Năm A

 
 


Ch�a Nhật III Phục Sinh - Năm A

Cv 2,14.22-28 / 1Pr 1,17-21 / Lc 24,13-35

 

An Phong op : Tr�n �ường Emmau

Như Hạ op : Đồng H�nh

Fr. Jude Siciliano, op : Tr�i tim ta bừng ch�y khi h�nh động như Ng�i

Fr. Jude Sicilian�, op : Thi�n Ch�a vẫn lu�n ở gần kề

G. Nguyễn Cao Luật op : Con đường trở về

Giac�b� Phạm Văn Phượng op : Ch�a Kit� Phục Sinh hiện ra

T�ma Trần Ngọc T�y, op : Ch�a Kit� Th�nh Thể v� h�nh tr�nh Emmaus

Giuse Vũ Hải Bằng op : Ch�a vẫn đồng h�nh b�n cạnh đời ta

Ts. Sylvester Nguyễn Ngọc Minh, op : Bản trường ca ngắn ngủi

Đỗ Lực op : Cuộc đời : một ẩn số

Fr. Jude Siciliano, op : Đức Gi�su lu�n đồng h�nh với ch�ng ta

Fr. Jude Siciliano, op: H�y can đảm l�n đường loan b�o TM Phục sinh

 

 
An Phong op

Tr�n �ường Emmau
Lc 24,13-35

Hẳn l� �ức Gi�su đ� l� niềm hy vọng v� b�nh an cho c�c m�n đệ khi c�n tại thế. Nhưng l�c n�y đ�y, tr�n đường Emmau, niềm hy vọng v� b�nh an đ� đ� "tan theo m�y kh�i". Thế l� đ�nh "về vườn" th�i.

Hẳn l� c�c m�n đệ tưởng �ức Gi�su sẽ thục hiện một cuộc giải ph�ng, đ�nh đuổi người La M� ra khỏi đất nước Do Th�i của họ.

�ức Gi�su l� một người giải ph�ng. Nhưng l�c n�y đ�y, tr�n đường Emmau, "mộng v�ng tan m�y", thế l� đ�nh "về vườn" th�i.

Hẳn l� nỗi sợ h�i đ� đ� bẹp c�c �ng, khiến c�c �ng kh�ng nhận ra �ức Gi�su l� bạn đồng h�nh, cho đến khi thầy tr� c�ng "ăn nhậu" với nhau, đồng b�n với nhau.
"Về vườn", chuyện sao dễ d�ng vậy, đơn giản qu�. Tại sao thế?

C� lẽ l� v� niềm hy vọng của họ chỉ mang t�nh c�ch con người, v� b�nh an thực sự chưa c�. Họ nh�n nhận v� đ�nh gi� mọi biến cố xảy ra theo nh�n giới con người; v� đối với họ, thập gi� l� một thất bại bi đ�t.

C� lẽ l� v� họ hy vọng một chức quyền trần thế, một chỗ nhất trong vương quốc �t-ra-en; họ tưởng cuộc giải ph�ng ch�nh trị sẽ l�m cho họ "đổi đời"; v� thế l� c�ng lao kh� nhọc gần 3 năm trời theo thầy Gi�su được trả gi� th�ch đ�ng.

C� lẽ l� v� họ chưa nhận ra "Lời mang lại sức sống" cho m�nh; d� họ đ� nghe nhiều v� thậm ch� đ� đem những lời đ� được nghe loan truyền cho người kh�c.

Từ đ�, một kết luận :

�ức Gi�su l� niềm hy vọng v� b�nh an cho mỗi người, nhưng phải l� niềm hy vọng v� b�nh an mang t�nh c�ch "thần học"; tức l� nh�n nhận v� đ�nh gi� lịch sử theo nh�n giới Thi�n Ch�a.

�ức Gi�su l� người giải ph�ng t�m linh cho mỗi người; Ng�i l�m cho cuộc đời vui tươi, tho�t �ch tội lỗi.

�ức Gi�su l� bạn đồng h�nh trong b�n tiệc Th�nh Thể v� Lời Ch�a; v� b�n tiệc l� nơi quy tụ, chia sẻ v� đồng cảm với nhau trong một niềm tin.

Lạy Ch�a Gi�su,
Xin Th�nh Thể Ch�a
cũng cho ch�ng con được ơn soi s�ng,
như hai m�n đệ tr�n đường Emmau
đ� được "s�ng mắt" để nhận ra Ch�a.

�ể ch�ng con biết mời Ch�a ở lại,
đ�n Ch�a v�o nh�;

�ể ch�ng con nhận ra
Ch�a vẫn đang đồng h�nh tr�n đường đời
v� vận dụng Lời Ng�i m� bảo ban dạy dỗ;

�ể ch�ng con nhận ra đời m�nh
kh�ng phải l� một sự thất bại thảm thương,
nhưng được vui mừng l� sứ giả loan b�o
sức sống Phục sinh của Ch�a.


Như Hạ op

�ỒNG H�NH
Lc 24,13-35

Nếu vắng b�ng Thi�n Ch�a, h�nh tr�nh trần gian c�n � nghĩa g� kh�ng ? Bởi thế, Gi�o Hội kh�ng ngừng đồng h�nh với �ức Gi�su phục sinh trong cuộc h�nh tr�nh h�m nay để phục hồi tất cả những gi� trị đ� mất cho nh�n loại.

GẶP M� KH�NG GẶP.

H�nh tr�nh về Emmau, hai m�n đệ đang xa l�a dần Gi�rusalem như xa l�a niềm tin ban đầu. Niềm tin v�o thầy ch� th�nh đ� tan th�nh m�y kh�i khi �ức Gi�su như giang tay thua cuộc tr�n thập gi�. Niềm hi vọng cũng ch�m v�o nấm mồ hoang lạnh. Bằng chứng, hai �ng đang lầm lũi bước đi với "vẻ mặt buồn rầu." (Lc 24:17) Thất vọng tr�n trề. Niềm tin băng hoại. V� thế, "mắt họ bị ngăn cản, kh�ng nhận ra Người," (Lc 24:16) d� "ch�nh �ức Gi�su tiến đến gần v� c�ng đi với họ." (Lc 24:15) Thế mới hay, �ức Gi�su phục sinh l� đối tượng của đức tin chứ kh�ng phải của gi�c quan.

Thực tế, đức tin c�c m�n đệ Emmaus mới chỉ dừng lại ở một giới hạn n�o th�i. Cao lắm họ cũng mới chỉ tin �ức Gi�su "l� một ng�n sứ đầy uy thế trong việc l�m cũng như lời n�i trước mặt Thi�n Ch�a v� to�n d�n." (Lc 24:19) Niềm hi vọng của họ vẫn chưa vượt khỏi bi�n giới Do th�i : "Phần ch�ng t�i, trước đ�y vẫn hi vọng rằng ch�nh Người l� �ấng sẽ cứu chuộc �traen." (Lc 24:21) Ch�nh v� giới hạn qu� lớn như thế, n�n họ mới kh�ng tin nổi lời chứng phục sinh của c�c m�n đệ kh�c, v� "ch�nh Người th� họ kh�ng thấy," (Lc 24:24) Lời chứng của c�c phụ nữ cũng chỉ dựa tr�n lời "thi�n thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống." (Lc 24:23) Cũng như �ng T�ma, c�c �ng kh�ng thể tin nổi �ức Gi�su phục sinh cho tới khi gi�p mặt.

�ể ph� tung giới hạn v� n�ng cao niềm tin c�c m�n đệ, �ức Gi�su đ� "bắt đầu từ �ng M�s� v� tất cả c�c ng�n sứ, Người giải th�ch cho hai �ng những g� li�n quan đến Người trong tất cả S�ch Th�nh," (Lc 24:27) để chứng minh rằng "�ấng Kit� phải chịu khổ h�nh, rồi mới v�o trong vinh quang của Người." (Lc 24:26) �ức Gi�su đ� ki�n nhẫn đưa c�c m�n đệ lần ra sợi chỉ xuy�n suốt to�n bộ Kinh th�nh. Sợi chỉ xuy�n suốt đ� ch�nh l� �ức Gi�su phục sinh. Người ch�nh l� trung t�m qui tụ mọi tầm nh�n của M�s� v� c�c ng�n sứ. Kh�ng c� Người, Kinh th�nh mất hẳn � nghĩa. N�i kh�c, Người l� ngọn lửa soi s�ng cho ta thấy tất cả những n�t đậm nhạt trong Th�nh kinh. Ngọn lửa ấy cũng khơi b�ng l�n cả một đ�m ch�y lớn trong con tim nh�n loại. Ch�nh v� thế, c�c m�n đệ mới th� nhận : "Dọc đường, khi Người n�i chuyện v� giải th�ch Kinh th�nh cho ch�ng ta, l�ng ch�ng ta đ� chẳng bừng ch�y l�n sao ?" (Lc 24:32)

Dầu sao c�c m�n đệ mới cảm nhận trong con tim chứ chưa nhận ra Người đang hiện diện ngo�i thực tế. Nhưng "khi đồng b�n với họ, Người cầm lấy b�nh, d�ng lời ch�c tụng, v� bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra v� họ nhận ra Người." (Lc 24:31) Niềm tin l�n tới cao điểm, sau khi đ� trải qua đ�m đen thất vọng. Từ cao điểm l�ng tin, c�c �ng mới thấy tất cả mạc khải sung m�n chỉ t�m được trong những cử chỉ th�n thương trong bữa tiệc ly. �ức Gi�su đ� lặp lại những gi�y ph�t lịch sử đ� như một nghĩa cử đ�p lại l�ng hiếu kh�ch của c�c m�n đệ. Bữa ăn th�n �i đ� đ� mạc khải cho c�c m�n đệ dung nhan đ�ch thực của Thầy Ch� Th�nh. Kh�ng c� cuộc chia sẻ th�n t�nh đ�, chắc chắn mắt đức tin c�c �ng đ� kh�ng mở ra. �� ch�nh l� bữa ăn c�nh chung gi�p c�c m�n đệ nhận ra thời điểm Nước Ch�a đ� đến. Ch�nh �ức Gi�su đ� b�o trước thời điểm đ� trong đ�m Vượt Qua (Lc 22:16, 18).

Kh�ng c�n niềm vui n�o lớn hơn. Con tim tr�o l�n niềm hi vọng. "Ngay l�c ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Gi�rusalem, gặp Nh�m Mười Một v� c�c bạn hữu đang tụ họp tại đ�." (Lc 24:33) Niềm tin đ� quay trở lại với c�c m�n đệ. Cuộc gặp gỡ h�m đ� l� cuộc gặp gỡ của niềm tin v� niềm hi vọng b�ng vỡ. Họ sung sướng n�i cho nhau về biến cố �ức Gi�su phục sinh : "Ch�a trỗi dậy rồi, v� đ� hiện ra với �ng Sim�n." (Lc 24:35) Chứng từ n�y kh�c hẳn với chứng từ c�c phụ nữ v� c�c m�n đệ họ đ� từng nghe trước đ�y. "C�n hai �ng th� thuật lại những g� đ� xảy ra dọc đường v� việc m�nh đ� nhận ra Ch�a thế n�o khi Người bẻ b�nh." (Lc 24:35) Chứng từ phục sinh v� c�ng sống động v� cụ thể. Phục sinh đ� trở th�nh sự kiện cảm nghiệm thiết th�n của từng c� nh�n, chứ kh�ng phải kết quả của dư luận th�u dệt.

Th�nh Ph�r� cũng mạnh mẽ l�m chứng sự kiện đ� : "Ch�nh �ức Gi�su đ�, Thi�n Ch�a đ� l�m cho sống lại ; về điều n�y, tất cả ch�ng t�i xin l�m chứng." (Cv 2:32) Ch�nh Th�nh Linh đ� n�ng �ức Gi�su dậy. Ch�nh "nhờ Người, anh em tin v�o Thi�n Ch�a, �ấng đ� cho Người trỗi dậy từ c�i chết, v� ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin v� hi vọng v�o Thi�n Ch�a." (1 Pr 1:21) N�i kh�c, nếu �ức Gi�su kh�ng phục sinh, nh�n loại kh�ng thể t�m được niềm hi vọng n�o nơi Thi�n Ch�a nữa !

NIỀM HI VỌNG H�M NAY

Chỉ một m�nh �ức Gi�su phục sinh mới c� thể đem lại niềm hi vọng cho nh�n loại h�m nay. Người l� động lực th�c đẩy Gi�o Hội kh�ng ngừng tranh đấu cho sự sống v� đồng h�nh với nh�n loại trong nỗ lực bảo vệ sự sống. Nh�n dịp lễ kỷ niệm ng�y �ức Phật nhập Niết B�n v�o ng�y 9/4 tại c�c quốc gia theo ph�i �ại Thừa v�o 19/5 tại c�c quốc gia theo ph�i Tiểu thừa, �HY Francis Arinze, chủ tịch Hội đồng Gi�o ho�ng về đối thoại li�n t�n, đ� gởi một th�ng điệp đề nghị c�ng hợp t�c bảo vệ sự sống con người chống lại v� số phương c�ch văn h�a sự chết đe dọa nh�n loại. �HY mời gọi c�c Phật tử nhập cuộc với c�c người C�ng gi�o tranh đấu chống lại "một nền văn h�a sự chết đầy dẫy những cảnh ph� thai, an tử, v� những th� nghiệm về di truyền tr�n con người đ� hay sắp được ph�p l� c�ng nhận." (CWNews 9/4/02) "Quyền sống đang bị kỹ thuật t�n tiến vượt bực ng�y nay đe dọa." Tất cả đều ph�t xuất từ "sự khinh thường sự sống con người." (�HY Francis Arinze : Zenit 9/4/02)

�HY nhấn mạnh Kit� hữu v� Phật tử cần phải hợp t�c để cổ động một nền văn h�a t�n trọng sự sống. L� do v� "ch�ng ta đều tin tưởng rằng t�n trọng sự sống con người phải bắt đầu từ trong t�m hồn con người, trước khi trở th�nh thực tế ngo�i x� hội." (�HY Francis Arinze : CWNews 9/4/02) Ng�i k�u gọi dồn nỗ lực gi�o dục giới trẻ về ch�n gi� trị của sự sống con người (CWNews 9/4/02) "để họ x�c t�n mạnh mẽ về một nền lu�n l� v� văn h�a sự sống. Gi�o dục giới trẻ phải l� vấn đề ưu ti�n." (�HY Francis Arinze : Zenit 9/4/02)

Gi�o Hội sẵn s�ng cộng t�c với c�c t�n gi�o bạn để hướng dẫn giới trẻ bước v�o nền văn minh t�nh thương v� văn h�a sự sống. Như Thầy ch� th�nh, Gi�o Hội phải đồng h�nh với nh�n loại mới c� thể ho�n th�nh sứ mạng cứu độ. Nh�n loại h�m nay chỉ c� thể t�m lại được niềm hi vọng trong �ức Gi�su phục sinh m� th�i. Thật vậy, Gi�o Hội x�c t�n "nhờ mầu nhi�m Vượt Qua, Ch�a đ� phục hồi phẩm gi� nguy�n thủy của nh�n loại." (C�c Giờ Kinh Phụng vụ 1999 : 511)

Tất cả sứ mạng Gi�o Hội đều nhằm phục hồi phẩm gi� nh�n loại. Nhưng Gi�o Hội kh�ng thể ho�n th�nh sứ mạng đ�, nếu kh�ng đồng h�nh với �ức Gi�su phục sinh. Gi�o Hội c� thể giải th�ch cho nh�n loại "những g� li�n quan đến Người trong tất cả S�ch Th�nh." (Lc 24:27) Nhưng chỉ khi n�o Gi�o Hội mời con người v�o đồng b�n với Người, họ mới c� thể "nhận ra Ch�a khi Người bẻ b�nh." (Lc 24:35)


Fr. Jude Sicilian�, op

Tr�i tim ta bừng ch�y khi h�nh động như Ng�i
(Lc 24,13-35)

Thưa qu� vị.

Gi�o hội phải trường kỳ đấu tranh với c�c thế lực tối tăm để sống c�n. C�c thế lực đến từ ph�a trong v� ph�a ngo�i Gi�o hội lu�n t�m mọi cơ hội để ti�u diệt niềm tin của c�c t�n hữu. Trong giai đoạn hiện tại ng�y nay c� lẽ thế lực đen tối nhất l� th�i độ coi Hội th�nh như một cơ cấu ng�y thơ, lỗi thời, cổ hủ, chậm tiến, sơ cứng, kh�ng theo kịp tr�o lưu văn minh của con người hiện đại. Th�m v�o đ� l� những gương xấu của h�ng gi�o sĩ. Những gương xấu n�y về l�u về d�i l�m x�i m�n l�ng đạo đức của những t�m hồn v� tội v� những gia đ�nh ngay thật. Thời th�nh Luca cũng c� những thế lực như vậy, nhưng dưới h�nh thức kh�c. Cộng đo�n của ng�i cũng đ� phải vật lộn với c�c phần tử cực đoan. �a phần họ l� những t�n hữu gốc Do th�i, đ�i hỏi phải tu�n theo c�c luật lệ nghi�m ngặt của giao ước cũ. L� luận của họ như sau : Hội Th�nh l� d�n tộc Israel mới, nhiệt th�nh, do đ� mọi lề th�i cũ phải được t�n trọng bất luận l� ai, kể cả những t�n hữu gốc d�n ngoại, nếu muốn được coi l� trung thật với Thi�n Ch�a, �ấng đ� trao lề luật cho Moisen, để d�n được cứu độ. D�n tộc canh t�n l� ở chỗ trung th�nh tuyệt đối với lề luật của cha �ng. Cuộc tranh luận n�y g�y ra chia rẽ trầm trọng trong Gi�o hội c�n qu� non trẻ.

Th�i độ th� nghịch từ ph�a ngo�i Gi�o hội, như th�nh Luca viết ở Antiokia, l� d�n xứ Syria. T�n gi�o của họ l� đa thần. Kh�ng c� � niệm g� về ơn cứu chuộc, sống lại v� sự sống đời sau. Do đ�, họ coi niềm tin của Kit� gi�o l� huyền hoặc. Lại c�n những l�nh đạo t�n gi�o Do th�i cực lực chống lại Ch�a Gi�su như ứng nghiệm Thi�n sai của c�c lời hứa ti�n tri. Như thế r� r�ng c� nhiều � kiến tr�i ngược nhau trong Gi�o hội mới được th�nh lập. Thực ra đa phần c�c t�n hữu coi m�nh l� một gi�o ph�i cải c�ch trong gi�o hội chung của d�n tộc Do th�i, chứ kh�ng phải l� một t�n gi�o ho�n to�n t�ch biệt khỏi Do th�i gi�o. Họ vẫn l�n đền thờ cầu nguyện theo th�i tục chung (Cv 2,46), tu�n giữ c�c lề luật Do th�i gi�o. M�i sau n�y, sự tho�t ly dứt kho�t mới xảy ra (Cv 15,23). C�i gi�o hội non trẻ n�y (nếu ta được ph�p gọi như thế) cảm thấy mỏng manh biết bao khi phải đối mặt với những �p lực nội, ngoại lu�n g�y căng thẳng để ti�u diệt n� ? Chắc hẳn th�nh Luca đ� c� những tư tưởng như vậy khi ng�i viết Ph�c �m thứ 3. Trong tr�nh thuật Ch�a Nhật h�m nay, th�nh nh�n đ� v� t�nh b�y tỏ cảm tưởng của m�nh qua hai m�n đệ đi th�nh Emmaus v� ng�y nay cũng l� lời cầu khẩn của Hội th�nh : �Xin Ng�i ở lại với ch�ng t�i, v� trời đ� xế chiều, v� ng�y sắp t�n� (Lc 24,29). Dịch s�t nguy�n bản th� : �Trời đ� xẩm tối�. C�u sau n�y gọi � một điều chi tối tăm hơn l� thời khắc của một ng�y. V� th�nh Luca muốn b�y tỏ những nỗi kh� khăn của cộng đo�n ng�i v� của từng c� nh�n, van xin Ch�a Gi�su trợ gi�p tr�n con đường lữ h�nh trần gian ! N�i một c�ch tổng qu�t, mỗi khi gặp gian nan thử th�ch, t�nh cảnh trở n�n buồn thảm, Tin Mừng phục sinh vẫn chỉ l� lời đồn đại, th� th�nh Luca d�ng c�u n�i đ� để kh�ch lệ ch�ng ta đi gặp Ch�a sống lại trong lời Ng�i v� c�c b� t�ch.

N�n để � đến kiểu c�ch th�nh Luca thuật truyện. C�i chi đ� ngăn cản hai m�n đệ nhận ra Ch�a Gi�su ? Bản văn xem ra muốn n�i đến một ngoại lực kh�ch quan : �Mắt họ bị che phủ kh�ng nhận ra Ng�i�. Ngoại lực thực sự đ�i khi đ� l�m cho ch�ng ta kh�ng nh�n thấy Ch�a sống lại. ��y cũng l� một lối n�i kh�c của Kinh th�nh, chỉ rằng họ thiếu đức tin. Họ kh�ng nhận ra Ng�i v� họ m� về đ�ng thi�ng li�ng, chẳng nh�n ra những sự việc Kinh th�nh đ� từng đề cập tới. Ch�ng ta cũng vậy. Khi Thi�n Ch�a cất người th�n về, khi phải thay đổi mục ti�u đ� định, khi tuổi gi� ập tới, khi sự chết đ� gần, ch�ng ta cũng cảm thấy như bị bỏ rơi, c� đơn tr�n đường đời, Ch�a sống lại chỉ l� tin đồn mơ hồ, l� truyện ma qu�i do nhu cầu tưởng tượng vẽ ra chứ chẳng phải l� một nh�n vật thực sự s�nh bước với ch�ng ta tr�n dương gian đầy khổ ải ! L�c ấy ch�ng ta cần đọc lại c�u chuyện của Luca !

Một vấn đề kh�c của tr�nh thuật Tin Mừng h�m nay. �� l� n� c� những d�ng mở đầu gần như c�ng thức : C�c m�n đồ bất chợt nhận ra Ch�a sống lại. Họ rất đỗi ngạc nhi�n ! Ch�ng ta chẳng thể đổ lỗi cho họ. Ch�a phục sinh c� những t�nh c�ch rất kh�c đời thường trong c�c c�u chuyện sống lại. Maria Macđala đ�u c� tức khắc nhận ra Ch�a ? B� chỉ nhận ra b�c l�m vườn ! C�c m�n đệ chỉ nhận ra Ch�a sau mẻ lước lạ l�ng c�n trước đ� chỉ l� người đ�n �ng đứng tr�n bờ (Ga 21,4). C�c m�n đệ đi l�ng Emmaus cũng vậy. Th�m v�o đ�, những chi tiết của truyện sống lại cũng tỏ ra lộn xộn : Ở ng�i mộ trống l� người l�m vườn hay hai Thi�n thần ? Ch�a Gi�su hiện ra với c�c T�ng đồ ở đ�u ? Galil�a hay Gi�rusalem ? C� t�c giả dựa v�o những chi tiết n�y m� n�i rằng, c�u chuyện phục sinh kh�ng c� thật, n� chỉ l� những hư cấu. Nhưng c�c chứng nh�n ti�n khởi chẳng phải l� những kẻ c�m, kh�ng biết n�i l�n sự thật. Họ cũng dễ d�ng kh�m ph� ra c�c chi tiết kh�c biệt như ch�ng ta. Kh�ng phải ch�ng ta tỉnh t�o hơn họ. C�c nh� ch� giải Th�nh kinh c� � kiến rằng những tr�nh thuật sống lại được truyền miệng từ thế hệ n�y sang thế hệ kh�c trước khi được viết tr�n giấy tờ, do đ� tam sao thất bản l� chuyện thường t�nh. �iều n�y c� thể chấp nhận được. C�c cộng đo�n t�n hữu đầu ti�n quan t�m kh�ng phải chi tiết, m� l� kinh nghiệm sống về Ch�a phục sinh. Cho n�n chi tiết c� thể kh�c nhau. Giống nhau y hệt lại c� t�nh giả tạo, bởi kh�ng phải l� kinh nghiệm của nhiều người đ� được chứng kiến, m� chỉ một người. Người đ� c� thể bịa đặt. �iều m� Gi�o hội ti�n khởi cần nhớ v� cần c�, để nu�i dưỡng l�ng tin của m�nh l� t�nh thuyết phục của những chứng nh�n ch�n chất, đ� từng xem thấy, nghe thấy, n�i với v� chia sẻ c�c bữa ăn với Ch�a phục sinh. Những c�u chuyện của họ được ghi lại cho lợi �ch ch�ng ta, như tuần trước th�nh Gioan đ� viết : �C�n những điều đ� được ch�p ở đ�y l� để anh em tin rằng �ức Gi�su l� �ấng Kit�, Con Thi�n Ch�a, v� để anh em tin m� được sống nhờ Danh Người� (Ga 20,13).

Sau cuộc tử nạn đẫm m�u của l�nh tụ Gi�su, hai m�n đệ thất vọng rời Gi�rusalem để trở về Emmaus, chắc chắn họ đ� nghe tin về ng�i một trống do mấy phụ nữ v� Ph�r� kể lại. Nhưng � kiến chung th� cho đ� l� chuyện vớ vẩn, chưa đủ bằng chứng để tin (Lc 24,11). Tr�n đường họ gặp một kh�c lạ, c� lẽ cũng l� kh�ch h�nh hương lễ Vượt qua trở về. Họ chẳng thể nhận ra Ch�a Gi�su. Ng�i đ� ho�n to�n thay đổi diện mạo. C�c tr�nh thuật phục sinh kh�c cũng c� hiện tượng tương tự. Những ai đ� từng quen biết Ng�i trước kia b�y giờ chẳng thể nhận ra Ng�i theo lối cũ được nữa. Con mắt trần x�c thịt, con mắt hợp logic lo�i người b�y giờ bị che phủ. Phải nh�n bằng con mắt kh�c, bởi Ng�i đ� thay đổi. Ng�i l� vị thần linh mầu nhiệm trỗi dậy từ c�i chết. Kh�ng phải bất cứ ai cũng c� thể nh�n ra, m� chỉ những người được ơn ri�ng, được thần kh� Ng�i soi s�ng v� cho ph�p. Ng�i l�m chuyện n�y qua việc mở tr� cho hai m�n đệ hiểu Kinh th�nh v� bữa ăn Th�nh Thể.

�� phải l� kinh nghiệm của ch�ng ta, c�c t�n hữu sống sau biến cố Phục sinh đ� hơn 2000 năm. Ch�ng ta phải học hỏi Th�nh kinh v� tham dự c�c b� t�ch để c� thể nhận ra Ng�i trong cuộc sống đời thường. Chẳng cần n�i qu� vị n�o c� kinh nghiệm phục vụ lời Ch�a đều nhận thấy như vậy. Ở trong c�c gi�o xứ, những nh�m học hỏi Th�nh kinh nghi�m chỉnh đều đ� vượt qua được c�c tối tăm, thử th�ch v� nh�n thấy Ch�a sống lại qua những nỗ lực học hỏi v� cầu nguyện của m�nh. Nhiều người kh�c c� lẽ c�n phải m� mẫm t�m ra con đường phải đi để gặp được Ch�a phục sinh. Ước vọng của họ sẽ được Ch�a thương đ�p ứng. �ể rồi tất cả đều c� thể tự nhủ m�nh : �Dọc đường, khi người n�i chuyện v� giải th�ch Kinh th�nh cho ch�ng ta, l�ng ch�ng ta đ� chẳng bừng ch�y l�n sao ?�.

Gi�y ph�t mở mắt l� ph�t gi�y bẻ b�nh đối với hai m�n đệ đi l�ng Emmaus. Th�nh Luca đ� m� tả h�nh động n�y của Ch�a Gi�su tương tự như khi Ng�i nh�n b�nh l�n nhiều (9,16) hoặc trong bữa Tiệc ly (22,19). Ng�i cầm lấy b�nh, d�ng lời ch�c tụng, bẻ ra, trao cho hai �ng. C�c �ng nhận ra cử chỉ quen thuộc, nhờ đ� nhận ra Ng�i. Tinh thần của mỗi người ở trong phong th�i của họ. Tinh thần của Ch�a Gi�su ở trong cử chỉ bẻ b�nh của Ng�i. Ng�i chia sẻ với họ tấm b�nh, tức cuộc đời của Ng�i, th�n x�c Ng�i như Ng�i đ� tuy�n bố trong bữa tiệc ly. Mỗi khi ch�ng ta chia sẻ với ai của cải, t�nh cảm l� ch�ng ta đi v�o bữa Agap� của t�nh y�u, l�ng b�c �i v� nhờ đ�, ch�ng ta nhận ra Ch�a hiện diện. Cha mẹ chia sẻ cuộc sống với con c�i, vợ chồng chia sẻ t�nh y�u với nhau, h�ng x�m l�ng giềng chia sẻ t�nh nh�n �i, gi�u c� chia sẻ của cải với kẻ ngh�o kh�, người c�ng d�n chia sẻ tự do với hạng t� đ�y� đều c� thể nhận ra Ch�a phục sinh hiện diện. Tr�i tim mọi người đều bừng ch�y khi h�nh động như Ng�i, v� cảm nghiệm được những đau khổ của Ng�i ở Gi�rusalem � nghĩa ra sao ! Ch�a đ� d�ng Th�nh kinh để mở mắt cho hai m�n đệ đi l�ng Emmaus. Ng�i cũng d�ng Kinh th�nh để mở linh hồn ch�ng ta h�m nay đ�n nhận ơn phục sinh. Amen. Alleluia.


Fr. Jude Sicilian�, OP.

Thi�n Ch�a vẫn lu�n ở gần kề
(Lc 24, 13-35)

Thưa qu� vị,

B�i đọc 1 h�m nay tiếp theo biến cố Ch�a Th�nh Linh ngự xuống tr�n c�c t�ng đồ trong ng�y lễ Ngũ tuần. Th�nh Ph�r� c�ng khai rao giảng cho người Do th�i về Ch�a Gi�su Phục sinh. Xin nhớ bản chất �ng nh�t nh�t, đ� chối Thầy ba lần ở s�n nh� Thượng tế Caipha v� biến mất khi t�nh thế xấu đi. Nhưng l�c n�y Th�nh Linh đ� ban cho �ng can đảm v� miệng lưỡi. �ng l� con người ho�n to�n đổi mới, chứng tỏ Ch�a thực sự phục sinh v� ban Thần kh� Ng�i cho c�c t�ng đồ. Một cuộc biến đổi ngoạn mục. Hầu hết d�n th�nh Gi�rusalem v� c�c kh�ch h�nh hương đều ngạc nhi�n (2, 5). Bỗng dưng Ph�r� trở th�nh con người kh�n ngoan, th�ng th�i. �ng biết phải bắt đầu b�i giảng ra sao v� tr�nh b�y nội dung như thế n�o cho c� thứ tự, x�c thực v� đầy t�nh thuyết phục : �Thưa anh em miền Giuđea v� tất cả những người cư ngụ tại Gi�rusalem, xin biết cho điều n�y, v� lắng nghe những lời m� t�i n�i đ�y.� Th�nh Ph�r� đ� lợi dụng bổn phận t�n gi�o căn bản của d�n tộc Do th�i : �Lắng nghe v� học biết Lời Thi�n Ch�a.�Rồi đem ra thực h�nh, đ�ng như c�c s�ch Lề luật chỉ định.

Th� dụ, �ng M�s� khi truyền lệnh 10 giới răn cho d�n Do th�i đ� h� lớn : �Hỡi Israel, h�y lắng nghe những th�nh chỉ v� quyết định m� h�m nay t�i n�i cho anh em nghe ; anh em phải học cho biết những điều ấy, v� lo đem ra thực h�nh.� (Đnl 5, 1) Tới đoạn �ng ch�nh thức ban giới răn, �ng lại n�i : �Nghe đ�y, hỡi Israel ! Đức Ch�a l� Thi�n Ch�a ch�ng ta, l� Đức Ch�a duy nhất. H�y y�u mến Đức Ch�a, Thi�n Ch�a của anh em, hết l�ng, hết dạ, hết sức anh em.� (Đnl 6, 4) R� r�ng nhiệm vụ đầu ti�n của d�n tộc Do th�i đối với Thi�n Ch�a l� lắng nghe Ng�i ph�n bảo v� thi h�nh � định của Ng�i. Nhiệm vụ n�y b�y giờ chuyển sang Hội th�nh. Ch�ng ta phải lo lắng t�m kiếm tiếng Ch�a v� to�n t�m to�n � lắng nghe những điều Ng�i truyền đạt cho mỗi linh hồn. Thi�n Ch�a l� Đấng lu�n lu�n đề xuất s�ng kiến v� th�ng b�o cho những t�i tớ Ng�i tuuyển chọn. Bỏ qua tiếng gọi của Ng�i l� tội thiếu x�t nghi�m trọng. Nhưng thường khi gi�o d�n lại coi nhẹ việc n�y. Ch�a phục sinh c� nhiều điều phải truyền đạt cho ch�ng ta ng�y nay để cải tạo con người v� x� hội. Cho n�n lắng nghe lời Ng�i v�o m�a n�y l� nghĩa vụ h�ng đầu của mỗi t�n hữu.

Nh�n v�o lịch sử d�n tộc Do th�i, ch�ng ta thấy r� tầm quan trọng của nhiệm vụ đ�. Thi�n Ch�a thấu hiểu ho�n cảnh trầm lu�n khốn khổ của d�n Do th�i trong kiếp n� lệ Ai cập v� Ng�i đ� chọn M�s� để n�i với �ng, chỉ thị cho �ng dẫn dắt d�n ra khỏi kiếp sống lầm than. Qua M�s�, Ng�i li�n tục n�i với họ, l�nh đạo họ suốt h�nh tr�nh vượt sa mạc, th� h�m nay th�nh Ph�r� nhắc đến vua David v� gọi �ng l� ng�n sứ, truyền đạt � định của Đức Ch�a v� như vậy nhiệm vụ lắng nghe lời Ch�a lại một lần nữa được khẳng định v� trở th�nh mệnh lệnh đối với d�n ch�ng Do th�i. Ph�r� cho họ biết, trước khi l� kẻ thi h�nh � Ch�a, họ phải lắng nghe lời Ng�i. Họ lắng nghe David n�i về Đức Kit� : �Nhưng v� l� ng�n sứ v� biết rằng Thi�n Ch�a đ� thề với Ng�i l� sẽ đặt một người trong d�ng d�i l�n ngai v�ng của người. N�n người đ� thấy trước v� loan b�o sự phục sinh của Đức Kit�...� Ch�ng ta cũng vậy, phải biết lắng nghe Tin Mừng về Đấng Cứu Thế, c�c c�ng việc vĩ đại Thi�n Ch�a đ� thực hiện v� ch�ng ta nơi Đức Gi�su Ki-t� v� đ�p trả bằng việc thay đổi nếp sống của m�nh. Do đ� tr�n thực tế, th�nh Ph�r� k�u gọi d�n th�nh Gi�rusalem trờ về với truyền thống tốt đẹp nhất của cha �ng : Lắng nghe sứ điệp của Thi�n Ch�a n�i qua c�c ng�n sứ v� tin v�o Đức Ki-t� phục sinh. Ph�r� kh�ng l�m g� kh�c hơn l� nhắc lại những điều Kinh Th�nh cựu ước chỉ dạy.

Mở đầu như thế rồi, th�nh Ph�r� đi v�o nội dung của b�i giảng. Ch�ng ta sẽ lắng nghe điều g� từ th�nh nh�n ? D�n th�nh Gi�rusalem phải đ�n nhận lời n�o ? Tin Mừng Đức Ki-t� đ� trỗi dậy từ c�i chết. Đức Ki-t� m� c�c đầu mục đền thờ đang t�m đ�ng đinh v�o thập tự mấy ng�y trước đ�y. Ng�i đ� thực hiện nhiều điều kỳ diệu trước mắt d�n ch�ng. To�n d�n đều biết v� đặt hy vọng v�o Ng�i. Thế m� v� l�ng ghen tương, c�c thượng tế v� biệt ph�i, kỳ l�o đ� trao Ng�i v�o tay qu�n v� lại R�ma m� giết đi. Tuy nhi�n sự kiện đ� kh�ng phải l� tận c�ng. Lịch sử Israel kh�ng phải đ� chấm dứt với vị ng�n sứ đầy quyền năng n�y. Ng�i đ� chết giống như nhiều vị ti�n tri xưa kia đ� bị giết d� man. Nhưng (một chữ �nhưng� quan trọng) Thi�n Ch�a đ� can thiệp để Ng�i trỗi dậy, ban ơn cứu độ cho tất cả những ai tin cậy v�o Ng�i. Sự kiện n�y tất cả ch�ng t�i xin l�m chứng. D� rằng c�c thượng tế, luật sĩ, kỳ l�o, kẻ th� của Ch�a Gi�su xem ra thắng thế. C�i chết tr�n thập tự ghi dấu sự thất bại chua cay của Ng�i. Nhưng Thi�n Ch�a đ� n�ng Ng�i dậy, ban cho Ng�i quyền năng tr�n trời dưới đất. Như vậy mục ti�u của Thi�n Ch�a đ� đạt tới. Th�nh Ph�r� củng cố quan điểm của m�nh bằng c�ch tr�ch đọc th�nh vịnh 16 : �V� Ch�a chẳng đ�nh bỏ mặc linh hồn con trong c�i �m ty. Cũng kh�ng để vị th�nh của Ng�i phải hư n�t. Ch�a sẽ dạy con biết đường về c�i sống, v� cho con được vui sướng tr�n trề, khi ở trước th�nh nhan�. Lời cầu nguyện của vua David hy vọng Thi�n Ch�a kh�ng bỏ rơi t�i tớ Ng�i sau c�i chết. Hy vọng n�y được thực hiện nơi Ch�a Gi�su. Th�nh Ph�r� sử dụng n� để tuy�n bố Đức Gi�su phục sinh sẽ cứu vớt nh�n loại khỏi c�i chết đời đời. Thi�n Ch�a trung t�n với lời hứa giải tho�t Israel khỏi kiếp n� lệ Ai cập, th� cũng kh�ng chai đ� trước những nhu cầu của ch�ng ta. D� rằng hiện thời xem ra thần chết thắng thế tr�n nh�n loại. N� reo rắc kinh ho�ng khắp nơi. Hằng ng�y hằng giờ ch�ng ta mất đi người th�n y�u v� cũng cảm nghiệm c�i chết ri�ng đang dần d� tới gần. Chẳng ai tho�t khỏi tay tử thần, d� cố gắng biết mấy đi nữa th� vẫn thất bại. L�c nhắm mắt xu�i tay, mọi toan t�nh, chương tr�nh, hy vọng đều tan biến. Những cố gắng tranh đấu cho b�nh đẳng, c�ng bằng x� hội, ho� b�nh l�u d�i, chấm dứt ngh�o đ�i, chiến tranh, �p bức đều tan th�nh m�y kh�i. Đ�ng l� tử thần đang thắng thế trong những cuộc vật lộn với ch�ng ta. H�nh như hai m�n đệ đi l�ng Emmau trong Ph�c �m h�m nay cũng ở trong t�m trạng n�y. Họ đ� hy vọng nhiều v�o thầy Gi�su. Nhưng c�i chết tất tưởi tr�n thập tự đ� l�m ti�u tan mọi sự. Họ rời bỏ Gi�rusalem với l�ng nặng chĩu. Họ thổ lộ t�m can cho một kh�ch lạ đồng h�nh : �Phần ch�ng t�i, trước đ�y vẫn hy vọng rằng ch�nh Người l� Đấng cứu chuộc Israel.�

Liệu c� ai trong ch�ng ta kh�ng từng cảm nghiệm như vậy trong cuộc đời ? Liệu ch�ng ta kh�ng từng đặt c�u hỏi về những thất bại của m�nh ? Hai vợ chồng cao ni�n dự t�nh x�y một căn nh� về hưu, bỗng nhi�n b� vợ mất. B�y giờ c� đơn qu�, biết t�nh to�n sao đ�y ? Đứa con y�u qu� vừa cai nghiện s� ke, cả nh� mừng rỡ, bao nhi�u dự định cho tương lai. Bỗng nhi�n được tin n� lại h�t ! Ch�ng ta hy vọng mang ho� b�nh d�n chủ cho Iraq. Nhưng b�y giờ xem ra kh�ng thực hiện nổi, mặc d� đ� tốn nhiều tỷ đ�la. Ch�ng ta hy vọng triển khai tốt đẹp dự �n trẻ em đường phố, bảo đảm cho ch�ng những tương lai rực rỡ. Nhưng ch�nh phủ đột nhi�n cắt đứt t�i ch�nh, chẳng c�n biết cậy nhờ v�o đ�u ? Ch�ng ta d�ng từ �nhưng� cho những ho�n cảnh tương tự, những thất bại nửa chừng : �Nhưng ch�ng t�i trước đ�y vẫn hy vọng Người sẽ cứu chuộc Israel�.

Tuy nhi�n ch�ng ta thấy ở b�i đọc 1, lời th�nh Ph�r� n�i với d�n th�nh Gi�rusalem, Thi�n Ch�a vẫn c� điều g�y ngạc nhi�n cho niềm thất vọng của ch�ng ta : �Ng�i đ� n�ng Đức Kit� trỗi dậy từ c�i chết, giải tho�t Người khỏi tay tử thần.� Nhi�n hậu tất cả nh�n loại đều được hưởng �n huệ đ�. Thi�n Ch�a trao ban sự sống v�o những nơi xem ra l� l�nh địa của tử thần, ban hy vọng cho ch�nh l�c thất vọng nhất. Cho n�n hai m�n đệ đi l�ng Emmau, một t�n l� Cl�ophas, c�n người kia l� mỗi t�n hữu. Ch�ng ta cũng rời bỏ Gi�rusalem trong t�m trạng đau buồn v� thất bại hằng ng�y. Ch�a Gi�su cũng hiện ra đồng h�nh với ch�ng ta. Ng�i tỏ lộ t�nh hạnh tốt đẹp nhất của người Do th�i ngoan đạo. Đ� l� lắng nghe, mặc d� Ng�i thấu r� mọi sự. Hai m�n đệ kh�ng nhận ra Ng�i, tr�ch Ng�i chẳng hiểu những biến cố vừa xẩy ra tại th�nh th�nh trong mấy ng�y vừa qua. Ch�ng ta cũng l�m Ch�a phiền l�ng v� những đổ vỡ của m�nh. Ch�a ki�n nhẫn chờ đợi cho c�u chuyện ngu�i đi. Đau khổ n�o chẳng cần thời gian để chữa l�nh ? Ch�a phục sinh kh�ng hề xa ch�ng ta mặc d� Ng�i ẩn dấu. Trước mặt Ng�i kh�ng c� thời gian v� kh�ng gian. Hai mươi thế kỷ đối với Ng�i vẫn l� hiện tại. Ng�n dặm để tới xứ Palestin kh�ng hề xa xăm. Ch�ng ta vẫn đồng h�nh với Đức Gi�su, người kh�ch lạ.

Thất vọng hằng ng�y của ch�ng ta Ng�i vẫn thấu hiểu. Nhưng đức tin v� l�ng mến của ch�ng ta cần thời gian để trưởng th�nh. Ch�ng ta cần tẩy n�o tư tưởng hiếu thắng, mong đợi chiến c�ng vang dội m� Ch�a chẳng hề muốn. Ng�i để m�nh tự thất bại tr�n thập tự. Giống như vậy, Hội th�nh v� mỗi t�n hữu cần học hỏi b�i học của Ng�i : Khi�m nhường, b�c �i, thất bại, chịu đ�ng đinh, chịu ch� cười, chịu thử th�ch để biến đổi thế giới v� c�c t�m hồn. Xin lu�n nhớ Thi�n Ch�a ho� giải với nh�n loại qua c�c nạn nh�n, v� nạn nh�n vĩ đại nhất l� Đức Ki-t� tr�n thập gi�. Ơn th�nh t�c động linh hồn lo�i người kh�ng ồn �o n�o nhiệt m� nhẹ nh�ng, �m dịu, thấm nhuần v�o chiều thẳm s�u nhất của t�m l� con người. Ch�a Gi�su chuyện v�n với hai m�n đệ đi l�ng Emmau h�m nay l� một th� dụ r� r�ng : �L�ng ch�ng ta đ� chẳng bừng ch�y l�n đ� sao ?� Ch�ng ta cần ch�n v�i qu� khứ v� mở l�ng ra đ�n nhận tương lai mới m� Ch�a phục sinh mang lại cho mỗi người. Hai m�n đệ đi l�ng Emmau sai lầm ở chỗ giam h�m m�nh trong nh� t� qu� khứ : �Ch�ng t�i vẫn hy vọng Người sẽ cứu chuộc Israel.� Cho n�n kh�ng nh�n thấy cuộc sống tương lai của m�nh. Vậy th� điều chi gi�p đỡ họ (v� ch�ng ta nữa) ? C�u trả lời sẵn trong truyền thống t�n gi�o Do th�i : H�y trở n�n những kẻ lắng nghe v� để t�m đến lời Thi�n Ch�a như Đức Ki-t� đ� giải th�ch cho họ. Đ�y l� lăng k�nh duy nhất v� ch�nh x�c, qua đ� ch�ng ta nh�n xem thế giới trong c�c biến cố hằng ng�y. Trước hết chẳng c� chi thay đổi. Đấng họ hy vọng l� Mesia đ� bị kết �n tử h�nh v� chết tr�n thập tự. Nhưng khi Ch�a Gi�su mở mắt để hiểu Kinh Th�nh th� họ nhận ra m�nh qu� u tối. Thi�n Ch�a cứu chuộc Israel vượt xa quan niệm v� hy vọng của to�n d�n. Ch�a Gi�su phục sinh lu�n hiện diện cho mọi t�n hữu, mỗi khi c� điều thất vọng, ng� hầu gi�p lắng nghe lời Thi�n Ch�a trong c�c buổi phụng vụ. C�c thừa t�c vi�n phải � thức điều n�y, khi c�ng bố lời Ch�a, kh�ng lơ đễnh, kh�ng m�y m�c, kẻo thiệt hại nặng nề cho cộng đo�n.

Ch�a phục sinh lu�n lu�n hiện diện b�n c�c m�n đệ v� tiếp tục giải ph�ng họ khỏi c�c lầm lạc của qu� khứ bằng cử chỉ bẻ b�nh. Mỗi khi họ tụ họp quanh b�n tiệc Th�nh thể họ đều được bảo đảm tha thứ, hy vọng được sống lại v� đổi mới, tương lai rực rỡ với lời hứa sống m�i vinh quang, văng vẳng b�n tai lời Tin Mừng h�m nay : �Ch�a đ� trỗi dậy thực rồi v� đ� hiện ra với �ng Simon�. Nhờ c�u chuyện của th�nh Luca, cộng đo�n ch�ng ta v� từng người t�n hữu được vững l�ng xem thấy Ch�a c�ng đồng h�nh với m�nh tr�n bước đường trần gian. Chắc chắn ch�ng ta sẽ phải trải qua nhiều kh� khăn ở c�c niềm đất lạ, nhưng th�nh Luca cam đoan Ch�a chẳng xa, Ng�i lu�n gần kề (Dieu est si proche), dẫn dắt ch�ng ta đến những hiểu biết mới về Nước trời, về những tương quan th�n thiết với Thi�n Ch�a Ba Ng�i m� chỉ Đấng phục sinh mới mạc khải được. Bởi giống như hai m�n đệ đi l�ng Emmau, ch�ng ta c� khuynh hướng rời bỏ Gi�rusalem, trốn tr�nh c�c đau khổ, những c�i gi� phải trả để l�m m�n đệ Ch�a. Ch�ng ta ưa th�ch cuộc sống dễ d�i, với c�c tiện nghi sang trọng. Nhưng Ph�c �m Luca cho hay Ch�a nhất quyết đi l�n Gi�rusalem với c�c m�n đệ, chịu thương kh� (9, 51). Ng�i chai mặt trơ như đ�, chấp nhận c�c thử th�ch của cuộc đời sứ vụ. Ng�i kh�ng trốn tr�nh Gi�rusalem. Ngược lại, dọc đường Ng�i c�n giải th�ch cho c�c �ng m�nh sẽ chịu nạn chịu chết trong th�nh ấy. Ng�i k�u gọi c�c �ng v�c th�nh gi� hằng ng�y m� theo. Hai m�n đệ tr�n đường Emmau đ� ch�ng qu�n sứ điệp n�y của Ch�a v� rời bỏ Gi�rusalem u sầu. Chẳng hiểu mấy người trong ch�ng ta c�n ghi nhớ lời Ng�i ? Sự đau khổ hai �ng chứng kiến l�m m� lo� đ�i mắt họ. May thay việc chăm ch� nghe người kh�ch lạ đ� l�m họ tỉnh dậy. Mắt họ được mở ra v� họ nh�n thấy Ch�a l�c bẻ b�nh. Đ�ng như th�nh vịnh 16 hứa : �Ch�a chẳng đ�nh bỏ mặc linh hồn con trong c�i �m ty, cũng kh�ng để vị th�nh của Ng�i phải hư n�t trong phần mộ.�

Ch�ng ta c� rất nhiều phương �n �p dụng Tin Mừng h�m nay. Một trong c�c phương �n đ� l� đừng khinh rẻ một ai tr�n h�nh tr�nh cuộc đời. Ch�ng ta thường ưa th�ch những khu�n mặt th�n quen, bởi n� l�m ch�ng ta vững l�ng tr�n c�c nẻo đường xa lạ. Nhưng xin nhớ kh�ch lạ c� thể hữu �ch cho ch�ng ta hơn. Tuy nhiều khi cảm thấy dị biệt, kh�ng ưa, kh� chịu, nhưng lại l� những cơ hội Ch�a d�ng để mạc khải về ch�nh m�nh, về thế giới, về Thi�n Ch�a. Họ c� thể l� những m�n qu� qu� b�u Ch�a ban để ch�ng ta kh�n ngoan hơn, hiểu biết hơn. Cho n�n di d�n, ngoại kiều, v� lại, b�n lề phải được ch�ng ta tr�n trọng đ�n nhận. Ch�ng ta chẳng bao giờ biết được sự gi�u c�, tr� tuệ, nh�n c�ch, �n thi�ng đến từ đ�u ? Vậy xin học từ c�c b�i đọc h�m nay, h�y trở n�n những linh hồn biết lắng nghe, v� mọi sự sẽ xảy đến như Ch�a se định. Ch�a Ki-t� xuất hiện, dạy dỗ v� nu�i dưỡng ch�ng ta qua những nẻo đường ch�ng ta chẳng hề biết.

C� thể, một lời n�i, một c�u chuyện của người kh�ng quen khiến ch�ng ta suy nghĩ hằng tuần, h�ng th�ng. Cho n�n, đ�ng như th�nh Luca gợi � trong Tin Mừng h�m nay : H�y mở to đ�i mắt, đ�i tai tr�n mọi nẻo đường dương gian, bởi bạn chẳng thể biết được khi n�o, ở đ�u bạn sẽ gặp Ch�a phục sinh. Amen. Halleluia.


G. Nguyễn Cao Luật op

Con đường trở về
Lc 24,13-35

Từ Gi�rusalem, hai người ln�n đệ buồn b� trở về Em-mau. Trước đ�y, c�c �ng đ� rời bỏ ng�i l�ng để đi theo �ức Gi�su, v� c�c �ng nghĩ rằng �ức Gi�su l� một vị ''ng�n sứ đầy uy thế x�t về việc l�m cũng như lời n�i'' v� c�c �ng hi vọng ch�nh Người l� �ấng sẽ giải tho�t �t-ra-en''. Thế nhưng, những sự kiện bi thảm diễn ra ng�y thứ S�u vừa qua đ� l�m cho niềm hi vọng của họ bị lung lay, nếu kh�ng n�i l� vỡ tan. Họ cảm thấy m�nh bị vỡ mộng, chẳng c�n ch�t hi vọng. Thế l� họ l�n đường trở về qu� nh�. Ch�t hi vọng vừa bừng l�n chỉ c�n l� giấc mộng, giấc mộng tho�ng qua.

�ang khi c�c �ng quanh quẩn với những c�u chuyện buồn thảm của qu� khứ, đang khi c�c �ng rời xa Gi�rusalem để trở về qu� nh�, �ức Gi�su đ� đến b�n cạnh v� c�ng đi với c�c �ng, nhưng họ kh�ng nhận ra Người. C�c �ng đ� từng gặp �ức Gi�su, đ� từng bi vọng Người sẽ mở ra một tương lai huy ho�ng, nhưng họ kh�ng thể n�o hiểu nổi một vị cứu thế lại phải chịu khổ nạn. C�c �ng kh�ng hể tin v�o biến cố Phục Sinh, mặc d� c�c phụ nữ v� một v�i người trong số c�c m�n đệ đ� kể cho c�c �ng nghe về ng�i mộ trống. Nếu như c�c �ng chờ đợi �ấng Phục Sinh, c� lẽ c�c �ng đ� nhận ra Người ...

Tuy kh�ng nhận ra �ức Gi�su, nhưng c�c �ng vẫn sẵn s�ng n�i chuyện với người kh�ch lạ. Người kh�ch lạ đ� kh�n kh�o gợi lại c�u chuyện v� hai người m�n đệ đ� kể hết nỗi l�ng của m�nh. C�c �ng đ� c� những ước mơ, nhưng Thi�n Ch�a lại kh�ng đ�p ứng như c�c �ng vẫn mong đợi. ��ng ra kh�ng phải v� Thi�n Ch�a kh�ng đ�p ứng, nhưng thật ra, phải n�i rằng những ước mơ đ� qu� nhỏ b�, qu� tầm thường. Thi�n Ch�a c�n đi xa hơn, Người thực hiện những điểu k� diệu, ngo�i sức tưởng tượng của con người.

Thật vậy, c�c m�n đệ nghĩ rằng họ đ� gặp được �ấng Cứu Thế trước khi Người chịu đ�ng đinh, nhưng họ lại t�m thấy �ấng Cứu Thế đ�ch thực đ� chịu đ�ng đinh. Họ đ� từng mong đợi một �ấng giải tho�t d�n �t-ra-en, nhưng lại kh�ng chờ mong �ấng cũng giải tho�t cả d�n ngoại. Họ đ� từng nghe �ức Gi�su n�i về c�i chết v� sự phục sinh của Người, nhưng họ kh�ng thể n�o chấp nhận điều khủng khiếp ấy xảy đến cho vị Thầy của m�nh. Họ c� thể tin rằng �ức Gi�su l� một vị Th�ng Th�i, một �ấng M�-si-a về phương diện ch�nh trị, một vị cải c�ch c�c tập tục... nhưng họ kh�ng thể n�o tin nổi sự đi�n rồ của Thập gi�. V� v� thế, họ kh�ng nhận ra �ức Gi�su đang đi b�n cạnh họ.

Như thế, con đường từ Gi�rusalem về Em-mau l� con đường của thất vọng, của buồn sầu. �� l� con đường r�t lui sau khi đ� hi vọng qu� nhiều.

Vẫn l� một con đường

Sau đ�, �ức Gi�su đ� ngỏ lời, kh�ng phải để thay đổi dự t�nh nh�n loại của c�c m�n đệ, nhưng l� để đem lại cho niềm hi vọng đ� một � nghĩa đ�ch thực. Người lần lượt giải th�ch cho c�c �ng về Kinh Th�nh, qua đ� c�c �ng hiểu được kế hoạch của Thi�n Ch�a cũng như sứ mạng của �ức Kit�. �ức Gi�su đ� bắt đầu bằng cuộc sống của hai m�n đệ, bằng kinh nghiệm sống của họ, v� Người đ� đặt để cuộc sống đ� v�o trong chương tr�nh lớn lao của Thi�n Ch�a, được diễn tả qua Kinh Th�nh. Niềm hi vọng của họ được �ức Gi�su diễn tả qua ng�n ngữ Kinh Th�nh, v� con tim của họ bừng n�ng khi nghe �ức Gi�su giải th�ch, v� họ thấy dự t�nh của m�nh được lồng v�o một chương tr�nh sinh động trải d�i trong suốt lịch tr�nh Kinh Th�nh v� dẫn đến �ức Kit� (x Linh Tiến Khải, Ch�a Kit� đ� sống lại, trang 13).

Qua c�ch giải th�ch của �ức Gi�su, c�c m�n đệ - cũng như mọi t�n hữu sau n�y - hiểu rằng �ức Kit� l� trọng t�m của lịch sử, một �ức Kit� chịu đ�ng đinh thập gi�. Chỉ dưới c�i nh�n ấy mới hiểu được � nghĩa đ�ch x�c của Kinh Th�nh. Bất cứ lối giải th�ch n�o chỉ căn cứ v�o nghĩa chữ b�n ngo�i, sẽ kh�ng thể n�o hiểu được mầu nhiệm s�u xa cũng như tinh thần đậm đ� nhất của Kinh Th�nh.

�ến đ�y, hai m�n đệ vẫn chưa ho�n to�n nhận ra �ức Gi�su. C�c �ng chỉ lờ mờ hiểu ra rằng người kh�ch lạ đ� xo� tan những nghi ngại, giải tho�t c�c �ng khỏi nỗi buồn sầu đang đ� nặng t�m tr�. Chỉ m�i đến khi �ức Gi�su bẻ b�nh, c�c �ng mới nhận ra người kh�ch lạ ch�nh l� �ức Gi�su.

Thật vậy, h�nh ảnh �ức Gi�su cầm lấy b�nh, d�ng lời tạ ơn, bẻ ra v� trao cho c�c �ng gợi cho c�c �ng nhớ lại bữa ăn cuối c�ng của c�c �ng với vị Thầy khả k�nh. C�c �ng đ�n nhận b�nh v� mắt c�c �ng cũng bừng s�ng. Cả một loạt h�nh ảnh qu� khứ �a về, c�c �ng nhận ra �ức Gi� -su v� tin v�o mầu nhiệm Phục Sinh.

Thế l� c�c �ng vội v� quay trở lại Gi�rusalem, l�ng đầy h�n hoan v� tin tưởng, kh�c hẳn với t�m trạng l�c ra đi. �nh s�ng phục sinh đ� thấm nhập, đ� l�m thay đồi ho�n to�n : từ những người buồn sầu thất vọng, c�c �ng đ� trở th�nh những người hăng h�i nhiệt th�nh, đang l� nhứng người ch�n nản, r�t lui khỏi Gi�rusalem, c�c �ng lại mau mắn quay trở lại đ�, để b�o tin cho c�c m�n đệ kh�c ...

Con dường của ch�ng ta

Con đường trở về Em-mau của hai người m�n đệ cũng ch�nh l� con đường của c�c Kit� hữu.

Một ng�y n�o đ�, ch�ng ta lại kh�ng nhận thấy m�nh đang đi tr�n đường với những vấn đề về �ức Gi�su, về những hi vọng của ch�ng ta cũng như về Gi�o Hội ? Ng�y nay, đ�i l�c ch�ng ta cảm thấy m�nh bị giao động khi thấy thế giới loại bỏ dần � nghĩa về Thi�n Ch�a, khi đa số người Kit� hữu kh�ng c�n tin v�o c�c cử h�nh phụng vụ, kh�ng c�n muốn l�nh nhận b� t�ch, v� quay sang thần phục những ngẫu tượng mới. Nếu như quyền năng Thi�n Ch�a chịu l�p vế dưới �p lực của tiền bạc, của khoa học kĩ thuật, th� tất cả nhứng g� ch�ng ta nghe kể lại về �ức Gi�su Na-da-r�t, về sức mạnh đem lại ơn giải tho�t v� sự phục sinh của Người, tất cả n�o c� � nghĩa g� ?

�ường Em-mau của ch�ng ta xem ra cũng d�i l� th�, cũng quanh co. Nhưng đ� l� con đường cần phải đi qua, đi từ thất vọng đến đức tin, đi với nhịp độ chậm r�i, đi trong b�ng chiều khi m�n đ�m sắp phủ xuống. Ch�nh tr�n những con đường như thế m� ch�ng ta gặp lại Người kh�ch lạ. Người sẽ đến b�n ch�ng ta, hỏi han, khơi lại niềm hi vọng. Người c� rất nhiều điều để n�i với ch�ng ta về th�n phận của ch�ng ta cũng như của Người. Người sẽ nhắc lại với ch�ng ta rằng: phải đi qua thập gi� mới c� thể đạt tới vinh quang. V� Người cũng sẽ c�ng bẻ b�nh cho ch�ng ta, gi�p ch�ng ta nhận ra � nghĩa của lời Kinh Th�nh cũng như hiểu được trọng t�m của tất cả mọi niềm hi vọng.

Như thế, đau khổ v� thất vọng sẽ l� cơ hội gi�p ch�ng ta kh�m ph� ra rằng t�nh y�u c� thể vượt thắng.

T�nh trạng rối loạn sẽ l� m�i trường để ch�ng ta c� thể nhận được những lời giải th�ch đầy sức n�ng của Người. V� khi đ� ch�ng ta hiểu rằng giao ước kh�ng phải chỉ được k� kết một lần, tr�i lại đ� l� một giao ước mới, một giao ước kh�ng ngừng được lập lại. Tuy vậy, c� một điều kiện : kh�ng n�n muốn nắm giứ �ức Kit�. T�m t�nh được gợi l�n trong ch�ng ta l� để y�u mến, cũng như đức tin được trao ban cho ta l� để tiến bước. Ch�nh v� thế, �ức Gi�su đ� biến mất. �ức Gi�su kh�ng muốn ta ngồi lại để chi�m ngắm Người, tr�i lại Người mời ch�ng ta trở th�nh những người loan b�o về �ấng Phục Sinh : Ch�a l� �ấng Hằng Sống, vượt tr�n cả sự chết.


Giac�b� Phạm Văn Phượng op

Ch�a Kit� Phục Sinh hiện ra
(Ga 20,19-31)

Khi Ch�a Gi�su Phục Sinh, Ng�i đ� hiện ra nhiều lần, một trong những lần đ� l� Ch�a đ� hiện ra với c�c m�n đệ đang tụ họp nhau trong ph�ng tiệc ly, cửa đ�ng k�n, v�o buổi chiều ng�y Ch�a Nhật Phục Sinh. Ch�a cho họ xem c�c thương t�ch ở tay v� cạnh sườn Ng�i, để chứng thực Ng�i đ� sống lại, nhưng h�m ấy kh�ng c� mặt �ng T�-ma. V� thế, khi nghe c�c bạn kể lại, �ng nhất định kh�ng tin v� cho rằng ch�nh khi mắt �ng nh�n thấy v� tay �ng kiểm chứng �ng mới tin. T�m ng�y sau, tức l� v�o Ch�a Nhật một tuần sau đ�, như b�i Tin Mừng h�m nay thuật lại, Ch�a Gi�su hiện đến lần nữa v� gọi �ng T�-ma ra kiểm chứng tay v� cạnh sườn Ng�i, l�c ấy �ng T�-ma mới tin. Nh�n dịp n�y Ch�a bảo cho c�c m�n đệ biết : �Ph�c thay những người kh�ng thấy m� tin�.

Ch�ng ta thấy, �ng T�-ma l� người c� �c thực tế, c� vẻ chậm hiểu v� chậm tin hơn c�c m�n đệ kh�c. Điều đ� cũng b�nh thường th�i, �ng c� đủ l� do ch�nh đ�ng để nghi ngờ như vậy, v� �ng chưa được thấy Ch�a như c�c m�n đệ kh�c. V� sự kiện �ng đ�i ch�nh m�nh phải kiểm chứng mới tin, lại c� lợi cho ch�ng ta, v� l� dịp Ch�a Gi�su li�n tưởng đến đ�ng đảo những Kit� hữu, từ đ� cho đến ng�y c�nh chung sẽ tin v�o Ng�i. Ch�a ch�c ph�c cho họ, v� họ l� những người, d� kh�ng thấy tận mắt biến cố Phục Sinh, nhưng vẫn tin v�o Ng�i, tin Ng�i l� con Thi�n Ch�a, đ� l�m người, chịu chết v� sống lại để cứu chuộc họ. Ch�a ch�c ph�c cho họ, v� họ kh�ng được c�i cơ may trực tiếp đối diện sống chung với Ch�a Gi�su Na-da-r�t v� Đức Kit� Phục Sinh như c�c m�n đệ, m� họ phải qua những qu� tr�nh t�m kiếm đức tin bằng nhiều ngả kh�c nhau. N�i kh�c đi, từ sau th�nh T�-ma sấp l�n, việc sờ m� v�o th�n x�c Ch�a như T�-ma sẽ kh�ng bao giờ được nữa. Từ đ� người ta tin v�o Ch�a qua thế gi� của Kinh Th�nh, của Gi�o Hội, của c�c bậc tiền nh�n. Cũng như ch�ng ta biết một sự kiện lịch sử hay một nh�n vật lịch sử n�o đ�, l� do s�ch vở ghi ch�p lại hay do cha �ng kể lại. Th� cũng vậy, từ đ�y việc Ch�a Phục Sinh được Kinh Th�nh ghi lại, v� nhờ v�o thế gi� của bao nhi�u th�nh nh�n, của ch�nh Gi�o Hội hiện hữu, ai tin qua đ� l� diễm ph�c.

Quả thực, tin l� biết một c�ch gi�n tiếp, điều g� ch�nh ch�ng ta đ� thấy, đ� chứng kiến th� ch�ng ta biết, kh�ng cần phải tin. Tin l� chấp nhận điều ch�nh m�nh kh�ng thấy, nhưng dựa v�o lời chứng của một người kh�c đ�ng t�n nhiệm. Trong đức tin, ch�ng ta chấp nhận c� Thi�n Ch�a v� chấp nhận c�c ch�n l� của Ng�i, mặc dầu ch�ng ta kh�ng thấy Ng�i v� kh�ng thấu hiểu c�c ch�n l� đ�. Ch�ng ta chấp nhận v� tin nhiệm v�o Ch�a Gi�su l� sứ giả của Thi�n Ch�a, v� v�o Gi�o Hội, l� trung gian truyền giảng Tin Mừng của Ch�a Gi�su. Tuy nhi�n, ch�ng ta kh�ng thể hiểu thấu những điều ch�ng ta tin, kh�ng phải v� ch�ng phi l�, nhưng chỉ v� l� tr� ch�ng ta c� giới hạn. Thi�n Ch�a l� Đấng tuyệt đối v� v� bi�n, l� tr� của chung ta trong giới hạn chật hẹp của n�, l�m sao c� thể hiểu thấu về Ng�i. V� ch�ng ta kh�ng thể hiểu thấu về Thi�n Ch�a v� c�c ch�n l� của Ng�i, n�n ch�ng ta kh�ng thể chứng minh một c�ch hiển nhi�n v� đầy đủ được. T�n gi�o v� khoa học kh�c nhau ở chỗ đ�. C�c định luật khoa học c� thể kiểm chứng được bằng th� nghiệm. Tr�i lại, c�c ch�n l� t�n gi�o vượt l�n tr�n tầm hiểu biết của gi�c quan v� l� tr�, n�n kh�ng thể chứng minh nguy�n bằng l� luận. C�c bằng chứng đưa ra chỉ gi�p dễ hiểu hơn phần n�o, chứ kh�ng thể thay thế được cảm nghiệm trong t�m hồn v� sự tự do chọn lựa của mỗi người. Do đ�, muốn hiểu được khoa học chỉ cần th�ng minh, c�n muốn tin, th� phải c� l�ng th�nh v� ơn Ch�a.

Đ� n�i đến vấn đề tin, th� bao giờ cũng l� chấp nhận một c�i g� đ� kh�ng đủ hiển nhi�n, kh�ng thể kiểm chứng được, giống như hai người nam nữ hứa trọn đời y�u nhau, họ buộc phải tin nhau điều đ�, kh�ng c� g� đảm b�o l� anh sẽ trung th�nh với em trọn đời, nhưng em đ� tin, v� c� thế mới l� t�nh y�u. Thật ra, hai người hứa y�u nhau, cũng phải chắc chắn một c�ch n�o đ�, l� người kia sẽ trung th�nh chung thủy với m�nh. Nhưng c�i chắc chắn đ� l� c�i chắc chắn của niềm tin, n� kh�ng phải l� chắc chắn của khoa học. Vậy ch�ng ta phải nh�n nhận : c� một sự chắc chắn kh�c với sự chắc chắn của khoa học, một thứ chắc chắn bấp b�nh v� dựa tr�n những ng�i vị � thức v� tự do. Đ� l� thứ chắc chắn của l�ng tin của ch�ng ta đới với Thi�n Ch�a, v� c�c ch�n l�, c�c mầu nhiệm trong đạo.

Sự kiện Ch�a Gi�su Phục Sinh l� một trong c�c ch�n l� đ�. Phục Sinh l� một mầu nhiệm. Hơn nữa Ch�a Gi�su Phục Sinh l� một mầu nhiệm tuyệt vời m� khoa học kh�ng t�i n�o kiểm chứng được, như người ta kiểm chứng một cuộc chiến thắng hay một biến cố lịch sử n�o kh�c. Sự kiện Phục Sinh kh�ng diễn ra theo định luật tự nhi�n, n�n chỉ những người tin hữu Ch�a Gi�su, tức l� người được hưởng nhờ hồng �n đặc biệt của đức tin Kit� gi�o, mới nhận ra được m� th�i. V� thế, tin v�o Ch�a Gi�su Phục Sinh, th� ch�ng ta h�y sống an vui, ngược lại đừng sống như Ch�a đang chết hay l� ch�ng ta đang chết. Nhưng nhớ rằng Ch�a Phục Sinh đang sống v� sống cạnh ch�ng ta, sẵn s�ng gi�p ch�ng ta tr�n mọi cảnh ngộ. Tin v�o Ch�a Gi�su Phục Sinh n�n ta c� hy vọng v� tr�ch nhiệm : hy vọng v� ch�ng ta cũng sẽ được phục sinh như Ch�a. Tr�ch nhiệm của ch�ng ta l� tiếp tục loan truyền sự phục sinh cho mọi người. Ch�ng ta phải c� Ch�a Phục Sinh trong l�ng để đi loan truyền cho tới khi Ch�a lại đến.

T�m lại, Ch�a Gi�su đ� chấp nhận c�i chết, để sống lại vinh quang v� truyền sức sống cho Gi�o Hội. Gi�o Hội l� tập hợp mọi kẻ tin, thuộc mọi n�i giống, d�n tộc, mầu da, tiếng n�i � cũng đ� sống kết hợp mật thiết v� nối tiếp mầu nhiệm khổ nạn v� Phục Sinh của Ch�a Kit�. Xin Ch�a cho mọi người v� mỗi ngưởi ch�ng ta � thức r� rệt để c�ng chấp nhận th�n phận con người gặp nhiều khổ đau v� mong manh, nhưng lu�n hăng say l�m việc v� tin tưởng v�o Ch�a Kit� Phục Sinh.


Lm Thomas Trần Ngọc T�y, OP
Tổng hợp từ: Flor McCarthy � Sicilian�, OP

Ch�a Kit� Th�nh Thể v� h�nh tr�nh Emmaus của ch�ng ta
Lc:24,13-35.

Thưa qu� vị.

Mỗi con ngừơi đều c� một c�u truyện đời m�nh để m� kể. Nhưng kể được r�nh rẽ, ch�ng ta phải l�m chủ về mọi mặt: s�ng tối, vui buồn, tốt xấu, ngọt ng�o, đắng cay. Tuy nhi�n về mặt t�ch cực dễ kể hơn, c�n mặt ti�u cực thật kh� n�i, trừ phi c� những người biết lắng nghe v� th�ng cảm. Nhiều trường hợp qu� đau x�t khiến đương sự ph�t triển bệnh t�m l�. Những ai giầu kinh nghiệm về cuộc sống biết r� điều n�y. C�u truyện sau đ�y c� thể minh họa ch�t �t.

Một người đ�n �ng trung ni�n phỏng 35 tuổi, ăn vận lịch sự, tay s�ch một chiếc vali c�n tương đối mới, bước v�o một kh�ch sạn ở Lu�n Đ�n. �ng hỏi thu� một căn ph�ng nhỏ, n�i l� tr� ngụ v�i ng�y. C� tiếp vi�n hỏi t�n tuổi để ghi v�o sổ. Lạ l�ng người đ�n �ng đỏ mặt bối rối. C� thơ k� ngạc nhi�n hỏi lại: �Xin cho ch�u biết qu� danh?� Người kh�ch ngơ ng�c: �C� th�ng cảm, t�i kh�ng nhớ r� ?� C� g�i trẻ c�ng sửng sốt hơn: �Vậy l�m sao ch�u ghi số ph�ng cho �ng ?� Người đ�n �ng ấp �ng: �C� l�m ơn th�ng cảm, ghi l� Jeanne Brown đựơc kh�ng ?�. �Nhưng thưa �ng, đ� l� t�n phụ nữ�. Rồi c� g�i gi�p đỡ người kh�ch lục lọi c�c t�i �o, mở cả vali nữa, nhưng chẳng t�m thấy chi hết. �ng ta kh�ng nhớ t�n m�nh l� g�, từ th�nh phố n�o tới, qu� khứ của �ng h�an t�an bị x�a bỏ. �ng đang mặc bệnh mất tr� nhớ (amnesia).

Người ta đưa người kh�ch lạ v�o nh� thương. Một b�c sĩ t�m l� cố gắng chữa trị cho �ng. Sau những tuần lễ ki�n nhẫn v� với kỹ thuật tinh tế, người b�c sĩ đ� th�nh c�ng mở lại qu� khứ cho người đ�n �ng. �ng l� một đứa trẻ mồ c�i, được một gia đ�nh tốt bụng đưa về nu�i. Lớn l�n �ng kết h�n với một thiếu nữ xinh đẹp, con nh� thượng lưu giầu c�. C� ta chẳng cần đến đồng lương c�m c�i của người chồng l�m nghề ống nước. D�n h�ng x�m l�ng giềng giầu c� khinh thường vợ chồng �ng. Dần d� người vợ cũng ch�n anh chồng thuộc tầng lớp hạ lưu. �ng ta ph�t triển căn bệnh tự ti mặc cảm, cố qu�n đi những bất hạnh của m�nh. Cuối c�ng hai vợ chồng l�m v�o khủng hỏang. C� ta c� nh�n t�nh mới, v� người đ�n �ng cũng kiếm được nh�n ng�i trẻ đẹp hơn, tuy thuộc tầng lớp tiện d�n. Vừa khi hai vợ chồng b�n t�nh ly dị th� người vợ ng� bệnh nặng. Người chồng �u lo, cố qu�n đi tất cả. Đ� l� con đường duy nhất �ng ta c� thể l�m để đối ph� với h�an cảnh. Hậu quả bi thảm l� �ng mất tr� nhớ.

C�u truyện điển h�nh n�y l� của mỗi người ch�ng ta. C� những linh hồn chịu đựng qu� nhiều buồn đau hoặc lo lắng v� cảm thấy h�an t�an bị bỏ rơi, thất vọng nếu kh�ng c� người kh�c biết tới. Nghe chuyện của ch�ng ta l� nghe cuộc đời ch�ng ta đ� trải qua. Từ chối nghe l� từ chối ch�nh ch�ng ta. Lắng nghe l� người ta đ� chia sớt nỗi khổ t�m của kẻ kh�c v� chữa l�nh về phần t�m l�. Mỗi người đều c� một c�u truyện để n�i, nếu kh�ng gặp tri �m th� kể như ch�ng ta đ� ch�n qu� khứ v�o nấm mồ.

Hai m�n đệ đi l�ng Emmaus của Ph�c �m h�m nay cũng rơi v�o trường hợp n�y. Họ đang bị dầy v� v� cuộc vỡ mộng qu� lớn. Biến cố th�y chết l�m cho họ h�an t�an thất vọng. Ch�nh miệng họ đ� thố lộ điều đ�: �Ch�ng t�i đ� những hy vọng, người sẽ cứu vớt Israel�. Hy vọng của họ l� d�n tộc được giải ph�ng, t�n gi�o được tự do v� bản th�n được vinh hoa ph� qu� với địa vị cao. Nhưng l�c n�y th� tan n�t tất cả. Th�y đ� chết v� mọi hy vọng được ch�n chặt trong mồ c�ng với th�y. Chẳng c�n chi để m� tin tưởng. Vỡ mộng v� hổ thẹn đầy ắp với t�m tr� họ, họ thầm th� to nhỏ về biến cố tr�n đường trở về l�ng cũ Emmaus, b�y giờ l� El Qubeiba, chừng 10 c�y số đ�ng bắc Gi�rusalem.

Đ�ng l� Ph�c �m c� c�u truyện để kể, hai m�n đệ vỡ mộng c� c�u chuyện để n�i v� c�u truyện l�m cho họ rối l�ng. Một kh�ch lạ tế nhị �p s�t họ lắng nghe. T�m l� thường t�nh cho hay dốc bầu t�m sự cho người lạ dễ d�ng biết bao! Bạn chẳng cần � tứ, d� dặt. Kiểu như người ta đi xa về tha hồ m� kho�c l�c, chẳng ai c� khả năng kiểm chứng thật hay bịa. Phần người lạ cũng rất tế nhị, �ng lắng nghe, đi s�u v�o chi tiết c�u truyện v� giải th�ch � nghĩa Kinh th�nh cho họ. �ng tạo cho họ bầu kh� thuận lợi để họ bộc bạch t�m can, những đau buồn, những thất vọng.

Rồi người kh�ch lạ l�m chi ? �ng cũng kể c�u truyện đời �ng cho họ nghe. Đời của �ng chứ kh�ng phải của người kh�c. Đối với hai m�n đệ thập tự l� một thất bại h�an t�an, một cản trở kh�ng thể vượt qua. Nhưng đối kh�ch lạ kh�ng nhất thiết phải như vậy, rồi �ng giải th�ch cho họ, bắt đầu từ M�s� v� c�c ng�n sứ, những nội dung m� họ đ� từng học tập, nhưng kh�ng hiểu: �N�o Đấng Kit� lại chẳng phải chịu khổ h�nh như thế, rồi mới v�o vinh quang của Người sao ?�. Vị kh�ch lạ chỉ dẫn cho họ hay khổ gi� kh�ng hẳn l� kết th�c của một giấc mơ, nhưng l� khởi điểm của một thực tại mới. �ng gi�p đỡ hai m�n đệ t�m ra � nghĩa trong c�u truyện của họ bằng c�ch cho họ biết � nghĩa c�u truyện của ri�ng �ng. Nhờ đ� họ c� khả năng xem lại sự thật m� họ vừa trải qua ở Gi�rusalem. Ph�c �m kể : �Họ bảo nhau: Dọc đường khi Người n�i chuyện v� giải th�ch Kinh th�nh cho ch�ng ta, l�ng ch�ng ta đ� chẳng bừng ch�y l�n sao?�. L�ng họ sốt sắng v� đ� l� c�u truyện của ch�nh họ chứ kh�ng phải của người kh�c.

Sở dĩ người đ�n �ng mất tr� nhớ c� thể trở lại trạng th�i b�nh thường l� v� vị b�c sĩ lắng nghe c�u truyện của �ng ta. Những rắc rối, những tối tăm, đau khổ của �ng ta được tự do gi�i b�y. Nhờ đ� cơn bệnh biến mất. Bệnh tật thi�ng li�ng của ch�ng ta cũng được chữa trị tương tự. Xin đừng ki�u căng cho m�nh chẳng hề mắc bệnh. Thực tế, ch�ng ta nhiều bệnh lắm, v� c�n nặng hơn �ng kh�ch thu� kh�ch sạn: Bệnh điếc, bệnh m�, bệnh giả h�nh, th�i th� đủ cả, thậm ch� cả những bệnh đưa đến c�i chết. Vậy m� vẫn cứ nhởn nhơ coi m�nh l� th�nh thiện, lại c�n sẵn s�ng l�n lớp cho th�in hạ. Mỗi người c� một c�u truyện cần phải được bộc bạch. Nếu như kh�ng gặp kh�ch lạ th� chẳng bao giờ n�i ra. Nếu khi�m tốn nhận ra vấn đề của m�nh, th� chẳng bao giờ c�n t�m l� tự cao tự đại, ăn vận di�m d�a, trang h�ang l�ng ph� để đ�nh b�ng danh tiếng m�nh, tổ chức m�nh. Ch�ng ta sẽ sẵn s�ng chấp nhận phần tối tăm của linh hồn m�nh m� nhận ra thiếu thốn ơn Ch�a soi s�ng. Thực ra, x�t cho c�ng, th� chỉ c�u truyện của Đức Kit� qua khổ nạn v� c�i chết rồi mới được vinh quang, ch�ng ta mới hiểu ra � nghĩa trọn vẹn của cuộc sống m�nh. Mọi sự kh�c đều kh�ng thỏa đ�ng. Hai m�n đệ chỉ nhận Ch�a Phục sinh khi d�ng bữa tối với Ng�i. L� do nằm ở chỗ, theo tục lệ Do th�i, giai đọan c��i c�ng của tế lễ hy sinh l� một bữa tiệc th�nh thiện. S�ch L�vi k� thuật lại rất nhiều lần kết th�c của c�c hy lễ l� chia sẻ bữa ăn với Đức Ch�a tại b�n tiệc hy tếts�c vật m� th�y tư tế vừa thực hiện. Chắc chắn những t�n hữu đầu ti�n (đa số l� Do th�i) nghỉ rằng họ sẽ mất gốc nế kh�ng biết li�n hệ với truyền thống n�y. V� thế lễ bẻ b�nh của họ l� sau bữa ăn để tưởng niệm Đức Kit�. Truy6�n thống n�y c�n m�i đến ng�y h�m nay. Những ai kh�ng nhận ra � nghĩa của n�, th� quả thật kh�ng phải l� t�n hữu ch�n ch�nh.

Khi Ch�a v�o d�ng bữa với họ v� Ng�i vừa cầm b�nh bẻ th� họ nhận ra Ng�i. Ch�ng ta cũng chỉ nhận được �n huệ ấy sau khi đ� đồng lao cộng khổ với Ch�a. Đức Phaol� VI đ� m� tả th�nh lễ bằng ba chữ: �Một hy lễ, một tưởng niệm v� một bữa tiệc� l� ở trong � nghĩa ấy. Đức tin ch�ng ta sẽ kh�ng nhận ra Ch�a trong th�nh lễ nếu trước hết kh�ng suy niệm về khổ nạn, c�i chết v� phục sinh của Ng�i. Đ�y l� tư tưởng của th�nh Augustin� v� nhiều vị kh�c trong G�ao Hội. L�m ngược l� ch�ng ta thất bại kh�ng nhận ra Ch�a.

Nhiều người n�i rằng việc sống lại của Ch�a, chỉ l� suy nghĩ viển v�ng của c�c t�n hữu. Họ kh�ng muốn chấp nhận th�y m�nh đ� chết, sự nghiệp đ� ti�u tan. Họ ước ao m�nh liệt Ng�i vẫn sống với họ, cho n�n tạo ra những ảo ảnh rằng Ng�i hiện ra đ� đ�y nhiều lần. Họ �tr�ng� thấy ng�i đ�ng như l�ng mong ước v� đặt t�n l� Đức Kit� Phục sinh. Kỳ thật chẳng c� chi l� thực tế cả. D�n ch�ng chẳng bao giờ được chứng kiến �nội dung� họ từng kể lại. Đ�ng l� đ�m m�n đệ đ� ở tận c�ng hất vọng. C�u chuyện của c�c �ng tỏ lộ một sự mất m�t t�an diện v� c�c �ng đang l�m chuyện m� ng�y nay c�c người thất bại thường l�m: Co cụm lại để băng b� vết thương, trở về c�ng việc cũ, x�y dựng lại tương lai. Một v�i người trong bọn trở lại nấm mồ, như người ta thường l�m, thăm viếng chỗ ch�n cất v� đau đớn kh�c than. C� vậy th�i.

Hai m�n đệ đi l�ng Emmaus n�i l� gặp kh�ch lạ th� chỉ l� sản phẩm của �c tưởng tượng qu� mạnh mẽ v� k� ức c�n qu� sống động. Họ kể lại cho �ng kh�ch �ảo� điều m� c�c phụ nữ đồn thổi về th�y đ� trỗi dậy, th� ch�nh họ cũng kh�ng tin. Đ�ng l� c�u truyện hoang đường m� ng�y nay vẫn thừơng nghe thấy. Về phần Gi�o hội ti�n khởi cũng c�ng một ruộc �m mưu lừa dối thi�n hạ. Nhưng l�m sao lừa được cả thi�n hạ, cấp l�nh đạo Do th�i, cho tới nay, c� tin đ�u? X�t trong tư tưởng của hai �ng, th� họ đ� kết th�c một qu�ng đời mộng mơ v� trở về cuộc sống đời thường.

�Ch�ng t�i những tưởng người sẽ cứu Israel�. C�u n�i rất phổ th�ng giữa ch�ng ta ng�y nay: Ch�ng t�i những tưởng c�ng tr�nh n�y rất th�nh c�ng. Những tưởng cuộc h�n nh�n n�y hạnh ph�c, con c�i rất ngoan ng�an, dịch vụ n�y mang lại nhiều lợi �ch, vi�n thuốc n�y rất hiệu nghiệm, �ng nọ ba kia rất tốt bụng�.ai d�! Hy vọng v� mơ ước của ch�ng ta thường gặp thất bại. Thất bại n�y kế tiếp thất bại kh�c, khiến ch�ng ta nh�t đảm, rụt r�, chột dạ, nghi nan kh�ng tin tưởng v�o m�nh nữa, nản ch� trong bất cứ c�ng việc n�o, kể cả đ�ng thi�ng li�ng. Nhưng c� một thực tại kh�ng thể chối c�i được, l� hai m�n đệ ngay đ�m h�m ấy trở về Gi�russalem để gặp c�c t�ng đồ, thuật lại cho họ ngay kinh nghiệm xem thấy th�y của m�nh. C�c �ng cũng ngỡ ng�ng nghe kể lại c�ng một c�u truyện: Họ cũng n�i với hai �ng: �Ch�a trỗi dậy thật rồi v� đ� hiện ra với Simon�. Simon l� t�n cũ của Ph�r�, đứng l�m biểu tưởng cho đạo cũ. Tức Kinh Th�nh đ� được ứng nghiệm m� Kinh th�nh th� kh�ng thể sai lầm. Cho n�n lương tri ngay ch�nh buộc phải c�ng nhận sự Phục sinh của Ch�a l� ch�n l�. V� khi nhận l�nh ch�n l� th� kh�ng thể giấu k�n. Cleopha v� bạn đồng h�nh trở về Gi�rusalem b�o tin cho c�c t�ng đồ v� những m�n đệ kh�c đang tụ họp.

C�u truyện Emmaus l� c�u truyện của mỗi t�n hữu. N� thường xẩy ra với ch�ng ta mỗi khi rước lễ. Nếu thực sự ch�ng ta gặp gỡ Ch�a trong th�nh thể, ch�ng ta chẳng thể giữ Tin Mừng ấy cho ri�ng m�nh. N� phải được loan ra bằng h�nh động, lời n�i, trừ phi chẳng gặp Ng�i m� chỉ giả đ� gặp m� th�i. C�ng với Gi�o Hội, ch�ng ta l�m những cuộc h�nh tr�nh giữa trần gian, cuộc h�nh tr�nh s��t cả cuộc đời. Ch�a Gi�su lu�n đi s�t b�n mỗi người, giải th�ch, hướng dẫn mỗi linh hồn về qu� Trời ngay cả khi kh�ng nhận ra Ng�i. Ch�ng ta l� th�nh phần của D�n Thi�n Ch�a, cần sống xứng đ�ng với những chi m�nh tin tưởng. V� mỗi người đều phải kể lại c�u chuyện đời m�nh. C�u chuyện đ� c� � nghĩa hay kh�ng t�y thuộc v�o th�i độ sống của ch�ng ta. Amen, Alleluia.

 
Giuse Vũ Hải Bằng op

Ch�a vẫn đồng h�nh b�n cạnh đời ta
Lc 24, 13-35

�Đang l�c họ tr� chuyện v� b�n t�n, th� ch�nh Đức Gi�su tiến đến gần v� c�ng đi với họ.�

B�i Tin mừng h�m nay h� mở cho ch�ng ta thấy một kh�a cạnh rất t�m l� của Ch�a Gi�su. Tr�n đường Emmau, hai m�n đệ ch�n nản bước đi, l�ng trĩu nặng ưu tư v� thất vọng v� bao nhi�u dự định, ho�i b�o về một tương lai tươi s�ng khi theo l�m m�n đệ Ch�a, bỗng nhi�n sụp đổ, khiến c�c �ng mất phương hướng, bu�ng xu�i tất cả, để rồi lại � chề nặng nhọc tr�n con đường trở về với cuộc sống đời thường, trở về với c�ng việc m� c�c �ng đ� l�m trước khi theo Ch�a.

T�c giả Luca đ� c� dụng � r� khi chỉ n�u t�n một m�n đệ l� Cl�-�-pat, người c�n lại l� mỗi người ch�ng ta khi sống tin mừng trong ho�n cảnh cụ thể hiện nay.

Ch�a kh�ng hiện ra v� cho c�c m�n đệ nhận ra Người liền. Người muốn c�c �ng đi dần từ sự tối tăm đến niềm vui cảm nghiệm nhận ra Ch�a đang đồng h�nh với m�nh. Ch�a cũng kh�ng đề nghị ở lại với c�c �ng. Với t�nh c�ch người Ch�u � (T�y �), Ch�a cũng �giả bộ� như muốn đi tiếp để c�c �ng phải l�n tiếng mời Người ở lại d�ng bữa chung. T�nh c�ch n�y rất gần gũi với người Việt nam ch�ng ta. Nhiều l�c, cha mẹ hay c�c bậc hướng dẫn đường t�m linh muốn ch�ng ta sống tốt hơn, t�ch cực hơn � nhưng c�c Vị kh�ng trực tiếp cầm tay chỉ việc, hay �p ch�ng ta phải sống thế n�y, h�nh xử như thế nọ� C�c vị chỉ gợi � xa xa, hay �giả bộ� kh�ng quan t�m, kh�ng tỏ th�i độ l�n lớp � để ch�ng ta tự nhận ra nhu cầu của m�nh, v� tự n�i l�n ước muốn được thọ gi�o, được c� tương giao th�n t�nh trong quan hệ �cha- con�, �thầy-tr�, �bạn hữu��

Ch�a tỏ � muốn đi xa hơn, nhưng khi được mời th� Ch�a nhận lời. L�c ngồi v�o b�n ăn, Ch�a cầm lấy b�nh tạ ơn rồi bẻ ra trao cho c�c �ng. Ngay l�c đ�, như mắt c�c �ng được mở ra để nhận biết Người th� Người liền biến mất. Những giờ ph�t tr� chuyện th�n mật với Ch�a đ� khiến l�ng c�c m�n đệ vốn lạnh như đồng, trở n�n n�ng như lửa, đang đau buồn thất vọng trở n�n vui vẻ v� đầy hi vọng.

Những điều n�y cho thấy, trong cuộc sống ch�ng ta, Ch�a vẫn đang đồng h�nh, nhưng ch�ng ta c� nhận ra Người v� c� chủ động mời Người ở lại với ch�ng ta kh�ng ? Ch�ng ta phải tha thiết mời Ch�a ở lại v� ở trong ch�ng ta lu�n m�i. Ch�a chỉ mong c� thế, nhưng với điều kiện l� ch�ng ta phải mời. Người kh�ng bao giờ ph� cửa m� v�o. Ch�a sẵn s�ng đến với ch�ng ta trong giờ ph�t hoang mang, dao động để thăm viếng v� ủi an ch�ng ta. H�y cố d�nh nhiều thời giờ t�m giao với Người th� bao nhi�u kh� khăn của ch�ng ta sẽ được giải quyết hết.

Sau khi sống lại, th�n thể của Ch�a c� phần thay đổi, hoặc Ch�a chưa muốn c�c m�n đệ biết Người trong l�c đ� n�n l�m cho mắt c�c �ng bị che khuất. Ch�a đến gần gợi chuyện để c�c �ng t�m sự c�ng Người, mặc dầu Người đ� biết hết rồi . Người muốn nghe c�c �ng n�i. Đang bực bội, c�c �ng tưởng ai cũng biết như m�nh, n�n trong c�u trả lời c� � tr�ch người đồng h�nh rằng những biến cố trọng đại như vậy m� kh�ng biết.

Ch�a n�i : "Anh em thật dại dột, chậm tin lời ti�n tri trong Th�nh Kinh. C�c ti�n tri chẳng n�i Ch�a Cứu Thế phải chịu khổ h�nh, rồi mới đến ng�y quang vinh sao ?" Rồi Người lần lượt giải nghĩa cả Kinh Th�nh n�i về Người. Dại đột v� chậm hiểu v� hiểu sai những điều Kinh th�nh n�i. V� chậm tin, chậm hiểu v� hiểu sai n�n l�ng c�c m�n đệ bối rối thất vọng. Ng�y nay cũng thế, cũng v� ngu dại, chậm tin v� chậm hiểu Kinh Th�nh m� ch�ng ta thường bối rối, vấp ng� khi c� những bất trắc xảy ra cho m�nh.

Kh�ng c� c�u chuyện n�o cảm k�ch hơn c�u chuyện �tr�n đường Emmau� c� thể cho ta thấy thực sự Ch�a phục sinh lu�n đi b�n cạnh trong cuộc lữ h�nh trần gian. Điều đ�ng buồn l� v� thiếu l�ng tin n�n mắt ch�ng ta thường bị mờ kh�ng nhận biết sự hiện diện của Người. Ch�ng ta bước đi rầu rĩ, trong khi đ�ng lẽ ra phải hớn hở v� được đồng h�nh với Người. Tin v� theo Ch�a l� phải biết đ�n nhận khổ gi� trong cuộc sống. Theo Ch�a, phải biết từ bỏ m�nh, phải hi sinh v� đi con đường Ch�a đ� đi. Hiểu như vậy, ch�ng ta sẽ kh�ng hề vấp ng�. Biết như vậy l� biết một nguy�n tắc bất di bất dịch: đau đớn phải đi trước vinh hiển mới theo sau, phải đổ mồ h�i v� m�u tr�n thao trường mới gi�nh được v�ng nguyệt quế chiến thắng.

Lạy Ch�a Gi�su Th�nh thể, trong cuộc sống nhiều kh� khăn thử th�ch, Xin cho ch�ng con biết x�c t�n �Ch�a vẫn lu�n đồng h�nh b�n cạnh cuộc đời ch�ng con�; Xin cho ch�ng con lu�n biết sống trong �nh s�ng Phục Sinh của Ch�a, kh�ng bao giờ xa Ch�a, lu�n duy tr� mối giao hảo hạnh ph�c với Ch�a; Xin dạy ch�ng con biết c�ch �đi đường� c�ng với Ch�a trong cuộc sống h�nh ng�y, biết nhận ra tiếng n�i của Ch�a qua những người ch�ng con gặp gỡ, để khi Ng�i đến, ch�ng con lu�n được đầy l�ng tin tưởng, kh�ng phải hổ thẹn v� bị quở tr�ch : "�i những kẻ tối dạ, những l�ng chậm tin..�, để cuộc đời ch�ng con lu�n tr�n ngập tiếng ca Halleluia : "Ch�a sống lại thật rồi�. Amen. Halleluia.

 
Ts. Sylvester Nguyễn Ngọc Minh, O.P.

Bản trường ca ngắn ngủi
Lc 24, 13-35

Th�ng thường, ch�ng ta vẫn nghĩ: đ� l� trường ca th� phải d�i, phải c� nhiều chương hồi được đan kết nhau bởi nhiều h�nh ảnh, tiết tấu, thanh �m� h�ng tr�ng hầu c� thể chuyển tải hết những � tưởng, nội dung m� t�c giả muốn gởi gắm. Nội dung của một trường ca c� thể kể về c�u chuyện của một nh�n vật phi thường, hay h�nh ảnh của một con người kỳ vĩ, với những phẩm c�ch trổi vượt xứng đ�ng l�m khu�n mẫu cho đời. Thế nhưng, thực tế cuộc sống vẫn c� những h�nh ảnh về lối sống rất cụ thể, đơn sơ của những con người rất b�nh dị, đời thường nhưng lại chuyển tải những nội dung, tư tưởng nh�n văn phong ph�, s�u xa v� c� thể h�nh th�nh n�n những bản trường ca bất hủ cho mu�n ng�n thế hệ.

Thực vậy, l�m thế n�o ch�ng ta c� thể diễn tả, truyền tải hết những nội dung, những cảm x�c về h�nh ảnh của một người mẹ �m đứa con đang bệnh nặng tr�n tay, g�o th�t xin mọi người mở đường để đưa con đến bệnh viện, trong kh�ng gian của một cuộc �ng tắc giao th�ng, v� tr�n đầu mưa như tr�t nước? Hay h�nh ảnh của một người cha với m�i t�c điểm bạc, quần quật, miệt m�i tr�n những c�nh đồng d� mưa hay nắng để t�m phương c�ch mưu sinh cho gia đ�nh, cho những đứa con. V� cũng c� khi, chỉ l� h�nh ảnh đơn sơ của một nữ tu cuối xuống, n�ng niu, ủi an một th�n thể c�m c�i, với rất nhiều vết thương của một bệnh nh�n cũng c� thể đọng lại trong ch�ng ta những � nghĩa nh�n sinh cao qu� V� c�n nhiều nữa h�nh ảnh về những con người thầm lặng hy sinh, trao tặng đời m�nh để cưu mang bao nỗi niềm cuộc đời� cũng c� thể trở th�nh những gi� trị đ�ng lưu truyền, những bản trường ca vắn gọn nhưng bất hữu. Dẫu chưa c� nh�n chứng, chưa c� b�t mực n�o chuyển tải. Thế nhưng, những hy sinh ấy, những sẻ chia vẫn c� thể l�m n�n những gi� trị vang vọng m�i trong l�ng cuộc đời như những bản trường ca. Chỉ cần ch�ng ta ch� � một ch�t th�i, định t�m một ch�t th�i l� sẽ nhận ra ngay đấy m� ! Đức Kit� trong b�i Tin mừng theo th�nh Luca 24, 13-35 cũng đ� cho ch�ng ta một bản trường ca như thế.

B�i Tin mừng h�m nay, đưa ch�ng ta đến c�u chuyện của Đức Kit�, với những h�nh ảnh, những thanh �m tuy ngắn ngủi, thế nhưng lại c� gi� trị trường cửu cho mu�n ng�n thế hệ. Đ� l� h�nh ảnh Đức Kit� lặp lại nghi thức bẻ b�nh. Đ� l� �m thanh từ những lời giảng dạy của Đức Kit� c� gi� trị l�m thức tỉnh l�ng người. V� tr�n hết, đ� l� cả một nội dung mặc khải phong ph� d�nh cho tất cả những ai tin v�o Đức Kit� v� đang thực thi sức mệnh người m�n đệ. Ch�nh mặc khải n�y c� sức thu h�t mạnh mẽ, thiết thực v� thật sự h�o h�ng như những bản trường ca d�nh cho tất cả mọi người, mọi d�n tộc, v� mọi thời đại.

H�nh tr�nh đi đến l�ng Emmau của hai m�n đệ, c� thể xem như l� một cuộc trốn tr�nh sau một thất bại. Bởi v� tất cả những kỳ vọng, những dự ph�ng của hai m�n đệ n�y v�o vị T�n sư, vị Thầy của m�nh dường như kh�ng c�n nữa. Giờ đ�y, trong họ chỉ c�n l� sự thất vọng, u sầu v� bế tắc thể hiện qua �vẻ mặt buồn rầu�. Thế nhưng, khi Đức Kit� hiện diện cũng l� l�c bản trường ca được cất l�n bằng những thanh �m, bằng h�nh ảnh của một con người cụ thể v� cũng l� khởi đầu cho một c�u chuyện. C�u chuyện n�y trước hết l� d�nh cho hai m�n đệ, một người c� t�n l� Cleopas. Ch�nh Đức Kit� l� người kể chuyện. Người đ� đồng h�nh với hai m�n đệ suốt đoạn đường bằng một d�ng v�c, một sức sống mới mẻ, đến nỗi hai m�n đệ kh�ng nhận ra Thầy m�nh. Hai m�n đệ vẫn c�n bị dấu ấn từ cuộc xử �n v� tử nạn của Thầy l�m cho cho�ng cả t�m tr�. Tr�n đường đi cũng l� dịp họ lại kể cho nhau nghe về biến cố đ�. V� họ kh�ng thể ngờ được rằng, Thầy của họ, nh�n vật ch�nh của c�u chuyện đang ở b�n cạnh họ, rất gần. Chỉ đến khi, bằng sự hiếu kh�ch của hai m�n đệ, Đức Gi�su ở lại v� thực thi trước mắt họ nghi thức Bẻ b�nh, một nghi thức m� Người vẫn thường l�m với c�c �ng, đặc biệt trong ng�y bữa tiệc Ly mừng lễ Vượt Qua, họ mới thực sự được mở tr� �Mắt họ liền mở ra v� họ nhận ra Người� (c 31). V� ch�nh những lời giảng dạy của Đức Kit� cũng đ� mở l�ng cho họ: �Khi Người n�i chuyện v� giải th�ch Kinh Th�nh cho ch�ng ta, l�ng ch�ng ta chẳng bừng s�ng l�n sao?� (c 32).

Bản trường ca h�m nay, kh�ng cần nhiều chương hồi, nhưng ch�nh h�nh ảnh Đức Kit� khi �Đồng b�n với họ, Người cầm lấy b�nh, d�ng lời ch�c tụng, v� bẻ ra trao cho họ� (c 30), l� đoạn điệp kh�c h�o h�ng nhất, kỳ vĩ nhất để mu�n đời sau kh�ng ngớt lặp lại với c�ng một thể thức ấy. Đức Kit� thực thi nghi thức bẻ b�nh, kh�ng chỉ để cho c�c m�n đệ nhận ra Người, m� c�n như l� lời mời gọi c�c m�n đệ phải tiếp tục cử h�nh nghi thức ấy để c� thể nhận ra nhau. Người cử h�nh nghi thức ấy, kh�ng chỉ n�i l�n bổn phận của ch�nh m�nh l� trở n�n lễ tế cho Thi�n Ch�a, nhưng c�n l� lời mời gọi c�c m�n đệ, v� ch�nh ch�ng ta nữa, sự cần thiết phải trở th�nh lễ tế d�ng l�n Ch�a Cha. V� khi thực thi nghi thức bẻ b�nh, một lần nữa, Đức Kit� nhắc nhớ cho ch�ng ta ch�nh Người l� chủ tế, đồng thời cũng l� hy lễ d�ng tiến Ch�a Cha. Hy lễ ấy l� M�nh v� M�u Người đổ ra trong cuộc Tử nạn, để mu�n người được trở n�n giao ho� với Thi�n Ch�a. Điều kỳ vĩ ở đ�y ch�nh l� gi� trị sự kiện Đức Kit� đ� d�ng hiến, trao tặng cuộc đời một c�ch nhưng kh�ng, th�ng qua một nghi thức tưởng chừng như đơn giản. Điều trường cửu ở đ�y ch�nh l� sự kiện, bằng gi� m�u, c�i chết v� sự Phục sinh, Đức Kit� đ� đưa những linh hồn bị giam h�m trong tội lỗi v� sự chết được giải tho�t, t�m lại sự sống v� sống vi�n m�n.

V� từ nghi thức ấy, sự kiện ấy đ� trở th�nh một c�u chuyện, nhưng kh�ng phải một c�u chuyện cổ t�ch, hay thần thoại thường được mở đầu bằng từ ngữ: �ng�y xửa, ng�y xưa��, nhưng l� một c�u chuyện c� sức t�i hiện ngay ng�y h�m nay, được tiếp diễn từ Đức Kit� đến h�m nay. Những t�m hồn cần được Đức Kit� thức tỉnh l� c�c m�n đệ ng�y xưa, nhưng cũng l� ch�ng ta, l� con người của ng�y h�m nay v� cả tương lai. Đức Kit� l� t�c giả của c�u chuyện, Người cũng l� nh�n vật l�m sinh động c�u chuyện, đồng thời, Người cũng ch�nh l� sức mạnh nu�i sống v� t�i diễn c�u chuyện đ� trong hiện tại. Cụ thể l� th�ng qua vai tr� của những vị thừa t�c, c�c linh mục mỗi khi c�c ng�i thực thi sứ mệnh d�ng lễ tế, v� nghi thức Bẻ b�nh.

Chỉ cần một khoảng thời gian nhất định, một kh�ng gian cụ thể, Th�nh sử Luca đ� l�m n�n một c�u chuyện với những h�nh ảnh, những thanh �m sống động, c� gi� trị như một bản trường ca. Bản trường ca ấy, tuy kh�ng d�i nhưng c� sức sống m�nh liệt khi đem lại sự sống cho bao con người. Bản trường ca ấy, ng�y nay, ch�ng ta vẫn thường được h�t mỗi khi kỷ niệm lại biến cố Phục sinh, v� ng�n vang trong l�ng người bằng những thanh �m mu�n thuở của một ca kh�c khải ho�n �Tr�n đường Emmau, hai người lữ kh�ch bước đi b�n nhau, mộng v�ng tan m�y��. Kh�c ca ấy thường nhắc nhở ch�ng ta rằng: �c� những l�c ch�ng ta v� t�m kh�ng thấy được Ng�i, chẳng biết Ng�i, trong những kẻ ngh�o đ�i��. Quả thực, rất c� thể, nhiều l�c tr�n d�ng đời xu�i ngược, ch�ng ta kh�ng nhận ra Đức Kit� đang đồng h�nh với ch�ng, trong th�n phận những người lữ h�nh đơn sơ, �m thầm. V� cũng rất nhiều lần ch�ng ta, v� lơ đễnh, v� u tối� đ� kh�ng nhận ra Ch�a, tiếp rước Ch�a m� v� t�nh để người bước đi như một người lữ h�nh đơn độc v� xa lạ.

Bản trường ca từ b�i Ph�c �m h�m nay, tuy ngắn ngủi nhưng lại chuyển tải n�n một th�ng điệp, một sứ mệnh c� gi� trị cứu độ cho mọi thời đại. Bản trường ca ấy cất l�n kh�ng chỉ cho hai người m�n đệ tr�n bước đường về Emmau, nhưng l� cho ch�ng ta, những người đang sống v� thực thi sứ mệnh của Đức Kit�. Ch�nh ch�ng ta phải thức tỉnh bản th�n m�nh, đời sống m�nh để sẵn s�ng tiếp đ�n Ch�a, nhận ra Ch�a trong những người anh em chung quanh. Hơn nữa, ch�nh ch�ng ta phải c� bổn phận thi h�nh nghi thức m� Đức Kit� đ� thực thi l� tiếp tục bẻ b�nh, l� sẻ chia ch�nh cuộc đời, t�m t�nh, khả năng, thời gian� của m�nh cho người kh�c. Biến ch�nh m�nh th�nh hy lễ để tưởng nhớ đến Đức Kit� v� kh�ng ngừng nhắc lại sứ mệnh rao giảng, truyền th�ng ơn cứu độ. Xin Đức Kit� Phục sinh lu�n đồng h�nh v� tiếp sức mạnh cho ch�ng ta, để l�ng tr� của ch�ng ta lu�n được mở rộng ra, hầu c� thể nhận ra Ch�a trong mọi biến cố, mọi con người chung quanh.


Đỗ Lực op

Cuộc đời : một ẩn số
(Lc 24:13-35)

Hiện nay, t�nh h�nh suy tho�i kinh tế đang đe dọa thế giới. Việt Nam cũng đang �đương đầu với gi� tăng vọt tr�n đa số mặt h�ng, từ lương thực, thực phẩm đến nhi�n liệu v� h�ng ti�u d�ng, ngừơi d�n n�i chung đều cảm thấy bị ảnh hưởng kh�ng nhiều th� �t. Mức sống của nhiều gia đ�nh bị t�c động từ sau Tết đến nay. Trừ giới gi�u c� hoặc dư giả, những gia đ�nh thu nhập kh�ng cao v� những gia đ�nh c�ng nh�n với đồng lương đ�i đang r�n xiết v� cuộc sống ng�y c�ng kh� khăn.� [i]

Trước t�nh trạng đ�, nh� nước Việt Nam đang t�m mọi biện ph�p để ngăn cản đ� lạm ph�t. C�c chuy�n gia đang x�m lại hiến kế gi�p kinh tế Việt Nam khỏi cảnh sụp đổ. Ngo�i những giải ph�p kinh tế, c�n cần giải ph�p n�o kh�ng ? C� thể t�m thấy lối tho�t cho t�nh thế hiện nay qua nẻo đường Emmaus ng�y xưa, khi �ức Gi�su cố giải th�ch Kinh th�nh cho hai m�n đệ.

GIẢI M�

Chưa bao giờ con người cảm thấy đau khổ v� c� đơn như h�m nay. Rất nhiều người ch�n nản v� thất vọng v� kh�ng t�m được lối tho�t. �� cũng l� t�nh trạng của hai m�n đệ tr�n đường Emmaus, �c�ch Gi�rusalem chừng mười một c�y số.� (Lc 24:13) �oạn đường d�i vừa đủ cho Ch�a giải th�ch Kinh th�nh cho họ tho�t ra khỏi bế tắc cuộc đời.

Quả thực, trước khi gặp Ch�a, suốt qu�ng đường về Emmaus, họ đ� kh�ng t�m được lời giải đ�p cho b�i to�n hắc b�a về th�n phận Th�y m�nh v� tương lai của m�nh. C�i chết nhục nh� v� tất tưởi của Th�y đ� để lại trong t�m tr� những th�ng ng�y nặng trĩu v� cuộc sống đầy thất vọng. Trong khi Th�y được to�n d�n mến chuộng, tại sao những người cầm quyền lại giết Người c�ch dữ dằn như vậy ? Thật l� một bất c�ng v� c�ng lớn lao. Nếu l� �ấng Thi�n Sai, tại sao kh�ng thể giải ph�ng d�n tộc khỏi �ch đ� hộ ngoại bang ? Phải chăng Người kh�ng c� một lựa chọn n�o khi sự dữ ập tới ?

Trong khi c�c m�n đệ đang quay cuồng với những c�u hỏi như vậy, �ch�nh Đức Gi�su tiến đến gần v� c�ng đi với họ� (Lc 24:15) để t�m một lối tho�t cho họ. Trước hết, Ch�a nhận x�t về t�nh trạng �b� l�� của c�c �ng : "C�c anh chẳng hiểu g� cả! L�ng tr� c�c anh thật l� chậm tin v�o lời c�c ng�n sứ !� (Lc 24:25) Như thế, cả tr� kh�n v� t�m hồn c�c �ng đều trống rỗng. Niềm tin l� số kh�ng. �� l� nguy�n nh�n tại sao c�c �ng kh�ng t�m được giải đ�p trong ẩn số cuộc đời Ch�a Gi�su v� kh�ng t�m được lối tho�t cho những bế tắc tr�n đường đời. Nếu Ch�a kh�ng giải th�ch Kinh Th�nh đ�, chắc chắn t�m tr� họ c�n ch�m m�i trong những thất vọng, m� tối v� đảo đi�n. Cuộc đời vẫn c�n l� một ẩn số khổng lồ ! ��ng hơn, chỉ Tin Mừng mới c� thể đem lại �nh s�ng cho c�c m�n đệ. Chắc chắn trước khi mở ra con đường giải tho�t, Ch�a đ� phải ki�n nhẫn lắng nghe v� chấp nhận những chống đối v� tăm tối của c�c m�n đệ.

Dần d� tr�n đường về qu� nh� Emmaus, hai m�n đệ như bị cuốn h�t v�o những lời giải th�ch của Ch�a. Ch�a d�ng ch�nh lời Kinh th�nh để cho họ thấy một sợi chỉ xuy�n suốt dẫn đến �nh s�ng cuối đường hầm. Từ nhỏ, d� đọc Kinh th�nh h�ng ng�y, họ vẫn kh�ng thấy mối li�n lạc giữa c�c sự kiện. Khi ch�m v�o từng sự kiện trước mắt, họ chỉ thấy bất c�ng trong những đau khổ Th�y đ� g�nh chịu. Bởi vậy, Ch�a cần một đoạn đường d�i như cuộc đời để gi�p họ vượt l�n tr�n những đau khổ bất c�ng ấy. Ch�a đưa ra l� do Người phải chấp nhận đau khổ hay sự dữ : �N�o Đấng Kit� lại chẳng phải chịu khổ h�nh như thế, rồi mới v�o trong vinh quang của Người sao? (Lc 24:26) To�n bộ Kinh Th�nh đều yểm trợ cho c�i nh�n đ�.

Vinh quang của Ch�a l� g�, nếu kh�ng phải l� �sự c�ng ch�nh, b�nh an v� hoan lạc trong Th�nh Thần� (Rm 14:16) ? N�i kh�c, đ� l� vinh quang Nước Thi�n Ch�a. Như một chiến sĩ, Ch�a phải liều chết mới c� thể giải tho�t v� đưa con người tới bến bờ tự do. Tự do l� gi� trị lớn nhất Ch�a phải giật lại cho nh�n loại bằng ch�nh mạng sống của m�nh. Kh�ng nh�n thấy gi� trị đ�, kh�ng thể hiểu được l� do tại sao Ch�a phải đau khổ v� chết đi như vậy. N�i kh�c, chỉ v� muốn nh�n loại được sống tự do như con c�i Ch�a, Ch�a đ� loan b�o một c�ch đầy � thức v� quyết liệt về th�n phận đau khổ của �ấng Kit�. Ch�nh v� tự do, Ch�a đ� cương quyết thực hiện tới c�ng những g� Người đ� nhận thức v� nắm bắt được qua lương t�m, tr� �c v� gi�c quan. Khi quả quyết m�nh �phải chịu khổ h�nh,� Ch�a nối kết qu� khứ với hiện tại để ho�n th�nh tất cả hầu mở ra cho nh�n loại một tương lai. Nếu kh�ng đưa tới tương lai đầy những gi� trị như tự do, hiệp nhất v.v., đau khổ quả l� phi l� v� bất c�ng. Chỉ đức tin, chứ kh�ng phải l� tr�, mới cho ta �thấy� tương lai đ�.

Hơn nữa, �ấng Phục Sinh khiến ch�ng ta kh�m ph� v� nhận biết những g� vượt ngo�i tầm nhận thức, thực tại v� h�nh, sự sống Thi�n Ch�a hiện diện. Nhờ đức tin, ch�ng ta biết Thi�n Ch�a đang hiện diện trong những thực tại trần thế. �� l� nghịch l� đối với c�c m�n đệ : c� thể xem thấy Ch�a m� họ lại kh�ng thấy. Nhưng khi nhận ra Người, họ mới thấy ẩn số đ� được giải đ�p nơi dung nhan Ch�a Kit�, �ấng �phải chịu đau khổ � mới v�o trong vinh quang của Người.�

BƯỚC THEO TH�Y

�Vinh quang của Người� kh�ng ph�t xuất từ một thứ thi�n đ�ng hạ giới. �� l� một gi� trị tuyệt đối gi�p con người c� thể đọc thấy � nghĩa đau khổ. Trong x� hội ng�y nay, nếu kh�ng vững tin v�o �Vinh quang của Người,� ch�ng ta kh�ng đủ sức phấn đấu chống lại bất c�ng.

Nhiều người tưởng thần học C�ng gi�o l� �thần học về đau khổ�. Theo họ, Gi�o Hội khuyến kh�ch d�n ch�ng cam chịu gian khổ thay v� cố gắng l�m cho thế giới n�n ngay ch�nh. Kh�ng thiếu những người coi Gi�o Hội như tập thể đang hết sức biến con người th�nh con chi�n chỉ biết v�ng lời.

Thực tế, Gi�o hội lu�n khuyến kh�ch d�n ch�ng chống lại cơ chế bất c�ng. Những gương mẫu sống động vẫn c�n chiếu s�ng trong Gi�o hội : Tgm Oscar Romero, Dorothy Day, Đgh Gioan Phaol� II � v.v. To�n thể c�c th�nh tử đạo Việt Nam đều l� những anh h�ng chống lại những chế độ ch� đạp quyền sống con người.

Ngược lại, những ai chủ trương mọi đau khổ đều v� nghĩa, v� mục đ�ch, v� phương hướng, mới thấy mọi đau khổ l� phi l�. Dưới con mắt trần thế, đau khổ l� sự dữ lớn nhất, chỉ n�n thinh lặng một c�ch v� vọng mỗi khi nghĩ tới đau khổ. Bởi đ� họ chủ trương giết người đau khổ bằng lối chết �m dịu.

��au khổ khiến nhiều người chối bỏ Thi�n Ch�a. Nhưng phủ nhận sự hiện hữu của Thi�n Ch�a cũng kh�ng giải quyết hay l�m nhẹ bớt vấn đề đau khổ. Tr�i lại, đau khổ c�ng trở th�nh một vấn đề bất c�ng kh�ng ai c� thể giải th�ch được. �au khổ vẫn c�n đ�. Nếu Thi�n Ch�a kh�ng hiện hữu, lo�i người hết hy vọng giải quyết c�c vấn đề rắc rối, cả tr�n thực tế lẫn l� thuyết. Hơn nữa, nếu chỉ c� thế giới bất c�ng hiện hữu m� th�i, sẽ kh�ng c� thưởng phạt cho mọi việc thiện �c; v� c�ng l� chỉ do con người tạo ra hay ảo tưởng. N�i cho c�ng, c�ng l� kh�ng thể kh�ng thuộc về ai đ�, v� con người phải bị x�t đo�n v� �n thưởng về � hướng cũng như h�nh động của m�nh. Chỉ c� một �ấng to�n tri, to�n năng mới c� thể thực thi c�ng l� như thế m� th�i.�[ii]

Dựa tr�n đức tin v�o Ch�a Kit� Chịu ��ng �inh, Gi�o Hội nh�n đau khổ quả quyết ngay cả những anh chị em đau khổ cũng cống hiến cho Gi�o hội một c�i g� gi� trị. Ch�nh v� thế, th�nh Phaol� mới n�i : �Giờ đ�y, t�i vui mừng được chịu đau khổ v� anh em. Những gian nan thử th�ch Đức Kit� c�n phải chịu, t�i xin mang lấy v�o th�n cho đủ mức, v� lợi �ch cho th�n thể Người l� Hội Th�nh.� (Cl 1:24) Ch�nh � hướng n�y đ� gi�p th�nh Phaol� kh�ng bị sụp đổ tinh thần v� thăng tiến tr�n mọi nẻo đường theo Ch�a. Kh�ng những �ng tho�t được g�nh nặng qu� khứ, nhưng c�n vượt qua những th�ch đố trước mặt. �ng x�c định r� : ��ối với t�i, sống l� �ức Kit�.�

Trong th�ng điệp Phục Sinh 2008, �GH B�n�đict� n�i : �Khi linh hồn chi�m ngắm �những vết thương vinh quang' m� �ấng Phục Sinh mang tr�n th�n thể đ� được t�n vinh của Người,� ch�ng ta c� thể hiểu � nghĩa v� gi� trị đau khổ, cũng như c� thể l�m dịu bớt nhiều vết thương nh�n loại ng�y nay c�n tiếp tục rỉ m�u� [iii]. Ch�nh v� thế, d� đ� phục sinh, Người vẫn kh�ng x�a đi những dấu đinh tr�n th�n x�c để mọi người thấy gi� trị cao cả v� � nghĩa đ�ch thực của đau khổ.

Linh mục Federico Lombardi, gi�m đốc văn ph�ng b�o ch� Vatican, ghi nhận trong th�ng điệp n�y, �GH đ� dừng lại trước �những vết thương nh�n loại đang mở toang v� đau khổ c� mặt khắp nơi tr�n tinh cầu n�y, mặc d� đ�i khi người ta l�ng qu�n hay cố � dấu nhẹm; những vết thương đang x� n�t linh hồn v� th�n x�c của mu�n v�n anh chị em ch�ng ta. N�n nhớ t�nh li�n đới giữa c� nh�n, nh�m v� d�n tộc ghi đậm n�t �ch kỷ, th� hằn v� bạo động. Trong khi đ�, nh�n vị thường bị b�i nhọ v� tổn thương.� [iv]

�ứng trước t�nh trạng đ�, ch�ng ta c� những nhận định v� suy nghĩ g� ? Chắc chắn c�ng l� đ� bị ch� đạp khắp nơi, n�n mới sinh ra những đau khổ c�ng cực như thế. Nhưng Kit� hữu �biết rằng Ch�a Phục sinh đang ở với ch�ng ta v� việc chi�m ngắm những vết thương vinh hiển của Ch�a c� nghĩa l� cam kết hoạt động cho c�ng l�, để đưa ra những dấu chỉ hy vọng. H�y sống hiền l�nh v� tha thứ để l�m chứng cho Ch�a. H�y sống trong t�nh li�n đới v� b�nh an với mọi người.� [v] Tin Ch�a Phục sinh, Kit� hữu phải hoạt động cho c�ng l�. Tranh đấu cho c�ng l� dĩ nhi�n m�nh sẽ phải đau khổ như Ch�a Kit�. Nhưng kh�ng c� đau khổ, kh�ng thể bước v�o vinh quang. Vinh quang của c�ng l� giải tho�t mọi người khỏi cảnh bất c�ng, bạo loạn v� ch� đạp nh�n quyền.

GIẢI PH�P N�O CHO T�NH THẾ H�M NAY ?

Trước t�nh trạng khủng hoảng kinh tế hiện nay, ch�ng ta tự hỏi : Ai l� thủ phạm g�y n�n t�nh trạng khốn c�ng h�m nay ? �Trong một t�i liệu do c�c gi�o sư thuộc chương tr�nh Việt Nam của Đại Học Harvard thực hiện v� phổ biến gần đ�y, c�c t�c giả chỉ ra rằng, sự yếu k�m trong đầu tư c�ng l� một trong c�c nguy�n nh�n đưa đến lạm ph�t. Điều đ�ng n�i, cho đến nay, một tỷ lệ rất lớn của t�n dụng vẫn được d�nh ri�ng cho c�c x� nghiệp quốc doanh k�m hiệu quả. C�c gi�o sư đại học Harvard cũng nhắc đến việc, Việt Nam hiện nay c� qu� nhiều sự t�c động của c�c nh�m đặc quyền đặc lợi.�[vi]

R� r�ng t�i tham của c�c quan chức lớn nhỏ đang ph�nh to, khiến người d�n phải thắt lưng buộc bụng. �Nhiều � thức hệ v� niềm tin Thi�n Sai vẫn ảo tưởng rằng vấn đề ngh�o đ�i c� thể bị loại trừ ho�n to�n khỏi thế giới n�y. �iều n�y chỉ xảy ra khi Ch�a Kit� trở lại, khi Người sẽ lại ở với ch�ng ta m�i m�i. Trong khi đ�, người ngh�o vẫn được giao ph� cho ch�ng ta v� ch�nh v� tr�ch nhiệm n�y, ch�ng ta sẽ bị ph�n x�t v�o thời c�nh chung (x. Mt 25:31-46) : Ch�a cảnh c�o, nếu kh�ng đ�p ứng những nhu cầu nghi�m trọng của người ngh�o v� những người nhỏ b� l� anh em Ch�a, ch�ng ta sẽ bị l�a xa Ch�a.�[vii]

C� bao nhi�u người nghe thấy v� lo sợ trước lời cảnh c�o ấy ? L�m c�ch n�o Lời Ch�a c� thể thấm s�u v�o l�ng người ? Nếu sống trong cảnh lộng lẫy xa hoa, c� lẽ con người kh� c� cơ hội cho Lời Ch�a thấm s�u v� biến đổi t�m hồn. Thật vậy, họ c� mắt m� kh�ng thấy, c� tai m� kh�ng nghe (x. 8:18), như Ch�a đ� n�i.

Giữa những bế tắc h�m nay, người ngh�o l� nạn nh�n đ�ng thương nhất. Ch�a Gi�su đ� cảm th�ng v� đồng h�a với những người ngh�o khổ nhất (x. Mt 25:40,45). �Ch�nh nhờ những g� người ta l�m cho người ngh�o m� Ch�a Gi�su nhận ra những người được tuyển chọn. Khi �người ngh�o được nghe giảng Tin Mừng,� (Mt 11:5) đ� l� dấu chỉ Ch�a Kit� hiện diện.�[viii] Thật vậy, �đau khổ dọn đường cho lời Thi�n Ch�a, g�p phần bảo đảm Tin Mừng được rao giảng khắp nơi. Nhờ Th�nh Linh hoạt động tận lương t�m mỗi người, Lời Tin Mừng t�m được con đường đi s�u v�o t�m hồn con người, v� tiếng n�i của c�c t�ng đồ c� thể đi tới �mọi miền tr�i đất, v� lời họ vang đến tận c�ng thế giới.��[ix] Lời Ch�a sẽ giải tho�t l�ng người khỏi �những � định gian t�, những tội giết người, ngoại t�nh, t� d�m, trộm cắp, l�m chứng gian v� vu khống.� (Mt 15:19) Lời Ch�a l� một giải ph�p tuyệt vời cho những ẩn số trong cuộc sống h�m nay.

T�m lại, giữa cơn đau khổ v� thất vọng c�ng cực v� mất Ch�a, hai m�n đệ tr�n đường Emmaus đ� �may mắn gặp lại Ch�a Phục Sinh. Ch�a đ� lấy Kinh Th�nh giải th�ch cho c�c �ng hiểu biết � nghĩa v� gi� trị của đau khổ trong c�ng cuộc cứu độ nh�n loại. Trong đau khổ, con người mới thấy được tất cả sức mạnh giải tho�t của Lời Ch�a. Thi�n Ch�a lu�n gần gũi mỗi người, nhất l� những ai đang đau khổ v� c� đơn.

Lạy Ch�a, xin đo�i nh�n đến nh�n loại đang l�m v�o cơn suy tho�i về mọi mặt h�m nay. Xin cho ch�ng con thấy tất cả gi� trị v� � nghĩa của đau khổ trong cuộc đời. Amen.

đỗ lực 06.04.2008


 

[ii] Dictionary of Fundamental Theology, eds. Latourelle, R. & Fisichella, R., tr. 1015.

[iv] ibid.

[v] ibid.

[vi] http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2008/04/03/ VietnamPM_Economic_7Solution_getting_to_the_point_part1_TGiao/

[vii] To�t Yếu Học Thuyết X� Hội của Gi�o Hội, 183.

[viii] To�t Yếu Học Thuyết X� Hội của Gi�o Hội, 183.

[ix] Pinckaers, S., The Pursuit of Happiness - God's Way � Living the Beatitudes, 2005:82-83.


Lm. Jude Siciliano, OP (
Chuyển ngữ Anh Em HV Đaminh G� Vấp)

Đức Gi�su lu�n đồng h�nh với ch�ng ta
Lc 24: 13-35

Trong thời gian thi h�nh sứ vụ trước đ�y, khi đ� t�i sống ở v�ng ngoại � Nam Carolina v� Virginia v� thuyết giảng trong phạm vi v�i trăm dặm quanh cộng đo�n của t�i, hầu như t�i phải di chuyển bằng xe hơi. Hiện nay, t�i quen với c�c phi trường hơn l� c�c trạm dừng ch�n tr�n đường quốc lộ. V� ch�ng t�i l� một nh�m anh em giảng thuyết v� cố gắng l�m theo hướng dẫn của tin mừng, n�n ch�ng t�i lu�n đi giảng �hai người một�

Đi xe �t� c� thể buồn tẻ, nhất l� trong c�c v�ng ngoại � nơi s�ng rađi� lại kh�ng được tốt. Nhưng tr� chuyện với người cộng sự v� người anh em trong cộng đo�n lại c� vẻ tốt hơn khi ch�ng t�i ở cộng đo�n, c� lẽ l� v� ch�ng t�i c� nhiều thời gian hơn cho cuộc tr� chuyện kh�ng huy�n thuy�n hay thinh lặng c�ng nhau.

Hầu như, những cuộc tr� chuyện n�y lu�n c� phần quan trọng l� b�n về c�c sự kiện trong cộng đo�n hay trong gia đ�nh ch�ng t�i: c�c buổi lễ gần đ�y, những mối quan t�m đến sức khoẻ của một anh em n�o đ�, những căng thẳng trong cộng đo�n, chất lượng của giờ kinh nguyện h�ng ng�y của cộng đo�n, một anh em mới gia nhập hay một thầy rời khỏi D�ng, sự từ trần của cha mẹ� T�i lu�n nh�n ra từ những cuộc tr� chuyện nghi�m t�c n�y c� cả sự soi dẫn lẫn sự hiểu biết. T�i nhận ra, từ c�i nh�n của một c� nh�n kh�c, tầm quan trọng của những sự kiện gần đ�y m� ch�ng t�i c�ng trải qua. Những cuộc tr� chuyện n�y cho t�i một viễn cảnh, một c�ch thức mới để nh�n v�o người anh em th�n thuộc n�y v� để nhận ra điều m� l�c đầu t�i đ� kh�ng đủ tr�n trọng.

Th�nh Luca cho ch�ng ta biết hai m�n đệ của Đức Gi�su đang tr�n đường về Emmaus, c�ch Gi�rusalem khoảng 11 c�y số. Một người l� Cleopas v� người kia rất c� thể l� vợ anh ta. Đại lễ Vượt qua đ� kết th�c, kh�ng phải với tin vui v� Đức Gi�su được t�n l�n l�m vua Do th�i v� những người R�ma bị tống ra khỏi đất nước, nhưng l� một c�i chết nhục nh� của Đức Gi�su. C� nhiều điều để n�i v� đường cũng đủ d�i để hai người n�y b�y tỏ những hy vọng đ� vụn vỡ của m�nh. Họ kể cho một �người lạ� c�ng đi với họ điều đ� xảy ra cho Đức Gi�su, v� th�m: �ch�ng t�i hy vọng Người sẽ l� Đấng cứu chuộc Israel��.

Xem ra đại từ �ch�ng t�i� kh�ng chỉ n�i họ m� th�i, nhưng c�n nhắm đến cả cộng đo�n c�c m�n đệ đ� đặt hy vọng v�o Đức Gi�su v� b�y giờ đ� ho�n to�n thất vọng. Hai người đang m� tả về một cộng đo�n bị đổ vỡ v� mất đi vị thủ l�nh đầy thần t�nh v�, theo nhận x�t từ hai m�n đệ n�y th� những người một thời l�m m�n đệ của Đức Gi�su hiện đang bị ph�n t�n, họ đang trở về gia đ�nh để nhặt nhạnh những mảnh đời c�n s�t của m�nh.

Những m�n đệ n�y đang đi c�ng nhau v� c�ng nhau n�i đến c�u chuyện ảnh hưởng s�u sắc đến cuộc đời họ. Th�nh Luca m� tả vắn tắt về cuộc tr� chuyện đang diễn ra cũng như h�nh động của họ v�o l�c Đức Gi�su đi b�n cạnh � họ đang �b�n t�n, tranh luận�

Khi c�n l� những đứa trẻ, ch�ng t�i được dạy l� kh�ng n�n b�n về t�n gi�o v� ch�nh trị khi đại gia đ�nh qui tu lại v�o mỗi trưa Ch�a nhật. Nhưng sự răn dạy đ� thường bị ph� vỡ v� c�c cuộc n�i chuyện trở n�n �hấp dẫn� � đ�i khi n�ng bỏng ! T�i c�n nhớ một cuộc tranh c�i của hai người ch�: một người l� chủ cửa h�ng nhỏ b�n c�c loại ống nước, v� người kia l� một c�ng nh�n li�n hiệp. T�i đ� nghe họ tranh c�i về c�c ưu điểm v� những bất lợi của c�c li�n hiệp v� t�i học hỏi được nhiều điều từ hai lối nh�n kh�c biệt n�y.

C�c m�n đệ đang �b�n t�n, tranh luận� v� rồi, sau khi tr�nh b�y những �sự kiện� cho người đồng h�nh mới n�y, họ đ� im lặng lắng nghe những g� Đức Gi�su n�i. Kết quả l� họ đ� biết nh�n lại những điều đ� xảy ra trong cuộc sống từ một kh�a cạnh mới. Ở đ�y c� một b�i học về cuộc sống tốt đẹp cho ch�ng ta; hoặc ch�ng ta tiếp tục cuộc tranh luận với ch�nh m�nh hoặc với người kh�c. (c� lẽ, ch�ng ta c� thể đưa ra ngay cả sự than v�n với Ch�a về những điều �ch�ng ta đ� hy vọng�).

Sau khi ch�ng ta n�i ra hết mọi điều trong l�ng, th� ch�ng ta cũng l�m như m�n đệ đ� l�m � ngừng n�i v� lắng nghe. Ai m� biết được ch�ng ta sẽ ngộ ra điều g� trong niềm tin của m�nh !

Trước hết, điều m� hai m�n đệ xem như một thảm kịch cuộc sống đối với họ v� cộng đo�n c�c m�n đệ của Đức Gi�su, th� sau khi lắng nghe quan điểm của người đồng h�nh mới n�y, mắt họ được mở ra với một cuộc sống mới m� Thi�n Ch�a ban cho họ. Thi�n Ch�a đ� mang lại sự sống từ trong c�i chết � điều m� chỉ Thi�n Ch�a mới c� thể l�m được. L�m như thế th� quả l� một điều bất thường! � qua khổ nạn v� c�i chết của Đức Gi�su. Mắt hai m�n đệ được mở ra khi Đức Gi�su giải th�ch Kinh th�nh cho họ v� rồi khi Người �cầm lấy b�nh, d�ng lời ch�c tụng, bẻ ra v� trao cho họ�.

Việc bẻ b�nh. Khi c�c Kit� hữu ti�n khởi qui tụ nhau v�o c�c ng�y Ch�a nhật để l�m việc thờ phượng, họ đ� kh�ng diễn tả cho những người l�ng giềng về việc họ l�m như ch�ng ta m� tả ng�y nay: �t�i đang đi dự lễ�, hay �t�i sẽ đến nh� thờ�. Hầu như họ n�i l�: �t�i đang đi dự lễ bẻ b�nh�.

Điều n�y cũng giống như c�u chuyện Emmaus h�m nay. Hai m�n đệ thuật lại cho người bạn đồng h�nh mới của họ cuộc khổ nạn Đức Gi�su đ� trải qua m� họ đ� chứng kiến v� t�m trạng ch�n nản của họ về điều đ�. Điều ch�ng ta học được từ to�n bộ c�u chuyện Tin mừng v� nhấn mạnh cho ch�ng ta trong suốt Tuần Th�nh l�: Đức Gi�su đ� kh�ng đến như một du kh�ch để đi dạo quanh, tr� chuyện với �d�n địa phương�, ngắm c�c cảnh quan tự nhi�n v� c�c k� quan kiến tr�c của Gi�rusalem � v� rồi bỏ đi trước khi nỗi đau v� sự sụp của đổ của kế hoạch của Người bắt đầu.

Thay v� thế, Người đ� đi trọn vẹn h�nh tr�nh nh�n loại, giống như ch�ng ta, tất cả con đường qua đau khổ v� c�i chết. Nếu như t�i đặt niềm tin v�o Đức Gi�su, Thi�n Ch�a l�m người, th� đ� sẽ phải l� Đấng kh�ng chỉ biết đến niềm vui của con người, nhưng c�n biết cả những kh� khăn của t�i � c�ch trọn vẹn. Đ� l� điều t�i nghĩ đến trong nghi thức �bẻ b�nh� trong Th�nh lễ của ch�ng ta h�m nay, Đức Gi�su ở với ch�ng ta � tr�n suốt cả h�nh tr�nh!

Nếu như t�i kh�ng nhớ đối với t�i Đức Gi�su l� ai v� Thi�n Ch�a đ� y�u thương t�i như thế n�o, th� t�i hy vọng mắt t�i sẽ lại được mở ra ở lễ bẻ b�nh. T�i hy vọng, như hai m�n đệ tr�n đường, nếu mắt t�i �nh�n xuống�, khi t�i thấy tấm b�nh được bẻ ra t�i sẽ lại cảm nghiệm Đức Gi�su phục sinh đang bước đi với t�i trong nỗi đau của t�i, mở mắt t�i để t�i thấy cuộc sống nơi m� t�i chỉ thấy sự chết.

Khi mắt họ được mở ra, hai m�n đệ đ� quay trở lại với c�c m�n đệ kh�c ở Gi�rusalem, những người m� Th�nh Luca cho ch�ng ta biết họ �c�ng nhau qui tụ lại�. Ở đ�, trong cộng đo�n, họ được biết rằng Đức Gi�su đ� thực sự sống lại. C�u chuyện Emmaus n�y sẽ mở mắt ch�ng ta để thấy điều đang xảy ra tại cộng đo�n phụng vụ h�m nay. Ch�ng ta, những kh�ch bộ h�nh c�ng nhau: c� lẽ, trong cuộc sống mắt ch�ng ta cũng nh�n xuống bởi v�, c�ch n�y hay c�ch kh�c, niềm hy vọng của ch�ng ta đ� bị tan vỡ do sự mất m�t, bị bạn b� hay người y�u ruồng bỏ, khủng hoảng t�i ch�nh, thất vọng về Gi�o hội của chta, hay một cảm nhận về sự vắng b�ng Ch�a trong cuộc đời.

Ch�ng ta qui tụ với cộng đo�n, trong đ� c� một số người l� gương mẫu về đức tin cho ch�ng ta, dẫu cho họ gặp những ho�n cảnh kh� khăn. Nếu ch�ng ta đ� nh�n xuống, th� nhờ v�o nh�n chứng của cuộc sống v� lời của những người trong cộng đo�n đức tin, niềm hy vọng của ch�ng ta sẽ l�e s�ng, khi n� bắt đầu trở lại với cuộc sống. Ch�ng ta mừng lễ giống như khung cảnh Tin mừng h�m nay: c�c th�nh vi�n của cộng đo�n l� những nh�n chứng cho cuộc sống của Đức Kit� ở giữa họ; ch�ng ta cũng nghe Lời được loan b�o v� mở ra cho ch�ng ta. (ch�ng ta hy vọng c�c anh em giảng thuyết đ� l�m c�ng ở việc nh� v� cầu nguyện trước !).

Sau khi nghe Lời n�i với cuộc đời của m�nh, ch�ng ta khẩn thiết cầu xin những nhu cầu của thế giới v� của Gi�o hội. Tiếp đến, ch�ng ta đến trước b�n th�nh để ch�c tụng Ch�a về những điều ch�ng ta đ� nghe. Một lần nữa, ch�ng ta nh�n ngắm Ch�a Kit� trong lễ �bẻ b�nh�. 

Lm. Jude Siciliano, O.P. (Anh em Nh� học Đa Minh chuyển ngữ)

 

H�y can đảm l�n đường loan b�o tin mừng phục sinh

Cv 2,14.22-33; Tv 15; 1 Pr 1,17-21; Lc 24,13-35

 

K�nh thưa qu� vị,

Tr�nh tự thời gian trong c�c b�i đọc h�m nay đ�i hỏi ch�ng ta phải gạt lối suy nghĩ th�ng thường của m�nh sang một b�n, như người ta thường n�i: �Để gi� cuốn đi.� V� đ�y l� Ch�a Nhật thứ ba m�a Phục Sinh, n�n ch�ng ta cho rằng c�c b�i đọc h�m nay sẽ nối kết trực tiếp đến biến cố phục sinh. Ngay cả b�i Tin Mừng cũng vậy, chứ kh�ng chỉ ri�ng c�c b�i đọc trong s�ch C�ng vụ T�ng đồ.

Qu� vị hiểu được đoạn mở đầu trong b�i đọc thứ nhất chứ? �Khi ấy, �ng Ph�r� đứng l�n�� �i, đ� l� một sự thay đổi lớn nơi t�ng đồ Ph�r� nếu so với h�nh động của �ng v�o đ�m Đức Gi�su bị bắt. Trong khi Đức Gi�su đang bị x�t xử trước Thượng Hội đồng, th� ở ngo�i s�n, �ng Ph�r� lại chối Thầy đến ba lần (Mt 26,57-75). Song, h�m nay ch�ng ta được nghe kể lại rằng: ��ng Ph�r� đứng chung với Nh�m Mười Một, lớn tiếng n�i với d�n ch�ng rằng�� C� phải cũng l� �ng Ph�r� h�m đ� chăng? Người m�n đệ nh�t đảm h�m n�o đ� trở th�nh một nh� giảng thuyết dũng cảm. �ng kể cho đ�m đ�ng đang tụ họp rằng họ đ� giết �Đức Gi�su Nadar�t, Đấng đ� được Thi�n Ch�a sai đến.� Điều g� đ� th�m nhập v�o �ng Ph�r�, một ngư d�n mỏng gi�n? �ng v� c�c m�n đệ kh�c, những kẻ đ� quả quyết theo Đức Gi�su đến c�ng, nhưng tất cả lại bỏ chạy khi thời điểm thử th�ch xảy đến?

Đ� l� l� do ch�ng ta phải linh động về tr�nh tự thời gian cho c�c b�i đọc h�m nay. �ng Ph�r� chưa rao giảng ngay sau biến cố phục sinh, nhưng khi Ch�a Th�nh Thần hiện xuống trong ng�y lễ Ngũ Tuần, �ng lập tức thi h�nh điều đ�. Kh�ng phải l� c�i g� đ� th�m nhập �ng Ph�r�, m� l� một Đấng n�o đ�. Ch�nh trong ng�y Ch�a Nhật lễ Hiện Xuống, �ng Ph�r� v� những m�n đệ kh�c đ� được đầy tr�n Th�nh Thần v� điều đ� đ� l�m n�n mọi sự kh�c biệt.

Th�nh Luca thuật lại: kết quả sau b�i giảng của �ng Ph�r� (b�i đọc h�m nay chỉ l� một phần) l� �H�m ấy, đ� c� th�m khoảng 3000 người theo đạo� (Cv 2,41). Thử tưởng tượng xem 3000 người nhờ ph�p rửa, m� l�nh nhận Th�nh Thần chắc hẳn l� thuộc nhiều th�nh phần x� hội, cũng như kh�c nhau về tuổi t�c. Một số c� thể l� đang thực sự t�m kiếm sự hiệp th�ng s�u xa hơn đời sống với Thi�n Ch�a, đang khi một số kh�c chỉ t�nh cờ v� những nhu cầu t�n gi�o. Trong số họ, c� cả những người tội lỗi. Những kẻ bệnh hoạn, tật nguyền chắc chắn cũng c� mặt ở đ�; cả đ�n �ng lẫn đ�n b�; n� lệ cũng như tự do; hạng ph� gia hay kẻ cơ bần; d�n th�nh Gi�rusalem v� kh�ch ngoại kiều, những người v�o th�nh để ăn mừng đại lễ (2,8-12).

Đ� l� những g� �đ� xảy ra l�c đ�, c�n h�m nay l� Ch�a Nhật thứ ba m�a Phục Sinh, chứ chưa phải l� Ch�a Nhật lễ Hiện Xuống. Tuy nhi�n, th�ng điệp của th�nh Ph�r� vẫn lay động lương t�m v� khơi dậy niềm khao kh�t của ch�ng ta. H�m nay, th�nh Ph�r� nhắc nhớ ch�ng ta rằng ch�nh Thi�n Ch�a đ� l�m cho Đức Gi�su chỗi dậy. Ch�ng ta cũng được ban cho cuộc sống mới v� cuộc sống n�y khơi dậy nơi ch�ng ta một nhận thức về biến cố Ngũ Tuần đang k�o d�i. Ch�ng ta ao ước nhận được �n huệ n�o của Th�nh Thần trong ng�y lễ Ngũ Tuần n�y? Đ�y l� l�c để suy nghĩ về điều đ�.

Liệu c� điều g� sai tr�i khi ch�ng ta khao kh�t ngọn lửa của Ch�a Th�nh Thần thanh tẩy? Một cuộc chữa trị tinh thần hay thể x�c? Ơn được can đảm chăng, như một �ng Ph�r� đầy Thần Kh�, đ� can đảm b�y tỏ đức tin của m�nh? Một nghị lực mới mẻ cho việc cầu nguyện chăng? Trở n�n một chứng nh�n dũng cảm hơn cho gia đ�nh v� b� bạn c� được kh�ng? Một ngọn lửa c�ng l� được nh�m l�n chăng? Lễ Ngũ Tuần l� một đại lễ xa xưa v� cũng l� một đại lễ mới mẻ h�m nay! Lời chứng của �ng Ph�r� h�m nay nhắc nhớ ch�ng ta về những g� c� thể thực hiện, khi Thần Kh� ngự xuống tr�n c�c m�n đệ đang mong mỏi đợi chờ. Ch�ng ta mong ước Th�nh Thần sẽ thực hiện điều mới mẻ n�o cho tinh thần đầy mệt mỏi v� đ�ng chặt bởi c�c th�i quen? Ch�ng ta c� một th�ng cầu nguyện xin ơn kh�n ngoan để nhận ra nhu cầu của m�nh, v� cầu xin Ch�a Th�nh Thần đến mang theo c�c �n sủng để thỏa l�ng mong ng�ng của ch�ng ta.

Qu� vị c� để � xem c� bao nhi�u c�u chuyện Tin Mừng diễn ra tr�n những chặng đường, trong khi người ta đang đến hay rời khỏi nơi n�o đ� kh�ng? C�u chuyện tr�n đường Emmau ph� hợp với những tr�nh thuật di chuyển như thế. Một người l� Cl��p�t v� người kia rất c� thể l� vợ �ng ta (Ga 19,25), đ� rời khỏi Gi�rusalem, nơi những hy vọng về Đức Gi�su v� về ch�nh họ đ� chết tr�n thập gi�. Tin Mừng kể lại cho ch�ng ta rằng, họ đang tr�n đường đến Emmau, c� lẽ họ đang quay về với lối sống trước kia. Tuy nhi�n, qu� vị c� cảm nhận rằng nơi họ đang đến kh�ng quan trọng. Sắp đến bước đường c�ng, hai m�n đệ n�y sẽ cố qu�n đi những giấc mơ m� họ đ� từng c� với Đức Gi�su v� sống nốt phần đời c�n lại.

Hai m�n đệ n�y đang tr�n đường đi, nhưng họ kh�ng biết m�nh đi về đ�u, cho đến khi c� một người lạ c�ng đi với họ, lắng nghe nỗi đau buồn v� sau đ� kh�ch lệ họ thực hiện một cuộc h�nh tr�nh đầy kinh ngạc, đ� l� trở về Gi�rusalem. Ở đ�, hai m�n đệ n�y sẽ kể lại h�nh tr�nh của m�nh, kể về c�ch thức họ đ� được gặp Đấng Phục Sinh tr�n đường đi.

Th�nh Luca v� c�c t�c giả s�ch Tin Mừng kh�c đ� khai mở cho ch�ng ta thấy Thi�n Ch�a đang đi về ph�a ch�ng ta. Qua Đức Gi�su, ch�ng ta cũng được mời gọi l�n đường. Từ l�c khởi đầu Tin Mừng, lời k�u gọi c�c m�n đệ được hiểu như việc bỏ lại mọi thứ sau lưng v� tiến l�n ph�a trước để theo Đức Kit�. Đức Gi�su đ� dẫn đường đến th�nh Gi�rusalem v� những kẻ kh�c đ� theo Người. Sau biến cố phục sinh v� biến cố Ch�a Th�nh Thần hiện xuống, họ sẽ lại trở th�nh những nh� lữ h�nh, đi đến tận c�ng tr�i đất để loan b�o Tin Mừng Cứu độ. Đấng Phục Sinh l�i cuốn từng người ch�ng ta v� ban �n sủng để ch�ng ta tiến l�n ph�a trước. Cũng như hai m�n đệ tr�n đường Emmau, ch�ng ta được mời gọi để chia sẻ với người kh�c về một Thi�n Ch�a m� ch�ng ta đ� kh�m ph� ra tr�n chuyến lữ h�nh của m�nh.

C�c m�n đệ rời Gi�rusalem kia kh�ng thuộc th�nh phần những người nổi trội, kh�ng thuộc nh�m n�ng cốt của Đức Gi�su. Họ cũng giống như rất nhiều người trong ch�ng ta, những Kit� hữu tiến bước mỗi ng�y, bận t�m với những nỗi thất vọng. Họ kể cho người lạ mặt đ� nhập cuộc với họ về c�i chết của Đức Gi�su v� về những niềm hy vọng đ� vụt tắt nơi họ. �Nhưng ch�ng t�i vẫn đang hy vọng�� D� l� họ đ� được nghe những người phụ nữ b�o rằng Đức Gi�su đ� sống lại, nhưng họ vẫn kh�ng cảm thấy vui sướng. Đức Gi�su cần hướng dẫn v� nhắc nhớ họ rằng, c�c ng�n sứ đ� ti�n b�o cuộc khổ nạn của Đấng M�sia.

Họ đến l�ng Emmau v� đ� mời Đức Gi�su ở lại c�ng. Đang khi Người bẻ b�nh v� trao cho họ, th� �mắt họ được mở ra.� Những sự kiện trong Bữa Ăn Cuối C�ng đang được t�i hiện. Sau khi gi�p mặt với Đấng Phục Sinh, �ng Cl��p�t v� người bạn đồng h�nh lại l�n đường lần nữa, với một th�ng điệp vốn đ� l�m con tim họ bừng ch�y. Những g� họ đ� thấy như một lời kết th� giờ đ�y ch�nh l� sự khởi đầu, một khởi đầu m� chỉ c� Thi�n Ch�a mới thực hiện, đ� l� mang lại sự sống từ trong c�i chết.

Khi người lạ mặt nhập đo�n c�ng hai m�n đệ tr�n đường đi v� hỏi xem họ đang thảo luận về điều g�, th�nh Luca kể lại cho ch�ng ta rằng: �Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.� H�nh tr�nh của hai con người ấy đ� dừng lại, họ kh�ng c�n biết nơi n�o để đi v� phải l�m g� nữa. Nhưng Thi�n Ch�a đ� nhập cuộc v�o ho�n cảnh ấy, v� khoảnh khắc ấy đ� được thay đổi với những triển vọng. C� lẽ ng�y nay ch�ng ta đang đặt c�u hỏi rằng: �Phải l�m g� tiếp đ�y? Đi đ�u b�y giờ?� Ch�ng ta dừng lại tr�n chuyến h�nh tr�nh của m�nh. Ng�y Ch�a Nhật h�m nay, ch�ng ta thực hiện những g� m� c�c m�n đệ đầu ti�n đ� l�m, đ� l� ch�ng ta �quy tụ với nhau.� Ch�ng ta l� một gi�o hội v� Đức Kit� Phục Sinh c�ng Th�nh Thần của Người hằng ở c�ng ch�ng ta. Ch�ng ta gặp gỡ Đức Kit� Phục Sinh khi c�c b�i đọc Kinh Th�nh được c�ng bố v� quảng diễn cho ch�ng ta. Ch�ng ta gặp gỡ Đức Kit� trong cộng đo�n của m�nh, trong lời cầu nguyện v� trong việc bẻ b�nh. Như khi Đức Gi�su chủ tọa bữa ăn với hai m�n đệ tr�n đường Emmau thế n�o, th� Người vẫn chủ tọa nơi b�n tiệc của ch�ng ta ng�y nay như vậy.

V� rồi ch�ng ta sẽ rời nơi tụ họp n�y để l�n đường n�i cho người kh�c biết về Đức Kit� Phục Sinh. Ch�ng ta cũng sẽ cảm nghiệm được Người như hai m�n đệ tr�n đường Emmau, nơi những người lạ mặt m� ch�ng ta gặp gỡ tr�n h�nh tr�nh đời m�nh, nhất l� trong số những người đang phải chịu đau khổ v� vụt tắt niềm hy vọng. Với họ, ch�ng ta sẽ n�n như những dấu chỉ của niềm hy vọng v� ch�ng ta đ� được gặp gỡ Đức Gi�su khi ch�ng ta l�n đường, v� được nu�i dưỡng bởi ch�nh Người qua lời v� c�c B� t�ch.