Năm A

 
 

Ch�a Nhật XXXI Thường Ni�n - Năm A
Ml 1,14b - 2,2b.8-10 / 1Tx 2,7b-9.13 / Mt 23,1-12
 

An Phong op : Quyền B�nh �ể Phục Vụ

Như Hạ : L�nh đạo l� l�nh đạn

Fr. Jude Siciliano, op : H�y để Lời t�c động nơi anh em

Fr. Jude Siciliano op : H�y sống trung thực v� nhất qu�n

G. Nguyễn Cao Luật op : Hướng Đến Sự Thật

Giac�b� Phạm Văn Phượng op : H�y sống th�nh thật

Lời Ch�a V� Th�nh Thể : Quyền B�nh Để Phục Vụ

Fr. Jude Siciliano, op : Ch�ng ta l� anh em với nhau
 


An Phong op

Quyền B�nh �ể Phục Vụ
Mt 23,1-12

B�i Tin mừng h�m nay thuật lại việc Ch�a Gi�su tấn c�ng những người Pharis�u giả h�nh, th�ch ph� trương. �ồng thời, Ng�i cũng vạch ra một c�ch sống của người m�n đệ trong việc h�nh sử quyền b�nh : "Quyền b�nh l� để phục vụ".

Hẳn l� c� nhiều phản ứng kh�c nhau khi nghe b�i Tin mừng h�m nay :

C� người sẽ dửng dưng, v� những g� được n�i đến trong b�i Tin mừng n�y chẳng d�nh d�ng g� tới m�nh; nhưng th�i độ đ� sẽ c� lẽ l� một dấu hiệu xấu, v� Lời Ch�a thực sự lu�n l� một sứ điệp trao gởi cho người n�o biết lắng nghe.

C� người sẽ mừng thầm, v� kh�ng thấy m�nh mắc phải những điều m� Ch�a Gi�su đ� khiển tr�ch nơi những người Pharis�u giả h�nh. Nhưng th�i độ mừng thầm như thế c� lẽ l� một dấu hiệu xấu. Bởi lẽ một th�i độ tự m�n sẽ dễ l�m cho người m�n đệ �ức Gi�su đi v�o ch�nh vết xe của những người Pharis�u.

C� người sẽ hả h� v� cho rằng những lời của �ức Gi�su thật th�ch đ�ng cho những bọn giả h�nh, ng�y xưa cũng như ng�y nay; những người sống đạo qu� h�nh thức, th�ch ph� trương; hay "l�n mặt dạy đời"� Nhưng th�i độ hả h� cũng l� một dấu hiệu xấu; bởi lẽ, trước sứ điệp của �ức Gi�su, bổn phận của ch�ng ta l� x�t m�nh chứ kh�ng phải x�t người.

C� người sẽ c� th�i độ "nổi loạn", v� nhận thấy Gi�o hội c� một cơ cấu tổ chức qu� h�nh thức; c�c "đấng bậc" trong Gi�o hội qu� quan li�u, cha ch�� họ thấy dường như �ức Gi�su đồng t�nh với m�nh khi bảo đừng gọi ai dưới đất l� Cha� Nhưng th�i độ n�y c� lẽ cũng l� một dấu hiệu xấu; v� họ kh�ng c� tinh thần chia sẻ tr�ch nhiệm chung với gia đ�nh Gi�o hội; v� đặt m�nh đứng ở b�n ngo�i, b�n tr�n, để ph� ph�n một c�ch dễ d�i.

Th�i độ đ�ch thực của người m�n đệ �ức Gi�su, trước hết, l� phải tự x�t lại tinh thần sống đạo của m�nh; v� điều ch�nh yếu kh�ng phải l� x�t n�t về những ng�n từ "cha", "thầy", "người l�nh đạo"; nhưng l� x�t xem m�nh c� thực sự đ�n nhận gi�o huấn của Ch�a Gi�su l� vị Thầy duy nhất kh�ng; c� thực sự cậy dựa v�o một m�nh Thi�n Ch�a l� Cha n�ng đỡ chở che kh�ng; c� thực sự sống tinh thần huynh đệ, phục vụ đối với anh chị em của m�nh kh�ng.

Lạy Ch�a Gi�su,
Chỉ c� một m�nh Ch�a mới c� thể cứu ch�ng con
khỏi l�ng �ch kỷ,
khỏi th�i ki�u căng,
khỏi những ham muốn bất ch�nh,
khỏi tội lỗi d�y v�.

Lạy Ch�a Gi�su,
Xin đừng để con đi t�m sự giải tho�t ở nơi đ�u kh�c.


Như Hạ

L�NH �ẠO : L� L�NH �ẠN
Mt 23,1-12

Hiện tại Việt Nam được xếp v�o một trong 20 nước tham nhũng nhất thế giới. Bệnh tham nhũng đ� th�nh nan y. Trong khi C�ng gi�o'Việt Nam chỉ chiếm 8% d�n số, c� tới 30% giới trẻ ghiền ma t�y l� người C�ng gi�o. Tất cả những dữ kiện ấy tố c�o Việt Nam tr�n ngập những con người chỉ th�ch hưởng thụ �t biết phục vụ.

Trước sự kiện đ� ch�ng ta phải l�nh g� ? Tại sao c� t�nh trạng trầm trọng như vậy ? Chẳng lẽ giới trẻ bị bỏ rơi, kh�ng c�n l� đối tượng cho Gi�o hội phục vụ sao? Thực tế Gi�o hội c� vạch nổi hướng đi cho giới trẻ h�m nay kh�ng ?

C�I T�I ��NG GH�T

Ch�nh khi đức Gi�su thấy đ�m đ�ng, Người chạnh l�ng thương, v� họ lầm than vất vưởng, như bầy chi�n kh�ng người chăn dắt (Mt 9:36). L� do v� thời đ� c�c kinh sư v� người Pharis�u chỉ t�m c�i t�i trong việc l�nh đạo quần ch�ng. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đ�m tiệc, chiếm h�ng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta ch�o hỏi ở những nơi c�ng cộng v� được thi�n hạ gọi l� r�p-bi (Mt 23:6-7). Suốt ng�y luẩn quẩn với c�i t�i như thế họ kh�ng thể n�o biết được nhu cầu quần ch�ng.

C�i t�i kệch cỡm ấy bị phơi b�y ra �nh s�ng: Họ l�m mọi việc cốt để cho thi�n hạ thấy. Quả vậy họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua �o thật d�i (Mt 23:5). ��ng l� mầu m�. Họ th�ch khoe khoang c�i t�i hơn l� bắt tay hanh động c�ng với người kh�c. Quyền b�nh trở th�nh cứu c�nh mọi đam m� thống trị, chứ kh�ng phải l� phương tiện phục vụ quần ch�ng. Họ b� những g�nh nặng m� chất l�n vai người ta, nhưng ch�nh họ lại kh�ng buồn động ng�n tay v�o (Mt 23:4). Cần g� phải bận t�m tới những điều tầm thường! Bọn d�n đen ngu dốt mới phải c�i đầu khuất phục. C�n ta thuộc h�ng l�nh đạo phải sống tr�n lề luật chứ ?

B�n ngo�i c�c kinh sư v� người Pharis�u rất đạo đức v� uy quyền, v� họ ngồi tr�n t�a �ng M� s� m� giảng dạy (Mt 23:2). Họ kh�ng phải l� những người ngu dốt. Tr�i lại họ giảng rất hay, chủ yếu g�y thanh thế v� danh vọng c� nh�n, chứ kh�ng nhằm l�m s�ng danh Thi�n Ch�a. Họ đưa ra những lề luật v� giải th�ch luật rất th�ng suốt để khai s�ng quần ch�ng. �ức Gi�su cũng c�ng nhận như thế : Những g� họ n�i th� anh em h�y l�m, h�y giữ ; nhưng đừng theo h�nh động của họ m� l�m, v� họ n�i m� kh�ng l�m (Mt 23:3).

C� một khoảng c�ch gh� gớm giữa l� thuyết v� thực h�nh. �ức Gi�su kh�ng thể chấp nhận một kiểu mẫu l�nh đạo như thế trong cộng đồng Người. Thật vậy đối với �ức Gi�su, l�nh đạo kh�ng phải l� ngồi văn ph�ng ra chỉ thị. Nhưng l�nh đạo l� l�nh đạn. Ch�nh �ức Gi�su l� người l�nh đạn đầu ti�n khi trở th�nh đối tượng cho mũi d�i dư luận đầy hiềm kh�ch của c�c kinh sư v� người Pharis�u. Ch�a đ� thi h�nh trước ti�n điều Ch�a căn dặn m�n đệ : Trong anh em, người l�m lớn hơn cả, phải l�m người phục vụ anh em (Mt 23:l l). Mức phục vụ anh em nơi �ức Gi�su đ� l�n tới tột đỉnh, v� Người đ� hi sinh cả mạng sống. Ch�nh nh�t gi�o đ�m thấu tim Người đ� mạc khải ch�n l� l�nh đạo l� l�nh đạn.

Tại sao �ức Gi�su c� thể phục vụ tới mức đ� ? Chắc chắn Người chẳng bao giờ nghĩ tới c�i t�i như c�c kinh sư v� người Pharis�u. Người kh�ng ngh�nh ngang, m�u m�. Tr�i lại Người đ� quỳ gối rửa ch�n cho c�c m�n đệ. Th�y ở giữa anh em như một người t�i tớ''.

Mặc d� t�i giảng thuyết v� c�ng l�i h�t quần ch�ng, Người kh�ng t�m hư danh, nhưng chỉ lo cho danh th�nh Cha vinh hiển (Mt 6:9; Lc l l:2).

THẾ GIỚI �ẠI �ỒNG

Sống theo tinh thần �ức Gi�su, người m�n đệ l�m th�nh một cộng đồng huynh đệ, kh�ng c�n giai cấp, địa vị. Trong cộng đồng thi�ng li�ng, mọi người đều b�nh đẳng. Thật vậy tất cả anh em đều l� anh em với nhau (Mt 23:8). Quyền b�nh chỉ c� nghĩa l� phục vụ anh chị em (Faley:1994). Bởi đ� ngay gi�m mục v� linh mục cũng chỉ l� những thừa t�c vi�n trong cộng đồng d�n Ch�a. Thật � nghĩa khi một linh mục ghi tr�n tấm ảnh kỷ niệm ng�y l�nh t�c vụ linh mục, thay v� ghi nhớ ng�y chịu chức. Phục vụ đ� được Ch�a nhấn mạnh như dấu chỉ đặc biệt của cộng đồng Ki t� gi�o (Faley: 1994).

Kh�c hẳn với mẫu mực �ức Gi�su đ� n�u cao, cộng đồng Do th�i gi�o ng�y xưa gồm to�n những người l�nh đạo đi trệch đường v� l�m cho nhiều người lảo đảo tr�n đường Luật dạy kh�ng tu�n giữ đường lối Thi�n Ch�a, v� hay nể v� khi �p dụng Luật (MI 2:8-9). Họ kh�ng d�m gi�o h�a d�n ch�ng đ�ng nhức. C� lẽ x�i oản đ� l�nh cho thầy ngọng miệng rồi chăng ?

Tr�i lại ngay từ đầu trong cộng đồng Ki t� gi�o, Ch�a đ� n�u cao nhiều mẫu gương phục vụ Trong khi thi h�nh sứ mệnh, c�c t�ng đồ đ� kh�ng hống h�ch hay ăn tr�n ngồi trốc, tr�i lại c�c ng�i lu�n khoan dung v� quan t�m tới mọi người (Faley: 1994). Trong số đ�i th�nh Phao l� nổi bật như một vị l�nh đạo xuất ch�ng v� đ� cư xử thật dịu d�ng, chẳng kh�c n�o mẹ hiền ấp ủ con thơ (lTx 2:7). Người xả th�n v� Ch�a v� anh em : Ch�ng t�i đ� qu� mến anh em, đến nỗi sẵn s�ng hiến cho anh em, kh�ng những Tin Mừng của Thi�n Ch�a, m� cả mạng sống của ch�ng t�i nữa (lTx 2:8). R� r�ng nếu thừa t�c vụ hay việc phục vụ trong tinh thần thương y�u l� một dấu hiệu m�n đệ đ�ch thực, th� phải l�m cho con người dấn th�n to�n diện, chứ kh�ng thuần t�y như l�m một c�ng t�c trong Gi�o hội (Doohan: 1993).

�ƯỜNG HƯỚNG L�NH �ẠO H�M NAY

�ức Th�nh Cha Gioan Phao l� II c�ng l�nh s�ng tỏ ch�n l� l�nh đạo l� l�nh đạn khi Người bị bắn gục tr�n quảng trường th�nh Ph�r� năm 198l. �� l� h�nh ảnh n�i l�n tất cả sự thật b�n trong của việc l�nh đạo d�n Ch�a. Sự thật b�n trong l� t�nh y�u Ch�a Ki t� th�c đẩy ch�ng t�i (2Cr 5: 14) phải x�y dựng Nước Thi�n Ch�a bằng con đường phục vụ.

Con đường phục vụ lớn lao v� gian tru�n nhất l� đến với người ngh�o. Vị l�nh đạo Hội Th�nh h�m nay cho thấy: Bảo vệ người ngh�o l� l�m vinh danh Thi�n Ch�a, l� Cha của người ngh�o (VietCatholic 28/1O/1999). �� l� hướng đi Ch�a đ� vạch ra cho Gi�o hội từ 2000 năm trước: Kẻ ngh�o được nghe Tin Mừng (Một l l:5; x.Lc 4.: 18). �ức Th�nh Cha giải th�ch': Trong T�n ƯỚC, sứ điệp phấn khởi vui mừng được loan b�o cho người ngh�o... Ngh�o kh� của Ph�c �m lu�n lu�n h�m � phải c� sẵn một t�nh y�u vĩ đại cho nhĩmg người ngh�o nhất tr�n thế giới (VietCatholic 28/1O/1999).

Người ngh�o l� nạn nh�n trực tiếp của bất c�ng. Ch�ng ta kh�ng thể b�nh ch�n như vại trước cảnh anh em đang chết đ�i cả về vật chất lẫn tinh thần. Cứu được con người khỏi cảnh đ�i khổ, Hội Th�nh sẽ trở n�n niềm hi vọng cho mu�n d�n, Ki t� hữu thực hiện được sứ mệnh do niềm tin đ�i hỏi. Chỉ c� phục vụ v� điều kiện mới biến cải thế giới. Phục vụ như thế kh�ng tr�nh khỏi b�a r�u dư luận v� hi sinh quyền lợi lẫn mạng sống. Nhưng c� sẵn s�ng l�nh đạn, ch�ng ta mới trở th�nh l�nh đạo trong �ức Gi�su Kit�. Một tinh thần dấn th�n cho c�ng l� sẽ l�i h�t giới trẻ v� người ngh�o h�m nay v�o Nước Thi�n Ch�a, một Nước c�ng ch�nh, b�nh an v� hoan lạc trong Th�nh Thần (Rm 14:17).


Fr. Jude Siciliano, OP.

H�y để Lời t�c động nơi anh em
(Mt 23, 1-12)

Qu� vị l�nh đạo t�n gi�o hẳn chẳng mấy ưa th�ch b�i Tin Mừng h�m nay. Bởi n� ch�i tai, kh� nghe đối với bản th�n. C�c tuần lễ vừa qua Ch�a Gi�su đ� tranh luận gắt gao với c�c thượng tế đền thờ v� c�c kỳ mục trong d�n. L�c n�y Ng�i quay sang c�c nh�m Pharis�o, Saduc�o v� k� lục. N�i cho c�ng bằng th� Ng�i kh�ng kiển tr�ch họ dốt gi�o l� của đạo Do th�i. Ngược lại, họ rất th�nh thạo v� c� thể dạy dỗ người kh�c. Tin mừng h�m nay kể rằng kh�ng những họ chăm chỉ học hỏi kinh th�nh m� c�n đeo thẻ kinh, nối d�i tua �o. Thẻ kinh l� những chiếc hộp nhỏ c� c�c d�y bằng da thuộc buộc v�o c�nh tay tr�i v� trước tr�n, trong đựng những c�u tr�ch từ kinh th�nh, để cụ thể ho� nhu cầu suy tư lề luật v� đưa ra thực h�nh. Người Pharis�o đeo những hộp đ� v�o c�c giờ kinh buổi s�ng. D�n thường, đơn sơ, tưởng rằng như thế họ cầu nguyện sốt sắng đặc biệt lắm! Tua �o l� miếng vải len trắng gắn v�o c�c g�c của �o d�i bằng những d�y băng m�u xanh lơ, mục đ�ch l� để gi�p ghi nhớ c�c r�ng buộc của lề luật v� giao ước. Như vậy, n� l�m d�i th�m c�i �o cho�ng. Người Pharis�o muốn chứng tỏ rằng họ tu�n thủ giao ước v� lề luật rất t�ch cực, cặn kẽ kh�ng ch� được.

Ba danh xưng m� người biệt ph�i ưa th�ch nhất l� : Th�y, Cha v� Người chỉ đạo. Dĩ nhi�n kh�ng loại trừ c�c từ kh�c b�y tỏ l�ng k�nh trọng v� qu� mến. Ng�y nay vẫn c�n khuynh hướng n�y trong Hội th�nh v� cuộc sống x� hội hằng ng�y. �iều n�y mọi người đều nhận thấy nhữc nhối, nhưng kh� m� thay đổi được. �� c� rất nhiều thử nghiệm, tuy nhi�n vẫn kh�ng th�nh c�ng. Ngo�i ph�p lịch sự x� giao n� c�n ẩn t�ng t�nh " kẻ cả" trong đ�. �ụng đến tự �i của kẻ cả hẳn sinh nhiều hậu quả tai hại. L�ng khi�m nhường đ�ch thực quả l� kh�, chỉ "trẻ nhỏ" mới c� được m� th�i. Ở đ�y Ch�a Gi�su cũng kh�ng l�n �n th�i quen d�ng c�c từ đ�, Ng�i chỉ l�n �n t�nh tự m�n m� người ta đ� ng�y thơ tưởng m�nh xứng đ�ng. Theo � nghĩa tuyệt đối th� những từ n�y chỉ được �p dụng cho một m�nh Thi�n Ch�a m� th�i. Nhưng loại suy th� c� thể d�ng cho bất cứ ai, miễn l� xứng hợp.

�iều đ�ng tiếc cho những người biệt ph�i l� họ dạy m� kh�ng l�m, tức kh�ng ph� hợp với danh hiệu: " C�c kinh sư v� c�c người Pharis�o ngồi tr�n to� Mos� m� giảng dạy. Vậy tất cả những g� họ n�i, anh em h�y l�m, h�y giữ, c�n những việc họ l�m th� đừng c� l�m theo. V� họ n�i m� kh�ng l�m." V�o thời đ�, kinh sư Lề luật chia l�m hai phe ch�nh. Phe nghi�m ngặt v� phe rộng r�i. Những kinh sư nghiệm ngặt giải th�ch lề luật một c�ch nghiệt ng� đến nỗi việc tu�n thủ trở n�n kh� khăn nặng nề cho thường d�n l� những người dốt n�t, m� chữ, chẳng biết lề luật l� g�. Họ phải lệ thuộc v�o c�c kinh sư để nhận ra lề luật. Theo c�c kinh sư n�y việc tu�n thủ lệnh truyền của Lề luật phải đến tận chi tiết vụn vặt nhất. V� vậy bất cứ l�c n�o họ cũng c� thể tố c�o c�c thường d�n ngu dốt l� vi phạm luật lệ. John Pilch nhật x�t rằng: những th�y cắt nghĩa lề luật nghi�m ngặt thường ưa l�m cho g�nh nặng tu�n thủ trở n�n ng�y c�ng nặng nề hơn chứ kh�ng c� khuynh hướng giảm nhẹ ch�t n�o (the cultural world of Jesus). Như vậy họ chất l�n vai t�n hữu Do th�i g�nh nặng m� ch�nh họ cũng kh�ng mang nổi. ��ng như Tin Mừng h�m nay ghi lại. Hậu quả l� Thi�n Ch�a của tuyển d�n xem ra l� một bạo ch�a lu�n đ�i hỏi v� �p buộc. Ngược lại, những kinh sư rộng r�i c� c�i nh�n mục vụ hơn. Trong Tinh Mừng h�m nay Ch�a Gi�su l�n �n c�c kinh sư nghi�m ngặt. Ng�i tố c�o họ đứng v�o vị tr� m� ch�nh họ cũng kh�ng kham nổi, đ� vậy cũng kh�ng l�m chi để giảm nhẹ g�nh nặng cho d�n ch�ng.

Rồi đến những chuyện li�n quan tới danh dự. T�n của bố t�i l� H�ng. L�c c�n b� liệu t�i c� thể gọi �ng l� H�ng điếc được kh�ng ? Bởi lẽ �ng hơi l�ng tai ! Nếu t�i đ� d�m l�m như vậy, c� lẽ kh�ng c�n sống đến ng�y h�m nay. Vậy m� Ch�a Gi�su lại tuy�n bố: "Anh em đừng gọi ai dưới đất n�y l� cha của anh em." Thế th� phải gọi thế n�o những linh mục ch�nh xứ m� t�i gi�p lễ khi c�n l� ch� b� con ? Th� dụ linh mục Minh đầu h�i, gọi l� "cụ h�i" được kh�ng ? Xin ph�p li�n tưởng đến một đoạn Tin mừng kh�c cũng rất lạ l�ng. ��ng l� t�i c� phải chặt tay, m�c mắt khi những thứ đ� l�m dịp cho t�i phạm tội ? Hay từ cha từ mẹ, bỏ họ h�ng để đi theo Ch�a Gi�su ? T�i c� cảm gi�c rằng Ch�a d�ng những đại ng�n đ� để diễn tả một quan điểm cần l�m nổi bật. Tin mừng h�m nay cũng vậy th�i. Trong thời Ch�a Gi�su, danh xưng "Cha" kh�ng chỉ �p dụng để gọi người đ�n �ng đ� sinh ra m�nh, m� c�n l� tước hiệu danh dự d�ng cho những người lớn tuổi nổi tiếng tốt l�nh, c�n sống hay đ� qua đời. Thực ra, Ch�a Gi�su đơn giản chỉ khuy�n nhủ c�c M�n đệ đừng bận t�m t�m kiếm danh vọng hay chức tước. Ch�ng ta phải tập trung � lực v�o c�ng việc rao giảng Tin Mừng v� l�m tr�n ơn gọi của m�nh. Nếu như đời sống ch�ng ta am hợp với lời m�nh dạy dỗ th� đ� đủ lắm rồi. H�y để Thi�n Ch�a lo liệu những g� c�n lại: tiếng thơm hay chức quyền. �ược đ�nh gi� cao trước t�n nhan Ng�i l� điều duy nhất gi� trị, v� chỉ c� Ng�i biết r� ai l� người đ�ng được như vậy.

B�i đọc tr�ch s�ch ti�n tri Malachia l� một bảng c�o trạng c�c nh� l�nh đạo t�n gi�o thời ấy. Họ phạm tội bẻ cong tr�ch nhiệm của người l�m th�y. Họ chẳng đi theo đường lối Ch�a chỉ. Hơn nữa c�n dậy dỗ sai lầm: "C�c ngươi đ� đi trệch đường Ta v� l�m cho nhiều người lảo đảo tr�n đường luật dạy". Những tư tế xa đoạ đ� đ� ho�n to�n thất bại trong vai tr� l�nh đạo v� giảng dậy. S�ng nay, khi ngồi tr�n m�y bay rời phi trường Kenedy, t�i liếc qua trang nhất của tời b�o địa phương. H�ng chữ lớn đập ngay v�o mắt. �ịa phận Brooklyn bị kiện bồi thường 300 triệu đ� la cho 40 nạn nh�n do h�ng gi�o sĩ lạm dụng t�nh dục suốt 40 năm vừa qua. T�i d�m chắc những t�n hữu trong nh� thờ nghe b�i đọc ti�n tri Malachia kh�ng thể kh�ng li�n tưởng đến những linh mục tồi tệ của địa phận m�nh. Than �i ! chẳng sao bịt mắt được họ. Vậy th� linh mục, tu sĩ, những người nắm giữ chức vụ rao giảng phải lấy b�i đọc Malachia n�y l�m cảnh gi�c cao độ.

Nhưng lời kinh th�nh n�i, kh�ng phải chỉ hạn chế v�o một v�i nh� l�nh đạo t�n gi�o n�o đ�, m� cho to�n thể c�c t�n hữu ho�n cầu, mọi nơi, mọi thời. Vậy c�c linh hồn phải lục lọi lương t�m, kh�ng nguy�n về những sai phạm, tội lỗi tương tự, m� c�n những thiếu x�t, kh�ng đ�p ứng c�c l� tưởng m� ch�ng ta dạy dỗ v� tuy�n xưng. C�ch n�y hay c�ch kh�c ch�ng ta kh�ng những lơ l� với c�c giới răn của Thi�n Ch�a. Nhưng, như ti�n tri Malachia tố c�o, kh�ng n�u gương s�ng đủ về bổn phận l�m vinh quang danh Ng�i. ��ng l� hết mọi t�n hữu phải l� c�c nh�n chứng của Ch�a bằng lời n�i v� việc l�m: "C�c ngươi đả đi trệch đường nẻo Thượng đế." Ng�n sứ Malachia lu�n miệng ph�n n�n. L�c đầu ng�i tuy�n sấm nh�n danh �ức Ch�a Trời, nhưng sau bằng ch�nh c� nh�n m�nh. " Thế m� tại sao ch�ng ta phản bội nhau m� vi phạm giao ước của cha �ng ch�ng ta ?" Nghe tương tự như th�nh Phaol� viết cho gi�o đo�n Roma: "Thật vậy, t�i l�m g�, t�i cũng chẳng hiểu: �iều t�i muốn th� kh�ng l�m, nhưng điều t�i gh�t, th� lại cứ l�m. (7, 15). Như vậy, bản t�nh hay chết của ch�ng ta cần được trợ gi�p. Malachia, Phaol� v� tất cả nhận loại trong hiện trạng của m�nh k�u g�o Thi�n Ch�a cứu độ. R� r�ng l� như vậy.

Bất cứ ai trong ch�ng ta nếu nắm giữ vai tr� gi�o dục (gi�m mục, linh mục, nữ tu, gi�o l� vi�n, �ng b�, cha mẹ�) phải hết l�ng khi�m nhường lắng nghe c�c b�i đọc h�m nay v� nhận ra tr�ch nhiệm n�u gương s�ng trong c�ch ăn, nết ở, lời n�i, việc l�m. Chẳng vậy ch�ng ta sống v� �ch. Tuy nhi�n, khi x�t m�nh v�o mỗi buổi chiều, ch�ng ta vẫn t�m thấy thiếu x�t. Cho n�n niềm an ủi v� sự kh�ch lệ của ch�ng ta l� ở lời kết th�c b�i đọc 2 h�m nay : "Ch�ng t�i kh�ng ngừng tạ ơn Thi�n Ch�a, v� khi ch�ng t�i n�i cho anh em nghe lời Thi�n Ch�a, anh em đ� đ�n nhận, kh�ng phải như lời người ph�m, m� như lời Thi�n Ch�a. ��ng theo bản t�nh của lời ấy. N� t�c động nơi anh em l� những t�n hữu."

Chắc chắn l� th�nh Phaol� đ� nhận ra những bất to�n của m�nh. Nhưng những g� ng�i bộc bạch đều từ Thi�n Ch�a m� đến. �ấng đ� gieo trồng lời Ng�i trong th�nh nh�n. Sứ điệp của Tin Mừng kh�ng phải l� những từ ngữ chết, m� Lời hằng sống. N� tăng trưởng trong linh hồn th�nh giả m�i m�i. Tổ ti�n ch�ng ta đ� truyền lại sứ điệp đ� cho ch�ng ta l� con ch�u. Ch�ng ta đ� đ�n nhận lời Ch�a trong nghi lễ phụng vụ h�m nay v� sẽ được nu�i dưỡng bằng Lời Nhập Thể trong b� t�ch M�nh, M�u Th�nh Ch�a. Xin đừng nản ch� v� những yếu đuối hay thiếu x�t của m�nh, nhưng h�y tr�n đầy niềm vui v� hy vọng trong đức tin v� Lời "t�c động nơi anh em l� những kẻ tin k�nh". Thi�n Ch�a chẳng bao giờ xa l�a ch�ng ta. Vậy h�y can đảm xin Th�nh Thần của Ng�i đến ngự giữa cộng đo�n n�y, ban ơn gi�p đỡ ch�ng ta trung thực sống theo lời Ng�i.

��y l� cơ hội tốt để ch�ng ta tuy�n dương những ai đ� dạy dỗ đức tin m� ch�ng ta cử h�nh h�m nay, trong thời điểm rất kh� khăn n�y. Ch�ng ta cảm tạ những vị c�ng bố lời Ch�a trong c�c b�i đọc, c�c tu sĩ nam nữ, c�c gi�o l� vi�n, những người t�nh nguyện hay được trả lương để gi�o dục lời Ch�a cho con em ch�ng ta trong nh� thờ gi�o xứ hay nơi trường học�Họ l� những t�c nh�n qu� b�u, những người c� thể n�i c�ng th�nh Phaol�: "Sẵn s�ng cống hiến cho anh em, kh�ng những Tin Mừng của Thi�n Ch�a, m� cả mạng sống ch�ng t�i nữa, v� anh em đ� trở n�n nghĩa thiết của ch�ng t�i." Họ đ�ng được c�ng nhận v� biểu dương, nhất l� trong lời cầu nguyện gi�o d�n tiếp ngay sau b�i giảng n�y". Amen.


Fr. Jude Siciliano. OP.

H�y sống trung thực v� nhất qu�n
Mt 23, 1-12

Thưa qu� vị,

Khi được đ�o tạo trong c�c chủng viện để phục vụ Hội th�nh, ch�ng t�i thường được nghe c�u n�i: �Sứ điệp được loan b�o nhờ c�c c�c phương tiện�. X�t cho c�ng, mỗi th�nh vi�n trong Gi�o hội đều l� phương tiện rao giảng Lời Ch�a, hay n�i như th�nh Augustino: �Ch�ng ta l� tiếng, Ch�a Gi�su l� Lời, l� nội dung của tiếng, của �m thanh. Đức cố Gi�o ho�ng Phaol� VI ph�t biểu như sau: �Người thời nay ưa lắng nghe nh�n chứng hơn th�y dạy, nếu như họ để tai nghe th�y dạy cũng l� v� c�c th�y dạy đ� l� chứng nh�n�. (Th. Rao giảng TM). N�i c�ch kh�c những ai phục vụ t�n hữu của Ch�a Gi�su trong mu�n v�n đường nẻo kh�c nhau th� phải phục vụ bằng nếp sống của m�nh hơn l� dạy dỗ v� thuyết giảng. Nếu ch�ng ta kh�ng h�nh động đ�ng với những g� m�nh giảng dạy trong th�nh đường, nơi họi họp th� lời giảng của ch�ng ta trở th�nh phản chứng. l� phản chứng..

Trong đời sống của c�c danh ca, t�i tử � h�nh như t�i năng của họ lấp liếm những hạnh kiểm kh�ng mấy tốt đẹp. Th� dụ danh ca nổi tiếng một thời tr�n đất Hoa kỳ Frank Sinatra. Đời tư �ng ta thật qu� quắt. Suốt cuộc đời l�m nghệ thuật, �ng c� những cử chỉ kh�ng đứng đắn như nhẩy cẫng với c�c trẻ đường phố, c� chớn trong c�c qu�n rượu, ph� ph�ch c�c nhiếp ảnh gia khi họ cố gắng chụp h�nh ảnh �ng. Nhưng khi t�i l�i xe đường xa, bật cass�t c�c b�i h�t của �ng ta: �The Lady is a Tramp, New York, New York, Chicago, one for the Road�, th� t�i cảm thấy dễ qu�n những th�i xấu của �ng v� bị cuốn v�o h�t v�o d�ng chảy của �m nhạc.

T�i lại li�n tưởng đến một trường hợp kh�c, gi�o sư dạy �m nhạc cổ điển của t�i ở đại học. C� ta đ�ng l� người đ�ng tr� nặng. H�nh vi của c� g�y n�n nhiều trận cười v� b�nh luận giữa c�c sinh vi�n. Một bạn học của t�i c� lần đ� ph�t biểu: �Mẹ n�y đ�ng l� một l�ng chơi�. Bởi lẽ c� ta ẻo lả, lướt ngang qua c�c d�y b�n trong một qu�n c� ph�. Nhưng khi c� gi�o đứng lớp, t�nh huống kh�c hẳn. C� ta nghi�m trang đ�ng sợ, v� t�i biết ơn c� về l�ng y�u mến nhạc Bach, Chopin, Copland v� nhiều t�c giả cổ điển kh�c nữa, bất kể t�nh c�ch l�ng mạn của c� nơi c�ng cộng.

Tuy nhi�n c�c cấp l�nh đạo t�n gi�o kh�ng bao giờ được h�nh xử hai mặt như vậy nơi c�ng c�ng hay tại tư gia. Họ phải trung thực v� nhất qu�n trong nếp sống. Ph�c �m h�m nay Ch�a Gi�su nhắc nhở như vậy: �Bấy giờ Ch�a Gi�su n�i với d�n ch�ng v� c�c m�n đệ rằng: c�c kinh sư v� những người Pharisi�u ngồi tr�n to� M�s� m� giảng dạy, vậy tất cả những g� họ n�i anh em h�y l�m, h�y giữ, c�n những việc họ l�m, th� đừng c� l�m theo. V� họ n�i m� kh�ng l�m. Họ b� những g�nh nặng m� chất l�n vai người ta, nhưng ch�nh họ lại kh�ng buồn động ng�n tay v�o�. Kiểu c�ch ch�ng ta sống, th�i độ ch�ng ta đối xử với kẻ kh�c, c�ch ăn th�i ở của ch�ng ta hoặc n�ng đỡ hoặc ph� hoại sứ điệp ch�ng ta rao giảng. Bản văn vừa tr�ch dẫn tố c�o nếp sống của ch�ng ta h�m nay. Ch�a Gi�su n�i rằng người Pharisi�u ngồi tr�n to� Moisen tức c� quyền b�nh giảng dạy th� ch�ng ta cũng được trao quyền loan b�o Tin mừng, v� vẫn lớn tiếng thao thức về nhiệm vụ n�y. Tuy nhi�n nếp sống th� ngược lại, ki�u căng, tr�c t�ng, ng�ng ngh�nh, ngạo nghễ trong c�c bữa ăn, đ�m tiệc. Ch�c rượu ngoại trăm phần trăm, thịt th� ngon nhất chợ. Thật giống hệt như người Pharisi�u Ch�a khiển tr�ch h�m nay. �ng M�s� cho họ quyền năng gi�o huấn nhưng họ kh�ng thi h�nh c�c nội dung họ giảng dạy, tức lề luật giao ước với Thi�n Ch�a. Th�nh Luca m� tả họ l� những kẻ tham lam tiền của.

Vậy ch�ng ta n�n nhớ c�u: h�nh động k�u to hơn lời n�i (actions speak louder than words), m� t�m c�ch bớt những giả h�nh hai mặt th� mới đ�ng tin cậy. Ch�a Gi�su muốn ch�ng ta thực sống những điều Ng�i tuy�n bố tuần vừa qua (tuần 30). H�y y�u mến Thi�n Ch�a hết l�ng, hết linh hồn v� hết tr� kh�n ngươi v� thương y�u người th�n cận như ch�nh m�nh. V� đ� l� tất cả luật M�s� v� s�ch c�c Ng�n sứ truyền dạy. N�i c�ch kh�c, Ch�a Gi�su muốn c�c m�n đệ v� những kẻ theo Ng�i dấn th�n ho�n to�n v� đầy đủ cho sứ điệp của Ng�i trong mọi l�nh vực của đời sống m�nh. Họ phải h�nh xử gương mẫu bằng lời n�i, việc l�m trong th�nh đường cũng như ngo�i phố chợ, chứ kh�ng chỉ ở nh� thờ su�ng. B�n ngo�i nh� thờ, ph�ng �o th� qu�n sạch mọi gi� trị thi�ng li�ng. X�t cho c�ng bằng, lịch sự, t�i kh�ng muốn t� vẽ h�nh ảnh của người Pharisi�u, k� lục, luật sĩ, kỳ mục v� thượng tế bằng những lời lẽ qu� đ�ng, coi họ như những v� lại, đểu c�ng. Kẻo ch�ng ta rơi v�o lỗi lầm chống d�n � Ch�u (nước Do th�i thuộc Ch�u �).

Sử s�ch kể lại th� họ l� những l�nh đạo t�n gi�o được d�n ch�ng k�nh trọng. Họ tỉ mỉ giải th�ch v� tu�n giữ lề luật M�s�. Họ rất c� ảnh hưởng tr�n to�n d�n trong v�ng ba trăm năm từ thế kỷ thứ II trước Ch�a Gi�su cho đến hết thế kỷ thứ I c�ng nguy�n( coi the Happer Bible Dictionnary). S�ch n�y kể rằng ph�i Pharisi�u c� nếp sống rất đơn giản, trung th�nh với truyền thống v� đối xử ho� hợp với l�ng giềng. Họ tin v�o cuộc sống sau c�i chết. Đa số muốn sống b�nh an dưới thể chế R�ma (cũng c� số �t phản loạn). V� vậy họ li�n minh với c�c thượng tế, đảng H�r�đ� để duy tr� trật tự x� hội. Họ giải tr�nh lề luật rất nghi�m ngặt, th�m c�c chi tiết để bảo đảm t�nh nguy�n vẹn của luật M�s� cho n�n rất tỉ mỉ trong c�c nghi lễ Phụng vụ ăn chay, bố th�, giữ ng�y Sabbath. D�n ch�ng ngưỡng mộ họ v� nếp sống khổ chế như vậy. Họ lu�n sợ h�i để ra ngo�i lề luật, biến n� th�nh ph�ng kho�ng v� ảnh hưởng của ngoại bang. Vậy th� v� duy�n cớ g� m� Ph�c �m h�m nay Ch�a Gi�su gọi họ l� giả h�nh? Tại sao?

C� lẽ một phần v� sự kiện lịch sử cộng đo�n th�nh Mattheo. Ng�i viết phỏng c�c năm 80-90. Cộng đo�n của ng�i một nửa l� Do th�i, một nửa kh�c l� d�n ngoại trở lại. D� c�n phải phấn đấu với bạn b� cũ, th�n thuộc cũ v� nhất l� c�c cấp l�nh đạo đền thờ cũ, cho n�n th�nh Matth�o muốn gi�p đỡ họ mau tho�t khỏi c�c mặc cảm bằng c�ch nhấn mạnh những kh� khăn Ch�a Gi�su gặp phải với người Do th�i, thậm ch� c� thể n�i Ng�i qu� đ� trong c�c m� tả của m�nh. Cuối c�ng ch�ng ta thấy c� sự t�ch rời ho�n t�an như trong lịch sử kể r�. C�c t�n hữu ti�n khởi ho�n to�n tin tưởng v�o đường lối v� sự dạy dỗ của Ch�a Gi�su.

Đ�ng kh�c cũng c� những chứng cớ trong Ph�c �m tỏ r� l�ng nhiệt th�nh của người Pharisi�u với lề luật, m� c� khi chỉ l� giả dối như hộp kinh thật lớn, tua �o thật d�i, th�ch chỗ danh dự, ưa được b�i ch�o�Ph�c �m kể: �Họ l�m mọi việc cốt để cho thi�n hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua �o thật d�i. Họ ưa ngồi chỗ danh dự trong đ�m tiệc, chiếm h�ng ghế đầu trong hội đường, th�ch được người ta ch�o hỏi ở những nơi c�ng cộng v� được người ta gọi l� th�y�. Chắc chắn kh�ng phải tất cả người Pharisi�u ưa th�ch như vậy, cũng c� những th�nh vi�n nghi�m t�c. Tương tự như ng�y nay, chỉ một số tu sĩ, gi�o sĩ l� bu�ng thả, c�n đa phần l� tốt l�nh cho n�n mới được gi�o d�n k�nh nể v� tin tưởng. Tuy nhi�n, đ� kh�ng phải l� l� do tho�i th�c, tự y�n ủi. Ch�ng ta chẳng c� bằng cớ bảo đảm th�i xấu kh�ng lan tr�n. C� thời, ngay trong Gi�o hội phải cần đến sửa chữa, cải c�ch, m� ng�y nay nh�n lại ch�ng ta thấy xấu hổ. Nhưng l�c ấy, đa phần c� thấy đ�u.

Th� dụ, dưới thời th�nh Catarina th�nh Sienna. B� th�nh đ� đề nghị cắt chức nhiều linh mục, gi�m mục, v� nếp sống bu�ng tuồng, xấu xa, kh�ng xứng đ�ng l� c�c vi�n chức của Gi�o hội. Mới đ�y l� gương m�, gương xấu trong h�ng gi�o phẩm Hoa Kỳ. Một t�n hữu khi tham dự một Th�nh lễ do một linh mục trẻ d�ng, đ� n�i với t�i: he is not meant to pray (�ng ta kh�ng xứng hợp cho việc cầu nguyện). Bởi v� điệu bộ lấc cấc qu�, lo sự đời nhiều qu�. Thật l� xấu hổ. Đ� l� l� do ch�ng ta lấy sự tranh đấu của Gi�o hội ti�n khởi l�m mẫu mực. Th�nh Mattheo giữ lại lời dạy bảo của Ch�a Gi�su về khuynh hướng gỉa h�nh của c�c l�nh đạo t�n gi�o để gi�o dục cộng đo�n của m�nh.

H�nh như khuynh hướng n�y kh�ng chết với c�c Pharisi�u l�c ấy m� c�n dai dẳng m�i cho đến ch�ng ta ng�y nay. Ch�a Gi�su muốn để lời cảnh c�o cho mọi nơi, mọi l�c v� ch�ng ta phải hết sức nhậy cảm về vấn đề n�y. N� l� khuynh hướng rất nguy hiểm v� rất phổ th�ng. Ch�a biết r� ch�ng ta rất c� thể nhiễm l�y, v� quyền h�nh của m�nh tr�n kẻ kh�c. Cho n�n, Ng�i nh�n thẳng v�o c�c m�n đệ, n�i: �Phần c�c con th� kh�ng được vậy�� c�c con ở đ�y gồm ch�ng ta nữa đấy. V� Ng�i thấu suốt mọi sự, mọi thời. Cho n�n chẳng ai trong ch�ng ta c� thể tự phụ l� c�ng ch�nh v� đ�ng địa vị �Pharisi�u của m�nh m� ��thi�n hạ�. N�i cho ngay, chẳng ai trong ch�ng ta khoe được việc l�m am hợp với lời n�i. Giảng dạy một đ�ng, thực chất nếp sống một nẻo, lu�n đ�i hỏi tiện nghi sung sướng cho x�c thịt v� nu�i dưỡng t�nh ki�u ngạo bằng những lời a dua nịnh h�t. Nh�n hiệu pharis�u, l�c n�y, khi kh�c vẫn lủng lẳng quanh cổ ch�ng ta! (The Pharisee label, at one time or austher, hangs around our necks, too!)

Ch�ng ta ki�u căng tự phong �con người lương thiện�, gi�o d�n trung th�nh, c�ng d�n đ�ng k�nh, người đ�ng g�p khả quan cho quĩ x�y cất, từ thiện, cứu đ�i giảm ngh�o, kẻ tu�n thủ luật ph�p nghi�m chỉnh. Nhưng d� sao vẫn bị Lời Ch�a cật vấn, gọi t�n chỉ mặt, đ�i hỏi ch�ng ta coi lại nếp sống của m�nh. Liệu ch�ng ta thật l�ng y�u mến Thi�n Ch�a: hết linh hồn, hết tr� kh�n, hết l�ng muốn, hết sức lực v� thương x�t tha nh�n như ch�nh m�nh kh�ng?

Dĩ nhi�n l� chưa ! Bởi lẽ h�ng tuần, h�ng th�ng, h�ng năm, ch�ng ta vẫn phải đến th�nh đường xin Ch�a tha thứ c�c x�c phạm v� l�nh nhận của ăn nu�i dưỡng. Điều m� Ph�c �m h�m nay nhắc nhớ: cuộc sống của Ch�a Gi�su b�y tỏ: Thi�n Ch�a vẫn ở b�n mọi người , gi�p đỡ mọi người sống tốt l�nh, th�nh thiện, ban cho ch�ng ta tinh thần v�ng phục v� dấn th�n, giống như Ch�a Gi�su! Ch�ng ta cầu xin Th�nh Thần của Ng�i từ l�ng m�nh khi tiến l�n rước lấy M�nh M�u Ch�a. Lời s�ch ti�n tri Malakia lu�n cảnh tỉnh mọi người: �V� giờ đ�y, hỡi c�c tư tế, đ�y l� lệnh truyền cho c�c ngươi. Nếu c�c ngươi kh�ng nghe v� kh�ng lưu t�m t�n vinh danh Ta, Ta sẽ khiến c�c ngươi mắc tai hoạ. Ta sẽ biến ph�c l�nh của c�c ngươi th�nh tai hoạ�. Malakia c� nghĩa l� �sứ giả của ta� chứ kh�ng phải t�n ri�ng một ng�n sứ n�o. T�n thật của �ng kh�ng ai biết, cho n�n th�ng điệp �ng gửi cho c�c tư tế Do th�i l� Lời Thi�n Ch�a, cảnh c�o họ v� ch�ng ta một c�ch nghi�m khắc. Xin đừng coi nhẹ sứ điệp n�y (Sứ điệp n�y xuất hiện v�o khoảng năm 465 trước c�ng nguy�n thời vua Artaxerxes I của Ba tư, d�n Do th�i đang x�y lại đền thờ Gi�rusalem, dưới dự chỉ đạo của Esdras v� Nehemia).

Chi tiết cuối c�ng xin b�n đến l� danh xưng �cha, th�y, người chỉ đạo�. Người ta thương gọi t�i l� cha. Nhưng Ch�a Gi�su dạy c�c m�n đệ đừng gọi ai với c�c danh hiệu ấy. Danh hiệu �rabbi� c� nghĩa đen l� Đấng vĩ đại của t�i, một từ qu� lớn đối với người ph�m. Ch�a muốn chỉ bảo c�c kẻ theo Ng�i chỉ c� một th�y dạy vĩ đại duy nhất l� Thi�n Ch�a, c�n mọi người đều l� học tr� của Ng�i. V�o khoảng thời Ch�a Gi�su, người được vinh dự nhận tước hiệu n�y đầu ti�n l� Saul�Batmith. Người tu gọi �ng l� th�y vĩ đại, bởi kiến thức uy�n th�m của �ng về lề luật M�s� �Abba�, cha. Mặc dầu lời dạy của Ch�a Gi�su, danh xưng cha vẫn len lỏi v�o cộng đồng t�n hữu ti�n khởi v� tồn tại cho đến ng�y nay. C� lẽ n� đi theo truyền thống đan tu. N� d�ng để gọi c�c đan sĩ tu viện trưởng, th�y dạy đ�ng thi�ng li�ng trong c�c tu viện. Từ th�y dạy gợi � chức vụ dạy dỗ m� Ch�a Gi�su l� th�y dạy duy nhất của ch�ng ta. Mọi người l� học tr� của Ng�i. Dầu thế n�o đi nữa cha mẹ dạy đ�ng thi�ng li�ng l� một vị tr� danh dự trong Gi�o hội. Những người ham danh lợi thường ưa th�ch địa vị đ�, bởi n� t�ch người ta ra khỏi đ�m đ�ng. Tuy nhi�n mọi nh� thuyết giảng n�n y�u mến nhiệm vụ hơn l� danh xưng. Ch�ng ta phải thực hiện những điều m�nh giảng dạy hơn l� tước vị h�o huyền, l�m nhẹ bớt những g�nh nặng cho gi�o d�n hơn l� chất th�m những luật lệ nặng nề, v� nghĩa. Danh xưng đ�ch thực của c�c t�i tớ Ch�a l� phục vụ, phục vụ như Ch�a Gi�su đ� l�m gương rửa ch�n cho c�c t�ng đồ v� chết cho nh�n loại. Amen.


G. Nguyễn Cao Luật op

Hướng Đến Sự Thật
Mt 23,1-12

Giả h�nh v� ki�u ngạo

Th�m một lần nữa, Tin Mừng đề cập đến những người Pharis�u. Họ l� những người c� địa vị trong x� hội v� c� tầm ảnh hưởng kh� rộng. V� cũng th�m một lần nữa, lời lẽ của �ức Gi�su với những người Pharis�u chẳng c� ch�t g� l� dịu d�ng, ho� ho�n. �ức Gi�su đ� đưa ra những lời nghi�m khắc với những người tự nhận m�nh biết tất cả, nhưng ch�nh họ lại chẳng hiểu g�.

Vậy, �ức Gi�su quở tr�ch những người Pharis�u về chuyện g� ? Sự dối tr� của họ. Th�ng thường, sự dối tr� chỉ thể hiện qua lời n�i : người ta biết một điều l� sai nhưng lại tr�nh b�y l� đ�ng. Về phương diện n�y, người Pharis�u kh�ng bị khiển tr�ch. �iều họ quả quyết thực sự l� đ�ng : họ c� nhiều kiến thức, c� khả năng x�t xử, lời họ n�i c� thể dẫn đến Thi�n Ch�a, v� dựa v�o những thẩm quyền ch�nh thống. Họ kh�ng n�i năng như những người xa lạ muốn chiếm đoạt một quyền d�nh ri�ng. Họ l� những người "nối quyền �ng M�s� m� giảng dạy" -như lời �ức Gi�su, họ kh�ng giống như những người Xa-ma-ri vốn cũng n�i về �ng M�s�, nhưng gi�o huấn của người n�y đ� sai lạc v� đ� pha trộn th�m nhiều yếu tố kh�c.

Như vậy, sự dối tr� của những người Pharis�u kh�ng phải l� lời n�i, nhưng một c�ch tinh vi hơn, l� sự c�ch biệt, sự m�u thuẫn giữa lời họ n�i v� việc họ l�m. �ức Gi�su đ� nhắn nhủ c�c m�n đệ : "... họ n�i m� kh�ng l�m. Vậy những g� họ dạy, th� anh em h�y l�m, h�y giữ ; nhưng c�ch họ h�nh động, th� đừng c� l�m theo." Bởi v� "họ b� những g�nh nặng m� chất l�n vai người ta, nhưng ch�nh họ th� lại kh�ng buổn động ng�n tay v�o."

Ch�nh sự c�ch biệt, m�u thuẫn giữa lời n�i v� việc l�m cho thấy tội của người Pharis�u. �� l� tội "giả h�nh". �� l� một sự đứt đoạn m� chẳng hề c� một sự hối hận n�o.

Xa hơn, �ức Gi�su cho thấy động lực của th�i độ n�y : "họ l�m mọi việc cốt để cho thi�n hạ thấy", tức l� l�ng "ki�u ngạo". ��y kh�ng phải l� th�i độ của một người tự h�o về những t�i năng hay sự th�nh c�ng của m�nh, nhưng đ�y l� một th�i độ tinh vi hơn, nếu kh�ng muốn n�i l� tệ hại hơn. Quả vậy, đ�y l� việc sử dụng quyền b�nh v� uy t�n c�ch bất xứng : đ�ng ra quyền b�nh v� uy t�n n�y chỉ c� được � nghĩa khi được sử dụng qua v� v� nhiệm vụ của m�nh, v� khi c� nhiệm vụ c�ng cao, lại phải khi�m tốn hơn. L�m sao người ta c� thể tự nhận l� dụng cụ của Thi�n Ch�a để th�ng truyền cho người kh�c về mầu nhiệm của Người, m� lại chẳng quan t�m đến việc sống xứng hợp với mầu nhiệm n�y, v� cũng chẳng � thức rằng dụng cụ chỉ c� được � nghĩa khi phục vụ cho điều m�nh đ� khấn nguyện, v� m�nh chỉ l� một phản �nh cho sự thật lớn lao !

Những người Pharis�u đ� sử dụng quyền b�nh được trao cho m�nh để t�m vinh quang cho c� nh�n v� thu lợi cho ri�ng m�nh. �� l� một sự sai lầm, một sự lạm dụng quyền b�nh. Sự lạm dụng n�y đ� biến họ trở th�nh những người đổi bại, ngược hẳn với điều họ bắt người kh�c l�m.

V� lợi �ch của cộng đo�n

Thi�n Ch�a đ� trao Lời của Người cho con người, nhưng họ đ� t�m c�ch chiếm đoạt Lời đ�. Con người được mời gọi l�m sứ giả, l�m t�i tớ của Lời, nhưng họ đ� biến lời đ� th�nh dụng cụ để phục vụ lợi �ch ri�ng m�nh. N�i c�ch kh�c, họ biến Thi�n Ch�a th�nh người phục vụ họ.

Hiện tượng n�y đ� xảy ra v�o thời �ức Gi�su, v� vẫn xảy ra trong Hội Th�nh, suốt d�ng lịch sử. �� kh�ng phải chỉ một lần Hội Th�nh bỏ qu�n sứ mạng cốt yếu của m�nh l� loan b�o Tin Mừng, c�c gi�o sĩ cũng đ� nhiều lần ủng hộ c�c chế độ trong đ� quyền lợi của c�c vị được đề cao để rổi xa l�nh những đ�i hỏi của Tin Mừng. V� với c�c t�n hữu, sứ điệp được trao cho họ l� sự thật, nhưng họ đ� cắt nghĩa theo lối của m�nh để x�t đo�n người kh�c.

Những lời của �ức Gi�su với những người Pharis�u cho thấy th�i độ đầy giận dữ trước sự dối tr�, v� những h�nh thức của n� l� ki�u căng, giả h�nh, ham m� tiền bạc. Những h�nh thức dối tr� n�y l�m ph�t sinh t�nh trạng v� trật tự v� cuối c�ng l�m b�ng nỗ bạo lực. Nơi người Pharis�u, lời ch�n l� đ� bị tr�i chặt, bị giam h�m, v� thay v�o đ� l� lời dối tr�.

Ngo�i ra, những lời của �ức Gi�su cũng l� một lời mời c� sức giải tho�t, cho thấy một ch�n trời mới đang xuất hiện v� l�m nỗ tung những giới hạn của con người. Những lời n�y mở ra một khoảng kh�ng để mọi người c� thể hiệp th�ng với nhau, c�ng chia sẻ một ưu tư l� trao đổi về � nghĩa chiều hướng sẽ đến, lu�n cần phải kh�m ph�. Những lời n�y kh�ng phải l� những l� do để tạo ra những trường ph�i đối lập nhau, hay g�y ra những cuộc chiến tranh c� sức g�y huỷ diệt.

Ch�nh v� mỗi người � thức được nhiệm vụ của m�nh l� bảo to�n sự si�u việt của Lời, n�n Hội Th�nh phải l� điểm quy chiếu của sứ vụ : kh�ng ai c� quyền giải th�ch lời Ch�a m� kh�ng hướng đến to�n thể cộng đo�n. Kh�ng ai c� quyền giải th�ch lời Ch�a nhằm lợi �ch cho c� nh�n m�nh, trong khi coi thường �ch lợi của người kh�c.

Tuy vậy, Hội Th�nh cũng nhắc nhở rằng, những lời n�y c� thể được đọc lại theo một c�ch thức mới do những người ngh�o. Cộng đo�n c� thể được h�nh th�nh v� bao gổm những tr�ch nhiệm nhỏ hay lớn, nhưng từ căn bản, tất cả mọi người trong cộng đo�n đều b�nh đẳng trước Thi�n Ch�a. Mọi người, bất kể l� ai, đều l� anh em với nhau, v� đều c�ng được mời gọi l�m cho lời đ� �m vang trong l�ng họ được th�m phong ph�. Mỗi người, trong tr�ch nhiệm, trong c�ng việc của m�nh, đều l� chứng t� sống động v� đ�ch thực của lời Ch�a.

�ừng tưởng m�nh v� tội

�ọc lại đoạn Tin Mừng n�y, c� lẽ ch�ng ta cảm thấy vui mừng v� nhận thấy �ức Gi�su n�i những lời n�y với những người đ� sống v� chết từ l�u. Ng�y nay chẳng c�n những kinh sư, những biệt ph�i nữa ! C� phải như thế kh�ng ?

V� cũng c� l�c ch�ng ta nghĩ rằng c� một v�i sự kiện trong qu� khứ c� thể đ� tạo n�n một h�nh ảnh kh�ng mấy tốt đẹp về Hội Th�nh, nhưng tất cả đ� tr�i v�o dĩ v�ng.

Nhưng coi chừng, ch�ng ta lại kh�ng phải l� kinh sư v� biệt ph�i đấy sao, mỗi khi lời n�i v� việc l�m của ch�ng ta kh�ng ăn khớp với nhau.

V� nhất l�, khi đ� � thức được điều n�y, kh�ng phải chỉ l� thay đổi th�i độ, c�n cần phải thay đổi lối nh�n : tất cả ch�ng ta đều l� anh em, tất cả ch�ng ta đều b�nh đẳng, v� ch�ng ta "chỉ c� một Cha, chỉ c� một Thầy, chỉ c� một vị l�nh đạo."

Kh�ng c� điều n�o cho ph�p ch�ng ta nghĩ m�nh trổi vượt hơn người kh�c, d� đ� l� kiến thức, địa vị x� hội, hay tiền bạc ... Những điều n�y chỉ c� � nghĩa một khi ch�ng ta đem sử dụng để phục vụ người kh�c.

Như vậy, để kh�ng dối tr� với người kh�c, với ch�nh m�nh v� với t�nh y�u, ch�ng ta phải gạt bỏ đi thế giới đầy ảo tưởng v� những vẻ b�n ngo�i m� t�nh �ch kỷ v� th�i ki�u ngạo hay tạo n�n nơi ch�ng ta. Chỉ khi n�o ch�ng ta kh�ng c�n muốn "thu g�p" v� "xuất hiện", l�c ấy ch�ng ta mới bắt đầu "l�".

C�i nh�n đức tin xuy�n thủng tấm m�n b�n ngo�i. C�i nh�n của những người Pharis�u, c�i nh�n dối tr�, thật qu� th� thiển, bởi v� n� chỉ mong t�m vinh quang v� �ch lợi. C�i nh�n n�y kh�ng cho ch�ng ta nhận ra những chiều k�ch về con người cũng như về Thi�n Ch�a. Ch�ng ta chẳng ngạc nhi�n nếu một ng�y n�o đ� những vẻ h�o nho�ng n�y rơi xuống, v� khi ấy những chiều k�ch đ�ch thực sẽ xuất hiện, trong đ� -như lời �ức Gi�su- "người đầu hết sẽ trở n�n cuối hết, v� người cuối hết sẽ n�n trước hết."

"Trong tất cả thảm kịch của Ch�a Gi�su, người ta cảm nhận ra v� sao người Pharis�u lại sợ Người. Bởi v� sự hiện diện của Người l�m mờ đi sự hiện diện của họ, v� ch�nh v� sự ghen tương m� họ đ� kh�ng c� được sự s�ng suốt để nhận biết Người ... Họ đ� cảm thấy kh�ng c� vũ kh� ngang tầm để tấn c�ng Ch�a Gi�su. Họ đ� cảm thấy ở Người c� một sự ch�n thật, một sự chất ph�c m� họ kh�ng thể với tới được. Họ đ� muốn bịt tiếng n�i đ�, bởi tiếng n�i đ� qu� trung thực khiến họ kh�ng thể tho�t được ...

"Nếu ch�ng ta l�m điệu l�m bộ với mốt n�y, mốt nọ, điều đ� �ch lợi g� cho ai, v� đ� chỉ l� những điệu bộ. �iều m� d�n ch�ng chờ đợi, đ� l� một � thức sắc b�n về sự c�ng bằng, l�ng nh�n �i, một sự rộng mở của con tim, rộng mở đến v� hạn, đến độ người ta nhận ra ở đ� c� c�i g� rất lạ l�ng, một � tưởng của Thi�n Ch�a ..."

(x. Maurice Zundel, "Sống với Ch�a trong c�i thường ng�y",
tập 1, trang 33-35).


Giac�b� Phạm Văn Phượng op

H�y sống th�nh thật
Mt 23,1-12

Trong một tỉnh kia, người ta tổ chức một buổi thuyết tr�nh về C�ng gi�o tiến h�nh. Họ mời �ng X, l� người đạo đức v� c� t�i diễn thuyết để n�i chuyện với mọi người. Trước mặt c�ng ch�ng đ�ng đảo, đủ mọi hạng người, đủ mọi tầng lớp, �ng X l�n diễn đ�n n�i rất h�ng hồn, rất tr�i chảy v� rất hay. Đại � �ng n�i như sau : �L�c n�y hơn bao giờ hết, người C�ng gi�o ch�ng ta phải hoạt động t�ch cực trong mọi l�nh vực, nhất l� trong l�nh vực x� hội v� từ thiện. Đối với những người chung quanh, ch�ng ta phải vui vẻ, h�a nh�, nhẫn nhịn, dễ cảm th�ng v� gi�p đỡ.v.v..�. Dứt lời, mọi người vỗ tay hoan ngh�nh nhiệt liệt.

Sau đ�, �ng X l�n xe ra về. Trong số th�nh giả đến nghe buổi diễn thuyết đ�, c� một người ở cạnh nh� �ng X, t�m tr� c�n đang th�n phục b�i thuyết tr�nh vừa hay vừa thức thời của �ng, nghe thấy trong nh� �ng X c� tiếng c�u nh�u v� la rầy người gi�p việc, người ấy t� m� lắng nghe. C�u chuyện xảy ra như sau : khi �ng X diễn thuyết về, chị gi�p việc dọn cơm cho �ng. Đồ ăn rất ngon, nhưng c� m�n x�o hơi mặn. �ng X kh� chịu, gắt gỏng v� gọi chị gi�p việc l�n hỏi : �Ai nấu m�n n�y ?� - �Dạ, thưa con� - �Tại sao mặn đắng thế ? tao c� phải l� t� đ�u m� cho ăn uống thế n�y ?� - �Xin �ng tha cho con, con đang đau n�n v� � n�m qu� tay �. Tức th� c�i đĩa x�o bay xuống s�n nh�, đổ vỡ tung t�e. Rồi �ng X đứng l�n tuy�n bố : �Th�ng n�y tao sẽ trừ lương m�y�. N�i xong �ng l�n xe ra tiệm ăn. T�c giả c�u chuyện n�y kết luận : �Ng�n h�nh tương phản l� thế. Lời n�i v� việc l�m kh�ng đi đ�i với nhau. Tr�n đời kh�ng thiếu những người như �ng X�.

C�u chuyện tr�n cũng đ�ng với b�i Tin Mừng h�m nay, Ch�a Gi�su tố gi�c trước d�n ch�ng v� khuyến c�o họ: phải đề ph�ng t�nh c�ch giả h�nh, b�i b�c của c�c kinh sư v� c�c người Pharis�u. Qua đ�, Ch�a dạy ch�ng ta phải sống th�nh thực, n�i v� l�m trước sau như một.

Trước hết, ch�ng ta thấy Ch�a Gi�su ph�n biệt quyền gi�o huấn v� những người thi h�nh quyền đ�. Ng�i nh�n nhận c�c kinh sư v� những người Pharis�u c� quyền gi�o huấn, v� họ l� những người được ch�nh thức trao ph� nhiệm vụ dạy bảo d�n ch�ng, do đ� khi họ thi h�nh nhiệm vụ l� họ nh�n danh Ch�a, n�n phải nghe v� giữ những g� họ dạy bảo. Nhưng tại sao Ch�a lại n�i đừng bắt chước hay noi theo những việc l�m của họ ? Phải chăng họ đ� l�m những việc bất ch�nh ? Kh�ng, Ch�a nh�n nhận họ c� l�m nhiều việc thật, b�nh thường th� đ� l� những việc tốt, đ�ng khen. Nhưng đối với Ch�a th� chẳng nghĩa l� g�, v� th�i độ giả h�nh, giả dối của họ. L�ng đạo đức của họ chỉ c� t�nh c�ch giả dối, một thứ đạo đức chỉ c� c�i vỏ bề ngo�i.

Mỉa mai hơn nữa, đ�ng tr�ch hơn nữa, họ l� những người c� thẩm quyền giải th�ch luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng v� khắt khe đ�i hỏi mọi người phải tu�n giữ, nhưng ch�nh họ th� lại kh�ng �p dụng cho ch�nh m�nh. Như thế, họ n�i m� kh�ng l�m, hoặc tệ hơn nữa, họ n�i một đ�ng l�m một nẻo, giữa ng�n ngữ v� h�nh vi của họ m�u thuẫn nhau, l� thuyết v� thực h�nh của họ bất nhất, kh�ng đi đ�i với nhau, họ rao truyền Lời Ch�a, y�u cầu người kh�c phải tu�n giữ, nhưng ch�nh họ th� lại kh�ng tu�n giữ. Cho n�n, trong con người họ như c� hai phương diện, hai nếp sống : một nếp giả h�nh trong bổn phận, c�n với ch�nh m�nh, lại bu�ng xu�i, bu�ng thả. Cuộc sống nước đ�i như vậy thật l� phiền phức : c�i đ�ng trở th�nh c�i sai, v� c�i sai mới l� c�i đ�ng.

Đ� l� l� do tại sao Ch�a Gi�su c� th�i độ nghi�m khắc, đến nỗi Ch�a khiển tr�ch họ nặng lời. Ng�i kh�ng bao giờ c� thể chấp nhận c�i th�i giả h�nh v� th�i độ ki�u căng tự phụ của họ. Ch�nh lối sống đạo như vậy đ� chuốc lấy cho họ những lời khiển tr�ch, c� thể n�i l� gay gắt nhất ph�t ra từ miệng Ch�a Gi�su. Ch�a đ� vạch trần bộ mặt giả h�nh v� c�ch sống đ�ng kịch b�i b�c của họ. V� Ch�a dạy ch�ng ta đừng sống như thế, h�y sống th�nh thực : n�i v� l�m đi đ�i với nhau v� trước sau như một.

T�m hiểu b�i Tin Mừng h�m nay, ch�ng ta h�y suy nghĩ : những người kinh sư v� Pharis�u kh�ng c�n, nhưng lối sống, c�ch sống của họ chưa chết, vẫn c�n nơi ch�ng ta. Nh�n v�o x� hội, nh�n v�o đời sống thực tế, ch�ng ta thấy : sự giả h�nh, giả dối vẫn hiện diện khắp nơi, từ l�nh vực t�nh y�u đến l�nh vực văn h�a, kinh tế, t�n gi�o, ch�nh trị, người ta vẫn thường d�ng c�i bề ngo�i m� lừa đảo nhau. T�nh giả h�nh giả dối ai m� kh�ng gh�t. Thế nhưng, người ta lại thường đồng � rằng : muốn được kẻ kh�c k�nh nể, cần phải giăng một bức m�n dầy giữa tư tưởng v� c�i lưỡi, giữa t�m trạng b�n trong v� c�ch xử sự b�n ngo�i

Thậm ch� c� người c�n n�i một c�ch trơ trẽn, trắng trợn rằng : Nếu muốn th�nh c�ng, th� đừng bao giờ duy tr� một th�i độ trước mặt cũng như sau lưng, đừng bao giờ n�i ra ngo�i miệng như m�nh đang nghĩ trong bụng. Dầu trong bụng c� gh�t người ta thậm tệ, b�n ngo�i phải l�m ra vẻ ngọt ng�o. V� vậy m� trong x� hội thiếu g� những người : �bang mặt m� kh�ng bằng l�ng�. Th�nh ra, để ph�n biệt được : ai l� người ch�n ch�nh, ai l� kẻ giả h�nh, ai l� người trung nghĩa, ai l� kẻ lừa thầy phản bạn, thật l� kh�. Ch�ng ta thấy c� những người đ�ng kịch rất t�i t�nh : b�n ngo�i coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế, m� thực sự b�n trong l� tay độc �c gh� tởm v� c�ng. C� những người tỏ ra đ�ng ho�ng dưới �nh nắng, nhưng trong b�ng r�m tỏ ra lưu manh đ�ng sợ.

Ch�ng ta h�y suy nghĩ : đời sống của ch�ng ta c� g� l� giả h�nh hay đ�ng kịch kh�ng ? Ch�ng ta h�y nhớ : ch�ng ta c� thể sống đ�ng kịch, che đậy giấu diếm người n�y người kh�c, nhưng ch�ng ta c� thể sống m�i như thế kh�ng ? Kh�ng đ�u, chắc chắn sẽ c� ng�y �ch�y nh� ra mặt chuột� . Giả như ch�ng ta sống được m�i như thế suốt đời, kh�ng ai biết chăng nữa, nhưng ta c� thể qua mắt được Thi�n Ch�a kh�ng ? Chắc chắn l� kh�ng. Được l�ng người đời hay được người đời ca tụng, nhưng kh�ng được l�ng Ch�a, kh�ng được Ch�a ghi c�ng, th� cũng như kh�ng, chẳng c� gi� trị g�. Đ� l� điều ch�ng ta cần suy nghĩ v� tự nhủ m�nh khi l�m bất cứ điều g�, kể cả những việc đạo đức.


Lời Ch�a V� Th�nh Thể

Quyền B�nh Để Phục Vụ
Mt 23, 1 - 12

Lạy Ch�a Gi�su Th�nh Thể,

H�m nay Ch�a đ� tr�ch mắng những người Pharisi�u về việc họ n�i m� kh�ng l�m. Lời n�i v� việc l�m của họ kh�ng đi đ�i với nhau. Họ sử dụng quyền b�nh của m�nh kh�ng phải để phục vụ nhưng để chất những g�nh nặng tr�n vai người kh�c. C� lẽ ch�ng con cảm thấy vui v� Ch�a đ� tr�ch mắng họ. Nhưng th�i độ đ� của ch�ng con kh�ng phải l� một th�i độ tốt. Bởi lẽ trước sứ điệp của Ch�a, bổn phận của ch�ng con l� x�t m�nh, nh�n lại bản th�n chứ kh�ng phải l� x�t người.

Ch�a đ� chỉ r� cho ch�ng con việc h�nh sử quyền b�nh : �Quyền b�nh l� để phục vụ�. Phục vụ qu�n m�nh, phục vụ bằng cả con tim l� b�i học m� Ch�a muốn dạy mỗi người ch�ng con. Lạy Ch�a, Ch�a đ� n�i : �Con Người đến kh�ng phải để người ta phục vụ nhưng l� để phục vụ�. Ch�nh Ch�a đ� n�u gương phục vụ cho ch�ng con bằng việc rửa ch�n cho c�c m�n đệ ng�y xưa. �Thầy đ� n�u gương cho anh em để anh em cũng l�m như Thầy đ� l�m cho anh em� (Ga 13, 14-15). Lạy Ch�a trong anh chị em ch�ng con cũng c� người bước theo gương phục vụ của Ch�a nhưng con số n�y c�n rất �t.

Ng�y h�m nay Ch�a đ� đặt để mỗi người ch�ng con v�o mỗi địa vị kh�c nhau v� những địa vị ấy đều c� mục đ�ch cuối c�ng l� phục vụ. Nhưng lạy Ch�a, ch�ng con dường như chưa thực h�nh theo gương phục vụ của Ch�a. Quyền b�nh l� để phục vụ nhưng ch�ng con lại xem n� như mục đ�ch của đời sống. Trong x� hội vật chất h�a n�y, ch�ng con như đang lao theo cuộc chiến về quyền lực. Sức mạnh được đo bằng những nấc thang của quyền lực. Quyền lực đ� che lấp kh�ng cho ch�ng con nhận ra b�n tay quan ph�ng của Ch�a. Ch�a muốn ch�ng con c� được những điều kiện thuận lợi để phục vụ anh em nhưng ch�ng con kh�ng nhận ra. Kh�ng những ch�ng con kh�ng d�ng những điều kiện Ch�a ban để phục vụ m� ch�ng con lại d�ng những điều kiện thuận lợi ấy để thủ đắc t�ch g�p về cho ch�nh bản th�n m�nh. Ơn ri�ng Ch�a ban ch�ng con đ� kh�ng d�ng đ�ng mục đ�ch l� phục vụ người kh�c nhưng lại l� phục vụ ch�nh m�nh.

Phục vụ l� y�u thương anh em như Ch�a đ� dạy. Ch�ng con cũng y�u thương anh em m�nh nhưng chỉ dừng lại ở những người anh em th�n thiết, th�n cận hay những người ủng hộ ch�ng con m� th�i. Bởi lẽ, ch�nh những người ấy mới đ�p lại l�ng y�u thương của ch�ng con. Như thế th�i độ phục vụ trong y�u thương của ch�ng con cũng chưa ph� hợp với lời Ch�a đ� dạy : �Nếu anh em y�u thương kẻ y�u thương m�nh, th� c� �n nghĩa g� đ�u� (Lc 6, 32).

Phục vụ l� qu�n m�nh, kh�ng m�ng chi danh lợi. Lạy Ch�a, trong cuộc sống h�ng ng�y ch�ng con vẫn tự cho m�nh l� những con người phục vụ qua những c�ng việc thường nhật của ch�ng con, nhưng đ� mới chỉ l� thứ phục vụ c� nh�n. Ch�ng con l�m những c�ng kia việc nọ để cho người kh�c biết v� đề cao bản th�n của ch�ng con. ch�ng con cảm thấy m�nh kh�ng kh�c g� những người Pharis�u ng�y xưa.

Lạy Ch�a Gi�su Th�nh Thể, với th�n phận yếu đuối ch�ng con c�n rất nhiều thiếu s�t l�m Ch�a kh�ng h�i l�ng, xin ban sức mạnh của Ch�a cho mỗi người ch�ng con để ch�ng con cam đảm l�n đường phục vụ bằng cả tấm l�ng. Xin cho ch�ng con biết thực h�nh phục vụ bằng những việc l�m tốt để đ�p ứng những nhu cầu của anh chị em một c�ch đ�ng l�c, đ�ng nơi một c�ch thiết thực, th�ch hợp v� hữu hiệu. Xin cho ch�ng con nhận ra rằng phục vụ bằng những c�ng việc tốt ch�nh l� một c�ch l�m s�ng danh Ch�a.

Xin Ch�a trợ lực cho những anh chị em đang phục vụ hết m�nh cho những người c� ho�n cảnh sống kh� khăn hơn ch�ng con. Xin cho những anh chị em ấy lu�n t�m được niềm vui c� Ch�a hiện diện trong c�ng việc phục vụ của m�nh. Amen


Lm. Jude Siciliano, OP (
Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh G�-Vấp)

Ch�ng ta l� anh em với nhau
Mt
23: 1-12

H�m nay, anh em c� muốn bỏ qua b�i đọc một trong s�ch Malakhi hay kh�ng? Chắc hẳn t�c giả đang lo lắng v� dường như đang tr�nh b�y một Đấng m� ch�ng ta đ� biết từ trước: �Thi�n Ch�a của Cựu Ước,� nổi bật với sự giận dữ v� đe dọa. Ch�ng ta kh�ng thể thay thế bằng một trong những b�i đọc trong Ch�a Nhật tuần trước của ng�n sứ Isaia hay sao? Những b�i đọc n�y n�i về c�c cuộc lưu đ�y thời Babylon, đồng thời đoan hứa rằng Thi�n Ch�a kh�ng qu�n d�n Người, Người sẽ chăm s�c họ v� sẽ dẫn đưa họ tr�n những con đường bằng phẳng để cho họ trở về qu� cha đất tổ v� được hưởng sự tự do.

Thi�n Ch�a đ� ho�n tất những lời hứa đ�. Cyr�, vua Ba Tư, đ� trả tự do cho d�n Do Th�i v� c�n gi�p họ t�i thiết Đền thờ (Ch�a Nhật XXIX, Is 45:1, 4-6). Đền thờ th� được t�i thiết v� cung hiến� nhưng d�n th� kh�ng. Ng�n sứ Malakhi rất đau buồn v� c� nhiều bất ổn trong d�n ch�ng, c�c gia đ�nh th� tan r� v� h�ng Tư tế cũng như L�vi kh�ng hề c� một động th�i n�o để gi�p d�n ch�ng biết thật l�ng phụng thờ Thi�n Ch�a. Kh� khăn vẫn c�n đ�. Đời sống cộng đồng trở n�n ph�ng t�ng v� �hưởng thụ�, trong t�nh thế đ�, ng�n sứ Malakhi cảnh b�o rằng những đặc �n của giới gi�o sĩ trở th�nh một tai họa.

Ng�n sứ Malakhi thẳng thắn quy tr�ch việc sụp đổ của cộng đồng l� do c�c tư tế đ� kh�ng dẫn dắt v� kh�ng l�m gương l�nh cho d�n ch�ng, nhất l� trong đời sống phụng vụ của d�n ch�ng. X�t cho c�ng, những người được chọn để l�nh đạo nghĩa l� được chọn để n�n gương mẫu đức tin cho cộng đồng qua đời sống v� lời giảng dạy của họ. V� họ kh�ng l�m gương, n�n ng�n sứ Malakhi cảnh b�o rằng nếu họ kh�ng thay đổi lối sống th� sẽ g�nh lấy hậu quả.

Ng�y nay �p dụng như thế n�o? C� n�n thanh trừ hết hay kh�ng? Những người giữ vai tr� l�nh đạo Gi�o hội như ch�ng ta cần phải kiểm điểm lối sống, cung c�ch thờ phượng, sức khỏe tinh thần v� sự h�i h�a giữa lời giảng dạy cũng như gương mẫu của ch�nh m�nh. Ai trong ch�ng ta chưa từng thất bại trong việc thực hiện điều m� Thi�n Ch�a muốn nơi ch�ng ta? Một số người r� r�ng thất bại. Khi ch�ng ta cử h�nh phụng vụ cuối tuần n�y, h�y chắc chắn đặt cả ch�ng ta trong nghi thức s�m hối mở đầu khi đọc: �Xin Ch�a thương x�t ch�ng con, xin Ch�a Kit� thương x�t ch�ng con, xin Ch�a thương x�t ch�ng con�. Ch�ng ta kh�ng chỉ d�ng l�n lời nguyện đ� v� m�nh, nhưng c�n cho tất cả những ai kh�ng chu to�n việc l�nh đạo cũng như trong đời sống gương mẫu v� g�y ra cho Gi�o hội nỗi đau v� gương m� gương xấu.

Đức Gi�su, như trong truyền thống của ng�n sứ Malakhi v� những vị ng�n sứ kh�c, nhắm những lời chỉ tr�ch v�o giới l�nh đạo t�n gi�o, c�c kinh sư v� c�c Pharis�u. Bởi v� họ am hiểu tất cả những g� thuộc về t�n gi�o, n�n Đức Gi�su n�i với đ�m đ�ng v� c�c m�n đệ rằng: �Vậy, tất cả những g� họ n�i, anh em h�y l�m, h�y giữ�. Đức Gi�su hướng dẫn d�n ch�ng h�y l�m theo những g� c�c vị l�nh đạo giảng dạy v� d�n ch�ng đa số �t học, v� thế họ phải nhờ v�o c�c kinh sư v� những người Pharis�u để được hướng dẫn về Lề luật (s�ch Toral). Rồi, Đức Gi�su n�i, �� c�n những việc họ l�m, th� đừng c� l�m theo�. Những thực h�nh của giới l�nh đạo t�n gi�o n�y kh�ng hề c� l�ng trắc ẩn. Họ n�i quan t�m đến người ngh�o, nhưng ch�nh họ lại kh�ng �đụng ng�n tay� v�o để lấy đi những g�nh nặng m� họ đ� chất l�n vai người kh�c.�

Những người l�nh đạo t�n gi�o n�y l�m việc tốt cốt chỉ để ph� trương. Họ biến t�n gi�o trở th�nh việc tr�nh diễn hơn l� một c�ch sống t�nh y�u với Thi�n Ch�a v� học biết y�u thương người th�n cận. Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua �o thật d�i để khiến người kh�c ch� � đến l�ng đạo đức của họ. Trong đ�m tiệc, họ th�ch ngồi v�o những h�ng ghế danh dự.

Giờ th� Đức Gi�su quay sang đ�m đ�ng v� c�c m�n đệ v� n�i: �Phần anh em�� Cuộc sống của họ được rập khu�n theo một Đấng l� �Cha tr�n trời� v� một Thầy l� �Đức Kit��. Đức Gi�su thậm ch� kh�ng th�m ngỏ lời trực tiếp c�c kinh sư v� Pharis�u. Phải chăng v� họ được bao bọc qu� kỹ bằng những ph� diễn t�n gi�o, những tiện nghi v� c�ng luận đến nỗi họ kh�ng thể nghe được những g� Đức Gi�su n�i với họ. Nếu họ nghe lời Người, họ đ� thay đổi lối sống của họ rồi.

Tất nhi�n, vẫn c� những nh� l�nh đạo t�n gi�o gương mẫu v� ch�n th�nh. Như Đức Gi�su, họ cũng đ�i những kẻ đạo đức giả phải h�nh động hợp với lời n�i của m�nh. Kh�ng chỉ một m�nh Đức Gi�su ph� ph�n th�i độ giả h�nh v� ngộ nhận của c�c kinh sư hay Pharis�u. Nhưng, d� họ c� tốt l�nh như thế n�o chăng nữa, tất cả giới đạo t�n gi�o cũng phải cho thấy sự ch�n th�nh trong những h�nh động t�n gi�o của họ. Ai trong ch�ng ta lại kh�ng thấy l�ng t�ng khi nhận ra Đức Gi�su kh�ng chỉ đang n�i với những thừa t�c vi�n ch�nh thức của Gi�o hội, m� c�n n�i với tất cả ch�ng ta, những người c� tr�ch nhiệm hướng dẫn v� giảng dạy bằng việc l�m gương về những g� m� ch�ng ta tuy�n xưng trong kinh Tin K�nh?

Kh�ng ai d�m n�i rằng những điều Đức Gi�su mong đợi nơi ch�ng ta th� dễ d�ng thực hiện. Quả thật kh�ng dễ ch�t n�o khi Người n�i, như ở tuần trước, về việc y�u Ch�a v� y�u người th�n cận hết m�nh (Mt 22, 34-40). Lời nhắc nhở của th�nh Phaol� gởi c�c t�n hữu Th�xal�nica đ� đ�nh động t�i, �anh em đ� đ�n nhận, kh�ng phải như lời người ph�m, nhưng như lời Thi�n Ch�a, đ�ng theo bản t�nh của lời ấy. Lời đ� t�c động nơi anh em l� những t�n hữu�. Ở đ�y c� sự kh�c biệt giữa việc bỏ qua lề luật cũng như quy tắc ứng xử th�ch hợp v� những g� Đức Gi�su n�i: �n sủng vốn c� trong việc lắng nghe Lời Ch�a. Điều m� Đức Gi�su hướng dẫn ch�ng ta l�m, Người cũng gi�p ch�ng ta thực hiện qua việc ch�ng ta biết lắng nghe Lời v� ghi tạc v�o l�ng. Như h�m nay th�nh Phaol� n�i với ch�ng ta, ch�ng ta đ� nhận ��Kh�ng phải như lời người ph�m, nhưng như lời Thi�n Ch�a, đ�ng theo bản t�nh của lời ấy�.

Tại sao th�nh M�tth�u cần lặp lại bản c�o trạng của Đức Gi�su chống lại c�c kinh sư v� những người Pharis�u? Chắc hẳn c�c chức sắc v� giới l�nh đạo Gi�o hội trong thời của người cũng rơi v�o c�ng một t�nh trạng v� c�ch cư xử như vậy. L�ng mộ mến giả tạo v� c�ch cư xử giả h�nh của những người được ủy th�c để l�nh đạo d�n Ch�a kh�ng chỉ xảy ra trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Tất cả ch�ng ta trong thừa t�c vụ cộng đồng, đặc biệt những người c� chức th�nh, c� nguy cơ rơi v�o ch�nh lối cư xử m� Đức Gi�su ph� ph�n trong b�i Tin Mừng h�m nay.

Những c�m dỗ lu�n lu�n c�n đ�. Ngo�i sự k�nh trọng đối với những chức vị t�n gi�o trong Gi�o hội, người d�n c� khuynh hướng nghe theo khi họ đến để thỉnh � kiến của ch�ng ta. Cũng vậy, trong lối cư xử th�n mật v� k�nh trọng, họ cho ch�ng ta �những chỗ danh dự trong đ�m tiệc.� T�i kh�ng biết qu� vị như thế n�o, nhưng lời dạy của Ch�a Gi�su h�m nay thực sự l�m t�i bối rối. Khi t�i tham dự c�c phụng vụ tại nh� thờ, t�i được hướng dẫn v�o h�ng ghế đầu hoặc được đưa l�n cung th�nh. T�i cũng được ph�p ch�nh thức giảng dạy v� n�i năng đầy quyền uy. (T�i cũng viết những lời chia sẻ n�y cho những người giảng thuyết, gi�o hữu!) �Xin Ch�a thương x�t ch�ng con, xin Ch�a Kit� thương x�t ch�ng con, xin Ch�a thương x�t ch�ng con !

Giả sử một số người trong ch�ng ta được mời gọi để l�nh đạo. Nhưng Đức Gi�su nghi�m nghị nhắc nhở ch�ng ta h�y nhớ rằng, cốt l�i của đời sống ch�ng ta, như những phần tử được rửa tội của Gi�o hội, ch�ng ta l� anh chị em với nhau; bất luận trong cộng đo�n ch�ng ta mang danh nghĩa n�o. Th�nh M�tth�u cũng phải nhắc nhở những Kit� hữu của ng�i về điều đ�, v� ch�ng ta cũng cần được nhắc nhở lu�n như vậy. Ch�ng ta chẳng phải cũng l� những con người yếu đuối, mỏng d�n như c�c kinh sư v� những người Pharis�u đ� sao? Như ở chỗ kh�c, Đức Gi�su n�i: �Ai c� tai để nghe th� h�y nghe !�