mẻ n�y: đức Le� XIII, đức Pi� X, đức Beneđict� XV khuyến kh�ch th�nh lập khắp nơi. Từ đấy, hội Truyền b� Đức tin trở th�nh một tổ chức gi�p quỹ truyền gi�o nhiều nhất, khiến đức Th�nh Cha Pi� XI dạy đem trụ sở của hội từ Lyon sang Roma, v� biến n� th�nh một hội thiện Gi�o ho�ng (Tự sắc Romanorum Pontificum, 1922).

Nhưng vấn đề nh�n sự c�n quan trọng hơn tiền bạc. C�c thừa sai l�c n�y xuất th�n từ nhiều nơi. Kh�ng phải chỉ c� những d�ng tu cũ hoạt động trở lại bằng việc cử đi nhiều tay thợ truyền gi�o, nhưng c�n rất nhiều hội d�ng mới xuất hiện thật đ�ng l�c. Thế kỷ XIX được coi l� �Thời đại sản xuất d�ng t�u�. C� điều đ�ng ch� � l� c�c hội d�ng th�nh lập trong thế kỷ n�y đều hướng về hoạt động truyền gi�o (một phần hay tất cả). Những hội d�ng như thế nhiều lắm, ch�ng t�i chỉ kể ra đ�y những tổ chức được xem l� quan trọng hơn cả:

1800: D�ng Th�nh T�m Ch�a v� Mẹ (Congr�gation des Sacr�s Coeurs de J�sus et de Marie), cũng gọi l� D�ng Picpus (t�n một l�ng ở ngoại � Paris, nơi th�nh lập) do cha P. J. Coudrin; d�ng c� mục đ�ch truyền b� sự t�n s�ng Th�nh T�m, v� hoạt động truyền gi�o.

1806: Nữ tu hội Th�nh Giuse Cluny (Soeurs de St-Joseph de Cluny) do ch�n phước Anne Marie Javouhey (1779-1851) s�ng lập, hoạt động truyền gi�o tại Phi ch�u, trợ t� h�ng gi�o sĩ địa phương.

1816: D�ng Thừa Sai Oblat (Missionnaires Oblats de Marie Immacul�e) của đức gi�m mục Eug�ne de Mazenod (+1861), c� mục đ�ch truyền gi�o cho D�n ngoại v� hoạt động gi�o dục trong c�c chủng viện.

1816: Tu hội Marist (Soci�t� de Marie) được th�nh lập do cha J. Cl. Colin, truyền gi�o tại th�n qu� v� c�c xứ xa lạ.

1841: D�ng Th�nh T�m V� nhiễm Đức Maria (Congr�gation du Coeur Immacul� de Marie) do linh mục Libermann (Do Th�i gi�o trở lại); đến sau (1848) thống nhất với d�ng Ch�a Th�nh Thần (c� từ năm 1703), hoạt động truyền gi�o ở T�y Phi.

1856: D�ng Linh mục Th�nh thể (Congr�gation des Pr�tres Sacramentains), do th�nh Pher� Giulian Eymard (+1868), c� mục đ�ch truyền b� sự t�n s�ng Th�nh Thể bằng giảng thuyết, gi�p trẻ em dọn m�nh rước lễ lần đầu, nhận coi s�c gi�o xứ.

1856: Hội thừa sai Phi ch�u (Lyon) của đức cha De Marion Br�zillac, đảm nhận sứ mạng truyền gi�o cho c�c d�n tộc Phi ch�u.

1861: D�ng Nữ tử Đức B� Truyền gi�o (Filles de Notre-Dame des Missions), được mẹ Marie du Sacr� Coeur (Euphrasie Barbier) th�nh lập tr�n đồi Fourvi�re (Lyon), nhận sứ mạng truyền gi�o bằng hoạt động gi�o dục v� c�ng t�c b�c �i x� hội, ưu ti�n tại c�c xứ ngoại gi�o v� những nơi đ� mất đức tin.

1862: D�ng Thừa sai Th�nh T�m V� Nhiễm Đức Maria (Missionnaires du Coeur Immacul� de Marie), quen gọi l� c�c Cha Scheut, do linh mục Th�ophile Verbist th�nh lập tại Scheut les Bruxelles, nhận sứ mạng truyền gi�o tại c�c nơi xa lạ: từ năm 1864, d�ng n�y hoạt động ở M�ng Cổ. Tiền b�n thế kỷ XX, d�ng c� cả ng�n thừa sai rải rắc khắp nơi.

1866: Tu hội Thừa sai Hải ngoại Th�nh Giuse (Soci�t� de St-Joseph des Missions �trang�res) của đức cha Vaughan (Hồng y, 1892) được th�nh lập tại Mill Hill London), c� mục đ�ch truyền b� Ph�c �m cho c�c d�n tộc ngo�i �u ch�u.

1868: D�ng Cha Trắng (P�res Blancs) do đức cha Lavigerie (Hồng y, 1882) s�ng lập; năm 1869 th�m d�ng Nữ tu Trắng. D�ng n�y c� mục đ�ch ch�nh truyền gi�o cho Phi ch�u.

1875: Tu hội Verbit (Ng�i Lời) (Soci�t� du Verbe Divin), c�n gọi l� D�ng Steyl, được cha Janssen th�nh lập tại Steyl (Limburg, H� Lan), sau đ� b�nh trướng sang Đức quốc. Tu hội chuy�n lo truyền b� đức tin cho c�c D�n ngoại.

1877: D�ng Nữ tu Phan sinh Thừa sai Đức Maria (Institut des Franciscaines Missionnaires de Marie), được th�nh lập do mẹ Marie de la Passion. D�ng c� lối sống vừa chi�m niệm vừa hoạt động truyền gi�o v� gi�o dục.

1880: D�ng Marian Hill th�nh lập ở H� Lan, hoạt động truyền gi�o ở Nam Phi.

1895: Hội Thừa sai B�lem (Soci�t� des Missions �trang�res de Bethl�em) th�nh lập tại Immensee (Thụy Sĩ), chuy�n lo rao giảng Ph�c �m cho D�n ngoại, đ�o tạo h�ng gi�o sĩ địa phương.

Đầu thế kỷ XX, c�n c� nhiều Tu hội truyền gi�o kh�c được khai sinh tại những nước m� trước kia chưa hề c�. Ở � c� Hội truyền gi�o Parma (1895), Tu hội c�c Cha Consolata th�nh Turino (1901). T�y Ban Nha c� Hội Truyền gi�o Burgos (1919); Bồ Đ�o Nha c� Chủng viện Maynooth (1917); Hoa Kỳ c� D�ng Th�nh Giuse Baltimore (1892), Hội Truyền gi�o Marynoll (1911); Canađa c� Hội Truyền gi�o Scarboro Bluff (1918), Hội Truyền gi�o Qu�bec v� Chủng viện Th�nh Phanxic� Xavi� Montr�al (1921), v.v...

Nh�n v�o danh s�ch c�c hội d�ng tr�n đ�y, v� c�n nhiều hội d�ng kh�c kh�ng được kể đến, người ta nhận thấy sức sống dồi d�o của Hội th�nh, với hai điểm đ�ng được ch� �: sự tham gia của ph�i nữ, sự b�nh trướng đời sống tu tr� tại c�c nước.

Th�nh Vinh sơn Phaol� từ thế kỷ XVII đ� c� một h�nh động độc đ�o khi sai đi c�c nữ tử B�c �i, khuy�n chị em lấy phố x� l�m tu viện, lấy đời sống nội t�m l�m ph�ng ở. Nhưng m�i đến đầu thế kỷ XIX, người ta mới quan niệm rằng đ�n b� cũng truyền gi�o được, nghĩa l� cũng c� thể trở th�nh những thừa sai thực thụ. Khi Pauline Jaricot ngỏ � muốn theo Phil�as anh n�ng đi truyền gi�o, �ng anh đ� trả lời như sau: �Chỉ c� đ�n �ng mới l�m thừa sai được. Em kh�ng biết Lavăn. Vả lại phải đi xa lắm�. - �Nhưng anh đi, anh đưa em đi với anh�. - �Con g�i kh�ng đi được ! V� người ta đi đ�u phải cỡi ngựa, voi, thi�n nga (cygne), sư tử...� Ng�y nay người ta kh�ng c�n quan niệm như Phil�as. C�c nữ tử B�c �i Vinhsơn-Phaol� kh�ng c�n l� những đ�n b� duy nhất hoạt động tại c�c xứ Truyền gi�o. Ri�ng nước Ph�p, c� tới 30 d�ng nữ được th�nh lập trong thế kỷ XIX, với mục đ�ch ch�nh l� truyền b� đức tin ở phương trời xa lạ.[8]

Về vấn đề n�y, nước Ph�p chiếm kỷ lục (gần 2/3 nữ tu truyền gi�o tr�n thế giới l� người Ph�p), khiến kh�ng một nh� gi�o sử v� tư n�o m� kh�ng c� những lời ca tụng Gi�o hội Ph�p. Tuy nhi�n, rồi đến lượt nhiều nước kh�c, họ cũng thiết tha với c�ng cuộc n�y, cũng c� những tổ chức, những trung t�m đ�o tạo, những cơ quan từ thiện. Phong tr�o mỗi ng�y d�ng cao, khiến c�c d�ng tu tại nhiều nước hưởng ứng, sau khi nhận r� tr�ch nhiệm của m�nh đối với sứ mạng t�ng đồ chung, v� thấy cần phải c� phần đất tr�n thế giới để thi h�nh sứ mạng ấy.

Thế kỷ XIX, phần lớn những s�ng kiến cũng như tổ chức truyền gi�o đều ph�t sinh từ cấp dưới. Tuy nhi�n, trong sứ mạng truyền b� đức tin kh�ng ai phủ nhận ng�i Gi�o ho�ng đ� tự đảm nhận việc điều h�nh. Đức Pi� XI th�ch được xưng h� l� Dominus Apostolicus (Gi�o ho�ng Truyền gi�o), ng�i gi�nh lấy quyền chỉ huy tối cao v� trực tiếp trong sứ vụ n�y x�t theo thần học v� gi�o luật, những miền chưa c� h�ng Gi�o phẩm cũng như những nơi c�n đang tiến tới việc th�nh lập một gi�o đo�n, đều trực thuộc T�a th�nh Roma. Trước khi đặt một vị gi�m mục ch�nh t�a, đức Th�nh Cha thường cử đến một đại diện, vị n�y được coi l� kh�m sai h�nh động theo lệnh của T�a th�nh. Đức Gi�o ho�ng l� cha chung, l� gi�m mục thế giới, cũng l� cha v� l� chủ chăn của những nơi đang sửa soạn để th�nh h�nh một gi�o đo�n. Do đấy, người ta kh�ng lạ mỗi khi c� một c�ng việc g� hay một tổ chức n�o li�n can đến l�nh vực truyền gi�o, đều phải qua sự chấp thuận của Gi�o quyền trung ương. Thực vậy, muốn t�m hiểu lịch sử truyền gi�o cũng nhưsự tiến triển của n�, nhất l� ở thời Cận kim, người ta kh�ng thể kh�ng biết đến c�c hoạt động của ng�i Gi�o ho�ng.

II

TIN MỪNG ĐƯỢC RAO GIẢNG KHẮP NƠI


1. Hải Dương ch�u v� Bắc Cực nghe Tin Mừng

Từ khi Magellan t�m ra đảo Guam v� quần đảo Touamotou (1520-21), người ta lần lượt đi tới những quần đảo m� ng�y nay gọi l� Hải Dương ch�u, gồm những đảo to lớn gần bằng cả �u ch�u (�c đảo), cho đến những h�n đảo �nhỏ li ti� (micronesia). Hầu hết c�c đảo n�y chưa được �nh s�ng Ph�c �m soi tới. Từ năm 1768 đến 1778, nh� th�m hiểm Cook trong ba chuyến đi đ� kh�m ph� ra những quần đảo Polynesia. Từ đ�, Gi�o hội Tin l�nh cũng như C�ng gi�o đều ch� � đến những người d�n �sống thơ ng�y tr�n những h�n đảo thần ti�n�. V� c�ng cuộc truyền gi�o của C�ng gi�o bị đ�nh trệ trong 20 năm cuối thế kỷ XVIII, n�n c�c thừa sai Tin l�nh đ� vượt xa C�ng gi�o ở Hải Dương ch�u.

C�c cha d�ng Th�nh T�m Ch�a v� Mẹ (Picpus) tới quần đảo Hạ Uy Di năm 1827. C�c cha đảm nhận địa phận miền Đ�ng Hải Dương ch�u (1833).[9] Trong số, c� ch�n phước Damien Veuster người Bỉ được cả thế giới biết đến. Vị thừa sai n�y bỏ qu� hương đi Hạ Uy Di năm 1863, đến xin đức gi�m mục cho được phục vụ người c�i ở đảo Molokai: �Thưa đức cha, con nhớ con đ� được ch�n dưới mồ trong ng�y khấn d�ng, v� đ� l� b�i học để con biết rằng c�i ch� t�nh nguyện l� bước đường đưa tới cuộc sống mới, nay con sẵn s�ng được ch�n sống với những người xấu số n�y, trong đ� c� nhiều anh em con quen biết�. Cha đ� được như �; kh�ng l�u sau, cha l�y bệnh c�i v� chết v� bệnh ấy (1889), v� được người đời truy tặng danh hiệu �T�ng đồ người c�i�.[10] Nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ theo gương cha Damien, đ� lần lượt hiến cuộc đời cho những người xấu số n�y, để rồi cũng chết như cha. Chị Marie Philom�ne, một nữ tu bản xứ, l�y bệnh c�i sau 15 năm phục vụ trong một trại ở Makgai; cha Beyzim ở Madagascar, [11] v� nhiều vị kh�c. Căn bệnh gh� tởm vẫn kh�ng hết: năm 1935, tr�n thế giới c� 108 trại c�i do c�c tu sĩ C�ng gi�o săn s�c.

Trong khi c�c cha d�ng Picpus hoạt động tại miền Đ�ng Hải Dương ch�u, th� tu hội Marist năm 1836 l�nh nhận sứ mạng ở miền Trung. Cha Chanel được ph�c tử đạo ng�y 28.4.1841 tr�n đảo Futuna; nhờ c�i chết anh h�ng ấy, 2 năm sau cả d�n theo đạo. Giữa những trường hợp v� ho�n cảnh v� c�ng kh� khăn, nhiều thừa sai kh�c cũng thuộc tu hội Marist đem Tin l�nh sang miền T�y tr�n quần đảo Salomon. Ngo�i c�c cha Picpus v� Marist, c�n c� nhiều d�ng tu kh�c đến sau. Kết quả: nhiều gi�o phận mới được thiết lập.[12]

Cả miền băng tuyết Bắc Cực cũng được nghe giảng Tin Mừng. [13] V�o thập ni�n 1920-1930, thế giới đặc biệt ch� � đến những thừa sai anh h�ng thuộc d�ng Oblat, truyền gi�o cho h�ng trăm ng�n người Indian ở Canada bị xua đuổi từ những v�ng đất ph� nhi�u l�n miền rừng n�i ph�a Bắc, v� cho cả h�ng hai chục ng�n người Eskimo bị người Indian chiếm đất v� đẩy l�n miền băng tuyết Bắc Cực. C�ng cuộc truyền gi�o n�y bắt đầu từ năm 1852. Đức cha Grandin (1829-1902), người nổi tiếng anh h�ng v� th�nh thiện, đức cha Grouart, tr�n 60 năm l�m t�ng đồ d�n Eskimo, đức cha Breynat, đức cha Turquetil, đều l� những thừa sai đ�ng được ghi nhớ.

Năm 1894, d�ng T�n nhận sứ mạng truyền gi�o ở Alaska; nhưng m�i đến năm 1911 c�ng việc mới thực sự bắt đầu. C�c cha d�ng n�y giảng đạo cho d�n Eskimo rất lạc hậu v� sống rải rắc khắp nơi tr�n một v�ng đất rộng lớn hơn triệu c�y số vu�ng. Những thừa sai đầu ti�n đ� ng� gục tại trận. Nhưng rồi m�y bay được sử dụng l�m phương tiện li�n lạc v� di chuyển. Sau những cố gắng kh�ng thể tưởng tượng được, một gi�o xứ th�nh h�nh với con số gi�o d�n khi�m tốn nhất thế giới. Người ta ghi nhận 16 người chịu ph�p Rửa v�o năm 1920, năm sau th�m 20 người. Nhưng năm 1946 đ� c� tr�n 2.000 người Eskimo C�ng gi�o.

Kết quả thiệt nhỏ b� nếu s�nh với c�ng lao qu� to lớn. Nhưng theo như đức hồng y Lavigerie n�i: �Thi�n Ch�a kh�ng nh�n v�o b�n tay, nhưng nh�n v�o tr�n của đầy tớ ng�i�. Ở đ�y, người ta kh�ng thể kh�ng th�n phục c�c nh� truyền gi�o anh h�ng, cũng như người ta kh�ng thể kh�ng cảm động v� th�n phục c�c cha d�ng từng chia sẻ cuộc sống với đ�m người man rợ rải rắc tr�n những h�n đảo thuộc Hải Dương ch�u.


2. �nh s�ng Ph�c �m lọt v�o nội địa Phi ch�u
[14]

Phi ch�u l� đất đ� được biết đến từ l�u; kh�ng những v� bờ biển miền Bắc tr�ng ra Địa Trung Hải, n�n ngay từ những thế kỷ đầu đ� c� nhiều gi�o phận vừa phồn thịnh vừa đ�ng đ�c (tr�n 300 gi�m mục), nhưng c�n v� người Bồ Đ�o Nha đ� t�m ra miền T�y duy�n hải v� thiết lập tại đ�y nhiều trụ sở truyền gi�o. Thế kỷ XV- XVII, Congo l� một gi�o đo�n cũ ở Bắc Phi đ� từ l�u kh�ng c�n, v� Hồi gi�o l�m cắt đứt mọi li�n lạc với �u ch�u, khiến c�ng cuộc truyền gi�o kh�ng thể thực hiện được ở những nơi dưới quyền họ nữa. Bao nhi�u cố gắng đầy thiện ch� (như vua Alfonso V (1438-81) nước Bồ Đ�o Nha tại Congo, nhiều thừa sai Bồ Đ�o Nha v� � Đại Lợi ở Congo, Tanganyika thế kỷ XVI) đ� kh�ng đem lại được một kết quả n�o đ�ng kể. Nhất l� Phi ch�u bấy giờ t�u b� kh� đi lại, kh� hậu lại xấu độc đến giết người, n�n nội địa kh�ng được khai th�c m�i cho đến giữa thế kỷ XIX.

Năm 1830, Algeria về tay nước Ph�p, nhiều miền duy�n hải lần lượt bị c�c nước Ph�p, Anh, Bồ Đ�o Nha, T�y Ban Nha chiếm cứ. Năm 1840, Livingstone (1813-73) đến Nam Phi, �ng vừa l� nh� th�m hiểm theo lệnh của Ch�nh phủ Anh, vừa l� thừa sai Tin l�nh ph�i Presbyterian thuộc hội Truyền gi�o London (London Missionary Society). �ng thực hiện nhiều chuyến đi rất t�o bạo (1849-73): th�m hiểm gi�ng s�ng Zamb�ze v� phụ lưu, l�n tận Tanganyika, v�ng Đại Hồ v� thượng lưu s�ng Nil, sau c�ng �ng gục chết tr�n c�nh đồng s�nh lầy Banguelo năm 1873. C�ng một thời hoặc sau đ� �t l�u, nhiều nh� th�m hiểm kh�c ho�n tất c�ng việc kh�m ph� Phi ch�u: Burton, Speke, Grant, Baker đi khắp v�ng Đại Hồ v� Ouganda; Stanley gặp Livingstone ở Ujiji (1871), �ng băng qua Trung Phi từ Đ�ng sang T�y; Savorgnan de Brazza mạo hiểm s�ng Congo v� thiết lập Brazzaville tr�n bờ hồ Slanley Pool.

Tuy đi sau c�c thừa sai Tin l�nh c� Ch�nh phủ Anh yểm trợ, c�c nh� truyền gi�o C�ng gi�o kể từ 1843 đ� bắt dầu viết l�n những trang sử oai h�ng. Bao giờ cũng vậy, bước đầu phải l� những bước gian nan nguy hiểm. Những tu sĩ d�ng Th�nh T�m V� Nhiễm Đức Maria do cha Libermann sai đến xứ Liberia năm 1843, hầu hết đ� chết sau kh�ng đầy một năm. Từ 1845 đến 1875, 59 thừa sai d�ng Ch�a Th�nh Thần đều chung số phận ở tuổi từ 31 đến 32. Từ 1875 đến 1910 th�m 302 thừa sai cũng d�ng tu n�y chết với tuổi trung b�nh 37 năm 4 th�ng... Phi ch�u trở th�nh nơi ch�n t�ng c�c thừa sai Kit� gi�o.[15]

Hội thừa sai Phi ch�u (Lyon) của đức cha De Marion Br�zillac đảm nhận xứ Sierra Leone từ năm 1858.[16] Chỉ trong v�i ng�y, năm 1859 tất cả c�c thừa sai c�ng với đức gi�m mục l�m bệnh sốt r�t v�ng v� chết hết, kh�ng s�t một linh mục C�ng gi�o để l�m ph�p mồ, ngo�i một mục sư Tin l�nh đến đọc cho mấy c�u kinh trước thi h�i. Tuy nhi�n, hai d�ng n�i tr�n kh�ng tuyệt tộc: năm 1970 d�ng Ch�a Th�nh Thần c� con số 2.681 tu sĩ, v� hội Thừa sai Phi ch�u Lyon 1.705.

Ngay sau những cuộc th�m hiểm đầu ti�n ở Phi ch�u, đức cha Lavigerie (1825-92), tổng gi�m mục Alger (1867), s�ng lập d�ng c�c Cha Trắng (1868), hồng y gi�o chủ Phi ch�u (1884), đ� c� con mắt nh�n xa v� thấy tất cả những g� c� thể l�m được. Lễ Hiển linh năm 1878 hai cha d�ng Trắng đệ đơn l�n đức Th�nh Cha Pi� IX, xin cho c�c anh em d�ng m�nh được hiến cả cuộc đời cho ơn cứu độ miền X�ch đới Phi ch�u. Đơn xin đ� k�m theo những lời được coi như ti�n tri của vị s�ng lập như sau:

�Ch�ng con chỉ c� nguyện vọng l� mở cửa cho Gi�o hội lọt v�o phần đất Phi ch�u �t được biết đến, từ Soudan miền Bắc đến xứ thuộc địa Anh miền Nam, v� từ Đại dương n�y sang Đại dương kia. Về diện t�ch, v�ng n�y rộng bằng cả �u ch�u; về d�n số, theo thống k� mới nhất của c�c nh� địa l� học, c� tới 100 triệu... Đ� qua bao thế kỷ, Gi�o hội chưa hề c� cơ hội tốt đẹp v� thuận lợi hơn để h�nh động cho tương lai t�n gi�o của c�c d�n tộc...�

Đức cha Lavigerie cũng đưa ra một đường lối h�nh động: �Con phải d�ng người Phi ch�u để cảm h�a người Phi ch�u�. Theo � ng�i, kh�ng n�n đ�o tạo những trợ t� người bản xứ ở �u ch�u hoặc theo lối �u ch�u. Ng�i muốn những trợ t� ấy cần được học về y khoa, v� l� m�n cần thiết khắp nơi v� bảo đảm cho họ một nghề nghiệp tốt. Ng�i chia Trung phi ra l�m bốn v�ng: v�ng hồ Victoria v� Albert (Nyanza), v�ng hồ Tanganyika, v� hai miền Bắc Nam Congo b�n kia th�c Stanley. [17]

Ngay sau đ�, chương tr�nh được đem ra thực hiện. Năm 1878, c�c cha d�ng Trắng tới v�ng Đại Hồ; hai năm sau c�c gi�o phận Victoria Nyanza (Ouganda), Tangayika, Congo Nam, Congo Bắc được thiết lập. Năm 1886 v� 1887, c�ng cuộc truyền gi�o của con c�i đức hồng y Lavigerie được vinh dự chứng kiến những c�i chết anh h�ng tử đạo của 150 gi�o d�n Ouganda, trong đ� c� 12 vệ sĩ ho�ng gia, dưới triều Mwanga. Nh� Vua giận dữ n�i: �Những ai kh�ng thờ Thi�n Ch�a ở lại đ�y với trẫm, c�n c�c kẻ kh�c h�y đứng sang ph�a b�n kia!� Thế l� tất cả, trừ ba người, xếp h�ng dọc theo bờ r�o giậu. Th�nh Carol� Lwanga v� c�c bạn chịu tr�i v� mang g�ng nặng để mấy ng�y sau l�n d�n hỏa thi�u, như cụ gi� Polycarp� gi�m mục th�nh Smyrna xưa.

Ch�ng t�i kh�ng thể theo d�i hết bước đường ch�ng gai v� gian nguy của c�c nh� truyền gi�o ở Phi ch�u: c�c cha d�ng Trắng biết bao lần đ� t�m c�ch lọt v�o Soudan (1874, 1882, 1895) m� kh�ng được. Việc c�c thừa sai C�ng gi�o v�o đất Nam Phi đ� gặp phải nhiều trở ngại trước những khoản luật của ch�nh quyền theo Tin l�nh. C�ng kh� khăn v� nguy hiểm hơn nữa khi phải sống với những đ�m d�n rất lạc hậu v� man rợ ở miền Đ�ng Nam: Cafres, Basuto, Zoulous, Hottentots, Boschiman; c�c cha d�ng T�n sống với những d�n n�y trong xứ Zamb�ze. Nhiều thừa sai d�ng Lazarist v� Capuxin� hoạt động giữa những d�n theo gi�o ph�i Monophysisme ở Abyssinia, trong số c� ch�n phước Gh�br� Michael (1855), gi�m mục Jacobis (1860), cha Massaja d�ng Capuxin� (hồng y năm 1884). Đến lượt Cha Charles de Foucauld (1858-1916) truyền gi�o tr�n sa mạc Sahara. Cha chọn cuộc sống như t�i tớ, chia xẻ cuộc đời lam lũ của d�n Hồi gi�o ở Beni Abbes v� d�n du mục Touaregs ở Tamanrasset. Như vậy, Gi�o hội C�ng gi�o đ� đối đầu với đủ mọi thứ kh� khăn gh� sợ: từ kh� hậu độc địa cho đến sự cuồng t�n của c�c gi�o ph�i v� sự man rợ của thổ d�n.

Tuy nhi�n, cũng c� ba v�ng rất thuận lợi cho hạt giống Ph�c �m được tự do nẩy nở. Trước hết l� v�ng Đại hồ, nơi m� ng�y nay d�n số C�ng gi�o c� tới 13%, thứ đến Congo L�o, ở đ�y được ch�nh quyền n�ng đỡ, c�c thừa sai người Bỉ c� cơ hội tổ chức th�nh một xứ Truyền gi�o kiểu mẫu, v� được c�c d�ng tu tham gia;[18] sau c�ng l� xứ Cam�roun, thuộc quyền quản trị của nước Ph�p từ năm 1918, nơi đức tin tiến triển đến độ kh�ng đủ tay thợ để hoạt động th�m. Điểm đen tối nhất cũng l� trở ngại lớn nhất cho c�ng cuộc truyền b� đức tin ở đ�y vẫn l� Hồi gi�o.

Ở Phi ch�u, c� lẽ kh�ng đ�u bằng, việc truyền gi�o đ�i c�c thừa sai phải c� đức t�nh ki�n nhẫn, đến độ gan l� trong bốn điểm sau đ�y: mến th�ch v� hăng say l�m việc, vật lộn với bệnh hoạn v� tử thần, đối ph� với m� t�n dị đoan v� với tục đa th� l�m hạ phẩm gi� người phụ nữ. C�c thừa sai c�n phải gắng c�ng x�y cất học đường, thực hiện một nền gi�o dục l�u bền cho những người d�n �như t�nh t�nh thay đổi v� ấu trĩ, x�y dựng cho Gi�o hội những gia đ�nh thật sự C�ng gi�o. Tưởng kh�ng đ�u Kit� gi�o đ� c� nhiều c�ng trong việc n�ng cao phẩm gi� con người, cho bằng ở Phi ch�u.

C�i c�ng n�y c�n r� rệt hơn nữa, nếu người ta nh�n v�o h�nh động của c�c thừa sai, của ng�i Gi�o ho�ng v� nhất l� của hồng y Lavigerie, trong việc chống chế độ n� lệ. Đức hồng y ước lượng mỗi năm c� tới 400.000 người Phi ch�u bị b�n l�m n� lệ. Sau khi nắm vững dư luận v� được đức Th�nh Cha Le� XIII cổ v�.[19] Th�n phận con người nhờ đấy dần dần được n�ng cao v� c� bảo đảm hơn. Nhưng phải chờ đến năm 1930, chế độ n� lệ mới được ch�nh thức b�i bỏ trong xứ Liberia. Tuy nhi�n, n� lệ h�y c�n trong tay những chủ nh�n Hồi gi�o, nhất l� ở Ả Rập v� Ethiopia, một thời gian cả mấy chục năm sau nữa.


3. C�c xứ Truyền gi�o ở � ch�u

Những gi�o đo�n do th�nh Phanxic� Xavi� thiết lập ở Nhật Bản trở n�n thịnh vượng, mặc dầu sau đ� c�c nh� truyền gi�o gặp phải nhiều kh� khăn v� trở ngại; rồi cuộc b�ch hại diễn ra từ cuối thế kỷ XVI. Trong thời b�ch hại n�y, Gi�o hội ở Nhật Bản đ� c� con số gần một triệu gi�o d�n. Nhiều người chết anh dũng v� đức tin. Khoảng năm 1660, h�ng gi�o sĩ v� cả gi�o đo�n Kit� hữu coi như bị qu�t sạch khỏi đất Ph� Tang.[20]

Năm 1854, Nhật Bản phải mở hai thương cảng Shimoda v� Hakodat� cho Hoa Kỳ v�o bu�n b�n. Năm 1858, một hiệp ước chấp nhận cho người Ph�p lập thương điếm tại Hakodat�, Kanagawa, Nagasaki. Nhưng d�n Nhật c� lệnh cấm kh�ng được lui tới c�c th�nh đường của người ngoại quốc.

Tuy nhi�n, lời của đức cha Marnas thuật lại, trưa ng�y thử s�u 17.3.1865 một bọn từ 12 đến 15 người, gồm đ�n �ng, đ�n b�, con n�t, đứng giữa lối v�o th�nh đường 26 đấng Tử đạo (ở Nagasaki), như đang chờ đ�n một người. Cha Petit Jean, theo như ng�i n�i, được Thi�n thần Bản mệnh dun dủi đến gần họ dể hỏi chuyện. Cửa th�nh đường l�c ấy đ�ng, cha mở cửa, bọn người theo cha v�o, trong khi cha thầm xin Ch�a ch�c ph�c cho họ. Mọi người tiến tới cung th�nh. Cha quỳ gối trước nh� tạm: �Lạy Ch�a, con tha thiết xin Ch�a cho lời con cảm h�a được những người n�y, để đem họ v�o số c�c kẻ t�n thờ Ch�a�. Cha vừa đọc xong kinh �Lạy Cha�, ba người đ�n b� tr�n 50 tuổi đến quỳ dưới ch�n cha, một người đặt tay tr�n người n�i nhỏ, như sợ c� ai nghe Ch�ng con tất cả l� những người c�ng một l�ng một � với cha� - �Đ�ng thế, nhưng c�c �ng c�c b� ở đ�u đến ?� �Ch�ng con ở Urakami, hầu hết c� một niềm tin như ch�ng con�. Một người l�n tiếng hỏi: �Ảnh Đức Mẹ đồng trinh của cha đ�u ?� Cha Petit Jean kh�ng c�n nghi ngờ nữa, cha biết chắc họ l� con ch�u của những người Kit� hữu đầu ti�n tr�n đất Nhật... Cha dẫn họ đến b�n thờ Đức Mẹ. Theo gương cha, tất cả quỳ gối cầu nguyện, v� họ sung sướng trong niềm tin: �i Maria! Ch�a Gi�su uy linh tr�n c�nh tay Mẹ! [21]

Từ đấy, c�c thừa sai t�m ra gần 20.000 người C�ng gi�o trong v�ng Nagasaki. Kh�ng linh mục, kh�ng một trợ gi�p, suốt 200 năm qua những người t�n hữu n�y vẫn rửa tội cho nhau, vẫn trung th�nh với đức tin v� cầu nguyện, vẫn tu�n giữ c�c giới răn, đến cả ảnh tượng th�nh họ cũng c�n k�nh cẩn cất giấu. Họ truyền lại cho nhau những dấu hiệu, để một ng�y kia sẽ nhận ra ai l� những người đến nối tiếp c�c thừa sai xưa đ� cho tổ ti�n họ biết đạo: độc th�n, hiệp nhất với Gi�o ho�ng Roma, s�ng k�nh Đức Trinh Nữ Maria.

Ch�nh quyền được b�o dộng, liền nhắc lại những chiếu chỉ cấm đạo (1868). Người C�ng gi�o một lần nữa chịu b�ch hại: 8.000 người bị lưu đ�y. Năm 1873, �p lực của c�c cường quốc T�y phương đ�i ch�nh quyền Nhật phải trả quyền tự do cho người Kit� hữu. Từ đấy đạo Ch�a lại được rao giảng, nhưng tiến triển chậm chạp: năm 1913, số d�n C�ng gi�o Nhật kh�ng qu� 100.000 người tr�n tổng số 67 triệu d�n. Năm 1913, c�c cha d�ng T�n người Đức thiết lập viện đại học Sophia (J�chi Daigaku) ở Đ�ng Kinh.

Cuối thế kỷ XVI, Nhật Bản đem qu�n đ�nh Cao Ly (Triều Ti�n); trong qu�n đội Nhật c� một số qu�n nh�n C�ng gi�o đ� khuy�n được nhiều người Cao Ly theo đạo. Nhưng vua Cao Ly hạ lệnh cấm, khiến một nh�m gi�o d�n qu� non nớt kh�ng thể đứng vững, nhưng đất Cao Ly đ� được thấm m�u tử đạo từ đấy. Sau gần hai thế kỷ, �ng Lee trong thời gian l�m đại sứ ở Bắc Kinh, được giao tiếp với c�c thừa sai C�ng gi�o v� đ� được chịu ph�p Rửa, lấy t�n th�nh Pher�. Năm 1784, �ng trở về Cao Ly l�m t�ng đồ tại nước nh�. Hoạt động của �ng Lee rất kết quả: năm 1789 c� gần 4.000 người theo đạo. Nhưng v� c�ng cuộc truyền gi�o thiếu gi�o sĩ, lại phải chịu những thử th�ch qu� nặng nề, suốt 80 năm b�ch hại nhất l� trong những năm 1827, 1839, 1846 v� 1860-1873 : con số tử đạo l�n tới h�ng ng�n. Năm 1837, xứ Truyền gi�o được trao cho hội Thừa sai Paris; giữa thế kỷ XIX, con số gi�o d�n tr�n 11.000. Năm 1910, Cao Ly bị s�p nhập với Nhật Bản, c�ng cuộc truyền gi�o vẫn tiếp tục mặc dầu gặp những kh� khăn l�n tiếp. Năm 1936, số gi�o d�n l�n 128.000 người tr�n tổng số 21 triệu d�n. C�c cha d�ng Biển đức Th�nh Ottilian đ� đến từ năm 1909, một đan viện được thiết lập tại H�n Th�nh.

Lịch sử truyền gi�o Trung Hoa từ đầu thế kỷ XIX bị chi phối bởi ch�nh trị giữa Trung Hoa v� c�c cường quốc T�y phương, v� bởi ảnh hưởng ch�nh trị đối với số phận c�c thừa sai. Trung Quốc thế kỷ XIX, dưới quyền những �ng vua bất lực hoặc v� t�i, ch�m trong t�nh trạng hỗn loạn v� suy tho�i, khiến c�c đế quốc T�y phương t�m c�ch khuếch trương thương mại trong một nước đ�ng d�n, tr�n một thị trường l� tưởng. Do đấy, c� những hậu quả sau đ�y: 1) Trước năm 1860, Trung Hoa bế m�n tỏa cảng, c�c thừa sai bị trục xuất hoặc chịu b�ch hại; 2) Từ 1860, một thể chế bảo vệ c�c xứ Truyền gi�o do c�c cường quốc �u ch�u đảm nhiệm; 3) Sau vụ b�i ngoại v� b�ch hại đạo năm 1900, một t�nh thế mới bắt đầu, h�ng gi�o sĩ Trung Hoa lần lượt thay thế c�c gi�o sĩ ngoại quốc ở cấp l�nh đạo, v�o những năm trước khi đảng Cộng sản l�m chủ đại lục (1949). [22]

Những cuộc b�ch hại ở Trung Hoa kh�ng g�y đổ m�u nhiều như ở Việt Nam hay Nhật Bản, bởi v� �t khi đi tới �c liệt (cuộc tử đạo của cha Perboyre năm 1840). Tuy nhi�n, cũng đủ để người Kit� hữu c� cơ hội xưng đức tin can trường, sống đạo một c�ch sốt sắng, trung th�nh, nhẫn nhục, nhưng số gi�o d�n tăng rất chậm: 202.000 năm 1800 l�n 350.000 năm 1860 (1/1000).

Nếu sau n�y t�nh thế c� thuận lợi hơn, th� sự thuận lợi ấy cũng kh�ng gi�p g� cho c�ng cuộc truyền gi�o. Bởi v� quyền tự do d�nh cho Gi�o hội ở Trung Hoa chỉ l� một thứ tự do trong tay c�c cường quốc �u ch�u. Ba cuộc h�nh qu�n viễn chinh, trong đ� c� chiến tranh nha phiến (1840-42), kết th�c bằng h�a ước Bắc Kinh (1860), đem lại quyền tự do giảng đạo, giữ đạo, v� quyền mua đất đai, x�y dựng cơ sở truyền gi�o. Nhiều cuộc thương thuyết của c�c nh� ngoại giao Ph�p v�o những năm 1844-46, rồi 1858 v� 1860, kết quả l� đặt c�c thừa sai C�ng gi�o dưới sự bảo trợ của nước Ph�p, khiến c�c vị n�y bất cứ thuộc quốc tịch n�o phải c� giấy th�ng h�nh do ch�nh quyền Ph�p cấp. Nhờ c� sự �tự do� n�y m� con số gi�o d�n đ� l�n tới 700.000 hồi năm 1900. Nhưng v� đặt dưới quyền bảo trợ của ngoại bang, Kit� gi�o kh�ng khỏi bị mang tiếng l� �Đạo ngoại quốc�. Điều tiếng đ� cần được x�a bỏ.

Sau loạn Quyền phỉ (1900), tức phong tr�o quốc gia qu� kh�ch, v� nhất l� sau đệ nhất thế chiến, d�n tộc Trung Hoa t�m hết c�ch để tho�t ly dần khỏi quyền bảo hộ v� ảnh hưởng của ngoại bang. Từ đ�, Gi�o hội C�ng gi�o, tuy con số c�n thấp k�m, nhưng đ� bắt đầu bước sang một t�nh thế mới. Uy t�n của c�c thừa sai, sự người C�ng gi�o tham gia đời sống quốc gia chống Nhật x�m lăng, sự th�nh lập một h�ng gi�o sĩ Trung Hoa đ�ng đảo, sự đ�o tạo một giới tr� thức C�ng gi�o v� uy t�n quốc tế của ng�i Gi�o ho�ng; tất cả đ� l�m cho người ta hết nghĩ rằng đạo C�ng gi�o l� đạo của ri�ng T�y phương. C�c d�ng tu sang hoạt động th�m đ�ng, việc gi�o dục được đặt l�n h�ng đầu. Năm 1903, d�ng T�n người Ph�p thiết lập viện đại học �Aurore� Zikawei (Thượng Hải). Năm 1923 c�c cha d�ng Biểnđức người Hoa Kỳ cũng mở viện đại học Fu Jen ở Bắc Kinh, 10 năm sau được trao cho c�c thừa sai d�ng Steyl (Ng�i Lời) điều khiển.

Năm 1844, hai cha Huc v� Gabet d�ng Lazarist tới Lhassa kinh đ� T�y Tạng, được nh� Vua tiếp kiến v� cho ph�p giảng đạo. Nhưng v� T�y Tạng bấy giờ thuộc quyền Trung Hoa đang c� chiếu chỉ cấm đạo, n�n c�c cha đ� phải r�t lui v�o 2 năm sau. Năm 1851, một thừa sai kh�c t�n l� Krick từ Ấn Độ được ph�i sang T�y Tạng hoạt động trở lại với cha Boury, nhưng cả hai bị giết năm 1854. Sau đ� c� cha Renou từ Tứ Xuy�n đến lập một gi�o xứ tại thung lũng Bonga. Từ khi c� h�a ước Bắc Kinh (1860) nh�n nhận quyền tự do giảng đạo, đức cha Thorne v� 4 nh� truyền gi�o do T�a th�nh sai đến T�y Tạng, cũng bị cản trở bởi nh� cầm quyền người Trung Hoa, họ viện lẽ h�a ước Bắc Kinh chỉ nh�n nhận quyền tự do ấy ở Trung Quốc chứ kh�ng n�i đến T�y Tạng. Một cuộc b�ch hại xảy ra: Bonga bị ph�, nhiều gi�o d�n bị giết.

Cũng như nhiều xứ Truyền gi�o kh�c, đạo C�ng gi�o ở Ấn Độ thịnh vượng cho tới cuối thế kỷ XVII; sau đ� l� thời sa s�t. Sự độc quyền của Ch�nh phủ Bồ Đ�o Nha trong việc tuyển mộ thừa sai đ� c� hậu quả l� hầu như chỉ c� linh mục Bồ Đ�o Nha, số linh mục n�y đ� �t, đ�i khi c�n c� gương xấu. Do đấy, một phong tr�o nổi dậy đ�i tho�t ly ảnh hưởng của c�c cường quốc �u ch�u. Đức Th�nh Cha Gregori XVI quyết x� bỏ bản hiệp ước l�m cản trở sứ mạng của ng�i. Từ năm 1833 đến 1838, ng�i giải t�n 4 gi�o phận ch�nh t�a lệ thuộc v�o ch�nh quyền Goa v� thay thế bằng những gi�o phận Đại diện T�ng T�a. Ch�nh phủ ho�ng gia Bồ Đ�o Nha phản đối h�nh động đơn phương n�y, cả h�ng gi�o sĩ Goa cũng từ chối nh�n nhận (�Ly gi�o Goa�). T�nh trạng bất h�a đ� k�o d�i đến năm 1928 mới giải quyết xong. [23]

Nhưng kh� khăn về địa thế v� d�n sự mới thật nặng nề: đất rộng, kh� hậu n�ng như thi�u, c�n phải đối ph� với những khối t�n gi�o vừa h�ng hậu vừa cuồng t�n: 77 triệu Hồi gi�o, 240 triệu Ấn gi�o. Tuy nhi�n, Gi�o hội vẫn tiến v� c� nhiều triển vọng, c�c thừa sai tổ chức một nền gi�o dục kh� ho�n bị, với những cơ sở x� hội như ở c�c nước ti�n tiến. Trường cao đẳng Th�nh Phanxic� Xavi� được mở tại Bombay từ năm 1869, do d�ng T�n người Đức. Năm 1893, đức Th�nh Cha Le� XIII thiết lập đại chủng viện Candy tr�n đảo T�ch Lan, l� nơi đ� c� một gi�o phận Đại diện T�ng T�a từ năm 1834, với gần 20.000 gi�o d�n. D�n Ấn theo đạo phần đ�ng thuộc giai cấp dưới, tuy nhi�n c�c cha d�ng T�n đ� g�y được nhiều ảnh hưởng giữa c�c giới cấp cao B� La M�n ở Trichinopoli (Madras). Năm 1935, Ấn Độ c� 3.888.707 người C�ng gi�o, tập trung ở miền Nam b�n đảo, với con số 1.158 linh mục Ấn, hoạt dộng chung với 1.350 thừa sai. Vị gi�m mục Ấn ti�n khởi, đức cha Roche, được tấn phong th�ng 9 năm 1923.

C�ng cuộc truyền gi�o ở v�ng Đ�ng Nam �, chỉ ở Việt Nam l� khả quan, với con số gi�o d�n từ 420.000 năm 1840, l�n 683.000 năm 1892, v� 1.544.765 năm 1939.[24] C�n ở Miến Điện, Th�i Lan, M� Lai, Indonexia, c�ng việc bắt đầu hơi muộn, lại tiến chậm chạp, n�n tất cả c�c nước n�y hợp lại chỉ c� khoảng 300.000 người C�ng gi�o hồi năm 1930.[25]


4. Truyền gi�o tại Mỹ ch�u

Ở  Bắc Mỹ, người ta kh�ng c�n thấy bộ mặt của một xứ Truyền gi�o nữa.[26] Từ thế kỷ XX, lịch sử truyền gi�o hết n�i đến c�c nước n�y, kh�ng những v� th�nh quả tốt đẹp trong nhiều thế kỷ trước m� c�n v� thổ d�n da đỏ bị ti�u diệt dần hoặc ph�n t�n v�o rừng n�i sống nay đ�y mai đ�. Sự thi�n vị của Ch�nh phủ Li�n bang Mỹ quốc dưới thời tổng thống Grant (1867-77) đ� l�m cho Tin l�nh gi�o c� cơ hội ph�t triển mạnh mẽ. Tuy nhi�n, Gi�o hội C�ng gi�o kh�ng bao giờ thiếu những t�ng đồ c� khả năng v� ki�n nhẫn. Nhiều nh� truyền gi�o từ �u ch�u đến hoạt động, như đức cha Dubourg ở Lyon sang, l�m gi�m mục địa phận New Orl�ans, cha De Smet (+ 1873) d�ng T�n người Bỉ nổi tiếng l� T�ng đồ d�n da đỏ trong v�ng n�i Rocky. Năm 1928, người da đỏ c�n sống s�t ước chừng 336.000, trong số n�y 140.000 C�ng gi�o.

Người da đen, tức d�n n� lệ xưa, phần lớn ở miền Nam v� T�y Nam Hoa Kỳ. Cuộc kiểm tra năm 1860 cho biết c� khoảng 5 triệu da đen, trong đ� 3.206.425 l� n� lệ. Năm 1880, tất cả n� lệ được giải ph�ng v� số d�n da đen l�n 6.780.583; năm 1945, 13 triệu; năm 1970 gần 30 triệu. Sau cuộc chiến tranh giải ph�ng (1865), người da đen đa số theo gi�o ph�i Tin l�nh Baptiste hoặc Methodiste.[27] Năm 1946, người C�ng gi�o da đen ở Hoa Kỳ v�o khoảng 300.000; năm 1970 l�n 800.000 với 185 linh mục, khoảng 300 tu sĩ v� 1.000 nữ tu da đen.[28]

Tr�n quần đảo Antil1es v� tại nhiều nước thuộc Trung Mỹ, một sự sa s�t về t�n gi�o đ� l�m hỏng cả c�ng cuộc truyền gi�o xưa, đến độ c�ng việc phải bắt đầu lại v�o thế kỷ XIX. Nhiều Quốc gia trước kia dưới quyền T�y Ban Nha, cũng xảy ra một t�nh trạng như ở Nam Mỹ sau n�y: b�ch hại Gi�o hội, trục xuất c�c thừa sai (Guatemala năm 1872) hoặc bắt giam h�ng gi�o sĩ (Mehic� năm 1873). Ở Mehic� năm 1925, một cuộc C�ch mạng v�ng dậy b�ch hại đạo một c�ch hết sức d� man. H�ng gi�o sĩ v� hội đo�n C�ng gi�o tiến h�nh Mehic� đ� để lại cho Gi�o hội những chứng nh�n đức tin rất anh dũng (cha Pro d�ng T�n, v.v...). Tuy nhi�n, nếu kh�ng kể địa phận Đại diện T�ng T�a Tarahumara v� hạt phủ do�n La Paz (Baja Califonia), th� ng�y nay với một h�ng Gi�o phẩm ri�ng, Mehic� kh�ng c�n l� một xứ Truyền gi�o nữa.

Trong c�c nước Nam Mỹ, chỉ c� Uruguay kh�ng bao giờ mang t�n l� xứ Truyền gi�o. C�c nước kh�c, ng�y nay tuy tất cả đều c� h�ng Gi�o phẩm ri�ng, nhưng vẫn c�n c� sứ mạng truyền gi�o cho thổ d�n v� di d�n, với những gi�o phận Đại diện T�ng t�a tại c�c nước đa số C�ng gi�o (Chili, Achentina, Paraguay, Columbia, Braxin), hoặc những nước C�ng gi�o chiếm ph�n nửa (Venezuela, Ecuador, Peru, Bolivia). Việc th�nh lập những hạt Truyền gi�o hoặc gi�o phận Đại diện T�ng t�a n�i tr�n bắt đầu từ năm 1834 (d�ng Phansinh ở Bolivia) v� tiếp tục cho tới những năm gần đ�y. Như vậy th�nh Bộ Truyền gi�o đ� bắt đầu lại hơi muộn một c�ng cuộc đ� c� từ khi người T�y Ban Nha v� Bồ Đ�o Nha đặt ch�n l�n đất Nam Mỹ ch�u, v� bấy giờ họ đ� th�u đạt nhiều kết quả tết đẹp. Nhưng rồi những kết quả th�u lượm được đều bị ph� hủy bởi những phần tử c�ch mạng, m� chiến tranh gi�nh độc lập đ� đưa l�n cầm quyền. Việc giải thể d�ng T�n, trục xuất c�c thừa sai, th�i độ cừu địch của ch�nh quyền v� của những người gh�t đạo l�m cho sứ mạng t�ng đồ kh�ng thể thực hiện nổi (cuộc dấy loạn 1810 ở Bolivia; h�nh động b�i t�n gi�o ở Ecuador sau thời cố tổng thống Garc�a Moreno;[29] hoặc ở Braxin dưới ảnh hưởng của hội Tam điểm, v.v...). Tại nhiều nơi, hầu như kh�ng c�n vết t�ch C�ng gi�o, khiến c�c thừa sai ng�y nay phải l�m lại như mới. Nhiều d�ng tu (Phansinh, Đaminh, Capuxin�, Sal�di�ng) tham gia v�o c�ng cuộc t�i thiết n�y. H�nh như c�c nh� truyền gi�o ở đ�y đặt hết hy vọng v�o một nền gi�o dục quần ch�ng v� sự cải c�ch đời sống nơi h�ng gi�o sĩ.


III

SỰ TRƯỞNG TH�NH CỦA C�C XỨ TRUYỀN GI�O


1. Tho�t ly quyền bảo trợ của c�c cường quốc

Trong nhiều thế kỷ, c�ng cuộc truyền gi�o cần được sự bảo trợ của những cường quốc �u ch�u. Đ� l� vai tr� của Bồ Đ�o Nha, rồi T�y Ban Nha v� Ph�p từ thế kỷ XVI, đặc biệt nước Ph�p trong thế kỷ XIX. Nước Ph�p kh�ng phải chỉ bảo trợ những cơ sở C�ng gi�o tại miền Đ�ng Địa Trung Hải, cũng kh�ng phải chỉ nhận bảo hộ xứ Truyền gi�o ở Trung Hoa (từ 1844 đến 1860), nhưng sự thực c�n c� mặt v� g�y ảnh hưởng tại những nơi c� c�c nh� truyền b� Ph�c �m được sai đến, để c�ng cuộc được tự do hoạt động v� tiến h�nh: hoặc bằng những h�a ước buộc c�c nh� cầm quyền trước kia b�ch hại đạo phải t�n trọng, như trường hợp ở Việt Nam, hoặc bằng hiệu kỳ nước Ph�p m� người ta vốn cho l� c� cảm t�nh với C�ng gi�o, cũng như hiệu kỳ nước Anh bị coi l� th� địch, đ� l� trường hợp ở Hải Dương ch�u. C�c cường quốc kh�c sau n�y cũng ra tay b�nh vực những thừa sai thuộc nước m�nh bất cứ hoạt động ở đ�u, nhưng nhất l� ở nơi họ đặt nền đ� hộ.

C�ng việc bảo trợ bấy giờ thật cần thiết v� hữu �ch. Gi�o hội nh�n nhận điều đ� v� ghi c�ng nữa. Nhưng từ khi được th�nh lập năm 1622, th�nh Bộ Truyền gi�o đ� tự đảm nhận lấy sứ mạng cao cả n�y, v� muốn c�c xứ Truyền gi�o th�i lệ thuộc v�o ảnh hưởng hoặc mục ti�u ch�nh trị, quyết định một c�ng cuộc truyền gi�o thuần t�y.[30] Đ� đến l�c phải cho người ta thấy r� đạo Thi�n Ch�a kh�ng phải l� đạo của ri�ng T�y phương, Gi�o hội C�ng gi�o kh�ng bao giờ chịu l�m tay sai cho bất cứ một cường quốc thực d�n n�o. H�ơn thế nữa, cần phải l�m nổi bật sự can thiệp của Ch�a Th�nh Thần trong Hội th�nh.

Trước hết, đức Th�nh Cha Gregori XVI đ� can thiệp để Gi�o hội ở Ấn Độ, trong tổ chức nội bộ, được tho�t khỏi quyền bảo trợ của người Bồ Đ�o Nha. Sau nhiều năm tranh chấp cam go, một thỏa ước (modus vivendi) được k� kết năm 1928, trao trả quyền độc lập ho�n to�n cho Gi�o hội nhưng vẫn nh�n nhận ch�nh quyền Bồ Đ�o Nha đ� c� nhiều c�ng phục vụ Hội th�nh. Sự bảo trợ của nước Ph�p đối với c�c thừa sai hoạt động ở Trung Hoa, cũng như sự bảo trợ của hai nước Đức, � sau n�y đối với c�c thừa sai của họ, tất cả dần dần chấm dứt v� kh�ng c�n l� do tồn tại. Đức Gi�o ho�ng Le� XIII, năm 1885, đ� trực tiếp gởi Văn thư cho ho�ng đế Trung Quốc; ng�i tổ chức c�c xứ Truyền gi�o ở Trung Hoa theo ranh giới mỗi tỉnh. Việc n�y đương nhi�n x�a bỏ sự ph�n chia theo ảnh hưởng một cường quốc hay một d�ng tu. Năm 1922, một kh�m sai T�a th�nh, tức vị đại diện trực tiếp của đức Gi�o ho�ng, được đặt tại Trung Quốc, cũng như đ� đặt một vị tại Ấn Độ từ năm 1884, Nhật Bản năm 1919, v� sau n�y ở Đ�ng Dương năm 1925. Trước đ� năm 1924, một c�ng đồng triệu tập tại Thượng Hải đ� cho Gi�o hội Trung Hoa một bộ mặt, một tiếng n�i ri�ng: ủy ban thường trực của c�ng đồng đặt ở Bắc Kinh.

Hầu khắp nơi, T�a th�nh đều c� th�i độ tương tự, chứng minh c�c xứ Truyền gi�o kh�ng c�n ở trong tay một cường quốc �u ch�u, nhưng đứng v�o một thể chế thi�ng li�ng v� si�u quốc gia, tức Gi�o hội C�ng gi�o. Đ� cũng l� � nghĩa của việc dời trụ sở hội Truyền b� đức tin từ Lyon sang Roma (1922).

Một điểm đ�ng ch� � của Gi�o hội ng�y nay l� đứng ngo�i ch�nh trị, nhất l� kh�ng chịu lệ thuộc v�o c�c cường quốc, cũng như kh�ng c�n t�m đến sự nương tựa m� trước đ�y Gi�o hội đ� phải cần đến. Gi�o hội mỗi ng�y th�m vững mạnh v� độc lập, tự t�c trong l�nh vực ri�ng của m�nh. Hai triều Gi�o ho�ng Beneđict� XV v� Pi� XI cho ta thấy r� điều đ�. Si�u tho�t như thế, Gi�o hội c�ng c� uy t�n: kh�ng vướng v�o ch�nh trị, Gi�o hội c�ng ảnh hưởng tới ch�nh trị; trong khi đứng ngo�i c�c Quốc gia, Gi�o hội c�ng trở n�n của mỗi Quốc gia một c�ch thiết thực v� � nghĩa hơn.


2. Gi�o hội trưởng th�nh với h�ng Gi�o phẩm địa phương

T�a th�nh hằng mong ước được thấy những h�ng gi�o sĩ �bản quốc�, v� mỗi khi c� thể, tấn phong những gi�m mục người địa phương. Ngay từ thế kỷ XVI, đức Th�nh Cha Pi� V đ� viết thư cho vua Bồ Đ�o Nha (1571), [31] tiếp đến T�ng thư của đức Urban VIII (1627) hoặc những Huấn dụ của th�nh Bộ Truyền gi�o, tất cả đều nhấn mạnh việc đ�o tạo h�ng gi�o sĩ địa phương.[32] Những nơi n�o, tỉ như ở Việt Nam, c� một h�ng gi�o sĩ như thế, Gi�o hội hi�n ngang tồn tại sau những cuộc b�ch hại vừa l�u d�i vừa �c liệt. Ngược lại, người ta phải chứng kiến sự suy yếu v� c� khi mất hẳn, m� nguy�n nh�n ch�nh l� thiếu một h�ng gi�o sĩ �bản quốc�. Năm 1845, Bộ Truyền gi�o viết:

�Từ c�ng c�i tr�i đất, những b�n tay giơ l�n hướng về T�a th�nh Pher�, đ� l� b�n tay của người d�n đ�ng thương tại c�c miền rộng lớn bao la. Bởi v� người ta đ� coi thường việc đ�o tạo một h�ng gi�o sĩ bản xứ, n�n ng�y nay kh�ng c�n đủ tay thợ để được ph�i đến vườn nho Ch�a, khiến n� phải tan hoang ... Cần phải c� những gi�m mục bản xứ; vả lại. ch�ng ta kh�ng thể c� đủ linh mục để sai đi khắp nơi ...� .[33]

Đức Pi� IX (1869), tổng gi�m mục Lavigerie (trong cuốn Nhật k�, 1878) v� đức Le� XIII đều x�c nhận sự cần thiết đến độ cấp b�ch một h�ng gi�o sĩ tại mọi Quốc gia. Đức Th�nh Cha Le� XIII đặc biệt quan t�m đến Ấn Độ: ng�i ban h�nh T�ng thư Ad extremas ng�y 24.6.1893 thiết lập tại Candy một chủng viện, nhằm đ�o tạo c�c linh mục Ấn Độ v� T�ch Lan. H�nh như ng�i đ� linh cảm trước một ng�y n�o đ�, giữa những khủng hoảng sắp xảy đến, chỉ c�c gi�o sĩ �bản quốc� mới đảm đương được c�ng việc bảo vệ hoặc truyền b� đức tin. Đại chiến 1914-18 c�ng l�m cho ng�y giờ đ� đến ch�ng hơn. Khắp nơi, c�c cha d�ng Trắng nhận thấy uy thế m�nh kh�ng c�n như x�a, phong tr�o quốc gia trở n�n s�i động đến qu� kh�ch. Hơn thế nữa, c�c thừa sai nhiều nước phải nhập ngũ, nhiều vị đ� kh�ng trở lại (nhất l� người Ph�p) v�, khi hết chiến tranh, những thừa sai thuộc c�c nước bại trận phải bỏ mất nhiều xứ Truyền gi�o. Đấy l� chưa n�i đến những thừa sai c� đầu �c thực d�n, coi khinh người bản xứ, �t để � đến những khuyến c�o của T�a th�nh. Ch�nh v� những lo �u n�y, m� đức Gi�o ho�ng Beneđict� XV đ� c�ng bố Th�ng điệp Maximum illud ng�y 30.11.1919, than tr�ch c�c thừa sai tại những xứ Truyền gi�o cổ k�nh h�ng bao thế kỷ, m� vẫn chưa c� một h�ng gi�o sĩ địa phương xứng đ�ng, đồng thời k�u gọi lương t�m tr�ch nhiệm của c�c thừa sai trong việc n�y.

Đức Th�nh Cha Pi� XI cũng một lập trường ấy trong Th�ng điệp Rerum Ecclesiae ng�y 18.2.1926. Ng�i loan b�o đ� đến lượt c�c Gi�o hội địa phương phải đảm nhận sứ vụ truyền b� Ph�c �m.[34]

Ng�i cương quyết đi v�o vấn đề một c�ch thiết thực, như ủy th�c nhiều gi�o phận cho c�c bề tr�n người địa phương. Lễ Ch�a Gi�su Kit� Vua 28.10.1926, ch�nh ng�i chủ sự lễ tấn phong cho s�u gi�m mục Trung Hoa, v� ng�y 30.10.1928 vị gi�m mục Nhật Bản ti�n khởi địa phận Nagasaki. Từ đấy, hầu như kh�ng một năm n�o m� kh�ng c� tin linh mục hoặc gi�m mục ti�n khởi của nước n�y hay nước kh�c tr�n thế giới. Đức Pi� XII tiếp nối c�ng việc đ� bắt đầu, kh�ng g� c� thể cản trở được. Trong những th�ng đầu của đệ nhị thế chiến, nhằm lễ Ch�a Kit� Vua năm 1939, để cho thế giới nhận biết quyền độc lập v� phổ thế của Gi�o hội C�ng gi�o, đức Th�nh Cha Pi� XII c�ng một l�c tấn phong cho 12 gi�m mục thừa sai: 1 Trung Hoa, 1 Ph�p thuộc hội Thừa sai Paris, 1 d�ng T�n người Ấn, 1 d�ng Sal�gi�ng Mehic�, 1 d�ng Đaminh người �, 1 thuộc tu hội Verbit (Steyl) người H� Lan, 1 Hoa Kỳ, 1 �i Nhĩ Lan, 1 d�ng Phansinh người Đức, 1 cha d�ng Trắng người Bỉ, 1 người Malgache v� 1 Ouganda, hai vị sau c�ng l� hai gi�m mục da đen ti�n khởi.[35]

Để hưởng ứng Th�ng điệp Rerum Ecclesiae (1926), năm 1935 nhiều đại chủng viện được thiết lập d�nh cho việc đ�o tạo gi�o sĩ địa phương.[36] Để n�ng đỡ c�ng cuộc n�y, một hội từ thiện ra đời do Ch�a Quan ph�ng. Trước đ�y, hội Truyền b� Đức tin của P. Jaricot đ� được th�nh lập đ�ng l�c ng�i Gi�o ho�ng lo phục hưng v� tổ chức lại c�c xứ Truyền gi�o, th� hai người Ph�p kh�c, b� Bigard v� con g�i b�, chủ trương trợ gi�p h�ng gi�o sĩ �bản quốc� v�o l�c đức Le� XIII khởi c�ng thiết lập đại chủng viện Candy (1893).[37] Đức Pi� XI đ� biến hội từ thiện của hai mẹ con b� Bigard th�nh một hội thiện Gi�o ho�ng, đặt trụ sở trung ương tại Roma, trong ng�i nh� cổ của Bộ Truyền gi�o, mang t�n Th�nh-Pher�.

Đời sống tu tr� cũng ph�t triển tại nhiều nơi truyền gi�o. Kh�ng những phần lớn d�ng tu từ �u ch�u đến, đ� c� nhiều phần tử người địa phương, nhưng c�n c� nhiều d�ng tu �bản quốc�: từ d�ng K�n, d�ng Phước Sơn, Ch�u Sơn ở Việt Nam đến d�ng Trappist ở Trung Hoa hay Nhật Bản, từ những Bannakerole (nam tu) hay Bannabikira (nữ tu) ở Ouganda đến nữ tu Mến Th�nh gi� ở Việt Nam, hoặc nữ tu hội Th�nh Anna ở Chota Nagpore. Năm 1939, th�nh Bộ Truyền gi�o cho ta bản thống k� như sau: 15.505 thừa sai ngoại quốc, 6.406 linh mục địa phương; nam tu sĩ: 6.456 ngoại quốc, 2.176 địa phương; nữ tu sĩ: 34.433 ngoại quốc, 18.586 địa phương. [38]

Tuy nhi�n, một gi�o đo�n ở c�c nơi truyền gi�o cũng như ở T�y phương, kh�ng phải chỉ gồm c�c linh mục v� tu sĩ nam nữ, nhưng c�n c� gi�o d�n nữa, nhất l� những gi�o d�n tr� thức. Danh từ �bản quốc� đ�y kh�ng c� nghĩa l� �b�i ngoại�, cũng kh�ng phải chỉ l� một lớp sơn phết b�n ngo�i, nhưng l� một tinh thần Ch�a Kit� được dinh dưỡng trong ch�nh linh hồn người địa phương, theo t�m t�nh v� phong h�a của mỗi D�n tộc, để đời sống tuy ho�n to�n Kit� gi�o m� vẫn kh�ng mất d�n tộc t�nh. Vấn đề l� phải đ�o tạo một giới tr� thức C�ng gi�o địa phương, từ đấy c� một nghệ thuật C�ng gi�o �bản xứ�, một nền văn h�a v� tư tưởng C�ng gi�o cũng �bản xứ�. Nhiều thừa sai đ� quan niệm tương lai Kit� gi�o ở Trung Hloa v� Nhật Bản lệ thuộc v�o một giới tr� thức như vậy. Bởi thế, c�c vị hết sức quan t�m đến việc mở mang trường C�ng gi�o, kể cả bậc đại học,[39] phổ biến s�ch vở b�o ch� nhằm tạo một nền văn chương C�ng gi�o. Về những điểm n�y, tuy đ� c� nhiều cố gắng v� thu lượm kết quả, nhưng phải c�ng nhận l� qu� chậm chạp nếu so với Gi�o hội Tin l�nh. Về nghệ thuật, kiến tr�c v� hội họa, th�nh đường, ảnh tượng th�nh vẫn c�n chịu ảnh hưởng của T�y phương. Những ng�i th�nh đường theo lối kiến tr�c địa phương như nh� thờ lớn Ph�t Diệm ở Bắc Việt kh�ng c� nhiều.

Đề cập đến vấn đề �địa phương h�a� (naturalisation) đạo C�ng gi�o, tưởng cũng n�n n�i đến c�c Sắc lệnh của th�nh Bộ Truyền gi�o trong những năm tiền b�n thế kỷ XX, đ� loại bỏ những quan điểm của thế kỷ XVIII đối với một số lễ nghi quốc gia. Ở Nhật Bản, trong Thần đạo (Shintoisme) c� những lễ nghi chỉ biểu lộ tinh thần �i quốc. Nếu kh�ng tham gia, sẽ bi coi l� kẻ th� hay �t ra l� xa lạ với Tổ quốc; nếu tham gia phải chăng l� th�ng đồng v�o việc tế Thần ? Nhưng đức tổng gi�m mục Đ�ng Kinh đ� nhận được một tuy�n c�o ch�nh thức v� minh bạch về t�nh ho�n to�n thế tục v� quốc gia của c�c lễ nghi đ�, v� ng�y 26.5.1936 th�nh Bộ truyền gi�o đ� ban Huấn dụ Pluries instanterque, cất đi �g�nh nặng� từ l�u đ� tr�n lương t�m người Kit� hữu; v� nhờ đấy cứu Gi�o hội Nhật Bản khỏi một bầu kh� ngột ngạt.[40] Cũng một tinh thần tr�n, trong Huấn dụ Plane compertum est ng�y 3.12.1939 n�i về lễ nghi Trung Hoa đối với đức Khổng Tử v� Tổ ti�n.[41] Huấn dụ n�y b�i bỏ việc đức Clement� XI v� đức Beneđict� XIV buộc c�c thừa sai phải tuy�n thệ về lễ nghi Trung Hoa. Như vậy l� đ� x�a bỏ đi được tất cả những t�n t�ch cuối c�ng của một cuộc tranh luận, từng g�y n�n nhiều thiệt hại cho đạo C�ng gi�o ở � Đ�ng. Một Sắc lệnh kh�c đề ng�y 9.4.1940 cũng bỏ lu�n việc tuy�n thệ về lễ nghi Malabar b�n Ấn Độ. [42]

H�nh động của th�nh Bộ Truyền gi�o n�i tr�n, rồi sự gia nhập đạo của nhiều người thuộc giới tr� thức v� của những nh�n vật trong ch�nh quyền tại một nước như Trung Hoa, th�i độ của người C�ng gi�o trong phong tr�o chống ngoại x�m (đức gi�m mục Vũ B�n), việc đức cha T�ma Tien Ken Sin d�ng Verbit người Trung Hoa được phong hồng y (18.2.1946), v� biết bao cố gắng kh�c, tất cả hợp lại để tạo n�n một sắc th�i �d�n tộc� cho mỗi xứ Truyền gi�o. Mục đ�ch của c�ng cuộc truyền b� đức tin l� x�y dựng v� mở rộng Nước Ch�a. Khi n�o c� đủ điều kiện để trở th�nh một Gi�o hội c� h�ng Gi�o phẩm ri�ng, tức nhi�n việc truyền gi�o phải nhường v� trao cho Gi�o hội đ�. Những Gi�o hội trẻ trung n�y dần dần c� học đường, chủng viện, gi�o sĩ, gi�m mục, hồng y, tổ chức văn h�a x� hội, c�ng những phương tiện bảo vệ v� truyền b� đức tin của m�nh, tất cả đều l� người địa phương v� do người địa phương điều khiển. Đ� l� nguyện vọng v� chương tr�nh của Gi�o hội C�ng gi�o.


3. Gi�o hội ở � ch�u v� Phi ch�u sau hơn một thế kỷ truyền gi�o

C�ng cuộc truyền đạo ở � ch�u tuy c� nhiều kết quả, nhưng v� lục địa rộng lớn, d�n số qu� đ�ng, lại thiếu linh mục v� nhất l� sau hai cuộc thế chiến, chủ nghĩa v� thần ph�t động mạnh, t�m trạng con người đột ngột thay đổi, khiến c�ng việc đang tiến h�nh bỗng chậm lại, nhiều nơi nhưng hẳn. Năm 1970, � ch�u c� 43.826.000 người C�ng gi�o, với một h�ng Gi�o phẩm: 7 thượng phụ gi�o chủ, 9 hồng y, 345 tổng gi�m mục v� gi�m mục, so với tổng số 1.907.481.000 d�n, tức 2,4%. Nhiều nước c� tỷ lệ rất thấp l� 1%, c� những nước chưa tới 1%, như Thổ Nhĩ Kỳ, Persia, Hồi quốc, Nhật Bản..., nhưng c� nước tỷ lệ tr�n dưới 10%, Liban, Macao, Việt Nam, T�ch Lan ... Ri�ng ở Philippin, mặc dầu phải đương dầu với hội Tam điểm, với gi�o ph�i Aglipay (1902), v� mặc dầu số linh mục qu� �t (4.519 năm 1970) Gi�o hội vẫn tiến triển v� được coi l� phồn thịnh nhất. Sau đại học C�ng gi�o Santo Tom�s (1611), nhiều viện đại học kh�c được thiết lập. Năm 1970, d�n số C�ng gi�o Philippin l� 26.769.709 (83%), dưới sự l�nh đạo của 2 hồng y, 61 tổng gi�m mục v� gi�m mục. [43]

Việc Thổ Nhĩ Kỳ c�ng với Đức quốc tham dự đệ nhất thế chiến, đ� l�m ti�u tan c�c tổ chức truyền gi�o ở Trung Đ�ng. Cuộc khủng bố người xứ Armenia xảy ra trong những năm từ 1915 đến 1918: tr�n 600.000 người xứ n�y bị ph�t lưu, kể cả 50.000 gi�o d�n C�ng gi�o, nhiều người bị giết. Cả triệu người Armen� phải trốn ra nước ngo�i. Năm 1921, ch�nh quyền Thổ trục xuất th�m 120.000 người. T�nh h�nh t�n gi�o tệ hơn nữa khi Thổ Nhĩ Kỳ tuy�n bố th�nh lập ch�nh thể Cộng h�a năm 1923. C�c hội d�ng v� học đường C�ng gi�o gặp nhiều thử th�ch. Năm 1970, người Kit� hữu ở Thổ Nhĩ Kỳ c�n v�o khoảng 200.000, chỉ c� 26.539 C�ng gi�o. Tại c�c nước kh�c ở v�ng Trung Đ�ng, trừ Liban ra, người C�ng gi�o l� thiểu số, kể cả Syria v� Jordania, v� đ�y l� khu vực của Hồi gi�o; Yemen v� Afghanistan l� hai nước kh�ng c� được một người C�ng gi�o.

B�n đảo Ấn Độ, sau một thời tranh đấu ki�n nhẫn dưới sự l�nh đạo của nh� �i quốc Gandhi (1860-1948), đ� gi�nh được độc lập từ năm 1947. Nhưng b�n đảo chia l�m hai nước: Ấn quốc v� Hồi quốc. Hiến ph�p Ấn Độ 1948 bảo đảm quyền tự do t�n gi�o, b�i bỏ giai cấp �mạt d�n� (paria). Năm 1954, Ấn Độ lấy lại dần c�c phần đất do ngoại bang chiếm cứ, kể cả Goa. Người C�ng gi�o phần đ�ng ở v�ng Malabar, T�y Nam b�n đảo, với con số 7.857.434 (1,5%), dưới sự l�nh đạo của 2 hồng y, 74 tổng gi�m mục v� gi�m mục (1970). Th�m v�o đ�, tr�n 100.000 người thuộc gi�o ph�i Jacobit �hiệp nhất� với Roma, chia l�m hai gi�o phận. Ở Hồi quốc, số người C�ng gi�o l� 421.740 (0,3%) với 8 tổng gi�m mục v� gi�m mục (1970). Gi�o hội ở đ�y cũng như ở Ấn quốc kh�ng bị một sự hạn chế n�o, ch�nh quyền hai nước đều c� li�n lạc ngoại giao với Vatican. Ngược lại ở Srilanca (T�ch Lan), Ch�nh phủ của nữ thủ tướng Bandaranaike (1960-65) chủ trương quốc hữu h�a c�c trường tư (bị d�n C�ng gi�o chống đối), khiến Gi�o hội phải qua một thời lo �u.[44] Số gi�o d�n T�ch Lan năm 1970 l� 829.480 (7%) với một h�ng Gi�o phẩm: 1 hồng y, 10 tổng gi�m mục v� gi�m mục.

Tại v�ng Đ�ng Nam �, nếu kh�ng kể Philippin, Gi�o hội Việt Nam được xếp h�ng đầu với con số gi�o d�n gần 2.500.000 (năm 1970).[45] Miến Điện (Myanmar) hồi năm 1955 (năm h�ng Gi�o phẩm Miến được thiết lập), chỉ c� 150.000 người C�ng gi�o; con số n�y tăng l�n 237.501 v�o năm 1970, với 10 tổng gi�m mục v� gi�m mục. Trong khi Miến Điện l� một Quốc gia X� hội Phật gi�o, th� tại Th�i Lan Phật gi�o l� quốc gi�o. Tuy nhi�n, Hiến ph�p Th�i Lan vẫn d�nh quyền tự do truyền gi�o. Đạo C�ng gi�o ở đ�y gia tăng rất chậm, năm 1970 chỉ c� 139.113 gi�o d�n (0,4%), phần đ�ng l� ph�i gốc Việt, với h�ng Gi�o phẩm (1965): 8 tổng gi�m mục v� gi�rn mục. Kampuchia (Cao Mi�n) cũng như Th�i Lan: Phật gi�o l� quốc gi�o. C�ng cuộc truyền gi�o ở đ�y tuy bắt đầu từ giữa thế kỷ XVI, m� cho tới năm 1970 cũng chỉ c� 62.023 người C�ng gi�o (0,9%) tr�n tổng số 6.500.000 d�n, hầu hết l� Việt kiều, được chia th�nh một địa phận Đại diện T�ng t�a v� hai hạt phủ do�n. Ai Lao c� 4 gi�o phận Đại diện T�ng t�a, với con số gi�o d�n năm 1970 l� 32.265 (1,2%). Malaysia (M� Lai), Singapor v� Hồng K�ng thuộc v�ng ảnh hưởng Anh, v� l� những nơi lập nghiệp của Hoa kiều. Năm 1970, cả 3 xứ hợp lại c� khoảng 536.000 người C�ng gi�o (ri�ng Hồng K�ng: 235.937). Macao thuộc Bồ Đ�o Nha l� một gi�o phận ch�nh t�a c� 36.500 gi�o d�n (13,6%).

Indonexia (Nam Dương) dưới thời Nhật Bản chiếm đ�ng (1942) đ� giam giữ c�c thừa sai Kit� gi�o. Người Hồi gi�o hợp t�c với Nhật Bản nổi l�n chống ch�nh quyền H� Lan, kể cả sau khi Nhật đầu h�ng Đồng minh, kết th�c bằng sự gi�nh lại độc lập cho Indonexia (1946). Hiến ph�p Cộng h�a Indonexia c�ng nhận quyền tự do t�n ngưỡng v� tự do gi�o dục, đồng thời ch�nh quyền chấp nhận sự bang giao với T�a th�nh Roma. Tuy nhi�n, tinh thần qu� kh�ch của Hồi gi�o cũng như của Cộng sản vẫn l� mối lo ngại cho Gi�o hội. C�ng cuộc truyền gi�o ở Indonexia đ� muộn, lại tiến một c�ch chậm chạp. H�ng Gi�o phẩm được thiết lập từ năm 1961, năm 1970 c� 1 hồng y, 29 tổng gi�m mục v� gi�m mục, cai quản 29 gi�o phận với con số gi�o d�n 1.753.653 (1,5%), đa số sống tr�n những h�n đảo thuộc biển La Sonde, nhiều nhất tr�n đảo Flores.

Trung Hoa c�ng cuộc truyền gi�o thật lớn lao, v� thu lượm kh� nhiều kết quả. Năm 1946, đức Th�nh Cha Pi� XII thiết lập h�ng Gi�o phẩm v� phong vị hồng y người � ch�u ti�n khởi: đức hồng y T�ma Tien. Năm 1949, tr�n một phần ba tổng số 3.300.000 gi�o d�n được đặt dưới quyền c�c gi�m mục người Hoa. Việc t�ng đồ gi�o d�n cũng như những tổ chức từ thiện đều x�c tiến mạnh mẽ. C�ng cuộc đang tiến h�nh tốt đẹp v� c� nhiều triển vọng, th� năm 1949 Cộng sản chiếm trọn đại lục thiết lập ch�nh thể Cộng h�a Nh�n d�n. Cuộc b�ch hại đạo lại diễn ra, với chủ trương Gi�o hội �tự trị�. Cuối th�ng 10 năm 1949, ch�nh quyền Cộng sản ra lệnh trục xuất hết c�c thừa sai ngoại quốc. Cho tới cuối năm 1952, 5.496 nh� truyền gi�o (linh mục, tu sĩ) phải rời khỏi Trung Quốc, th�m v�o đ� 7 gi�m mục, 574 linh mục, 576 tu sĩ, 298 đại chủng sinh người Hoa. C�c th�nh đường phải đ�ng cửa, c�c cơ sở từ thiện, gi�o dục bị quốc hữu h�a, c�c hội đo�n bị giải t�n. Ch�nh quyền Cộng sản tổ chức �Gi�o hội C�ng gi�o tự trị�, tự � đặt những t�n Gi�m mục qua cuộc tuyển cử của �Hội C�ng gi�o Trung Hoa y�u nước�. Đức cha Van Melckebeke, gi�m mục Ningsia, ức đo�n Trung Hoa đại lục sau năm 1952 c�n 2.200 linh mục, 6 nữ tu v� 1.500.000 gi�o d�n. Năm 1970, ch�nh quyền Cộng sản đ� cho ph�p hai nh� truyền gi�o người � được đặt ch�n l�n Hoa lục, đ� l� cha Renato Morini v� cha Ettore Turini, d�ng T�i tớ Đức Maria. [46]

Ngay từ năm 1949 đức Pi� XII đ� cho ph�p d�ng tiếng Trung Hoa ở phần đầu Th�nh Lễ. Ng�y 7.10.1954, ng�i gởi Th�ng điệp Ad Sinarum gentes an ủi tr�n 3 triệu gi�o d�n Trung Hoa đại lục, khuyến kh�ch họ can đảm trung th�nh với đức tin v� Gi�o hội C�ng gi�o, đồng thời kết �n tổ chức �Gi�o hội C�ng gi�o tự trị � của Nh� nước Cộng sản. Nhiều thừa sai bi trục xuất đ� đi hoạt động ở Đ�i Loan, phần đất c�n lại của Trung Hoa Quốc gia. Năm 1970, Đ�i Loan c� 303.971 người C�ng gi�o (2,4%) dưới quyền 1 hồng y v� 10 gi�m mục. Viện đại học C�ng gi�o Fe Jen (Bắc Kinh) năm 1961 được t�i lập tại Đ�i Bắc.

Ở Nhật Bản, năm 1919 t�a Kh�m sứ được thiết lập; năm 1927 đức Pi� XI tấn phong vị gi�m mục Nhật Bản ti�n khởi; năm 1936 người C�ng gi�o được ph�p tham dự c�c lễ nghi quốc gia của Thần đạo. Năm 1941, theo sự đ�i hỏi của Ch�nh phủ Nhật, c�c Gi�m mục ngoại quốc từ nhiệm hết, nhường quyền cai quản c�c gi�o phận, c�c cơ sở t�n gi�o cho h�ng Gi�o phẩm Nhật. Tr�i bom nguy�n tử ở Nagasaki năm 1945 đ� giết tr�n 8.000 người C�ng gi�o, những thiệt hại vật chất của Gi�o hội kh�ng thể lường được. Sau thế chiến, c�ng cuộc truyền gi�o c� nhiều hứa hẹn, v� th�m nhiều thừa sai. Năm 1949, lễ kỷ niệm Bốn trăm Năm th�nh Phanxic� Xavi� đến Nhật Bản, được tổ chức rất long trọng. H�a ước 1952 đ� l�m giảm đi nhiều ảnh hưởng của Kit� gi�o; tiếp đến l� sự phục hồi Thần đạo, rồi ảnh hưởng duy vật của T�y phương cũng như sự x�m nhập của Cộng sản v�o giới tr� thức. Đứng trước sự thiếu thốn những m�n ăn tinh thần Kit� gi�o, c�c thừa sai hết sức quan t�m đến b�o ch�, s�ch vở nhất l� ng�nh gi�o dục. Sau thế chiến, ngo�i viện đại học Sophia của c�c cha d�ng T�n đ� c� từ năm 1913 v� được Ch�nh phủ c�ng nhận năm 1928, ba viện đại học C�ng gi�o kh�c được thiết lập th�m. Số gi�o d�n từ 108.000 năm 1946 l�n 212.000 năm 1955; rồi 300.000 năm 1962, dưới sự l�nh đạo của 1 hồng y v� 18 tổng gi�m mục v� gi�m mục. Năm 1970, gi�o d�n Nhật l� 343.464 s�nh với tổng số 100.837.000 người (0,3%). C� điểm đ�ng ch� � l� gi�o d�n Nhật Bản phần lớn sinh sống ở th�nh thị v� c� kh� nhiều ơn thi�n triệu gi�o sĩ v� tu sĩ, cũng như ơn theo đạo ở giới tr� thức.

Năm 1945, Nhật Bản bại trận, H�n quốc (Cao Ly, Triều Ti�n) bị chia xẻ th�nh hai v�ng: Cộng sản v� Tự do. Trong v�ng Nga Hoa, tức Bắc H�n c�c cha d�ng Biển đức người Đức từ H�n Th�nh l�n ở Wonsan từ 1927 bị bắt giam, nhiều linh mục H�n quốc c�ng chung số phận. Sau khi qu�n đội Hoa Kỳ r�t khỏi Bắc H�n (1950), xứ Truyền gi�o bị t�n ph� khắp nơi v� c�c thừa sai bị giết hoặc bị trục xuất hết. Số gi�o d�n c�n v�o khoảng 60.000 (0,6%) sống ho�n to�n c� lập. Trong v�ng Tự do, tức Nam H�n cũng gọi l� Đại H�n, Gi�o hội được t�i thiết dần. Trước th�i độ cởi mở của d�n ch�ng v� cảm t�nh của ch�nh quyền, Gi�o hội nhận thấy cần phải c� một chương tr�nh gi�o dục ho�n bị v� cao cấp. Hiện nay c�c thừa sai đang x�c tiến c�ng việc n�y. Năm 1955 số gi�o d�n l� 21.000, năm 1962 l�n 530.000 chia th�nh 10 gi�o phận. Cũng năm 1962 h�ng Gi�o phẩm được thiết lập, với vị gi�m mục ti�n khởi từ năm 1944. Năm 1970, Nam H�n c� 766.987 người C�ng gi�o (2,5%) dưới sự l�nh đạo của một h�ng Gi�o phẩm gồm 1 hồng y, 14 tổng gi�m mục v� gi�m mục.

Ở Phi ch�u, c�ng cuộc truyền gi�o đạt được những kết quả khả quan hơn cả. Năm 1970, người C�ng gi�o Phi ch�u l� 31.782.000 so với tổng số 328.134.000 d�n, tức 9,8%. Gi�o d�n phần nhiều ớ miền Trung Phi (27%), rồi đến Đ�ng Phi (18,5%). Miền Đ�ng Bắc Phi v� nằm trong v�ng ảnh hưởng của Hồi gi�o n�n tỷ lệ rất thấp (2,4%). Negeria, Ethiopia, Ai Cập l� những nước c� �t người C�ng gi�o nhất (dưới 1%); ngược lại nhiều nước như Burundi. Basutoland. Gabon, Angola, Congo, c� một tỷ lệ từ 40% đến 54%; những nước nhỏ b� như Sceychelles, R�union, Guinea (T�y Ban Nha), tỷ lệ tr�n dưới 90%.

Trong thời đệ nhất thế chiến, tại hai miền Trung Nam Phi ch�u nhiều cơ sở truyền gi�o bị ph� hủy, nhiều thừa sai phải ra đi. Tai hại hơn l� ranh giới c�c xứ Truyền gi�o thay đổi theo ảnh hưởng của c�c cường quốc, chỉ để � đến việc khai th�c. Văn minh �u ch�u dần bị lột mất tinh thần Kit� gi�o, sự qu� quan t�m đến một thời đại kỹ nghệ khoa học, đ� ph� vỡ những cơ cấu tổ chức bộ lạc của d�n Phi ch�u, khiến sứ mạng truyền gi�o kh�ng kịp c� một thể chế kh�c đến thay thế. C�c đ� thị đều c� giai cấp v� sản sẵn s�ng đi theo chủ nghĩa X� hội qu� kh�ch, kể cả ở những miền Gi�o hội C�ng gi�o c� nhiều ảnh hưởng nhất. Sau đệ nhị thế chiến, tinh thần quốc gia Phi ch�u v�ng dậy, đi l�n với những vụ khủng bố, �m s�t, nhằm cứu v�n văn h�a phong tục của bộ lạc, như đảng �Mau Mau� ở Kenya (1952-55). Ng�y nay hầu hết c�c nước đ� đ� gi�nh được độc lập.

Trong khi đ�, ở Nam Phi người da trắng lại c� ch�nh s�ch kỳ thị, bất chấp sự thắng số của d�n da đen. C�c gi�m mục C�ng gi�o đ� l�n tiếng phản đối, nhưng v� hiệu. Tại cộng h�a Nam Phi v� Congo L�o, đ� xảy ra những cuộc tranh chấp chung quanh vấn đề trường C�ng gi�o m� ch�nh quyền đ�i tục h�a. Tuy nhi�n, con số người theo đạo ở c�c nơi l�n kh� cao. Năm 1954 Burundi c� 1.000.000, Congo L�o 4.600.000, Ouganda 1.700.000 gi�o d�n; năm 1962 l�n 1.300.000 (tỷ lệ 54%), 5.122.000 (36%) v� 1.800.000 (26%); năm 1970 l�n 1.872.000 (55%), 7.687.600 (40%) v� 2.885.300 (35%). Ng�y nay c�c nh� truyền gi�o gi�o hoạt động tại c�c học đường: ba viện đại học C�ng gi�o đ� thiết lập: Kinshasa, Congo (1957); Asmara, Ethiopia (1960); Tananarive, Malgache (1961). Sự thiếu linh mục được coi l� một khủng hoảng đ�ng lo ngại. Ở Mozambic v� Angola thuộc Bồ Đ�o Nha, nhờ c� sự tiếp tay của ch�nh quyền từ khi c� thỏa hiệp giữa T�a th�nh v� Bồ Đ�o Nha về c�c xứ Truyền gi�o (1940), c�ng cuộc được dễ d�ng v� tiến triển khả quan, năm 1970 Angola c� 2.309.133 gi�o d�n (45%), Mozambic 1.267.108 (17%). Hiện nay, hầu hết c�c Gi�o hội Phi ch�u đều c� h�ng Gi�o phẩm ri�ng, gồm 1 thượng phụ gi�o chủ, 7 hồng y (đức cha Ragambwa người Tanganyika, hồng y ti�n khởi năm 1960), 310 tổng gi�m mục v� gi�m mục.


4. Những Gi�o hội trưởng th�nh ở Mỹ ch�u v� Hải Dương ch�u
[47]

Gi�o hội ở Bắc Mỹ trở n�n thịnh vượng kh�ng kh�c g� ở �u ch�u, khiến c�c địa phận từ năm 1908 đ� được đặt ra ngo�i th�nh Bộ Truyền gi�o, để trực thuộc T�a th�nh.

Canada đầu thế kỷ XX c� 8 gi�o tỉnh v� 20 gi�o phận, với con số gi�o d�n 2.250.000, đa số gốc Ph�p. Năm 1970 con số l�n 8.759.625 tr�n tổng số 19.613.000 d�n (46%), dưới quyền cai quản của 3 hồng y, 81 tổng gi�m mục v� gi�m mục. Cũng như ở Hoa Kỳ, đời s�ng t�n gi�o t�ch cực hoạt động v� số d�ng tu rất đ�ng kể; ch�nh s�ch t�ch biệt đạo đời được triệt để thi h�nh. Năm 1851, c�ng đồng miền thứ nhất họp tại Qu�bec v� năm 1909 c�ng đồng to�n quốc thứ nhất cũng tại đ�. Viện đại học Laval Qu�bec (1852), Ottawa (1866), Montreal (1876) v� Sherbrooke (1957) l� những đại học do h�ng Gi�o phẩm C�ng gi�o điều khiển... T�a Kh�m sứ thiết lập năm 1898, đ� được n�ng l�n h�ng Sứ thần.

Năm 1850, Gi�o hội Hoa Kỳ chỉ c� 6 gi�o tỉnh v� 27 gi�o phận; năm 1900, 14 v� 69; năm 1957 l�n 26 v� 113. Năm 1962, số người C�ng gi�o Hoa Kỳ l� 43 triệu (23%) dưới sự l�nh đạo của 5 hồng y, 241 tổng gi�m mục v� gi�m mục; năm 1970, l�n 47.873.000 gi�o d�n (23,5%), 10 hồng y, 275 tổng gi�m mục v� gi�m mục. Gi�m mục th�nh Baltimore, gi�o phận cổ k�nh nhất, năm 1858 nhận tước hiệu Gi�o chủ Bắc Mỹ. Đức cha J. Mc Closkey, tổng gi�m mục New York được phong hồng y ti�n khởi (1875). Năm 1892, đức Le� XIII thiết lập tại Washington một t�a Kh�m sứ, cho tới ng�y nay vẫn chưa được n�ng l�n h�ng Sứ thần, v� Hiến ph�p Hoa Kỳ kh�ng muốn như vậy. Học viện Georgetown (1791) đ� l�n bậc Đại học từ năm 1833. Năm 1889, một viện đại học C�ng gi�o kh�c (Catholic University of America) được thiết lập ở Washington; năm 1956, đại học Niagara Falls, v� năm sau th�m đại học De Paul ở Chicago.

Tại Baltimore, nhiều C�ng đồng Gi�m mục Mỹ ch�u được triệu tập v�o những năm 1852, 1866 v� 1884, rất quan trọng trong việc kiện to�n c�c cơ cấu Gi�o hội, x�y cất học đường, tổ chức mục vụ thiện bản v� hội đo�n. Đại hội nghị Th�nh Thể quốc tế tại Chicago năm 1926 thu h�t tr�n 1 triệu người, biểu dương đức tin sống động của Gi�o hội C�ng gi�o Mỹ ch�u. Số người Tin l�nh trở lại C�ng gi�o mỗi năm v�o khoảng từ 90.000 đến 100.000 (năm 1955: 139.000). Tuy c� những kết quả tốt đẹp như thế, Gi�o hội Hoa Kỳ vẫn c�n nhiều c�ng việc phải l�m v� rất nhiều kh� khăn phải khắc phục.

Phần đ�ng c�c Quốc gia Mỹ ch�u Latinh, tức Trung v� Nam Mỹ, l�m v�o những biến cuộc ch�nh trị hầu suốt thế kỷ XIX. Sau cuộc tranh thủ độc lập k�o d�i từ năm 1810 đến 1824, c�c thuộc địa cũ của T�y Ban Nha v� Bồ Đ�o Nha trở th�nh những Quốc gia độc lập. C�c Quốc gia n�y gồm một nửa d�n da trắng hoặc lai nắm mọi quyền lực trong tay, v� một nửa thổ d�n da mầu; đa số theo đạo C�ng gi�o, v� hầu như nước n�o cũng c� một đại học C�ng gi�o ri�ng. Từ năm 1853 đến 1862, đức Th�nh Cha Pi� IX đ� lần lượt k� với hầu hết c�c Quốc gia n�y những Thỏa hiệp, trong đ� đạo C�ng gi�o được nh�n nhận l� quốc gi�o. Nhưng những Thỏa hiệp ấy thường bị vi phạm v�, trong �t nhiều xứ, ch�nh quyền ban h�nh nhiều đạo luật bất lợi cho Gi�o hội.

Ecuador tổng thống Garc�a Moreno, một người C�ng gi�o tốt, c� c�ng phục hưng xứ sở (1861-75), năm 1863 đ� k� một Thỏa hiệp với Roma v� k�u mời c�c d�ng tu đến cộng t�c. �ng bị �m s�t năm 1875 v� đức tổng gi�m mục th�nh Quito bị đầu độc ng�y thứ s�u Tuần th�nh 1877. Phe cấp tiến l�n cầm quyền từ đấy. Dưới thời tổng thống Alfar� (1895-1901), c�c d�ng tu bị lục so�t, t�i sản Gi�o hội bị tịch th�u, c�c gi�m mục, linh mục phải lưu đ�y. Đạo luật 1904 tuy�n bố ch�nh s�ch t�ch biệt đạo đời, nhưng kh�ng bao giờ được thi h�nh nghi�m chỉnh. Năm 1906, Hiến ph�p mới được c�ng bố, nh�n nhận quyền tự do t�n ngưỡng. Nhiều d�ng tu trở lại hoạt động, đặc biệt tại những khu vực truyền gi�o cho thổ d�n. Năm 1927, c�c linh mục ngoại quốc bị cấm hoạt động trong nước Ecuador. Tuy nhi�n, năm 1937, một Thỏa hiệp được k� với T�a th�nh đ� d�nh cho c�ng cuộc truyền gi�o nhiều dễ d�ng hơn. Viện đại học C�ng gi�o Quito được thiết lập năm 1954. Năm 1970, tỷ lệ người C�ng gi�o Ecuador l� 94%, với con số 5.016.6621 h�ng Gi�o phẩm gồm 1 hồng y, 21 tổng gi�m mục v� gi�m mục.

Guatemala năm 1871, hội Tam điểm tung ra �Mặt trận Văn h�a� (Kulturkampf), hoạt động r�o riết v� trở n�n nguy hiểm từ năm 1922 dưới thời tổng thống Orellana. C�c gi�o sĩ v� tu sĩ ngoại quốc đều bị trục xuất, c�c học đường C�ng gi�o đ�ng cửa v� đức tổng gi�m mục phải đi đ�y. Năm 1926, cuộc phản c�ng của C�ng gi�o c� kết quả. Hai năm sau, một Thỏa hiệp giữa Guatemala v� T�a th�nh đ� đem lại h�a b�nh cho Quốc gia. Tuy nhi�n, m�i đến năm 1954 một cuộc C�ch mạng v�ng dậy mới bảo đảm chắc chắn cho quyền tự do của Gi�o hội. Năm 1970, Guatemala c� 4.137.516 d�n C�ng gi�o (89%), 1 hồng y, 12 tổng gi�m mục v� gi�m mục.

Mehico v� Braxin l� hai nước lớn nhất của Mỹ ch�u Latinh, v� đ�ng ch� � hơn cả. Mehico thời tổng thống Ju�rez (1861-72) đ� mở đầu một giai đoạn th� nghịch Gi�o hội: c�c th�nh đường bị cướp ph�, t�i sản Gi�o hội bị tịch th�u, c�c gi�m mục phải lưu đ�y, y phục gi�o sĩ bị cấm. Đế quốc do Napol�on III thiết lập cho Maximilian th�n vương nước �o (1864-67), sụp đổ. Năm 1874, ch�nh s�ch t�ch biệt đạo đời được �p dụng một c�ch t�n nhẫn. Gi�o l� bị cấm dạy trong c�c trường c�ng. Thời độc t�i của tổng thống Porfirio D�az (1877-81 v� 1884-1911), t�nh h�nh Mehico được cải thiện v� số phận Gi�o hội s�ng sủa hơn, mặc dầu c�c đạo luật chống t�n gi�o chưa b�i bỏ. Nhưng cuộc đảo ch�nh 1911 của Madero lật đổ D�az th�nh c�ng, Mehico lại rơi v�o cảnh biến loạn, th�m v�o đấy cuộc b�ch hại đạo của Ch�nh phủ Carranza (1915-20). Hiến ph�p 1917, tuy chủ trương b�nh đẳng, nhưng vẫn đặt Gi�o hội v�o một t�nh trạng c� thể bị ti�u diệt.

Tổng thống Calles (1924-28) l� người của Tam điểm, �ng cho thực hiện ch�nh s�ch b�i t�n gi�o một c�ch gắt gao nhất. Nhiều th�nh đường, trường học, tu viện, chủng viện bị đ�ng cửa. nhiều gi�m mục bị trục xuất. Khoảng 5.300 người bị giết v� đạo: gi�m mục, linh mục, tu sĩ v� gi�o d�n. [48] Th�ng 6 năm 1929, một Thỏa hiệp được k� kết chấm dứt cuộc b�ch hại. Nhưng cuối năm 1931, cuộc b�ch hại trở lại, nhằm x�ch h�a v� v� thần h�a nền gi�o dục thanh thiếu ni�n. Đức Th�nh Cha Pi� XI phải l�n tiếng qua hai Th�ng điệp 1932 v� 1937, đồng thời k�u gọi người C�ng gi�o giữ th�i độ �n h�a. M�i đến thời tổng thống Camacho (1940-46) Gi�o hội mới dần dần lấy lại tự do. Nếu c� nhiều người Mehic� đ� trở th�nh xa lạ với Gi�o hội, th� ngược lại c� nhiều người C�ng gi�o rất sốt sắng v� đạo đức. Năm 1970, số người mang t�n C�ng gi�o l� 39.542.439 (82%) với 2 hồng y, 62 tổng gi�m mục v� gi�m mục.

Braxin tuy nh�n nhận đạo C�ng gi�o l� quốc gi�o, nhưng Ch�nh phủ Tam điểm từ năm 1873 đến 1875 đ� ban h�nh những đạo luật b�i x�ch t�n gi�o v� bắt bớ h�ng Gi�o phẩm. Khi ho�ng đế Don Pedro II (1840-89) bị qu�n đội lật đổ, th� một ch�nh thể Cộng h�a được thiết lập. Hiến ph�p năm 1890 tuy�n bố ch�nh s�ch t�ch biệt đạo đời. Tuy Gi�o hội từ đấy được tự do, nhưng t�nh thế kh�ng c�n thuận lợi như trước. Nhờ c� sự tiếp tay của nhiều d�ng tu từ �u ch�u sang, đời sống t�n gi�o được duy tr� v� tiến triển: năm 1850 chỉ c� 1 gi�o tỉnh v� 9 địa phận; năm 1957, 20 gi�o tỉnh v� tr�n 100 địa phận. Bốn viện đại học C�ng gi�o đ� lần lượt được thiết lập: Rio de Janeiro (20.1.1947), S�o Paulo (25.1.1947), Porto Alegre (1950) v� Campinas (1956); ngo�i ra tại Roma học viện Braxin cũng được th�nh lập từ năm 1929. Năm 1970 li�n bang cộng h�a Braxin c� tr�n 200 địa phận, với con số người C�ng gi�o l� 78.283.489 (88%) dưới sự điều khiển của 5 hồng y, 217 tổng gi�m mục v� gi�m mục. Ngo�i ra c�n c� nhiều khu vực truyền gi�o cho thổ d�n, v� những di d�n đến lập nghiệp ở miền Nam, đa số l� người Đức v� Nhật.

Tại c�c nước kh�c thuộc Mỹ ch�u La tinh, t�nh trạng Gi�o hội khả quan hơn, sau khi đức Th�nh Cha Le� XIII đặt t�a Sứ thần tại hầu hết c�c Quốc gia n�y, v� nhờ ở những hoạt động hăng h�i của h�ng linh mục v� nhiều d�ng tu từ �u ch�u sang, rồi đến việc th�nh lập những địa phận mới, học đường v� hội đo�n. C�ng đồng c�c gi�m mục Mỹ ch�u La tinh được đức Th�nh Cha Le� XIII triệu tập tại Roma năm 1899, đ� c� những quyết định quan trọng v� hữu hiệu trong việc bảo vệ v� chấn hưng đời sống đạo đức cũng như tinh thần của h�ng gi�o sĩ. Một học viện Nam Mỹ th�nh lập ở Roma từ năm 1858. Hội nghị Th�nh Thể quốc tế năm 1934 ở Buenos Aires, năm 1955 ở Rio de Janeiro, v� gần đ�y ở Bogot� (1968) l� những cuộc biểu dương đức tin vĩ đại, hun n�ng l�ng đạo của d�n ch�ng, khiến chủ nghĩa b�i t�n gi�o giảm đi phần n�o.[49]

Năm 1970, Mỹ ch�u La tinh c� tr�n 600 địa phận với con số C�ng gi�o hơn 200 triệu (90%) người, sống chung với khoảng 9 triệu Tin l�nh v� tr�n 10 triệu theo Thần gi�o. Từ năm 1916, Gi�o hội Tin l�nh với sự gi�p đỡ của Ch�nh phủ Hoa Kỳ hoạt động mạnh mẽ v� th�u đạt kh� nhiều kết quả, trong khi đạo C�ng gi�o với con số khổng lồ m� h�ng gi�o sĩ lại qu� �t: 636 gi�m mục v� kh�ng đầy 40.000 linh mục, s�nh với 25 hội Truyền gi�o Tin l�nh Hoa Kỳ gồm 20.000 mục sư thừa sai.

C�ng cuộc truyền gi�o ở Hải Dương ch�u cũng đ� thu được những kết qu� khả quan. Năm 1957, số gi�o d�n l� 2.773.000 tr�n tổng số 14.650.000 (19%); năm 1962 l�n 3.665.000 s�nh với tổng số 17.220.000 d�n (21%). Năm 1970, con số ấy l� 3.904.000 tr�n tổng số 19.127.000 d�n (21%) với 2 hồng y, 63 tổng gi�m mục v� gi�m mục, nhưng phần đ�ng vẫn l� người da trắng v� lai. C� những nước đạt được một tỷ lệ rất cao, như T�n Caledonia (62%), Micronesia (44%), Polynesia thuộc Ph�p (38%). Gi�o hội T�n T�y Lan c� tỷ lệ k�m hơn cả (17%): 369.100 gi�o d�n tr�n tổng số 2.677.000; tuy nhi�n, h�ng Gi�o phẩm đ� được thiết lập ở đ�y, gồm 1 hồng y v� 4 gi�m mục (năm 1970). Quan trọng nhất l� Gi�o hội �c Đại Lợi. [50] Cho tới năm 1800 �c h�y c�n l� nơi lưu đ�y c�c tội nh�n, ch�nh quyền Anh chỉ cho c�c thừa sai C�ng gi�o đến hoạt động từ năm 1820. Cũng từ đấy, Gi�o hội tiến triển mau ch�ng. Năm 1820 chỉ c� 2.000 người C�ng gi�o, năm 1935 con số l�n 2 triệu, hầu hết l� người da trắng di cư v� con ch�u của họ (gốc �i Nhĩ Lan đ�ng nhất). Thổ d�n theo đạo rất �t, v� họ sống nay đ�y mai đ� v� trốn tr�nh tr�n rừng n�i, �c Đại Lợi theo ch�nh thể t�ch biệt đạo đời, người C�ng gi�o phải tự t�c duy tr� lấy t�n gi�o cũng như nền gi�o dục cho con em m�nh. Tuy nhi�n, họ cũng chiếm những địa vị quan trọng đời sống quốc gia. Học đường v� hội đo�n C�ng gi�o đều hoạt động tốt đẹp. Từ năm 1885, nhiều c�ng đồng to�n quốc được triệu tập ở Sydney. Đức cha P. Moran (+1911), Tổng gi�m mục Sydney, được đặt l�m hồng y ti�n khởi (1885), Sydney c�n l� nơi tổ chức đại hội Th�nh Thể quốc tế năm 1928. Năm 1970 Gi�o hội �c c� 2.800.000 gi�o d�n (23%), dưới sự cai quản của 1 hồng y, 35 tổng gi�m mục v� gi�m mục.

Năm 1972 l� năm kỷ niệm: Ba trăm Năm mươi Năm th�nh lập th�nh Bộ Truyền b� Ph�c �m, Một trăm Năm mươi Năm th�nh lập hội Truyền b� Đức tin, Năm mươi Năm th�nh lập hiệp hội Gi�o ho�ng Truyền gi�o. Trong một cuộc họp b�o ng�y 23.3.1972, đức hồng y Agnelo Rossi, tổng trưởng của th�nh Bộ, cho biết con số người C�ng gi�o trong c�c xứ truyền gi�o từ năm 1949 đến 1969, đ� tăng từ 6 triệu l�n tr�n 14 triệu ở � ch�u (kh�ng kể Trung Hoa lục địa, Bắc H�n v� Bắc Việt), v� từ 11 triệu l�n hơn 32 triệu ở Phi ch�u. Cũng trong 20 năm đ�, số linh mục ở � ch�u từ 6.900 l�n 15.300 (m� 9.800 l� người địa phương), v� ở Phi ch�u 7.500 l�n 15.000 (m� 3.600 l� người địa phương). Th�nh Bộ Truyền b� Ph�c �m hoạt động tr�n 840 địa phận thuộc 103 Quốc gia, rải rắc khắp 5 Ch�u, gồm 57.350.000 t�n hữu, 38.611 linh mục, 15.000 tu sĩ, 85.000 nữ tu v� chừng 250.000 th�y giảng.[51]

 

[1] Gi�o ho�ng Học viện Truyền gi�o (Ath�n�e Pontifical �de Propaganda Fide�) th�nh lặp năm 1627 do đức Urban VIII, với hai ph�n khoa thần học v� triết học; năm 1933, th�m ph�n khoa truyền gi�o (trong đ� c� gi�o luật). Năm 1962, do Tự sắc Fedei Propagandae ng�y 1 th�nh 10, đức Gioan XXIII n�ng học viện l�n bậc Đại học (Universit� Pontificale de la Propagande) .

[2] S�ch tham khảo: C. Goyau: Missions et Missionnaires, Paris 1931 - A. Olichon: Les Missions. histoire de l'exParision du Catholicisme dans le monde, Paris 1936 - P. Lesourd: Histoire des Missions Catholiques, Paris 1937 - A. Boucher L'action missionnaire de la Papaut� de Pie IX � Pie XI, trong  Tu es Petrus, Paris 1934, tr 829-872 - Y. Congar La Catholicit� en marchem, r�alisations et espoirs de l��glise, trong  Histoire illustr�e de l��glise (G. de Plinval - R. Pittet), Paris 1946-48, Q.II, tr 327-392.

[3] A. Olichon: op. cit., tr 322.

[4] G. Goyau: Les grands desseins missionnaires d�Henri de Solages 1786-1832, Paris 1933, Ch. I.

[5] Xem Sainte Marie-Perrin: Pauline Jaricot, Paris 1925.

[6] Mgr d'Hulst Vie de Just de Breteni�res, missionnaire apostolique, martyris� en Cor�e en 1866, Paris 1888.

[7] Nhiều �Hội Truyền b� Đức Tin� kh�c được th�nh lập, như Association L�opoldine ở �o (1829) c� mục đ�ch truyền gi�o tại Bắc Mỹ; Association St-Fran�ois Xavier ở Đức (1834) Pieuse Soci�t� des Missions do th�nh Vinhsơn Palloti ở � (1835). Xem Guide des Missions Catholiques. Q. I. Paris 1937, tr 98-104.

[8] Danh s�ch c�c D�ng n�y, trong A. Olichon: op. cit., tr 338 - Xem Goyau: La vocation misionnaire de la femme, Paris 1924.

[9] G. Goyau: Le premier demi si�cle d'apostolat des Picpuciens aux les Gambier, Paris 1928.

[10] Mouly: L�mouvante prouesse. Le P. Damien. son apostolat, son aur�ole, sa survie, Paris 1934. Cha Damien đ� được đức Gioan-Phaol� ghi t�n v�o sổ bộ c�c Ch�n phước.

[11] M. Czerminski: Un volontaire de la l�pre. Le P. Beyzim 1850-1912, Toulouse 1931.

[12] Guide des missions Catholiques, 1937, Q. I, tr 191 v� tiếp

[13] P. Jonquet Vie de Mgr Grandin, Montr�al 1903 - Duchaussois: Aux glaces polaires, Paris 1926; Ap�tres inconnus, Paris 1924.

[14] Xem Brou. L�expansion missionnaire en Afrique depuis cent ans, trong Revue d'histoire des Missions, 1937, tr 108-128 - P. Lesourd: op. cit., tr 278 v� tiếp.

[15] Từ năm 1888 đến 1908, trong số 100 cha d�ng Scheut được cử đến Congo L�o (Bỉ), 38 cha chết, phần nhiều dưới 30 tuổi.

[16] Xem Vie abr�g�e du noble pr�lat Mgr de Marion, comte de Br�zillac, ev�que de Pruse, fondateur des Missions africaines de Lyon. 1813-59, Lyon 1927.

[17] L. Baunard: Le Cardinal Lavigerie; Paris 1896 - Một cha d�ng Trắng Les id�es principales du Cardinal Lavigerie, trong Revue d�histoire des Missions, 1925, tr 351-396.

[18] Gi�o phận Congo L�o được trao cho c�c cha d�ng Scheut năm 1888; từ năm 1893 v� nhất l� từ 1910, xứ Truyền gi�o trở n�n sầm uất, hầu hết c�c tu hội nam cũng như nữ gốc Bỉ đều c� mặt ở đ�y. Xem E. de Moreau: Les Missionnaires Belges de 1804-1930, ch. V: Les Missions du Congo Belge, trong Un si�cle de l��glise Cath. en Belgique. Q. I, tr 396-467.

[19] T�ng thư In plurimis 5.5.1888 gởi h�ng Gi�m mục Braxin - Văn thư 17.10.1888 gởi đức hồng y Lavigerie v� đặt ng�i l�m Đặc sứ T�a th�nh trong việc chống chế độ n� lệ - T�ng thư Catholicae Ecclesiae 20.11.1890 gởi h�ng Gi�m mục to�n cầu, d�nh ng�y 6 th�nh 1 mỗi năm l�m ng�y quy�n tiền cho c�ng cuộc chống chế độ n� lệ.

[20] Delplace: Le Catholiscisme au Japon. Bruxelles 1909- Papinot: �La r�surrection du Catholicisme au XIXe si�cle, trong Revue d�Hist. des Missions, 1928, tr 1-22

[21] Mgr Mamas: La religion de ]�sus ressucit�e au Japon, Paris 1897. Q. I, tr 487.

[22] Xem M. Huc: Le Christianisme en Chine, en Tartarie et au Thibet, Q. IV, Paris 1858 - B. Wolf�erstan: The Catholic Church in China, from 1860 to 1907, London 1909.

[23] Xem A. Launay: Histoire des Missions de l�Inde, Paris 1898. Charles: Dossiers de l'action missionnaire, 89 v� 97.

[24] Xem Les Missions Catholiques en Indochine, 1939, Hongkong 1940.

[25] Ở Xi�m La c� cuộc b�ch hại đạo năm 1854. Từ thế kỷ XX, Xi�m mang quốc hiệu l� Th�i Lan, lấy Bangkok l�m kinh đ�.

[26] Xem L. E. Louvet Les Missions Catholiques au XIXe si�cle, Lyon-Lille-Paris 1898, Ch. XIV-XVII.

[27] Xem J. Creusen: Le probl�me noir aux �tats Unis, Louvain 1930.

[28] Con số tr�ch trong Linh mục Nguyệt San, S�i G�n 1970, số 101, tr 320.

[29] Bị �m s�t năm 1875, trước khi tắt thở �ng k�u: �Thi�n Ch�a kh�ng chết�: Xem tr 338.

[30] G. Goyau: Missions et Missionnaires, tr 90 v� tiếp.

[31] G. Goyau: op. cit., tr 72.

[32] F. Rousseau: L'id�e missionnaire aux le et XVIIe si�cles. Les doctrines, les m�thodes, les conceptions d� organisation, Paris 1930, Ch. IV. Về h�ng gi�o sĩ địa phương : những b�i đăng trong Revue d�histoire des Missions, 1926 v� tiếp.

[33] Huấn dụ của th�nh Bộ Truyền gi�o De Clero indigeno 23.11.1845. Collect. S. C. de Prop. Fide. 1893, tr 85.

[34] Hiền đệ h�y nhớ rằng việc ch�nh yếu của hiền đệ l� đ�o tạo h�ng gi�o sĩ bản quốc bởi v� chỉ v�i năm nữa sẽ kh�ng c�n c� thừa sai người �u ở � Ch�u nữa�. Lời đức Th�nh Cha Pi� XI n�i với đức cha Hedde Minh O. P., bề tr�n phủ do�n Lạng Sơn, nh�n dịp đức cha đến b�i yết năm 1935. Xem A. Haag: La vie de Mgr Hedde (viết tay), tr 55. Lời n�i của đức Th�nh Cha bấy giờ coi như bi quan, nhưng chỉ mấy năm sau người ta chứng kiến sự thật.

[35]  Ng�y 1.5.1941, h�ng Gi�m mục người địa phương như �sau.

Nhật Bản v� Cao Ly: 1 tổng gi�m mục v� 2 gi�m mục (1 từ nhiệm): 1 phủ do�n T�ng t�a, 16 địa phận ở Nhật Bản v� 6 địa phận ở Cao Ly do h�ng gi�o sĩ Nhật điều khiển, �p dụng luật Nhật Bản.

Trung Hoa: 17 địa phận do 17 Gi�m mục Trung Hoa cai quản; ngo�i ra c�n c� 9 bề tr�n phủ do�n T�ng t�a người Hoa.

Việt Nam: 4 gi�m mục người Việt cai quản 3 địa phận

Phi ch�u: 2 gi�m mục da den (1 ở Ouganda, 1 ở Madagascar); 1 gi�m mục Copto ở Asmara (Ethiopia) ; 1 bề tr�n phủ do�n T�ng t�a ở S�n�gal.

Tổng cộng: 37 Gi�m mục �bản quốc� trong c�c xứ Truyền gi�o trực thuộc th�nh Bộ Truyền gi�o; 48 tr�n 520 gi�o phận trao hẳn cho h�ng gi�o sĩ �bản quốc�.

[36] Con số ch�nh thức cũng như địa điểm của c�c chủng viện n�y (1935), trong Guide des Missions Catholiques, Q. III, 1936, tr 31-34.

[37] Mgr Olichon: Les origines francaises de l'Oeuvre pontificale de St-Pierre Ap�tre. Paris 1929 - G. Goyau. Missions et Missionnaires, tr 147 v� tiếp.

[38] Le Missoni Cattoliche dipendenti della S. Congr. de Prop. Roma. 1946, tr 555.

[39] Đại học �Aurore� ở Zikawei (gần Thượng Hải), đại học Fu Jen ở Bắc Kinh, đại học Sophia ở Đ�ng Kinh, trường cao đẳng Phanxic� Xavi� ở Bombay, trường cao đẳng Trichinopoli (Madras), v.v

[40] Act. Ap. Sedis, 1936, tr 406.

[41] Act. Ap. Sedis, 1940, tr 24. Xem chương Ba, III, 3. Trong dịp Minh ni�n 1971, tại hội trường viện đại học C�ng gi�o Fu Jen (Đ�i Bắc), trước sự hiện diện của h�ng ng�n người C�ng gi�o v� kh�ng C�ng gi�o, đức hồng y Vũ B�n, tổng gi�m mục Nam Kinh lưu vong, trong bộ lễ phục Trung Hoa, đ� đứng trước b�n thờ c� thắp nến v� hương kh�i nghi ng�t, d�ng tr�i c�y, b�nh rượu khi cử h�nh lễ tế Ngọc Ho�ng Thượng Đế v� đức Khổng tử. Xem Linh mục Nguyệt San, S�i G�n 1971, số 114, tr 341-342. Th�nh Bộ Phục vụ năm 1971 đ� chấp thuận cho h�ng Gi�m mục Cam Bốt v� Ai Lao được t�y nghi dời 2 ng�y lễ chư Th�nh v� c�c đảng v�o dịp phật tử hai nước n�y cử h�nh lễ Cầu si�u �Pachum Ben� (Vu Lan ở Việt Nam) v�o hạ huyền th�ng 9 �m lịch. Xem Đức mẹ Hằng Cứu Gi�p, S�i G�n 1971.

[42] Act. Ap. Sedis, 1940, tr 379. Th�nh Bộ Phận Phụng vụ năm 1971 cũng đ� chấp nhận quyết nghị của hội đồng Gi�m mục Ấn Độ, l� t�i lập c�c lễ nghi c� cử chỉ theo phong tục địa phương như thay thế b�i gối bằng chắp tay c�i đầu (angali hasta), d�ng đ�n dầu thay đ�n cầy, ngồi b�n tọa tr�n nền cung th�nh trong giờ cử h�nh lễ nghi phục vụ. Xem Linh mục Nguyệt san. S�i G�n 1971, số 114, tr 342.

[43] Những con số thuộc năm 1970 được tr�ch trong 1971 Catholic Almanac.

[44] Missi 1961, tr 139 v� 6, tr 192-193.

[45] Ch�ng t�i d�nh cả Chương liền sau cho Gi�o hội n�y.

[46] Missi 1971, 6, tr 213; 1972, 1, tr 29. Xem R. J. de Jaegher - J. Corbally: Kẻ nội th� (The Enemy within) (bản dịch của Văn Tự) , S�i G�n 1957 - Đức Mẹ H.C.G. S�i G�n 1971 số 22, tr 31.

[47] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., Q. IV, trang 196-201, 275-276

[48] Xem Th�ng điệp Iniquis afflictique 18.11.1926 của đức Pi� XI.

[49] C. Bihlmeyer - H. Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 199-200. Từ năm 1961, Gi�o hội lại bắt đầu gặp những kh� khăn đến b�ch hại bởi những Ch�nh phủ thi�n Cộng sản: Cuba, Chil�...

[50] C. Bihlmeyer � H. Tuchle: op. cit., Q. IV, tr 207-208

[51] Xem Linh mục Nguyệt San, S�i G�n 1972, số 124, tr 242-244, v� số 126 tr 411 - Đức mẹ Hằng Cứu Gi�p, S�i G�n 1972, số 36, tr 3-4.