HOME

 
 

Phần Nh� :
CẬN KIM V� ĐƯƠNG KIM THỜI ĐẠI

Chương T�m

C�NG CUỘC TRUYỀN GI�O TẠI VIỆT NAM

(t.k. XVI-XX)
 

I. Gi�o hội ở Việt Nam thời mở đường v� đặt nền m�ng                              

1. Những bước đầu của c�ng cuộc truyền gi�o tại Bắc H� (1533-1599)

2. Những nh� truyền gi�o d�ng Đaminh tại Nam H� v� Ch�n Lạp (1550-1631)

3. C�ng cuộc truyền gi�o của c�c gi�o sĩ d�ng T�n tại Nam H� (1613-39)

4. C�ng cuộc truyền gi�o của c�c cha d�ng T�n tại Bắc H� (1626-63):
cha Alexanđre de Rhodes, tức Đắc Lộ (1627-40)

5. Cha Đắc Lộ trở lại xứ Nam (1640-45, +1660)

II. Gi�o hội ớ Việt Nam thời x�y dựng v� tổ chức        

1. C�ng cuộc truyền gi�o của hội thừa sai Paris ở Bắc v� Nam H� (1658-1776)

2. C�ng cuộc truyền gi�o của c�c cha d�ng Đaminh ở Bắc H� (1676-1776)

3. Gi�o hội Việt Nam thời T�y Sơn (1777-1802)

4. Đức cha B� Đa Lộc với Nguyễn �nh Gia Long

III. Gi�o hội ở Việt Nam vươn l�n trong thử th�ch      

1. Cuộc b�ch hại của vua Minh Mạng (1820-41)

2. Cuộc b�ch hại của vua Tự Đức (1848-83) v� đảng Văn Th�n (1885-1886)

IV. Gi�o hội ở Việt Nam thế kỷ XX                         

1. C�ng cuộc kiến thiết trong c�c địa phận thuộc hội thừa sai Paris (1888-1933)

2. C�ng cuộc kiến thiết trong c�c địa phận thuộc d�ng Đaminh (1888-1933)

3. Gi�o hội ở Việt Nam tiến tới trưởng th�nh : từ khi đức cha Nguyễn B� T�ng được tấn phong gi�m mục đến hiệp định Gen�ve (1933-54)

4. Gi�o hội ở Việt Nam từ hiệp định Gen�ve đến 1974

+ Lịch tr�nh tiến triển địa phận Đ�ng Ngo�i v� địa phận Đ�ng Trong

 

�Ch�ng ta h�y ca ngợi những bậc vĩ nh�n, cũng l� cha �ng của ch�ng ta(Hc XLIV, 1). Lời Th�nh Kinh tr�n đ�y th�c đẩy ch�ng t�i viết th�m chương n�y v�o Lịch sử Gi�o hội: c�ng cuộc truyền gi�o ở Việt Nam c� một lịch sử phong ph� v� oai h�ng bậc nhất, với tr�n 130.000 đấng Tử đạo. Lịch sử n�y sẽ chứng minh Gi�o hội ở Việt Nam l� một Gi�o hội được x�y dựng bằng xương m�u của c�c chiến sĩ đức tin, �những chiến sĩ trung liệt v� can trường kh�ng k�m c�c chiến sĩ ng�y xưa trong thế kỷ khai nguy�n của Gi�o hội�.[1]

Lịch sử Gi�o hội ở Việt Nam chia ra l�m 4 thời kỳ : 1) Thời mở đường v� đặt nền m�ng: c�ng việc mở lối của những nh� truyền gi�o ti�n phong v� những đấng Tử đạo ti�n khởi d�ng Đaminh, d�ng Phansinh, c�ng việc x�y đắp nền m�ng của c�c cha d�ng T�n. Thời n�y bắt đầu từ trước thế kỷ XVI đến giữa XVII. 2) Thời x�y dựng v� tổ chức: c�ng cuộc truyền gi�o của th�nh Bộ Truyền b� Đức tin, qua hội Thừa sai Hải ngoại Paris, d�ng Đaminh, d�ng Phansinh, d�ng T�n, với sự g�p phần của h�ng gi�o sĩ Việt Nam, th�y giảng, nữ tu v� t�ng đồ gi�o d�n. Thời n�y từ giữa thế kỷ XVII sang đầu XIX. 3) Thời vươn l�n trong thử th�ch đau thương: M�u c�c đấng Tử đạo đổ ra chan h�a mặt đất từ c�c tỉnh ph�a bắc đến miền Lục Tỉnh ph�a nam trong thế kỷ XIX. C�ng cuộc truyền gi�o của hội Thừa sai Paris v� d�ng Đaminh, dưới thời b�ch hại đạo của nh� L� v� nh� Nguyễn, từ giữa thế kỷ XVII đến cuối XIX. 4) Thời kiến thiết v� tiến tới trưởng th�nh: Gi�o hội b�nh trướng v� được x�y dựng tổ chức sau thời b�ch hại, để tiến tới việc th�nh lập h�ng Gi�o phẩm (1960), từ cuối thế kỷ XIX đến cuối XX.

�n lại lịch sử, kh�ng phải chỉ để ca tụng hay lấy đ� l�m h�nh diện, m� c�n để th�m can đảm, hy sinh v� bền t�m nối g�t tiền nh�n. Bởi v� đối với ch�ng ta, c�i chết của c�c đấng Tử đạo n�u cao tinh thần đạo đức, ch� hy sinh v� gương anh dũng. C�c ng�i chết, để lu�n sống trong k� ức ch�ng ta. C�c ng�i chết, m� c�ng nghiệp của ng�i vẫn c�n đấy. C�c ng�i chết, m� sinh lực của c�c ng�i vẫn tiềm t�ng phong ph�, l�m cho những hạt giống đ� được gieo v�i ph�t sinh hoa tr�i. [2]


I

GI�O HỘI Ở VIỆT NAM

THỜI MỞ ĐƯỜNG V� ĐẶT NỀN M�NG


1. Những bước đầu của c�ng cuộc truyền gi�o tại Bắc H� (1533-1590)

Năm 1527, Mạc Đăng Dung chiếm ng�i nh� Hậu L�, l�n l�m vua, ni�n hiệu Minh Đức. Mạc Đăng Dung (1527-29) v� con l� Mạc Đăng Doanh (1530-40) tuy vẫn theo đường lối trị nước của nh� L�, nhưng c�c cựu thần kh�ng mấy người chịu phục: người th� lẩn tr�nh tr�n rừng n�i, kẻ th� bỏ trốn ra nước ngo�i, hoặc nổi l�n đ�nh ph�. Trong số cựu thần kh�ng phục nh� Mạc bỏ ra nước ngo�i, c� con Nguyễn Ho�ng Dụ l� Nguyễn Kim sang Ai Lao. Nguyễn Kim chi�u tập tướng sĩ, rồi cho t�m con ch�u nh� L� để mưu việc kh�i phục. Năm 1533, Nguyễn Kim lập người con �t của L� Chi�u T�ng l�m vua, tức Trang T�ng (1533-48). Sau đ�, �ng gặp được mộl vi�n tướng t�i giỏi l� Trịnh Kiểm v� gả con g�i cho, để c�ng nhau lo việc �ph� L� diệt Mạc�.

Năm 1542, Nguyễn Kim đem qu�n đ�nh lấy Thanh H�a, Nghệ An, rồi sau chiếm lu�n T�y Đ�. Từ đ�, nước Đại Việt [3] chia l�m hai : từ Thanh H�a trở v�o thuộc nh� L�, đ�ng đ� ở Vạn Lại (tr�n tả ngạn s�ng Chu), tức Nam Triều; từ Sơn Nam trở ra thuộc nh� Mạc, kinh đ� Thăng Long, tức Bắc Triều. Năm 1545, Nguyễn Kim tiến qu�n ra Bắc, giữa đường bị h�ng tướng nh� Mạc đ�nh thuốc độc chết. Con trai của Nguyễn Kim l� Nguyễn U�ng v� Nguyễn Ho�ng c�n nhỏ tuổi n�n binh quyền được trao cả cho Trịnh Kiểm; �ng n�y cho r�t binh về Thanh H�a. Năm 1548, vua Trang T�ng mất, Trung t�ng l�n thay (1548-56). T�m năm sau, Trung T�ng cũng mất, Trịnh Kiểm lập Anh T�ng l�n ng�i (1556-73). Nam Bắc đ�nh nhau tr�n 10 năm kh�ng ph�n thắng bại.

Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, hai con l� Trịnh Cối v� Trịnh T�ng gi�nh quyền nhau, Trịnh Cối thất thế đầu h�ng nh� Mạc. Trịnh T�ng (1570-1623) từ đấy nắm cả quyền h�nh. Vua L� Anh T�ng bị nghi c� �m mưu trừ Trịnh T�ng, bị Trịnh T�ng s�t hại; L� Thế T�ng được lập l�n thay (1573-99). Trong v�ng 10 năm, Trịnh T�ng giữ thế thủ, Mạc Mậu Hợp (1562-92) đem đại qu�n v�o đ�nh nhưng kh�ng thắng nổi. Năm 1583, Trịnh T�ng xem qu�n lực của m�nh đ� mạnh, đổi thế thủ ra thế c�ng, năm n�o cũng cử binh m� ra đ�nh Mạc. Năm 1592, Trịnh T�ng thống lĩnh 50.000 qu�n Bắc tiến, đại thắng qu�n Mạc, hạ được kinh th�nh, giết Mạc Mậu Hợp: nh� L� trung hưng từ đấy. Con ch�u nh� Mạc chạy l�n Cao Bằng, nhờ thế lực của nh� Minh c�n xưng Vua th�m ba đời, năm 1667 mới mất hẳn.

Thời Trung hưng, c�c vua L� chỉ c� hư vị; họ Trịnh kể từ Trịnh T�ng tự xưng ch�a, cha truyền con nối nắm quyền h�nh ở Bắc H�. [4] Ch�a Trịnh đặt ra phủ li�u v� lục phi�n để thay thế triều đ�nh v� lục bộ, tr�ng coi việc nước. Về kinh tế, ch�a Trịnh cho khai mỏ, đặt quan thuế, mở cảng Phố Hiến[5] cho người ngoại quốc v�o bu�n b�n. Nh� ch�a c�n mở trường v� bị, tổ chức thi v�, sai người viết quốc sử khắc bản in, lập ấn qu�n.

Trong khi đ�, họ Nguyễn bắt đầu từ Nguyễn Ho�ng lập nghiệp ở Nam H�. Ch�a Nguyễn cũng tổ chức h�nh ch�nh, đặt thuế xuất nhập cảng, mở cửa Hải Phố để giao thương với ngoại quốc, đặt lệ thi tuyển để chọn nh�n t�i, mở xưởng đ�c s�ng v� trường tập bắn. Nhưng sự nghiệp lớn nhất của ch�a Nguyễn l� mở mang bờ c�i về phương Nam. Đ� l� t�nh h�nh Việt Nam khi những nh� truyền gi�o ti�n phong thuộc nhiều quốc tịch kh�c nhau, bước l�n giải đất n�y từ tiền b�n thế kỷ XVI. [6]

Ở miền Bắc, trong khu vực nh� L� (Nam Triều) Kh�m định Việt sử cho ghi t�i liệu như sau: �Năm Nguy�n H�a Nguy�n ni�n (1533) đời L� Trang T�ng, c� một dương nh�n t�n l� I-ni-khu đi đường biển l�n v�o giang đạo Gia T� ở l�ng Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Ch�n v� l�ng Tr� Lũ thuộc huyện Giao Thủy�.[7] Đ�y l� vị thừa sai thứ nhất được n�i đến trong lịch sử Việt Nam. Gi�o sĩ I Ni Khu l� người nước n�o v� thuộc d�ng tu n�o ? Kh�ng một sử liệu n�o n�i r�. C� t�c giả cho ng�i l� một linh mục d�ng Đaminh T�y Ban Nha, nhưng cũng c� t�c giả kh�c n�i I-ni-khu thuộc d�ng Phansinh hoặc d�ng T�n quốc tịch Bồ Đ�o Nha.[8]

Nếu I-ni-khu l� linh mục d�ng Đaminh, th� kh�ng thể l� cha Inigo de Santa Maria như sử gia Gispert muốn n�i đến.[9] V� cha Inigo từ Manila sang đất Ch�n Lạp năm 1603, rồi cũng năm ấy cha qua đời tr�n đường trở về Manila, để xin th�m c�n bộ truyền gi�o. Như vậy, nếu cha Inigo cũng c� mặt ở đất Bắc v�o năm 1533, th� khi từ trần, cha phải thọ tới 100 tuổi. Một linh mục đ� gi� gần 100 tuổi thiết tưởng kh�ng bề tr�n n�o sai đi từ Manila sang Ch�n Lạp giảng đạo. Nếu kh�ng phải l� cha Inigo de Santa Maria, th� c� thể l� một trong những thừa sai Đaminh Bồ Đ�o Nha, thuộc tỉnh d�ng Santa Cruz de las Indias Orientales, l� tỉnh d�ng đảm nhận c�ng việc truyền gi�o khắp v�ng Đ�ng Nam � bấy giờ. [10]

Rất c� thể I Ni Khu l� một gi�o sĩ d�ng Phansinh Bồ Đ�o Nha, v� c�c cha d�ng n�y cũng như d�ng Đaminh đ� bắt đầu giảng đạo ở � Đ�ng từ đầu thế kỷ XVI, nhất l� những gi�o sĩ thuộc hai quốc tịch Bồ Đ�o Nha v� T�y Ban Nha. C�n giả thuyết cho rằng I-Ni-khu thuộc d�ng T�n kh�ng thể chấp nhận được, v� th�nh Inhaxu tổ phụ d�ng T�n năm ấy 1533 c�n đang học ở Paris, v� d�ng T�n được ch�u ph� năm 1540. N�i t�m, ngo�i những chi tiết m� Kh�m định Việt sử kể lại, ch�ng la phải kết luận như Bonifacy rằng: Người ta kh�ng biết g� hơn về vị gi�o sĩ c� t�n l� I-ni-khu n�y�.[11] Tưởng kh�ng cần quan t�m nhiều đến sử liệu n�y, bởi v� tuy c� trong Kh�m định Việt sử, nhưng kh�ng phải ở phần �Ch�nh sử� (chữ lớn) m� ở phần �D� sử� (chữ nhỏ).

C�ng thời điểm n�y, một t�c phẩm n�i đến người C�ng gi�o họ Đỗ, một trong người Việt đầu ti�n, nếu kh�ng phải ch�nh l� người đầu ti�n, đ� theo đạo Thi�n Ch�a. Theo gia phả họ Đỗ, th� �ng Đỗ Hưng Viễn, người l�ng Bồ Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh H�a, l� con thứ hai của cụ Đỗ Biều, một vị đại thần triều L� Anh T�ng (1556-73), đ� theo đạo Hoa Lang.[12] �ng Đỗ Hưng Viễn đ� theo đạo, chịu ph�p Rửa trong một chuyến đi sứ, đến v�ng bu�n b�n của người Bồ Đ�o Nha, khoảng trước năm 1580.

Sau gi�o sĩ I-ni-khu, lịch sử n�i đến hai Linh mục triều Affonso da Costa v� Juan Gonsalves S� người Bồ Đ�o Nha, do đức gi�m mục Macao cử sang triều nh� L� v�o năm 1583, theo lời mời của c�ng ch�a Chi�m, chị vua L� Thế T�ng, l�m nhiếp ch�nh cai trị nước thay em c�n nhỏ tuổi. Hai nh� truyền gi�o theo sứ giả tới Vạn Lại hồi năm 1588, được c�ng ch�a tiếp đ�n rất lịch thiệp v� cho ph�p giảng đạo tự do. Nhưng năm liền sau, vua L� Thế T�ng th�n ch�nh, hai vị thừa sai bị ngược đ�i khổ sở, kh�ng được d�ng Th�nh lễ lại c�n bị giam giữ cho tới cuối năm 1590, l� l�c hai biến cố xảy ra, linh mục Ordo�ez Cevallos, một thủy thủ quốc tịch T�y Ban Nha, tới đất Thanh H�a, v� c�ng ch�a Chi�m theo đạo.[13]

Gi�o sĩ Ordo�ez, sau nhiều năm chu du thế giới, đ� viết cuốn Lịch sử cuộc chu du thi�n hạ (Historia y viaje del mundo). Theo t�c phẩm kể tr�n, th� Ordo�ez được vua L� tiếp kiến tại triều đ�nh v� cho ph�p đi lại tự do. C�ng ch�a Chi�m thấy gi�o sĩ th�ng th�i lại đẹp trai với những nụ cười �m� l�m đồng tiền�, b�n ngỏ � muốn lấy l�m chồng, nhưng Ordo�ez trả lời: �ng l� linh mục C�ng gi�o n�n phải giữ luật độc th�n. Từ đấy, gi�o sĩ dạy gi�o l� cho c�ng ch�a v� rửa tội đặt t�n th�nh l� Maria, tức Mai Hoa. Sau đ�, c�ng ch�a khuy�n được nhiều người theo đạo, tổ chức những c�ng cuộc từ thiện, thiết lập nữ tu viện Đức Mẹ V� nhiễm Nguy�n tội, v� nắm chức Bề tr�n cho đến chết. Thấy ảnh hưởng của Ordo�ez mỗi ng�y th�m lớn, nh� Vua lo ngại v� ra lệnh trục xuất khỏi đất nh� L�.[14]

Xuống miền Nam với ch�a Nguyễn, gi�o sĩ Ordo�ez, kể th�m việc rửa tội cho Nguyễn ho�ng,[15] đặt t�n th�nh l� Gregori c�ng với 19 tướng t�. Lễ nghi Rửa tội được cử h�nh long trọng tại nha quan thuế cửa Thuận H�a hồi 8 giờ s�ng ng�y 17.9.1591. Mấy năm sau, tại kinh th�nh Vạn Lại nh� L�, do ảnh hưởng của c�ng ch�a Mai Hoa, th�n mẫu ch�a Nguyễn c�ng với em trai v� em g�i của ch�a cũng được linh mục Da Costa rửa tội, sau c�ng đến th�i hậu tức mẹ c�ng ch�a Mai Hoa.[16]

Cũng ở Bắc H�, nhưng thuộc khu vực nh� Mạc (Bắc Triều), năm 1578 một ph�i đo�n được cử sang Macao vận động xin mấy vị thừa sai Bồ Đ�o Nha. Bấy giờ c� n�i đến t�n cha P. Alfaro d�ng Phansinh v� gi�o sĩ J.B. Pesaro, nhưng hai linh mục n�y kh�ng đến theo lời y�u cầu của nh� Mạc được, v� Mạc Mậu Hợp mời c�c ng�i sang l� c� � k�o người Bồ Đ�o Nha về phe m�nh chống lại nh� L�.[17]

Chờ l�u kh�ng thấy ai sang, Mạc Mậu Hợp viết thư cho đức cha Carneiro, gi�m mục Macao, nhắc lại truyện trước. Đức gi�m mục l�n tiếng k�u mời c�c tu viện ở Manila gởi thừa sai sang Việt Nam theo sự y�u cầu của nh� Mạc. Đ�p lời mời gọi ấy, tu viện Th�nh Gregori d�ng Phansinh cử một ph�i đo�n, gồm c�c cha D. Operosa, B. Ruiz, P. Ortiz, Fr. Montila v� bốn th�y trợ sĩ. Ng�y 1.5.1583 t�u chở đo�n truyền gi�o cập bến An Quảng (Quảng Y�n) v� được ch�nh quyền địa phương đ�n tiếp nồng hậu; Mạc Mậu Hợp cũng ph�i người đến gặp c�c thừa sai v� mời v�o Thăng Long. Nhưng khi t�u của đo�n truyền gi�o vừa rời bến để l�n Thăng Long, th� bị một cơn b�o đ�nh giạt sang đảo Hải Nam, tất cả bị bắt dẫn l�n Quảng Đ�ng; nhưng sau đ� được trả tự do.

Hai năm sau, một m�nh cha Ruiz bấy giờ đ� 61 tuổi được trở lại Việt Nam. Lần n�y, cha đem theo một phụ nữ l�m th�ng ng�n, phụ nữ n�y c� lẽ l� người Việt đ� theo đạo khi ở Macao. Đến Thăng Long, cha Ruiz thuật lại truyện đắm t�u năm trước, được vua t�i nh� Mạc đối xử rất tử tế v� cho ph�p giảng đạo. Lời giảng v� đời sống th�nh thiện của cha g�y được nhiều cảm t�nh trong d�n ch�ng, nhưng kh�ng ai xin theo đạo cả, cha chỉ rửa tội được một b� nhỏ gần chết. Năm 1586, cha Ruiz rời khỏi Việt Nam về Manila, v� được lệnh sang giảng đạo b�n Nhật Bản.[18]


2. Những nh� truyền gi�o ti�n phong v� tử đạo ti�n khởi thuộc d�ng Đaminh
 tại Nam H� v� Ch�n Lạp (1550-1631)

Tại miền Nam Việt Nam, bấy giờ phần lớn c�n thuộc Chi�m Th�nh v� ch�n Lạp (Cao Mi�n),[19] những nh� truyền gi�o đầu ti�n l� c�c cha d�ng Đaminh Bồ Đ�o Nha, Ph�p v� T�y Ban Nha. Năm 1550, cha Gaspar da Santa Cruz theo t�u bu�n Bồ Đ�o Nha v�o cửa Cần Cảo (H� Ti�n ng�y nay) v� giảng đạo trong v�ng n�y. Cha Gaspar l� một thừa sai ở M� Lai, người s�ng lập tu viện Santa Cruz Malacca, l�m trung t�m truyền gi�o cho cả v�ng Đ�ng Nam �. Lịch sử Gi�o hội Việt Nam ghi nhận cha l� vị thừa sai ti�n phong của miền Nam, mặc dầu cha hoạt động ở đ�y chỉ được v�i ba năm. C� lẽ v� phần đất n�y bấy giờ c�n thuộc d�n �Ch�a Th�p� kh� c� người theo đạo C�ng gi�o, n�n cha phải ra đi, v� năm 1555 người ta thấy cha c� mặt ở Quảng Ch�u (Trung Quốc).[20]

Năm 1558, tu viện Santa Cruz ở Malacca cử th�m hai cha Lopez v� Azevedo đi Ch�n Lạp, nối tiếp c�ng việc của cha Gaspar. Hai cha hoạt động ở đ�y chừng 10 năm, th� c�c nh� sư t�m c�ch để hai cha bị trục xuất. Năm 1580, hai nh� truyền gi�o Đaminh kh�c: Gr�goire de La Motte người Ph�p v� Lui da Fonseca người Bồ Đ�o Nha, cũng từ Malacca v�o đất Ch�n Lạp. Hai cha đ� giảng đạo kh�ng những cho d�n Mi�n m� c�n cho cả d�n Chi�m v� Việt ở Quảng Nam nữa.

Năm 1586, vua Chi�m Th�nh, nh�n một cuộc giao tranh với ch�a Nguyễn ở Quảng Nam, đ� bắt hai cha c�ng với nhiều t� binh về kinh th�nh Ch� B�n (B�nh Định). Hai cha tiếp tục giảng đạo cho c�c t� binh ở đ�. Năm 1588, vua Chi�m nghe biết hai cha l� thừa sai C�ng gi�o, liền kết �n tử h�nh. Cha Da Fonseca bị đ�m chết trong khi d�ng Th�nh Lễ, c�n cha De La Motte bị nhiều vết thương nặng, chạy tho�t ra bờ biển, được một t�u bu�n T�y Ban Nha đưa về Malacca, nhưng cha chết dọc đường (1589). Hai cha được ghi l� những vị Tử đạo ti�n khởi tr�n đất Việt.[21] Tiếp theo hai đấng Tử đạo l� bốn chuyến đi lịch sử từ Manila sang miền Nam Việt Nam của c�c thừa sai Đaminh T�y Ban Nha c�ng với nh� cầm quyền Philippin, đi t�m đất hoạt động t�ng đồ.

Năm 1595, vua Chey Chetta I nước Ch�n Lạp y�u cầu to�n quyền Philippin gởi qu�n sĩ sang gi�p củng cố nội bộ v� chống ngoại x�m, đồng thời cũng xin một số gi�o sĩ sang giảng đạo. Được sự y�u cầu tỉnh d�ng Đaminh Rất Th�nh M�n c�i cử cha bề tr�n tỉnh Alfonso Jim�nez, cha Diego Aduarte v� th�y trợ sĩ Juan Bautista Deza. Ba nh� truyền gi�o c�ng với 330 binh sĩ T�y Ban Nha l�n t�u lướt s�ng Đại dương sang Ch�n Lạp hồi đầu năm 1596. Đo�n t�u v�o s�ng Cửu Long v� đi s�u v�o nội địa đến tận Churdamu� (Ch�u Đốc), c�ch kinh đ� Sprey Santor 35 km. Đến đ�y c�c cha được tin vua Chey Chetta bị người Xi�m truất phế, v� đ� trốn sang Ai Lao; ngai v�ng được chuyển sang tay ho�ng th�n Preah Roam.

Thấy kh�ng c�n mục đ�ch, đo�n t�u r�t lui dọc theo bờ biển ra Quảng Nam thuộc quyền ch�a Nguyễn. Từ đ�ng xa tr�ng l�n ngọn đồi gần Cửa H�n, một Th�nh gi� to lớn dựng tr�n. Theo lưu truyền, c�ch đấy 13 năm một số người định ph� Th�nh gi� ấy đ� bị Trời phạt, n�n từ đấy mọi người kể cả lương d�n đều k�nh sợ v� kh�ng ai d�m đụng đến.[22] L�n đất Cửa H�n, ba nh� truyền gi�o Đaminh gặp hai cha d�ng �utinh, tuy�n �y c�c thủy thủ v� thương gia Bồ Đ�o Nha quen qua lại đ�. Cha Aduarte l�n Thuận H�a gặp quan tổng trấn nh� Nguyễn[23] v� được tiếp đ�i rất nồng hậu. �ng tổng trấn y�u cầu cha ở lại v� hứa sẽ x�y cất cho một ng�i th�nh đường; nhưng cha xin khất trả lời v� c�n phải hỏi � kiến cha bề tr�n Jim�nez. Cha Jim�nez hứa sẽ đi Thuận H�a để xem t�nh h�nh.

H�m ấy l� ng�y 28.8.1596, hai cha d�ng �utinh mừng lễ th�nh tổ phụ, c� mời c�c thừa sai Đaminh đến tham dự. Sau Th�nh Lễ, cha Jim�nez ở lại tr�n bộ, c�n cha Aduarte v� th�y Deza l�n t�u với binh sĩ. Ng�y 3 th�ng 9, trong l�c kh�ng ngờ thủy qu�n Việt Nam được lịnh của nh� L� tấn c�ng đo�n t�u của người T�y Ban Nha, khiến họ phải đối ph� rất kh� khăn mới r�t lui được an to�n.[24] Nhưng cha Jim�nez mắc kẹt tr�n bờ v� bị giam lỏng tại nh� c�c cha �utinh Trong thời gian ở lại tr�n đất Việt, cha Jim�nez đ� khuy�n được hai t� nh�n bị �n tử h�nh theo đạo, sau đ� cha cho tống t�ng theo lễ nghi C�ng gi�o; việc n�y đ� l�m cho quan tổng trấn tức giận v� ra chỉ thị cấm đạo. �t l�u sau, một đo�n t�u bu�n Bồ Đ�o Nha đến thương cảng, cha Jimenez theo t�u đi Macao rồi trở về Manila.

Năm 1598, t�n vương Ponthea Tan nước Ch�n Lạp, nghe theo hai �ng Blas Ruis v� Diego Velhoso, nguy�n cố vấn của Chey Chetta, lại gởi thư xin nh� cầm quyền Philippin ph�i binh sĩ sang gi�p, đồng thời cũng mời hai cha Jimenez v� Aduarte trở lại. Ngay năm ấy, một đo�n t�u gồm ba chiếc chở hai cha v� 150 qu�n sĩ nhổ neo ng�y 17 th�ng 9, trực chỉ Ch�n Lạp. Nhưng sau 6 ng�y đường, đo�n t�u bị b�o đ�nh giạt v�o mấy h�n đảo, chờ cấp cứu.

Trước khi đo�n t�u n�i tr�n l�m nạn, một chiếc t�u lớn kh�c cũng từ Manila đi Ch�n Lạp, với tư c�ch ngoại giao. Tr�n t�u c� hai gi�o sĩ Đaminh, l� cha J. Maldonado l�m đại sứ v� P. Bastida. Nhưng khi c�c cha tới nơi th� Ponthea Tan đ� băng h�. Th�i tử Ponthea An c�n nhỏ tuổi l�n kế vị, dưới sự gi�m hộ của một người đ�n b� theo Hồi gi�o, n�n người T�y Ban Nha chỉ được đối xử bằng những cặp mắt đố kỵ. Kh�ng được nh� Vua tiếp kiến, hai cha bỏ kinh th�nh, r�t ra cửa s�ng Cửu Long, tại đ�y một cuộc hải chiến xảy ra giữa người M� Lai v� T�y Ban Nha: nhiều người thiệt mạng, trong đ� c� cha Bastida. Cha Maldonado sang một chiến thuyền T�y Ban Nha của đại �y Mendoza để c�ng đi Xi�m La. Khi tới Xi�m, cha gặp một bạn c�ng d�ng người Bồ Đ�o Nha t�n l� Georgio Mota đang bị vua Xi�m giam giữ. Hai cha t�m c�ch bỏ trốn l�n chiến thuyền T�y Ban Nha. Khi vua Xi�m nghe biết cha Mota bỏ trốn, liền sai ba thuyền đuổi bắt: hai b�n bắn nhau dữ dội. Chiến thuyền T�y Ban Nha chạy tho�t, nhưng phải trả bằng một gi� rất đắt l� cha Maldonado, đại �y Mendoza v� vi�n hoa ti�u bị tử thương.[25]

Những thất bại trong hai chuyến đi trước chưa l�m nản l�ng c�c bề tr�n tỉnh hạt Rất Th�nh M�n c�i. C�c ng�i vẫn chờ dịp thuận lợi để mở rộng khu vực truyền gi�o tr�n đại lục � ch�u. Năm 1603 dịp may lại đến: Ponthea An bị giết, Srey Sauryeper l�n kế vị. T�n vương c�n nhớ t�nh hữu nghị của người T�y Ban Nha đối với vua Chey Chetla I, n�n đ� sai một ph�i đo�n sang Philippin xin quan to�n quyền cử người sang trợ gi�p v� giảng đạo. Chuyến đi thứ ba n�y c� cha Inisgo de Santa Maria, Jer�nimo Belen v� Alonso Collar. C�c cha tới tận kinh th�nh Lovea En v� được tự do truyền gi�o. Nh� Vua cũng cho ph�p c�c cha x�y cất th�nh đường l�m nơi phượng tự v� giảng dạy gi�o l�.

Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, v� một ch�nh biến xảy ra khiến Srey Sauryeper phải thay đổi ch�nh s�ch, b�o hiệu cho một cuộc b�ch hại đạo. C�c cha đồng � cử cha Inigo trở về Manila để xin ch�nh quyền T�y Ban Nha ph�i th�m binh sĩ, v� c�c bề tr�n gởi th�m c�n bộ truyền gi�o. Nhưng kh�ng may, cha Inigo chết tr�n đường về (1603), �t l�u sau cha Collar cũng qua đời, c�n cha Belen một m�nh trở về Philippin.[26]

Hơn 20 năm sau, một thương gia Trung Hoa từ Ch�n Lạp đến Manila cho tin rằng: d�n Mi�n rất mộ mến c�c thừa sai Đaminh v� nh� Vua đang mong được c�c cha trở lại. Nghe tin n�y, c�c bề tr�n d�ng mặc dầu vẫn mong ước c� dịp gởi người đi một lần nữa, cũng phải d� dặt v� những thất bại của ba chuyến đi trước. Sau một thời gian suy nghĩ, mật sứ được sai đi thăm d� l�ng d�n v� � nh� Vua. Kế đ� l� bức thư của một quan đại thần Ch�n Lạp gởi c�c cha Đaminh ở Luzon (Philippin), chứng minh phần n�o lời n�i của người thương gia n�i tr�n l� đ�ng. Lần n�y, c�c bề tr�n cử 5 cha đi, trong số c� cha Juan Bautista Morales (+ 1664), một nh� truyền gi�o nổi tiếng của tỉnh d�ng.

Chỉ mấy ng�y sau kể từ khi đặt ch�n l�n đất Ch�n Lạp. c�c nh� truyền gi�o đ� được d�ng Th�nh Lễ thứ nhất trong một th�nh đường, vừa được dựng l�n giữa một xứ ch�a chiền. D�n Mi�n mặc dầu hiền l�nh v� dễ d�i, nhưng rất �t người muốn theo đạo. Họ đến dự c�c lễ nghi C�ng gi�o rất đ�ng, nhưng chỉ bằng những cặp mắt hiếu kỳ. Suốt hai năm rưỡi giảng đạo, c�c thừa sai kh�ng rửa tội được một người n�o ngo�i b� g�i của một người Nhật Bản C�ng gi�o. Năm 1631, Chey Chetta II l�n kế nghiệp cha, hạ lệnh cấm người Mi�n theo đạo, cha bề tr�n tỉnh gọi tất cả năm cha về Manila.[27] Như vậy, chuyến đi lần sau hết n�y cũng kh�ng đạt được � nguyện. Nhưng Thi�n Ch�a Quan ph�ng đ� d�nh cho d�ng Đaminh một khu vực truyền gi�o l� tưởng, tức miền Bắc Việt Nam.


3. C�ng cuộc truyền gi�o của c�c gi�o sĩ d�ng T�n tại Nam H� (1613-39)

Năm 1613, phong tr�o b�i ngoại nổi dậy ở Nhật Bản. Ng�y 14.2.1614, Nhật ho�ng Daifusana, tức tướng qu�n Tokugawa Ieyasu (Đức Xuy�n Gia Khang) hạ chiếu chỉ cấm đạo, trục xuất c�c thừa sai. C�c thừa sai d�ng T�n phải bỏ Nhật đi Macao, chờ ng�y trở lại c�nh đồng truyền gi�o. Kh�ng muốn mất thời gian, bề tr�n d�ng đ� sai cha Fr. Buzomi (�), cha J. Carvatho (Bồ), hai th�y trợ sĩ (Nhật) Giuse v� Phaol� sang Việt Nam. Chuyến t�u chở bốn nh� truyền gi�o tới Hải Phố (Hội An ng�y nay) ng�y 18.1.1615, sau 12 ng�y vượt Đại dương.

Cha Carvatho v� hai th�y trợ sĩ phụ tr�ch Nhật kiều C�ng gi�o ở Hải Phố, cha Buzomi học tiếng Việt v� giảng đạo cho người Việt. D�n Quảng Nam rất th�ch nghe cha Bozomi giảng bằng tiếng Việt, 10 người xin chịu ph�p Rửa dịp lễ Phục sinh năm 1615. Trong số những �b�ng l�a đầu m�a� n�y, c� một thanh ni�n t�n l� �utinh xin theo gi�p c�c cha; anh l� người đầu ti�n trong tổ chức Th�y giảng.[28] Cuối năm ấy, ch�a S�i Nguyễn Ph�c Nguy�n (1613-35) cho ph�p cha Buzomi x�y hai th�nh đường: một ở Hải Phố v� một ở Quảng Nam; số gi�o d�n l�n tới 300.

Đầu năm 1616, cha A. Fern�ndez (Bồ) sang thay thế cha Carvalho được gọi về Macao để t�m đường trở lại Nhật Bản (cha được ph�c Tử đạo năm 1624). Nghe biết c�ng việc truyền gi�o ở xứ Nam th�u đạt nhiều kết quả v� c�n nhiều hứa hẹn, năm 1617 Macao sai th�m hai cha Fr. Pina (�), Fr. Barreto (Bồ) v� th�y trợ sĩ D�az (Bồ) sang gi�p cha Buzomi. Nhưng cha Barrelo chỉ ở Việt Nam được mấy th�ng, v� sau đ� đ� c�ng với cha Fern�ndez sang Ch�n Lạp. Cha Pina c�ng với hai th�y người Nhật ở lại Hải Phố, c�n cha Buzomi đem theo hai th�y D�az v� �utinh v�o B�nh Định theo lời mời của quan trấn thủ. Năm 1618, xứ Nam được th�m hai nh� truyền gi�o mới: cha P. Marquez (Bồ lai Nhật) v� cha C. Borri (�).

Từ năm 1618 đến 1620, c� t�m thừa sai d�ng T�n hoạt động ở Nam H�: ba cha Buzomi, Pina v� Borri ở Qui Nhơn với hai th�y D�az v� �utinh; cha Marquez v� hai th�y người Nhật ở Hải Phố. Tại đ�y thương gia Nhật đến mỗi ng�y th�m đ�ng, nhiều l�c tr�n ng�n người. Năm 1619, cha Marquez rửa tội th�m 40 t�n t�ng, v� dựng một nguyện đường ri�ng cho Nhật kiều.[29]

Ở Qui Nhơn, c�c cha được quan trấn thủ tiếp rước rất tử tế. Th�ng 7 năm 1618, quan trấn l�m cho c�c thừa sai một ng�i nh� bằng gỗ rộng r�i ở Nước Mặn (Pulocambi). �ng d�ng voi đưa c�c cha tới nh� mới, từ đ� c�c cha c� cơ sở hoạt động v� được d�n ch�ng rất k�nh trọng. Cũng năm ấy, một th�nh đường l�m sẵn được chở đến Nước Mặn, lắp r�p trong một ng�y trước sự bỡ ngữ v� th�n phục của c�c nh� truyền gi�o.

Ngay từ khi mới đến Qui Nhơn, cha Buzomi đ� để � đến giới tr� thức v� quan lại. Nhiều cuộc trao đổi, giảng thuyết về t�n gi�o được tổ chức ở tư gia hoặc đ�nh l�ng. Trong giới quan lại, c� �ng đại sứ của ch�a Nguyễn đi Ch�n Lạp, đ� theo đạo c�ng với phu nh�n c�ng nhiều gia nh�n. Tuy nhi�n, c�c cha kh�ng bỏ rơi d�n th�n qu�, v� nhiều kết quả đ� thu lượm được trong giới n�y ngay từ khi c�ng cuộc truyền gi�o bắt đầu: nhiều gi�o điểm được thiết lập, l�c đầu với con số 5 hoặc 6 gia đ�nh, v�i ba chục nh�n danh, rồi dần dần th�m l�n tới ng�n.[30]

C�ng việc đang tiến triển tốt đẹp th� quan trấn chết bất ngờ. Nhưng kh�ng v� thế m� c�c nh� truyền gi�o r�t lui, mặc dầu phải đối ph� với một nh� sư t�n l� Tư B�nh v� người H� Lan theo Tin l�nh. Năm 1621, cha Buzomi rửa tội th�m 172 người Từ năm 1620, cha Pina đ� được ph�i đi hoạt động ở Quảng Nam. Năm 162 sau khi gọi cha Borri về Macao (1621), c�c bề tr�n đ� sai sang th�m ba cha Em. Fern�ndez, Em. Borges (Bồ) v� J. Leira (�) c�ng với th�y Romano Niti (Nhật). Cha Fern�ndez đến thay thế cha Marquez ở Hải Phố, để cha n�y đi gi�p cha Pina; c�n hai cha Borges v� Leira phải qua một thời gian học tiếng Việt, v� tập sự b�n cạnh cha Buzomi ở Nước Mặn.

Tại Quảng Nam, ngay năm đầu (1620) cha Pina đ� thu lượm nhiều kết quả: 275 người xin chịu ph�p Rửa, mặc dầu cha gặp phải rất nhiều kh� khăn trong việc b�i trừ m� t�n dị đoan. Trong c�c nh� nho, hoa tr�i đầu m�a m� cha Pina đ� đạt được l� cụ ngh� Giuse. Cụ l� người được k�nh nể trong khắp trấn Quảng Nam, m�n sinh của cụ rất nhiều. Sau nhiều th�ng học hỏi v� tranh luận, cụ đ� xin chịu ph�p Rửa lấy l�n th�nh l� Giuse. Cụ Giuse từ đ�y trở th�nh một t�ng đồ gi�o d�n; theo gương cụ, nhiều nho gia kh�c trở lại, như cụ Pher�, cụ Emmanuel, quan cố vấn Phaol�... Trong khi đ�, ở Nước Mặn cha Buzomi cũng đạt được nhiều kết quả trong d�n ch�ng v� giới sư s�i, quan lại, tr� thức, đ�ng kể hơn cả l� nguy�n sư cụ Đamian.[31]

Số gi�o d�n mỗi ng�y th�m đ�ng. Cuối năm 1624, cha bề tr�n tỉnh Gabriel de Mattos đến thăm gi�o đo�n xứ Nam, đem theo bốn nh� truyền gi�o mới l� Antonio Fontes, Gaspar Luis (Bồ), Alexandre de Rhodes (quốc tịch T�a th�nh) tức Đắc Lộ, Girolamo Majorica (�), v� th�y Melchior Ribero (Bồ). Số thừa sai d�ng T�n bấy giờ ở xứ Nam l� 15 người gồm 11 linh mục v� 4 trợ sĩ. Ngo�i ra c�n c� nhiều th�y giảng v� gi�o d�n người Việt cộng t�c, trong số n�y quan ngh� Pher� chuy�n dạy tiếng Việt cho c�c thừa sai mới đến, v� cụ Emmanuel rất nhiệt th�nh truyền gi�o.

Năm 1625, c�c cha chia nhau mỗi người hoạt động một khu vực Cha Đắc Lộ cộng t�c với cha Pina ở Quảng Nam v� Thuận H�a. Tại Dinh C�t, cha Pina đ� rửa tội cho một vương phi rất s�ng Phật xin theo đạo v� nhận t�n th�nh Maria Mađalena, tức Maria Minh Đức vương th�i phi.[32] Việc theo đạo của b� Maria đ�nh dấu một bước tiến trong lịch sử truyền gi�o ở Nam H�. Sự c� mặt của b� trong gi�o đo�n n�y kh�ng những bảo đảm cho c�ng cuộc truyền gi�o, m� c�n thuyết phục được nhiều người theo đạo.

Năm 1626, đo�n truyền gi�o thay đổi như sau: cha Pina qua đời th�ng 12 năm trước, cha Leira đ� trở về Ma cao, cha bề tr�n De Mattos hết nhiệm vụ cũng đi khỏi, hai cha Đắc Lộ v� Marquez được lệnh l�n xứ Bắc. Số 11 thừa sai n�y chỉ c�n 6, nhưng được b� hai vị người Nhật Micae Machi v� Matthias Machida; năm 1628, th�m cha B. Mattos v� th�y A. Torres (Bồ). Số thừa sai ở trong Nam tuy hơn ngo�i Bắc, nhưng kết quả kh�ng phong ph� bằng. Thấy một t�n gi�o đ�i gạt bỏ những lễ nghi �thờ c�ng Tổ ti�n�, nh� ch�a tỏ ra bực tức nhưng chưa d�m đi đến chỗ cấm c�ch đổ m�u, v� ch�a Nguyễn c�n cần đến người Bồ Đ�o Nha để đương đầu với ch�a Trịnh; chiến tranh Nam Bắc đ� bắt đầu từ năm 1627.

C�c cha chia nhau hoạt động như sau: cha Fen�ndez ở Quảng Nam, Quảng Ng�i, hai cha Borges v� Lui ở Qui Nhơn v� Ph� Y�n, cha Machi ở Hải Phố, cha Machida ở Cửa H�n; c�c cha Buzomi, Majorica, Fontes đi giảng đạo cho người Chi�m Th�nh, rồi sang Ch�n Lạp. Hoạt động của cha Buzomi ở Ch�n Lạp kh�ng được mấy kết quả, năm 1634 cha về Macao v� qua đời ở đấy v�o 4 năm sau. Năm 1638, dưới thời ch�a thượng Nguyễn Ph�c Lan (1635-48), trấn thủ Quảng Nam l� người gh�t đạo đ� y�u cầu nh� ch�a cho trục xuất hết c�c thừa sai, ch�nh �ng g�y rất nhiều kh� khăn cho c�c nh� truyền gi�o v� đi đến giai đoạn đổ m�u sau n�y, khi cha Đắc Lộ trở lại xứ Nam (1640-45).


4. C�ng cuộc truyền gi�o của c�c cha d�ng T�n tại Bắc H� (1626-63):
cha Alexandre de Rhodes, tức Đắc Lộ (1627-40)

Từ khi gi�o sĩ Ordonez Cevallos bị trục xuất khỏi triều đ�nh nh� L� hồi th�ng 8 năm 1591 cho đến 1626, l� năm bắt đầu c�ng cuộc truyền gi�o của c�c gi�o sĩ d�ng T�n, h�nh như chỉ c� một cha d�ng Phan sinh từ Malacca qua đ�y, v� rửa tội cho một số người đ� học đạo từ l�u, nhưng kh�ng ai biết t�n ng�i cũng như những nơi ng�i giảng đạo.[33]

Dưới triều L� Thần T�ng (1619-43) v� Thanh Đ� vương Trịnh Tr�ng (1623-57), đầu năm 1626. Macao gởi vị thừa sai d�ng T�n thứ nhất v�o xứ Bắc: cha G. Baldinotti (�), theo gi�p ng�i c� th�y trợ sĩ Giuli� Piano (Nhật). Nh� truyền gi�o được ch�a Trịnh tiếp kiến rất niềm nở v� cho tr� ngụ trong một ng�i nh� đẹp nhất tại kinh th�nh Thăng Long. Cha Baldinotti nhận thấy người xứ Bắc c� nhiều đức t�nh tốt, n�n vận động xin bề tr�n sai nhiều vị sang th�m, c�n ng�i kh�ng th�ng thạo tiếng Việt phải trở về Macao, để đi Nhật Bản.

Nhận được b�o c�o của cha Baldinotti, cha bề tr�n ở Macao đ� cử ngay hai cha A. de Rhodes v� P. Marquez. Hai vị thừa sai l�n t�u rời Macao ng�y 12.3.1627; sau 6 ng�y thuận buồm xu�i gi�, t�u của hai nh� truyền gi�o gặp b�o. Suốt một đ�m đương đầu với s�ng gi�, s�ng ng�y 19 th�ng 3, nhằm lễ th�nh Giuse, t�u giạt v�o Cửa Bạng, tỉnh Thanh H�a.[34] Hai cha giảng đạo ngay tại v�ng n�y: nhiều người ở An vực, V�n No xin theo, trong số c� một th�y c�ng. Tuần th�nh năm ấy, c�c cha tổ chức thật linh động, cha Marquez cho dựng một Th�nh gi� lớn tr�n đỉnh n�i gần đấy. Hai th�ng sau, ch�a Trịnh tr�n đường đi đ�nh ch�a Nguyễn trở về thấy Th�nh gi�, b�n cho mời hai cha đến v� dẫn về Thăng Long. Ch�a x�y cất cho c�c cha một ng�i nh� gần phủ li�u, v� cho ph�p tự do giảng đạo.

D�n ch�ng tới nghe giảng rất đ�ng, nhiều nh�n vật trong triều đ�nh v� phủ li�u cũng đến học đạo, b� chị của ch�a Trịnh xin rửa tội mang t�n th�nh l� Catarina; sau n�y b� khuy�n được mẹ v� 17 người h�ng qu� tộc theo đạo.[35] C�c cha chia những người dự t�ng ra từng lớp hai hoặc ba chục, c� khi bốn năm chục; thời gian học mỗi kh�a 8 ng�y, mỗi ng�y học một buổi, t�y theo sự thuận tiện của mỗi người. C�c cha phải dạy mỗi ng�y từ 4 đến 6 lần, hết lớp n�y sang lớp kh�c. Tuy vất vả, kh� nhọc, nhưng kết quả mỹ m�n. Mỗi tuần hai lần c�c cha l�m ph�p Rửa cho những người đ� học đầy đủ, mỗi lần �t nhất hai chục, c� lần bốn chục hay hơn. Cho đến cuối năm 1627, hai cha đ� rửa tội được 1.200 người, năm 1628: 2.000, năm 1629: tr�n 3.500.[36]

Để c� người cộng t�c, cha Đắc Lộ đ� nghĩ đến hội Th�y giảng của cha Buzomi trong Nam, m� kinh nghiệm cho thấy những cộng sự vi�n n�y rất cần thiết v� hữu �ch. Cha Đắc Lộ cho tổ chức lại v� đặc biệt quan t�m đến việc đ�o tạo. Đ� l� tổ chức gồm những thanh ni�n độc th�n, để l�c n�o cũng c� thể sống b�n c�c thừa sai v� hy sinh tất cả cho hoạt động truyền gi�o. Đấy cũng l� nguồn gốc nh� Đức Ch�a Trời ở xứ Bắc, nơi xuất th�n của những linh mục Việt Nam ti�n khởi.[37]

C�ng việc đang tiến triển tốt đẹp, bỗng gặp nhiều thử th�ch đến độ cha con phải vĩnh biệt nhau. Gi�o l� của c�c cha giảng dạy tức nhi�n đụng độ với m� t�n dị đoan, với tục đa th�, đồng thời l�m suy giảm ảnh hưởng của c�c sư s�i. Cũng do đấy, kẻ th� nổi dậy vu khống c�c cha nhiều điều, như l�m ph� thủy, ph� ch�a chiền, �m mưu lật đổ nh� ch�a..., khiến Trịnh Tr�ng kh�ng c�n k�nh nể c�c cha như trước nữa, v� cuối th�ng 3 năm 1629, �ng ra lệnh trục xuất hai cha. Nhưng v� ch�a c� t�u Bồ Đ�o Nha đến, n�n ch�a cho dẫn hai nh� truyền gi�o v�o Nghệ An chờ ng�y ra đi.

Gi�o d�n nghe tin hết sức buồn rầu, tiễn đưa hết sức cảm động; c�ng đi với hai cha c� th�y Inhaxu v� b� Ant�n. Cha Đắc Lộ để lại hai th�y Phansinh v� Anr� coi s�c gi�o đo�n. Được dịp trở lại Thanh H�a hai cha thăm viếng gi�o d�n An Vực, V�n No...; v�o Nghệ An, hai nh� truyền gi�o kh�ng bỏ lỡ cơ hội giảng đạo. Sau gần 8 th�ng, hai cha rửa tội hơn 600 người. Đang l�c kh�ng ngờ, t�u bu�n Bồ Đ�o Nha tới, tr�n t�u c� cha Gaspar Amaral. Sau �t ng�y, t�u bu�n được gọi l�n Thăng Long. Tuy đ� bị trục xuất, hai cha cũng đ�i đi theo, binh sĩ �p giải c�c cha ngăn cản kh�ng được. Thế l� sau 8 th�ng xa c�ch, cha con lại gặp nhau. Trịnh Tr�ng thấy hai cha trở lại cũng l�m thinh, v� ki�ng nể người Bồ Đ�o Nha. Gi�o d�n lũ lượt k�o đến thăm hỏi c�c cha v� xin chịu c�c b� t�ch.

Nhưng ng�y vĩnh biệt đ� đến. Trong một Th�nh Lễ cuối c�ng ba th�y Phansinh, Anr�, Inhaxu tuy�n hứa trước cộng đo�n gi�o d�n ba điều: sống độc th�n cho đến khi c� thừa sai kh�c đến thay thế, để l�m của chung tất cả những của gi�o d�n biếu tặng c� � trợ cấp c�c th�y, v�ng lời th�y bề tr�n do c�c cha đặt, tức th�y Phansinh. Sau đ� c�c cha l�n đường giữa tiếng kh�c thảm thiết của gi�o đo�n. Tr�n đường từ Thăng Long ra khơi, hai cha gh� thăm c�c họ đạo hai b�n s�ng, v� rửa tội th�m một số người. Hai cha vĩnh biệt xứ Bắc để rồi kh�ng bao giờ trở lại, sau hơn 3 năm truyền gi�o (1627-30), đặt nền m�ng đầu ti�n cho ng�i nh� Gi�o hội xứ Bắc, với con số tr�n 7.000 gi�o d�n.

Cha Đắc Lộ đi khỏi xứ Bắc chưa đầy một năm, nhiều thừa sai kh�c đ� đến tiếp nối c�ng cuộc, dưới quyền điều khiển của c�c cha G. Amaral (1632-40), F. Morelli (1640-49), G. Majorica (1650-56) v� O. Borges (1657-63), nghĩa l� cho tới khi Trịnh Tạc (1657-81) hạ lệnh cấm đạo v� trục xuất hết c�c gi�o sĩ nước ngo�i (cuối năm 1663). Hoạt động của c�c thừa sai d�ng T�n với sự cộng t�c của c�c th�y giảng người Việt tiếp tục đem lại rất nhiều kết quả. Theo cha P. Marini, v�o cuối thời Trịnh Tr�ng, gi�o đo�n xứ Bắc c� 414 th�nh đường, ở Thăng Long c� 4, th�m 12 ở v�ng ngoại �, tỉnh Nghệ An c� nhiều nhất với con số 120, rồi đến Kẻ Nam 114, Thanh H�a 74, Kẻ Đ�ng 50, Kẻ Bắc 25, Kẻ T�y 15. Số gi�o d�n l�n 108.000 hồi năm 1641; năm 1648 con số ấy l�n 195.777, rồi 350.000 v�o 7 năm sau.[38]

Tr�n 30 năm dưới thời Trịnh Tr�ng, �gi�o đo�n xứ Bắc đ� qua một thời ho�ng kim; cũng như cảnh địa đ�ng đầy cảnh đẹp mắt, gi�o d�n sống th�nh thiện, người lương d�n đều cảm phục v� phải nh�n nhận đạo c�c cha dạy l� đạo tốt, kh�ng thể ch� tr�ch được điều g�. [39]


5. Cha Đắc Lộ trở lại xứ Nam (1640-45, +1660)

Trong khi Gi�o hội Bắc H� được x�y dựng v� tiến triển, th� ở Nam H�, ch�a Thượng Nguyễn Ph�c Lan (1635-48) v� ch�a Hiền Nguyễn Ph�c Tần (1648-87) cấm đạo. Dầu vậy, một m�nh cha Đắc Lộ quyết trở lại xứ Nam. Cha tới Cửa H�n hồi th�ng 2 năm 1640. Cha l�n Kim Long (Huế) biếu lễ vật cho ch�a Thượng, l�m �ng đổi l�ng. Được tự do hoạt động, cha Đắc Lộ đem hết t�i năng giảng đạo cho d�n ch�ng v�ng n�y. Cha ngụ trong nh� b� Minh Đức vương th�i phi, c� nguyện đường xinh đẹp d�ng l�m nơi giảng dạy gi�o l�. B� Minh Đức lu�n nhiệt th�nh gi�p đỡ c�c gi�o sĩ v� gi�o d�n. Cha Đắc Lộ ở đ�y 35 ng�y v� rửa tội cho 94 người, trong số n�y một nh� sư v� ba người thuộc ho�ng tộc. Sau đấy, khi cha trở về Hải Phố, th� bị quan trấn Quảng Nam trục xuất khỏi nước. Th�ng 9.1640, cha Đắc Lộ trở về Macao tr�n một chiếc t�u nhỏ do ch�nh cha l�i lấy.

Kh�ng nản l�ng, cha Đắc Lộ c�ng với cha Mattos trở lại xứ Nam một lần nữa; hai cha tới Cửa H�n ng�y 24.12.1640. Từ Cửa H�n, cha Đắc Lộ đi thăm gi�o d�n tỉnh Quảng Nam, an ủi họ v� rửa tội th�m nhiều người. Sau đ� cha v�o Qui Nhơn v� Ph� Y�n: tr�n 1.000 người xin chịu ph�p Rửa. Trong khi ấy cha Mattos hoạt động ở Thuận H�a v� Quảng B�nh. Nhưng th�ng 7.1941, hai nh� truyền gi�o lại nhận được lệnh đi khỏi nước. Lần n�y, trước khi về Macao cha Đắc Lộ gh� qua Manila thăm c�c cha d�ng �utinh v� Đaminh.

Cuối th�ng gi�ng năm 1642, cha Đắc Lộ trở lại xứ Nam lần thứ ba. Cha đến Hải Phố, rồi l�n Kim Long biếu ch�a Thượng một chiếc đồng hồ, n�n được giữ lại ở phủ ch�a: ban ng�y cha dạy ch�a to�n học, ban đ�m dạy gi�o l� cho d�n. Nhưng kh�ng được l�u, cha phải đi khỏi kinh đ�, xuống Cửa H�n trốn tr�nh nay đ�y mai đ� để thăm viếng bổn đạo. Đặc biệt trong thời gian n�y, cha đ�o tạo th�m nhiều th�y giảng, trong đ� c� thầy Anr� qu� Ph� Y�n. Sau hơn một năm l�n l�t hoạt động, người Bồ Đ�o Nha khuy�n cha về Macao, để năm sau sẽ trở lại mang theo lễ vật biếu ch�a xin được tự do truyền đạo, như vậy c� lợi hơn. Cha đồng �, nhưng trước khi l�n t�u, nhằm ng�y lễ th�nh Inhaxu (31.7.1643), cha nhận lời tuy�n hứa của 10 th�y giảng: sống độc th�n, hy sinh trọn cuộc đời phụng sự Ch�a v� Gi�o hội, v�ng phục c�c gi�o sĩ hoặc người đại diện.

Th�ng 4 năm 1644, cha Đắc Lộ trở lại xứ Nam lần thứ bốn với nhiều lễ vật, nhưng vẫn kh�ng được ch�a cho quyền tự do giảng đạo c�n c� lệnh phải ra khỏi nước. Th�ng 9 năm ấy, cha l�n t�u Bồ Đ�o Nha để mọi người tin cha đi thật, gi�o d�n cũng phao tin cha đ� �về T�y�; nhưng chuyến t�u ấy đ� đưa cha v�o Qui Nhơn. Hồi ấy ở Quảng Nam, quan trấn rất gh�t đạo, �ng cho tầm n� c�c th�y giảng. Th�ng 7 năm 1644, th�y Anr� bị bắt v� chịu trảm quyết,[40] năm sau đến lượt hai th�y Inhaxu v� Vinh sơn. Sau một thời gian hoạt động ở Qui Nhơn, cha Đắc Lộ ra Quảng B�nh, nhưng cha bị bắt đưa về Kim Long. Ch�a định kết �n xử tử cha, may nhờ c� quan th�i ph� can ngăn, vị thừa sai mới tho�t chết, nhưng phải đi khỏi nước. Ng�y 7.3.1645, cha Đắc Lộ vĩnh biệt xứ Nam để kh�ng bao giờ trở lại nữa.[41]

Cha Đắc Lộ kh�ng những c� c�ng lớn với sứ vụ truyền gi�o, m� c�n l� �n nh�n của nền văn h�a Việt Nam. Cha kh�ng phải l� người đầu ti�n s�ng t�c ra phương ph�p viết tiếng Việt theo vần La ngữ, nhưng l� người c� c�ng nhất trong việc tu sửa một thứ chữ đang trong thời ph�i thai, một c�ng việc lớn lao đ�i phải c� một con người đầu �c khoa học v� thức thời như cha Đắc Lộ. Cha Đắc Lộ kh�ng c�n ở Việt Nam, nhưng l�ng Cha vẫn hướng về xứ Truyền gi�o n�y. Cuối năm 1645, cha đi Roma b�i yết đức Innocente X (1644-55), tr�nh b�y t�nh h�nh xứ Truyền gi�o Đ�ng phương, xin đức Th�nh Cha đặt mấy vị gi�m mục v� đ�o tạo h�ng gi�o �bản quốc�. Nhưng sự đề nghị của cha Đắc Lộ chưa thực hiện ngay được v� c�n nhiều kh� khăn phải khắc phục, trong đ� c� sự cản trở của Ch�nh phủ Bồ Đ�o Nha vẫn đ�i nắm giữ mọi ảnh hưởng ở Đ�ng phương. Đến sau, đức Th�nh Cha muốn cử ch�nh cha l�m gi�m mục, song cha khi�m tốn từ chối chỉ xin được tiếp tục đi giảng đạo. Cuối năm 1654, mặc dầu đ� ngo�i 60 tuổi, cha l�n đường đi Persia truyền gi�o đủ 6 năm nữa, cho tới khi từ trần tại Ispahan ng�y 16.11.1660.

Trước khi qua đời, nguyện vọng của cha 10 năm về trước được thực hiện, v� ng�y 29.7.1658, đức Th�nh Cha Alexandr� VII (1655-67) ban Sắc bổ nhiệm hai linh mục Fran�ois Pallu v� Lambert de La Motte (cả hai l� người Ph�p) l�m gi�m mục, được sai sang Đ�ng � điều khiển việc truyền gi�o.[42]

Sau cha Đắc Lộ, nhiều gi�o sĩ d�ng T�n kh�c vẫn l�n l�t v�o xứ Nam tiếp nối c�ng cuộc, nhất l� để an ủi gi�o d�n trong thời b�ch hại của ch�a Nguyễn: cha M.. Saccano từ năm 1646 đến 1655, hai cha Fr. Rivas v� P. Marquez từ năm 1655 đến 1665. Đầu năm 1661, cuộc b�ch hại rất �c liệt, nhiều gi�o d�n được ph�c Tử đạo, như Pher� Văn Nết, Pher� Đang, Pher� K�, Micae Mi�n, Inhaxu Vang... Năm 1665, c�c thừa sai d�ng T�n bị trục xuất hết, c�c cha ra đi nhưng đ� để lại cho Gi�o hội miền Nam tr�n 50.000 gi�o d�n.[43]


II

GI�O HỘI Ở VIỆT NAM THỜI X�Y DỰNG V� TỔ CHỨC


1. C�ng cuộc truyền gi�o của hội Thừa sai Paris ở Bắc v� Nam H� (1658-1776)

Ng�y 9.9.1659, đức Th�nh Cha Alexanđr� VII c�ng bố sắc lệnh thiết lập hai địa phận Đ�ng Ngo�i (Bắc H�) v� Đ�ng Trong (Nam H�), trao quyền cho hai đức t�n gi�m mục Fran�ois Pallu v� Pierre Lambert de La Motte. Sau khi được tấn phong ở Roma, đức cha Pallu trở về Ph�p t�m người cộng t�c, được c�c cha d�ng Th�nh Thể hưởng ứng v� ủng hộ. Do việc n�y đ� khai sinh hội Thừa sai Paris (1660), tức Chủng viện đ�o tạo c�c gi�o sĩ, sẽ được gởi sang Đ�ng � trợ gi�p c�c gi�m mục Đại diện T�ng t�a. Đức cha Lambert c�ng với hai cha J. de Bour�ges v� Fr. Deydier tới Juthia (Xi�m) ng�y 22.8.1662. Hai năm sau, đức cha Pallu c�ng với c�c cha L. Chevreuil, A. Hainques, L. Laneau v� P. Brindeau cũng tới Juthia. Hai đức cha t�m đường v�o Việt Nam, nhưng kh�ng thể v�o được, v� đang c� cuộc b�ch hại đạo ở cả hai miền Bắc Nam, sự c� mặt của c�c ng�i sẽ l�m cho vua ch�a th�m gh�t đạo. Ng�y 17.1.1665, đức cha Pallu trao quyền địa phận miền Bắc cho đức cha Lambert để trở �u Ch�u, lo t�m th�m thợ truyền gi�o. Trong khi đ�, thừa sai Chevreuil đ� lọt v�o miền Nam Việt Nam qua cửa Hải Phố ng�y 26.7.1664, bắt li�n lạc với mấy cha d�ng T�n c�n đang hoạt động ở đấy. Nhưng năm sau, tất cả đều bị trục xuất. [44]

Th�ng 8 năm 1665, cha Chevreuil lại được cử v�o Đ�ng Trong với cha Hainques, hai cha rửa tội th�m mấy trăm người mỗi năm. Hai năm sau, cha Hainques t�m c�ch gởi th�y giảng Giuse Trang 28 tuổi, sang Xi�m để được phong linh mục. Đức cha De La Motte, phong cho th�y ng�y �p lễ Phục sinh (31.3) năm 1668. Cũng năm ấy, đức cha phong cho vị t�n linh mục thứ hai của miền Nam, cha Luca Bền. Hai t�n linh mục ở lại học th�m một năm, trước khi trở về Đ�ng Trong. Th�ng 12 năm 1670, cha Hainques qua đời, cha Chevreuil được gọi về Ph�p, cả gi�o đo�n xứ Nam chỉ c� hai linh mục người Việt.[45]

M�a xu�n năm 1666, đức cha Lambert de La Motte thay quyền đức cha Pallu, cử thừa sai Deydier sang Đ�ng Ngo�i với chức bề tr�n địa phận. Cha Deydier cải trang l�m một thủy thủ v� được một t�u bu�n H� Lan đưa tới Thăng Long. Việc thứ nhất của cha ch�nh Deydier l� họp c�c th�y giảng lại (15.10.1666), để tuyển chọn những th�y c� khả năng l�n chức linh mục. Hai th�y Biển đức Hiền 54 tuổi, Gioan Huệ 46 tuổi, l� những người được chọn lựa đầu ti�n; hai th�y đ�p t�u sang Xi�m ng�y 24.2.1668. Sau gần hai th�ng tĩnh t�m, hai th�y đ� được phong linh mục. Lẽ ra hai cha ở lại học th�m, nhưng v� xứ Bắc đang cần gấp linh mục, n�n hai cha đ� l�n t�u về nước v�o mấy th�ng sau. Th�ng 7 năm 1669, một chuyến t�u Ph�p đưa đức cha Lambert c�ng hai thừa sai De Bourges v� Bouchard từ Xi�m đến thăm Đ�ng Ngo�i. Đức cha tới Phố Hiến hồi th�ng 9, được giới thiệu với ch�nh quyền l� tuy�n �y của đo�n thủy thủ, c�n hai thừa sai cải trang l�m thương gia, n�n cả ba lọt v�o xứ Bắc dễ d�ng.

Trong 6 th�ng ở Đ�ng Ngo�i, đức cha truyền chức cho 7 t�n linh mục v� 48 th�y chức nhỏ, triệu tập c�ng đồng thứ nhất Bắc H� tại Dinh Hiến - Phố Hiến (14.2.1670), [46] cải c�ch c�c tổ chức truyền gi�o, cắt cử c�c cha, tuyển mộ chủng sinh, đưa ra nhiều chỉ thị về việc ban ph�t c�c b� t�ch, nhận th�nh Giuse l�m Bổn mạng Gi�o hội Việt Nam. Sau đấy hai tuần lễ, nhằm lễ Tro (19.2) đức cha ban Sắc th�nh lập d�ng Mến Th�nh gi�, với một hiến ph�p đ� dọn sẵn, chủ sự lễ khấn của hai nữ tu đầu ti�n: Chị In� v� chị Phaola tại Ki�n Lao. Cũng ng�y ấy, ngay sau lễ khấn của hai chị, đức cha vội rời khỏi xứ Bắc để trở về Xi�m. Năm 1671, đức cha Lambert c�ng với hai cha Mahot v� Vachet t�m c�ch v�o Đ�ng Trong. Ng�y 1 th�ng 9, đức cha tới Phan R� v�o ch�nh l�c c� cơn b�ch hại. Đức cha l�n bộ đi Phan Rang v� ở lại đ�y hơn 7 tuần lễ. Sau đ�, đức cha ra xứ Quảng thăm viếng gi�o d�n v� c�c thừa sai. Cũng năm 1671, đức cha thiết lập tu viện Mến Th�nh gi� thứ hai tại l�ng An Chỉ (Quảng Ng�i). Sang năm sau, đức cha triệu tập c�ng đồng Hải Phố (19.1), rồi xuống Nước Mặn đặt cha Giuse Trang coi s�c gi�o d�n v�ng n�y. Ng�y 29.3.1872, đức cha v� cha Vachet từ gi� Đ�ng Trong trở về Xi�m.

Đức cha Pallu, khi việc ở �u ch�u đ� xong, cũng trở lại Xi�m ng�y 3.9.1673. Đức cha quyết định đi kinh l� Đ�ng Ngo�i, nhưng t�u bị b�o đ�nh giạt sang Philippin ng�y 19.10.1674. Nh�n dịp n�y, đức cha tới gặp c�c bề tr�n d�ng Đaminh ở Manila xin gởi người sang Việt Nam hợp t�c; rồi từ ấy ng�i trở về Roma. Năm 1679, T�a th�nh đặt đức cha l�m Đại diện T�ng t�a lại miền Nam Trung Hoa, qua đời tại Cheng Ch�u (Ph�c Kiến) ng�y 29.10.1684 Địa phận Đ�ng Ngo�i được chia hai c� s�ng Hồng v� s�ng L� l�m ranh giới: địa phận T�y trao cho đức cha De Bourges; địa phận Đ�ng, đức cha Deydier.

Th�ng 9 năm 1675, đức cha Lambert từ Xi�m sang thăm Đ�ng Trong một lần nữa. L�c n�y cuộc b�ch hại đ� giảm. Hiền vương Nguyễn Ph�c Tần cho ph�p đức cha muốn ở lại bao l�u t�y �, chỉ y�u cầu đừng tổ chức những cuộc hội họp rầm rộ đ�ng người. Đức cha l�n tận phủ ch�a ở Kim Long (Huế) ở lại nửa th�ng, rồi đi kinh l� khắp nơi. Th�ng 5 năm sau, đức cha đ�p t�u trở lại Xi�m, nhưng đ� để lại ba thừa sai: cha Courtaulin ở Quảng Ng�i, Qui Nhơn; cha Vachet ở Thuận H�a; cha Bouchard xuống ph�a nam. Đức cha Lambert từ trần tại Juthia năm 1679, thọ 55 tuổi. Thời ng�i, địa phận Đ�ng Trong c� cả trăm người được ph�c Tử đạo (từ 1664 đến 1675). Trong hai lần thăm viếng địa phận, đức cha ban ph�p Th�m sức cho tr�n 10.000 người. Số gi�o d�n năm 1679 v�o khoảng từ 70.000 đến 80.000.[47] Ngo�i ra, đức cha c�n c� c�ng thiết lập tại Juthia một chủng viện (1665), d�nh ri�ng cho h�ng gi�o sĩ Việt Nam. Một thế kỷ sau, chủng viện n�y được đưa v�o H�n đất (H� Ti�n), sau c�ng đưa sang P�nang (M� Lai).[48]

Năm 1679, địa phận Đ�ng Ngo�i chia th�nh hai: T�y v� Đ�ng, đ� được trao cho hai đức cha Deydier (đp Đ�ng) v� De Bourges (đp T�y), với sự cộng t�c của 7 thừa sai Ph�p, 3 cha d�ng Đaminh T�y Ban Nha, một số gi�o sĩ d�ng T�n v� �utinh, 11 linh mục Việt c�ng nhiều th�y giảng. Tuy đ�i khi xảy ra những vụ đụng độ về quyền h�nh giữa c�c gi�o sĩ Thừa sai Paris v� d�ng T�n Bồ Đ�o Nha, nhưng c�ng việc truyền gi�o vẫn tiến đều. Việc đ�o tạo h�ng gi�o sĩ Việt được đặt l�n h�ng đầu với một tiểu chủng viện ở Nghệ An.[49] Năm 1693, đức cha Deydier qua đời, đức cha De Bourges ki�m nhiệm địa phận Đ�ng, c� thừa sai Ed. B�lot l�m gi�m mục ph�. Năm 1698, địa phận Đ�ng được trao cho một gi�m mục d�ng Đaminh: đức cha R. Lezoli Cao.

Địa phận Đ�ng Trong (Nam H�), kế vị đức cha Lambert de La Motte l� đức cha G. Mahot (1680-84), thời ng�i c� c�ng đồng Hải Phố II (26.10.1682); đức cha J. Duchesne (1684) chỉ cai quản địa phận được 2 ng�y; đức cha Fr. P�rez (1691-1728) l� người lai Bồ Đ�o Nha, thời n�y c� cuộc b�ch hại đạo (1698-1704) của Nguyễn Ph�c Chu; đức cha Alessandro (1728-38) người �, thời ng�i gặp nhiều kh� khăn rắc rối: cuộc tranh chấp d�ng triều, lễ nghi t�n gi�o, khiến c�ng cuộc truyền gi�o phải chậm lại.

Năm 1747, đức cha Hilario Hy d�ng �utinh gi�m mục địa Phận Đ�ng Đ�ng Ngo�i được T�a th�nh cử l�m Kh�m sai, triệu tập c�ng đồng Ph� Xu�n. Đến tham dự c� c�c cha d�ng T�n, d�ng Phan sinh, hội Thừa sai Paris. C�ng đồng nhằm giải quyết nhiều vấn đề rắc rối, nhất l� lễ nghi t�n gi�o. Từ năm 1760, V� vương Nguyễn Ph�c Kho�t (1738-65) cấm đạo, Gi�o hội Đ�ng Trong trải qua những giai đoạn đau thương đẫm m�u, c�c thừa sai bị trục xuất, chỉ c�n lại mấy linh mục Việt. Đức cha Lef�bvre chạy sang Cao Mi�n qua đời ở đấy năm 1760, đức cha G. Piguel l�n kế vị. Năm 1765, V� vương mất, Định vương Nguyễn Ph�c Thuần (1765-77) l�n kế nghiệp v� tha đạo. Đức cha Piguel trở về địa phận; ng�i mất năm 1771. Đức cha P. Pigneau de B�haine, tức B� Đa Lộc, l�n thay.

Địa phận T�y Đ�ng Ngo�i (Bắc H�), năm 1712, Trịnh Cương (1706-29) rồi Trịnh Giang (1729-40) cấm đạo. Hầu hết c�c th�nh đường bị triệt hạ, đất đai của nh� chung bị tịch th�u. H�ng trăm người được ph�c Tử đạo, trong số n�y c� hai linh mục d�ng T�n Messari v� Bucharelli, bốn th�y giảng, một th�y s�i t�n t�ng. Hai đức cha De Bourges v� B�lot c�ng thừa sai Guisain bị bắt bỏ xuống thuyền chở sang Xi�m. Nhưng khi tới Nghệ An, th� một chiếc thuyền C�ng gi�o cướp lại được đức cha B�lot v� cha Guisain. Đức cha De Bourges về tới Xi�m, từ trần v�o 2 năm sau, thọ 81 tuổi.

Đức cha Ed. B�lot cai quản địa phận được 3 năm, th� qua đời (1717), đức cha Fr. Guisain l�n thay thế cho tới nărn 1723. Sau đấy, trong 15 năm địa phận T�y chỉ c� thừa sai L. N�ez giữ chức cha ch�nh. Năm 1738, cha N�ez được tấn phong gi�m mục v� cai trị địa phận cho tới khi qua đời năm 1764. Đức cha B. Reydellet l�n nối quyền, lập tiểu chủng viện v� dại chủng viện Vĩnh Trị. Hồi đ�, địa phận T�y c� 29 linh mục Việt, 15 đại chủng sinh, 40 tiểu chủng sinh v� 20 nữ tu Mến Th�nh gi�.


2. C�ng cuộc truyền gi�o của c�c Cha d�ng Đaminh ở Bắc H� (1676-1776)

Năm 1671, khi đức cha Lambert tới thăm Đ�ng Trong lần thứ nhất nhận thấy cần phải c� nhiều thừa sai cho c�nh đồng truyền gi�o bao la đầy hứa hẹn n�y, đ� sai cha Bouchard sang Manila xin d�ng Đaminh đến gi�p. Ba năm sau, đức cha Pallu tr�n đường v�o thăm địa phận xứ Bắc bị b�o đ�nh giạt sang Phihppin, cũng đến gặp c�c bề tr�n d�ng Đaminh, n�i lại việc gởi người sang cộng t�c. Khi ấy c�c thừa sai T�y Ban Nha c�n phải d� dặt để tr�nh đụng đầu với người Bồ Đ�o Nha, dầu vậy cha bề tr�n tỉnh d�ng Rất Th�nh M�n c�i cũng mạnh bạo gởi l�n sang Việt Nam hai cha Juan de Santa Cruz v� Juan de Arjona. Đầu năm 1676 hai nh� truyền gi�o xuống thuyền của người Trung Hoa đi Batavia, rồi nhờ một t�u bu�n Anh đưa v�o Bắc Việt, tới Phố Hiến ng�y 7 th�ng 7 năm ấy, giữa cơn b�ch hại đạo của Trịnh Tạc (1657-81). Hai cha ở lại Phố Hiến gần 7 th�ng, rồi đi nhận họ đạo Trung Linh, để từ đấy c� thể hoạt động sang c�c l�ng l�n cận. Th�ng 8 năm sau, th�m cha D. Morales cũng từ Manila sang.

Năm 1681, hai cha De Arjona v� Morales bi bắt v� bị trục xuất. Nhưng cũng năm ấy, cha R. Lezoli Cao người � tr� h�nh l�m một y sĩ tới Phố Hiến v� được cha Juan de Santa Cruz đ�n về Trung linh. Khu vực truyền gi�o của hai cha bấy giờ l� cả xứ Nam (gồm Nam Định, Hưng Y�n, Th�i B�nh ng�y nay), đ� c� sẵn gần 70 th�nh đường với con số gi�o d�n tr�n 18.000, do c�c gi�o sĩ d�ng T�n để lại. Năm 1686, cha Juan mang t�n Việt l� Thập được đặt l�m cha ch�nh, đại diện bề tr�n tỉnh d�ng ở Manila. Theo sổ thống k� năm 1690, hai thừa sai Đaminh rửa tội 725 trẻ em, 486 người lớn, trong số c� 25 tăng ni; giải tội 14.250.[50] Năm 1692, khu truyền gi�o Đaminh được th�m hai cha A. Berriain v� T. Gorrichategui. Nhưng v� cuộc b�ch hại qu� gắt gao ở xứ Nam, hai cha phải bỏ v�o Thanh H�a. Cha Berriain t�m đường sang Ai Lao giảng đạo; nhưng cha l�m bệnh qua đời tại Kẻ Trắng năm 1695, v� được cha Gorrichategui đưa thi h�i về Trung Linh ch�n t�ng trong th�nh đường. Sau đ�, ba nh� truyền gi�o trốn ra xứ Đ�ng (Hải D�ơng) ẩn tr� trong l�ng Kẻ Sặt. Th�ng 8 năm 1696, th�m hai cha mới đến l� P. Bustamante Hy v� Fr. Lopez Lộ; nh�n c� chuyến t�u, cha ch�nh Juan Thập cho cha Gorrichategui trở về Manila v� l� do sức khỏe. Năm 1697, cả bốn cha bỏ xứ Đ�ng trở về Nam, v� t�nh h�nh đ� tạm y�n.

Năm 1698, cha Lezoli được T�a th�nh đặt l�m gi�m mục cai quản địa phận Đ�ng kế vị đức cha Deydier Phan đ� mất từ năm 1693. Ng�y 2.2.1702, đức cha đi thăm cả địa phận, ban ph�p Th�m sức cho nhiều người lớn. Đức cha qua đời năm 1706, khi mới 49 tuổi cha ch�nh Juan Thập nhận quyền Đại diện T�ng t�a cai quản địa phận. S�u năm sau, cuộc b�ch hại của Trịnh Cương (1706-29) bắt đầu: c�c th�nh đường phải triệt hạ, c�c đồ thờ bị thi�u hủy, c�c thừa sai bị l�ng bắt. Chỉ trong một thời gian ngắn, 174 th�nh đường của địa phận bị ph� hủy hoặc tịch th�u, 304 gi�o d�n bị th�ch tự v�o mặt. Cuộc b�ch hại đang đi v�o quyết liệt, th� thi�n tai theo nhau đổ xuống trong hai năm 1713-14: đ�i kh�t, �n dịch, b�o lụt t�n ph� dữ dội, giặc gi� nổi l�n khắp nơi, l�ng Kẻ Sặt bị đốt ra tro, chỉ c� th�nh đường may mắn tho�t nạn. C�c thừa sai nắm lấy cơ hội thi h�nh sứ mạng b�c �i, rửa tội được nhiều trẻ em. Ri�ng năm 1714, bốn cha d�ng rửa tội cho 1.165 người lớn, 1.389 trẻ em, giải tội 2177 người, xức dầu 364 bệnh nh�n.[51]

Năm 1718, cha ch�nh Juan Thập nhận được Sắc T�a th�nh k� từ ng�y 3.4.1716, phong l�m gi�m mục địa phận Đ�ng, đồng thời đặt cha Sextri Tri người � cũng d�ng Đaminh, l�m gi�m mục ph�. Bấy giờ ở Đ�ng Ngo�i kh�ng c� gi�m mục, n�n cha Sextri phải sang Manila để được tấn phong rồi về nh� tấn phong cho cha Juan. Đức cha Juan Thập qua đời năm 1721, thọ 75 tuổi, ở Việt Nam 45 năm. Đức cha Sextri Tri ch�nh thức cai quản địa phận cho tới năm 1737. Sau đ�, T�a th�nh đặt một vị gi�m mục d�ng �utinh cũng người �, tức đức cha Hilario di Ges� Hy, ng�i cai địa phận cho tới năm 1756. Từ đấy, T�a th�nh quyết định trao địa phận Đ�ng cho d�ng Đaminh thuộc tỉnh Rất Th�nh M�n c�i Philippin, v� gọi c�c thừa sai �utinh về �u ch�u hoặc sang giảng đạo b�n Trung Hoa.[52]

Sau một thời gian tương đối th�i b�nh, năm 1737 Trịnh Giang (1729-40) lại cấm đạo. Ngay năm ấy, bốn cha d�ng T�n Alvarez, Cratz, D'Abreu v� Da Cunha vừa từ Macao đến, liền bị bắt v� chịu trảm quyết ở v�ng phụ cận Thăng Long ng�y 12 th�ng 1. Cha Posgrau Băng bị bắt v� được nếm m�i lao t� cho tới khi gi�o d�n chuộc lại được. Cũng năm 1737, cha Francisco Gil de Federich Tế bị bắt tại Lục Thủy v� đưa về giam ở Thăng Long. S�u năm sau, đến lượt cha Mateo Alonso Liciniana Đậu cũng bị bắt ở Lục Thủy v� dẫn về Thăng Long. Tuy bị giam giữ, nhưng hai cha vẫn được đi lại trong th�nh phố thăm viếng gi�o d�n v� ban ph�t c�c b� t�ch. Hai cha chịu trảm quyết ng�y 22.1.1745: đ� l� những vị tử đạo Đaminh ti�n khởi ở Đ�ng Ngo�i.[53]

Năm 1758, cha J. Hern�ndez Tuấn được tấn phong gi�m mục ở Roma, kế vị đức cha Hilario; ng�i l� vị gi�m mục đầu ti�n của địa phận Đ�ng được ủy th�c cho d�ng Đaminh. Từ đ�y c�c nh� truyền gi�o Đaminh sang mỗi năm th�m đ�ng. Năm 1763, khi đức cha Hern�ndez về nhận quyền, địa phận c� tất cả 22 cha d�ng, kh�ng kể đức cha, gồm 8 T�y, 14 Việt, v� khoảng 10 linh mục triều. Năm 1769, đề b� v�o con số bị giam giữ v� qua đời, c�c bề tr�n cử ngay sang một l�c bốn cha: J. Castaneda Gia, J. Lavilla, Fr. Cortes v� Domingo de San Vicente.

Cũng n�n biết từ tiền b�n thế kỷ XVIII, d�ng Đaminh đ� bắt đầu nhận c�c thanh ni�n Việt Nam gia nhập d�ng, trong số n�y c� nhiều người đ� được gởi sang học b�n Manila: Hai tu sĩ khấn d�ng đầu ti�n năm 1738 l� cha Pi� de Santa Cruz v� Gioan de Santo Domingo, nghĩa tử của đức cha Juan de Santa Cruz. Từ năm ấy cho đến 1877, d�ng Đaminh người Việt c� con số 138 tu sĩ (137 linh mục, 1 th�y 4 chức), trong số n�y 36 vị được ph�c tử đạo, 11 đ� được tuy�n th�nh.

Đức Cha Hern�ndez Tuấn nhận quyền địa phận v�o những năm b�ch hại �c liệt nhất của thời L� Cảnh Hưng (1740-86) v� Trịnh S�m (1767-82). Nhiều gi�o sĩ, th�y giảng bị bắt: Cha Vinhsơn Li�m v� cha Jacinto Castaneda Gia chịu trảm quyết ở Thăng Long ng�y 7.11.1773. Nhiều gi�o d�n cũng bị bắt v� chịu tra tấn d� man bằng những tấm sắt nung đỏ �p v�o mặt. Th�y giảng Emmanuel Triệu v� 20 gi�o d�n chịu trảm quyết c�ng ng�y 29.1.1777 ở Hải Dương. Tr�n 200 th�nh đường bị triệt hạ, phần lớn thuộc xứ Nam. Cuộc b�ch hại l�m cho đức cha Hern�ndez vị chủ chăn, lo �u đến kiệt sức, qua đời ng�y 6.2.1777 tại B�i Chu, thọ 54 tuổi sau 27 năm truyền gi�o.


3. Gi�o hội Việt Nam thời T�y Sơn (1777-1802)

V� vương Nguyễn Ph�c Kho�t (1738-65) lập cung điện ở Ph� Xu�n (Huế) v� phong cho người con thứ l� Nguyễn Ph�c Hiệu l�m thế tử. Năm 1765 V� vương mất, thế tử cũng đ� mất, m� con của thế tử l� Nguyễn Ph�c Dương c�n nhỏ. Tờ di chiếu lập con thứ hai của V� vương l� Hiếu Khương vương l�n nối nghiệp, nhưng khi ấy quyền thần Trương Ph�c Loan đổi tờ di chiếu, lập con thứ 16 của V� vương mới 12 tuổi, tức Định vương Nguyễn Ph�c Thuần (1765-77). Trương Ph�c Loan nắm hết quyền b�nh, l�m nhiều điều gian �c khiến trong nước ai cũng o�n giận. V� thế ở miền Nam tại ấp T�y Sơn c� ba anh em Nguyễn Lữ v� Nguyễn Huệ dấy binh đ�nh chiếm Qui Nhơn. Trong khi đ�, ch�a Trịnh đem qu�n v�o chiếm Ph� Xu�n, khiến cơ nghiệp nh� Nguyễn phải sụp đổ.

Chiếm Qui Nhơn song, anh em T�y Sơn đem qu�n chiếm Quảng Ng�i, Quảng Nam; rồi quay v�o Nam đ�nh ch�a Nguyễn, bắt được Định vương đem giết đi (1777) c�ng với c�c con ch�u, chỉ c� Nguyễn �nh con của Hiếu Khương vương chạy tho�t. Từ đấy Nguyễn Nhạc l�n ng�i Vua đ�ng đ� ở Qui Nhơn, hạ chiếu cấm đạo. năm 1782, nh� T�y Sơn chiếm Gia Định nơi Nguyễn �nh xưng Vương từ năm 1780, khiến Nguyễn �nh phải bỏ chạy ra Ph� Quốc, cầu cứu Xi�m, rồi cầu viện Ph�p qua trung gian đức cha Pigneau de B�haine, tức B� Đa Lộc, gi�m mục Đ�ng Trong (từ năm 1771). Năm 1786 vua T�y Sơn sai em l� Nguyễn Huệ ra đ�nh Thuận H�a lấy cớ �ph� L� diệt Trịnh�.

T�y Sơn đ� cắt đứt giao th�ng giữa miền Trung v� miền Nam; dầu vậy, c�c thừa sai vẫn tiếp tục v�o hoạt dộng ở cả hai miền. Miền Trung năm 1763 c� ba gi�o sĩ Labartette, Longer, Darcet, v� một số linh mục bản quốc. V� mất li�n lạc với miền Nam, năm 1782 cha Labartette được cử l�m gi�m mục ph� đảm nhiệm miền Tnmg, nhưng 11 năm sau mới được tấn phong. Gi�o đo�n miền trung rơi v�o tay T�y Sơn v� chịu b�ch hại li�n mi�n. Ở sDinh C�t (Quảng Trị), trụ sở của cha Longer, gi�o d�n chết qu� nửa, phần v� T�y Sơn s�t hại, phần v� �n dịch ho�nh h�nh. Năm 1798, cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu, gi�o sĩ địa phận Đ�ng Đ�ng Ngo�i, chịu trảm quyết ở Ph� Xu�n c�ng với 30 gi�o d�n. C�c quan b�y ra rất nhiều h�nh khổ mới lạ v� c�ng d� man: đ�ng đinh v�o v�n rồi cho phơi nắng, đổ dầu v�o rốn v� cho bấc đốt, buộc t�c l�n x� nh�, buộc ng�n ch�n l�n đầu lộn xuống, t�ng xẻo v.v...[54]

Năm 1786, sau khi chiếm được Thuận H�a, Nguyễn Huệ tự � đ�nh thẳng ra Bắc: Trịnh Khải (1783-86) bị bắt, tự vẫn chết. Quyền b�nh ở Bắc H� được trao trả vua L�; nhưng v� L� Chi�u Thống (1786-88) bất t�i, để Trịnh Bồng cướp lại quyền. Vua L� cầu cứu Nguyễn Hữu Chỉnh l� tay ch�n của Nguyễn Huệ ở Nghệ An; �ng n�y dẹp được họ Trịnh nhưng rồi cũng chuy�n quyền kh�ng kh�c ch�a Trịnh, khiến Nguyễn Huệ phải can thiệp: Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết. Nhưng vua Chi�u Thống sang Trung Hoa cứu viện nh� Thanh. Năm 1788, nh� Thanh ph�i T�n Sĩ Nghị đem đại qu�n sang đ�nh T�y Sơn, Nguyễn Huệ thấy nước l�m nguy, tự xưng ho�ng đế hiệu Quang Trung, cất binh đ�nh tan qu�n Thanh ng�y 5 Tết 1789. Chiếm Bắc H�, Quang Trung thống nhất Việt Nam, đ�ng đ� ở Ph� Xu�n (Huế). Năm 1792 vua Quang Trung băng h�, con l� Quang To�n l�n kế nghiệp, tức Cảnh Thịnh (1792-1802).

Đ� l� t�nh h�nh ch�nh trị ở Bắc H�, khi đức cha J. Davoust l�n thay thế đức cha Reydellet, cai quản địa phận T�y Đ�ng Ngo�i từ năm 1780. Khi địa phận l�m cảnh loạn lạc, tr�n 2.000 gi�o d�n di tản sang Ai Lao; cha Le Breton v� hai th�y giảng c�ng đi với họ để lo việc giảng dạy. Năm 1789, đức cha Davoust mất, cha J. Longer Gia một gi�o sĩ Đ�ng Trong được cử l�m gi�m mục, ng�i đi bộ sang Macao để được tấn phong, rồi về tấn phong cho đức cha Alonso Ph� (1793) địa phận Đ�ng, đức cha Labartette (1793) địa phận Đ�ng Trong v� đức cha La Motte (1796) l�m gi�m mục phụ t�. Đo�n thừa sai địa phận T�y bấy giờ, kh�ng kể hai đức cha, chỉ c� bốn vị: De La Bissach�re, Leroy, Gu�rard v� Lepavec.

Cuộc b�ch hại trở n�n �c liệt từ năm 1798 dưới thời Cảnh Thịnh, sau khi nh� Vua bắt được một bức thư của Nguyễn �nh gởi cho gi�m mục Labartette ở Ph� Xu�n, việc n�y l�m cho Cảnh Thịnh nghi người C�ng gi�o muốn dấy loạn. Ngay năm ấy, linh mục Gioan Đạt bị giết ở Thanh H�a ng�y 28 th�ng 10. C�c gi�o sĩ Ph�p, Việt đều phải l�m hầm tr� ẩn, hoặc chạy trốn v�o rừng hay ra hoang đảo; mỗi khi muốn viếng thăm gi�o d�n phải l�n l�t, tr� h�nh.

Địa phận Đ�ng Đ�ng Ngo�i, từ khi đức cha Obelar Kh�m l�n kế vị đức cha Hern�ndez năm 1778, đ� trở th�nh b�i chiến trường giữa Bắc H� v� Nam H�, rồi giữa T�y Sơn v� qu�n Thanh. Chiến tranh g�y nhiều thiệt hại cho địa phận: nhiều th�nh đường, nh� chung ra tro, nhiều l�ng C�ng gi�o bị cướp ph�. Năm 1789, đức cha Obelar qua đời, địa phận chỉ c�n ba thừa sai l� cha ch�nh Alonso Ph� nắm quyền Đại diện T�ng t�a v� hai cha Benilo v� Cort�s, với 16 cha d�ng người Việt, v�i ba linh mục triều. Nhưng ngay năm sau, Marnila đ� sai sang th�m bốn cha I. Delgado Y, D. Henares Minh, J. Gatillepa v� M. Vidal. Năm 1790, T�a th�nh gởi Sắc phong gi�m mục cho cha ch�nh Alonso, ng�i được đức cha Longer Gia địa phận T�y tấn phong ng�y 20.3.1793 tại Trung Linh.

Dưới thời b�ch hại của T�y Sơn, nhờ t�nh bằng hữu giữa đức cha Alonso Ph� v� quan trấn xứ Nam, m� địa phận Đ�ng tr�nh được nhiều thiệt hại v� cảnh bắt bớ. Tuy nhi�n, c�c cha cũng phải kh�n kh�o lẩn trốn v� tr�nh những cuộc hội họp đ�ng người. Trong khi cuộc b�ch hại của vua Cảnh Thịnh diễn ra khắp nơi, nhất l� ở miền Trung, th� đức cha Alonso Ph� cứ đi thăm viếng c�c gi�o xứ, tựa như kh�ng c� chuyện g� xảy ra. Đức cha l�n tận xứ Bắc (Bắc Ninh), tại đ�y ng�i l�m bệnh sốt r�t rừng, phải quay trở về, nhưng đến Lai Ơn th� từ trần ng�y 2.2.1799. C�i chết của đức cha Alonso tr�t hết g�nh nặng cho đức cha Delgado Y mới 39 tuổi, đ� được tấn phong l�m gi�m mục từ ng�y 20.9.1795.


4. Đức cha B� Đa Lộc với Nguyễn �nh Gia Long

Trong Nam H�, năm 1784 đức cha B� Đa Lộc đem ho�ng tử Cảnh sang Ph�p cầu cứu. Nhưng nước Ph�p bấy giờ đang ở t�nh trạng bất ổn, n�n việc kh�ng th�nh. Tuy nhi�n, đức cha cũng vận động được một số người t�nh nguyện, với chiến thuyền, s�ng ống, đạn dược. Trong khi đ�, trong nước nhờ c� nhiều tướng t�i giỏi như V� T�nh, Nguyễn Văn Th�nh, V� Di Nguy, Nguyễn Vương đ� chiếm lại được to�n c�i Gia Định (1788-89), chờ ng�y Bắc tiến. Th�ng 7 năm 1789, chiến thuyền M�duse đưa đức cha, ho�ng tử v� c�c �ng Chaigneau, Vannier, Forcant, Ollivier, Dayot, tới cửa Vũng T�u.

C�c �ng n�y kh�ng những l� cố vấn qu�n sự m� c�n l� những chiến sĩ tận t�nh gi�p Nguyễn �nh đ�nh T�y Sơn. Dayot l�m cố vấn bộ chỉ huy hải qu�n, Ollivier l�m cố vấn bộ chỉ huy lục qu�n, tất cả đặt dưới quyền tư lệnh tối cao của Nguyễn vương. Được viện binh rồi, hải qu�n của Nguyễn ra đ�nh Qui Nhơn. L�c n�y anh em T�y Sơn bắt đầu chia rẽ v� suy yếu, nhất l� từ khi Quang Trung Nguyễn Huệ mất (1792). Nhưng m�i đến năm 1799, Nguyễn vương mới chiếm được th�nh Qui Nhơn, cải t�n l� B�nh Định.[55]

Đức cha B� Đa Lộc tuy bận c�ng việc gi�p đỡ Nguyễn vương, nhưng vẫn kh�ng bỏ phận sự chủ chăn v� truyền gi�o. Việc ng�i nh�ng tay v�o ch�nh trị cũng chỉ mong cho xứ Truyền gi�o n�y được một �ng vua C�ng gi�o hay �t l� c� thiện cảm với đạo, để việc truyền b� Ph�c �m được tự do. Khi từ Ph�p trở lại Việt Nam, đức cha đưa sang th�m 10 thừa sai: Pocard, Lelabousse, Lavou�, Tarin, Leblanc, Boisserand, Pilon, Grillet, Austruy, Gire. Theo lời y�u cầu của Nguyễn vương, đức cha cho dời chủng viện ở Chantabun (Xi�m) về L�i Thi�u. Cha Boisserand được đặt l�m gi�m dốc. Con số 10 thừa sai n�i tr�n, trong v�ng 3 năm đ� mất bốn, v� kh�ng chịu được thủy thổ, đ� l� c�c cha Pocard, Tarin, Leblanc v� Pilon. Đời V� vương (1738-65), gi�o d�n miền Nam v�o khoảng 100.000, nhưng trong thời chiến tranh v� b�ch hại nhiều người bỏ trốn sang Cao Mi�n, Xi�m La, n�n khi nh� Nguyễn kh�i phục giang sơn con số n�i tr�n chỉ c�n độ 60.000; nhiều th�nh đường bị đốt ph�, sụp đổ. C�ng việc của c�c thừa sai v� h�ng gi�o sĩ Việt Nam l�c n�y l� x�y dựng lại c�c cơ sở, gi�p đỡ an ủi gi�o d�n. Đức cha B� Đa Lộc h�ng năm đi thăm viếng c�c gi�o xứ, ra tận B�nh Thuận, Kh�nh H�a, Ph� Y�n. Tới đ�u gi�o d�n đều vui mừng đ�n rước, v� nhiều nơi đ� 15 hay 20 năm kh�ng được gặp linh mục. Năm 1799, đức cha l�m bệnh từ trần tại Di�n Kh�nh (Kh�nh H�a), được Nguyễn vương cho đưa về Gia Định ch�n t�ng rất long trọng trong khu vườn cạnh một ng�i nh� cũ của đức cha, mang t�n �Lăng Cha Cả�,[56] đức cha ph� Labartette l�n kế vị.

Năm 1801, Nguyễn Vương đ�nh chiếm Ph� Xu�n, vua Cảnh Thịnh phải chạy ra Bắc. Ng�y 31 th�ng 5 năm (1802) Nguyễn �nh l�n ng�i tại Ph� Xu�n hiệu Gia Long, rồi c�ng Nguyễn Văn Trương l�nh thủy binh, L� Văn Duyệt v� L� Chất l�nh bộ binh, ra đ�nh Bắc H�: vua T�y Sơn bị giết. Gia Long tiến v�o Thăng long ng�y 22.7.1802, ho�n th�nh c�ng cuộc thống nhất giang sơn, đ� bị chia xẻ từ tiền b�n thế kỷ XVI.

Để tỏ l�ng biết ơn đức cha B� Đa Lộc trong c�ng cuộc thống nhất Nam Bắc, vua Gia Long tuy�n bố hủy bỏ c�c chiếu chỉ cấm đạo, cho c�c gi�m mục, gi�o sĩ được tự do giảng đạo, x�y th�nh đường v� c�c cơ sở gi�o dục, b�c �i, cấm lương d�n kh�ng được h� hiếp người C�ng gi�o. Năm 1803, khi Gia Long đ� trở về kinh đ� Huế, ba gi�m mục Delgado (địa phận Đ�ng), Labartette (Đ�ng Trong), Havard (ph� địa phận T�y) v� cha ch�nh Liot (Đ�ng Trong) đến triều đ�nh đệ l�n một bức thư xin nh� vua ban chỉ dụ b�nh vực đạo như đ� hứa. Vua Gia Long như thường lệ tiếp kiến c�c gi�m mục rất niềm nở v� hứa sẽ l�m như c�c ng�i xin, nhưng c�n phải qua hội đồng Nội c�c.

Tại hội đồng Nội c�c, c�c quan phản đối kịch liệt cho rằng người C�ng gi�o �y�u s�ch qu� đ�ng�. Nhiều �ng c�n chỉ tr�ch v� y�u cầu nh� Vua cấm đạo, một �ng kh�c đ�i trục xuất hết c�c thừa sai ngoại quốc. Gia Long b�nh tĩnh nghe c�c quan lớn tiếng chống đối rồi trả lời cha ch�nh Liot rằng: �ng kh�ng thể chấp thuận đơn xin của c�c gi�m mục. Cuối năm 1803, c� tiếng đồn Gia Long sẽ c�ng bố một chiếu chỉ hạn chế quyền tự do giảng đạo. Nh�n dịp vua ra Thăng Long đ�n tiếp đại sứ đặc quyền nh� Thanh sang phong Vương, đức cha Longer Gia đến yết kiến. Nhưng th�i độ của Gia Long đ� thay đổi, kh�ng c�n l� một �ng ho�ng khi bị T�y Sơn đ�nh đuổi nữa. Nh� Vua tiếp đức gi�m mục một c�ch lạnh nhạt v� tr�nh n�i đến vấn đề t�n gi�o.

Trở về kinh đ�, ng�y 4.3.1804 Gia Long ra một chỉ dụ, tự phong l�m Gi�o chủ v� tự định đoạt lấy tất cả c�c vấn đề t�n gi�o. Trong chỉ dụ n�y, nh� Vua gọi đạo C�ng gi�o l� �Đạo ngoại quốc, dị đoan l�m m� hoặc ngu d�n�. Chỉ dụ c�n cấm người C�ng gi�o kh�ng được x�y cất th�m hay sửa chữa những th�nh đường hư n�t.[57] Thế l� vỡ mộng, đối với những thừa sai đ� tận t�nh gi�p đỡ nh� Vua l�c c�n l� Nguyễn �nh.

Năm 1820, vua Gia Long băng h�, ho�ng tử Đảm l�n ng�i Vua, tức Minh Mạng. Trong di chiếu, Gia Long c� tr�i cho Minh mạng đừng cấm đạo C�ng gi�o, trước l� để biết ơn đức cha B� Đa Lộc, sau l� để tr�nh những kh� khăn về ngoại giao.


III

GI�O HỘI Ở VIỆT NAM VƯƠN L�N TRONG TH�Ử TH�CH


1. Cuộc b�ch hại của vua Minh Mạng (1820-41)

Minh Mạng trước khi l�n cầm quyền đ� �c cảm với T�y phương v� đạo C�ng gi�o. Do đấy, ai cũng đo�n một cuộc b�ch hại sẽ xảy ra. Việc ngoại giao với T�y phương mỗi ng�y th�m lạnh l�ng, nhiều người Ph�p gi�p Gia Long trước đ�y ch�n nản xin về nước. Ng�y 12.2.1825, nh� Vua hạ chiếu chỉ: �T� Đạo của T�y phương l�m hại l�ng người, c�c đạo sĩ m� hoặc d�n ngu v� l�m hư hỏng phong tục. Như thế chẳng phải l� c�i họa lớn cho nước ta sao? Vậy ta phải ngăn cấm để d�n ta quy về ch�nh đạo�. Chiếu chỉ cấm đạo kh�ng mấy ảnh hưởng tại c�c địa phận miền Bắc, v� xa triều đ�nh, d�n ch�ng chưa muốn phục nh� Nguyễn, c�c quan hoặc c� đạo hoặc cảm t�nh với đạo. Chiếu chỉ khi v�o tới miền Nam, tả qu�n L� Văn Duyệt bấy giờ đang l� Kh�m sai ở Gia Định, n�i với c�c quan rằng: �C�c đạo trưởng đ� l�m g� n�n tội, m� phải bắt bớ họ ? ... Nh� Vua ban biết bao �n huệ cho c�c nh� sư, những người đ� l�m �ch lợi g� cho đất nước n�y? Nh� Vua kh�ng nhớ rằng: c�c thừa sai mới l� những người đ� cho ch�ng ta th�c gạo khi ch�ng ta đ�i, vải v�c khi ch�ng ta cần. Coi chừng, đừng c� đem sự v� �n để đền đ�p... Ch�nh ta sẽ l�n triều d�nh, để tr�nh b�y việc n�y�. [58]

Th�ng 12.1827, L� Văn Duyệt về Huế t�u tr�nh vua Minh Mạng nghe h�nh động của nh� Vua l� tr�i lẽ phải, tr�i với đường lối ch�nh trị rộng r�i kh�n ngoan của vua cha, đồng thời tr�nh b�y những hồ sơ của Gia Long nh�n nhận c�ng ơn của đức cha B� Đa Lộc đối với nh� Nguyễn: �T�u ho�ng thượng, ch�ng ta định bắt bớ c�c đạo trưởng người ch�u �u, trong khi ch�ng ta c�n đang nhai cơm do c�c vị đ� cung cấp cho ch�ng ta sao? Ai đ� gi�p ho�ng thượng lấy lại đất nước n�y ? H�nh như ho�ng thượng muốn mất nước ? T�y Sơn ch�m giết người C�ng gi�o, T�y Sơn mất ng�i. Vua xứ P�gou (Miến Điện) vừa đuổi c�c linh mục ra khỏi nước, liền bị x� khỏi ngai v�ng. H�nh như ho�ng thượng kh�ng c�n nhớ đến những c�ng ơn của c�c thừa sai. H�nh như mộ của thượng sư Pher� (B� Đa Lộc) kh�ng c�n ở giữa ch�ng ta ? Kh�ng được ! Bao l�u thần c�n sống, ho�ng thượng sẽ kh�ng l�m điều ấy. Khi thần chết rồi, ho�ng thượng muốn l�m g� th� l�m�.[59] Nghe lời bộc trực cứng rắn của thượng c�ng, Minh Mạng buộc l�ng ngưng kế hoạch của m�nh, nhưng căm giận họ L� lắm.

Th�ng 8 năm 1832, L� Văn Duyệt từ trần, Minh Mạng từ đ�y kh�ng c�n ai cản ngăn việc bắt bớ đạo nữa. Ng�y 6.1.1833, nh� Vua hạ chiếu chỉ cấm đạo to�n quốc: �Cấm c�c T�y dương đạo trưởng v�o nước, l�ng bắt cho hết c�c đạo trưởng ngoại quốc cũng như bản xứ, ti�u diệt mọi t�n hữu ở khắp nước v� ph� b�nh địa c�c nh� thờ, nh� chung�. Từ khi c� chiếu chỉ n�y, tr�n 400.000 gi�o d�n trong nước l�m v�ng đi�u đứng. Số người C�ng gi�o nối tiếp nhau ng� gục dưới lưỡi gươm của Minh Mạng, người ta được biết danh t�nh tr�n 100 gi�o d�n, 15 th�y giảng, 20 linh mục Việt v� 9 thừa sai nước ngo�i.

Ngay trong những năm đầu, cuộc b�ch hại diễn ra nặng nề trong địa phận T�y Đ�ng Ngo�i. Ng�y 11.10.1833, cha Pher� L� T�y bị giết ở Nghệ An. Từ ng�y ấy, c�c quan thi nhau đi l�ng bắt c�c gi�o sĩ v� tr�m trưởng để lập c�ng. Năm 1837 thừa sai ]ean Cornay T�n, th�y giảng Phanxic� Xavi� Cần bị trảm quyết ở Sơn T�y v� H� Nội. Sang năm 1838, linh mục Giacob� Đỗ Mai Năm. tr�m xứ Ant�n Nguyễn Đ�ch v� l� trưởng Micae Nguyễn Huy Mỹ cũng chịu xử ở Nam Định ng�y 12 th�ng 8; rồi đến đức cha Pierre Borie Cao, người kế vị đức cha Havard, c�ng với hai cha Vinh sơn Nguyễn Thời Điểm (80 tuổi) v� Pher� Vũ Đăng Khoa chịu chết ở Đồng Hới ng�y 24 th�ng 11 ; gần một th�ng sau, đến lượt ba th�y giảng Phaol� Nguyễn Văn Mỹ, Pher� Trương Văn Đường v� Pher� Vũ Văn Truật ở Sơn T�y. Cuối năm 1839, chịu trảm quyết ở H� Nội c� hai cha Pher� Trương Văn Thi v� Anr� Trần An Dũng Lạc. Năm 1840, cuộc b�ch hại �c liệt hơn nữa, rất đ�ng gi�o d�n, gi�o sĩ, gi�o d�n bị giết, trong số n�y c� những vị sau đ�y: ở H� Nội, linh mục Luca Vũ B� Loan; ở Nam Định, c�c linh mục Gioan Nguyễn Đ�nh Nghi, Mactin� Tạ Đức Thịnh, Phaol� Nguyễn Ng�n, l� trưởng Gioan Baptista Cỏn, nh�n vi�n thuế vụ Mactin� Thọ; ở Ninh B�nh linh mục Phaol� Phạm Khắc Khoan với hai th�y giảng Pher� Nguyễn Văn Hiếu, Gioan Baptisa Đinh Văn Th�nh; ở Đồng Hới, th�y giảng Pher� Nguyễn Khắc Tự v� tr�m xứ Ant�n Nguyễn Hữu Năm. [60]

Địa phận Đ�ng Trong cũng chịu một cuộc b�ch hại kh�ng k�m phần �c liệt Năm 1833, thừa sai Isidore Gagelin K�nh bị bắt ở B�nh Định v� đưa ra Huế, mang g�ng c�m cho tới khi bị xử giảo ng�y 17 th�ng 10, s�u ng�y sau đến lượt sĩ quan Phaol� Tống Viết Bường chịu trảm quyết. Cũng năm 1833, cha Odorico de Collodi d�ng Capuxin� bị bắt ở C�i Nh�m, dẫn ra Huế, chịu giam c�ng với thừa sai Fran�ois Jaccard Phan. Hai nh� truyền gi�o bị ph�t lưu sang Ai Lao: cha Odorico chết rũ t�, c�n cha Jaccard bị dẫn về Quảng Trị, tại đ�y cha được ph�c Tử đạo với chủng sinh T�ma Trần Văn Thiện ng�y 21.9.1838. Chịu chết ở Huế năm 1835, c� thừa sai Joseph Marchand Du ng�y 30 th�ng 11, qu�n nh�n Anr� Trần Văn Tr�ng ng�y 28 c�ng th�ng, y sĩ Simon Phan Đắc H�a ng�y 11.12.1840. Đức cha J. B. Taberd Từ, người kế vị gi�m mục Labartette (1827), đ� c�ng với mấy thừa sai Ph�p trốn sang Cao Mi�n v� Xi�m La. Ở Xi�m, nh� Vua bắt đức cha phải đứng l�n h� h�o d�n ch�ng lật đổ Minh Mạng, nhưng ng�i bỏ sang Singapor (1834).

Địa phận Đ�ng Đ�ng Ngo�i, trong những năm đầu của cuộc b�ch hại, c�c quan kh�ng r�o riết hoạt động, n�n c�n tạm y�n được mấy năm. Nhưng năm 1837, tuần phủ Hưng Y�n bị c�ch chức, tổng đốc Nam Định Trịnh Quang Khanh phải triệu về kinh bị quở mắng nặng lời. Trịnh Quang Khanh từ đ�y trở th�nh con người hung dữ đến t�n bạo, người ta gọi �ng l� �h�m x�m tỉnh Nam�. Quan qu�n từng đội từng vệ đi khắp nơi, kh�m x�t từng nh�, từng hầm hố. Địa phận Đ�ng v�o cuối đời Minh Mạng phải chịu những cơn b�o tố dữ dội nhất. Hai đức cha ch�nh ph� Delgado Y, Henares Minh đều gi� yếu, cha ch�nh Fern�ndez Hiền th� ốm đau lu�n, c�c ng�i sống ng�y đ�m dưới hầm tr�, chờ quan qu�n đến bắt. Chỉ c� cha Hermosilla Vọng l� khỏe mạnh, nhanh ch�n, phải coi s�c cả địa phận; tuy c� sự cộng t�c của tr�n 40 cha d�ng người Việt, một số linh mục triều, nhưng phần lớn cao ni�n, một số đ� bi bắt.

Năm 1838, hai đức cha, cha ch�nh c�ng bị bắt v� bị điệu về Nam Định. Đức cha Domingo Henares Minh v� th�y giảng Phansinh Đỗ Văn Chiểu chịu trảm quyết ng�y 25 th�ng 6; đức cha Ignacio Delgado Y chết rũ t� ng�y 12 th�ng 7, thọ 77 tuổi; ba ng�y sau linh mục Pher� Nguyễn B� Tuần cũng chết trong ngục; ng�y 24 th�ng 7, cha ch�nh Jos� Fern�ndez Hiền bị xử trảm; ng�y 21 th�ng 8 linh mục Giuse Đặng Đ�nh Vi�n bị xử ở Hưng Y�n. Cho đến năm 1840, c�n 8 linh mục d�ng người Việt được ph�c Tử đạo: cha Vinhsơn Đỗ Yến ở Hải Dương ng�y 30.6.1838; cha Pher� Nguyễn Văn Tự ở Bắc Ninh ng�y 5.9.1838; cha Đaminh Nguyễn Văn Hạnh c�ng với linh mục triều B�nađ� Vũ Văn Duệ ng�y 1.8.1838. Sang năm 1839, cha Đaminh Vũ Đ�nh Tước ng�y 2 th�ng 4, ng�y 26.11 hai cha T�ma Đinh Viết Dụ, Đaminh Nguyễn Văn Xuy�n; năm liền sau 1840, hai cha Giuse Vũ Duy Hiển, Đaminh Trạch ng�y 29 th�ng 5 v� 18 th�ng 9, tất cả đều bị giết ở Nam Định. Bậc th�y giảng, ngo�i th�y Phansinh Đỗ Văn Chiểu, c�n c�c th�y Giuse Nguyễn Đ�nh Uyển, Phanxic� Xavi� Mậu. Đaminh B�i Văn �y, T�ma To�n. H�ng gi�o d�n c� Giuse Ho�ng Lương Cảnh, �utinh Phan Viết Huy, Nicola B�i Đức Thể, Đaminh Đinh Đạt, T�ma Nguyễn Văn Đệ, �u tinh Nguyễn Văn Mới, St�phan Nguyễn Văn Vinh. Tất cả đều chịu chết trong những năm 1838-1839, ở Bắc Ninh v� Nam Định.

Năm 1839, thừa sai P. Retord Li�u nhận Sắc T�a th�nh phong gi�m mục địa phận T�y. Năm sau, ng�i phải sang Manila để thụ phong; trở về địa phận tấn phong tại Vĩnh Trị ng�y 25.4.1841, cho cha J. Hermosilla Li�m (Vọng) l�m gi�m mục địa phận Đ�ng. Trước đ�y một năm, đức cha E. Cu�not Thể, gi�m mục ph� địa phận Đ�ng Trong, cũng đ� l�n kế vị đức cha Taberd.

Đầu năm 1841, vua Minh Mạng ng� ngựa chết,[61] �t l�u sau Trịnh Quang Khanh cũng theo Minh Mạng xuống mồ. Gi�o hội được tạm y�n một thời gian dưới triều Thiệu Trị (1841-1847). Thiệu Trị cũng t�n bạo như vua cha, nhưng �ng kh�ng tuy�n bố hủy bỏ c�c chiếu chỉ cấm đạo, n�n việc b�ch hại vẫn c�n tiếp tục ở nhiều nơi: b� Agn� L� Thị Th�nh (Đ�) chết rũ t� ở Nam Định ng�y 12.7.1841; đ�ng một năm sau, cha Pher� Ho�ng Khanh chịu trảm quyết ở H� Tĩnh; Đ�ng Trong c� gi�o d�n Mathe� L� Văn Gẫm chịu h�nh h�nh ở Chợ Đũi (S�i G�n) ng�y 11.5.1847.

Lợi dụng t�nh thế tương đối y�n ổn, năm 1841 đức cha Cu�not Thể địa phận Đ�ng trong triệu tập c�ng đồng G� Thị (B�nh Định), nhằm x�c tiến việc đ�o tạo h�ng gi�o sĩ Việt, mở rộng đất truyền gi�o l�n Cao nguy�n, giảng đạo cho đồng b�o thượng.[62] Ở ngo�i Bắc c�c thừa sai đi lại tự do, c� thể lưu lại trong những họ đạo ch�nh, để gi�o d�n đến gặp v� xưng tội, rước lễ. C�c chủ chăn khuyến kh�ch gi�o d�n g�p c�ng t�i thiết th�nh đường, chuộc lại những người c�n bị giam giữ, x�y cất chủng viện, sửa chữa nh� phước, mở cửa lại c�c cơ sở từ thiện b�c �i. Năm 1844, T�a th�nh chia Đ�ng Trong th�nh hai địa phận: địa phận Đ�ng (Qui Nhơn) do đức cha Cu�not Thể đảm nhiệm, địa phận T�y (S�i G�n) được trao cho đức gi�m mục ph� D. Lefebvre Ng�i. Hai năm sau, T�a th�nh chia địa phận T�y Đ�ng ngo�i l�m hai : Nam K� gồm c�c tỉnh Nghệ An, H� Tĩnh v� một phần Quảng B�nh, ủy th�c cho đức cha J. Gauthier Hậu; v� T�y K� gồm c�c tỉnh c�n lại do đức cha P. Retord Li�u cai quản.


2. Cuộc b�ch hại của vua Tự Đức (1848-83) v� đảng Văn Th�n (1885-1886)

Vua Thiệu Trị v�o cuối đời cũng ra chiếu chỉ cấm đạo. Nhưng ban h�nh được nửa năm, th� nh� Vua l�m bệnh băng h� ng�y 4.11.1847, truyền ng�i lại cho con thứ l� Ho�ng Nhậm mới 17 tuổi. T�n qu�n l�n ng�i, hiệu Tự Đức, �n x� cho mọi người bị bắt v� đạo được về nh�. Th�i độ khoan hồng n�y l�m nhiều người tưởng Tự Đức sẽ kh�ng bao giờ cấm đạo. Song người ta lầm, v� th�i độ ấy chỉ l� cơn gi� thổi qua để khơi l�n ngọn lửa bốc ch�y dữ hơn. Th�ng 8 năm Tự Đức nguy�n ni�n (1848), một chiếu chỉ được ban h�nh nhằm l�ng bắt c�c gi�o sĩ, nhất l� gi�o sĩ nước ngo�i. Nạn nh�n thứ nhất của chiếu chỉ n�y l� cha d�ng Đaminh Được 70 tuổi, chết rũ t� Nam Định ng�y 13.5.1849. Ngay khi đ�, cả nước phải �n dịch, c�c quan cũng như nh�n vi�n ch�nh quyền đều trốn ẩn trong nh�, đ�ng cửa k�n v� sợ l�y dịch. Người ta lại thấy c�c gi�o sĩ C�ng gi�o xuất hiện hoạt động truyền gi�o v� b�c �i. Ở Huế, gi�o d�n đưa x�c kẻ chết với những lễ nghi C�ng gi�o m� kh�ng bị ai cản trở. �n dịch k�o d�i suốt năm 1850, giết chết gần hai triệu người, tức 20% d�n số cả nước. [63]

Trong thời gian n�y, T�a th�nh thiết lập th�m ba địa phận mới. Năm 1848, địa phận Đ�ng Đ�ng Ngo�i chia hai: Trung K� gồm tỉnh Hưng Y�n v� 2/3 tỉnh Nam Định (trong đ� c� Th�i B�nh sau n�y), đức cha D. Mart� Gia đảm nhiệm; phần c�n lại l� Đ�ng K� do đức cha Hermosillia Li�m cai quản. Hai năm sau, tức 1850, địa phận Bắc Đ�ng Trong cũng được th�nh lập gồm hai phần ba tỉnh Quảng B�nh v� trọn hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thi�n. Cũng năm 1850, miền Hậu giang thuộc địa phận T�y Đ�ng Trong được cắt ra, hợp với Cao Mi�n lập th�nh địa phận Cao Mi�n. Hai địa phận mới được trao cho hai đức cha Fr. Pellerin Phan v� J. Miche Mịch. Năm 1850 c�n l� Năm Th�nh, đức Th�nh Cha Pi� IX (1846-78) mở Năm To�n x�, l�m gi�o d�n th�m phấn khởi v� sốt sắng sống đạo. C�c địa phận th�u đạt những kết quả tr�ng thấy: nhiều người xin nhập đạo nhiều người bỏ đạo xin trở lại. Hết mọi gi�o d�n đều biết lợi dụng Năm To�n x� để trở n�n đạo đức hơn, mạnh tin hơn, như chuẩn bị đ�n nhận một cuộc b�ch hại chưa từng c� trong lịch sử.

�n dịch năm 1850 vừa chấm dứt, th�ng 3 năm 1851 Tự Đức c�ng bố một chiếu chỉ kh�c, quyết l�ng bắt hết c�c gi�o sĩ v� l�n �n tử h�nh c�c kẻ chứa chấp. Đấng tử đạo thứ nhất do chiếu chỉ n�y l� thừa sai Paris Augustin Schoeffler Đ�ng, bị trảm quyết ở Sơn T�y ng�y 1.5.1851. Đ�ng một năm sau, thừa sai Augustin Bonnard Hương cũng bị xử trảm ở Nam Định.[64] Sau cuộc Tử đạo của cha Bonnard, �n dịch t�i ph�t v� lan tr�n khắp miền Bắc, nhất l� trong tỉnh Nam Định. Tiếp đến, trời đại hạn, b�o lụt, mất m�a, khiến nh�n d�n v� c�ng đ�i khổ. Trước những thi�n tai ấy, nhiều người cho l� tại nh� Vua giết hại người C�ng gi�o, khiến Tự Đức phải tạm ngưng việc cấm đạo ở miền Bắc từ năm 1852 đến 1855.[65]

Trong khi đ�, ở miền Nam cuộc b�ch hại vẫn tiếp tục. Linh mục Philipph� Phan Văn Minh bị xử ở Vĩnh Long ng�y 3.7.1853, tr�m họ Giuse Nguyễn Văn Lựu chết rũ t� ở Mỹ Tho ng�y 2.5.1854, tr�m cả Anr� Nguyễn Kim Th�ng tự Năm Thu�ng qu� ở G� Thị (B�nh Định), bị đ�y v�o Mỹ Tho v� chết tại đ�y ng�y 15.7.1855.

Sau cuộc nổi dậy của L� Duy Cự v� Cao B� Qu�t ở miền Bắc (1854-1855), vua Tự Đức ban h�nh chiếu chỉ thứ ba. Chiếu chỉ th�ng 9.1855 nằm kh�ng những nhằm v�o c�c đạo trưởng, m� c�n ra lệnh cho c�c �đạo đồ� phải xuất gi�o, c�c th�nh đường, nh� chung phải triệt hạ hết. Nạn nh�n đầu ti�n l� cha Laurens� Nguyễn Văn Chương địa phận T�y, chịu trảm quyết ở Ninh B�nh ng�y 13.2.1856. Tử đạo trong năm1857, cha Phaol� L� Bảo Tịnh ở Nam Định ng�y 6 th�ng 4; quan th�i bộc Micae Hồ Đ�nh Hy ở Huế ng�y 22 th�ng 5; th�y giảng Pher� Đo�n Văn V�n tại Sơn T�y ng�y 25 th�ng 5; đức cha Jos� Sanjurjo An, gi�m mục địa phận Trung ở Nam Định ng�y 20 th�ng 7.

Nhận thấy ba chiếu chỉ tr�n kh�ng đem lại kết quả mong muốn, v� nhiều nơi c�c quan kh�ng triệt để thi h�nh hoặc nhận tiền hối lộ. Đầu năm 1857, đại sứ Ph�p Montigny tới Cửa H�n, đệ l�n triều đ�nh một văn thư, lời lẽ hăm dọa nếu kh�ng th�i cấm đạo. Tự Đức nổi giận, một chiếu chỉ nữa được c�ng bố ng�y 7.6.1857. Chiếu chỉ mạt s�t đạo C�ng gi�o, gọi c�c gi�o sĩ l� �bọn ch� m�, truyền th�ch tự hai chữ �Tả Đạo� v�o mặt những gi�o d�n �bất khẳng�. [66]

Chiếu chỉ được tổng đốc Nam Định Nguyễn Đ�nh T�n, tức Thượng Hưng, triệt để thi h�nh, khiến cả xứ Bắc phải qua một thời đẫm m�u, nhất l� trong địa phận Trung. C�c l�ng C�ng gi�o đều bị phong tỏa, đốt ph�, nhiều gi�o sĩ d�ng triều, th�y giảng, chủng sinh, gi�o d�n bị bắt, bị giết hoặc ph�t lưu. Đức cha M. Sampedro Xuy�n vừa mới nhận trọng tr�ch địa phận Trung đ� bị bắt, nhưng trước đấy đức cha đ� tấn phong cho cha V. Berriochoa Vinh l�m gi�m mục c� quyền kế vị. Đức cha Melchor Sampedro Xuy�n chịu xử lăng tr� ở Nam Định ng�y 28.7.1858. Cũng năm ấy, cha d�ng Đaminh H� Trọng Mậu bị xử ở Hưng Y�n ng�y 5 th�ng 11. Tử đạo trong năm 1859, c� Đaminh �n Khảm, Giuse Cai Tả, Luca Cai Th�n ở Nam Định, linh mục Đaminh Cẩm ở Hưng Y�n.

Việc cấm đạo v� ngược đ�i c�c gi�o sĩ ngoại quốc đ� n�n cớ cho qu�n đội Ph�p v� T�y Ban Nha đ�nh ph� Cửa H�n (th�ng 9.1858), rồi chiếm Gia Định (th�ng 2.1859). Việc n�y l�m vua Tự Đức th�m giận, v� cũng từ đ�y cuộc b�ch hại trở n�n khốc liệt ở miền Trung v� miền Nam. Sĩ quan Phansinh Phan Văn Trung chịu trảm quyết ở Huế 6.10.1858. Tử đạo trong năm 1859, c� linh mục Phaol� L� Văn Lộc v� gi�o d�n Phaol� Hạnh ở Gia Định, linh mục Phaol� Đo�n C�ng Qu� v� tr�m xứ Emmanuel L� Văn Phụng ở Ch�u đốc. Cuối năm ấy, ng�y 15 th�ng 12, chiếu chỉ thứ 5 buộc c�c qu�n nh�n C�ng gi�o phải bỏ đạo, bước qua Thập gi� trước khi ra chiến trường đ�nh bọn �bạch quỷ�. Ai kh�ng tu�n lệnh phải th�ch tự, giải ngũ, ph�t lưu.

Đang khi triều đ�nh phải đương đầu với qu�n viễn chinh Ph�p v� T�y ở miền Nam, th� ngo�i Bắc c� Tạ Văn Phụng tự xưng l� con ch�u nh� L� với danh hiệu L� Duy Minh, khởi binh đ�nh họ Nguyễn. Giữa l�c miền Bắc ch�m trong nội chiến, miền Nam phải chống ngoại x�m, Tự Đức ban h�nh chiếu chỉ thứ 6 ng�y 17.1.1860, bắt c�c quan phải kiểm so�t rất gắt gao c�c l�ng C�ng gi�o. Cũng năm ấy, chiếu chỉ th�ng 7 nhằm l�ng bắt cả c�c d� phước nhất l� d� Mến Th�nh gi�, v� trong thời b�ch hại c�c d� phước n�y đ� đ�ng vai tr� kh� quan trọng, như li�n lạc thư từ, trao M�nh Th�nh Ch�a, cơm nước cho c�c đấng bị giam cầm v� đạo. H�ng trăm d� phước bị bắt v� bị giết.

Hai chiếu chỉ n�i tr�n, th�m v�o đ� chiếu chỉ thứ 8 ng�y 5.8.1861 cũng gọi l� chiếu chỉ �Ph�n s�p�, nhằm ph�n t�n c�c l�ng C�ng gi�o, đ� tạo n�n một thời �Tử nạn� với những chuỗi ng�y đen tối đau thương nhất cho Gi�o hội Việt Nam, v� chỉ được chấm dứt sau h�a ước Nh�m Tuất (1862). Đất đai, vườn tược, nh� cửa, m�a m�ng, s�c vật của người C�ng gi�o, tất cả đều sang tay những l�ng l�n cận ngoại đạo. Đang khi khắp nơi người ngoại gi�o chia nhau của cải, điền địa, th� người C�ng gi�o từng ng�n từng vạn k�o nhau trốn chạy l�n rừng n�i hoặc chui r�c dưới thuyền, nếu kh�ng th� bị điệu v�o t�, chịu khắc tự, mang g�ng c�m xiềng x�ch, hoặc bị ph�n t�n v�o những l�ng ngoại đạo. M�u Tử đạo chảy nhiều nhất trong thời n�y, trong Nam cũng như ngo�i Bắc. [67]

Trước hết ở miền Trung, sĩ quan Giuse L� Đăng Thị bị xử giảo ở Huế ng�y 24.10.1860. Sang năm sau, cha Gioan Đo�n Trinh Hoan v� tr�m xứ Matthe� Nguyễn Văn Phượng c�ng bị xử trảm ở Đồng Hới ng�y 26 th�ng 5; tại B�nh Định, đức cha Etienne Cu�not Thể chết rũ t� ng�y 14 th�ng 11. Trong Nam, lương y Xu�n c�ng với 120 gi�o d�n kh�c bị giết ở Bi�n H�a năm 1860; năm 1861 linh mục Pher� Nguyễn Văn Lựu ở Mỹ Tho ng�y 7 th�ng 4; cũng năm ấy ng�y 16 th�ng 12 tại Bi�n H�a 401 gi�o d�n chịu thi�u sinh.

Nhưng �c liệt v� đẫm m�u hơn cả phải n�i l� ở miền Bắc, nhất l� địa phận Trung, v� Thượng Hưng h�y c�n đấy. Ng�y 30.1.1860 đ� c� linh mục T�ma Khu�ng chịu trảm quyết ở Hưng Y�n, rồi đến hai thừa sai Ph�p Fran�ois N�ron Bắc ở Sơn T�y ng�y 3.11.1860, Th�ophane V�nard Ven ở H� Nội ng�y 2.2.1861; hai th�ng sau, đến lượt cha d�ng Giuse Tu�n ở Hưng Y�n. Đức cha Valentin Berriochoa Vinh đ� phải rời khỏi địa phận sang tỉnh Đ�ng, ẩn dưới hầm với đức cha Jer�nimo Hermosilla Li�m, đ� cải t�n l� Tuấn, khi ở dưới hầm, khi l�nh đ�nh tr�n gi�ng s�ng. Th�ng 1 năm 1861, hai đức cha bị bắt c�ng với cha Almat� B�nh v� th�y giảng Giuse Nguyễn Duy Khang. Hai đức cha v� cha Pedro Almat� B�nh bị xử ở Hải Dương ng�y 1 th�ng 11 năm ấy; ng�y 6 th�ng 12 đến lượt th�y Giuse Nguyễn Duy Khang.[68]

Trong Nam, 6 th�ng đầu năm 1862 cuộc b�ch hại c�n tiếp tục. Ng�y 7 th�ng 1, 290 đ�n �ng, 106 đ�n b�, khoảng 50 trẻ con bị thi�u sinh trong những trại giam ở v�ng B� Rịa; ngo�i ra c�n h�ng mấy trăm người bị giết, hoặc bu�ng s�ng hay n�m xuống giếng lấp đi ở Đất Đỏ v� B� Rịa.

Ngo�i Bắc, cuộc b�ch hại ở địa phận Trung tới giai đoạn kh�c liệt nhất, do b�n tay s�t nh�n của Nguyễn Đ�nh T�n tức Thượng Hưng: tr�n chục ng�n nạn nh�n bị thi�u sinh, xử giảo, xử trảm hoặc bu�ng s�ng. Trong số n�y ch�ng t�i phải kể đến 16 vị sau đ�y, đ� chịu chết ở Nam Định trong những th�ng 5 v� 6, tất cả đều l� gi�o d�n: Laurens� Ng�n, Phaol� Đổng, Giuse T�c, Đaminh Ninh, Pher� Dũng, Pher� Thuận, Vinh sơn Dương , Đaminh To�i. Đaminh Huyện, Đaminh Nh�, Đaminh Mạo, Anr� Tường, Đaminh Nguyện, Vinh sơn Tưởng, Pher� Đa, Giuse Tuấn. [69]

Chiến tranh Ph�p-Việt đưa tới h�a ước Nh�m Tuất (5.6.1862) buộc Tự Đức phải chấm dứt cuộc b�ch hại. Gi�o d�n lục tục trở về l�ng, những gi�o sĩ sống s�t trở lại nhiệm sở, để c�ng đo�n chi�n t�i thiết gi�o xứ, lập lại cuộc đời. Ở Bắc H�, đức cha Jeantet Khi�m (1858-66) v� đức cha Theurel Chi�u (1866-68) địa phận T�y x�y chủng viện Kẻ Chằm v� t�a Gi�m mục Kẻ Sở. Đức cha Alc�zar Hy (1861-70) địa phận Đ�ng, từ Macao trở lại địa phận. Địa phận Trung chưa c� gi�m mục v� t�nh h�nh chưa y�n hẳn, mấy năm sau mới c� đức cha Cez�n Khang (1865-80). Đức cha Gauthier Ng� Gia Hậu (1846-77) địa phận Nam (Vinh) ra mặt hoạt động, song vẫn c�n bị quản th�c kh�ng được tiếp x�c với gi�o d�n.

Trong Nam H�, đức cha Sohier B�nh (1862-76) địa phận Bắc (Huế), người m� c�c quan tưởng đ� chết, nay xuất hiện giữa kinh th�nh. Ng�i đi thăm viếng c�c gi�o xứ, cử h�nh c�c lễ nghi rất long trọng, lương gi�o tham dự đ�ng đảo như ng�y hội. Đức cha Charbonnier Tr� (1864-79) kế vị đức cha Cu�not, được một t�u Ph�p đưa tới Qui Nhơn giữa sự hoan hỉ của gi�o d�n. Đức cha Lefebvre Ng�i (1844-64) địa phận T�y bỏ X�m Chiếu dọn v�o S�i G�n, mời c�c nữ tu d�ng Th�nh Phaol� (1860) v� c�c sư huynh Lasan (1866), đến đảm nhận c�ng t�c b�c �i v� gi�o dục; cũng ch�nh ng�i gi�p mẹ Philom�ne lập d�ng K�n (nữ đan viện C�t minh) S�i G�n (1862). Cuối năm 1864, đức cha Lefebvre từ nhiệm; đức cha Miche Mịch đang l� gi�m mục Cao Mi�n được cử trở lại nhận quyền địa phận T�y (1864-73), ki�m gi�m quản Cao Mi�n.

Chiến tranh Ph�p-việt c�n tiếp diễn. Sau trận đ�nh H� Nội lần thứ nhất (1873), Việt Nam phải k� h�a ước Gi�p Tuất (15.3.1874) nhường đứt s�u tỉnh miền Nam cho Ph�p. Giữa l�c qu�n Ph�p đ�nh Bắc lần thứ hai (1882) v� đưa qu�n v�o Huế (1882-83), vua Tự Đức băng h�, triều đ�nh rối ren, phải k� h�a ước 1883 v� 1884 nhận quyền bảo hộ của Ph�p.[70] Phong tr�o Cần Vương v� Văn Th�n nổi dậy k�o nhau đi đ�nh ph� c�c l�ng c� đạo, t�i diễn cuộc b�ch hại, c� lẽ t�n bạo hơn trước, v� kh�ng phải chỉ nh� cầm quyền bất đạo, nhưng cả lương d�n hiệp lực với phong tr�o chống Ph�p: v� kh�ng đ�nh được T�y n�n quay ra s�t hại người C�ng gi�o m� họ cho l� theo T�y. Đứng trước cuộc khủng bố t�n nhẫn n�y, người C�ng gi�o phải d�ng đến vũ lực để tự vệ.

C�c gi�o xứ khắp miền Trung bị Văn Th�n bổ v�y v� tấn c�ng: hằng trăm l�ng ra tro, h�ng ng�n người bị thảm s�t. Cũng c� những l�ng chống trả oanh liệt, như Tr� Kiệu (Quảng Nam), An Ninh (Quảng Trị). Cuộc b�ch hại tuy ngắn (1885-86), nhưng con số nạn nh�n cao hơn trước: 60.000 người bị giết. [71] C�c địa phận ở ngo�i Bắc �t bị thiệt hại v� Văn Th�n, nhưng khốn khổ v� nạn Cờ Đen v� qu�n nh� Thanh, nhất l� trong c�c tỉnh thuộc địa phận Bắc, vừa được th�nh lập năm 1883, gồm c�c tỉnh Bắc Ninh, Th�i Nguy�n, Lạng Sơn, Cao Bằng v� một phần của hai tỉnh H� Giang, Tuy�n Quang, t�ch bởi địa phận Đ�ng. Địa phận mới được trao cho đức cha Colomer Lễ (1883-1902), người kế vị đức cha Alc�zar Hy cai quản địa phận Đ�ng từ năm 1870. Địa phận Đ�ng thu hẹp (Hải Ph�ng) được d�nh cho đức cha Terr�s Hiến (1883-1906).


IV

GI�O HỘI Ở VIỆT NAM THẾ KỶ XX


1. C�ng cuộc kiến thiết trong c�c địa phận thuộc hội Thừa sai Paris (1888-1933)

Năm 1888, vua H�m Nghi (1884-1888) bị bắt, phong tr�o Văn Th�n tuy c�n hoạt động, nhưng suy yếu dần, nhất l� kh�ng c�n những vụ uy hiếp người C�ng gi�o như trước nữa. Ngược lại, lương d�n theo đạo rất đ�ng. Trước kia, c�c địa phận thuộc hội Thừa sai Paris mỗi năm chỉ th�m từ 7.000 đến 8.000 t�n t�ng, nhưng năm 1888 tr�n 10.000, năm 1889 tr�n 15.000, năm 1890 tr�n 20.000. Sau đ� con số xuống dần, năm 1891 khoảng 18.000, năm 1892: 15.000.[72]

Đ�y l� giai đoạn kiến thiết: gi�o sĩ cũng như gi�o d�n đều hăng say truyền b� đức tin v� sống đạo. Năm 1900, c�ng đồng miền thứ nhất họp tại Kẻ Sặt từ 11 th�ng 2 đến 6 th�ng 3, với nhiều quyết định mở đường cho bước tiến của Gi�o hội Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ XX. Cũng năm 1900, ng�y 27 th�ng 5, ng�y trọng đại của Gi�o hội Việt Nam, đức Th�nh Cha Le� XIII ghi v�o Sổ bộ Ch�n phước 64 đấng Tử đạo Việt Nam: trong số n�y c� 38 vị thuộc c�c địa phận Thừa sai Paris v� 26 thuộc địa phận d�ng Đaminh. Việc t�n s�ng Th�nh T�m Ch�a v� kinh M�n c�i được truyền b�, cũng l� động lực th�c đẩy v� duy tr� l�ng đạo đức trong c�c gia đ�nh. Th�ng 11 năm 1912, c�ng đồng miền thứ nh� họp tại Kẻ Sở, nhắc lại những quyết định của c�ng đồng trước, bổ t�c v� giải th�ch nhiều vấn đề li�n can đến c�ng cuộc truyền gi�o. Th�m 28 đấng Tử đạo được ghi v�o Sổ bộ Ch�n phước, do đức Pi� X. Năm 1906: 8 đấng d�ng Đaminh; năm 1909: 20 đấng thuộc c�c gi�o phận thừa sai Paris.

Địa phận T�y (H� Nội), dưới thời đức cha Puginier Phước (1868-92) v� đức cha Gendreau Đ�ng (1892-1935), c�c thừa sai khởi c�ng x�y cất nhiều th�nh đường nguy nga đồ sộ kiểu Roman hoặc Gothic, như những th�nh đường Kẻ Sở, H� Nội H�m Long, Cửa Bắc, Nam Định, Ninh B�nh...; hoặc theo lối kiến tr�c � Đ�ng, điển h�nh nhất l� quần thể kiến tr�c nh� thờ lớn Ph�t Diệm, do cha Trần Lục (Cụ S�u, +1899) thực hiện từ 1877 đến 1895.[73] Việc x�y cất những cơ sở gi�o dục b�c �i cũng được c�c thừa sai rất quan t�m, như tu viện Mến Th�nh gi� (năm 1920: 17 nh�, tr�n 300 nữ tu), ấn qu�n (Kẻ Sở, H� Nội), học đường, bệnh viện, trại c�i... Tiểu chủng viện Ho�ng Nguy�n v� đại chủng viện Kẻ Sở (đến sau dời l�n H� Nội), l� những nơi đ�o tạo h�ng gi�o sĩ tương lai. Để c� người cộng t�c, nhiều d�ng tu được mời đến: d�ng nữ Th�nh-phaol� (H� Nội: trường Ste-marie 1894, khuyết tật viện 1911, bệnh viện St-Paul 1923), d�ng nữ C�t minh (H� Nội 1895, Thanh H�a 1929), d�ng Sư huynh Lasan (Puginier H� Nội 1908. Trần Lục Ph�t Diệm 1932), d�ng Đức B� Truyền gi�o (Ph�t Diệm 1924, Thanh H�a 1926, Sầm Sơn 1929), d�ng Ch�a Cứu thế (Th�i H� Ấp 1928), hội St-Sulpice (chủng viện Xu�n B�ch H� Nội 1933), d�ng Đaminh chi Lyon (H� Nội 1930: nh� Lacordaire 1932, tu viện v� c�u lạc bộ Phục Hưng 1940), d�ng Phansinh (Thanh H�a 1935), d�ng nữ Kinh sĩ Th�nh-�utinh (H� Nội 1936). C�c hội d�ng kể tr�n đều đảm nhận việc truyền gi�o, qua những c�ng t�c gi�o dục v� b�c �i x� hội.

Với đ� tiến triển kh�ng ngừng, từ năm 1895 đến 1932 địa phận T�y được ph�n chia, lập th�m ba địa phận mới. Năm 1895, T�a th�nh thiết lập địa phận Đo�i (Hưng H�a), gồm c�c tỉnh Sơn T�y, Ph� Thọ, Y�n B�i, Sơn La, Lai Ch�u v� một phần thuộc ba tỉnh Tuy�n Quang, H�a B�nh v� H� Giang, tất cả với một diện t��ch khoảng 60.000 km2. Số gi�o d�n bấy giờ v�o khoảng 17.000 (1,7%) với 15 sắc tộc trong thập lục trấn (ch�u), chia l�m 11 gi�o xứ, 7 sở phụ, 96 họ đạo. H�ng gi�o sĩ gồm 15 thừa sai Ph�p, 12 linh mục Việt, 28 chủng sinh, 24 th�y giảng. Gi�o phận mới được trao cho đức cha Ramond Lộc. Tỉnh Hưng H�a được th�nh lập năm 1831, năm 1906 thị x� được rời l�n Ph� Thọ nơi c� s�n bay, ga xe lửa v� tỉnh lấy t�n Ph� Thọ. Khi thị x� rời đi, đức cha Ramond Lộc được ch�nh quyền nhường cho khu đất v� nh� cửa t�a c�ng sứ Ph�p, để lập t�a Gi�m mục, v� x�y cất nh� thờ ch�nh t�a.

Năm 1901, đến lượt địa phận Thanh (Ph�t Diệm) được th�nh lập, gồm hai tỉnh Ninh B�nh v� Thanh H�a. H�ng gi�o sĩ 24 thừa sai Ph�p, 48 linh mục Việt, 112 th�y giảng, 18 đại chủng sinh, 145 tiểu chủng sinh, 3 nh� phước Mến Th�nh gi�, với 85.000 gi�o d�n. Ng�y 8.2.1902, dực cha Marcou Th�nh nhận quyền địa phận, lập t�a ở Ph�t Diệm, sắp xếp c�ng việc v� cắt cử nhiều cha v�o những chức vụ chủ yếu, lo x�y cất đại chủng viện Thượng Kiệm, bệnh viện Phu Vinh v� nh� chung Ph�t Diệm. Đức cha quan t�m nhất đến sự th�nh thiện của h�ng gi�o sĩ, đ�ch th�n giảng tuần tĩnh t�m cho c�c cha. Đức cha mời d�ng nữ Đức B� truyền gi�o v� cải tổ d�ng Mến Th�nh gi�. Năm 1918, đức cha tấn phong Gi�m mục cho cha bề tr�n De Cooman H�nh, chuẩn bị cho việc chia địa phận.

Năm 1932, Thanh H�a được t�ch lập hợp với Sầm Nữa (Ai lao) th�nh địa phận Thanh H�a. Địa phận được trao cho đức cha De Cooman H�nh, đặt t�a tại thị x� Thanh H�a, với một h�ng gi�o sĩ 36 thừa sai Ph�p, 58 linh mục Việt, 82 th�y giảng, coi s�c 45.000 gi�o d�n (3%). Ngo�i d�ng Mến Th�nh gi� nhiều d�ng tu kh�c đến gi�p địa phận mới: Đức B� Truyền gi�o, C�tminh, Phansinh...

Sau đ�y l� những con số của bốn gi�o phận trong năm 1933:[74] Gi�o phận H� Nội: hai đức cha Gendreau Đ�ng v� Chaize Thịnh, 35 thừa sai Ph�p, 148 linh mục Việt, 12 cha d�ng, 23 nữ đan sĩ C�t minh, 436 tu sĩ nam nữ, 410 th�y giảng, 721 th�nh đường v� nguyện đường, 48 đại chủng sinh, 243 tiểu chủng sinh, 168.000 gi�o d�n. Gi�o phận Hưng H�a: đức cha Ramond Lộc, 24 thừa sai Ph�p, 36 linh mục Việt, 6 nữ tu Th�nh-phaol�, 47 d� phước Mến Th�nh gi�, 78 th�y giảng, 343 th�nh đường v� nguyện đường, 26 đại chủng sinh 92 tiểu chủng sinh, 50.283 gi�o d�n. Gi�o phận Ph�t Diệm: hai đức cha Marcou Th�nh v� J.B. Nguyễn B� T�ng, 93 linh mục Việt, 3 Sư huynh Lasan, 12 nữ tu Đức B� Truyền gi�o, 201 nữ tu Mến Th�nh gi�, 120 th�y giảng, 400 th�nh đường v� nguyện đường, 331 đại chủng sinh v� tiểu chủng sinh, 99.236 gi�o d�n. Gi�o phận Thanh H�a: đức cha De Cooman H�nh, 36 thừa sai Ph�p, 58 linh mục Việt, 10 nữ đan sĩ C�t minh, 82 th�y giảng, 45.000 gi�o d�n.

Địa phận Nam (Vinh): đức cha Croc H�a kế vị đức cha Gauthier Hậu từ năm 1877; thời n�y, phong tr�o Văn th�n g�y nhiều thiệt hại rất nặng nề: 264 gi�o xứ, 163 th�nh đường lớn nhỏ bị ph� hủy, 4.800 gi�o d�n bị giết, 1.200 người chết đ�i chết dịch. Năm 1886, đức cha Pineau Trị l�n cai quản địa phận, h�a b�nh dần dần được t�i lập. Nhưng số người theo đạo kh�ng gia tăng, v� nh� cầm quyền địa phương l�m kh� dễ, địa phận thiếu linh mục, nhiều gi�o d�n di cư v�o Nam hoặc sang Ai Lao t�m kế sinh nhai. Dưới thời đức cha Eloy Bắc (từ 1912), c�ng cuộc truyền gi�o trở lại tốt đẹp, nhiều th�nh đường lớn được x�y cất tại X� Đo�i, Xu�n H�a, Vinh, v.v... d�ng nữ Th�nh-Phaol� (Vinh, X� Đo�i), d�ng Phansinh (Vinh 1928). d�ng nữ Phansinh Thừa sai Đức Maria (Vinh 1932), nữ đan sĩ Th�nh Clara (Vinh 1935). lần lượt đến x�y dựng gi�o phận.

Năm 1933. gi�o phận Vinh c� những con số sau đ�y: đức cha Eloy Bắc, 24 thừa sai Ph�p, 168 linh mục Việt, 5 linh mục v� 2 tu sĩ Phansinh, 10 nữ tu Th�nh-Phaol�, 130 th�y giảng, 550 th�nh đường v� nguyện đường, 42 đại chủng sinh, 200 tiểu chủng sinh, 148.328 gi�o d�n.

Ng�y 20.5.1925, T�a Th�nh ban T�ng thư �Ex Officio Supremo�, tuy�n bố lập t�a Kh�m sứ T�a th�nh tại Đ�ng Dương v� Th�i Lan, trụ sở ở Việt Nam đặt tại kinh th�nh Huế. Đồng thời đức Th�nh Cha Pi� XI cử đức cha Costantino Ayuti l�m Kh�m sứ đầu ti�n. Đức cha Ayuti sinh năm 1876 tại Sezze gần Roma, tiến sĩ triết học, thần học, gi�o luật v� d�n luật. Trước khi sang Việt Nam nhậm chức, người được đức hồng y Van Rossum tấn phong tổng Gi�m mục tại học viện Truyền gi�o.

Song song với c�ng cuộc truyền gi�o ở xứ Bắc, c�c gi�o sĩ hội Thừa sai Paris cũng đạt được nhiều kết quả tại hai miền Trung v� Nam. Trước hết gi�o phận Bắc (Huế) thời đức cha Caspar Lộc (1880-1907), nhiều th�nh đường, tu viện ra tro, 10 linh mục Việt v� 8.500 gi�o d�n bị s�t hại bởi Văn Th�n. H�a b�nh trở lại, đức cha đ� cố gắng t�i thiết nhiều th�nh đường v� cơ sở. Năm 1900, kh�nh th�nh đền Đức Mẹ La Vang (Quảng Trị), thay thế cho ng�i nh� cũ đ� bị ph� năm 1885. Năm 1923, đức cha Allys L� trao cho cha Morineau Trung việc kiến thiết th�nh đường lớn. Sau những năm c� phong tr�o b�i t�n gi�o ở Ph�p tr�n sang xứ Bảo hộ, từ năm 1910 số t�n t�ng th�m đ�ng, nhất l� trong tỉnh Quảng Trị, số người học đạo mỗi năm tr�n 1.000. C�ng ng�y t�m tr� người d�n c�ng mở rộng để t�m hiểu gi�o l� C�ng gi�o. nhất l� giới học sinh. Do đấy, đức cha Allys L� (1908-31,+1936) đ� lập trường trung học Providence (Thi�n Hựu) ngay trong th�nh phố Huế (1933). Ng�i c�n s�ng lập d�ng Con Đức Mẹ V� nhiễm Ph� Xu�n (1920) v� d�ng Sư huynh Th�nh T�m Huế (1925) chuy�n việc gi�o dục v� dạy gi�o l�. D�ng Mến Th�nh gi� được cải tổ (1937) do cha Giuse Trần Văn Trang, mang t�n Mến Th�nh gi� Phục hưng Kim Đ�i. D�ng Phước Sơn của cha H. Denys Thuận cũng th�nh h�nh dưới thời đức cha Allys (1918). Địa phận c�n mời nhiều d�ng tu kh�c đến cộng t�c: d�ng Nữ tu Th�nh-Phaol� (Kim Long 1889, trường Ste Jeanne d'Arc Huế 1903, trường Th�nh T�m Đ� Nẵng 1903), d�ng Sư huynh Lasan (trường Pellerin Huế 1904), d�ng nữ C�t minh (Huế 1909), d�ng Ch�a Cứu thế (Huế 1925), d�ng Biểnđức (Thi�n An 1940).

Đ�y l� những con số gi�o phận Huế năm 1933: đức cha Chabanon Gi�o, đức cha Allys L� (nghỉ hưu), 26 thừa sai Ph�p, 101 linh mục Việt, 8 cha d�ng Ch�a Cứu thế, 98 đan sĩ Phước Sơn, 15 nữ đan sĩ C�tminh, 611 tu sĩ nam nữ, 30 th�y giảng, 330 th�nh đường v� nguyện đường, 128 đại chủng sinh v� tiểu chủng sinh, 72.102 gi�o d�n.

Địa phận Đ�ng (Qui Nhơn), đức cha Van Camelbeke H�n l�n cầm quyền năm 1884, phải chứng kiến những cuộc b�ch hại dữ dội nhất của phong tr�o Văn Th�n: 8 thừa sai Ph�p, 5 linh mục Việt, 60 th�y giảng, 270 nữ tu, tr�n 25.000 gi�o d�n bị giết; 5 th�nh đường, 17 c� nhi viện, 10 tu viện bị thi�u hủy. Số gi�o d�n 41.000 người năm 1884 chỉ c�n lại 15.000 năm 1886, nhưng con số đ� l�n gấp năm, tức 73.000 (8.000 sắc tộc Bahnar của cha Vialleton) hồi năm 1901, l� năm đức cha Van Camelbeke qua đời. Phong tr�o t�ng gi�o tiếp tục dưới thời đức cha Grangeon Mẫn (1905-29). C�ng cuộc truyền gi�o tr�n Cao nguy�n cũng như ở c�c tỉnh Ph� Y�n, Ninh H�a, Kh�nh H�a đều khả quan. Từ năm 1910, nhờ việc t�n s�ng Th�nh T�m Ch�a được cổ v� khắp địa phận, kể cả ở Kontum, l�ng đạo của gi�o d�n được vững chắc v� sốt sắng, nhưng họ phải qua những năm thử th�ch nặng nề do dịch c�m, tiếp đến l� nạn đ�i, khiến 3.400 gi�o d�n phải hy sinh, h�ng ng�n người bỏ xứ sở ra đi. M�i đến năm 1929-30 t�nh h�nh mới ổn định, nhưng địa phận lại thiếu thừa sai v� c�n bộ để cung ứng cho số người t�ng gi�o mỗi ng�y th�m đ�ng ở miền duy�n hải cũng như ở v�ng sơn cước.

Theo lời mời của đức cha Tardieu Ph� (1929-42), Sư huynh Lasan (Qui Nhơn 1931), đan sĩ Xit� (Mỹ Ca 1934), cha d�ng Phansinh (Nha Trang 1939), v� nữ tu Th�nh-Phaol� (Qui Nhơn, Kontum, Tuy H�a...), nữ tu Phansinh Thừa sai (Tuy H�a, Quy H�a), nữ tử B�c �i Vinh sơn- Phaol� (Qui Nhơn, Kontum, Dakkia...), đều đến tham gia hoạt động. Ngo�i ra c�n d�ng Th�nh Giuse do thừa sai Sion Kh�m s�ng lập (1926), để thay thế hội Th�y giảng. D�ng Mến Th�nh gi� cũng đ� được đức cha Grangeon Mẫn ủy th�c việc cải tổ cho cha Solvignon L�nh (1924). Th�nh đường ch�nh t�a, T�a Gi�m mục, đại chủng viện, trại c�i Quy H�a, ấn qu�n Qui Nhơn lần lượt được thiết lập dưới thời đức cha Tardieu Ph�.

Năm 1932, T�a th�nh lấy ba tỉnh Kontum, Pleiku v� Đắc Lắc thuộc địa phận Qui Nhơn, thiết lập một địa phận mới, mang t�n Kontum. Sau đ�y l� t�nh h�nh hai gi�o phận trong năm 1933. Gi�o phận Qui Nhơn: đức cha Tardieu Ph�, 28 thừa sai Ph�p, 71 linh mục Việt, 14 Sư huynh Lasan v� Th�nh-Giuse, 60 th�y giảng, 257 nữ tu, 36 th�nh đường v� nguyện đường, 36 đại chủng sinh, 123 tiểu chủng sinh, 60.662 gi�o d�n. Gi�o phận Kontum: đức cha Jannin Phước, 14 thừa sai Ph�p, 15 linh mục (12 Việt, 3 Bahnar), 2 Sư huynh Th�nh-Giuse, 4 nữ tu Mến Th�nh gi� (2 Việt, 2 Bahnar), 160 th�y giảng, 134 th�nh đường v� nguyện đường, 4 đại chủng sinh, 15 tiểu chủng sinh, 19.808 gi�o d�n.

C�ng cuộc kiến thiết địa phận T�y (S�i G�n) ở trong Nam được coi l� nhanh ch�ng hơn cả, trước hết l� v� miền Nam đ� trở th�nh thuộc địa của Ph�p do h�a ước Gi�p Tuất (1874), sau l� v� kh�ng bị ảnh hưởng của phong tr�o Văn Th�n. Hồi cuối thế kỷ XIX, du kh�ch tới S�i G�n quan s�t m� kh�ng đi s�u v�o đời sống d�n ch�ng, rất c� thể lầm tưởng đ�y l� một xứ C�ng gi�o. Ngay từ thời đức cha Colombert Mỹ (1873-94), cơ sở C�ng gi�o đ� mọc l�n khắp s�i G�n: tu viện Th�nh Phaol� S�i G�n (1860), Chợ Lớn (1870), Thị Ngh� (1875), T�n Định (1877), chủng viện S�i G�n (1861), nữ đan viện C�tminh (1862), trường D'Adran (1866-1883), trường Taberd (1889) d�ng Lasan. trường St-Paul (1874) d�ng Th�nh Phaol�, nh� thờ lớn Đức B� (1880), nh� in T�n Định (1864), chưa kể những k� t�c x�, bệnh viện, c� nhi viện: dưỡng l�o viện, do c�c nữ tu điều khiển. Năm 1900, trong th�nh phố S�i G�n c� 8 gi�o xứ, m� gi�o xứ n�o cũng được tổ chức một c�ch chu đ�o.

Nhiều người tưởng c�ng cuộc truyền gi�o ở trong Nam hết kh� khăn trở ngại. Nhưng sự thực, c� những kh� khăn sau đ�y phải khắc phục, đ� l� sự l�nh đạm của lương d�n, v� đối với họ c�c đạo đều tốt như nhau, kế đến sự hiểu lầm của nhiều người cho rằng đi đạo l� bỏ Tổ ti�n, theo T�y... Thời cấm đạo tuy đ� chấm dứt, nhưng vẫn c�n những h�nh động muốn tiếp tục cuộc b�ch hại. Dầu vậy, c�c thừa sai cũng như h�ng gi�o sĩ Việt lu�n hoạt động truyền gi�o bằng lời giảng dạy, đi đ�i với những c�ng t�c từ thiện x� hội v� gi�o dục. Nhiều ng�i th�nh đường lớn được x�y cất trong thời n�y như th�nh đường Ste-Jeanne d'Arc, T�n Định, Chợ Đũi, Đ� Lạt, Vũng T�u. Cả đảo C�n Sơn cũng được nghe giảng Tin Mừng do thừa sai M. Pontvianne (1863), rồi cha Anr� Mi�u, được cử ra l�m tuy�n �y cho c�c t� nh�n ngo�i đ� (1928). Từ đầu thế kỷ XX, th�m c�c d�ng tu sau đ�y tới tham gia c�ng cuộc truyền gi�o: tu hội B�c �i Vinh sơn Phaol� (Gia Định 1928, S�i G�n 1934, Đồi Mai Anh Đ� Lạt 1935), d�ng Ch�a Cứu Thế (S�i G�n 1933), d�ng nữ Kinh sĩ Th�nh �utinh (Đ� Lạt 1935, S�i G�n 1950), d�ng Biển Đức (Đ� Lạt 1936). Ngo�i ra c�n c� d�ng Sư huynh Kit� Vua C�i Nhum (Vĩnh Long), do hai thừa sai Gernot Qu� v� Ritter Gi�o s�ng lập (1870), chuy�n dạy gi�o l� v� điều khiển c�c trường của họ đạo.

Năm 1933, t�nh h�nh gi�o phận S�i G�n như sau: đức cha Dumortier Đượm, 30 thừa sai Ph�p, 106 linh mục Việt, 10 cha d�ng, 69 sư huynh, 18 nữ đan sĩ C�tminh, 810 nữ tu, 37 th�y giảng, 281 th�nh đường v� nguyện đường, 60 đại chủng sinh, 180 tiểu chủng sinh, 99.743 gi�o d�n.

Địa phận Cao Mi�n (Phnompenh hay Nam Vang) khi th�nh lập năm 1850 chỉ c� khoảng 600 gi�o d�n. Năm 1864, đức cha Miche Mịch được cử l�m gi�m mục T�y Đ�ng Trong, ki�m gi�m quản Cao mi�n. Năm 1865, đức cha gi�m quản Miche được T�a th�nh chấp thuận đem hai tỉnh H� Ti�n, Ch�u Đốc [75] s�p nhập v�o Cao Mi�n. Năm 1869, T�a th�nh trao quyền cai quản địa phận Cao Mi�n cho cha bề tr�n Aussoleil (1869-74), tiếp đến thừa sai Cordier; năm 1882, cha Cordier được tấn phong Gi�m mục, cai quản địa phận cho đến 1895. Sau đấy, l� c�c đức cha Grosgeorge (1896-1902) v� Bouchut (1902-28), thời n�y địa phận tiến triển tốt đẹp, nhưng h�ng gi�o sĩ c�n to�n l� người Việt v� gi�o d�n hầu hết Việt kiều. Trong số c�c d�ng tu đến hợp t�c, c� d�ng nữ Ch�a Quan Ph�ng chi Portieux (C� Lao Gi�ng 1876, Nam Vang, Cần Thơ), d�ng Sư huynh Lasan (Nam Vang 1905), d�ng nữ C�t minh (Nam Vang 1919). Ngo�i ra c�n c� d�ng Sư huynh Th�nh Gia (Ba Nam), do đức cha Herrgott s�ng lập (1931). Đến sau th�m d�ng Con Đức Mẹ (Russey Keo) của đức cha Chabalier (1942).

T�nh h�nh gi�o phận Nam Vang năm 1933 như sau: đức cha Herrgott, 34 thừa sai Ph�p, 78 linh mục, 16 Sư huynh Lasan, 136 th�y giảng, 19 nữ đan sĩ C�tminh, 383 nữ tu Ch�a Quan Ph�ng, 29 nữ tu Mến Th�nh gi�, 217 th�nh đường v� nguyện đường, 16 đại chủng sinh, 135 tiểu chủng sinh, 76.135 gi�o d�n.


2. C�ng cuộc kiến thiết trong c�c địa phận d�ng Đaminh (1888-1933)

Năm 1888, h�a b�nh được t�i lập, c�c thừa sai Đaminh tiếp tục sang đ�ng hơn. Từ năm ấy, cho đến hết thế kỷ XIX, nghĩa l� trong 13 năm, 35 gi�o sĩ được cử sang cho ba địa phận d�ng Đ�ng K� (Hải Ph�ng), Trung K� (B�i Chu) v� Bắc �u (Bắc Ninh), đa số l� những nh� truyền gi�o nhiệt th�nh, c� t�i tổ chức v� kiến thiết. Cũng trong thời gian n�y, số người theo đạo rất đ�ng. Ở địa phận Trung, đức cha Onate Thuận (1884-97) trong 12 năm đ� khuy�n được 83 l�ng t�ng gi�o. Năm 1889, đức cha Colomer Lễ (1883- 1902) địa phận Bắc, viết: �Nhờ ơn Ch�a, địa phận trở n�n rất thịnh vượng, người theo đạo đ�ng lắm, c� nhiều l�ng xin t�ng gi�o hết. Trước năm 1384, trong thị x� Bắc Ninh n�y chỉ c� một gia đ�nh C�ng gi�o b�y giờ đ� được 300 gi�o d�n rồi. T�i đ� mở 10 trường dạy Kinh Bổn ở chung quanh thị x�, v� nhiều trường kh�c ở c�c v�ng xa x�i trong địa phận�.[76] Tuy nhi�n, c� điều đ�ng tiếc l� từ năm 1894 nhiều nh�n vật trong ch�nh quyền Bảo hộ tỏ ra cừu địch với Gi�o hội, l�m cản trở phong tr�o t�ng đạo, như hai vi�n ch�nh sứ Hưng Y�n v� Bắc Ninh.[77]

Địa phận Trung K� (B�i Chu) sang một giai đoạn ph�t triển dưới thời đức cha Fern�ndez Định (1897-1907). Năm 1907, khi đức cha Fern�ndez từ nhiệm, địa phận đ� c� 228.292 gi�o d�n, chia th�nh 614 gi�o xứ với 603 ng�i th�nh đường, 5 trại c�i, 5 c� nhi viện, 2 bệnh viện, 19 nh� phước d�ng Ba Đaminh v� Mến th�nh gi�; h�ng năm c� tr�n 1.000 người lớn t�ng gi�o.[78] Đ� l� địa phận truyền gi�o lớn nhất d�nh cho đức t�n gi�m mục Mu�agorri Trung (1907-36), l� người sẽ đem địa phận n�y tới thịnh vượng bậc nhất, trước khi trao cho h�ng gi�o sĩ triều Việt Nam.

Nhiều th�nh đường lớn kiểu � Đ�ng, Gothic, Roman, Baroc mọc l�n khắp nơi, nổi danh nhất l� đại th�nh đường Ph� Nhai (1933) kiểu Gothic. Đ�y l� ng�i đền m� ch�n phước Berriochoa Vinh v� cha ch�nh Riano H�a, c�ch đấy 60 năm, giữa cuộc b�ch hại của vua Tự Đức, đ� khấn hứa d�ng k�nh Đức Mẹ V� nhiễm nguy�n tội. Đền Nữ vương c�c Th�nh Tử đạo Kho�i Đồng (Nam Định) cũng được khởi c�ng x�y cất từ thời n�y, nhưng m�i đến năm 941 mới ho�n th�nh. C�ng cuộc b�c �i x� hội v� gi�o dục rất quan trọng: trại c�i, c� nhi viện, bệnh viện, trường dạy gi�o l�, trường tiểu học, nh� in Ph� Nhai, trường Sư phạm Saint-Thomas Nam Định (1924). Những cơ sở đ�o tạo th�y giảng v� h�ng gi�o sĩ d�ng triều, gồm c� trường Kẻ giảng Trung Linh, trường Latinh Ninh Cường, trường L� đo�n B�i Chu, Gi�o ho�ng đại chủng viện Saint-Albert Nam Định (1930), trường Saint-Dominique Kho�i Đồng (1932), tu tập viện d�ng Đaminh Quần Phương (1934).

Những con số dưới đ�y n�i l�n t�nh h�nh của gi�o phận B�i Chu trong năm 1933: đức cha Mu�agorri Trung, 31 cha d�ng T�y Ban Nha, 168 linh mục Việt, 599 th�y giảng, 10 Sư huynh Lasan (Nam Định 1924), 23 nữ đan sĩ C�t Minh (B�i Chu 1923), 12 nữ tu Th�nh - Phaol� (B�i Chu 1914), 647 d� phước d�ng Ba Đaminh v� Mến Th�nh gi�, 872 th�nh đường v� nguyện đường, 61 đại chủng sinh, 326.967 gi�o d�n (tỷ lệ 23,75%).

Sự nghiệp của đức cha Mu�agorri Trung vang tận Roma, đức Th�nh Cha Pi� XI đ� kh�ng ngần ngại gọi địa phận B�i Chu l� �Địa phận Truyền gi�o kiểu mẫu�. Sở dĩ được vậy cũng l� nhờ ở sự kh�n ngoan của đức cha trong việc d�ng người, lại được h�ng gi�o sĩ d�ng triều tận t�nh gi�p đỡ v� cộng t�c rất đắc lực, như c�c cha Moreno Trinh, Serra Thiều, Garc�a Khiết, Coloma Hạnh, Andr�s Ki�n, Rom�n Y.  Hai vị cuối c�ng l� những b�n tay kiến thiết của đức gi�m mục.

Địa phận Đ�ng K� (Hdi Ph�ng): đức cha Terr�s Hiến mất năm 1906, c�c đức cha Arellano Huy (1906-19), Ru�z de Az�a Minh (1919-29), Garc�a Thiện (1929-33) thay nhau cai quản địa phận. Trại c�i, viện b�c �i, c� nhi viện, bệnh viện được x�y cất ở nhiều nơi trong tỉnh Hải Dương v� phụ cận th�nh phố Hải Ph�ng. Người ta ch� � đến c�ng việc của cha Bar� Nghi�m, một thừa sai giầu l�ng b�c �i, ưa hoạt động giữa d�n ngh�o khổ t�n tật tại c�c v�ng Kẻ Sặt, Tr� Cổ, Hải Ph�ng.

Nhiều th�nh đường lớn được x�y cất trong thời kỳ n�y, như nh� thờ lớn Hải Ph�ng, Kẻ Sặt, đặc biệt ng�i đền c�c Ch�n phước Tử đạo Hải Dương kiểu Roman pha Grec Byzantin (1928), được x�y cất ngay tr�n đất thấm m�u bốn đấng Tử đạo năm 1861. Việc đ�o tạo h�ng gi�o sĩ d�ng triều v� thanh thiếu ni�n được c�c thừa sai an t�m hơn hết: trường Latinh Đ�ng Xuy�n, trường Kẻ giảng Kẻ sặt, trường L� đo�n Ba Đ�ng, trường Khuyến Học Hải Dương, trường Đệ tử Đaminh Hải Dương. C�c nữ tu Th�nh-Phaol� (Hải Ph�ng 1883, Hải Dương 1911) v� Sư huynh Lasan (trường Saint-Joseph Hải Ph�ng 1906) được mời đến đảm nhận nhiều cơ sở b�c �i v� gi�o dục.

Sau đ�y l� những con số của gi�o phận Hải Ph�ng trong năm 1933: đức cha Gomez Lễ, 21 cha d�ng T�y Ban Nha, 66 linh mục Việt, 10 Sư huynh Lasan, 22 nữ tu Th�nh - Phaol�, 113 d� phước d�ng Ba Đaminh, 100 th�y giảng, 380 th�nh đường v� nguyện đường, 37 đại chủng sinh, 105 tiểu chủng sinh.

C�ng cuộc truyền gi�o ở địa phận Bắc (Bắc Ninh) gặp nhiều kh� khăn hơn cả: đất rộng, người thưa, rừng n�i, giao th�ng trắc trở v� nguy hiểm, kh� hậu kh�ng l�nh; chưa kể đến những biến cuộc thường xảy ra do phong tr�o chống Ph�p (Cờ Đen, Văn Th�n, cuộc khởi nghĩa ở Th�i Nguy�n 1917). Tuy nhi�n, thời đức cha Gordaliza Ph�c (1925-31), c�ng việc tiến triển khả quan. C�c tỉnh xa x�i như Th�i Nguy�n, Bắc Kạn, Bắc Giang, Lạng Sơn đều được c�c nh� truyền gi�o lui tới, thiết lập gi�o xứ, với những ng�i th�nh đường kiến tr�c t�n tiến v� đồ sộ ở Th�i Nguy�n, Bắc Giang. Để tiết kiệm nh�n sự trong việc đ�o tạo h�ng gi�o sĩ, một khu nh� rộng lớn được x�y cất ở Đạo Ngạn (Bắc Giang) d�ng l�m trường L� đo�n v� Latinh, đến sau c� th�m trường Kẻ giảng Bắc Ninh. Hoạt động b�c �i x� hội gồm c� nhiều c� nhi viện, dưỡng l�o viện, bệnh viện, trại c�i Quả Cảm (gần Bắc Ninh), nơi cư tr� tr�n 500 bệnh nh�n.

Năm 1913, địa phận Bắc chia l�m hai : T�a th�nh ban Chiếu thư thiết lập hạt phủ do�n Lạng Sơn - Cao Bằng trao cho c�c cha d�ng Đaminh tỉnh Lyon, l� những thừa sai đ� sang hoạt động trong ba địa phận d�ng từ năm 1902. Cha B. Cothonay Chiểu được đặt l�m bề tr�n phủ do�n (1913-24), kế đến cha Maillet B�nh (1925-29). C�ng việc của c�c cha gặp nhiều kh� khăn, thiếu thốn, nhưng c�c ng�i đ� tỏ ra anh dũng kh�ng k�m những người anh c�ng d�ng khi đến miền Trung ch�u Bắc H� c�ch đấy tr�n 200 năm. V� nếu c�c ng�i kh�ng được ph�c Tử đạo như c�c vị trong thế kỷ trước, th� cũng đổ mồ h�i nước mắt với những c�i chết hao m�n v� cực khổ để �khai th�c� v�ng đồi n�i xa lạ v� ngh�o n�n n�y. Chỉ sau 20 năm, đất Lạng Sơn - Cao Bằng cũng từ từ mọc l�n nhiều th�nh đường v� cơ sở: th�nh đường Lạng Sơn, chủng viện Mỹ Sơn (Saint-Michel), nhiều học đường, c� nhi viện, bệnh viện v� một trại c�i.

Sau đ�y l� t�nh h�nh của hai gi�o phận trong năm 1933: Gi�o phận Bắc Ninh: đức cha Artaraz Chỉnh, 15 cha d�ng T�y Ban Nha, 52 linh mục Việt, 99 th�y giảng, 12 nữ tu Th�nh-Phaol� (Đ�p Cầu, Bắc Ninh), 77 d� phước d�ng Ba Đaminh, 309 th�nh đường v� nguyện đường, 15 đại chủng sinh, 35 tiểu chủng sinh, 40.265 gi�o d�n. Hạt phủ do�n Lạng Sơn: cha bề tr�n Hedde Minh, 10 cha d�ng (8 Ph�p, 2 H� Lan), 6 linh mục Việt, 14 th�y giảng, 7 nữ tu Đức B� Truyền gi�o (Văn Miếu 1927), 5 nữ tu Th�nh - Phaol� (St-Michel), 25 d� phước d�ng Ba Đaminh, 19 th�nh đường v� nguyện đường, đại chủng sinh v� 16 tiểu chủng sinh, 3.249 gi�o d�n.


3. Gi�o hội ở Việt Nam tiến tới trưởng th�nh: từ khi đức cha Nguyễn B� T�ng được tấn phong Gi�m mục đến hiệp định Gen�ve (1933-54)

Kể từ khi c�c cuộc b�ch hại chấm dứt (1888), Gi�o hội Việt Nam b�nh trướng mau lẹ v� tiến tới trưởng th�nh. Khi cuộc b�ch hại của vua Minh Mạng bắt đầu (1833), số gi�o d�n chỉ v�o khoảng 400.000; sau hơn một nửa thế kỷ b�ch hại của nh� Nguyễn v� Văn Th�n, tr�n 130.000 người bị giết, c�c hoạt động truyền gi�o bị t� liệt hầu như ho�n to�n, thế nhưng con số gi�o d�n cũng đ� l�n 683.111 hồi năm 1892; năm 1933 con số ấy tăng gần gấp hai, tức 1.297.000 (10%) tr�n tổng số 13 triệu d�n. H�ng gi�o sĩ Việt Nam c�ng một đ� gia tăng: từ con số 4 linh mục ti�n khởi năm 1668 l�n 43 vị năm 1700; 119 năm 1800; 384 năm 1900; 1.158 năm 1933.[79] Nhận thấy h�ng gi�o sĩ Đ�ng Dương cần c� một cơ quan ng�n luận để trao đổi li�n lạc v� cung cấp t�i liệu, đức Kh�m sứ Ayuli hợp � với đức cha Allys L�, gi�m mục địa phận Huế, đ� quyết định xuất bản một tờ Nguyệt san, lấy t�n Sacerdos Indosinensis. Tờ b�o được trao cho thừa sai Cadi�re Cả thực hiện, số đầu ti�n ph�t h�nh nhằm ng�y lễ th�nh Giuse năm 1927.[80]

Năm 1928, đức Kh�m sứ Ayuti sớm từ trần. Cũng năm ấy, đức Tổng gi�m mục Colomban Dreyer d�ng Phansinh được cử sang thay thế. Thời ng�i năm 1933, một biến cố quan trọng n�i l�n sự trưởng th�nh của Gi�o hội Việt Nam: cha Gioan B. Nguyễn B� T�ng được tấn phong Gi�m mục ti�n khởi Việt Nam, do đức Th�nh Cha Pi� XI, tại Roma ng�y 11 th�ng 6. Đức gi�m mục ti�n khởi sinh năm 1868, tại T�n H�a (�tỉnh G� C�ng) gi�o xứ G� C�ng, theo học đại chủng viện S�i G�n v� thụ phong linh mục ng�y 19.9.1896. Trước khi được chọn l�m Gi�m mục, ng�i đ� lần lượt giữ chức thư k� t�a Gi�m mục, cha sở B� Rịa v� T�n Định. Năm 1935, đức cha Marcou Th�nh từ nhiệm nghỉ hưu, trao quyền gi�o phận Ph�t Diệm cho đức cha họ Nguyễn. Đ� l� gi�o phận thứ nhất được ủy th�c cho h�ng gi�o sĩ Việt Nam.[81]

Năm 1934, đức Kh�m sứ Dreyer triệu tập v� chủ tọa c�ng đồng Đ�ng Dương lần thứ nhất tại H� Nội, từ ng�y 18 th�ng 11 đến 6 th�ng 12. C�c nghi phụ gồm c�c gi�m mục, bề tr�n phủ do�n, cha ch�nh c�c địa phận, bề tr�n cao cấp c�c d�ng tu v� một số chuy�n vi�n. C�ng đồng lập 5 ủy ban: nh�n sự v� chức vụ, h�ng gi�o sĩ địa phương v� việc đ�o tạo, b� t��ch v� phụng vụ, bảo vệ v� truyền b� đức tin, quản trị t�i sản.

Mỗi ủy ban phụ tr�ch soạn thảo một dự �n về vấn đề của m�nh, để rồi đem ra thảo luận v� biểu quyết trong c�c phi�n họp kho�ng đại. Sau c�ng đ�c kết th�nh một cuốn Quy chế nhan đề Decreta et Normae Primi Concilii Indosinensis Đ�y l� một Quy chế ph� hợp với bộ Gi�o luật mới ban h�nh năm 1917, nhằm th�c đẩy c�ng cuộc truyền gi�o trong một t�nh thế mới.

Vị gi�m mục người Việt thứ hai l� đức cha Đaminh Hồ Ngọc Cẩn. Ng�i sinh năm 1876 tại Ba Ch�u gi�o phận Huế, theo học chủng viện Ph� Xu�n v� thụ phong linh mục ng�y 20.12.1902. Trước hết, ng�i l� cha ph� Kẻ Văn, rồi cha sở Kẻ Hạc, gi�o sư tiểu chủng viện An Ninh, bề tr�n d�ng Sư huynh Th�nh T�m Huế. Ng�y 12.3.1935, cha Đaminh được T�a th�nh cử l�m gi�m mục ph� gi�o phận B�i Chu, c� quyền kế vị đức cha Mu�agorri Trung. Đức cha được tấn phong tại Phủ Cam ng�y 29 th�ng 6 năm ấy, do đức kh�m sứ Dreyer. Ng�y 9.3.1936, T�a th�nh ban Chiếu thư chia địa phận B�i Chu l�m hai: lấy phần đất hai tỉnh Th�i B�nh, Hưng Y�n th�nh lập địa phận mới, tức Th�i B�nh, trao cho đức cha Casado Thuận d�ng Đaminh; phần đất c�n lại, tức địa phận B�i Chu giảm thiểu theo ranh giới tỉnh Nam Định, được d�nh cho h�ng gi�o sĩ Việt Nam. Cũng năm 1936, ng�y 17 th�ng 6, đức cha Mu�agorri Trung từ trần, đức cha Hồ Ngọc Cẩn ch�nh thức nhận quyền gi�o phận B�i Chu.

Năm 1937, tổng gi�m mục Antonin Drapier d�ng Đaminh sang Việt Nam nhận chức Kh�m sứ thay thế đức cha Dreyer, ng�i k� v� c�ng bố bản Quy chế c�ng đồng Đ�ng Dương, ng�y 10.1.1938. Dưới thời ng�i, địa phận thứ ba được ủy th�c cho h�ng gi�o sĩ Việt Nam, đ� l� gi�o phận Vĩnh Long gồm c�c tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre (Kiến H�a) v� Tr� Vinh (Vĩnh B�nh), t�ch lập từ gi�o phận S�i G�n. Gi�o phận mới n�y được trao ngay cho đức cha Pher� Ng� Đ�nh Thục. Đức t�n gi�m mục sinh năm 1897 tại Phủ Cam (Huế), học đại chủng viện Ph� Xu�n v� đại học Truyền gi�o Roma, thụ phong linh mục ng�y 20.12.1925, tiến sĩ triết học, thần học v� gi�o luật. Trước khi được chọn l�m gi�m mục, cha Pher� đ� lần lượt nắm chức gi�o sư đại chủng viện Ph� Xu�n, hiệu trưởng trường Providence, gi�m đốc tờ Nguyệt san Sacerdos Indosinensis. Đức cha được tấn phong tại Huế ng�y 4.5.1938 do đức kh�m sứ Drapier.

Năm 1939, hạt phủ do�n Lạng Sơn được n�ng l�n h�ng gi�o phận, với số gi�o d�n 4.639 v� 668 dự t�ng, chia l�m 16 gi�o xứ, 16 th�nh đường, 8 nguyện đường. Cha bề tr�n Hedde Minh được tấn phong Gi�m mục (30.11.1939), 14 cha d�ng, 14 linh mục triều, 5 đại Chủng sinh, 40 tiểu chủng sinh, 17 th�y giảng, 47 nữ tu v� d� phước. Cũng năm ấy, Gi�o hội Việt Nam c� những con số sau đ�y : 17 gi�m mục (10 Ph�p, 4 T�y Ban Nha, 3 Việt), 347 thừa sai ngoại quốc, 1.330 linh mục Việt, 459 đại chủng sinh v� 1.484 tiểu chủng sinh, 1.544.765 gi�o d�n, chia th�nh 16 gi�o phận. Năm 1940 th�m một linh mục Việt nữa được tấn phong Gi�m mục : đức cha Gioan Maria Phan Đ�nh ph�ng, gi�m mục ph� địa phận Ph�t Diệm; nhưng ng�i đ� sớm từ trần năm 1944, sau 5 th�ng cai quản gi�o phận. Năm 1945, T�a th�nh đ� chọn cha Anselm� Tađe� L� Hữu Từ, bấy giờ đang l� bề tr�n đan viện Xit� Ch�u Sơn (Nho Quan, Ninh B�nh, 1936), kế vị đức cha Phan Đ�nh Ph�ng.

Năm 1940, Nhật Bản đ�nh chiếm Lạng Sơn, đổ bộ Hải Ph�ng: Việt Nam bắt đầu thời kh�i lửa đệ nhị thế chiến. Cao tr�o b�i Ph�p v� người da trắng nổi dậy, nhất l� sau cuộc đảo ch�nh 9.3.1945 lật đổ ch�nh quyền Bảo hộ Ph�p. Gi�o hội Việt Nam c�n trong tay c�c gi�m mục v� thừa sai Ph�p, T�y Ban Nha, kh�ng tr�nh khỏi những kh� khăn trước phong tr�o d�n tộc độc lập. Th�ng 8 năm 1945 Nhật Bản đầu h�ng Đồng Minh, Mặt trận Việt Nam Đồng minh hội, gọi tắt l� Việt Minh, nhảy ra cướp ch�nh quyền. Việc người Ph�p mưu đồ trở lại Việt Nam đ� g�y n�n một cuộc chiến tranh Việt-ph�p từ th�ng 12 năm 1946. Trong những năm kh�i lửa của một cuộc �trường kỳ kh�ng chiến� n�y, đất nước chia l�m hai khu vực: Quốc gia v� Việt Minh. Nhiều địa phận cũng bị chia th�nh hai khu vực, khiến sự li�n lạc v� trao đổi trở n�n rất kh� khăn, c�ng cuộc truyền gi�o lại một phen bế tắc. Tại những khu Việt Minh m� ch�nh s�ch Cộng sản được �p dụng, th� Gi�o hội đ� kh�ng thể tr�nh được nhiều tai biến : linh mục bị bắt dẫn đi, gi�o d�n bị vu c�o l� Việt gian, theo T�y...

Trước một t�nh thế đầy kh� khăn n�y, T�a th�nh đ� trao dần c�c gi�o phận cho h�ng gi�o sĩ Việt Nam. Năm 1950, đức cha Giuse Trịnh Như Khu� đảm nhiệm địa phận H� Nội; cũng năm ấy, đức cha Đaminh Ho�ng Văn Đo�n d�ng Đaminh nhận địa phận Bắc Ninh. Một năm sau, địa phận Vinh được trao cho đức cha Gioan B. Trần Hữu Đức. Năm 1953, đức cha Trương Cao Đại d�ng Đaminh đảm nhận gi�o phận Hải Ph�ng. Người kế vị đức cha Hồ Ngọc Cẩn (+ 1948) gi�o phận B�i Chu năm 1950, l� đức cha Pher� Phạm Ngọc Chi. Cũng năm 1950, đức tổng gi�m mục John Dooley, người �i Nhĩ Lan, d�ng Truyền gi�o Columban, được cử đến thay thế đức kh�m sứ Drapier. Đức t�n kh�m sứ dời trụ sở từ Huế ra H� Nội, cạnh t�a Gi�m mục. Năm liền sau 1951, ng�y 29 th�ng 4, đức Th�nh Cha Pi� XII suy t�n ch�n phước 25 đấng Tử đạo Việt Nam: 2 gi�m mục, 4 linh mục, 19 gi�o d�n B�i Chu - Th�i B�nh.[82]

Hiệp định Gen�ve 20.7.1954 chấm dứt chiến tranh Việt-Ph�p. Nhưng đồng thời n� chia cắt nước Việt Nam l�m hai, c� s�ng Bến Hải (vĩ tuyến 17) l�m ranh giới, Gi�o hội ở Việt Nam c�ng chịu chung số phận n�y. Sự chia cắt đau thương ở ch�nh th�n thể m�nh, m� v�ng c�ng gi�o d�n nhất lại l� phần d�nh cho Việt Minh Cộng sản v� thần. Kh�ng ngần ngại hy sinh tất cả, đến cả mạng sống, 650.000 gi�o d�n miền Bắc ồ ạt k�o nhau v�o Nam để được tự do sống đạo, l�i k�o h�ng mấy trăm ng�n đồng b�o t�n gi�o kh�c v�o một cuộc di chuyển� vĩ đại trong lịch sử.


4. Gi�o hội ở Việt Nam từ hiệp định Gen�ve 1954 đến 1974

a) Gi�o hội ở Việt Nam sau hiệp định Gen�ve :
Phẩm trật Gi�o hội được thiết lập (1960)

Hiệp định Gen�ve 20.7.1954 vừa k� xong, nhiều người miền Bắc đ� bỏ cửa nh�, l�ng mạc, k�o nhau ra đi với phương tiện ri�ng, nhưng c�n h�ng triệu người đổ dồn về H� Nội, Hải Dương v� nhất l� ra Hải Ph�ng, chờ phương tiện v�o Nam, nơi �ng Ng� Đ�nh Diệm vừa lập ch�nh phủ ng�y 7 th�ng 7. Ngay từ đầu th�ng 8 năm 1954, một cầu h�ng kh�ng H� Nội - S�i G�n (1.174km) gồm cả trăm phi cơ Ph�p, Hoa Kỳ, c�ng ty tư nh�n, bắt đầu hoạt động. Trong l�ng c�c �m�y bay di cư� người ta th�o gỡ hết ghế ngồi, để bớt nặng v� th�m chỗ rộng. Giữa H� Nội hoặc Hải Ph�ng với S�i G�n l� một v�ng bay khứ hồi, mải miết hoạt động, để vận chuyển v�o Nam trung b�nh mỗi ng�y từ 2.000 đến 4.000 người. Cứ 6 ph�t lại c� một phi cơ hạ c�nh, biến s�n bay T�n Sơn Nhất th�nh một phi trường hoạt động nhất tr�n thế giới bấy giờ. Người ta t�nh c� tới 4.280 chuyến bay, chuy�n chở 213.635 người. Đường thủy c�n hoạt động mạnh hơn: tr�n 450 chuyến t�u biển chuy�n chở 555.037 người. Ngo�i ra c�n 102.861 người di cư bằng phương tiện ri�ng. Chưa kể h�ng mấy trăm ng�n người kh�c cũng muốn đi, m� bị cản lại, hoặc thiếu may mắn.[83]

Từ khi cuộc di cư bắt đầu, thủ tướng Ng� Đ�nh Diệm đ� ra H� Nội thị s�t, thiết lập tổng ủy di cư c� nhiệm vụ điều h�nh c�ng việc đ�n tiếp đồng b�o tị nạn. Về ph�a Gi�o quyền, do sự giới thiệu của đức kh�m sứ J. Dooley, đức cha Pher� Phạm Ngọc Chi được đức cha Cassaigne gi�m mục S�i G�n, ủy th�c việc coi s�c h�ng gi�o sĩ, tu sĩ v� gi�o d�n di cư, c� cha Ho�ng Mạnh Hiền, bề tr�n tu viện Đaminh Nam Định, v� cha bề tr�n Lạng Sơn Nguyễn Khắc Ngữ, l�m phụ t�. Với c�c tổ chức n�i tr�n, lại được nhiều nước, nhất l� Hoa Kỳ, trợ cấp thực phẩm, thuốc men, tiền bạc, vật liệu x�y cất, n�n kh�ng đầy một năm, một triệu đồng b�o đ� c� chỗ ở tạm cư tại nhiều địa điểm trong c�c tỉnh Trung nguy�n v� Cao nguy�n Trung phần, nhưng nhất l� ở Nam phần, nơi đất rộng người thưa. Đời sống tạm cư dần dần trở th�nh định cư lập nghiệp v� x�y dựng lại cuộc đời. Tại c�c trại định cư C�ng gi�o, th�nh đường, tu viện, học đường, c� nhi viện, dưỡng l�o viện, bệnh viện, viện b�c �i, xưởng c�ng nghệ từ từ mọc l�n, khiến họ c� bộ mặt kh�ng kh�c g� ở miền Bắc, c� khi c�n sầm uất v� tiến bộ hơn. Những ng�i th�nh đường, những cơ sở gi�o dục, b�c �i x� hội, ban đầu bằng tre gỗ, đến sau được thay thế bằng gạch ng�i v� b� t�ng, mỗi năm mở rộng th�m, theo đ� gia tăng của d�n số v� sự ph�t triển của đời sống.

Cuộc di cư đ� l�m cho Gi�o hội miền Bắc năm 1957 chỉ c�n lại 713.000 gi�o d�n với 7 gi�m mục v� 374 linh mục. Nhiều địa phận m�i đến năm 1960 mới c� t�n gi�m mục thay thế c�c gi�m mục di cư.[84] Ngay từ cuối năm 1954, Gi�o hội miền Bắc bước dần v�o một t�nh thế rất kh� khăn: ch�nh quyền Cộng sản hạn chế tối đa việc h�nh đạo v� mở trường học, một số lớn th�nh đường đ�ng cửa hoặc bị chiếm l�m kho vật liệu hay xưởng m�y, c�c gi�m mục bị c� lập, nhiều vị chưa được tấn phong, c�c linh mục gặp kh� khăn trong việc di chuyển, kh�ng được ra khỏi gi�o xứ m�nh nếu kh�ng c� giấy ph�p c�ng an địa Phương. Chỉ ở H� Nội, nơi c� nhiều nh� ngoại giao v� du kh�ch ngoại quốc qua lại, người ta mới thấy c� ch�t tự do t�n gi�o: th�nh đường ch�nh t�a vẫn mở cửa, Th�nh Lễ được cử h�nh ng�y ch�a nhật. Tuy nhi�n, ngay tại H� Nội, ch�nh quyền đ� th�u hồi c�c trường C�ng gi�o, đ�ng cửa chủng viện v� cấm đức cha Trịnh Như Khu� kh�ng được đi thăm viếng c�c nơi. Năm 1959- 60, đức kh�m sứ T�a th�nh, c�c gi�m mục v� thừa sai nước ngo�i bị trục xuất hết.[85]

Tại c�c tỉnh xa x�i v� l�ng mạc, Cộng sản c�ng khai tạo kh� dễ cho t�n gi�o. Đời sống t�n gi�o suy giảm v� khan hiếm linh mục, tu sĩ v� v� giới thanh ni�n phải tham gia c�c hoạt động tập thể do nh� cầm quyền tổ chức, nhiều thanh ni�n C�ng gi�o bị cưỡng �p h�nh động nghịch với gi�o l� đức tin, hoặc phải đi lao c�ng chiến trường. Ch�nh s�ch hạn chế sinh đẻ được �p dụng triệt để, c�n bộ tuy�n truyền rằng: nếu bạn chỉ sinh một đứa con, theo b�c v� đảng l� thiếu; sinh hai đứa l� đủ; sinh ba đứa l� thừa; bốn đứa nhiều qu�. Về ngoại giao, T�a th�nh Vatican đ� nhiều lần muốn gởi Đại diện đến, nhưng nh� cầm quyền H� Nội kh�ng đ�n nhận. Kh�ng một gi�m mục n�o miền Bắc đ� được ph�p đi tham dự đại C�ng đồng Vatican II (1962-65), cũng như c�c quyết nghị của C�ng đồng vẫn chưa lọt v�o được.

Tuy nhi�n, đạo C�ng gi�o ở xứ Bắc chưa c� thể bị ti�u diệt. Tại những v�ng đ�ng gi�o d�n, người C�ng gi�o c�ng khai chống chế độ, từ chối hợp t�c với Nh� nước, v� đ�nh chịu s�u cao thuế nặng để được tự do sống đạo. Nhiều nơi bị mất nh� thờ, nhưng cũng nhiều nơi, do phản ứng mạnh của gi�o d�n, nh� cầm quyền H� Nội đ� buộc phải trả lại. Thiếu linh mục, nhiều bậc phụ huynh tự đảm nhận một số c�ng t�c mục vụ b� t�ch (rửa tội, chứng h�n, trao M�nh th�nh Ch�a...). C�n bộ ch�nh trị thường gọi khu vực Ph�t Diệm, B�i Chu l� những �khu phản động�. V� gi�o d�n hai gi�o phận n�y c� tinh thần bất khuất cao hơn cả, nhiều vụ nổi dậy đ� xảy ra. Gi�o phận Bắc Ninh, gi�o d�n xứ Đại Từ (Th�i Nguy�n) cũng đứng l�n phản đối ch�nh quyền hạn chế v� ngăn cấm họ đi Lễ. Gi�o d�n tỉnh Bắc Kạn đ� v� trang gậy gộc, gi�o m�c đ�nh nhau với c�n bộ, khi họ đến tịch bi�n t�i sản của th�nh đường. Những sự kiện tr�n cho ta thấy tại miền Bắc, h�ng gi�o sĩ cũng như gi�o d�n vẫn ki�n gan tỏ ra l� những con ch�u của c�c anh h�ng Tử đạo.

Từ năm 1971, người ta đ� thấy c� một v�i dấu hiệu thay đổi trong những quan hệ rất hiếm hoi giữa T�a th�nh v� Ch�nh phủ miền Bắc. Ng�y 12.3.1971, đức cha Phaol� Nguyễn Năng (63t) được tấn phong Gi�m mục gi�o phận Vinh c�ch long trọng tại H� Nội, c� ph�i đo�n Ch�nh phủ đến tham dự. Ng�y h�m sau, đức t�n gi�m mục được thủ tướng Phạm Văn Đồng v� chủ tịch T�n Đức Thắng tiếp kiến. Trong những buổi tiếp kiến n�y, c�n c� sự hiện diện của nhiều nh�n vật ch�nh quyền.[86]

Trong khi đ�, ở miền Nam mặc dầu những x�o trộn do chiến tranh g�y ra (tổng thống Ng� Đ�nh Diệm bị s�t hại năm 1963), Gi�o hội vẫn một mực tiến l�n. Năm 1956, đức cha Giuseppe Caprio được đặt l�m thanh tra T�ng t�a ở S�i G�n. Năm sau, ng�i được n�ng l�n h�ng đại l� kh�m sứ. Năm 1957 số gi�o d�n miền Nam l� 1.100 000 (60% di cư) v� 67.854 dự t�ng, với một h�ng gi�o sĩ gồm 1.264 linh mục, 254 đại chủng sinh, 1.672 th�y giảng.[87]

T�a th�nh tiếp tục trao nhiều gi�o phận cho h�ng gi�o sĩ Việt Nam. Năm 1955, đức cha Simon H�a Nguyễn Văn Hiền được cử l�m gi�m mục địa phận S�i G�n thay thế đức cha Cassaigne Sanh nghỉ hưu, trở lại trại c�i Kala - Di Linh (L�m Đồng). Cũng năm ấy, c�c tỉnh miền Hậu Giang t�ch khối gi�o phận Phnom-penh, để được thiết lập gi�o phận Cần Thơ, đức cha Phaol� Nguyễn Văn B�nh đảm nhận địa phận mới. Hai năm sau tức 1957, T�a-th�nh lấy hai tỉnh Kh�nh H�a v� Ninh Thuận (địa phận Qui Nhơn) s�t nhập với hai tỉnh Binh Thuận v� B�nh Tuy (địa phận S�i G�n), để thiết lập gi�o phận Nha Trang v� trao cho đức cha Piquet Lợi, nguy�n gi�m mục Qui Nhơn. Phần địa phận Qui Nhơn c�n lại, T�a th�nh ủy th�c cho h�ng gi�o sĩ Việt Nam v� đặt đức cha Phạm Ngọc Chi l�m gi�m quản. Th�ng 7 năm 1959, đức Kh�m sứ J. Dooley phải rời khỏi xứ Bắc, T�a th�nh quyết định lập T�a Kh�m sứ tại S�i G�n, v� cử đức cha Mario Brini kế vị.

Đại hội Th�nh Mẫu to�n quốc năm 1959 l� sự kiện lớn nhất, do s�ng kiến của đức cha Nguyễn Văn Hiền v� c�c đức Gi�m mục miền Nam. Đại hội được tổ chức trong ba ng�y 16, 17, 18 th�ng 2.1959 tại S�i G�n nh�n dịp Năm Th�nh Mẫu, kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức, đồng thời mừng 300 năm việc bổ nhiệm hai gi�m mục ti�n khởi tại Việt Nam ng�y 9.9.1659: đức cha Fran�ois Pallu Đ�ng Ngo�i v� đức cha Pierre Lambert de La Motte Đ�ng Trong. Đức Th�nh Cha Gioan XXIII gởi đặc sứ T�a th�nh đến chủ tọa Đại hội : đức hồng y Gr�goire Pierre XV Agagianian.

Ng�y 16, Th�nh Lễ trọng thể tại nh� thờ Đức B� S�i G�n, cầu cho Gi�o hội thầm lặng. Ban chiều, đức hồng y Đặc sứ được h�ng gi�o sĩ, gi�o d�n ch�o mừng. Sau đ�, ng�i l�m ph�p tượng Đức Mẹ H�a b�nh. Ng�y 17, cũng tại nh� thờ Đức B�, Th�nh Lễ trọng thể cầu cho c�ng cuộc truyền gi�o. Ng�y 18, lễ c�c Ch�n phước Tử đạo Việt Nam - Kỷ niệm 300 thiết lập hai t�a Gi�m mục đầu ti�n tại Việt Nam, Th�nh Lễ trọng thể do đức hồng y Đặc sứ cử h�nh hồi 6g30 tại Lễ đ�i. Ban chiều, đức hồng y chủ sự rước kiệu Đức Mẹ qua nhiều đường phố. H�t kinh �Te Deum� bế mạc Đại hội.

Một biến cố lịch sử quan trọng sau 4 thế kỷ truyền gi�o: ng�y 24.11.1960 đức Th�nh Cha Gioan XXIII ban T�ng hiến Venerabilium Nostrorum, thiết lập Phẩm trật Hội Th�nh tại Việt Nam. T�ng hiến được c�ng bố ng�y lễ Đức Mẹ V� nhiễm Nguy�n tội (8.12) năm ấy, chia Gi�o hội Việt Nam th�nh ba Gi�o tỉnh: H� Nội, Huế, S�i G�n, mỗi Gi�o tỉnh gồm nhiều gi�o phận. Cũng T�ng hiến n�y th�nh lập ba gi�o phận mới : Đ� Lạt (Tuy�n Đức, L�m đồng, Quảng Đức, Phước Long), Mỹ Tho (Định Tường, Long An, Kiến Tường, Kiến Phong), Long Xuy�n (An Giang, Ki�n Giang, v� một phần Chương Thiện). Đứng đầu mỗi Gi�o tỉnh l� một tổng gi�m mục, v� mỗi gi�o phận l� một gi�m mục ch�nh t�a.

Gi�o tỉnh H� Nội: đức Cha Giuse Trịnh Như Khu� tổng gi�m mục H� Nội, đức cha Vinh sơn Phạm Văn Dụ gi�m mục Lạng Sơn, đức cha Pher� Khuất Văn Tạo gi�m mục Hải Ph�ng, gi�m quản Bắc Ninh, đức cha Pher� Nguyễn Huy Quang gi�m mục Hưng H�a, đức cha Đaminh Đinh Đức Trụ gi�m mục Th�i B�nh, đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh gi�m mục B�i Chu, đức cha Phaol� B�i Chu Tạo gi�m mục Ph�t Diệm, đức cha Pher� Phạm Tần gi�m mục Thanh H�a, đức cha Gioan Baptista Trần Hữu Đức gi�m mục Vinh.

Gi�o tỉnh Huế: đức cha Pher� Ng� Đ�nh Thục tổng gi�m mục Huế, đức cha Pher� Phạm Ngọc Chi gi�m mục Qui Nhơn, đức cha Marcel Piquet Lợi gi�m mục Nha Trang, đức cha Paul Seitz Kim gi�m mục Kontum.

Gi�o tỉnh S�i G�n: đức cha Phaol� Nguyễn Văn B�nh tổng gi�m mục S�i G�n, đức cha Simon H�a Nguyễn Văn Hiền gi�m mục Đ� lạt, đức cha Giuse Trần Văn Thiện gi�m mục Mỹ Tho, đức cha Philipp� Nguyễn Kim Điền gi�m mục Cần Thơ. đức cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ gi�m mục Long Xuy�n, đức cha Ant�n Nguyễn Văn Thiện gi�m mục Vĩnh Long.

Năm 1963, đức Th�nh Cha Gioan XXIII ban th�m Chiếu thư thiết lập gi�o phận Đ� Nẵng, gồm hai tỉnh Quảng Nam v� Quảng Trị t�ch ra từ địa phận Qui Nhơn, thuy�n chuyển đức cha Phạm Ngọc Chi từ Qui Nhơn l�m gi�m mục gi�o phận mới, c�n Qui Nhơn trao cho đức cha Đaminh Ho�ng Văn Đo�n. Cũng năm ấy, đức Th�nh Cha ban Sắc phong cha Phaol� Trần Đ�nh Nhi�n gi�m mục phụ t� địa phận Vinh, đức cha Giuse Trịnh Văn Căn tổng gi�m mục ph� Gi�o tỉnh H� Nội, cha Phaol� Phạm Đ�nh Tụng gi�m mục Bắc Ninh. Năm 1965, cha Giacob� Nguyễn Ngọc Quang được phong gi�m mục Cần Thơ thay thế đức cha Nguyễn Kim Điền thuy�n chuyển ra Huế l�m gi�m quản, để sau đ� (1968) l�n chức tổng gi�m mục, kế vị đức cha Ng� Đ�nh Thục lưu lại nước ngo�i.

Ng�y 14.10.1965, T�a th�nh chia gi�o phận S�i G�n một lần nữa: ba tỉnh Long Kh�nh, Bi�n H�a, Phước Tuy, v� thị x� Vũng T�u lập gi�o phận Xu�n Lộc, được trao cho đức t�n gi�m mục Giuse L� Văn Ấn; bốn tỉnh B�nh Dương, T�y Ninh, B�nh Long, Phước Th�nh hợp th�nh gi�o phận Ph� Cường, được ủy th�c cho vị t�n gi�m mục thứ hai, đức cha Giuse Phạm Văn Thi�n. Gi�o phận S�i G�n đồng thời c� th�m cha bề tr�n Phanxic� Xavi� Trần Thanh Kh�m được phong gi�m mục phụ t�. Năm 1967, th�m hai t�n gi�m mục nữa: đức cha Phanxic� Xavi� Nguyễn Văn Thuận kế vị đức cha Piquet Lợi, đức cha Pher� Nguyễn Huy Mai đảm nhận gi�o phận mới Ban M� Thuột (22.6.67), gồm ba tỉnh Đắc Lắc (địa phận Kontum), Quảng Đức v� Phước Long (địa phận Đ� Lạt). Ng�y 30.1.1975, gi�o phận Phan Thiết được th�nh lập, gồm hai tỉnh B�nh Thuận v� B�nh Tuy (gi�o phận Nha Trang), được trao cho đức cha Nicola Huỳnh Văn Nghi, nguy�n l� gi�m mục phụ t� S�i G�n (11.8.74).

b) Gi�o hội ở miền Nam sau hiệp định Gen�ve:
c�c d�ng tu, hội d�ng v� tu hội

Ngo�i việc trực tiếp giảng đạo cho lương d�n v� coi s�c c�c gi�o xứ, Gi�o hội miền Nam thời n�y ph�t triển mạnh về mọi phương diện x� hội, gi�o dục, văn h�a. H�ng gi�o sĩ cũng như giới tr� thức C�ng gi�o gia nhập c�c hoạt động quốc gia, nhận những ghế gi�o sư trung học v� đại học của Nh� nước hoặc thuộc c�c t�n gi�o bạn. Kh�ng một ng�i th�nh đường n�o được kiến thiết m� b�n cạnh kh�ng c� một trường trung học hay tiểu học, �t l� mẫu gi�o hay vườn trẻ, v�i ba cơ sở b�c �i x� hội, như bệnh viện, ph�ng ph�t thuốc, c� nhi viện, viện dưỡng l�o, xưởng c�ng nghệ, trường dạy nghề...[88] Nhiều th�nh đường lớn được x�y cất với lối kiến tr�c t�n tiến v� nguy nga đồ sộ, như đền Đức Mẹ Hằng Cứu gi�p Huế, th�nh đường Vĩnh Long, Xu�n Lộc, Long Xuy�n, Dốc Mơ... Hai th�nh đường La Vang v� S�i G�n được n�ng l�n h�ng vương cung th�nh đường (1961, 1962).

Nhiều trung t�m đạo đức, tĩnh t�m, h�nh hương n�ng đỡ đời sống thi�ng li�ng của gi�o d�n như La Vang (Quảng Trị), Tr� Kiệu (Quảng Nam), La M� (Kiến H�a), B�i D�u (Vũng T�u), Fatima B�nh Triệu (Gia Định)... Tham dự C�ng gi�o tiến h�nh, c� nhiều phong tr�o v� hội đo�n, như: Sinh vi�n C�ng gi�o, thanh sinh c�ng, thanh lao c�ng, thanh ni�n Th�nh nghiệp, phong tr�o Tr� thức C�ng gi�o Pax Romana, hiệp hội Gi�o chức C�ng gi�o, hội c�c B� Mẹ C�ng gi�o, hội Con Đức Mẹ, Thiếu nhi Th�nh Thể, H�ng t�m Dũng ch�, Đạo binh Đức Mẹ, hiệp hội Th�nh Mẫu, Li�n minh Th�nh r�rn, Đo�n thể Phạt tạ, Li�n đo�n C�ng Tư chức C�ng gi�o, hội B�c �i Vinh sơn, Hướng đạo C�ng gi�o, d�ng Ba Phansinh, d�ng Ba Đaminh, phong tr�o Cursillos, phong tr�o Focolari... Những cơ sở hoạt động chung, như: biệt thự Th�nh T�m (Đ� Lạt 1955), Trung t�m C�ng gi�o Việt Nam (S�i G�n 1957), trụ sở Caritas Việt Nam (S�i G�n 1957)...

Để tiếp tục truyền thống gi�o dục của gi�o hội C�ng gi�o, v� đ� đ�o tạo h�ng gi�o sĩ d�ng triều cũng như những nh�n t�i cho Quốc gia, c�c gi�o phận v� d�ng tu đều c� chủng viện hoặc trường đệ tử, v� nhiều trường trung học. Tr�n cấp bậc đại học ngo�i c�c dại chủng viện (S�i G�n, Huế, Vĩnh Long, Đ� Nẵng, Long Xuy�n) v� học viện (thuộc nhiều d�ng tu), c�n c� những viện sau d�y: 1) Gi�o ho�ng Học viện Th�nh Pi� X Đ� Lạt (1958) thuộc T�a th�nh, do c�c cha d�ng T�n điều khiển.[89] Năm 1964 khu học viện được mở rộng, c� thể th�u nhận 180 chủng sinh ưu t� từ c�c gi�o phận ở Việt Nam, Cam Bốt v� Ai Lao gởi đến; viện c� một thư viện kh� đầy đủ (tr�n 40.000 cuốn) về thần học v� triết học. 2) Viện Đại học Đ� Lạt do h�ng Gi�m mục Việt Nam thiết lập (1959), c� mục đ�ch đ�o tạo những nh�n t�i theo tinh thần C�ng gi�o; năm 1972 c� 4 ph�n khoa: Sư phạm, Văn khoa, Khoa học v� Ch�nh trị Kinh doanh. 3) Li�n Học viện Thủ Đức của tỉnh d�ng Đaminh Việt Nam (1967), nơi đ�o tạo h�ng gi�o sĩ d�ng Đaminh v� nhiều hội d�ng kh�c; viện c�n mở những  lớp triết l� Thần học Sedes Sapientiae(1969), d�nh cho nữ tu c�c hội d�ng. 4) Viện Đại học Minh Đức S�i G�n do linh mục Bửu Dưỡng d�ng Đaminh (chi Lyon) s�ng lập (1970) với sự cộng t�c của một nh�m tr� thức lương v� gi�o (hội Minh Tr�), c� mục đ�ch lương gi�o đo�n kết trong việc đ�o luyện một số nh�n t�i cho Quốc gia. Ngay năm đầu, Minh Đức đ� c� 5 ph�n khoa: Triết học, Y khoa, Kinh tế Thương mại, Khoa học kỹ thuật v� Kỹ thuật canh n�ng. 5) Viện Đại học Th�nh Nh�n S�i G�n do c�c Sư huynh Lasan th�nh lập (1970) v� điều h�nh, năm đầu chỉ c� ph�n bộ Khoa học gi�o dục, trong đ� c� viện huấn luyện nh�n bản v� t�n gi�o, d�nh cho tu sĩ nam nữ trẻ tuổi c�c d�ng tu.

C�c tu sĩ thuộc nhiều hội d�ng từ nước ngo�i đến, cũng như đ� được th�nh lập ở trong nước, hoạt động trong nhiều gi�o phận kh� đ�ng. Năm 1970, c� 366 linh mục d�ng (kể cả hội Thừa sai Paris v� Saint-Sulpice), 1.074 tu sĩ, 6.189 nữ tu: hầu hết l� người Việt.

Từ nước ngo�i đến c� c�c d�ng tu sau đ�y: Đaminh (1580),[90] Phansinh (1583), T�n Ch�a Gi�su (1615-1802, trở lại: 1957), Thừa sai Paris (1664), Nữ tu Th�nh-Phaol� (1860), Nữ đan sĩ C�t minh (1861), Sư huynh Lasan (1866), Nữ tu Ch�a Quan ph�ng Portieux (1875), Nữ tu Đức B� Truyền gi�o (1924), Ch�a Cứu Thế (1925), Nữ tử B�c �i Th�nh Vinhsơn-Phaol� (1928), Nữ tu Phansinh Thừa sai Đức Maria (1932), Xit� (1933), Saint-Sulpice (1933), Nữ kinh sĩ Th�nh - �utinh (1935), Nữ đan sĩ Th�nh - Clara (1935), Biểnđức (1936), phụ t� Truyền gi�o (1938), Bệnh viện Th�nh - Gioan Thi�n Ch�a (1952), Sal�di�ng (1953), Tiểu muội Ch�a Gi�su (1953), Tiểu đệ Ch�a Gi�su (1953), Lazarist (1954), Nữ t� Quốc tế C�ng gi�o (1954), Nữ đan sĩ Biển đức Th�nh - Bathilda (1954), Nữ tu Đấng Chăn L�nh (1958), Nữ tu Y viện Truyền gi�o (1960), Nữ tu Sal�di�ng (1961), Nữ tỳ Ch�a Gi�su v� Mẹ Maria (1961), Sư huynh Th�nh Gioan Baptista Ankwo (1962),[91] linh mục Th�nh Thể (1971). V� một số tu hội hoặc hội đạo đức kh�c cũng từ nước ngo�i v�o, như �Le Prado�, �Oblates Missionnaires de Marie Immacul�e�, �Fraternit� J�sus Caritas�, �Les Travailleuses Missionnaires�, �Foyers de Charit�, �Les Auxiliaires de l'Apostolat�, �Fraternit� de la Vierge des Pauvres�.[92]

Nhiều d�ng tu �trưởng th�nh� ơ Việt Nam được thiết lập th�nh tỉnh d�ng (với những con số năm 1972):

1) Bốn tỉnh d�ng Th�nh Phaol�: a) S�i G�n (1860): 32 nh� với nhiều cơ sở gi�o dục, từ thiện, 388 nữ tu (6 truyền gi�o ở Phi ch�u, 3 du học), 24 tập sinh; b) H� Nội (1883): năm 1954 tr�n 10 nữ tu ở lại H� Nội, c�n bao nhi�u v�o Đ� Nẵng; c) Đ� Nẵng (1954): 36 nh� với nhiều cơ sở gi�o dục, từ thiện, 362 nữ tu (8 truyền gi�o ở Phi ch�u, 7 du học), 66 tập sinh; d) Mỹ Tho (1964): 15 nh� với nhiều cơ sở gi�o dục, từ thiện, 175 nữ tu (1 ở nước ngo�i), 22 tập sinh.

2) Tỉnh d�ng Lasan Việt Nam (gồm Việt Nam, Th�i Lan, Cam Bốt v� Ai Lao, 1897), nh� gi�m tỉnh ở S�i G�n: 27 cộng đo�n, 21 cơ sở gi�o dục, 260 Sư huynh (22 ở nước ngo�i), 61 kinh sinh, 13 tập sinh. Tỉnh d�ng về sau mang t�n S�i G�n.

3) Tỉnh d�ng Nữ tử B�c �i (1932), nh� mẹ ở Đ� Lạt: 17 nh� với nhiều cơ sở gi�o dục v� b�c �i x� hội, 5 trụ sở truyền gi�o, 233 nữ tu (5 ở nước ngo�i), 22 tập sinh.

4) Tỉnh d�ng Ch�a Quan ph�ng Việt Nam (1958), nh� ch�nh ở Cần Thơ: 72 nh� với nhiều cơ sở gi�o dục, b�c �i x� hội, 605 nữ tu (6 ở nước ngo�i), 25 tập sinh.

5) Tỉnh d�ng Ch�a Cứu Thế (1964), nh� gi�m tỉnh ở S�i G�n: 8 nh� với những cơ sở gi�o dục, 3 gi�o xứ, 4 trụ sở truyền gi�o, 108 linh mục (19 ở nước ngo�i), 20 học sĩ, 57 trợ sĩ (5 ở nước ngo�i).

6) Tỉnh d�ng Đaminh Việt Nam (1967), trụ sở gi�m tỉnh ở Ph� Nhuận (Gia Định): 4 tu viện với những cơ sở gi�o dục, 2 tu x�, 6 gi�o xứ với nhiều cơ sở gi�o dục v� b�c �i, 1 gi�m mục (Qui Nhơn), 63 linh mục (8 ở nước .go�i), 43 học sĩ, 24 trợ sĩ (2 ở nước ngo�i), 12 tập sinh.

7) Tỉnh d�ng Đức B� Truyền gi�o (1970), nh� mẹ ở Thủ Đức (Gia Định): 6 nh� với những cơ sở gi�o dục v� b�c �i, 68 nữ tu (2 ở Phi ch�u, 3 ở Ph�p), 7 tập sinh v� chuẩn sinh.

V� dưới đ�y l� c�c hội d�ng được th�nh lập ngay ở Việt Nam, kể cả những đan viện tuy gốc ngoại quốc, nhưng đứng biệt lập v� tự trị.[93]

1670 : D�ng Mến Th�nh gi� [94], do đức cha Lambert de La Motte (1624-79) s�ng lập tu viện thứ nhất tại Ki�n Lao (Nam Định), v� năm 1671 tu viện thứ nh� ở An Chỉ (Quảng Ng�i). C�c nữ tu h�ng ng�y lấy việc suy gẫm cuộc khổ nạn Ch�a Gi�su, l�m phương thế hữu hiệu nhất để th�nh h�a bản th�n v� hoạt động truyền gi�o. trong thời b�ch hại đạo, c�c nữ tu Mến Th�nh gi� chia nhau đi an ủi gi�o d�n, li�n lạc gi�p đỡ c�c gi�o sĩ bị t� đ�y, nhiều nữ tu được phước Tử đạo. Từ Ki�n Lao v� An Chỉ, như vết dầu loang, d�ng Mến Th�nh gi� b�nh trướng sang nhiều gi�o phận (hoặc biến th�nh d�ng kh�c). Trong ba thế kỷ qua, d�ng lần lượt được canh t�n v� cải tổ; v� cho đến 1974 chia th�nh 14 chi nh�nh như sau : C�i Nhum (1800), C�i Mơn (1844), Chợ Qu�n (1852), Thủ Thi�m (1859), Ph�t Diệm (1902), Qui Nhơn (1924), Thanh H�a (1932), H� Nội (1938), T�n B�nh -Vinh (1952), Kh�nh Hưng - Cần Thơ (1958), Hải Ph�ng - T�n Việt (1959), Th�i B�nh (1960), Thừa sai Huế (1962), Bắc Ninh (1965). Năm 1970, nh�n kỷ niệm Ba Trăm Năm th�nh lập, d�ng Mến Th�nh gi� tr�nh b�y một bản thống k� về 14 chi nh�nh : 324 nh�, 241 tập sinh, 1.496 nữ tu khấn tạm, 559 nữ tu khấn trọn; ngo�i ra c�n hai nh� ở ngoại quốc: Thare (Th�i Lan), Vientienne (Ai Lao).[95]

1862: D�ng nữ C�tminh, quen gọi l� D�ng K�n, do mẹ Philom�ne de l'Immacul�e Conception (từ Lisieux sang 1861) s�ng lập đan viện đầu ti�n ở S�i G�n, cũng l� nữ đan viện C�tminh thứ nhất tại xứ Truyền gi�o. C�ng việc n�y được đức cha Lefebvre Ng�i, gi�m mục địa phận T�y Đ�ng Trong (1844-64) tận t�nh gi�p đỡ. C�c nữ đan sĩ kh�ng hoạt động b�n ngo�i, nhưng tr�t đời sống khắc khổ, chi�m niệm phượng thờ Ch�a v� cầu nguyện cho c�ng việc truyền gi�o.[96] Từ S�i G�n, d�ng lập th�m nhiều đan viện ở Việt Nam: H� Nội (1895), Huế (1909), B�i Chu (1923), Thanh H�a (1929). Thời di cư 1954, hai đan viện H� Nội v� B�i Chu được di chuyển sang Canada, trong tỉnh Qu�bec: nh� H� Nội ở Dolbeau, nh� B�i Chu ở Danville. Đan viện Thanh H�a cũng được dời v�o Nam tại Thanh Hải, Nha Trang. Năm 1972 ở Việt Nam c�n 3 đan viện: S�i G�n, Huế, Nha Trang với con số 67 đan sĩ, 5 tập sinh.

1920: D�ng Xit� Phước Sơn do cha đ�ng k�nh Benoit (+1933) s�ng lập (1918) tr�n n�i Phước Sơn, Vĩnh Linh (Quảng Trị). Cha Benoit nguy�n l� thừa sai Heni Denys Thuận, cha sở Thừa Lưu, gi�o sư chủng viện An Ninh, địa phận Huế. Cha ước ao từ l�u c� một d�ng nam sống chi�m niệm, khắc khổ, cầu nguyện cho c�ng cuộc truyền gi�o. Được đức cha Allys L� ban ph�p, ng�y 15.8.1918 với một nh�m tu sĩ đầu ti�n, cha Benoit khai mạc đời sống cộng đồng chi�m niệm tại Phước Sơn. Cũng năm ấy, T�a th�nh ch�u ph� việc đức cha Allys xin th�nh lập một d�ng đan tu thuộc quyền địa phận; v� ng�y 21.3.1920, đức cha ban sắc ch�nh thức lập d�ng mới, lấy t�n D�ng Đức B� Việt Nam Phước Sơn. Năm 1934, d�ng gia nhập đại gia đ�nh Xit�, trực thuộc T�a th�nh, mang t�n D�ng Xit� Phước Sơn. Th�ng 9 năm 1936, Phước Sơn lập nh� con ở Chu Sơn, Nho Quan (Ninh B�nh). Th�ng 10 năm 1950, Phước Sơn lập nh� con thứ hai tại T�n Th�nh (Vĩnh Long), nhưng sau đ� hồi đầu năm 1952, dời l�n Xo�i Minh (Bi�n H�a), lấy t�n Phước L�. Thời di cư v�o Nam: đan viện Phước Sơn, sau một thời gian ở rừng Đồng Xo�i, được chuyển đến G� C�ng, Thủ Đức (Gia Định); đan viện Ch�u Sơn, một phần tư ở lại Bắc, ba phần v�o Nam, sau thời gian tạm tr� ở Phước L�, năm 1957 đ� l�n tỉnh Tuy�n Đức lập nh� tại Đơn Dương. Năm 1964, Chi D�ng Xit� Th�nh Gia được ch�nh thức th�nh lập gồm 4 nh� với 169 đan sĩ (1970). Th�ng 7 năm 1972, đan viện thứ năm được th�nh lập tại Ch�u Thủy (B�nh Tuy) do cộng đồng Ch�u Sơn. Năm 1972, đức đan phụ Gioan Vương Đ�nh L�m (Phước Sơn) l�m tổng phụ (Abbas Praeses) chi d�ng Xit� Th�nh Gia, gồm 5 đan viện, 3 đan phụ (1 nghỉ hưu), 138 đan sĩ (42 linh mục), 56 tập sinh.

D�ng Xit� c�n Đan viện Th�nh Mẫu T�m Mỹ Ca tại Cam Ranh. Nh� n�y được th�nh lập trong thượng tuần th�ng 7 năm 1934, do cha Pierre Paulin (Ph�p) v� cha Charles Fettweis (Bỉ), xuất th�n từ đan viện L�rins (Ph�p). C�c đan sĩ Mỹ Ca sống chi�m niệm, khắc khổ, chuy�n chăm cầu nguyện v� lao động tay ch�n (Năm 1970, đan viện c� 7 linh mục, 16 đan sĩ, 5 tập sinh).

1924: D�ng Sư huynh Kit� Vua (C�i Nhum, Vĩnh Long), được th�nh lập (1870) do hai thừa sai Gernot Qu� v� Ritter Gi�o), với sự cộng t�c của th�y Gioan Baptista Đường, c� mục đ�ch trợ gi�p h�ng gi�o sĩ th�nh lập họ đạo mới, dạy gi�o l� cho t�n t�ng v� trẻ em, điều khiển c�c trường thuộc họ đạo hoặc của tu hội (Nărn 1970: 56 Sư huynh, 14 tập sinh).

1931: D�ng Con Đức Mẹ V� nhiễm (Ph� Xu�n), do đức cha J. Allys L� s�ng lập (1920), c�c nữ tu hoạt động truyền gi�o bằng gi�o dục trẻ em, gi�p c�c cha sở dạy gi�o l�, điều khiển c� nhi viện, bệnh x� (Năm 1970: 156 nữ tu, 11 tập sinh).

1931: D�ng Sư huynh Th�nh Giuse (Nha Trang) được th�nh lập (1926) do thừa sai J. Sion Kh�m (Gi�m mục Kontum 1942-51), chuy�n dạy gi�o l� trong c�c trường, gi�p c�c cơ sở gi�o phận (Nărn 1970: 58 Sư huynh, 7 tập sinh).

1935: D�ng nữ Th�nh Clara (D�ng nh� Phansinh), do mẹ Th�r�se Lemaire v� 7 đan sĩ từ đan viện Roubaix (Ph�p), sang thiết lập tại Vinh (Nghệ An) một đan viện, mang t�n Bảy Sự Vui Đức B�. C�c nữ tu Th�nh - Clara tr�t đời sống khắc khổ, chi�m niệm v� lao t�c tay ch�n trong khu nội cấm, chuy�n chăm cầu nguyện xin Ch�a đổ ơn xuống cho nh�n gian. Năm 1945, v� t�nh h�nh ch�nh trị bất ổn, c�c nữ đan sĩ phải l�nh ra H� Nội tạm tr� trong đan viện C�t minh. Cuối năm 1950, cả đan viện gồm 6 nữ tu (2 Ph�p, 4 Việt) được di chuyển sang Ph�p tại đan viện Roubaix. Ở Ph�p, c�c nữ đan sĩ Th�nh - Clara hằng mong ước trở về Việt Nam. Sự mong ước ấy đ� thể hiện ng�y 27.9.1972, chị Maria Ho�ng Thị Minh c�ng với 4 đan sĩ (1 Ph�p) trở lại Việt Nam, t�i lập đan viện Clara Thủ Đức.

1936: D�ng Con Đức Mẹ Thăm viếng (Ph� Hậu, Huế), nguy�n l� Mến Th�nh gi� Phục hưng Kim Đ�i (Huế), do cha Giuse Trần Văn Trang, được cải t�n (1967) C�c nữ tu dạy học, nu�i c� nhi, lập bệnh x� (Năm 1970: 82 nữ tu, 7 tập sinh).

1939: D�ng Sư huynh Th�nh T�m (Huế), do đức cha J. Allys L� s�ng lập (1925), phỏng theo d�ng Sư huynh Ploermel ở Bretagne (Ph�p), c� mục đ�ch gi�o dục thanh thiếu ni�n, dạy gi�o l� cho lương d�n (Năm 1970: 41 s�huynh).

1940: D�ng Biển đức Thi�n An (Huế): được truyền sang Việt Nam do một nh�m đan sĩ thuộc đan viện La Pierre-qui-Vire (Ph�p), trong số n�y c� Dom Romain v� Dom Corentin. Năm 1936, c�c đan sĩ n�i tr�n đến Đ� Lạt, để hai năm sau ra Huế lập nh� Thi�n An. Hoạt động t�ng đồ của đan viện Thi�n An, l� giảng tuần tĩnh t�m. Đan viện c�n đỡ đầu cho một trường tiểu học miễn ph� v� một bệnh x�. Năm 1962, th�m đan viện thứ hai ở Ban M� Thuộc, mang t�n Thi�n H�a. D�ng b�nh trướng v�o miền Nam: nh� Thi�n B�nh với �Trung t�m Huấn nghệ N�ng cơ� d�nh cho c�c c� nhi tại Long Th�nh (1960); năm 1970 v� 1972, lập th�m hai đan viện: Thi�n B�nh ở Long Th�nh v� đan viện Thi�n Phước ở Tam B�nh, Thủ Đức. Năm 1972, số đan sĩ ở Việt Nam l� 40 (15 linh mục) trong 4 đan viện, 5 tập sinh.

1946: D�ng Con Đức Mẹ M�n c�i B�i Chu (Ch� H�a), do đức cha Đaminh Hồ Ngọc Cẩn s�ng lập, c� mục đ�ch hoạt động gi�o dục c�ng t�c x� hội. Di cư v�o Nam, d�ng đặt nh� ch�nh ở Ch� H�a. (Năm 1970: 156 nữ tu, 36 tập sinh). Ở lại Bắc, tr�n 30 nữ tu tiếp tục sinh hoạt, mở lại tập viện v�o mấy năm sau.

1947: D�ng Nữ tu Ảnh vảy Ph�p lạ (Kontum), do đức cha J. Sion Kh�m s�ng lập (1942), d�nh cho c�c thiếu nữ Thượng địa phận Kontum, để dạy gi�o l� cho trẻ em v� l�m y t� (Năm 1970: 62 nữ tu, 7 tập sinh).

1951: D�ng nữ Đaminh B�i Chu (Tam Hiệp) nguy�n l� c�c nh� phước d�ng Ba Đaminh, được đức cha Pher� Phạm Ngọc Chi ủy th�c cho cha Giuse Ho�ng Mạnh Hiền cải tổ, c� mục đ�ch truyền gi�o trong c�c ng�nh gi�o dục, từ thiện, C�ng gi�o tiến h�nh. Di cư v�o Nam, d�ng đặt nh� ch�nh ở Tam Hiệp (Năm 1970: 188 nữ tu, 6 tập sinh). Ở lại Bắc, 12 nữ tu tiếp tục sinh hoạt, năm 1956 mở lại tập viện.

1953: D�ng Nữ Thừa sai Đức Mẹ Trinh vương, gọi tắt l� D�ng Trinh vương, nguy�n l� d�ng Mến Th�nh gi� B�i Chu được cải tổ do đức cha Pher� Phạm Ngọc Chi, cũng hoạt động truyền gi�o bằng gi�o dục, dạy gi�o l�. Di cư v�o Nam, trụ sở đặt tại B�i M�n (Gia Định). D�ng c� Hiến ph�p mới v� mang t�n mới từ năm 1960 (Năm 1970: 113 nữ tu, 27 tập sinh).

1953: D�ng Đức Mẹ Đồng c�ng do cha Đaminh Maria Trần Đ�nh Thủ, linh mục gi�o phận B�i Chu, s�ng lập (1948). C�c tu sĩ hoạt động truyền gi�o bằng những c�ng t�c gi�o dục, b�c �i, x� hội. Di cư v�o Nam, d�ng x�y nh� mẹ ở Thủ Đức (Gia Định), đến sau dời ra B�nh Định, đặt tại Mỹ Ch�nh, rồi Nh� Đ� (Mỹ Hiệp) (Năm 1970: 221 tu sĩ, 11 tập sinh).

1958: D�ng nữ Đaminh Hố Nai (Bi�n H�a), nguy�n l� c�c nh� phước d�ng Ba Đaminh thuộc nhiều gi�o phận, được cải tổ do đức cha Giuse Trương Cao Đại v� cha Giuse Ho�ng Mạnh Hiền (1956). C�c nữ tu hoạt động truyền gi�o qua c�c c�ng t�c từ thiện, b�c �i, gi�o dục, C�ng gi�o tiến h�nh. Nh� mẹ đặt tại gi�o xứ Th�nh T�m, Hố Nai (Năm 1970: 350 nữ tu, 54 tập sinh).

1961: D�ng Khiết T�m Đức Mẹ (Nha Trang) do đức cha Piquet Lợi th�nh lập tại B�nh Cang. C�c nữ tu Khiết T�m tham gia những c�ng t�c gi�o dục x� hội: dạy gi�o l�, văn h�a, phục vụ tại bệnh viện, mở c� nhi viện, k� nhi viện, trường huấn nghệ (Năm 1970: 40 nữ tu, 14 tập sinh).

1966: Nữ Tu hội B�c �i Truyền gi�o Nazar�t do linh mục Giuse Phạm Ngọc Toản s�ng lập (1958). Năm 1966, tu hội được cha Giuse Ho�ng Mạnh Hiền d�ng Đaminh n�ng đỡ v� soạn hiến ph�p. Tu hội c� mục đ�ch gi�p c�c phần tử hiến trọn vẹn phụng sự Ch�a trong mọi l�nh vực b�c �i v� truyền gi�o. Nh� mẹ đặt tại gi�o xứ Thanh H�a, Hố Nai (Năm 1970: 120 nữ tu). Từ 1981, tu hội mang t�n D�ng Nữ tỳ Ch�a Gi�su Linh mục.

1967: D�ng Con Đức Mẹ B�nh Thủy (Cần Thơ), được t�ch lập từ d�ng Con Đức Mẹ Russey Keo (Phnompenh). Khi Cam Bốt v� miền Hậu Giang Việt Nam c�n chung l� một gi�o phận, c�c nữ tu Con Đức Mẹ thường đi lại hoạt động ở cả hai miền. Sau cuộc ch�nh biến 9.3.1945, một số khoảng 12 chị em ở Vị Thanh, Vịnh Ch�o, (Chương Thiện), Ba Rinh (Ba Xuy�n) kh�ng trở về nh� mẹ Russey Keo, đ� phải ở lại tr�n phần đất Việt Nam. Sau khi được đức cha Ramousse gi�m mục Phnompenh chấp nhận cho c�c nữ tu bị kẹt ở miền Hậu Giang được th�nh lập một tu viện biệt lập, ng�y 1.9.1967 đức cha Giacob� Nguyễn Ngọc Quang gi�m mục Cần Thơ đ� ban sắc ch�nh thức th�nh lập v� đặt danh hiệu mới. C�c nữ tu hoạt động truyền gi�o bằng những c�ng t�c từ thiện v� gi�o dục (Năm 1970: 21 nữ tu, 2 tập sinh).

1969: D�ng Nữ Vương H�a b�nh (Ban M� Thuột) do đức cha Paul Seitz Kim khởi xướng v� đặt nền m�ng tại Kontum (1959), đến sau dời đi Ban M� Thuột (1964), được đức cha Pher� Nguyễn Huy Mai đặt t�n v� ban sắc th�nh lập ng�y 31.5.1969. D�ng c� mục đ�ch truyền gi�o, qua những c�ng t�c gi�o dục v� b�c �i x� hội (Năm 1970: 12 nữ tu, 15 tập sinh).

1969: D�ng nữ Biển đức Th�nh Bathilda Thủ Đức: năm 1954, theo lời y�u cầu của đức cha Seitz Kim gi�o phận Kontum, mẹ Colomban c�ng với 4 đan sĩ từ Vanves (Ph�p) sang Việt Nam, lập một nh� tại Ban M� Thuộc. Nh� n�y năm 1967 được chuyển xuống Thủ Đức, v� trở th�nh một đan viện, mang t�n Th�nh Mẫu Maria, trong khi một số nữ đan sĩ ở tại v�ng Cao nguy�n hoạt động truyền gi�o tại một gi�o điểm. C�c nữ đan sĩ Thủ Đức chỉ hoạt động trong tu viện, d�nh một ng�i nh� cho c�c linh mục, tu sĩ, gi�o d�n đến tĩnh t�m trong một khung cảnh tĩnh mịch, đạo đức v� th�ch hợp. Số nữ đan sĩ ở Việt Nam năm 1972 l� 19, v� 1 tập sinh.

1969: Tu hội Tận Hiến I.C. gồm hai ng�nh Nam Nữ biệt lập, do linh mục (gi�o phận Th�i B�nh) Micae Maria Việt Anh (Nguyễn Khắc Tước) s�ng lập (1949). Tu hội c� mục đ�ch gi�p c�c phần tử cố gắng sống trọn Tin Mừng, v� hoạt động truyền gi�o giữa đời với h�nh thức đa diện, tất cả nhờ Mẹ Maria. Tu hội đặt trụ sở tại Minh Gi�o, Đ� Lạt (nam) v� T�n H�, Bảo Lộc (nữ). (Năm 1972: 3 th�nh tu, 48 anh luyện tu, 54 chị luyện tu).[97]

1971: Tu hội Nh� Ch�a, do linh mục Giuse Maria Vũ Khoa Cử th�nh lập (1956), theo tinh thần v� tổ chức nh� Đức Ch�a Trời của c�c gi�o phận miền Bắc. Tu hội c� hai ng�nh linh mục v� đạo mục, mục đ�ch gi�p h�ng gi�o sĩ trong mọi ng�nh C�ng gi�o tiến h�nh, v� nhận coi s�c những gi�o xứ được đức gi�m mục trao cho. C�c tu sĩ khấn đức khiết tịnh, v� hứa hai nh�n đức v�ng phục, thanh bần. Nh� mẹ đặt tại Thị Ngh� (Năm 1972: 22 tu sĩ, 11 tập sinh).

Năm 1970, th�m hai hội d�ng đ� được th�nh lập b�n Cao Mi�n (Kampuchia), được dời về Việt Nam: D�ng Sư huynh Th�nh gia (Ba Nam), nguy�n l� hội Th�y giảng do cha Pianet tổ chức (1906), năm 1931 được đức cha Herrgott lập th�nh tu hội. Tu hội c� mục đ�ch mở trường dạy gi�o l� v� văn h�a trong c�c họ đạo. Nh� mẹ ở B�nh Đức (An Giang), năm 1970 c� 29 sư huynh (1/10 sư huynh sẽ được chọn l�n chức linh mục). D�ng Con Đức Mẹ (Russey Keo, Phnompenh), ban đầu l� một hội đạo đức (theo luật d�ng Mến Th�nh gi�) của thừa sai Miche (1848), năm 1942 được đức cha Chabalier cải tổ v� lập th�nh tu hội, c� mục đ�ch dạy gi�o l� trong gi�o phận. Hồi hương th�ng 7 năm 1970, d�ng Con Đức Mẹ x�y nh� ch�nh tại Ph� cường, năm 1970: 49 nữ tu, 4 tập sinh.[98]

Nhiều tu hội sau đ�y c�n đang ở thời thử nghiệm để được ch�nh thức th�nh lập: Đắc Lộ (1957), T�ng đồ Nhỏ (1957), T�i t� Th�nh Linh (1962), Nữ tỳ Th�nh T�m (1962), Nữ t� Truyền gi�o Vĩnh Long (1965), Nữ tu Lasan (1967), Chiến sĩ Tận hiến Maria (1967), Mến th�nh gi� Mỹ Tho (1967), Nguồn Sống (1970), Hội Thừa sai Việt Nam (1972), Tu viện Lời Ch�a Ph� Cường (1972), Tu hội Nh� Ch�a Th�nh Gioan Tiền sử (1974), v.v...

*
*      *

Theo bản thống k� ch�nh thức (31.12.1969) về Gi�o hội miền Nam Việt Nam, được phổ biến dịp Hội đồng Gi�m mục V.N. nh�m họp tại S�i G�n th�ng 1 năm 1971, cho biết con số gi�o d�n gia tăng. Th�ng 6.1967, số người C�ng gi�o miền Nam l� 1.629.948 (10,46%); th�ng 6.1969, con số l�n 1.721.030 (10,42%); chỉ 6 th�ng sau, nghĩa l� ng�y 31.12.1969, con số l�n 1.782.613 (10,61%); số dự t�ng l� 28.358 người. Họ đạo c� linh mục: 854, họ đạo kh�ng linh mục: 1.275. H�ng gi�o sĩ, tu sĩ gồm 1.925 linh mục (1.589 triều, 336 d�ng), 7.263 tu sĩ (1.074 nam, 6.189 nữ), 1.226 đại chủng sinh (808 triều, 418 d�ng). Năm 1969: 73 t�n linh mục được phong..

 


LỊCH TR�NH TIẾN TRIỂN C�C GI�O PHẬN VIỆT NAM

Ghi ch� : Năm 1924 c�c gi�o phận thay v� gọi theo hướng Đ�ng T�y Nam Bắc, được gọi theo địa danh nơi đặt nh� thờ ch�nh t�a

Địa phận Đ�ng Ngo�i : (1659-1679)

T�y ĐN 1679  =  T�y K� 1846  = H� Nội (1924)   

Nam K� 1846 = Vinh (1924)

Đo�i 1895 = Hưng H�a (1924)

Thanh 1901= Thanh H�a (1924)

Ph�t Diệm 1932      

Đ�ng ĐN 1679 = Đ�ng K� 1848 = Hải Ph�ng (1924) 

Trung K� 1848 = B�i Chu (1924)

Bắc 1883 = Bắc Ninh (1924)

Lạng Sơn (Phủ Do�n 1913) 1939 

Th�i B�nh 1936

Địa Phận Đ�ng Trong : (1659-1844)

Đ�ng ĐT 1844 = Qui Nhơn (1924)      

Bắc ĐT 1850 = Huế (1924)

Kontum 1932

Nha Trang 1957

Đ� Nẵng 1963

Ban M� Thuột 1967

T�y ĐT 1844  =  S�i G�n (1924)

Cao Mi�n 1850 = Nam Vang (1924)

Kontum 1932   

Vĩnh Long 1938

Long xuy�n 1960 

Đ� Lạt 1960

Mỹ Tho 1960

Xu�n Lộc 1965

Ph� Cường 1965

Phan Thiết 1975

B� Rịa 2005

Theo bản thống k� năm 1970 của Bộ Truyền b� Ph�c �m, thi d�n số to�n c�i Việt Nam l� 38.113.000, trong số n�y 2.491.839 người C�ng gi�o, tỷ lệ 6,5%. [99]

Để kết th�c chương n�y, ch�ng t�i xin trưng dẫn ở đ�y một v�i nhận x�t của người nước ngo�i về Gi�o hội ở Việt Nam. N�i đến Gi�o hội C�ng gi�o ở Việt Nam, những người lạc quan ưa tr�ch lại lời ban khen của đức Th�nh Cha Pi� XI, nh�n dịp ng�i tấn phong vị Gi�m mục người Việt ti�n khởi, đức cha Nguyễn B� T�ng, ng�y 11.6.1933, ng�i n�i: �Việt Nam l� trưởng nam của Gi�o hội C�ng gi�o tại Đ�ng ��. C� những người kh�c lại th�ch n�i đến những c�i chết anh h�ng của 130.000 đấng Tử đạo: �Hỡi Gi�o hội Việt Nam, một trong những Gi�o hội đ� bị bắt bớ h� khắc nhất trong Gi�o hội to�n cầu, kể từ khi c�ng cuộc của Ch�a Cứu Thế bị bắt bớ, một trong những Gi�o hội ki�n cố lạ l�ng nhất... ta k�nh ch�o ngươi! V� bởi v� hy sinh c�ng lớn lao, th� vinh quang c�ng s�ng ch�i. Ngươi thật xứng đ�ng được danh thơm mu�n thuở, ngang h�ng với những Gi�o hội anh h�ng nhất phương T�y� (Sử gia A. Launay).

Cả đến b�o ch� v� du kh�ch ng�y nay cũng thường gởi đến nhiều lời lẽ rất phấn khởi: �Những nỗi thống khổ của 4 năm gần đ�y đ� kh�ng l�m người C�ng gi�o Việt Nam bỏ việc sống đạo. Họ năng l�nh nhận c�c B� t�ch, v� tham dự Th�nh Lễ rất đ�ng. Họ c� l�ng s�ng k�nh s�u xa đối với Đức Mẹ, sự trung th�nh hiếu thảo đối với đức Gi�o ho�ng. Những cuộc gia nhập đạo C�ng gi�o vẫn kh�ng giảm� (Th�ng tấn x� Fides, 20.12.1969). Một k� giả người �, cha Piero Gheddo, t�c giả cuốn C�ng gi�o v� Phật gi�o tại Việt Nam, (Cattolichie, Buddisti nel Vietnam, Firenze 1968), cũng viết: �Gi�o d�n Việt Nam rất s�ng đạo, h�ng gi�o sĩ c� tinh thần hy sinh, v� tất cả rất mực trung th�nh với Gi�o hội v� đức Th�nh Cha. Họ thật xứng đ�ng l� con ch�u của 130.000 vị tiền bối anh h�ng Tử đạo�. Tuy nhi�n, t�c giả c� quan niệm rằng: đức tin của người Việt Nam thiếu bề s�u v� Gi�o hội chưa hội nhập đủ v�o Văn h�a D�n tộc.

Cha Maurice Queguiner, BTTQ hội Thừa sai Hải ngoại Paris, sau một chuyến c�ng du tại Việt Nam năm 1969 trở về đ� diễn tả như sau trong tờ Osservatore Romano ng�y 4.9.1970: �Sau s�u tuần lễ t�i đi khắp miền Nam Việt Nam từ Cao nguy�n xuống v�ng Duy�n hải, từ vĩ tuyến 17 đến miền Tnmg ch�u s�ng Cửu Long ... Đ�y l� vắn tắt những cảm tưởng của t�i trong thời gian thăm viếng Việt Nam: Tại xứ n�y, điều t�i cảm thấy l� sức sống phi thường của Hội th�nh. S�nh với những lần thăm viếng trước trong năm 1961 v� 1966, t�i thấy hẳn một sự tiến triển�.

 

[1] Lời đức Th�nh Cha Le� XIII, trong Sắc ghi danh t�nh 77 vị Tử đạo Đ�ng � (64 Việt Nam) v�o Sổ bộ c�c Ch�n phước, ng�y 27.5.1900.

[2] S�ch tham khảo: Andr�-Marie: Missions Dominicaines en Etr�me Orient, Lyon 1863 - Bonifacy (trung t�): Les d�buts du Christianisme en Annam des origines au XVIIIe si�cle, Hanoi 1930 - R. du Caillaud: Essai sur les origines du Christianisme au Tonkin et dans les autres pays annamites. Paris 1915 - J. Cosserat : Rosae Annamiticae seu Vitae LXX Venerabilium Dei Servorum qui pro de catholica in Cocincina et Tunkino sunt passi, Montreuil 1893 - P. Fern�ndez: Dominicos donde nace el sol, Manila 1958 - M. Gispert : Historia de las Misiones Dominicanas en Tungkin, Avila 1928 � A. Launay: Histoire g�n�rale de la Soci�t� des Misions Etrang�res. Paris 1894 - A. de Rhodes: Divers voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine et autres royaumes de l�Orient, avec son retour en Europe par la Perse et l�Arm�nie, Paris 1653.

[3] Nước ta dưới triều L� c�n gọi l� Đại Việt (từ thời L� Th�i Tổ, khi dời đ� ra Thăng Long năm 1010, quốc hiệu Việt Nam bắt đầu c� từ khi vua Gia Long l�n ng�i (1802). Tuy nhi�n ở đ�y, ch�ng t�i d�ng quốc hiệu Việt Nam, chỉ những t�n trấn hay tỉnh ch�ng t�i d�ng t�n cũ, chua th�m t�n mới, nếu cần.

[4] Việt Nam hay Đại Việt, từ khi c� cuộc ph�n tranh giữa Trịnh Nguyễn (bắt đầu từ 1600), chia ra l�m hai: miền Bắc thuộc ch�a Trinh từ s�ng Linh Giang (Gianh) trở ra, gọi l� Bắc H� hay Đ�ng Ngo�i, kinh đ� Thăng Long (Kẻ Chợ); miền Nam thuộc ch�a Nguyễn, từ s�ng Linh Giang trở v�o, mang t�n Nam H� hay Đ�ng Trong, vương phủ trước hết ở l�ng �i Tử, gọi l� Dinh C�t (Quảng Trị sau dời v�o Phước An (từ 152 huyện Quảng Điền, rồi Kim Long (từ 1636) huyện Hương Tr�, thuộc tỉnh Thừa Thi�n.

Bắc H� chia l�m 11 xứ hay trấn: 1) Xứ Nam (Sơn Nam), 2) Xứ Đ�ng (Hải Dương, 3) Xứ Bắc (Bắc Ninh), 4) Xứ Đo�i (Sơn T�y), 5) Xứ Y�n Quảng (Hải Ninh), 6) Xứ Lạng (Lạng Sơn), 7) Xứ Th�i (Th�i Nguy�n), 8) Xứ Tuy�n (Tuy�n Quang), 9) Xứ Hưng (Hưng H�a), 10) Xứ Thanh (Thanh H�a), 11) Xứ Nghệ (Nghệ An). Đứng đầu mỗi xứ hay trấn l� quan trấn thủ.

Th�nh Thăng Long đ� c� từ năm 1010, đời L� Th�i Tổ (1010-28). Năm 1428, vua L� Th�i Tổ (1428-33) sửa lại th�nh n�y v� đặt t�n l� Đ�ng Kinh; do đấy người ngoại quốc gọi xứ ta l� �Tonkin�. Trong lịch sử t�n Đ�ng kinh �t được d�ng m� chỉ quen d�ng t�n Thăng Long hoặc Kẻ Chợ (t�n c�c thừa sai nước ngo�i đặt cho).

[5] Phố Hiến hay Phố Kh�ch l� thương cảng lớn nhất trong thế kỷ XVII, địa điểm gần thị x� Hưng Y�n ng�y nay. Phố Hiến bấy giờ l� thủ phủ của trấn Sơn Nam, một trấn rộng lớn gồm c�c tỉnh Nam Định, H� Nam, Hưng Y�n v� Th�i B�nh ng�y nay. Xem Madrolle: Indochine du Nord, Paris 1932, tr 34-35.

[6] Ở đ�y ch�ng t�i kh�ng n�i đến thời �nghi sử�, m� c� t�c giả cho rằng d�n Việt đ� được đ�n nhận �nh s�ng Ph�c �m từ thế kỷ I: th�nh T�ma t�ng đồ khi giảng đạo cho Ấn Độ, Trung Hoa cũng đ� tới Việt Nam, thời đ� đang ở dưới quyền c�c quan th�i th� nh� Đ�ng H�n. Thời người ta n�i đến truyện th�i th� Sĩ Nhiếp (187-226) đ� theo đạo C�ng gi�o, x�c của �ng ch�n dưới đất sau 160 năm cải l�n c�n nguy�n vẹn như mới chết (Xem Le Grand de la Liraye: Notes historiques sur la nation Annamite, Saigon vers 1869, tr 42-45 - R. du Caillaud: op., cit., tr 1-2). Năm 980, dưới triều L� Đại H�nh (980-1004) gi�o sĩ Aboul Faradge c�ng 5 gi�o sĩ kh�c thuộc ph�i Nestorius người xứ Calđ�a, nh�n đi thăm viếng c�c t�n đồ thuộc gi�o ph�i ở Trung Hoa, c� qua Việt Nam, đến tận Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh B�nh), kinh th�nh của nh� Tiền L� (Xem G�ographie d�Edrisi, tr 84). Ngo�i ra c�n c� nghi sử n�i đến ch�n phước Pordenone d�ng Phansinh tr�n đường truyền gi�o, cũng đ� gh� v�o đất Chi�m Th�nh dưới triều Thế A Nam (1318-42) (Xem Henri Cordier: Le voyage en Asie au XIVe si�cle du bienheureur Fr�re Odorico de Pordenone, Paris 1891, tr 187 v� tiếp).

[7] Kh�m định Việt sử Th�ng gi�m Cương mục, XXXIII 6 B.

[8] B�o T�ng đồ, S�i G�n 1949, số 14, tr 54 n�i: Inikhu l� một gi�o sĩ d�ng T�n Souvignet, t�c giả cuốn Vari�t�s Tonkinoises,Hanoi 1903, cũng ước đo�n Inikhu thuộc d�ng T�n - Caratini Grandjean, trong Le Statut des Missions en Indochine, Hanoi, s.d., tr 24, n�i cha Inikhu c� lẽ thuộc d�ng Đaminh hay Phansinh, quốc tịch Bồ Đ�o Nha. Một số t�c giả kh�c cũng theo � kiến n�y.

[9] M. Gispert: op. cit., tr 55.

[10] Xem B�i Đức Sinh: �C�c nh� truyền gi�o Đaminh người Bồ Đ�o Nha từ Phi ch�u qua Ấn Độ san g Đ�ng Nam �, trong thế kỷ XV v� XVI�, trong Li�n Lạc Nguyệt San, S�i G�n 1967, số 13-14, tr 15-16.

[11] Bonilacy (trung t�): op. cit., tr 4. C� cứ liệu lịch sử cho rằng Mạc Đăng Dung sau khi cướp ng�i nh� L�, lập Bắc Triều năm 1527, đ� mời gi�o sĩ người H� Lan t�n l� I-ni-khu đến truyền đạo (Xem L� Tuy�n: Đức Mẹ Tr� Kiệu v� C�ứ liệu Lịch sử, tr 61).

[12] P. Poncet �Un des premiers Annamites, sinon le premier au Catolicisme�, trong Bulletin des Amis du Vieux Hu� (B.A.V.H), th�ng 1-3, 1941.

[13] R. du Caillaud: op. cit., tr 79-82. Vua L� Anh T�ng đ� cưới một c�ng ch�a Chi�m, để rảnh tay với người Chi�m Th�nh ở mạn Nam. B� n�y sinh một c�ng ch�a v�o l�c người anh, vua nước Chi�m Th�nh, chết kh�ng con nối nghiệp n�n c�ng ch�a mới sinh (của L� Anh T�ng) được hưởng tước: b� ch�a Ch�m (Chi�m hay Ch�m).

[14] P. Ordoez: Historia y viaje del mundo, Madrid 1691, tr 154-163, 191B-206B - R. du Caillaud: op. cit., tr 93 97 v� 130-141. Nhiều người cho việc c�ng ch�a muốn kết h�n với gi�o sĩ Ordoez l� truyện kh� tin. C� thể n�i ngược lại: Một c�ng ch�a 38 tuổi, ngoại đạo chưa chồng, đứng trước một nh�n vật 32 tuổi, đẹp trai, t�i hoa, thanh lịch, độc th�n m� kh�ng �cảm động� l� điều kh� tin hơn. Đ�ng kh�c, gi�o sĩ l� một anh h�o, văn v� kiện to�n, �t c� thể l� b�n tay đắc lực cho triều L� trọn việc khai trừ họ Trịnh, chống nh� Mạc.

[15] Ch�a Nguyễn (con ch�u Nguyễn Kim) đ� v�o đất Thuận H�a lập nghiệp từ năm 1558, nhưng vẫn c�n thần phục nh� L� cho đến năm 1600 mới dứt

[16] P. Ordo�ez: op. cit., tr 206A-241- R. du Caillaud: op. cit, tr 144-154. Truyện của gi�o sĩ Ordo�ez nhiều t�c giả coi l� hoang đường nhất l� việc Nguyễn Ho�ng v� 19 tướng t� chịu ph�p Rửa, c�n cho rằng Ordo�ez chưa hề đặt ch�n l�n đất Việt.

[17] R. du Caillaud: op. cit., tr 29-37.

[18] R. du Caillaud: op. cit., tr 40-52 v� 53-56.

[19] Ch�n Lạp l� t�n cũ của xứ Cao Mi�n (Cam Bốt hay Kampuchia ng�y nay) gồm hai miền: Thổ Ch�n Lạp v� Thủy Ch�n Lạp. Thủy Ch�n Lạp, từ giữa thế kỷ XVII bị ch�a Nguyễn chiếm dần v� đem s�p nhập v�o l�nh thổ Việt Nam, tức Nam phần ng�y nay.

[20] L. E. Louvet: La Cochinchine religieuse, Paris 1885, Q. I, tr 223-225.

[21] L.E. Louvet: op. cit., Q. I, tr 225-226 � M. Gispert: op. cit., tr 13. Sử gia Louvet c�ng một số t�c giả kh�c n�i hai cha bị vua Xi�m La (Th�i Lan) bắt đem về kinh th�nh Juthia v� giết tại đ�. Theo ch�ng t�i, hai cha được ph�c Tử đạo tại Ch� B�n của Chi�m Th�nh, v� hai cha giảng đạo ở Quảng Nam l� nơi thường xảy ra những cuộc giao tranh giữa ch�a Nguyễn v� vua Chi�m về vấn đề đất đai (Xem Trần Trọng Kim: Việt Nam Sử lược, S�i G�n 1954, tr 287-289). Hơn nữa, ch�ng t�i chưa đọc một sử liệu n�o n�i vua nước Xi�m cấm đạo v�o cuối thế kỷ XVI cũng như trong thế kỷ sau. Nếu vua nước Xi�m cấm đạo v� giết c�c gi�o sĩ, th� nước Xi�m bấy giờ kh�ng thể l� nơi tới lui v� nương n�u của c�c nh� truyền gi�o được. Lịch sử chỉ n�i đến cuộc b�ch hại của vua Xi�m năm 1864 sau n�y.

[22] D. Aduarte: Historia de la Provincia del Sant�simo Rosario de Filipnas, Japon y Chia, Saragoza 1663, tr 189-195, 204 v� 726-729.

[23] �ng tổng trấn n�y l� một trong c�c con của Nguyễn Ho�ng. Năm 1592 Nguyễn Ho�ng phải đ�ch th�n đem qu�n ra Bắc, gi�p vua L� đ�nh Mạc, rồi ở lại Bắc suốt 8 năm, khi ra đi Nguyễn Ho�ng đ� trao quyền cho một người con (Xem Trần Trọng Kim: op. cit., tr 288). Nhưng �ng tổng trấn n�i đ�y kh�ng phải l� người đ� được linh mục Affonso da Costa rửa tội, m� gi�o sĩ Ordonez đặt t�n l� Don Antonio.

[24] R. du Caillaud: op. cit., tr 173-175.

[25] D. Aduarte: op. cit., tr 211-238 v� 732-736- A. Gallego: Expediciones Espanolas a Camboja, trong Ultramar (1952), tr 12-21 v� Espana en Indochina; Expedicinones Religioso - Militares, trong Espana Missionera, VII (1951), tr 298-310.

[26] D. Aduarte: op. cit., tr 257-259, 261 - A. Gallego: Expediciones Espanolas a Camboja, trong Ultramar (1952), tr 21-22.

[27] D. Aduarte: op. cit., tr 538, 584-585 - A. Gallego: op. cit., tr 22-23.

[28] Bartoli Isloria della Compagnia di Giesu, Napoli 1859, Q. IV, tr 182 - L. E. Louvet op. cit., Q. I, tr 236.

[29] Bartoli: op. cit., Q. IV, tr 101.

[30] Bartoli: op. cit., Q. IV, tr 182-185.

[31] Bartoli: op. cit. , Q. IV, tr 226-239.

[32] Dinh C�t (Ai Tử) l� phủ ch�a bấy giờ thuộc đất Thuận H�a, c�ch thị x� Quản Trị ng�y nay 10km về ph�a bắc - Bartoli: op. cit., Q. IV, tr 103 A. de Rhodes: op. cit., tr 74 - Phạm Đ�nh Khi�m: Minh Đức Vương Th�i phi, S�i G�n 1957.

[33] Bonifacy: op. cit., Q. IV, tr 9.

[34] A. de Rhodes: Tunquinensis Historiae Libri Duo. Kẻ Sở 1906, tr 103.

[35] H. Chappoulie: Aux origines d� une Eglise, Rome et les Missions d�Inđochine, Paris 1947-48. Q. I, tr 34.

[36] Chương tr�nh dạy gi�o l� của cha Đắc Lộ được ghi trong cuốn Bổn T�m ng�y, xuất bản ở Roma năm 1651. Xem A. de Rhodes: op. cit tr 95.

[37] Xem Nguyễn Hữu Trọng: Les Origines du clerg� Vietnamien Saigon 1959.

[38] F. Marini: Delle Missioni de Padri della Compagnia de Giesu nella Provincia di Giappone, Roma 1663, tr 264-265.

[39] J. Tissanier: Relation du voyage depuis la France jusqu�au Royaume du Tonkin, Paris 1663, tr 180 � Theo Bonifacy: op., cit., tr 49-65, th� c�ng cuộc truyền gi�o của d�ng T�n trong một nửa thế kỷ thật vĩ đại, c�c cha đ� rửa tội cho tr�n 358.000 người, trong số 308.000 l� người xứ Bắc v� 50.000 người miền Nam. Ph� b�nh về con số n�y, cuốn Les Missions Catholiques d�Indochine 1933 (trang 22) của hội Thừa sai Paris cho l� �ph�ng đại�.

[40] Th�y Anr� qu� thị trấn Ram-an (Raran), tức Ph� Y�n ng�y nay. C� t�c giả cho th�y Anr� l� vị Tử đạo b�n khởi, nhưng ngo�i Bắc H� một gi�o d�n t�n Phansinh, hầu cận của một �ng ho�ng đ� chịu chết v� đức tin v�o khoảng năm 1630-31, nghĩa l� trước th�y Anr� 14 năm. Xem L. E. Louvet: La Cochinchine religieuse. Paris 1885, Q. I. tr 241 - A. de Rhodes: op. cit., tr 100 - Journal d�Ext�r�me Orient, Saigon ng�y 6.9.1958.

[41] A. de Rhodes: op. cit., tr 136-272.

[42] P. Fern�ndez: op. cit., tr 238.

[43] Xem ch� th�ch tr 366.

[44] A. Launay: Histoite de la Mission de Cochinchine - Documents historiques. (1658-1728) Paris 1924, tr 16-20.

[45] L. E. Louvet: op cit., Q. I, tr 279-288 � Nguyễn Hữu Trọng op. cit., tr 215-216, 185-188.

[46] Dinh Hiến hay Phố Hiến: Dinh l� khu dinh thự quan trấn, Phố l� khu bu�n b�n. Sự thật C�ng đồng họp tr�n t�u bu�n đậu tr�n s�ng C�i (Hồng) cạnh Dinh Hiến.

      A. Launay: op. cit., tr 100-110. Xem C�ng vụ C�ng đồng trong: Những thư chọn trong c�c thư chung c�c đấng Vicario Apostolico v� Vicario Provinciae về d�ng �ng th�nh Duming� đ� l�m từ năm 1759, Kẻ Sặt 1903, tr 1-10. Về sự tiến triển của d�ng Mến Th�nh gi�, xem Tam B�ch Chu ni�n từ khi lập d�ng Mến Th�nh gi� 1670-1970, S�i G�n 1970.

[47] H. Chappoulie: op. cit., tr 342, 355; A. Launay: Histoire g�n�rale de la Soci�t� des Missions Etrang�res, Paris 1894, Q. I, tr 127-136.

[48] Xem Destombes: Le Coll�ge g�n�ral de la Soci�t� des Missions Etrang�res, Hong Kong 1934.

[49] A. Launay: op. cit., Q. I, tr 367-368.

[50] M. Gispert, op. cit., tr 124.

[51] Sử k� địa phận Trung, Ph� Nhai 1916, tr 34.

[52] Xem B�i Đức Sinh: Đức cha Hilario di Ges�, d�ng �utinh người �, cai quản địa phận Đ�ng (1737-56) v� sự dứt kho�t của T�a th�nh trao cho d�ng Daminh trong Li�n Lạc Nguyệt san, S�i G�n 1968, số 36 tr 24-29.

[53] T�n c�c Hiển th�nh Tử đạo, ch�ng t�i viết chữ ngả.

[54] H. Ravier Sử k� Hội Th�nh, H� Nội 1934, Q. III, tr 506.

[55] Th�nh Qui Nhơn (B�nh Định ng�y nay) l� th�nh Ch� B�n (Đồ B�n) xưa của Chi�m Th�nh, đ� được Nguyễn Nhạc x�y đắp ki�n cố. Nguyễn Nhạc cho l�rn cung điện v� đ�ng đ� ở đ�y từ năm 1776. Th�nh n�y c� một vị tr� rất lợi hại, ph�a T�y c� Kim Sơn đứng trấn, ph�a đ�ng c� C�nh Ti�n hộ vệ, Ph�a nam c� Tam Th�p chầu v�o, ph�a bắc c� Thập Th�p che đỡ. Ngo�i ra, Phong Sơn ở b�n hữu cũng đ�ng kể l� một h�ng r�o thi�n nhi�n, cửa Thị Nại (Qui Nhơn ng�y nay) ở b�n tả như một c�i h�o, ph�a trong c� n�i C� M�ng, ph�a ngo�i c� đ�o Bến D�. Xem Phạm Văn Sơn: Việt Sử T�n Bi�n, Q. III, S�i G�n 1959, tr 337.

[56] Người ta c� thể ph� ph�n đức cha B� Đa Lộc đ� nh�ng tay v�o ch�nh trị v� c� �m mưu �thực d�n� (nếu thật sự c�), nhưng kh�ng bao giờ người ta c� thể đổ những lỗi ấy cho Gi�o hội C�ng gi�o, v� B� Đa Lộc kh�ng phải l� Gi�o hội, v� Gi�o hội kh�ng bao giờ t�n th�nh một vị thừa sai l�m ch�nh trị, c� �m mưu ch�nh trị l�m lợi cho nước Ph�p, khi m� Gi�o hội kh�ng phải l� của ri�ng nước Ph�p, của ri�ng nước � hay T�y Ban Nha, nhưng l� của mọi D�n tộc nh�n nhận Gi�o hội l�m Mẹ. N�i rằng B� Đa Lộc l� Đại diện của Gi�o hội, đ�ng; nhưng Gi�o hội chỉ cử ng�i l�m đại diện trong phạm vi thi�ng li�ng để l�nh đạo c�ng cuộc truyền gi�o ở Đ�ng Trong bấy giờ m� th�i.

Nguyễn vương cho cử h�nh lễ quốc tang đức cha B� Đa Lộc. Thi h�i được ướp bằng c�c chất thuốc thơm v� đặt trong một quan t�i rất đẹp bằng gỗ qu�. Người ta qu�n ở một nơi trang trọng tại T�a gi�m mục ở Thị Ngh� lu�n hai th�ng ,để lo liệu mọi lễ nghi cần thiết cho việc quốc t�ng. Gi�o d�n đến tham dự rất đ�ng. C�c quan mặc lễ phục chỉnh tề. Nguyễn vương tỏ ra rất x�c động, h�ng gi�o sĩ kh�ng thiếu một ai: th�i hậu, ho�ng hậu v� c�c cung tần cũng đi ra tới mộ, đ� l� một điều chưa từng c�. Đạo cận vệ của Nguyễn vương gồm 12.000 người cầm vũ kh�, được sử dụng cho th�m phần trang nghi�m, kế đ� l� đạo tượng binh tr�n 100 thớt voi dưới sự điều khiển của ho�ng tử Cảnh. Người ta cho k�o cả nhiều khẩu đại b�c theo sau. Đ�m tang đi từ Thị Ngh�, bắt đầu 1 giờ đ�m đến 9 giờ s�ng mới tới huyệt. T�m chục người khi�ng cỗ kiệu hết sức lộng lẫy trong đ� c� quan t�i của cố gi�m mục. Số người đi đưa l�n tới 50.000, chật cả đường s�, kh�ng kể những người đứng xem. C�c lễ nghi C�ng gi�o được cử h�nh đầy đủ. Trước khi hạ huyệt, Nguyễn vương đọc điếu văn nhắc nhớ c�ng ơn của đức cha, v� ly biệt người bạn ch� th�n. Mộ của đức cha l� một khu vườn nhỏ thuộc t�a Gi�m mục bấy giờ, nay gọi l� �Lăng Cha Cả�. Ch�a Nguyễn cho dựng một ng�i đền lợp ng�i, v�ch gỗ, cột lớn bằng gỗ qu�. Kiến tr�c do một họa sĩ Ph�p dựng l�n. Trong đền c� một tấm bia đ� lớn ghi ch�p sự nghiệp của đức gi�m mục đối với nh� Nguyễn. Xem L. E. Louvet: op. cit., Q. I, tr 476-481.

[57] L. E. Louvet op. cit., Q. II, tr 17-22. Theo S�ch truyện sự giảng Đạo th�nh trong nước Annam, Hồng K�ng 1926, tr 103, th� �Năm 1800 trong Đ�ng- Dương, số c�c đấng, c�c bậc v� bổn đạo thế n�y: - C� 3 �ng Gi�m mục (3 địa phận), - C� 15 �ng t�y linh mục; - C� 119 �ng linh mục bản quốc; - C� 200 thầy gidng; C� độ 310.000 bổn đạo.

[58] Archives M. E. Lettres du Ven. Gagelin A. Launay: sđd. Q. II, tr 534-535 - Đức cha Taberd bị tập trung ở Huế, c� viết tại đ�y ng�y 28.2.1828, một bức thư cho hội Truyền gi�o Paris: �Tả qu�n L� Văn Duyệt đến kinh đ� Huế hồi th�ng 12.1827, để can gi�n vua Minh Mạng.� Theo thư n�y, th� trước đ� tả qu�n đ� nhận được thư của vị thừa sai tr�nh b�y việc vua Minh Mạng b�ch hại đạo, v� �ng đ� ph�t biểu như tr�n (Les Annales de le Propagation de la Foi năm 1830-31, Q. IV, tr 359-361).

[59] A. Launay: sđd, Q. II, tr 535.

[60] Tiểu sử c�c th�nh Tử đạo thời Minh Mạng, xem J. Cosserat op. cit., tr 1-41, 56-164, 181-246.

[61] Năm 1840, vua t�i nh� Nguyễn nhận thấy ch�nh s�ch ngoại giao của m�nh g�y nhiều bất lợi, Minh Mạng liền cử sang Ph�p một sứ đo�n do Trương Minh Giảng cầm đầu để t�m c�ch nối lại cuộc bang giao, nhưng thất bại. Xem B�i Đức Sinh: �Diệt Đạo kh�ng được vua Minh Mạng cử ph�i đo�n sang T�y (1840-41), trong Đức Mẹ Hằng Cứu Gi�p, S�i G�n 1970, số 11, tr 10 v� tiếp.

[62] L. E. Louvet op. cit., Q. II, tr 123-124, 127. Đ�y l� sổ c�c ph�p b� t�ch địa phận Đ�ng Trong của đức cha Cu�not năm 1844: Rửa tội: 1.007 người lớn. 5.056 trẻ con nh� C�ng gi�o, 5.706 trẻ em nh� ngoại gi�o; Giải tội: 53.282; Rước lễ: 32.341.

[63] L. E. Louvet: op. cit., Q. II tr 180-182.

[64] Tiểu sử c�c th�nh Tử đạo dưới triều Tự Đức, xem J. Cosserat: op. cit. 46-56, 164 -180 - J. Rodriguez: Martirologio Oriental, Q. III (Indochina), Mexico 1951.

[65] Năm 1855, số gi�o d�n Việt Nam ước chừng 430.000; Trong Nam: 86.000, Ngo�i Bắc: 140.000 thuộc hai địa phận Thừa sai Paris, tr�n 200.000 thuộc hai địa phận d�ng Đaminh . Xc L. E. Louvet: op. cit., Q. II, tr 208-209.

[66] L. E. Louvet op. cit., Q. II, tr 248-250.

[67] L. E. Lou�vet: op. cit.,  Q. II, tr 254, 491-493 - J. Cosserat: op. cit., tr 46-56, 164-180

[68] Xem M. Diez: Truyện bốn đấng th�nh Tử v� Đạo ở Hải Dương, Hải Ph�ng 1911.

[69] Xem Venticinque Martiri Nelle Missioni Domenicane del Tonchino, Roma 1950 - L. E. Louvet: op. cit., Q. II, tr 492, 294-296 - Sử k� Địa phận Trung, tr 100-101.

[70] Xc B�i Đức Sinh: �H�a ước 1883 v� 1884: D�n Việt Nam mất nước, tr�ch nhiệm về ai, trong Li�n Lạc Nguyệt san, S�i G�n 1972, số 82, tr 23-32.

[71] A. Launay: op. cit., Q. III, tr 520.

[72] H. Ravier op. cit., Q. III, tr 606.

[73] Xem ảnh nh� thờ lớn Ph�t Diệm, tr 326.

[74] Những con số thuộc năm 1933, được tr�ch trong Les Missions Cattholiques d�Indochine 1933, Paris.

[75] Hai tỉnh n�y đến sau ph�n chia th�nh: Ch�u Đốc, H� Ti�n, Rạch Gi�, Bạc Li�u, S�c Trăng v� gần trọn vẹn Phong Dinh (Cần Thơ), Long Xuy�n, Sa Đ�c.

[76] H. Ravier: op. cit.,, Q. III tr 607.

[77] M. Gispert: op. cit., tr 701.

[78] Sử k� Địa phận Trung, tr 115.

[79] Les Missions Catholiques d�Inndochine 1933 - Việt Nam C�ng gi�o Ni�n gi�m 1964, S�i G�n 1964, tr 156-157.

[80] Năm 1952, tờ Sacerdos Indosinensis tục bản sau 7 năm vắng mặt v� chiến tranh, nhưng bỏ chữ Indosinensis . Năm 1954, hiệp định Gen�ve ra đời, tờ Saccerdos đ�nh bản một lần nữa. Th�ng 1 năm 1952 tờ b�o lại tục bản, mang t�n Linh mục Nguyệt san. Xem Linh mục Nguyệt san, S�i G�n 1962, số 1-2, tr 4-9. Tờ b�o đ�nh bản từ th�ng 5.1975.

[81] Xem Mai Đức Thạc: Tiểu sử đức cha Th�nh, S�i G�n 1967.

[82] Xem ảnh ở tr 401.

[83] Tổng ủy Di cư: Cuộc di cư lịch sử tại Việt nam, S�i G�n, tr 8, 120, 127, 144

[84] Ni�n lịch C�ng gi�o Kỷ Hợi 1959, S�i G�n 1959, tr 76-83.

[85] Những trang n�y, ch�ng t�i viết theo nhũng tin tức từ ngo�i Bắc đưa v�o. Xem Linh mục Nguyệt san. S�i G�n 1967, 1969-70: số 71-72, tr 814-816; số 95-96, tr 824: số 97-98, tr 79-80; số 105, tr 619.

[86] Linh mục Nguyệt san, S�i G�n 1971: số 113, tr 273; số 118. tr 669-673.

[87] Theo thống k� của Bộ Truyền
gi�o ng�y 30.6.1957. trong Việt Nam C�ng gi�o Ni�n gi�m 1964, tr 242.

[88] Theo thống k� th�ng 7 năm 1959, Gi�o hội miền Nam c� 1.030 trường tiểu học với 258.409 học sinh C�ng gi�o v� 97.347 học sinh kh�ng C�ng gi�o; 22 trường trung học với sĩ số 82.827 C�ng gi�o v� 70.101 ngo�i C�ng gi�o; 41 bệnh viện với 7.000 giường, 239 trạm ph�t thuốc, 35 nh� hộ sinh, 9 trại c�i săn s�c 2.500 bệnh nh�n, 82 c� nhi viện nu�i 11.000 trẻ em, 29 nh� dưỡng l�o. Linh mục Nguyệt san. S�i G�n 1970, số 105, tr 618-619.

[89] Vị gi�o sĩ d�ng T�n cuối c�ng (thuộc đợt 1) tại Việt Nam l� cha Orta, qua đời v� được an t�ng tại L�c M�n năm 1802 (Sử k� Địa phận Trung, tr 154). Sau tr�n 150 năm vắng mặt, d�ng T�n đ� trở lại Việt Nam năm 1957. Chỉ tr�n 10 năm, d�ng đ� c� những cơ sở sau đ�y: Nh� Th�nh Inhaxu v� Trung t�m Đắc Lộ S�i G�n (1957), Gi�o ho�ng Học viện Th�nh Pi� Đ� Lạt (1958), Tập viện Thủ Đức (1960), Trung t�m Sinh vi�n Xavi� Huế (1962), Trung học T�n Đức Huế (1964), Trung t�m Thanh ni�n Thủ Đức (1966), Học viện d�ng T�n Đ� Lạt  (1967), Nh� Anr� Ph�  Y�n S�i G�n (Trụ sở bề tr�n miền) v� Cư x� Ứng sinh (1970). Năm 1972, tổng số tu sĩ d�ng T�n tại Việt Nam l� 68 (21 Việt): 47 linh mục (9 du học), 12 học sĩ (1 du học), 9 trợ sĩ, 4 tập sinh.

[90] Ni�n hiệu (trong ngoặc) l� năm d�ng c� người đặt ch�n l�n đất Việt. Năm 1580, hai cha Gr�goire de La Motte v� Luis de Fonseca d�ng Đaminh tới Ch�n Lạp, Chi�m Th�nh, rồi ra Quảng Nam (thuộc ch�a Nguyễn); kh�ng kể cha Gaspar da Cruz tới Cần Cảo (H� Ti�n ng�y nay, bấy giờ c�n thuộc Cao Mi�n) năm 1550. Năm 1583, một ph�i đo�n 4 linh mục v� trợ sĩ d�ng Phansinh tới An Quảng (Quảng Y�n ng�y nay).

[91] Tu hội n�y được th�nh lập do cha Vincent Lebbe tại Ankwo (Hồ Bắc, Tr�ung Hoa) năm 1928, c�c tu sĩ chuy�n ng�nh gi�o dục v� x� hội.

[92] Huynh đo�n Anh em Đức Mẹ người ngh�o do cha Ermin de Clerck d�ng Biển đức người Bỉ lập tại Landes (Ph�p) năm 1956, phối hiệp hai nếp sống Biển đức v� Fou�cauld, chủ trương đơn giản h�a tối đa đời sống đan sinh dưới h�nh thức từng huynh đo�n nhỏ theo điều kiện đại đa số d�n ngh�o. D�ng c�n đang trong thời thử nghiệm để được ch�nh thức th�nh lập, trong khi đ� đ� được hai cha Bảo Tịnh Vương Đ�nh B�ch (Xit� Phước L�) v� An Sơn Vị (Biểnđức Thi�n An) du nhập v�o Việt Nam năm 1970, lập một huynh x� ch�nh tại Cầu Sơn (Gia Định), đến sau đưa v�o T�n Định. Năm 1972: 2 linh mục, 2 tập sinh.

[93] Phần lịch sử c�c hội d�ng n�y, ch�ng t�i viết theo t�i liệu của đức �ng Gu�y de St-Hilaire, thư k� t�a Kh�m sứ tại S�i G�n, v� do c�c hội d�ng cung cấp.

[94] Năm ch�nh thức th�nh lập với bằng sắc của Gi�o quyền, hoặc l� năm đến lập ở Việt Nam.

[95] Xem Đặc san Tam B�ch Chu ni�n từ khi th�nh lập D�ng Mến Th�nh gi�: 1670-1970, S�i G�n 1970.

[96] Xem b�i �H�y th�nh lập D�ng K�n tr�n nước An nam�, trong Đặc san th�nh Teresa Avila nữ Tiến sĩ Gi�o hội, S�i G�n 1970, tr 122-126.

[97] Xem b�i �Đại hội Tận Hiến I.C.� (21-23 th. 3 năm 1972), trong Đức mẹ Hằng Cứu Gi�p, S�i G�n 1972, số 35, tr 12 v� tiếp.

[98] Xem V. Rollin: Histoire de la Mission du Cambodge (1555-1967) (Ron�o), Phnompenh 1968.

[99] Linh mục nguyệt san, S�i G�n 1971, số 111-112, tr 102-104.