CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN B
Kn 19,1.13-15; 2,23-25 / 2Cr
8,7.9. 13.15 / Mc 5,21-42
An Phong op :
Chỗi dậy nhờ Đức Giêsu
Fr. Jude Sicilliano, op : Đức tin đem chúng ta đến gần Chúa
Đỗ Lục op : Trỗi Dậy Đi
G. Nguyễn Cao Luật, op : Hai Phép Lạ Về Sự Sống
Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Đức tin mạnh mẽ và kín đáo
Lời Chúa và Thánh Thể : Nhạy cảm với nỗi đau của con người
Giuse Trần Văn Đông op : Chúa thương chữa lành mọi bệnh tật
Fr. Jude Siciliano, op : Đừng sợ! Chỉ cần tin thôi
An Phong op
Chỗi
dậy nhờ Đức Giêsu
Mc 5,21-42
Tin mừng hôm nay trình thuật câu chuyện Chúa Giêsu làm cho con gái của
ông trưởng hội đường Giairô được “chỗi dậy” (Mc 5,40), cùng với việc
người đàn bà bị bệnh xuất huyết 12 năm được khỏi bệnh sau khi chạm đến
áo Người. Qua hai trình thuật này, chúng ta nhận thấy đức tin là một gặp
gỡ, tương giao cá vị, và đem lại ơn giải thoát cho con người.
*
Đứa trẻ 12 tuổi, con gái của ông Giairô đã “chết” (Mc 5,35).
Nhưng đối với Đức Giêsu,
“đứa bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5,39) (Thực ra, đứa
bé đã chết). Lời này của Đức Giêsu tiên báo việc Người sắp sửa làm, đó
là một phép lạ. Như thế, phép lạ là một hồng ân Thiên Chúa khôi phục con
người, làm cho họ chỗi dậy, làm cho họ sống, đồng thời đem lại niềm vui
và hạnh phúc. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn đang làm chỗi dậy những tâm hồn
“đã chết”.
*
Người đàn bà được chữa lành trong Tin mừng hôm nay cho thấy một quan
niệm đã có vào thời bấy giờ là “năng lực chữa bệnh xuất phát từ nội lực”.
Bà đã chạm đến Đức Giêsu, và bà nghĩ, chỉ cần chạm đến Người là bà được
khỏi bệnh hoàn toàn. Nhưng Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát
tự mình… và “hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và
được khỏi bệnh”. Người đã ban cho bà một sự bình an bên trong, Người đã
cứu bà, cho bà thấy Thiên Chúa yêu thương bà, bà thật là quý báu đối với
Thiên Chúa, và đời sống của bà có một ý nghĩa lớn lao. Như thế, khi chữa
bệnh, Chúa Giêsu muốn cứu vớt con người tự bên trong, muốn giải thoát họ
khỏi “run sợ”.
Cả hai phép lạ chữa bệnh hôm nay đều cho thấy Đức Giêsu là đấng chiến
thắng sự chết và tội lỗi. Đứa bé đã chết được chỗi dậy, người đàn bà bị
bệnh xuất huyết 12 năm – bệnh này là dấu hiệu của tội lỗi – được hồi
phục. Đồng thời cũng cho thấy : nhờ đức tin, con người được cứu độ.
Sau khi mọi hy vọng, biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu
quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Ông Giairô đã
tin vào Chúa Giêsu khi con gái ông đang hấp hối, còn người đàn ba, sau
12 năm chữa trị, hầu như đã hoàn toàn tuyệt vọng. Hẳn là vào thời điểm
gay go này, khi đứa con sắp chết, ông Giairô chỉ còn niềm hy vọng duy
nhất vào Chúa Giêsu ? Người đàn bà cũng vậy. Nhưng tất cả đã thay đổi
nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu. Người đã đem
lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy
trông.
Đức Giêsu hẳn đã nói với mỗi người chúng ta : “Nếu bạn có đức tin bằng
hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến
kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Lời này gây cho chúng ta một sự ngạc
nhiên. Thực vậy, đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự
thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những
người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu. Hẳn là Mẹ
Têrêsa Calcutta đã chẳng hề nghĩ đến những giải thưởng cuộc đời ban tặng
Mẹ, nhưng Mẹ đã có được những điều đó nhờ đức tin ?
Liệu chúng ta có “dám tin vào những lời đầy thách thức” này không ?
Nhưng chúng ta biết rõ Thiên Chúa là tình yêu, Người sẽ không bỏ rơi
những ai trông cậy, tin tưởng vào Người, nhất là những người đang gặp
khó khăn và tuyệt vọng. Hãy mở toang cánh cửa tâm hồn cho Thiên Chúa
hành động. Hãy tin, dù mọi sự chưa rõ ràng. Hãy chờ đợi Thiên Chúa hành
động “ đúng lúc, kịp thời”, nhưng với đức tin.
Lạy Chúa,
Hoa trái của đức tin là cầu nguyện.
Để đức tin có thể triển nở,
xin cho chúng con biết cầu nguyện.
Xin cho chúng con biết tin tưởng và cậy trông,
ngay cả trong những lúc tuyệt vọng.
Lạy Thiên Chúa là Cha,
xin dạy cho chúng con biết
sống là sống trong niềm tin,
niềm cậy trông và tình yêu.
Lm. Jude Siciliano, OP
Đức
Tin Đem Chúng Ta Đến Gần Chúa
Mc 5:21-43
Anh chị em thân mến,
Bài đọc
2 hôm nay không tiếp tục trích tuần tự theo thư thánh Phaolô đọc
trong Chúa Nhật tuần trước. Mà nhảy qua cách bài tuần trước 3
chương. Để anh chị em dễ hiểu, tôi sẽ sử dụng vài từ cũ trong
bài đọc tuần trước để diễn giảng bài hôm nay.
Thánh
Phaolô khen giáo hữu thành Cô-rin-tô, vì, tuy họ vừa đủ sống,
nhưng họ cũng rộng rãi giúp đỡ những Kitô hữu thiếu thốn.
Thánh Phaolô không phải là người dùng lời ngoại giao
để lạc quyên, trái lại, ông khen đức tin của họ. Giáo hữu
thành Cô-rin-tô được nhiều ơn qua đức tin của họ. Ai cũng biết
được những ơn như: tài ăn nói, chữa lành bệnh tật, khôn ngoan và
hiểu biết v.v...
Và bây
giờ, Phaolô muốn họ dùng những ân sủng đang có để giúp các anh
em giáo hữu khác. Phaolô dựa vào sự tự hiến của Chúa Giêsu để
khuyến khích họ: “anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta,
đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú
quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái
nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr,
9). Chúng ta đã trở nên giàu có với những ân thánh sủng. Vì
thế, Thánh Phaolô khuyến khích giáo hữu thành Cô-rin-tô nên theo
gương Chúa Giêsu để chia sẻ những gì họ có nhiều hơn cho kẻ
túng thiếu.
Giáo
Hội không gồm những cộng đoàn độc lập, giữ đức tin riêng biệt
cho cộng đoàn mình. Trái lại, máu thánh Chúa Giêsu hòa hợp
chúng ta lại với nhau, vì vậy, chúng ta không thể quên sự thiếu
thốn của anh em trong các cộng đoàn khác. Bởi thế, bên nước El
Salvador, các cộng đoàn ở thành phố nhận giúp đỡ các cộng
đoàn ở vùng quê. Họ không những gom tiền cho cộng đoàn họ giúp
đỡ, mà còn kêu gọi người tình nguyện đến giúp đỡ trực tiếp
vào mỗi mùa xuân như đến để sửa sang nhà thờ, sửa sang các
nhà bị ngập lụt, và đào giếng cho dân chúng cả vùng.
Phaolô
nói, giúp đỡ người nghèo không chỉ có một chiều, chính người
nghèo cũng giúp đỡ lại chúng ta. Một nhóm sinh viên đến nước
Honduras ở Trung Mỹ đã nhận thấy như vậy khi họ giúp đỡ một
làng ở Honduras trong mười ngày vào dịp lễ Phục Sinh. Họ đã
xác nhận điều đó với cộng đoàn Giáo Hội trong đại học hôm
Chúa Nhật sau khi họ ở Honduras về. Họ đã học hỏi được nhiều
điều trong lúc giúp đỡ:
Học cách đón tiếp của người trong làng, về giá trị của gia
đình, về sự làm ăn cần mẫn, về lòng hy sinh và về đức tin
của dân làng.
Hôm nay
có thể là Chúa Nhật mà ban tổ chức công tác xã hội trong cộng
đoàn Giáo Hội chúng ta có thể làm bảng tổng kết về những
việc đã làm, như hô hào các sinh viên, học sinh giúp xây nhà ở;
chương trình phát của ăn cho người thiếu thốn v.v… “Trong hoàn
cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những
người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ
cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như
thế, sẽ có sự quân bình.” (2Cr 8,14).
Trong
Phúc Âm hôm nay, người phụ nữ bị bệnh băng huyết lâu năm không
còn hy vọng gì nữa. Thánh Mác-cô đã cho biết, bà ta đã bị
bệnh từ 12 năm rồi “…chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán
gia bại sản,…” Bệnh đã làm cho bà trở nên người không sạch, và
bị loại ra khỏi cộng đoàn. Bà ta đau đớn về thể xác, và khó
nghèo do bị khánh kiệt, lại còn bị loại ra khỏi cộng đoàn tôn
giáo nữa. Và hơn thế nữa là nếu bà sờ vào ai thì người đó
cũng trở nên không sạch sẽ, vậy nếu bà sờ và Chúa Giêsu, bà
sẽ làm cho Ngài không sạch sẽ. Như thế cả hai người sẽ cùng
bị cộng đoàn, tôn giáo và xã hội ruồng bỏ.
Câu
chuyện người phụ nữ này rất nổi bật trong Phúc âm thánh
Mác-cô. Thường một phép lạ xảy ra nhấn mạnh vào Chúa Giêsu.
Nhưng phép lạ này nhấn mạnh đến người phụ nữ “Có một bà
kia…” Rồi Thánh Mác-cô kể chi tiết bệnh tình của người phụ nữ
ấy. Trong Phúc âm, có chuyện một người phụ nữ khác, người gốc
Phê-ni-xi (Mc7:24-30) có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám. Thánh
Mác-cô tả danh tính hai người phụ nữa ấy và câu chuyện của họ
liên quan đến Chúa Giêsu. Cả hai đều rất cần sự giúp đỡ. Trong
câu chuyện người phụ nữ hôm nay, bà ta “nói hết sự thật với
Chúa Giêsu”.
Trong
Kinh Thánh, chỉ toàn chuyện của nam giới. Mỗi khi người phụ nữ
lập gia đình, thì người đó rời gia đình họ, gia nhập vào gia
đình nhà chồng và sống dưới quyền nhà chồng. Người đàn ông
có toàn quyền trong gia đình, trên vợ và con cái. Nhưng cũng có
nhiều câu chuyện nhắc đến phụ nữđó là những người phụ nữ theo
Chúa Giêsu, và trong các cộng đoàn giáo hữu đầu tiên cũng có
nhiều phụ nữ giúp đỡ. Như trong thơ Phaolô gởi giáo hữu thành
Roma, có chị Pơ-rít-ca (Rm 16:3), chị Phê-bê nữ trợ tá Hội
Thánh Ken-khơ-rê
(Rm 16:1) và Maria (Rm 16:6).
Người
phụ nữ trong Phúc Âm hôm nay đã trở nên gương mẫu cho các phụ
nữ trong các cộng đoàn giáo hữu đầu tiên. Bà ta bước ra khỏi
sự áp chế của xã hội thời bấy giờ. Bà đã tự động chen qua
đám đông quần chúng để đến sờ vào áo Chúa Giêsu. Bà ta ở
trong tình huống ngặt nghèo chỉ hy vọng duy nhất vào sự giúp
đỡ của Chúa Giêsu. Bà ta không những vượt qua sự ngăn cản của
xã hội mà cả sự ngăn cản của tôn giáo nữa. Bà tin Chúa Giêsu
sẽ giúp cho bà, mặc dù những người khác không suy nghĩ như
vậy.
Người
phụ nữ ấy không những là gương mẫu cho các phụ nữ khác đang
bị ràng buộc bởi giai cấp xã hội, bởi giới doanh nhân, mà còn
là gương mẫu cho các phụ nữ đã bị tôn giáo khai trừ, hay coi
thường những tài năng của họ. Nhưng họ vẫn dấn thân trong cộng
đoàn để lãnh nhận những phần việc phục vụ gia đình và cộng
đoàn, dạy dỗ con trẻ, làm việc trong cộng đoàn, giúp những gia
đình thiếu thốn, đọc sách và kiệu Mình Thánh Chúa, cố vấn
những người khác v.v…
Sau khi
người phụ nữ trong Phúc Âm được chữa lành, Chúa Giêsu gọi bà
ta là ‘con’. “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con…” Bà
được trở lại với cộng đoàn con cái Chúa, không còn bị xã hội
và tôn giáo ruồng bỏ nữa. “Lòng tin của con đã cứu chữa con”
nghĩa là gì? Bà đã bị ruồng bỏ, nhưng bây giờ Chúa Giêsu thấy
bà cần được giúp đỡ nên đã chữa lành cho bà. Lời của Giêsu
dẫn đưa người ngoại vào cộng đoàn và được Chúa chữa lành.
Điều gì đưa chúng ta đến Thánh lễ ngày hôm nay? Có phải chúng
ta đến đây để sờ vào Chúa Giêsu và để được Chúa sờ vào chúng
ta chăng? Nếu quả thật như vậy, thì đời sống chúng ta sẽ được
thay đổi như thế nào? Sự liên kết trong cộng đoàn chúng ta có
khắng khít hơn không? Và chúng ta có mời gọi nhau cùng đến để
sờ và được sờ về thể xác và về tâm hồn không?
Câu
chuyện người Gia-ia có con gái gần chết, bị gián đoạn vì câu
chuyện người phụ nữ bị bệnh băng huyết. Thật ra, hai câu chuyện
đều nói về hai người phụ nữ cần được giúp đỡ. Con của ông
Gia-ia chỉ có 12 tuổi, nhưng đó là tuổi có thể được lập gia
đình. Vừa đến tuổi trưởng thành, lập gia đình, thì sự chết
của cô ta làm cho cha mẹ muốn chết theo.
Khi Chúa
Giêsu vào phòng người con gái đã chết, thì đó là lúc Chúa
Giêsu bước qua bên kia bờ, không phải là bước lên thuyền để qua
bờ bên kia, nhưng là Chúa Giêsu bước qua bên phía người bị loại
bỏ, không sạch nữa. Lòng thương yêu của Chúa Giêsu làm cho Ngài
bước qua sự cấm đoán của xã hội và tôn giáo để giúp những
trường hợp cần đến Ngài. Khi Chúa đã truyền người con gái
đứng dậy, Ngài bảo phải cho cô đồ ăn. Cô gái đó và cả gia
đình đều được chữa lành. Chúa Giêsu đã thắng sự chết, và
cộng đoàn đã được bình ổn. Đó là việc xảy ra mỗi khi chúng
ta đến dự Tiệc Thánh
nhờ đó
chúng ta được lành lại, vì Chúa Giêsu đã đưa tay kéo chúng ta
đứng dậy và Ngài nói “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy
đi”. (Mc 5,41).
Chuyển
ngữ FX Trọng Yên, OP
Đỗ Lục op (2006)
Trỗi
Dậy Đi
Mc 5:21-43
Ở Việt nam hiện nay rất nhiều
bạn trẻ đang vật lộn với với nghèo đói, bệnh tật, ngu dốt. Nhưng trầm
trọng nhất vẫn là những bệnh xã hội và khủng hoảng tinh thần. Bao nhiêu
thế hệ đang bị nhận chìm trong bóng tối tử thần.
Ai sẽ làm cho các bạn trẻ trỗi
dậy ?
Thực tế, bên cạnh những tâm hồn
sa đọa, vẫn có những bạn trẻ khác quan tâm và nỗ lực cứu vớt những anh
em đang sống bên bờ vực thẳm. Có những bạn sẵn sàng đi xin từng đồng,
mua từng viên thuốc cho các bạn trẻ đang đối diện với những bệnh thời
đại. Họ không phí thời giờ bàn những chuyện xưng hô “cha con” hay vấn đề
đối kháng giữa giáo sỹ và giáo dân v.v. Họ chẳng cần ai chú ý hay ghi ơn.
Cũng chẳng cần giai cấp, địa vị. Chỉ cần vực anh chị em mình trỗi dậy
khỏi cơn nguy khốn hiện tại mà thôi. Họ là những người theo Chúa Giêsu
đi tìm cứu những người đau khổ, bệnh tật. Tuy không có quyền năng làm
phép lạ như Chúa, nhưng dõi theo bước chân Chúa, họ có thể tạo thành
những kết quả tương tự.
Dĩ nhiên, đứng trước cái chết,
mọi người phải bó tay. Các phương pháp y khoa hiện đại nhất cũng không
thể vượt qua những giới hạn tử thần. Dù có thiện chí và giàu có tới đâu,
con người cũng phải đầu hàng. Phải toàn năng mới có thể khiến con gái
ông trưởng hội đường sống lại từ cõi chết (x. Mc 5:35-42). Nói khác, chỉ
cần nói với cô gái : “Trỗi dậy đi !” (Mc 5:41) Chúa Giêsu đã chứng minh
Người là Thiên Chúa toàn năng, vượt trên mọi sức mạnh khoa học tiến bộ
nhất.
Chúa không đòi người môn đệ phải
toàn năng như Chúa mới cứu được đồng loại. Chúa muốn họ vận dụng sức
mạnh tình yêu và hồng ân sẵn có để chặn đứng bước chân tử thần. Thực tế,
nhiều người không những không ngăn cản bước chân tử thần, mà còn manh
tâm xô đẩy anh em mình vào chỗ chết. Phong trào phá thai chẳng hạn. Có
khi họ “án binh bất động” trước sức tấn công vũ bão của tử thần để cầu
an hay hèn nhát. Bởi vậy, nhiều người trở thành mồi ngon cho tử thần chỉ
vì đồng loại mần thinh trước tiếng thét gào của các nạn nhân.
Không bao giờ Chúa “lạnh lùng”
như thế trước nỗi thống khổ của con người. Người phụ nữ băng huyết là
một điển hình. Tuy chưa chết, nhưng bà đã đứng trên bờ vực tử thần. Thấy
thế, Chúa không xô bà xuống đáy. Sau mười hai năm đau khổ, bà cảm thấy
hoàn toàn bất lực và đau lòng vì “tiền mất tật mang.” Cuối cùng, bà đã
tìm được sức mạnh tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Tình yêu là sức
mạnh giải thoát. Nhờ lòng tin mãnh liệt, bà đã được cứu và bình an hoàn
toàn (x. Mc 5:34).
Ðức tin đã toàn thắng. ÐGH
Bênêđictô XVI nhận định : “Cuộc chiến thắng này chỉ xảy ra vì có quyền
năng sáng tạo của Lời Chúa và Tình yêu. Chỉ có Lời Chúa và Tình yêu mới
đủ sức mạnh biến cải cơ cấu vật chất một cách tuyệt đối đến nỗi có thể
vượt qua những chướng ngại của tử thần.” (www.archspm.org
: 30.06.2006) Không có Lời Chúa và Tình yêu, chắc chắn họ đã không thoát
khỏi nanh vuốt tử thần.
Không những thoát chết, hai
người phụ nữ còn được Chúa phục hồi nhân phẩm và sứ mệnh cao cả. Trong
cả hai phép lạ Chúa làm hôm nay, John R. Donahue (www.Americamagazin.org
: 30.06.2006) nhận thấy một vài điểm thú vị. Trước hết, cả hai người
lãnh ơn đều thuộc giới phụ nữ. Cô gái được phục sinh ở lứa tuổi mười hai
, tuổi đã có thể thành hôn theo phong tục thời bấy giờ. Như thế, “cô bé”
đã chết trước khi có thể trở thành vợ và mẹ. Người đàn bà băng huyết
cũng mười hai năm. Bà không thể có con. Như thế, không những Chúa cứu cả
hai khỏi chết, nhưng còn trả lại cho họ khả năng sinh sản, một vinh dự
lớn lao vì được tham gia quyền sáng tạo của Thiên Chúa. Vinh dự đó góp
phần làm chứng cho mọi người thấy, “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho
họ được trường tồn bất diệt.” (Kn 2:23)
Trước tình trạng phụ nữ bị buôn
bán và khinh miệt hôm nay, Giáo hội đang làm gì ? Có động lòng trắc ẩn
thực sự không ? Có dám vượt qua những cấm kỵ và thành kiến để đem ơn
giải thoát đến cho phụ nữ không ?
Nhờ hồng ân Thiên Chúa, biết bao
phụ nữ đang chứng tỏ một đức tin kiên cường và dũng cảm. Trong gia đình
hay ngoài xã hội họ luôn sống với Chúa. Nhờ đó, chính họ có thể thoát
hiểm và cứu vãn tương lai nhân loại. Hôm nay Giáo hội đang cần đến sức
mạnh niềm tin nơi phụ nữ rất nhiều. Chính đức tin đã giúp họ chu toàn
bổn phận làm mẹ, làm vợ trong gia đình. Họ còn muốn dấn thân làm chứng
cho Chúa hơn nữa trong nhiều môi trường xã hội hôm nay. Nhưng Giáo hội
có nhận ra đức tin kiên cường của phụ nữ trên toàn cầu để mời gọi họ hay
không ?
Lạy Chúa, xin thương giải thoát
phụ nữ và cho mọi người biết tôn trọng phẩm giá và sứ mệnh cao cả của họ.
Xin Chúa mở ra nhiều con đường và cơ hội cho phụ nữ được tham gia hơn
nữa vào sứ mệnh làm chứng của Giáo hội giữa lòng đời hôm nay ! Amen.
G. Nguyễn Cao Luật, O.P.
Hai Phép Lạ Về Sự Sống
Mc 5,21-42
Nhờ tin, mọi sự đều có thể
Một đám người rất đông vây quanh Đức
Giêsu, chờ đợi một lời nói hay một
cử chỉ lạ thường. Bỗng nhiên, có một người, dáng vẻ vội vã, đẩy mọi
người ra và tiến đến trước mặt Đức
Giêsu. Ông có điều gì muốn thưa với
Người. Ông tên là Gia-ia, trưởng hội đường.
Thoạt tiên, người đàn ông này biết rằng mình có thể tín nhiệm vào Đức
Giêsu. Ông "phủ phục dưới chân Đức
Giêsu và năn nỉ" Người đến chữa con
gái ông vừa mới tắt thở. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã
làm cho ông can đảm : ông sẵn sàng tin cậy vào một người qua đường, ông
tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến, mà cho đến lúc này, ông chỉ mới
nghe đồn. Sự sống của đứa con gái ông vẫn hằng bao bọc, nuôi dưỡng, nay
không còn nữa, và ông đến xin lại từ một người khác, một người xa lạ.
Đức Giêsu yên lặng đi theo ông trưởng hội đường. Đám đông vẫn tiếp tục
vây lấy Người. Họ chen lấn, xô đẩy như muốn đè bẹp Người. Trong đám đông
hỗn độn ấy, có một người phụ nữ khốn khổ rất mong được đến gần Đức
Giêsu, chạm vào Người, dù chỉ là gấu áo thôi cũng được. Bà tự nhủ :
"Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được
cứu."
Bà biết là mình ô uế, bởi vì theo não trạng người Do-thái lúc bấy giờ,
một người phụ nữ trong tình trạng như bà bị coi là "không được chạm đến".
Không ai được chạm đến bà, và ngược lại bà cũng không được chạm đến ai.
Bà là người ô uế và ai đến gần bà cũng bị ô uế.
Bà mong được đến gần, được chạm đến Đức
Giêsu, để chấm dứt tình trạng ô
uế của mình. Bà tin rằng Đức Giêsu là một con người nhưng không giống
những người khác. Bà cảm thấy rằng từ con người này, bà có thể nhận được
tất cả : nhận lại chính mình, được trả lại chính mình.
Bà biết rằng bà đang làm một việc liều lĩnh, bởi vì đó là một điều cấm
kỵ. Nhưng chính sự đau khổ đã thúc đẩy bà, và bà đã đến với Đức
Giêsu.
Phần mình, Đức Giêsu không sợ những điều cấm kỵ, không coi thường những
nỗi khổ sâu kín nhất, đáng xấu hổ nhất. Người là Đấng cứu độ đến trần
gian để giải thoát mỗi người khỏi nỗi cô đơn và sự sợ hãi.
Ngay tức khắc "bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh"
; và cũng ngay lúc ấy, Đức Giêsu "thấy có một năng lực từ nơi mình phát
ra". Một cảm nghiệm sâu xa nảy sinh từ cuộc gặp gỡ cá vị giữa người
tin và Thiên Chúa của mình.
Đức Giêsu ngừng lại, đưa mắt nhìn quanh. Bấy giờ người phụ nữ có thể
bày tỏ chính mình. Bà phủ phục dưới chân Đức
Giêsu và bày tỏ hết sự
thật : một thái độ phó thác, tin cậy, hy vọng. Thái độ này chứng tỏ rằng,
khi người ta được đón nhận cách trọn vẹn, người ta khám phá ra mình dễ
thương, mình xứng đáng được yêu thương và có khả năng yêu thương.
Cũng như hai tác giả Mát-thêu và Lu-ca, thánh Mác-cô nối kết phép lạ này
với câu chuyện chữa lành con gái ông Gia-ia.
Khi Đức Giêsu đang trên đường đến nhà ông Gia-ia, có người đến nói với
ông : "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa ?" Đối với
người không tin, như thế là trễ rồi, không còn cứu vớt được nữa. Một khi
không có lòng tin tưởng, cậy trông, thì lúc nào cũng trễ. Đức
Giêsu
nghe được những lời xầm xì, Người nói với ông trưởng hội đường : "Ông
đừng sợ, chỉ cần tin thôi !"
Và sau đó, Đức Giêsu đã gọi cô bé dậy. Người nói : "Này bé, chỗi dậy
đi !" Cô bé liền chỗi dậy, vì có ai đó đã gọi cô, chính tên cô.
Những chi tiết về vượt qua
Trong bản văn dài này, người ta có thể rút ra được những chi tiết diễn
tả một bước vượt qua, từ sự chết sang sự sống.
* Từ bờ bên này sang bờ bên kia.
Đức Giêsu sang bờ bên kia, và ông Gia-ia chen qua đám đông để đến gặp
Đức Giêsu. Sau đó cả hai cùng vượt qua biển người. Cả một đám đông như
sóng dậy vây lấy cả hai, dường như muốn nuốt chửng.
* Từ ngôi mộ động đậy đến Nhà sự sống
Căn nhà của ông Gia-ia giống như một ngôi mộ. Một đám đông vây quanh cô
bé mới chết. Họ khóc lóc, vật vã, kêu gào.
Đức Giêsu đuổi mọi người ra khỏi nhà tựa như làm cho ngôi mộ ra trống
không. Người gọi cô bé đang thiếp ngủ dậy, và trong căn nhà nơi sự sống
thiếp ngủ, không cần phải có tiếng khóc than.
* Tuổi của sự sống
Con gái ông Gia-ia được mười hai tuổi : tuổi dậy thì, tuổi có thể bắt
đầu đem lại sự sống. Trong khi đó, người phụ nữ mắc bệnh đã mười hai năm,
và bà trở thành người vô sinh : bà bị coi như đã chết.
Cả cô bé lẫn người phụ nữ mắc bệnh đều từ cõi chết bước vào sự sống, nhờ
năng lực từ nơi Đức Giêsu phát ra. Chính Người là sự sống.
* Từ đặt tay đến lời
Ông Gia-ia xin Đức Giêsu đến đặt tay trên con gái ông. Nhưng Đức
Giêsu
không làm đúng như ông yêu cầu. Người nói với cô bé: "Chỗi dậy đi"
; trước đó Người cũng nói với người phụ nữ một lời tương tự. Nhờ lời Đức
Giêsu, sự sống đã chỗii dậy, như một hạt giống, một mầm non.
* Phục sinh cho tương lai
Người đàn bà được chữa khỏi bệnh, cô bé được chỗi dậy từ cõi chết : cả
hai vẫn chưa đạt được mục tiêu. Cuộc sống vẫn còn ở phía trước. Cô bé
“sống lại" ; còn người phụ nữ nghe Đức
Giêsu nói : "Con hãy về."
Phục sinh là một cuộc sinh ra, nhưng mới chỉ là điểm khởi hành. Đức
Giêsu bảo những người đang đứng đó cho cô bé ăn. Của ăn và sự sống đi
liền với nhau.
Đánh thức niềm hy vọng
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được mời gọi suy niệm về sự sống và
về niềm hy vọng một cuộc sống không hư hoại. Sự sống là một thực tại, và
có lẽ chúng ta càng cảm nhận cách rõ rệt hơn, khi mắc bệnh hay đối diện
với cái chết. Bất chấp mọi sự xảy ra như thế nào, chúng ta có dám tin và
hy vọng ?
Lòng tin tưởng chân thành và đơn sơ của ông Gia-ia cũng như của người
phụ nữ chính là gương mẫu cho chúng ta.
Người phụ nữ có vẻ như mê tín, chỉ mong sờ đến áo Đức
Giêsu là được
khỏi bệnh. Đức Giêsu không khinh thường bà, trái lại, Người tạo cơ hội
gặp gỡ, giúp bà thoát khỏi tình trạng bệnh tật và ban cho bà bình an.
Lòng tin của ông Gia-ia mãnh liệt hơn. Ông vẫn tin vào Đức
Giêsu, trong
khi đám đông dân chúng nghĩ rằng không ai có thể chống lại cái chết. Đối
với Đức Giêsu, cái chết chỉ là một giấc ngủ. Nhờ lòng tin, giấc ngủ này
sẽ mở ra một buổi sáng phục sinh.
Những từ ngữ được sử dụng làm cho người ta nhớ đến phép rửa, tức là tham
dự vào cuộc phục sinh của Đức Ki-tô.
“Tỉnh giấc đi nào, hỡi người còn đang ngủ !
Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào !
Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi."
(Ep 5,14).
Trong mỗi chúng ta đều có một niềm hy vọng, nhưng nó đang ngủ như cô bé
của bài Tin Mừng. Cần đánh thức nó dậy, và thúc đẩy nó tiến tới. Điều kỳ
diệu chỉ có thể xảy ra khi chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Đức
Giêsu,
Đấng có thể mở ra một buổi sáng phục sinh, từ những đêm tối của riêng
chúng ta, những đêm tối nhất.
*
* *
"Đức
Giêsu nói với ông Gia-ia :
"Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi !"
Nhưng
tin là gì ?
Là đưa cánh tay ra,
vượt ra khỏi những xôn xao và sợ hãi,
để nắm lấy Bàn Tay của Thiên Chúa.
Chúng ta
biết rằng, Bàn Tay ấy vẫn luôn giơ ra."
(theo
A.M.Besnard)
Giacôbê
Phạm
Văn Phượng op
Đức tin mạnh mẽ và kín đáo
Mc
5,21-24.35b-43
Bài Tin Mừng là hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm gần nhau : phép lạ cho
một phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, và phép lạ cho con gái ông trưởng
hội đường Gia-ia được sống lại. Chúng ta thấy hai phép lạ như có một số
điểm tương đồng : người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm, bằng với số tuổi của
em bé kia, vì Tin Mừng cho biết khi em chết em được 12 tuổi. Cả hai phép
lạ xảy ra đều do hành động thể lý là chạm tay vào tua áo Chúa và Chúa
cầm tay em bé đã chết. Chủ đề của hai phép lạ này là ơn Chúa ban qua
lòng tin.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhận lời kêu xin của ông Gia-ia đi
chữa bệnh cho con gái ông. Dân chúng đông đảo đi theo có vẻ háo hức và
chen lấn nhau, các môn đệ cùng đi bên Chúa. Giữa lúc ấy các môn đệ nhận
ra một người đến quỳ trước thầy mình, nhưng lúc ấy phép lạ đã xảy ra rồi,
đó là một phụ nữ đầy lòng tin đã được Chúa cho khỏi bệnh. Thực vậy, giữa
đám đông dân chúng dầy đặc, phụ nữ này nhận ra một vị Thiên Chúa ẩn dật
nhưng đầy quyền năng, bà không dám công khai trực tiếp xin Chúa trước
mặt mọi người, có thể là vì xấu hổ hoặc ngại ngùng. Ngoài ra, bà cũng
biết luật Lê-vi cấm ngặt về loại bệnh này. Đối với người Do Thái, băng
huyết là một bệnh được liệt vào số các chứng bệnh nan y và ô nhục, làm
cho người bệnh ra dơ bẩn trước mặt Chúa và cộng đồng. Hơn nữa, chứng
bệnh này còn làm cho người khác lây sự dơ bẩn của bệnh nhân, tức là họ
đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến họ đều trở thành dơ bẩn và phải
dâng lễ tẩy uế mới được sạch.
Vì thế, bà thẹn thùng, e lệ không dám đến trước mặt Chúa xin Chúa chữa,
nhưng bà có một lòng tin chắc chắn vào sức mạnh uy quyền toàn năng của
Chúa. Bà tự nhủ : “Không cần phải ra mặt, chỉ cần đụng chạm vào tua áo
khoác ngoài của Ngài thôi thì chắc chắn sẽ được khỏi”. Chúng ta thấy bà
thật khiêm tốn, có thể so sánh với người đàn bà xứ Ca-na-an, hoặc như
người trộm lành. Vì thế, bất chấp tất cả những luật lệ phiền phức và
nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa,
và kết quả bà đã được toại nguyện. Bà đã thể hiện đức tin một cách sâu
sắc, như chính Chúa đã xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà :
“Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Phép lạ thứ hai Chúa Giêsu làm là nơi nhà ông trưởng hội đường Gia-ia.
Ông có đứa đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa
cứu chữa con ông. Lòng tin mạnh mẽ của ông được bộc lộ ra qua tất cả con
người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực
vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quỳ sụp dưới chân Chúa, đây là một cử
chỉ dành riêng cho Thiên Chúa Gia-vê trong Cựu Ước, cử chỉ này chứng tỏ
ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin
Chúa đến đặt tay trên con ông, cử chỉ này về sau được Giáo hội dùng vào
bí tích Thêm sức. Rồi trong lời kêu xin, chúng ta cũng thấy bộc lộ lòng
tin vững chắc của ông. Ông tin chắc chắn chứ không hồ nghi như người cha
có đứa con bị quỷ ám từ lúc còn nhỏ. Người cha này thưa với Chúa một
cách ngập ngừng : “Nếu Thầy có thể làm gì được thì xin Thầy giúp đỡ
chúng tôi”. Nghe thế Chúa kêu lên : “Sao lại nói nếu có thể, tất cả mọi
sự đều có thể đối với người tin tưởng”. Còn ông Gia-ia thưa Chúa : “Thưa
Thầy, con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó
được cứu thoát và được sống”. Chúng ta thấy ông không hồ nghi gì, ông
tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn, vì Ngài là Chúa
sự sống và sự sống lại. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan
tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và
cho con gái ông sống lại.
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không
phải là vật chất, nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc về tinh thần.
Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi
nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin
của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời
nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có
đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy
chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta
là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là : đức
tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài
nữa.
Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên
ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta
cũng cần có một đức tin kin đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ
nữ trên đây, bà không cần kêu xin nài nẵng như ông Gia-ia, bà chỉ có một
thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là
đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.
Lời Chúa và Thánh Thể
Nhạy cảm với nỗi đau của
con người
Mc 5, 21 – 43
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !
Vì yêu thương nhân loại chúng con sống trong cảnh lầm than khốn khổ mà
Chúa đã phải trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, để trở nên người
trần, sống như loài người chúng con. Trong suốt cuộc đời rao giảng của
mình, Chúa đã luôn tỏ ra thân thiện và gần gũi với những người đau khổ,
những người xấu số và những người tội lỗi.
Xã hội Do Thái vào thời Chúa Giêsu, thì những người nghèo, những người
tội lỗi, những người bệnh tật… thường mang mặc cảm và cuộc sống của họ
thật khổ sở. Những người nghèo thường bị xã hội ruồng bỏ, họ không được
hưởng một quyền lợi nào, thậm chí còn bị người khác xa lánh. Người ta
rất sợ phải giao du với những người nghèo, người tội lỗi, vì vậy mà
không bao giờ có cảnh ngồi đồng bàn với người tội lỗi và nghèo khó. Tuy
nhiên, đối với Chúa Giêsu, Người đã không xa lánh, không xua đuổi những
người đau khổ này, Người đã đến chia sẻ với họ những khổ đau và đem cho
họ những giá trị của cuộc sống, để rồi dần dần nâng phẩm giá của họ lên.
Tin Mừng đã phần nào cho chúng con thấy hình ảnh một Giêsu hòa đồng với
người nghè. Người nhắc đến người nghèo với tất cả sự yêu thương không
phân biệt. Người đã chạnh lòng thương xót bởi vì họ buồn rầu chán nản
như đàn chiên không người chăn dắt ; Người chạnh lòng trước cảnh ngộ một
bà góa ở Nain, Người bảo bà : “Đừng khóc nữa !”; hay như trong dụ ngôn
người phú hộ và anh Lazarô nghèo khó, Người đã quở mắng người phú hộ khi
để cho người ăn mày nằm chết ngay trước cửa nhà mình.
Lạy Chúa Giêsu ! Vì yêu thương loài người chúng con đang phải sống trong
lầm than khổ cực mà Chúa đã không quản ngại những khó khăn vất vả, thậm
chí đến cả mạng sống của mình Chúa cũng chẳng tiếc để bảo vệ chúng con,
để cho chúng con được hưởng hạnh phúc. Bằng cách này hay cách khác Chúa
luôn đáp ứng tất cả những ai có nhu cầu chạy đến với Chúa “Hỡi những ai
mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta… Ta sẽ bổ sức cho…”.
Chúa Giêsu luôn
thể hiện cho chúng con thấy Người có một trái tim rất nhạy cảm đối với
sự khổ đau. Chỉ cần một lời van xin, chỉ cần một chút lòng tin, chỉ cần
một cử chỉ và một ánh mắt cầu cứu là Chúa đã biết họ muốn gì và cần gì.
Chúa đã cứu giúp tất cả, chẳng cần biết đối tượng là ai, Người sẵn sàng
ra tay cứu chữa nhằm mang hạnh phúc đến cho mọi người. Bài Tin Mừng
chúng con nghe hôm nay đã phần nào chứng tỏ sự nhạy cảm này. Giữa một
đám đông ồn ào chen lấn, ai cũng muốn được chạm vào Chúa Giêsu để mong
được Người ban phúc. Thế mà giữa đám đông ấy, Chúa vẫn nhận ra có một
người phụ nữ đưa tay kéo vạt áo của Chúa, với hy vọng Chúa sẽ chữa bà ta
khỏi bệnh băng huyết. Ngay lập tức Chúa đã chữa lành bệnh cho người phụ
nữ này vì Chúa biết rằng người đàn bà này đã phải chịu rất nhiều đau khổ
trong suốt mười hai năm trời.
Lạy Chúa Giêsu ! Ngày hôm nay, nhờ sự phát triển của nền kinh tế đời
sống của chúng con được khấm khá hơn, không những được no đủ, mà chúng
con còn có của ăn của để. Tuy nhiên, trong cuộc sống của chúng con vẫn
còn đó những đau khổ : bệnh tật của bản thân, con cái không vâng lời cha
mẹ, những tranh chấp, thất nghiệp… Tất cả những điều này cho phối chi
phối chúng con, làm cho cuộc sống của chúng con thiếu đi sự bình an và
chúng con luôn cảm thấy hụt hẫng, xin Chúa đến cùng đồng hành và chia sẻ
với chúng con những khổ đau trong cuộc sống.
Lạy Chúa ! Cũng bởi vì sống trong một xã hội phát triển về mọi mặt, nhu
cầu hưởng thụ của con người rất cao, chúng con ai cũng muốn được vươn
lên bằng chị bằng em. Chúng con đã dành tất cả thời gian cho công việc
để bản thân mình được đầy đủ tiện nghi. Chính vì vậy, chúng con ít có
thời gian quan tâm tới những người xung quanh, không thấy được nhu cầu
cần được giúp đỡ của họ. Chúng con bỏ qua những việc làm bác ái cho tha
nhân. Và đôi khi chúng con cố tình lảng tránh khi có một ai đó cần sự
giúp đỡ của chúng con. Với mọi lý do chúng con đưa ra để biện hộ và bao
che cho hành vi ích kỷ của mình “Tôi còn chưa lo được cho tôi và gia
đình tôi nữa là…”. Trái lại, trong cuộc sống có những lúc chúng con lại
rất hoang phí sẵn sàng mua sắm cho mình những thứ không cần thiết, sẵn
sàng bỏ ra một số tiền lớn để tổ chức tiệc tùng “ăn uống ê hề”, sẵn sàng
lao vào những cuộc chơi vô bổ tốn kém… trong khi cũng với những số tiền
đó chúng con có thể giúp được cho bao trẻ em đến trường, bao cụ già có
chỗ nương thân, bao mảnh đời lang thang cơ nhỡ có công ăn việc làm, bao
bệnh nhân không có điều kiện thang thuốc được chữa trị.
Lạy Chúa ! Xung quanh chúng con đây vẫn còn rất nhiều người đang phải
đối diện với những khổ đau trong cuộc sống. Nhiều người vẫn phải sống
trong cảnh màn trời chiếu đất ; chiến tranh, thiên tai đang hoành hành
khắp nơi và gây ra biết bao tai họa ; nhiều người đang phải quằn quại
đau đớn chống trả lại những căn bệnh hiểm nghèo… Những người này, họ cần
lắm sự chia sẻ và sự giúp đỡ của chúng con. Xin Chúa Giêsu là vua tình
thương, ban cho chúng con luôn biết nhạy cảm với những khổ đau của tha
nhân và luôn biết mở rộng lòng mình ra để đón nhận những người cần đến
sự giúp đỡ của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ! Hôm nay đây, trước Thánh thể của Chúa chúng con xin
dâng lên Chúa tất cả những đau khổ của chúng con cũng như của những anh
chị em chúng con, xin Chúa hãy cất đi cho chúng con những đau khổ trong
cuộc sống và ban cho chúng con có nhiều niềm vui và hạnh phúc, để chúng
con có thể vững tin vào Chúa với một sự tin tưởng và phó thác hoàn toàn.
Chúng con cũng xin Chúa ban cho chúng con tấm lòng bao dung, luôn nhận
ra những nhu cầu của người khác và sẵn sàng cho đi những gì mình có. Xin
Chúa nhận lời chúng con. Amen
Giuse Trần Văn Đông op
Chúa thương chữa lành mọi
bệnh tật
Mc 5,21-42
“Con
Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ muôn
người” (x.Lc 20,28)
Khi xuống
trần gian, Đức Giêsu đã mang trọn thân phận của con người, chỉ trừ tội
lỗi. Chính vì mang thân phận con người mà Đức Giêsu cũng có lúc cảm thấy
đau khổ, cô đơn, mệt mỏi…những điều đó ta tưởng chừng chỉ có nơi những
con người, những thụ tạo của Thiên Chúa. Thế nhưng chính con Thiên Chúa
khi xuống trần gian đã đón nhận tất cả những điều đó hầu kéo con người
lại gần với Thiên Chúa hơn.
Một hình
ảnh yêu thương được trình thuật trong đoạn Tin Mừng của Thánh Maccô hôm
nay đã gợi lại cho chúng ta thấy được tình thương của Thiên Chúa dành
cho con người và nhất là những người có lòng tin vững mạnh vào Thiên
Chúa.
Chuyện
người đàn bà bị băng huyết đã mười hai (12)năm, nhưng nơi bà đã luôn
nuôi dưỡng một niềm tin vững mạnh vào Đức Giêsu con Thiên Chúa. Vì vậy
mà bà mới nghĩ rằng chỉ cần đụng vào áo của Người cũng đủ để bà được
khỏi bệnh. Chính niềm tin đó đã thôi thúc bà, để từ đây bà đã can đảm
bất chấp tất cả, vượt qua đám đông đang vây quanh Đức Giêsu để bà thực
hiện ước muốn của mình.
Đức Giêsu
hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi?”
Quả thực,
qua câu hỏi của Đức Giêsu, không phải Ngài chỉ nói đến những gì là hình
thức bên ngoài. Nhưng qua câu hỏi đó, Ngài muốn cho ta thấy được rằng:
Thiên Chúa biết tất cả, dù là những điều thầm kín trong lòng của ta. Sâu
xa hơn nữa, Đức Giêsu còn đưa ta đi tới một ý nghĩa lớn hơn đó là: Thiên
Chúa biết được tất cả những nhu cầu của từng người, để từ đó Thiên Chúa
ban phát những ơn cần thiết để củng cố niềm tin cho chúng ta vào Thiên
Chúa.
Ngoài ra,
Trình thuật Tin mừng hôm nay còn cho ta thấy được một biểu hiện tình yêu
của Thiên Chúa dành cho con người, đó là Thiên Chúa đã làm cho con gái
ông trưởng hội đường được sống lại. Thực sự đối với con người của chúng
ta, sống hay chết không nằm ngoài ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa có
thể ban phát hoặc có thể lấy đi bất cứ lúc nào.
Lạy Chúa
Giêsu Thánh Thể, Chúa đã yêu thương tất cả mọi người chúng con, không
phân biệt người giàu với người nghèo, người khỏe mạnh với người yếu đau…Tình
yêu của Chúa không phải chỉ là những lời giảng dạy, những lời nói xuông,
nhưng tình yêu đó đã được thể hiện ngay trong chính cuộc sống của Chúa.
Những thái độ và những phép lạ Chúa làm để minh chứng cho lời giảng của
mình.
Lạy Chúa
Giêsu, xin giúp con để con có được một niềm tin vững mạnh vào Thiên Chúa,
một niềm tin tinh tuyền và phó thác. Vì chỉ khi nào con đặt trọn cuộc
đời con trong tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, lúc đó con mới
cảm nhận được sự yêu thương, bao bọc, chở che của Ngài.
Xin Chúa
ngự đến trong tâm hồn, trong cuộc đời con. Xin Chúa chữa lành những
thương tích và những bệnh tật nơi tâm hồn con, để từ đó con biết mang
niềm vui Chúa đến với mọi người. Amen.
Lm.
Jude Siciliano, OP. (Học viện Đaminh chuyển
ngữ)
Đừng sợ! chỉ cần tin
thôi
Mc
5,21-43
Kính
thưa quý vị,
Các
trình thuật của thánh Máccô thường ngắn gọn, sinh động và có cảm giác
vội vã. Đức Giêsu đang vội vã hoàn tất công việc rao giảng Tin mừng;
trong khi các môn đệ thì chậm chạm theo sau Người. Nhưng câu chuyện hôm
nay lại dài bất thường. Câu chuyện mang đặc trưng “chèn” hai câu chuyện
thành một. Một câu chuyện bắt đầu và bị chen ngang bởi một câu chuyện
khác; câu chuyện này kết thúc, trước khi thánh Máccô trở lại câu chuyện
chính.
Kỹ thuật
kết nối kiểu “chèn vào” của hai nhân vật khác nhau trong cùng một trình
thuật sẽ tạo ra sự so sánh giữa hai nhân vật. Chúng ta bắt đầu bằng việc
so sánh hai nhân vật trong câu chuyện, những điểm tương đồng và dị biệt
của họ. Những người có quyền hành và sức mạnh đã không thể giúp cả hai
con người này. Các bác sỹ không thể chữa căn bệnh của người đàn bà này,
còn những người đồng sự trong hội đường với Giaia cũng chẳng thể giúp gì
cho ông. Vậy họ làm gì? Họ chủ động tìm đến Đức Giêsu, nhưng theo những
cách thức khác nhau.
Giaia là
một người cha đã tuyệt vọng và, dù ông là trưởng hội đường, ông đã vất
bỏ mọi nghi thức, chuẩn mực để chạy đến với Đức Giêsu, sấp mình dưới
chân và “khẩn khoản nài xin Người”. Ta thấy uy danh của Đức Giêsu trước
bạn hữu của ông và những trưởng hội đường khác! Hãy thử tưởng tượng xem
một chức sắc tôn giáo khiêm nhường sấp mình trước một nhà giảng thuyết
lưu động.
Nhưng
rồi ông phải chờ. Chẳng phải quý vị ghét chờ đợi ư? Chẳng hạn khi xếp
hàng chờ thanh toán tại quầy trong siêu thị hay tại hí trường; một đoạn
đường kẹt dài sau đèn đỏ; chờ nước sôi trong khi đói cồn cào; hay phải
điền toa thuốc tại quầy thuốc. Nhưng đó cũng chỉ là những bất tiện nho
nhỏ, phải không?
Còn có
một sự chờ đợi khác với đầy sự căng thẳng, lo lắng, sợ hãi và vô vọng.
Chờ đợi khi một người mình yêu thương đang phải phẫu thuật; chờ đợi đứa
con đi đâu mãi khuya không về; chờ người lính trở về từ chiến trường. Đó
là những chờ đợi rất bấp bênh. Chúng ta bắt tay vào làm tất cả những gì
có thể để giải quyết những tình huống và khó khăn. Nhưng những hình thức
chờ đợi trên hoàn toàn khác, chúng ta chẳng thể làm gì, chúng ngoài tầm
kiểm soát của chúng ta, vì thế chúng ta chẳng có chọn lựa nào ngoài chờ
đợi và cầu nguyện cho một giải pháp tốt nhất.
Thánh
Máccô quả là một người kể chuyện tài tình khi ngài chen câu chuyện này
vào câu chuyện kia. Ngài xây dựng được kịch tính và sự háo hức và chúng
ta phải chờ để khám phá ra kết quả. Nhưng Giaia không ở đó để mà thưởng
thức một câu chuyện hay và ông đang phải chờ vì Đức Giêsu quay qua câu
chuyện của người đàn bà. Giaia phải chờ. Thử nghĩ xem ông ta phải trải
qua cảm giác này như thế nào. Ông đã phải chạy đến Đức Giêsu trong khi
hết sức nguy kịch. Ông mô tả điều đó rất ngắn gọn và khẩn cấp: “Con bé
nhà tôi gần chết rồi”. Ông ấy và cả bạn bè có thế lực của ông cũng chẳng
thể làm gì được. Đức Giêsu chính là hy vọng cuối cùng của ông. Ông đề
nghị thẳng thắn “Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và
được sống”. Khi chúng ta đang cần gấp thì chẳng cần phải cầu nguyện với
lời lẽ rườm rà. Đức Giêsu đáp lại tức thì “Người liền ra đi với ông. Một
đám rất đông đi theo và chen lấn Người”.
Đức
Giêsu vội vã. Nhưng có lẽ đối với ông thì Đức Giêsu không có vẻ gì gấp
gáp, vì Người dừng lại nói chuyện với người đàn bà bị băng huyết đã chạm
vào Người và được lành bệnh. Chính việc bị chảy máu đã khiến bà bị xem
như ô uế suốt cả 12 năm (Lv 15,25-30). Cộng với sự khổ sở này, bà còn bị
loại khỏi gia đình, bạn bè và cả việc tham dự vào cộng đoàn cầu nguyện.
Đức
Giêsu dừng lại nói chuyện với người đàn bà cho thấy Người xem nhu cầu
của bà cũng quan trọng và khẩn thiết không kém nhu cầu của người lãnh
đạo tôn giáo danh tiếng Giaia. Một lần nữa Đức Giêsu cho thấy những kẻ
bị gạt ra bên lề cũng quan trọng trong sứ vụ và lời mời gọi vào Nước
Chúa của Người.
Bối cảnh
địa lý của câu chuyện cũng đưa ra một thông điệp tương tự. Đức Giêsu mới
trở về từ “bên kia hồ”, xứ Dân Ngoại, nơi Người trừ các quỷ thuộc đạo
binh Gherasa. Giờ Người trở lại phía tây, bờ biển của dân Dothái. Chi
tiết địa lý này cho thấy rằng Đức Giêsu chữa bệnh ở cả hai “bờ”. Ơn
lành của Người không thiên vị bên nào giữa Dothái và Dân Ngoại, giữa kẻ
xa lạ và dân riêng của Người. Cả những người được tổ chức tôn giáo đón
nhận hay những kẻ bị xem là “ngoài rìa” cũng đều được Đức Giêsu chữa
lành và rộng ban ân sủng.
Chúng ta
để cho Giaia chờ đợi và, trong những tình huống khủng hoảng, chờ đợi
Thiên Chúa ra tay cứu giúp có thể là một thử thách nghiêm trọng. Khi
chúng ta chờ đợi, như trong hoàn cảnh của con gái ông Giaia, thì sự việc
từ xấu trở nên tồi tệ. Khi điều đó xảy ra thì đức tin của chúng ta dễ đổ
vỡ. Chúng ta băn khoăn không biết liệu Thiên Chúa có hề yêu thương chúng
ta chút nào; chúng ta nghi ngờ giá trị của chính mình; chúng ta cầu
nguyện như thế đã thích hợp chưa; liệu chúng ta có đáng để Chúa quan tâm
hay không,… Giaia có lẽ cũng đã có những tâm tình như thế, cộng thêm sự
thất vọng, sợ hãi, tuyệt vọng và có thể còn tức giận nữa.
Đức
Giêsu mời gọi ông Giaia tin vào quyền năng của Người. Tiếng gọi của
thần chết gào thét trong thế giới chúng ta – nghèo đói, nghiện ngập,
chiến tranh, chủng tộc, và cả cái chết nữa. Cả chúng ta lẫn Giáo hội
không tự mình đối diện với chúng. Khi chúng ta đương đầu với bất kỳ
hình thức nào của sự chết, chúng ta được mời gọi lắng nghe lời Đức Giêsu
nói hôm nay “đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Và chúng ta làm như ông Giaia
và các môn đệ là đi theo Đức Giêsu, thậm chí đến chính nơi của cái chết
và “có lòng tin”. Đám đông khi nghe Đức Giêsu nói “đứa bé có chết đâu,
nó ngủ đấy” thì họ chế nhạo Người. Liệu có môn đệ nào trong đám đông
những người chế nhạo ấy hay không? Thậm chí ngay khi đối diện với một
điều không thể, Đức Giêsu vẫn mời gọi chúng ta đừng nghe theo lời kẻ
hoài nghi và luôn phủ nhận. Thay vì thế, Người khích lệ chúng ta hãy
đừng sợ.
Đừng
quên người đàn bà. Bà có lẽ đã một thời từng khỏe mạnh và có địa vị cao
trong xã hội (5,26). Nhưng bà đã “tán gia bại sản”. Bà phải một mình
giữa nơi công cộng, điều này hiếm xảy ra thời bấy giờ. Bà là người phụ
nữ không được bảo vệ và dễ bị tấn công. Không có người đàn ông thân
thích nào bảo vệ cho bà. Và, tình trạng còn bi đát hơn, khi bà được xem
như kẻ bị ô uế. Vì tình trạng của bà, bất cứ ai chạm đến bà đều nhiễm và
lây tình trạng ô uế như bà. Nhưng vì bà tuyệt vọng nên mới liều thế. Hay
chính niềm tin đã khiến bà liều lĩnh.
Có hai
cái chết trong câu chuyện này và chúng đều liên quan đến con số mười
hai. Người đàn bà đã xem như chết về mặt xã hội đến mười hai năm, vì bị
loại khỏi gia đình và cộng đồng của mình. Đứa trẻ mười hai tuổi đã chết
thật. Đức Giêsu đã có thể làm cho cả hai sống lại và đưa họ tái nhập vào
cộng đồng của gia đình và đức tin của họ.
Việc
người đàn bà được chữa lành là do chính bà liều đi bước trước. Thêm vào
đó, Đức Giêsu không chủ động làm gì, điều này được khẳng định qua lời
Người nói với bà “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Nhiều
người đã xô đẩy và chen lấn Đức Giêsu nhưng cái chạm của người đàn bà
này quả có khác; bà có lòng tin và đã hành động vì tin.
Lời Đức
Giêsu nói với bà sau khi bà được chữa lành được nhấn mạnh, vì Người gọi
bà “Này con”. Việc được chữa lành không chỉ khiến bà đón nhận vào trong
cộng xã hội mà còn được trở nên thành viên trong gia đình của Đức Giêsu.
Người đã quy tụ một gia đình mới cho chính Người, không dựa trên quan hệ
huyết tộc, nhưng dựa trên niềm tin và việc thi hành ý Thiên Chúa
(3,31-35). Chúng ta không biết người đàn bà này có người đàn ông nào là
người thân hay không, nhưng nay bà được bảo vệ bởi một “người cha” mới
là Đức Giêsu – Đấng đã gọi bà “Này con”. Chúng ta cũng là con trai con
gái của Người khi chúng ta tin tưởng Người cho đủ “đừng sợ”
|