|
|
| |||||||
X�t về th�nh phần tử đạo, ngo�i c�c gi�m mục, linh mục chuy�n lo về t�n gi�o ta thấy c�n c� c�c gi�o hữu thuộc mọi tầng lớp nh�n d�n như quan trường c� th�nh Hy, quan �n c� th�nh Khảm, qu�n ngũ c� những cai đội hoặc chưởng vệ, xuống đến những binh sĩ tầm thường, hương chức c� những ch�nh tổng, l� trưởng. X�t về nghề nghiệp ta thấy c� lang y, thương gia, c� thợ may, thợ dệt, thợ mộc, cả d�n ch�i, nhưng đ�ng đảo nhất vẫn l� giới n�ng d�n (10 vị). Để trả lời c�u hỏi : c�c th�nh tử đạo đ� sống thế n�o ? Ch�ng ta c� thể ch� � đặc biệt đến năm vấn đề sau : Người Việt Nam thường n�i : "Ph�p vua thua lệ l�ng". Mặc cho triều đ�nh nh� Nguyễn ra những chiếu chỉ b�ch hại, dấu hiệu t�nh th�n giữa b� con ch�m x�m đối với người C�ng gi�o l� sự kiện qu� r� rệt. Th� dụ trong vụ �n linh mục Gioan Đạt, vi�n cai ngục n�i : "T�i thấy cụ kh�n ngoan, đạo đức, th� muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt v� cụ sắp bị �n tử rồi. T�i xin hứa biếu cụ một cổ quan t�i để biểu lộ l�ng t�i qu� cụ." Chuyện hai linh mục Trương Đ�nh Thi v� Dũng Lạc, quan huyện B�nh Lục n�i : "C�c �ng l� quan b�n đạo, t�i quan b�n đời", rồi cho lệnh cởi tr�i v� cho dọn cơm bằng m�m b�t của m�nh. Đến khi cho �p giải hai vị về Thăng Long, quan lập đ�n tế lạy trời phật để thanh minh m�nh v� can trong vụ �n. Đặc biệt chuyện linh mục Vũ B� Loan, ni�n trưởng 84 tuổi, được mọi người k�nh trọng gọi bằng "cụ", ng�i kh�ng bị đ�n đ�nh, v� trong ng�y xử, mười l� h�nh bỏ đạo chạy trốn, đến người thứ mười một, đ� lịch sự xin ph�p : "Việc vua truyền ch�u phải l�m, xin cụ x� lỗi cho. Ch�u sẽ cố gi�p cụ chết �m �i. Khi về trời cụ nhớ đến ch�u nh�". Nhờ đ�u �ng c�u L� Văn Phụng, mỗi lần quan huyện đi truy l�ng lại cho người đến b�o trước ? Nhờ đ�u linh mục L� Bảo Tịnh được quan tổng trấn cho giấy ph�p mở chủng viện ? Nhờ đ�u Gi�o hội miền Nam suốt thời Minh Mạng chỉ c� duy hất một vị trong số 117 vị tử đạo ? Rồi nhờ đ�u khu vực d�ng Đaminh b�nh an đến năm 1838, v� hầu như an b�nh từ năm 1841-1856 ? Nhờ đ�u những gi�m mục như Hermosilla Vọng, từng được n�u đ�ch danh trong chiếu chỉ nh� vua, vẫn được an to�n hơn 20 năm : Thưa, nhờ những quan chức địa phương kh�ng đ�nh gi� đạo C�ng gi�o như nh� vua, v� nhờ những căn nh� "lương d�n" lu�n mở rộng c�ch h�o hiệp. Ngay cả khi vua Tự Đức đ� ra chiếu chỉ ph�n th�p ng�y 5-8-1861, ph�n t�n c�c t�n hữu, giao cho lương d�n quản l� cả người lẫn của cải, th� Gi�o hội vẫn tồn tại nhờ nhiều người kh�ng theo lệnh vua. Như lương d�n l�ng Hảo Hội, đ� che dấu v� tiếp tế cho nhiều chủng sinh ở Kẻ Mốt đến ẩn trốn [3]. Con số h�ng chục ng�n người bị giết trong giai đoạn n�y cũng l� lớn, nhưng đ� chỉ l� tỷ lệ v�i phần trăm, c�n tr�n 90% giới C�ng Gi�o vẫn sống s�t qua cơn "hồng thủy". Ch�nh trong bối cảnh th�n �i của đại quần ch�ng b�nh d�n Việt Nam, c�c t�n hữu đầu thế kỷ XIX c� nhiều cơ may thể hiện sự gắn b�, tinh thần phục vụ v� l�ng b�c �i của Tin Mừng. Những cuộc truy l�ng thường xuy�n của triều đ�nh đ� gi�p c�c nh� thừa sai sống s�t với tinh thần ngh�o kh� của người t�ng đồ v� gần gũi với d�n lao động trong c�c l�ng qu�, sau lũy tre xanh. Đến Việt Nam, c�c vị liền lo việc học tiếng v� phong tục [4]. Rồi sau đ�, cũng ăn nước mắm, ăn tương, ăn c�, cũng n�n l�, �o b� ba, �o khẩu... sống với d�n Việt, sống như d�n Việt, c� thừa sai suốt 15 năm kh�ng đụng đến một miếng thịt. Thế nhưng c�c vị vẫn vui tươi. Thừa sai Gagelin K�nh gửi thư về nh� : "Những thiếu thốn, những cực nhọc đủ thứ đến với ch�ng t�i, nhưng t�i d�m khẳng định rằng : t�i được hạnh ph�c trong t�p lều tranh của t�i hơn vua nước Ph�p trong ho�ng cung của ng�i". Đại đa số giới C�ng gi�o thuộc th�nh phần n�o ? Thưa, l� những người n�ng d�n tầm thường nhất, mỗi ng�y lam lũ lao động để l�m xanh giải đất qu� hương. Linh mục Khu�ng từng tuy�n bố : "Đạo Giat� kh�ng những cấm t�n hữu chống lại triều đ�nh, m� c�n khuyến kh�ch để họ cầu nguyện v� g�p phần gi�p qu� hương an ninh thịnh vượng".
Hội nhập v�o nền văn h�a � Đ�ng theo chế độ x� hội gia trưởng, Gi�o hội Việt Nam đ� c� n�t suy tư s�ng tạo đặc biệt. Ngay từ thời linh mục Đắc Lộ, t�n hữu Việt Nam đ� coi nh� cầm quyền như một người cha, mọi người đều l� con trong đại gia đ�nh d�n tộc [5]. Linh mục Nguyễn Văn Tự đối đ�p với quan t�a : "T�i k�nh Thi�n Ch�a như Thượng Phụ, k�nh vua như trung phụ, v� k�nh song th�n như hạ phụ. Kh�ng thể nghe cha ruột để hại vua, t�i cũng kh�ng thể v� vua m� phạm đến Thượng Phụ l� Thi�n Ch�a được ". Dĩ nhi�n trong bối cảnh lịch sử "thượng t�n Tống Nho" của nh� Nguyễn, th� việc đề cao chữ hiếu hơn chữ trung đủ l�m cho triều đ�nh th�m kh� chịu. V� khi đề cao hiếu hơn trung, người C�ng gi�o tu�n lệnh vua một c�ch c� suy nghĩ, c� lựa chọn, tu�n giữ luật lệ hợp l�, nhưng bạo dạn phản đối điều nghịch l� tr�i với lương t�m m�nh. Dầu sao giới C�ng gi�o kh�ng tổ chức nổi loạn, bạo động. Gi�m mục Alonso Ph� trong thư chung năm 1798 x�c định kh� giới đ�nh giặc b�ch hại "chẳng phải l� s�ng ống gươm gi�o đ�u, m� l� đức tin, lời cầu nguyện v� đức b�c �i" [6]. Đức cha Sampedro Xuy�n ra vạ tuyệt th�ng cho ai tổ chức bạo động v� buộc những ai vu c�o ng�i cổ động nổi dậy phải cải ch�nh c�ng khai [7]. Gi�m mục Hemosilla Li�m nhắc nhở c�c t�n hữu phải tu�n giữ luật nh� ph�p nước, c�n nếu bị vu c�o tội ch�nh trị th� cứ an t�m, v� đức Gi�su xưa từng bị d�n Do Th�i lấy cớ ch�nh trị để giết (Ga 19,12). Ng�i n�i tiếp : "....Ph� con đừng h�a tập vuối giặc, đừng nghe ch�ng n�i dối d� đấng ấy đấng kh�c sai ch�ng n�, v� c�i ấy l� kh�ng hẳn" [8]. L� d�n trong nước, c�c t�n hữu sẵn s�ng thi h�nh nghĩa vụ c�ng d�n, từ thuế kh�a cho đến gia nhập qu�n ngũ. Năm 1838, nguy�n tại tỉnh Nam Định, quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh đ� tụ tập được 500 binh sĩ C�ng gi�o, để rồi bắt đạp l�n Th�nh Gi�[9]. Trong quan trường, chiếu chỉ th�ng 9-1855 ra lệnh s�ng lọc c�c quan C�ng gi�o, cấm đạo đồ đi thi hay nhận chức vụ trong l�ng trong tổng [10]. Thế m� s�u năm sau (1861), trong một đợt thanh trừng, triều đ�nh c�n bắt được 32 vi�n quan, ba người chối đạo, 18 bị giết, 11 bị �n lưu đ�y [11]. C�c thừa sai Ph�p sẵn s�ng l�m nh�n vi�n th�ng dịch cho nh� vua. Ch�nh Minh Mạng định phong c�c ng�i l�m quan chức trong triều đ�nh. Linh mục Gagelin K�nh đại diện anh em từ chối đặc �n đ� : "Tuy nhi�n, những việc đ� n�o c� thể dung h�a với nhiệm vụ linh mục của t�i, t�i sẵn s�ng gi�p đỡ nh� vua". Thừa sai Jaccard Phan li�n tục gi�p vua 10 năm, d� bị l�nh ba �n tử h�nh : lần đầu vua giảm th�nh �n xung qu�n để dịch s�ch, lần hai đổi th�nh �n lưu đ�y chung với thừa sai Odorico Phương Ofm, vị n�y chết nơi rừng thi�ng nước độc, c�n ng�i vẫn sống s�t v� tiếp tục dạy sinh ngữ v� dịch s�ch cho ho�ng triều. Lần cuối c�ng cha tử đạo v�o ng�y 21-9-1838. Trước đ�, nhiều người khuy�n ng�i bỏ trốn, ng�i n�i : "Kh�ng bao giờ, t�i muốn chứng tỏ phải d�ng điều thiện để thắng điều �c". Cuốn gi�o l� đầu ti�n cho người C�ng gi�o Việt Nam, cuốn "Ph�p giảng t�m ng�y" (1651) của cha Đắc Lộ đ� khẳng định c�c t�n hữu theo đạo Thi�n Ch�a, đạo của mọi quốc gia chứ kh�ng phải đạo Ph� L�ng Sa [12]. Đến thời L� Cảnh Hưng (1740-86), trong cuộc tranh luận bốn t�n gi�o, được ghi lại trong cuốn "Hội đồng tứ gi�o" [13], hai linh mục Cata�eda Gia v� Phạm Hiếu Li�m đ� trả lời vấn nạn "Đạo Hoa Lang l� đạo ngoại quốc" rằng :"Chớ th� đạo Phật chẳng từ Ấn Độ, đạo Nho từ nước Lỗ, đạo L�o chẳng từ đời nh� Ch�u ở Trung Hoa sao ?" v� đ� khẳng định : "Chẳng c� đạo n�o l� đạo Hoa Lang, đạo ch�ng t�i l� đạo Thi�n Ch�a, ch�ng t�i ước ao thi�n hạ mọi nước đều biết". Linh mục Vũ B� Loan tr�nh b�y điều đ� với quan : "T�i chẳng theo đạo của nước n�o cả, t�i chỉ thờ Ch�a Trời Đất, Ch�a của mu�n d�n th�i". Cũng v� vậy, khi qu�n đội Ph�p tiến v�o Đ� Nẵng năm 1858, giới C�ng gi�o kh�ng hề l�m nội ứng như thừa sai Pelerin tưởng [14]. Ngược lại, họ t�nh nguyện đi bảo vệ non s�ng. C� điều, vua Tự Đức đ�i họ, muốn tham chiến phải bỏ đạo trước đ�. Th�ng 7-1857, c� 14 binh sĩ, một bỏ đạo, 13 bị lưu đ�y. Th�ng 4-1858, trong nh�m 20 binh sĩ, bốn bỏ đạo, 16 bị lưu đ�y. V� khi t�u Ph�p đến, 193 binh sĩ C�ng gi�o chuẩn bị l�n đường xuống Đ� Nẵng, v� kh�ng chối đạo đ� l�nh �n chung th�n. Một vị tử đạo thời n�y l� binh sĩ Trần Văn Trung, đ� bị giết v� khẳng kh�i tuy�n bố : "T�i l� Kit� hữu t�i sẵn s�ng đi đ�nh kẻ th� của đất nước, nhưng bỏ đạo th� kh�ng bao giờ" [15]. Thế nhưng ch�n dung đ�ch thực cuộc đời c�c vị tử đạo nổi bật ở l�ng y�u thương. Với người "c� đồng ăn đồng để", như y sĩ Phan Đắc H�a, th� �ng rộng r�i gi�p người ngh�o khổ, ri�ng bệnh nh�n t�ng thiếu, kh�ng những �ng chữa bệnh miễn ph�, lại c�n gi�p tiền gi�p l�a. Với �ng Martin� Thọ, th� "C�ng bằng chưa đủ, phải c� b�c �i nữa, m� muốn thực thi b�c �i phải c� điều kiện", v� �ng trồng th�m vườn d�u kiếm tiền gi�p người thiếu thốn. Người c�ng tử đạo với �ng l� Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người ngh�o chống lại một l� tưởng đ�i sưu cao thuế nặng. �ng Năm Thu�ng l� �n nh�n của viện c� nhi trong v�ng. �ng Tr�m Đ�ch thường xuy�n thăm viếng trại c�i v� sẵn s�ng nu�i người mắc bệnh dịch tại nh� m�nh. Nếu t�nh thương b�c �i đ� được Đức Gi�su coi l� dấu chỉ của những m�n đệ Ng�i (Ga 13,35), ta kh�ng lạ g� linh mục Emmanuel Triệu sẵn s�ng nhường tiền bữa ăn �n huệ trước giờ xử tử : "Xin cầm tiền v� gửi cho người ngh�o d�m t�i". Linh mục Phan Văn Minh dặn đừng tổ chức an t�ng lớn, để d�nh tiền gi�p người bần c�ng. Linh mục Ho�ng Khanh trong t� sẵn s�ng chữa bệnh cho th�n nh�n vi�n cai ngục. V� gi�m mục Henares Minh đi đ�u cũng mang theo tr�p thuốc chữa bệnh miễn ph�. Với �ng Cai Tả, th� y�u thương để xứng với t�nh Ch�a y�u, �ng thường ch�m chước cho những người mắc nợ v� n�i "M�nh qu�n nợ người, Ch�a qu�n tội m�nh". Với �ng Năm Quỳnh th� b�c �i r� rệt l� hoa quả của đức tin, �ng từng n�i với gia đ�nh : "B� v� c�c con kh�ng đồng � cho t�i lấy của nh� để gi�p người ngh�o, t�i sẽ đi vay mượn hoặc l�m thu� kiếm tiền gi�p đỡ họ", v� �ng n�i : "T�i chưa thấy ai hay gi�p người ngh�o kh� lại t�ng bấn bao giờ. Kinh Th�nh chẳng dạy ch�ng ta phải coi họ như chi thể của Ch�a đ� sao ? Ch�a đ� cho ch�ng ta sống, tất sẽ quan ph�ng cho ta đủ d�ng". Với quan Hồ Đ�nh Hy th� : "Đừng l�m việc thiện c�ch m�y m�c qua lần chiếu lệ, m� phải l�m với thiện �". �ng từng chăm s�c nu�i nấng một người bệnh bơ vơ, suốt 15 ng�y s�ng tối thăm hỏi, v� khi người bệnh l�a đời, đ� tổ chức lễ an t�ng tổ tế. �ng cũng nu�i hai b� g�i bị bỏ rơi cho đến khi trưởng th�nh, một xin đi tu một xin lập gia đ�nh, �ng quảng đại lo đến nơi đến chốn. Ch�ng ta c�n học được nơi c�c t�n hữu thời tử đạo hai mẫu gương b�c �i tập thể - Thứ nhất l� phong tr�o Th�nh Nhi (Saint Enfant). Mọi người thi đua nhau, nhất l� c�c y sĩ, c�c d� phước v� c� b� đỡ t�m mọi c�c rửa tội cho trẻ em bệnh nặng chết yểu. Họ thăm nom, săn s�c nu�i nấng, thuốc men v� tổ chức an t�ng. Nếu c�c em sống s�t, họ dạy gi�o l� v� nghề nghiệp cho đến khi tự lập được. Nhiều gia đ�nh rất quảng đại nhận trẻ mồ c�i l�m con nu�i. Gi�o phận đ�ng trong năm 1843 rửa tội 8273 em [16]. Gi�o phận Trung Đ�ng Ngo�i năm 1855 rửa tội được đến 35.349 em [17]. - Mẫu gương thứ hai thể hiện trong c�c m�a dịch to�n quốc năm 1850-1851 : c�c t�n hữu c� mặt b�n giường c�c bệnh nh�n, đưa đến nh� thương chăm s�c, đ� l� giai đoạn c�c linh mục đi lại tự do. Thậm ch� ngay tại kinh đ� Ph� Xu�n, người ta được chứng kiến những nghi lễ an t�ng trọng thể, đi đầu l� th�nh gi� nến cao, tiếp đến hai h�ng t�n hữu, rồi linh mục với phẩm phục khăn cho�ng, họ vừa đi vừa h�t vang l�n b�i th�nh ca tiễn biệt. D� chưa đi s�u v�o mẫu gương trong c�c cuộc tử đạo, th� những mẫu gương y�u thương của hầu hết t�n hữu đầu thế kỷ XIX với mảnh đất v� con người Việt Nam, đối với Gi�o hội h�m nay, cũng đủ l� một di sản qu� gi� th�i th�c k�u mời ch�ng ta phải ph�t huy, với những c�ch thế hữu hiệu v� cụ thể hơn, để phục vụ tha nh�n nhất l� những người c�ng khổ.
Một trong những đ�ng g�p của giới C�ng gi�o v�o cơ chế Ph�p l� gia đ�nh Việt Nam, l� luật lệ một vợ một chồng. Trong giai đoạn văn h�a qu� ảnh hưởng quan điểm Nho gi�o "trai năm th� bảy thiếp", c�c t�n hữu đ� g�p phần đề cao đạo đức thủy chung của d�n tộc trong truyện trầu cau. Dĩ nhi�n kh�ng phải mọi t�n hữu đều trung th�nh với lời cam kết h�n nh�n, như �ng L� Văn Gẫm, binh sĩ Phan Viết Huy, Cai Th�n, quan Hồ Đ�nh Hy ... đ� c� thời gian sa ng�, thế nhưng tất cả đều biết trở về để vun đắp lại m�i ấm gia đ�nh của m�nh. Trong danh s�ch 117, trừ một số theo đạo khi đ� trưởng th�nh, c�n những ai sinh ra trong gia đ�nh C�ng gi�o đều được rửa tội v� gi�o dục đức tin ngay từ b�. Th�y Đaminh �y từng mạnh dạn tuy�n bố, giữ vững niềm tin l� giữ đạo cha �ng : "Nếu t�i cả gan bước l�n th�nh gi�, th� t�i x�c phạm đến Ch�a v� bất hiếu với mẹ cha. V� song th�n sinh ra t�i đ� dạy t�i trung th�nh với niềm tin cho đến chết". N�i chung c�c vị tử đạo khi bị bắt kh�ng tho�t khỏi t�nh cảm quyến luyến với người th�n, c� điều c�c vị chọn lựa Thi�n Ch�a v� tin tưởng ph� th�c người th�n choi Ng�i. Nhiều vị đang bị giam được về thăm gia đ�nh, đ� b�nh tĩnh khuy�n vợ con vui vẻ cho m�nh được chịu tử đạo, rồi tự động trở v�o t� như c�c �ng Ph�r� Dũng, Ph�r� Thuần, Laurens� Ng�n, Năm Thu�ng. Ta c� thể thấy điều đ� trong v�i di ng�n cuối c�ng sau
N�i đến t�nh nghĩa gia đ�nh, ch�ng ta kh� c� thể qu�n một số h�nh ảnh như : linh mục Emmanuel Triệu v� thương mẹ gi� ở lại Huế ba th�ng dựng nh� cho mẹ, n�n mới bị bắt. �ng đội Trung c� con g�i được ph�p ở trong t� chăm s�c, nhưng �ng bắt con về để kịp học gi�o l� với bạn b� trong xứ. �ng Tr�m L� Văn Phụng tại ph�p trường gặp lại con g�i, c� Anna Nhi�n, đ� đeo cho con ảnh th�nh gi� ở cổ m�nh v� n�i : "Con h�y nhận lấy kỷ vật của Ba. Đ�y l� ảnh đức Gi�su Kit� Ch�a ch�ng ta, ảnh n�y qu� hơn v�ng bạc bội phần. Con h�y lu�n mang nơi cổ v� trung th�nh cầu nguyện sớm chiều con nh� !". Nếu n�i đến gia đ�nh tử đạo phải kể : anh em c� Anr� Tường - Vinhsơn Tương ; cha con c� �n Khảm - Cai Th�n ; con rể bố vợ c� L� Mỹ - Tr�m Đ�ch. �ng L� Mỹ v� thấy nhạc phụ l� �ng tr�m Đ�ch đ� cao ni�n, mỗi cuộc tra tấn đều tự nguyện chịu đ�n hai lần thay thế cho cha. Con g�i �ng L� 12 tuổi, trốn mẹ v�o t� thăm v� thưa : "Xin cha can đảm chịu chết v� Ch�a". Cậu Tường 9 tuổi, con trai �ng kh�ng đi được, cũng nhắn lời : "Cha đừng lo cho ch�ng con, cha cứ an t�m vững l�ng xưng đạo v� chịu chết v� đạo". Vợ �ng, b� Mỹ n�i trong tiếng nghẹn ng�o : "Vợ con ai m� chẳng thương tiếc nhưng �ng h�y hy sinh v�c th�nh gi� rất nặng v� Ch�a. H�y trung th�nh đến c�ng, đừng lo nghĩ đến mẹ con t�i. Thi�n Ch�a sẽ quan ph�ng tất cả". Như thế, ta thấy những th�n nh�n của c�c vị tử đạo, tuy vẫn tiếc thương, vẫn buồn kh�c, nhưng cũng can đảm v� tin tưởng yểm trợ tinh thần cho c�c chứng nh�n. Ch�ng ta quan t�m đặc biệt đến h�nh ảnh một số b� mẹ.
Nếu n�i đến đời sống c�c Th�nh Tử đạo Việt Nam, ch�ng ta kh�ng thể bỏ qua l�ng t�n s�ng Đức Maria của c�c vị. L�ng t�n k�nh đ� thể hiện qua c�c thứ bảy đầu th�ng, với những cuộc rước long trọng, qua th�ng hoa v� th�ng M�n C�i mỗi năm, đặc biệt qua việc si�ng năng lần chuỗi M�n C�i hằng ng�y. Nhiều người đọc kinh tr�n đường đi v� lấy chuỗi l�m đơn vị t�nh đường d�i. Một niềm an ủi lớn cho giai đoạn thời Tử đạo l� việc Đức Mẹ hiện ra an ủi tại rừng La-Vang (Quảng Trị) năm 1798 : Mẹ vẫn hiện diện để n�ng đỡ kh�ch lệ con c�i m�nh trong những l�c kh� khăn. Ở đ�y ch�ng ta lưu t�m đến một số sự kiện ti�u biểu : �ng Năm Thu�ng bỏ tiền dựng một nh� nguyện k�nh tr�i tim vẹn sạch Đức Mẹ; �ng L� Mỹ mỗi tối tụ tập c�c phu tuần đọc 50 kinh trước khi đi c�ng t�c ; linh mục N�ron Bắc ăn chay c�c lễ vọng k�nh Đức Mẹ ; linh mục Dụ khi biết m�nh sắp bị bắt đ� mang theo h�nh trang duy nhất l� một tr�ng hạt M�n C�i ; rồi linh mục Federich Tế tự nhận l� con đi�n Đức Mẹ. Khi dừng bước ở Macao đợi t�u đến Việt Nam, ng�i đ� cầu nguyện :
Như vậy đ�, c�c ng�i đ� trao ph� cho Mẹ những ước vọng thầm k�n của m�nh để xin Mẹ trợ gi�p. Gi�m mục Borie Cao ghi lại trong nhật k� lời nguyện ng�y tận hiến cho Mẹ tại chủng viện : "Lạy Mẹ của con, xin h�y tin nơi con, khi con trưởng th�nh, con sẽ hiến to�n th�n cho việc cải h�a c�c người chưa tin. Xin Mẹ gi�p con theo con đường v� tinh thần của ơn gọi đ�. Xin cho con được đau khổ v� đức Kit�, được đ�n nhận ng�nh l� Tử Đạo v� về đến bến vinh quang". Đức cha Valentino Vinh trong thư gửi cho Mẫu th�n (thư 61) đ� n�i l�n suy nghĩ của m�nh, tuy c� vẻ h�i hước nhưng cũng tr�n đầy tin tưởng : "Mẹ �, với tr�ng hạt M�n C�i trong tay, với lời Kinh Lạy Cha v� kinh K�nh Mừng Maria tươi nở tr�n m�i, với tư tưởng th�nh thiện trong t�m tr�, hỏi thế giới c�n chi đẹp đẽ hơn ? Mẹ h�y thưa với Đức Maria về con. Lời cầu nguyệ tốt ấy sẽ đ�nh gẫy răng quỉ dữ...". Đến khi đ� bị bắt, kinh M�n C�i vẫn l� lời kinh hằng ng�y của c�c chứng nh�n đức tin. C� khi c�c vị chia hai b� để đọc lớn tiếng trong t�. Gi�m mục Cao, hai linh mục Nguyễn Thế Điểm v� Vũ Đăng Khoa h�t vang b�i "Ave Maria Stella" (K�nh ch�o Mẹ sao Bắc Đẩu) v� cầu nguyện : "Như xưa Mẹ đ� d�ng Con Y�u Qu� trong đền thờ nay xin cũng hiến d�ng ch�ng con trong cuộc tử đạo hồng ph�c". Linh mục Nguyễn Văn Hạnh thay v� d�y đạp, đ� h�n k�nh ảnh Đức Mẹ d� bị đ�nh đ�ng 100 roi. B� L� Thị Th�nh t�m sự : "Nhờ ơn Đức Mẹ gi�p sức, t�i kh�ng thấy đau đớn". Ngo�i ra linh mục Schoeffler Đ�ng trong thư, tỏ ra mừng rỡ khi biết tin m�nh tử đạo ng�y 01-5, ng�y đầu th�ng hoa k�nh Đức Maria. Linh mục Hoan lu�n đeo tr�n cổ �o Đức B� cho đến giờ xử tử, ng�i n�i : "Ảnh n�y t�i kh�ng thể cho ai được. Đ�y l� h�nh ảnh Đức Nữ Vương v� l� B� Ch�a của t�i". Linh mục Cornay T�n khi bị giam trong cũi, vẫn cất tiếng h�t, l�nh nghe hay n�n b�o với quan, thế l� quan bắt h�t mới cho ăn, ng�i kể lại trong thư rằng: "Mỗi bữa ăn t�i lại c� dịp h�t th�nh ca ch�c tụng Đức Maria". Cuối c�ng, ngay giờ ph�t h�nh h�nh, c�c vị Tử đạo vẫn cậy nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria. Linh mục Cornay T�n cầu nguyện "Xin Đức Maria chứng gi�m cho việc s�m hối của con...". Hai linh mục Casta�eda Gia v� Phạm Hiếu Li�m từ trại t� ra ph�p trường đ� h�t vang lời kinh Salve Regina (Lạy Nữ Vương) để chạy đến "Mẹ nh�n l�nh, l�m cho ch�ng con được sống được vui được cậy... Xin cho ch�ng con được thấy Đức Gi�su con l�ng Mẹ ...". Bởi v� thực ra trong th�m t�m của c�c vị, cuộc tử đạo quả l� một hiến tế cần nhờ Mẹ l�m trung gian để d�ng l�n Thi�n Ch�a, như Linh mục Th�ophane V�nard Ven đ� ghi lại lời nguyện trong thư gửi Đức cha Theurel : "Lạy Mẹ V� Nhiễm, khi đầu con rơi xuống dưới lưỡi gươm của l� h�nh, xin nhận lấy t�i tớ nhỏ b� như tr�i nho ch�n được h�i, như b�ng hồng nở rộ được ngắt về d�ng k�nh tr�n b�n thờ. Ave-Maria ". Trong thư chung 1798, Gi�m mục Alonso Ph� đ� khẳng định với c�c t�n hữu thời tử đạo rằng, nếu trong cuộc tử đạo họ kh�ng thể hiện đức y�u thương, th� kể như l� v� �ch, ng�i viết : "...Phải lấy mlời n�i c�ng việc l�m m� xưng đạo ra cho thật th�. Phải k�nh mến Đức Ch�a Blời trước hết mọi sự hơn của cải, hơn mạng sống m�nh, lại phải y�u-thương người ta bằngm�nh vậy, v� nếu chẳng c� đức y�u thương d� chịu chết v� đạo, th� cũng chẳng được g� sốt. V� ph�c tử đạo tại đức Caritas l� l�ng mến đức Ch�a Blời tr�n hết mọi sự, c�ng y�u người ta bằng m�nh v� Đức Ch�a Blời m� chớ" [19]. Hiến tế đầu ti�n của Gi�o hội l� Ch�a Gi�su, Đấng đ� tự hiến mạng sống m�nh v� y�u nh�n loại. C�c vị tử đạo đ� theo s�t mẫu gương của ng�i trong cuộc khổ nạn, từ vườn C�y Dầu cho đến đỉnh đổi Canv�.
Lời cầu nguyện của Đức Gi�su trong vườn C�y Dầu gợi l�n một th�i độ căn bản của c�c vị tử đạo l� : KH�NG CUỒNG T�N. kh�ng được chạy theo vinh quang giả dối, d� l� bằng h�nh vi d�ng hiến ho�n hảo nhất. Thế nhưng khi n�o Đấng Quan Ph�ng muốn biểu lộ niềm tin bằng h�nh động cụ thể, th� c�c vị phải đi cho trọn con đường của m�nh. Kh�n ngoan v� can đảm như hai đức t�nh h�a hợp nơi c�c th�nh Tử Đạo. Kh�ng c� quyền liều mạng. Với c�c linh mục, vẫn c� nghĩa vụ sống gần c�c t�n hữu, phải rất kh�n ngoan v� thận trọng. Linh mục Vũ Đ�nh Tước diễn tả điều đ� bằng c�u : "Bỏ chạy khi n�o c�n c� thể, nếu kh�ng chạy được th� xin v�ng � Ch�a". Lời Kinh Th�nh "C�o c� hang, chim c� tổ, nhưng con người kh�ng c� chỗ gối đầu" thường được nhắc nhở tr�n m�i c�c linh mục tu sĩ. Bị rượt ở th�nh n�y, c�c vị trốn qua th�nh kh�c, nhưng vẫn kh�ng ngừng hoạt động. Trong một l� thư đức cha Cu�not Thể viết : "D� chỉ c�n một gi�o sĩ chẳng l�m được g� ngo�i việc đọc kinh Thần Vụ, th� nguy�n sự hiện diện của vị đ�, cũng đủ n�ng đỡ niềm tin v� sinh hoạt cho c�c t�n hữu rồi". Ngo�i ra, đến khi bị bắt, nếu c� thể c�c t�n hữu sẵn s�ng bỏ tiền để chuộc mạng cho c�c ng�i, như linh mục Dũng Lạc hai lần được chuộc, lần thứ ba mới chịu tử đạo. Ở đ�y ch�ng ta lưu t�m đến năm vị tử đạo trong hai dạng tự nộp m�nh : a/ Hai vị muốn được chia sẻ cuộc tử đạo của th�y m�nh, họ kh�ng thuộc nh�m 12 t�ng đồ ở vườn C�y Dầu bỏ th�y chạy trốn, đ� l� th�y Tự v� linh mục Duệ. Th�y Tự khi thấy cha Cao bị bắt đ� lẽo đẽo theo sau v� xin vị linh mục nhận m�nh l� m�n sinh để được chia sẻ những gian lao của Ng�i. Vị thừa sai cảm động trao cho th�y nửa chiếc khăn để l�m kỷ vật, v� th�y Tự đ� giữ khăn đ� cho đến chết. Ng�y h�nh quyết, th�y xin được xử ngay tại nơi đ� thấm m�u người cha th�n y�u m�nh năm trước. C�n linh mục Vũ Văn Duệ đ� 83 tuổi v� về hưu được s�u năm, khi đức cha Y gh� thăm v� hỏi : "Cụ c�n sức theo t�i l�n thủ phủ Nam Định chăng ?". Cha Duệ hiểu � vị Gi�m mục muốn n�i đến việc tử đạo n�n đ�p : "Khi n�o đức cha bị bắt, xin cho ph�p con theo c�ng". V� thế khi hay tin vị gi�m mục đ� bị bắt, cha thường la lớn để binh l�nh đến bắt Ng�i. Trong ngục khi biết đức cha đ� bị ch�m, cha Duệ liền bỏ chiếu nằm đất v� n�i : "Gi�m mục l� cha đ� phải xử, ta l� con m� nằm chiếu sao phải lẽ". b/ Trường hợp thứ hai l� ba vị tử đạo tự nộp thế mạng cho người kh�c, đ� l� : Linh mục Gioan Đạt vừa d�ng lễ xong th� qu�n l�nh v�y bắt. Cha đ� chạy tho�t, nhưng v� để qu�n �o lễ, cha thấy qu�n l�nh tra tấn gia chủ n�n ra nộp mạng v� n�i : "Vẫn biết t�i c� thể tho�t, nhưng như thế anh chị em sẽ bị khổ nhiều". Vị thứ hai, thừa sai Gagelin K�nh, viết thư xin ph�p gi�m mục cho m�nh ra tr�nh diện để t�n hữu B�nh Định được b�nh an. Vị thứ ba l� linh mục Đặng Đ�nh Vi�n, cha đ� trốn an to�n trong vườn m�a d�y đặc, nhưng khi thấy qu�n l�nh đ�nh đập tra khảo con của chủ nh�, cha cũng tự động ra thế mạng. Những mẫu gương n�y l�m ta li�n tưởng đến th�nh Maximilien Kolbe ở trại tập trung Đức quốc x� sau n�y. Như Đức Gi�su trong vườn C�y Dầu đưa tay cho qu�n l�nh bắt, nhưng y�u cầu cho c�c m�n đệ được tự do, c�c vị tử đạo tuyệt đối kh�ng để ai bị li�n lụy. Một người duy nhất khai t�n năm s�u t�n hữu v� tưởng những người n�y đ� trốn l� quan Hồ Đ�nh Hy, lời khai của �ng l�m li�n lụy đến 29 người. �ng hết sức hối hận, v� n�i : "T�i cam chịu mọi cực h�nh để n�n giống Đức Kit�, để đền b� tội lỗi của t�i". Linh mục Nguyễn Đ�nh Nghi đi đ�u cũng mang theo v�i n�n bạc, c� � giao cho l�nh, để chủ nh� nơi ng�i trọ được b�nh an. Linh mục Federich Tế khi bị bắt đ� y�u cầu, v� l�nh nghe ng�i thả những gi�o hữu đang bị tr�i. Đức cha Borie Cao d� bị đ�nh đập, kh�ng khai t�n bất cứ ai, sau quan cho l�i th�y Tự ra đ�nh v� n�i họ sẽ đ�nh th�y m�i nếu ng�i kh�ng khai. Thế l� cha liền kể t�n v�i người đ� qua đời, quan vui vẻ tha cho th�y Tự, nhưng khi kiểm tra lại mới biết những người đ� đ� chết. Quan hỏi : "Sao �ng cứng đầu thế ?" Cha đ�p : "Thưa, c�u hỏi của quan t�i kh�ng thể trả lời kh�c hơn được". Bốn linh mục �m thầm bỏ gi�o xứ để c�c t�n hữu được an to�n. C�c vị đi m� chẳng biết sẽ đến đ�u, đ� l� linh mục Đỗ Yến, Vinhsơn Điểm, Borie Cao v� N�ron Bắc. Trường hợp thừa sai Schoeffler Đ�ng bị bắt chung với một linh mục Việt v� hai ch� gi�p lễ, khi qu�n l�nh đ�i tiền chuộc, cha y�u cầu thả những người kia ra, lấy cớ chỉ c� họ mới biết chỗ để tiền, đến khi họ đ� đi xa, cha n�i r� � muốn chỉ một m�nh bị bắt. Ngo�i ra ta phải kể đến �ng Năm Quỳnh, v� l�m tr�m họ n�n giữ số c�c t�n hữu, khi thấy qu�n l�nh giữ cuốn sổ đ�, �ng nhắn con trai đưa 50 quan tiền để chuộc lại. Một h�nh ảnh ti�u biểu nhất của việc kh�ng để ai li�n lụy l� linh mục Tự. Khi bị giam giữ, cha thấy trong sổ s�ch bị tịch thu c� cuốn sổ ghi t�n c�c t�n hữu xứ Kẻ Mốt, cha l�n đem về trại giam, rồi t�m c�ch chuyển ra ngo�i. Nhưng v� qu�n l�nh canh giữ qu� kỹ lưỡng kh�ng thể l�m g� được, cha liền bầy kế xin một chiếc chiếu đắp cho đỡ muỗi, rồi nằm trong chiếu ng�i nhẩn nha nhai v� nuốt từng tờ cuốn sổ ấy. Dĩ nhi�n "m�n ăn" n�y kh�ng hợp khẩu vị ch�t n�o, n�n mới được hai phần cuốn, cha đ� thấy r�t cổ kh�ng nuốt nổi nữa, phần c�n lại cha đ�nh nhai n�t rồi giấu dưới gầm phản. Khi xưa trong cựu ước, c� cụ Eleazaro kh�ng chấp nhận giả bộ ăn của c�ng, một số vị tử đạo kh�ng chấp nhận mọi h�nh thức kh�a qu� tr� h�nh. Nhiều linh mục như c�c cha L� T�y, Đỗ Yến, Ho�ng Khanh, Nguyễn Văn Hưởng, L� Bảo Tịnh... nhất định kh�ng khai man l� lịch l� lang y d� được hứa trả tự do. Nhiều khi quan t�m v� thương t�nh, t�m c�ch giải gỡ kh� khăn lương t�m của c�c chứng nh�n đức tin. Họ y�u cầu c�c vị giả bộ bước qua Thập gi� chứ kh�ng cần l�m thực sự. Linh mục Phan Văn Minh, quan chỉ đ�i gật đầu l� sẽ k� giấy đ� bước qua Thập gi�. Nh�m năm người thầy Hả Trọng Mậu, B�i Văn �y v� c�c anh Nguyễn Văn Mới, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Vinh, quan chỉ y�u cầu “đi v�ng quanh Th�nh Gi�”. Ri�ng với linh mục Đỗ Yến, quan vẽ một v�ng tr�n rồi y�u cầu bước qua v�ng đ�. Nhưng tất cả c�c vị kh�ng thực hiện, v� thấy r� rệt đ� l� dấu bỏ đạo. Th�y giảng Nguyễn Cần, quan n�i nhắm mắt bước đại qua Thập gi�, th�y đ�p : "Thưa quan, mắt th� nhắm được, chứ l�ng v� tr� kh�n kh�ng thể nhắm được, n�n t�i chẳng l�m". Một số gi�o hữu đ� bỏ đạo dụ dỗ th�y : "Tội n�o Ch�a chẳng tha, th�nh Ph�r� chối Ch�a ba lần c�n l�m thủ l�nh Gi�o hội.". Người kh�c lừa dối : "Cha Retord nhắn th�y cứ bước qua Thập gi�, rồi về sẽ liệu sau". Thầy Cần đ�p : "D� thi�n thần c� xuống bảo t�i bỏ đạo, t�i cũng chẳng nghe nữa l� cha Li�u. Hơn nữa t�i biết chắc ng�i kh�ng ra lệnh cho t�i như vậy".
Thế nhưng, c�c vị tử đạo đ� kh�ng chết chỉ v� một l� tưởng, một � thức hệ hay một tham vọng n�o cả. Đối với c�c ng�i, sự hiến d�ng ch�nh v� một Đấng m� c�c ng�i y�u mến l� Đức Gi�su, �ng Năm Quỳnh khi bị xử giảo, nằm giang tay tr�n đất c�n n�i : "Xưa Ch�a cũng giang tay thế n�y để chịu đ�ng đinh". Đức cha Sanjurjo An viết : "Chớ g� m�u t�i h�a với m�u Đức Kit� tr�n đồi Canv� tẩy rửa t�i sạch mu�n v�n tội lỗi". Linh mục Gagelin K�nh n�i : "T�i ước mơ trở th�nh tro bụi để kết hợp với Ch�a Kit�. T�i giữ từ c�i đời n�y, kh�ng hề thương tiếc điều g�, chỉ nh�n l�n Ch�a Kit� chịu đ�ng đinh, đủ an ủi t�i về mọi đau khổ v� cả c�i chết nữa". Linh mục Đinh Viết Dụ t�m sự với người v�o thăm rằng : "Sức t�i tuy đ� giảm, nhưng c�n chịu đựng được. Ch�a ch�ng ta đ� chịu bao h�nh khổ để cứu độ nh�n loại. T�i cũng sẵn l�ng chịu những sự kh� n�y để n�n giống Ch�a Kit� phần n�o". Linh mục Ng� Duy Hiển lại n�i : "T�i sẵn s�ng chết v� Đấng đ� chết cho t�i". Ngo�i ra, tất cả c�c vị tử đạo đều thấy c�i chết của m�nh như một hiến tế, tất cả đều cầu nguyện, hiến d�ng đời m�nh trong những gi�y ph�t cuối c�ng, v� khi biết ch�nh x�c ng�y xử, c�c vị thường chuẩn bị tinh thần bằng những hy sinh tự nguyện, hoặc bằng ăn chay h�m m�nh, hoặc bằng những thời gian d�i suy niệm. C� hai h�nh ảnh đ�ng ghi nhớ đặc biệt : �ng Tống Viết Bường, trường hợp đặc biệt xử về đ�m, đ� t�m c�ch đi chậm để xin được chết tr�n nền cũ nh� thờ Thợ Đ�c, Huế. Ch�nh nơi đ� từng bao năm th�ng c�c t�n hữu tụ tập d�ng l�n Ch�a Hiến lễ tối cao l� Đức Gi�su, th� cũng tại đ�y, �ng hiến d�ng ch�nh mạng sống m�nh. H�nh ảnh thứ hai l� gi�m mục Henares Minh, sau khi người học tr� y�u qu� l� th�y Chiểu bị xử trảm, ng�i k�nh cẩn đ�n lấy thủ cấp của th�y, rồi d�ng l�n cao như một lễ vật tinh tuyền k�nh d�ng Thi�n Ch�a. Cả ph�p trường đều thinh lặng ngất ng�y trong gi�y ph�t c� một kh�ng hai đ�, gi�y ph�t kết tinh trọn vẹn cuộc đời d�ng hiến của một người con c�i Ch�a. Như vậy tử đạo ch�nh l� một th�nh lễ cuộc đời. L� thư linh mục Bonnard Hương ng�y �p cuộc tử đạo n�i r� l�n điều đ� : "Giờ long trọng đ� điểm, xin ch�o tất cả mọi người đ� thương mến v� nhớ đến t�i... Tr�ng cậy v�o l�ng Đức Gi�su nh�n từ, t�i tin Ng�i thứ tha mu�n v�n tội lỗi cho t�i. T�i tự nguyện hiến d�ng m�u v� mạng sống v� y�u mến Ng�i, v� v� những linh hồn y�u dấu m� t�i muốn phục vụ hết m�nh... Ng�y mai sẽ l� ng�y hiến tế của t�i. Xin cho � Ch�a được thể hiện". V� như Đức Gi�su xưa tr�n đồi Canv�, ng�i kết th�c bằng lời nguyện : "Trong tay Ng�i, Lạy Ch�a, con ph� th�c hồn con". T�m lại, tử đạo ch�nh l� Hiến Tế T�nh Y�u. Đoạn thư sau đ�y của đức cha Retord Li�u gởi cho linh mục Hương ở trong t�, tuy l� một suy niệm dựa v�o danh xưng vị thừa sai, nhưng tiềm ẩn b�n trong � nghĩa s�u xa của tất cả c�c cuộc tử đạo : "T�i đ� ch�c l�nh cho cha khi đ� đặt cho cha danh xưng đẹp đẽ CỐ HƯƠNG, nghĩa l� người cha của qu� hương, l� hương trầm v� l� hương thơm. Ch�nh l�c n�y đ�y, qu� hương y�u dấu đ� đang sắp xuất hiện cho cha trong �nh huy ho�ng, v� cha sắp l� một trong những c�ng d�n hạnh ph�c. Ch�nh l�c n�y đ�y, Hương trầm qu� gi� chuẩn bị đốt l�n tr�n b�n thờ tử đạo v� bay đến tận ngai Đấng Vĩnh Cửu. Ch�nh l�c n�y đ�y, Hương thơm đ�ng ca tụng sẽ l�m h�i l�ng Đức Gi�su như b�nh hương của c� Madalena, sẽ l�m cho thi�n thần v� lo�i người, trời v� đất h�n hoan v� hương vị ngọt ng�o của n�". Vậy đ�, mỗi cuộc đời tử đạo l� cuộc tự hiến. Đức cha Cu�not Thể t�m sự : "Nh�n c�c bạn từng người bước l�n b�n thờ tử đạo, t�i thấy m�nh c� đơn qu�, ng�y đẹp nhất đời t�i l� ng�y được hiến tế tr�n b�n thờ tử đạo". Cuộc đời c�c chứng nh�n đức tin chịu đốt ch�y trong lao khổ, trong ngục h�nh, v� cả c�i chết đều như hương trầm d�ng l�n Thi�n Ch�a, sẽ tỏa hương thơm ng�t cho ng�n mu�n thế hệ. Nguy�n việc c�c vị tử đạo chấp nhận c�i chết v� niềm tin đ� l� một chứng từ mạnh mẽ với mọi người tham dự. Thế nhưng, ngo�i chứng từ bằng m�u đ�o, c�c vị tử đạo c�n l�m chứng cho nội dung Tin Mừng bằng th�i độ của m�nh với vua quan, bằng sự li�n đới nội bộ v� nhất l� bằng lời n�i, giải th�ch về đạo hoặc truyền giảng Ph�c �m ngay trong ngục thất. N�i chung tất cả c�c anh h�ng tử đạo đều tỏ vẻ k�nh trọng giới quan quyền, c�c vị n�i năng lịch sự, h�a nh�, thưa bẩm đ�ng qui c�ch. Dường như đối với c�c vị, phải t�m mọi c�ch để gi�p quan qu�n gặp được Ch�n l� của Tin Mừng. C� khi c�c vị n�i r� � tưởng đ�, như trường hợp linh mục Đaminh Trạch : "Nếu quan muốn sự sống đời đời, h�y thờ lạy Th�nh gi� n�y". C�n b�nh thường, c�c vị �n tồn, tế nhị giải đ�p những thắc mắc, biện b�c những dư luận sai lầm. V� thế c�c quan đ�i lần biểu lộ tấm l�ng mến thương cảm phục như trong vụ �n linh mục Laurens� Hưởng, vi�n quan thấy tử tội c� d�ng dấp một đạo sư, n�n hứa hẹn nếu chịu bỏ đạo, sẽ thu xếp cho ng�i đến trụ tr� Ch�a Non Nước ở Ninh B�nh. Thừa sai Bonnard Hương t�m sự : "Trước mặt vua quan, t�i c� kinh nghiệm cụ thể lời đức Gi�su: Ch�a Th�nh Linh sẽ n�i thay c�c con. Thực vậy, chưa bao giờ t�i n�i tiếng Việt lưu lo�t v� dễ d�ng như thế". Trường hợp đức cha Cao cho ta thấy, c�c vị tử đạo c� lẽ c�n coi quan quyền như những t�c nh�n trong chương tr�nh quan ph�ng của Ch�a. Khi vi�n quan vừa đọc xong bản �n tử h�nh, ng�i n�i : "Thưa quan, từ b� đến nay t�i chưa lạy ai, v� b�n �u ch�u đ� l� h�nh vi k�nh trọng chỉ d�nh cho Đấng Tối Cao. Nhưng điều t�i vừa nghe l�m t�i qu� vui mừng, xin được b�y tỏ l�ng tri �n của t�i theo lối Đ�ng Phương". Rồi ng�i quỳ xuống định lạy, nhưng vi�n quan đ� kịp thời cản lại. Hai đoạn thơ sau đ�y cho ta thấy r� th�i độ bất bạo động của c�c vị tử đạo. Một đ�ng cương quyết đấu tranh cho tự do lương t�m của con người, đ�ng kh�c vẫn lu�n lu�n muốn l� trung thần của nh� vua. B�i thứ nhất của �ng L� Mỹ :
Đoạn thơ thứ hai của linh mục Đo�n C�ng Qu� gởi cho mẫu th�n :
Một chứng từ kh� đặc biệt c�c t�n hữu thời tử đạo n�u l�n với quần ch�ng l� việc họ lu�n gắn b�, th�ng cảm v� sẵn s�ng san sẻ những kh� khăn, cũng như li�n đới với nhau để tuy�n xưng niềm tin của m�nh. Kh�ng cảm động sao được, h�nh ảnh c� b� ch�u 5 tuổi ở T�y Ban Nha mỗi ng�y cầu nguyện cho b�c gi�m mục Henares Minh : "... Trung th�nh phục vụ Ch�a suốt đời, v� nếu cần để t�n vinh v� l�m hiển danh Ch�a hơn, xin cho b�c được hiến d�ng mạng sống v� y�u Ng�i". Ấy thế m� em chỉ biết : "B�c t�n Đaminh, tu d�ng Đaminh, đang truyền gi�o ở thật xa, nơi người ta đang b�ch hại c�c Kit� hữu". Kh�ng cảm động sao được, cụ �n Khảm vốn l� ti�n chỉ l�ng Quần Cống, đang khi qu�n l�nh bao v�y l�ng, cho m� đi rao : "Tr�nh quan vi�n l�ng nước, c� lệnh cụ �n, truyền rằng : ai m� qu� kh�a phải phạt ba roi v� bị đuỗi khỏi l�ng". V� ngay trước mặt qu�n l�nh, cụ �n đứng ra ngăn cản một t�n hữu nh�t sợ định đạp l�n Th�nh gi�. Kh�ng cảm động sao được, một linh mục Nguyễn B� Tuần đang ở nơi y�n h�n, khi hay tin vị thừa sai Fernandez Hiền kh�ng c� nơi ẩn tr�, đ� đến gặp để c�ng nhau tr�n đường lưu lạc, c�ng phơi nắng phơi sương nhiều ng�y trong đồng lầy, c�ng bị bắt v� c�ng bị kết �n, c� điều cha Tuần chết rũ t� mấy ng�y trước buổi h�nh quyết. Khi c�c vị tử đạo bị bắt, c�c vị vẫn t�m được nguồn kh�ch lệ từ b�n ngo�i qua thư từ, thăm viếng, tiếp tế. C�c linh mục t�m đủ mọi c�ch v�o thăm c�c chứng nh�n đức tin để đưa Th�nh Thể v� giải tội cho họ. Linh mục Ph�r� Lựu đ� bị bắt khi l�m mục vụ cho c�c t�n hữu trong ngục t� Mỹ Tho. Đọc đoạn thơ sau đ�y của đức cha Retord Li�u gởi linh mục Phạm Khắc Khoan trong t�, ch�ng ta thấy phần n�o nội dung những mối li�n đới đ� "S�ch c� c�u : Chết vinh hơn sống nhục. H�y coi những kẻ bội gi�o, cuộc đời họ đ�ng tủi hỗ biết bao. Ngược lại, khắp bốn phương thi�n hạ đều vang lời ngợi khen những ai chết cho đức tin. C�c vị tử đạo như tiếng k�n thi�n quốc với �m điệu vang lừng mu�n người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở lại trần gian chỉ chờ lưỡi r�u chặtđem về tiếp lửa cho hỏa ngục...T�i viết cho cha những lời vắn tắt vội v� n�y. Ước mong n� th�nh ngọn gi� đưa cha lướt �m đến bến bờ qu� hương. Ước mong n� th�nh b� hoa rực rỡ với l�n hương thơm ng�t tỏa niềm tin t� thắm t�m hồn cha trong cuộc chiến cuối c�ng. Xin k�nh cẩn tạm biệt cha, xin k�nh cẩn h�n l�n g�ng c�m xiềng x�ch của cha. Trong l�c cầu nguyện xin đừng qu�n t�i nh�". Như vậy, ch�ng ta thấy cuộc đời tử đạo của mỗi người kh�ng chỉ một m�nh m�nh biết, nhưng thường mang yầm v�c tập thể. Sự bền vững của một người c� t�c động kh�ch lệ đến nhiều người. Đức cha Sanjurjo An xin qu�n l�nh đừng ch�m m�nh chết sớm, nhưng ng�i y�u cầu họ ch�m ba nh�t : “Một tạ ơn Thi�n Ch�a cho l�m người v� đến Việt Nam rao giảng Tin Mừng; một c�m ơn c�ng sinh th�nh dưỡng dục mẹ cha; v� một để l�m gương cho c�c t�n hữu”. Linh mục Nguyễn B� Tuần khẳng định : "Sao t�i lại phải bắt chước những kẻ bội gi�o, mẫu gương t�i soi l� hai gi�m mục (đức cha Y v� Minh) của t�i ". Với những chứng nh�n đức tin c�ng bị giam, t�nh li�n đới của họ c�n cụ thể hơn. Một người ra t�a trở về, c�c người kh�c x�m v�o chăm s�c những vết thương, hỏi han về cuộc điều tra v� thuật lại cho nhau những lời đ�p khẳng kh�i khi đối diện với quan quyền. Rồi họ c�ng nhau tạ ơn Ch�a đ� cho anh em m�nh vượt qua cơn thử th�ch. Đẹp l�m sao h�nh ảnh linh mục Đo�n Trinh Hoan tuy tuổi gi� t�c bạc, cổ mang g�ng, tay đeo xiềng x�ch, mỗi ng�y đi từ ph�ng giam n�y qua ph�ng giam kh�c để kh�ch lệ c�c t�n hữu. Đẹp l�m sao h�nh ảnh hai �ng Martin� Thọ v� Gioan Cỏn sẵn s�ng qu� xuống, liếm từng vết thương ba vị linh mục Nguyễn Ng�n, Nguyễn Đ�nh Nghi, Tạ Đức Thịnh theo đ�i hỏi của quan. Đẹp l�m sao linh mục Phạm Hiếu Li�m đ� b�nh vực cho bạn (Castaneda Gia) bằng c�i gi� ch�nh mạng sống m�nh, khi n�i : "Xin quan nếu tha th� tha cả, nếu giết th� giết cả". Nh�m năm người, hai th�y H� Trọng Mậu, B�i Văn �y v� ba anh Nguyễn Văn Mới, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Vinh khi thấy linh mục Tự, chỗ dựa tinh thần của nh�m đ� bị xử tử cả năm người đ� thất vọng ch�n nản. Nhưng khi họ ngổi lại với nhau, �n lại những lời khuy�n của th�y mến y�u, năm người đ� t�m được can đảm. Họ gởi thư cho cha ch�nh d�ng Đaminh để xin khấn d�ng Ba ngay trong ngục, rồi hợp lực với nhau l�m t�ng đồ tại nh� giam. Chỉ một thời gian ngắn, th�y Mậu đ� viết thư loan tin m�nh rửa tội được 44 người. Lời Ch�a kh�ng thể bị tr�i buộc. Nếu nhiều chứng nh�n đức tin chẳng để lại di ng�n n�o ngo�i th�i độ quả cảm x�c nhận v� cương quyết : "T�i l� Kit� hữu" hoặc "T�i kh�ng bao giờ đạp l�n Th�nh gi�", th� trong số 117 Th�nh Tử Đạo Việt Nam, ta cũng thấy được nhiều mẫu gương nhiệt t�m t�ng đồ c� t�nh c�ch s�ng tạo. Linh mục Federich Tế, ch�nh bảy năm rưỡi trong t�, đ� kh�o quan hệ với cai ngục để tự do thăm viếng phục vụ c�c t�n hữu Thăng Long, đến độ đức cha Longer Gia dự định đặt ng�i l�m cha sở xứ Thăng Long. Bảy th�ng trước ng�y xử, c�ng với linh mục bạn l� cha Liciniana Đậu, hai vị rửa tội được tr�n 100 người. Hai linh mục Casta�eda Gia v� Phạm Hiếu Li�m c� cơ hội may mắn kh�c, trong ba ng�y tham gia “Hội đồng Tứ Gi�o” trao đổi ba đề t�i lớn của c�i nh�n sinh : Người ta bởi đ�u m� c� ? sống để l�m g� ? v� chết rồi đi đ�u ? Hai ng�i đ� l�m chứng cho sự thật v� niềm tin C�ng gi�o. C�n “đức th�y” Tuấn (Hermosilla Li�m) bị giam trong cũi trong 10 ng�y, tuy lom khom đứng kh�ng được m� nằm cũng chẳng đặng, nhưng ng�i đ� giảng đạo v� rửa tội cho con trai vi�n Đội B�i. Về gi�o d�n c� �ng cai L� Đăng Thị đ� dạy đạo cho một phạm nh�n c�ng bị xử, buổi s�ng ng�y ra ph�p trường anh đ� nhận l�nh b� t�ch rửa tội, thế l� �ng Thị c� một người bạn đồng h�nh về Thi�n Quốc. Đ�i khi việc loan b�o Tin Mừng kh�ng thể hiện bằng ng�n ngữ m� bằng h�nh động. �ng Phaol� Đổng đ� bị �p lực khắc l�n m� chữ Tả đạo, �ng can đảm chịu đau lần thứ hai để rạch x�a chữ tả đạo, khi kh�c lại chịu đau lần thứ ba để khắc thay v�o hai chữ "Ch�nh đạo". Linh mục Ng� Duy Hiển, 71 tuổi, mỗi buổi tối chăm ch� vẽ tr�n vải những h�nh th�nh gi� đẹp với những n�t trang tr� hoa văn để tặng cho c�c t�n hữu v�o thăm. Những h�nh th�nh gi� đ� được chuyền tay nhau, gi�p một số tội nh�n thống hối, một số người nh�t đảm v� t�m lại được l�ng can trường, n�n c�c t�n hữu đến xin ảnh rất đ�ng. Vị linh mục phải nhờ anh bạn t� khắc h�nh th�nh gi� tr�n gỗ để in h�ng loạt ban ph�t cho họ. Thế đấy tuy ở trong t�, cha Hiển đ� g�y được phong tr�o k�nh th�nh gi� rộng r�i ở Nam Định. Một trường hợp loan b�o Tin Mừng kh�c cũng kh� đặc biệt. Linh mục Nguyễn Văn Tự đến ng�y bị xử tử, đ� xin ph�p quan được mặc �o d�ng Đaminh v� �m th�nh gi� ra ph�p trường. Trước khi bị ch�m, cha xin n�i đ�i lời v� ứng khẩu giảng gần một giờ về Đức Gi�su, về ơn Cứu độ, về t�nh huynh đệ mọi người l� anh em. Trong c�c phần tr�n, ch�ng ta đ� quan s�t c�c anh h�ng tử đạo trong sinh hoạt hằng ng�y, nghi�n cứu về t�m tư v� lời n�i c�c vị. Giờ đ�y ch�ng ta c�ng nhau chi�m ngưỡng ch�n dung c�c ng�i, dựa v�o th�i độ trong giờ ph�t cuối c�ng cuộc đời chứng nh�n, ch�ng ta thấy được tư thế, n�t mặt v� c� lẽ cả �nh mắt của c�c ng�i nữa. Một quan niệm sai lầm c�c t�n hữu dễ mắc phải l� tưởng tượng c�c vị th�nh qu� linh thi�ng như những thi�n thần, nghĩ rằng với ơn Ch�a, c�c vị tử đạo chẳng c�n biết đau đớn g� nữa. Thực ra, c�c vị vẫn mang th�n phận rất người như ch�ng ta, cũng sợ đ�n đ�nh tra tấn v� luyến tiếc cuộc sống trần gian. Ngay trong số 117 Hiển Th�nh Việt Nam, cũng kh�ng �t vị đ� từng đạp l�n th�nh gi�, c� điều sau đ� c�c vị đ� hồi t�m v� tiếp tục chọn Thi�n Ch�a. Trong vụ �n ba th�nh Phan Viết Huy, B�i Đức Thể, Đinh Đạt, th� 500 binh sĩ C�ng gi�o Nam Định, ngay h�m đầu ti�n đ� c� 485 người nghe Tổng đốc Trịnh Quang Khanh d�y đạp th�nh gi�. �t bữa sau 15 người chỉ c�n 9 kẻ trung th�nh, rồi c�n 5, c�n 3 v� ba người cuối c�ng cũng một lần chối đạo. Đến khi về nh� nghĩ lại, ba �ng họp nhau nộp đơn xin tiếp tục giữ đạo v� phải v�o thẳng kinh đ� d�ng sớ tận tay Đức vua. Từ đấy c�c �ng dũng cảm chịu mọi h�nh khổ cho đến chết. Th�y giảng T�ma To�n, 76 tuổi, đạp l�n th�nh gi� những hai lần. Nhưng khi đ� th�ng hối, th�y chấp nhận mọi thử th�ch c�ch can đảm lạ thường. C� lần sau 13 ng�y bị lột trần, bị tr�i ngo�i s�n phơi nắng phơi sương, bị mọi người qua lại sỉ nhục, h�nh hạ. Thế m� khi quan cho dọn một m�m cơm y�u cầu th�y ăn rồi bỏ đạo, th�y n�i : "Nếu ăn m� phải bỏ đạo, t�i sẽ kh�ng bao giờ ăn". V� th�y bị bỏ đ�i chết gục trong nh� giam. �ng Năm Thu�ng bị �n lưu đ�y xuống Vĩnh Long. sau nhiều ng�y đi bộ mệt nhọc, �ng kh�ng chịu dừng lại Saigon, cương quyết đi trọn h�nh tr�nh đến tận nơi bản �n qui định. V� rồi vừa đến Vĩnh Long, �ng đ� kiệt sức, tr�t hơi thở cuối c�ng. Linh mục Nguyễn Văn Hạnh từng được mệnh danh l� "Laurenso Việt Nam", v� lần kia sau một trận đ�n, cha đ� b�nh thản chắp tay sau lưng v� n�i : "L�m quan lớn m� bất c�ng, bắt một m�ng chịu cả, c�n m�ng kia chẳng phải chịu g� hết". Ch� kh� b� Đ� (L� thị Th�nh), vị th�nh nữ Việt Nam duy nhất, cũng kh�ng thua k�m c�c bậc nam nhi. Quan qu�n cho cột c�c ống tay �o rồi bỏ rắn v�o trong người, b� vẫn b�nh tĩnh đứng y�n kh�ng nh�c nh�ch, kh�ng sợ h�i. Con c�i v�o t� thăm, kh�c l�c khi thấy th�n thể mẹ bầm t�m, �o b� bết những vết m�u, b� mỉm cười an ủi : "Sao con lại buồn, mẹ mặc �o hoa hồng đấy con ạ". B� coi những vết m�u như v�ng hoa kho�c l�n cổ người chiến sĩ thắng trận trở về. L�ng anh dũng của c�c chứng nh�n tử đạo đ� được t� điểm th�m bằng sự ki�n tr� theo năm th�ng. Chấp nhận bản �n, v� b�nh tĩnh chờ đợi, kh�ng một ai quy�n sinh để tự kết liễu đời m�nh. Một phụ nữ ngoại gi�o tặng linh mục Gioan Đạt lọ độc dược để khỏi k�o d�i những ng�y bị tra tấn khổ đau; một vi�n quan y�u cầu đức cha Delgado Y uống thuốc độc theo kiểu những người "qu�n tử" Đ�ng Phương thường l�m. Nhưng c�c ng�i lại d�ng ch�nh cơ hội ấy tr�nh b�y quan điểm Gia� hội về mạng sống con người. Nếu l�ng anh dũng gi�p c�c vị tử đạo b�nh thản đ�n nhận c�i chết kh�ng run rẩy, kh�ng quỵ lụy kh�c than, th� l�ng bao dung thứ tha mới l� đặc t�nh ph�n biệt vị tử đạo với những vị anh h�ng v� l� do kh�c. C�c t�n hữu chỉ thực sự chết v� đạo nếu biểu lộ được t�nh y�u, l�ng nh�n �i, sự bao dung của Tin Mừng. C�c vị chắc chắn kh�ng đồng � với bản �n bất c�ng của triều đ�nh nhưng như Đức Gi�su tr�n th�nh gi� vẫn cầu nguyện cho qu�n l�nh giết hại m�nh, c�c chứng nh�n tử đạo vẫn tiếp tục y�u thương vua quan v� ch�nh những người h�nh xử m�nh. - Thừa sai Gagelin K�nh gửi thư cho bạn b� : "T�i sẵn l�ng tha thứ cho những kẻ �p bức t�i". - Chuyện linh mục Th�ophane V�nard Ven, khi vi�n quan n�i : "T�i phải theo lệnh vua, đừng giận t�i nh�", ng�i đ�p : "T�i chẳng gh�t g� ai cả, t�i sẽ cầu nguyện nhiều cho quan". - Cụ Ho�ng Lương Cảnh l�m cho quan qu�n ph� l�n cười, v� khi họ y�u cầu cụ đọc : "Cầu Ch�a Gi�su, xin cho c�c quan trị nước cho y�n c�ng ng�y c�ng thịnh". - Linh mục Phan Văn Minh trong t� đ� giải tội cho bếp Nhẫn, kẻ đ� dẫn lối cho quan qu�n bắt ng�i. Cũng vậy, linh mục Đặng Đ�nh Vi�n, tr�n đường ra ph�p trường, ban ph�p l�nh x� giải cho hai phụ nữ tố gi�c nơi cha tr� ẩn. - �ng L� Văn Phụng tại ph�p trường nhắn nhủ con trai m�nh : "Con ơi, h�y tha thứ, đừng t�m b�o th� kẻ tố gi�c ba nh�". V� dặn d� th�n hữu : "H�y tha thứ c�c bạn ơi. H�y tha thứ, v� ch�nh t�i đ� thứ tha". - Linh mục Phạm Khắc Khoan v� hai th�y Đinh Văn Thanh, Nguyễn Văn Hiếu trước l�c bị xử ch�m đ� giơ tay l�n trời c�ng cẩu nguyện : "Vinh danh ch�c tụng ngợi khen Thi�n Ch�a, Ch�a trời đất, ch�ng con hiến d�ng mạng sống cho Ng�i. Xin Ch�a ch�c ph�c cho nh� vua được cai trị l�u d�i trong an b�nh. Xin biến đổi tr�i tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất đem lại cho con người hạnh ph�c đ�ch thực". Việc chi�m ngưỡng l�ng bao dung thứ tha của c�c vị tử đạo cho ph�p ch�ng ta mường tượng ra khu�n mặt của c�c ng�i: kh�ng một ch�t bất m�n tức tối, kh�ng một ch�t o�n gh�t hận th�, �nh mắt v� nụ cười của c�c ng�i to�t l�n n�t dịu hiền th�ng cảm. Thế nhưng, c�n hơn thế nữa, c�c ng�i tr�n trề h�n hoan ngước nh�n về trời cao v� trong th�m t�m, c�c ng�i tin tưởng rằng : c�i chết tử đạo l� c�i chết vinh quang, sẽ khai mở cho c�c ng�i v�o cuộc sống mới mu�n đời bất diệt. Linh mục Nguyễn Văn Xuy�n trong thời gian bị giam đ� phổ biến cho c�c t�n hữu b�i v� lục b�t sau : "Ai ơi giữ lấy t�i kh�n Với c�c vị tử đạo, c�i chết ch�nh l� cuộc thử th�ch cuối c�ng m� họ sẵn s�ng mong đợi. Th�y H� Trọng Mậu đại diện cho anh em n�i với quan : "Thưa quan, ch�ng t�i mong ước về b�n Ch�a như nai mong t�m thấy suối vậy". �ng �n Khảm vui vẻ n�i với mọi người: "Cha con ch�ng t�i h�m nay v�o Nước Thi�n Đ�ng đ�y". Linh mục Nguyễn Văn Hạnh cũng tươi tỉnh đi ch�o mọi người : "Anh em ở lại, ch�ng t�i đi về Thi�n đ�ng nh�". �ng Gioan Cỏn khi thấy người anh em sụt s�i nước mắt, �ng n�i : "Sao anh lại kh�c, lẽ ra phải mừng cho t�i chứ". Ngo�i ra trong c�c bức thư trao đổi với gia đ�nh v� bạn b�, c�c vị tử đạo kh�ng ch�o vĩnh biệt mọi người m� chỉ ch�o tạm biệt, hẹn ng�y t�i ngộ. Th�y Nguyễn Đ�nh Uyển trả lời thắc mắc kẻ dọa ch�m đầu m� thấy th�y kh�ng sợ rằng : "H�y ch�m đi, đến ng�y ph�n x�t, t�i lại được c�i đầu kh�c". Linh mục Nguyễn Văn Xuy�n diễn tả niềm tin n�y bằng c�u : "Thưa quan, t�i chọn c�i chết để được sống đời đời, hơn l� nghe quan sống th�m �t l�u rồi mu�n đời bị ti�u diệt". Linh mục L� Bảo Tịnh th� n�i : "Th�n x�c t�i đ�y, c�c �ng muốn l�m g� th� l�m, t�i sẵn s�ng kh�ng o�n th�n, n� chết đi, nhưng mai n�y sẽ sống lại vinh quang". Niềm tin sống lại của c�c chứng nh�n ấy được bộc lộ kh� r� n�t, v� ch�nh vua Minh Mạng cũng phải lo lắng bồn chồn trong vụ �n linh mục Gagelin K�nh. Ch�nh vua ra lệnh canh mả vị tử đạo ba ng�y, sợ ng�i sống lại, rồi c�n cho đ�o l�n xem h�i cốt c� c�n đ� chăng, sau mới ch�n lại. H�nh ảnh tuyệt đẹp về niềm tin phục sinh của c�c vị tử đạo l� c�u chuyện linh mục Phạm Khắc Khoan v� hai th�y Nguyễn Văn Hiếu, Đinh Văn Thanh, nhưng trong những ng�y bị giam bị giữ, ba vị chia b� h�t kinh Tạ Ơn TE DEUM bằng tiếng Latinh. Lời kinh Te Deum ấy nối kết c�c vị với Gi�o hội sơ khai, khi cuộc b�ch hại 300 năm chấm dứt. Lời kinh tr�n trề tin tưởng v� ph� th�c trong niềm tri �n Thi�n Ch�a. Lời kinh nối kết c�c vị với cộng đo�n c�c Th�nh tr�n Thi�n quốc : "T�u Thượng Đế, n�y thần d�n xin h�t mừng trước bệ Suy t�n Ch�a, bậc t�ng đồ hợp xướng C�i lạy Ch�a xin ph� hộ bề t�i Rồi ngay tại ph�p trường, ba vị lại tiếp tục cầu nguyện bằng th�nh ca. Như trong đ�m phục sinh, cha Khoan h�t ba lần lời All�luia, mỗi lần với cung giọng cao hơn. Xen kẽ v�o đ�, hai th�y giảng c�ng h�t thay cộng đo�n theo cao độ của vị chủ sự : ALL�LUIA, ALL�LUIA, ALL�LUIA. Như vậy đ�, c�c vị tử đạo đ� diễn tả lại trong đời m�nh cuộc khổ nạn của Đức Kit�, nhưng l� một Đức Kit� phục sinh. 117 hiến tế t�nh y�u cũng l� 117 chứng t� niềm tin của những con người x�c t�n rằng : chết v� đức Kit�, chết đi l� sống lại trong cuộc sống mu�n đời. X Cuối c�ng, b�i học r�t ra từ những c�i chết của c�c vị Tử Đạo l� b�i học của sự sống. C�i chết nguy�n n� chẳng c� gi� trị g� hết, ch�nh sự sống mới l�m n�n mu�n điều huyền diệu. Sự sống đ� ch�nh l� t�nh y�u với con người chung quanh, t�nh y�u với những g� cao thượng v� ch�n thật. T�nh y�u đ� b�ng l�n c�ch m�nh liệt trong mầu nhiệm tự hủy v� hiến d�ng. B�i học của c�c vị tử đạo kh�ng phải l� khơi l�n m�u n�ng t�m đến c�i chết, m� ch�nh l� sống hiến th�n từng gi�y từng ph�t của đời m�nh cho Thi�n Ch�a v� tha nh�n. Sự sống đ� lu�n k�u mời ch�ng ta : mỗi ng�y chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm l�m chứng t� đấu tranh cho Ch�n l�. Sự sống đ� hứa hẹn với ch�ng ta một ng�y sau rạng rỡ, ng�y đo�n tụ với cha anh ch�ng ta tr�n c�i bất diệt. [1] Kh�m định Việt sử Th�ng gi�m Cương mục, XXXIII, 6B [2] Gi�o phận đ�ng trong 86.000; Gi�o phận T�y đ�ng ngo�i 140.000, Gi�o phận Đ�ng đ�ng ngo�i 200.000. Xc B�i Đức Sinh, D�ng Đaminh Tr�n Đất Việt, q.I, tr. 281 [3] B�i Đức Sinh, Đaminh Tr�n Đất Việt, q.I, tr.326 [4] Ch�ng ta c� thể so s�nh với việc truyền gi�o ở Ch�u Mỹ Latinh, d�n địa phương cho đến nay vẫn d�ng tiếng T�y Ban Nha l�m ng�n ngữ ch�nh, trong khi đ� ở Việt Nam, c�c thừa sai soạn chữ quốc ngữ. Điều đ� cũng đo lường lối truyền gi�o của Th�nh Bộ Truyền b� đức tin được th�nh lập năm 1622. Xc. Daniel Rops, Eglise des temps Clasiques, Fayard 1958, pp. 97-100 [5] Ph�p giảng t�m ng�y, Tinh Việt 1961, tr.11-16 [6] Thư chung c�c Đấng Vicario, Kẻ sặt 1903, tr.63-68 [7] Disquitio Promotoris Fidei, Roma 1917, I, tr.17-19 [8] Thư chung c�c Đấng Vicario II, tr.53-54 [9] Gispert, Historia de las Misiones Dominicas en Tunkin, Avila 1928, tr. 428t [10] Louvet, La Cochinchine Religieuse II, tr.204-207 [11] Louvet, Sđd II, tr.267 [12] Ph�p giảng t�m ng�y, tr.17 [13] T�n Định, 1959, tr.4-6 [14] Kỷ yếu hội nghị khoa học lịch sử đạo Thi�n Ch�a, 1988, t. 39-41 [15] Louvet, Sđd II, tr.264-266 [16] Louvet, Sđd II, tr.128 [17]B�i Đức Sinh, Sđd I, tr.258. Sử k� địa phận Trung, Ph� Nhai 1916, tr.74 [18] Rodriguez, Martirologio Oriental III, tr.28 | ||||||||