|
THÁNG MƯỜI HAI | |||||||||||||
| ||||||||||||||
Thánh PHANXICÔ XAVIÊ Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi c̣n ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng pḥng với Phêrô Faure, người sau này sẽ nhập ḍng Tên và được phong chân phước. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhatio thành Loyola. Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hăm ńnh. Ngài chỉ c̣n chú tâm cứu rỗi các linh hồn. Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venitia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuôc hành hương đi thánh địa. Đức thánh cha đă chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Phanxicô và Inhatiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537. Phanxicô đă chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin. Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của ḿnh, Ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài c̣n phải chiến thắng chính ḿnh nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm. Ngài bộc lộ cho một người bạn : "Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một đêm kia, anh đă nghe tôi la : "C̣n nữa, lạy Chúa, c̣n nữa" không ? Tôi đă thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn h́nh thức. Tôi ao ước được chịu khổ h́nh hơn nữa". Ở tỉnh Travancore, trong ṿng một tháng, thánh nhân đă rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đă giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đă làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh v́ sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc... Ngài nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trứơc đây sao ? Người ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại : - "Th́ tôi bơi tới vậy". - Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc th́ sao ? Ngài nói : - "Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc. Rồi Ngài thêm : "Ôi, nếu như hy vọng t́m được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi". Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản . Phanxicô trở lại Ấn Độ. Ngài đă rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đă lập lại : - Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con. Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ : "Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hăy nhớ đến con". Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối th́ đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta t́m thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt t́nh tôn kính Ngài, v́ đă coi Ngài như một vị thánh. Năm 1619, Đức Paulô V đă suy tôn ngài lên bậc chân phước. Năm 1622, Đức Grêgôriô XV suy tôn lên bậc hiển thánh phong thánh cùng với thánh Inhaxiô và đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Thánh GIOAN DAMASCÊNÔ GIOAN chào đời vào lúc thành phố Damas sinh quán của Ngài, đang dưới quyền của người Ả Rập. Cha Ngài là Sergiô được vị Calife (người kế vị của Mahomet) mến chuộng. Đến nỗi dầu là người Kito hữu, ông cũng được đặt làm kẻ thừa hành. Ong quan tâm bảo vệ các tín hữu bị áp bức, hy sinh tiền bạc để chuộc họ. Ngày kia, giữa đám người bất hạnh bị điệu ra nơi công cộng, ông thấy các tử tội qùi xuống dưới chân một người trong nhóm họ xin cầu nguyện... Ông biết được rằng người được khẩn nài đó tên là Cosma, một tu sĩ Italia rất thông thái. Sergiô liền chạy tới vị Calife, xin được lưu giữ Cosma làm thầy dạy cho con ḿnh là Gioan. Cosma trở thành bạn của Sergiô, đồng thời là thày dạy của Gioan và của một đứa trẻ Giêrusalem khác mà Sergiô nhận nuôi. Khi kết thúc chu kỳ dậy dỗ, Cosma xin rút lui vào một tu viện. Gioan đă nên lừng danh nhờ trí khôn ngoan và sự hiểu biết của ḿnh và được gởi về triều đ́nh của vị vua Calife. Khi cha Ngài qua đời, hoàng tử người Ả Rập đặt Ngài đứng đầu hội đồng cố vấn và làm thừa tướng vùng Damas. Thế là định mệnh đổi thay của một tu sĩ được cứu mạng, đă khiến cho những hiểu biết của Hy lạp và Roma được đưa vào triều đ́nh của các vị Califes. Đế quốc Đông phương lúc ấy do Lêo, người Isauria cai quản. Ông là một con người bách hại các Kitô hữu. Gioan có thế giá nơi vị Calife không sợ hăi ǵ mà lại c̣n viết thư thúc đẩy các Kitô hữu can đảm trong đức tin. Hoàng đế biết điều đó, liền giận dữ. Không làm ǵ được, ông đă dùng đến một mưu mô khả ố. Ông cho người giả mạo chữ của Gioan để viết một bức thư bội phản, trong đó, người được vị Calife bảo vệ, tính trao nộp Damas cho vua Byzance. Rồi Leo, người Isauria, báo cho vị Calife biết có một kẻ thừa hành bội phản. Và câu chuyện thật kỳ diệu đến nỗi các văn phẩm thời đó c̣n kể lại. Vị Calife đ̣i Gioan đến. Dầu biện minh cho sự vô tội của ḿnh, Gioan vẫn bị chặt tay phải. Gioan mang cánh tay bị chặt về nhà và khấn nài Đức Trinh Nữ hoàn lại cánh tay mà từ nay Ngài sẽ chỉ dùng để viết các thánh thi ca tụng Con Mẹ. Gioan đi ngủ và mơ thấy Đức Trinh Nữ chữa lành cho ḿnh. Thức dậy, cánh tay đă được nối liền và chỉ c̣n để lại một đường máu đỏ. Trước phép lạ này, vị Calife không c̣n nghi ngờ ǵ về sự vô tội của Gioan nữa và đă tái lập Ngài làm nhà cầm quyền. Nhưng đối với Gioan Damascênô, thời danh giá đă qua rồi. Ngài muốn hiến thân cho Thiên Chúa. Ngài phân phát của cải cho người nghèo và đến tu viện thánh Sabas, nơi thày ḿnh đang sống và người em nuôi cũng đă tới đó trước. Nhưng không ai dám huấn luyện quan thừa tướng băi nhiệm theo đường Thánh thiện cả. Cuối cùng bề trên trao Ngài cho một tu sĩ già khó tính, thù ghét với tất cả những ǵ là êm ái đối với Gioan như thơ phú và âm nhạc. Nếu không tự ư vâng phục như một bằng chứng của t́nh yêu, th́ cuộc sống Ngài sẽ cay đắng đến thế nào. Ngài đă bị tước bỏ mọi niềm vui cao đẹp, cả đến việc giữ lời hứa là viết các thánh thi. Ông thày c̣n sai người đă cai trị Damas đi bán giỏ sọt với giá cắt cổ, khiến các lời chế nhạo đổ xuống như mưa. Gioan vẫn âm thầm vâng phục và chịu đựng, sau khi đă thử thách quá lâu người tập sinh như thế, vị tu sĩ già để cho Người được tự do học hỏi và t́m hứng. Lúc ấy, tự đáy ḷng Gioan đă khơi dậy những khúc thánh thi đáng khâm phục, cùng với sự cộng tác của người em nuôi, cho tới khi ông ta được đặt làm giám mục Palestina. Gioan Damascênô chỉ rời tu viện để đi giảng tại các thánh đường. Lúc về già, Ngài sửa chữa các bản văn, đôi khi tự trách là bút pháp quá khởi sắc, Ngài nghiên cứu học hỏi không ngừng và đă tŕnh bày thần học một cách liên tục đáng kể. Một bí nhiệm bao quanh những năm cuối đời thánh nhân. Có người tin rằng: Ngài đă qua đời trong thinh lặng tại tu viện, người khác lại nghĩ rằng, Ngài đă rảo qua các tỉnh Đông phương để nâng đỡ các tín hữu đang bị nhóm phá ảnh tượng bách hại, rồi chết v́ đạo. Là triết gia, thần học gia, nhà hùng biện, thi sĩ, thánh Gioan được danh hiệu là tiến sĩ Hội Thánh. Thánh NICÔLA Thánh Nicôla, vị đại thánh b́nh dân, nhưng chỉ t́m được tiểu sử 200 năm sau khi Ngài chết. Người ta có thể nói rằng: Ngài đích thực là giám mục Myra, đă hiện ra với vua Constantinô trong một giấc mơ. Sau đó dường như các nhà chép sữ lại lẫn lộn với Nicola người Simon đă bị tù dưới thời Diocletianô, đă xây một tu viện và được chôn cất tại vương cung thánh đường thành Myra. Trừ sự kiện trên, nảy sinh ra nhiều huyền thoại và hơn ngh́n năm sau, thánh Nicôla nhân hậu đă thành danh tiếng khắp thế giới. Huyền thoại kể lại rằng, ở Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng giàu có Anna và Euphêmiô v́ không con đă cố gắng t́m an ủi trong công việc từ thiện. Thiên Chúa chúc lành cho ḷng bác ái của họ. Cuối cùng họ có được một mụn con và đăt tên cho con là Nicôla, có nghĩa là "sự chiến thắng của dân". Đây cũng là tên cậu Ngài, vị giám mục Myra. Ông cậu đă tiên đoán rằng: Nicôla sẽ là "Mặt trời soi chiếu thế gian". Khi mới tắm rửa lần đầu, con trẻ đặc biệt này đă chắp tay, đứng trong thau nước hai giờ liền, mắt hướng về trời. Thứ tư và thứ sáu, Ngài không chịu bú cho tới chiều để ăn chay. Chị vú nuôi sợ Ngài chết, nhưng trái lại, Ngài đă trở nên một con trẻ kiêu hùng. Nicôla có nhiều đức tính tốt như một trẻ em gương mẫu. Cha mẹ mất sớm. Nicôla thừa hưởng một gia tài kếch xù. Nhưng Ngài lại coi tất cả tài sản này như của Chúa cho vay. Người phân phát cho những người bất hạnh và thực hiện đức bác ái như một sự tế nhị dễ thương. Chẳng hạn một người cha có ba cô con gái, ông tính cho con làm nghề bất lương để có tiền cưới hỏi. Nhưng rồi đêm kia, ông thấy ba túi vàng chuyển qua cửa sổ, và có thể làm lễ cưới hỏi cách lương thiện cho các cô. Khi biết được người cho, ông đến xin thánh Nicôla cầu cho ơn tha thứ cho dự tính đáng chúc dữ của ḿnh. Rồi bất kể sự ngăn cấm của thánh nhân, ông đă kể lại khắp nơi cử chỉ bác ái của thánh nhân đă thực hiện để cứu 3 người phụ nữ khỏi cảnh bất lương như thế nào. Nicôla đă ao ước hiến đời ḿnh cho Thiên Chúa. Ông cậu giám mục của Ngài khi sắp chết đă truyền chức và đặt Ngài làm bề trên tu viện thánh Sion. Khi Ngài du hành qua Thánh địa, cơn băo nổi lên, các hành khách run sợ, Nicôla cầu nguyện cho họ và các cơn sóng dịu xuống, con tàu êm đềm theo đuổi cuộc hành tŕnh. Những cuộc can thiệp khác nữa làm cho thánh Nicôla trở thành Đấng bảo trợ những người vượt biển. Các thủy thủ làm chứng rằng khi bị đắm ch́m, nhớ cầu tới Ngài là thấy Ngài đến cầm tay lái đưa tới cảng, rồi biến đi... Khi những người thoát nạn tới nhà nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc nhiên v́ thấy vị cứu tinh của ḿnh đang ch́m đắm trong kinh nguyện như không hề rời bỏ nơi này. Họ không cầm nổi những lời tán tụng biết ơn xuất phát tự cơi ḷng, nhưng thánh nhân bảo họ : "Hăy chỉ nên ngợi khen Chúa về cuộc cứu thoát này, bởi v́ đối với tôi, tôi chỉ là một tội nhân và một đầy tớ vô dụng". Và Ngài đă cho biết rằng, nguy hiểm họ vừa trải qua là h́nh phạt v́ các tội kín, cũng như sự hối lỗi của các thủy thủ đă cứu thoát họ. Nicôla xuống Alexandria là nơi Ngài đă chữa lành các bệnh nhân, rồi đi thăm thánh Antôn ở Ai cập. Sau cùng, Ngài đến Giêrusalem kính các nơi thánh và trải qua ít tuần trong hang mà Thánh Gia đă dừng lại khi trốn qua Ai cập. Nơi đây, sẽ xây cất một thánh đường thánh Nicôla. Vừa mới trở về Myra, nơi các tu sĩ đang nóng ḷng chờ đợi cha họ trở về, Ngài đă tăng gấp một cách lạ lùng đống bánh cho cả trăm người ăn. Giám mục Myra qua đời, các giám mục miền Lycia cân nhắc để chọn vị mục tử mới. Một sứ giả từ trời xuống báo tin cho vị niên trưởng biết, người được chọn là linh mục Nicôla ngày mai sẽ tới mhà thờ trước hết. Trời vừa sáng, Nicôla tới nhà thờ theo ḷng sốt sắng và nghe loan báo ḿnh làm giám mục. Ngài muốn chạy trốn, nhưng phải theo ư nguyện của Đấng Cao Cả hơn ḿnh, trời cao chúc lành cho Ngài: dịp lễ đầu tay, thánh Nicôla đă làm cho một em bé bị phỏng sống lại. Từ kỷ niệm này, người ta hay kêu cầu thánh nhân những khi gặp nguy hiểm v́ lửa. Trở thành mục tử cả dân, thánh nhân rất cưng chiều những người bị áp bức, mồ côi, bênh hoạn và tù tội hơn. Ban đêm, Ngài cầu nguyện, nghỉ một chút trên đất, ăn ngày một bữa, mặc áo quần khiêm tốn khác với h́nh ảnh ngày nay nhiều. Những y phục lộng lẫy theo h́nh vẽ ấy, Ngài chỉ mặc vào những ngày đại lễ. Đời sống tín hữu xáo trộn v́ những cuộc bách hại: vị giám mục bị lưu đày, đánh đập. Cuộc trở lại của vua Constantinô đem lại tự do. Trên đường về, Ngài rao giảng Chúa Kitô, cải hóa lương dân, phá đổ các đền thờ và ngẫu tượng. Ngài làm nhiều phép lạ như mưa. Các thế hệ tương lai, c̣n kể lại huyền thoại của ba đứa trẻ bị một đồ tể tham lam độc ác cắt cổ và để trong thùng muối ướp thịt đă sống lại nhờ lời cầu nguyện của thánh Nicôla. Các truyện có nhiều thêm thắt như : Truyện người gian giảo có cây gậy đầy vàng, truyện đứa trẻ bị quỉ giả bộ ăn xin bóp cổ, nhưng đă được thánh nhân cứu sống, truyện thánh nhân dàn xếp giữa thày thuốc với bệnh nhân hiếm muộn con cái, hứa tặng chén vàng mà khi được lại không giữ lời hứa. Gần với sự thực hơn là việc các nhà buôn lúa gạo ở Sycily nhờ sự bao bọc lạ lùng của giám mục đă nuôi những người đói mà không giảm thiểu của dự trữ. Vua Constantinô cũng mơ thấy thánh nhân đến gặp để cứu cuộc xử tội bất công của ba viên chức. Sau đó các người bị giữ kêu cầu Ngài giải cứu và được nhận lời bằng một phép lạ. Thế là các nạn nhân bị xử oan hay kêu cầu Ngài. Sau khi hoàn tất bao nhiêu việc lành thiêng liêng lẫn vật chất, thánh Nicôla muốn vào cơi đời đời. Bảo vệ giáo thuyết công giáo tinh tuyền, Ngài đă chống lại lạc giáo tham dự cộng đồng Nicea. Khi thấy sắp kết thúc cuộc đời. Ngài muốn lui về tu viện, nơi mà buổi thiếu thời Ngài đă tự hiến cho Thiên Chúa, và chính tại nơi đây, Ngài phú dâng linh hồn trong tay Chúa. Năm 1087, Myra rơi vào tay người Thổ, người ta vội đưa hài cốt vị thánh về Bari gần Naples. Từ đó, huyền thoại đời Ngài lại lan rộng. Mỗi miền nói theo cách của ḿnh. Dân ca Đông phương coi Ngài như một vị Chúa trên trời. Đối với người Nga, Ngài là thừa kế thần linh lo chuyện gặt hái. Siberia cho Ngài là người chế tạo rượu "bia". Các vua nước Pháp sùng kính Ngài. Các chủ tịch luật sư đoàn cầm gậy có h́nh thánh Nicôla. Bên tây phương, lễ thánh Nicôla trở thành lễ của thiếu nhi v́ làm sao các em lại không yêu mến vị thánh nhân hậu đă cứu ba đứa trẻ đi mót lứa được ? Vị giám mục đầy huyền bí này sau cùng đă trở thành ông già Noel ngày nay . Thánh AMBRÔSIÔ Thánh Ambrôsiô chào đời khoảng năm 339 tại Augusta Trevororum. Cha Ngài, ông Aurlio Ambrôsiô làm tổng trấn xứ Gauules và là nghị sĩ viện quí tộc. Nhưng ông chết sớm, mẹ Ngài trở về Roma với 3 người con: Ambrosiô. Marcellina và Satyra, cả 3 đều nên thánh. Ambrôsiô chưa lănh phép rửa tội như thói quen thời ấy hay chần chừ, sợ mất ơn phép rửa tội, nhưng Ngài đă sống tuổi thơ ấu đạo đức. Lớn lên, Ngài tỏ ra thông minh đặc biệt, nổi tiếng về thơ văn, tài hùng biện và luật pháp. Thuộc ḍng quí tộc, Ambrôsiô được đặt làm lănh sự tỉnh Emilia và Liguria với thị trấn là Milan. Probus, vị tổng trấn theo Kitô giáo đă khuyên Ngài : - "Hăy đi và hành động như một giám mục hơn là quan án". Và người ta thán phục nhà quí tộc Kitô giáo v́ sự khôn ngoan tỉnh thức và hiền hậu của Ngài. Giám mục Milan qua đời, một cộng đoàn tập hợp trong nhà thờ, người ta gây ồn ào xáo trộn tại đó v́ chiahai phe: phe công giáo và phe theo Ariô. Ambrôsiô với tư cách là nhà cầm quyền đă đến dàn xếp. Ngài diễn thuyết kêu gọi hoà b́nh và khuyên dân chúng khôn ngoan chọn lựa, Ngài nói một cách đáng phục đến nỗi mọi tín hữu đều một tiếng kêu lớn : "Ambrôsiô làm giám mục". Hết c̣n phân ly, người ta ôm nhau khóc v́ vui mừng. Hoàng đế Valentinô đă chuẩn nhận việc tuyển chọn bất ngờ này. Lúc ấy, Ambrôsiô c̣n là một dự ṭng, nên cảm thấy ḿnh bất xứng để làm cha linh hồn của cả đoàn dân Ngài. Ngài đă có lần trốn thoát đến nỗi c̣n muốn gây cớ xúc phạm để tỏ ra bất xứng, nhưng vẫn không đánh lừa nổi ai. Ngài c̣n viết thư cho các giám mục và hoàng để xin cáo lui, nhưng hoàng đế c̣n bày tỏ ḷng thán phục : - "Không có một tinh thần nào ngay chính hơn, đây là một tay lái không thể uốn cong được". Ambrôsiô dành nhiều miễn cưỡng chấp nhận. Ngày 24 tháng 11 Ngài chịu phép Rửa tội. Ngày 07 tháng 12 năm 374 Ngài đă thụ phong linh mục và được thánh hiến giám mục. Ngài nói : - "Tôi bắt đầu dạy dỗ điều mà tôi không được học". Ambrôsiô không coi ḿnh như người thuộc thế gian nữa, Ngài phân phát của cải cho người nghèo và dâng đất đai cho Giáo hội. Một phần đêm khuya dành để cầu nguyện và học hỏi. Ngài học các tác phẩm Kitô giáo, nhất bằng tiếng Hy Lạp và đào sâu thần học. Buổi rạng đông, dâng lễ rồi vào bàn làm việc. Ngài rao giảng để tái hồi giáo phận bị xáo trộn bởi phái Ariô. Ngài mở rộng cửa tiếp đón mọi người cần đến ḿnh. Thánh Augustinô mà Ngài góp phần cải hóa đă gọi Ngài là thầy. Khi dạy dỗ, Ngài tỏ ra hiền hậu mà người ta gọi là "sự ngọt ngào của Ambrôsiô". Khi ngồi ṭa, Ngài đă khóc như chính ḿnh là tội nhân. Không có giờ ăn, Ngài như chay tịnh liên tiếp. Việc mục vụ nặng nề không ngăn cản Ngài tỏ ra là một thủ lănh quyết bảo vệ đức tin công giáo. Ở Roma, tại cung điện nữ hoàng Justina theo Ariô, muốn chiếm nhà thờ Milan, giám mục chống lại và quyết bảo vệ thánh đường. Từ Chúa nhật lễ lá tới thứ năm tuần thánh, một đoàn người công hăm thánh đường. Ambrôsiô dùng việc giảng dạy và thánh ca để giữ tín hữu. Những người yêu mến Ngài làm thành một hàng rào bao quanh Ngài. Cuối cùng, chiến thắng về tay Ambrôsiô. Ngài vẫn luôn tỏ thái độ cương quyết như thế. Đế quốc rơi vào tay Theodosiô. Vị Tân hoàng đế rất quí chuộng và kính trọng giám mục. Đức giám mục cũng yêu mến ông bằng t́nh phụ tử, nhưng không v́ thế mà thành ra yếu đuối bất công. Theodosiô trên đài vinh quang, để trừng phạt cuộc nổi loạn ở Thesalonica, đă ra lệnh tàn sát dă man. Thánh Ambrôsiô viết thư quở trách, bắt ông hối cải và cấm vào thánh đường. Ít lâu sau, Theodosiô chiến thắng trở về Milan với binh sĩ muốn vào thánh đường, đức giám mục đứng ở cưả ngăn ông lại và trách cứ ông. Hoàng đế lui về hoàng cung thống hối trong tám tháng. Ngày lễ Giáng sinh, ông khóc lóc xin tha tội. Ông cởi áo bào, phục dưới thềm nhà thờ và xếp hàng giữa đám tội nhân công khai. Không bao giờ ông c̣n chiếm chỗ danh dự nơi cung thánh nữa. Dân Milan rất thán phục vị vua đă đền tội cách quảng đại như vậy. Về sau, ông lại đi dẹp một cuộc nổi loạn mới. Thánh Ambrôsiô lại viết cho ông : - "Chiến thắng của vua sẽ bất toàn nếu vua không tha cho các kẻ nổi loạn". Vua đă tha. Trở về, Ambrôsiô ôm ông và khóc v́ vui mừng. Vua đă qua đời trong tay vị giám mục. Với hoàng tử kế vị. Thánh Ambrôsiô nói : -"Ông không phải làm vua để phục vụ lợi ích gia đ́nh ḿnh thôi, nhưng là để cai quản mọi người". Và đối với vị vua băng hà, thánh Ambrôsiô nói : - "Tôi yêu mến con người này, v́ đă ưa người quở trách ḿnh hơn bọn nịnh thần. Hoàng đế đă không mắc cỡ khi hoàn tất việc thống hối công khai và không ngày nào mà không khóc lỗi lầm ḿnh". Thánh Ambrôsiô c̣n sống thêm hai năm sau cái chết của vua Theodosiô. Nghe loan báo về cơn bệnh của Ngài, một viên chức của nhà vua tuyên bố : - "Con người này mà chết đi th́ Italia sẽ bị đe dọa tàn phá đến nơi". Danh tiếng của Ngài vang dội đến nỗi rợ dân đă không dám chống lại Ngài. Có những thủ lănh tin rằng: Ngài có thể ngưng mặt trời lại. Ngài đă hạnh phúc dùng thư tín mà cải hoá được nữ hoàng Marcômans. Trước khi qua đời ngày 4 tháng 4 năm 379 Ngài đă tổ chức các ṭa giám mục miền bắc Italia. Theo một tường thuật, Ngài đă nằm, tay chéo lại như h́nh Thánh giá và người ta có thể thấy như môi Ngài vẫn cầu nguyện không ngừng. Gần mộ Ngài sẽ đặt phần mộ Marcellina, người em mà Ngài yêu qúi hơn cả. Con người và sự sống của thánh nữ chính nhờ sự dẫn dắt của Ngài đă hiến ḿnh cho Thiên Chúa. Thánh Ambrôsiô đă để lại một công tŕnh đáng kể. ĐỨC MARIA Một trong những lễ đẹp ḷng trái tim Mẹ Maria nhất, chắc chắn là lễ vô nhiễm nguyên tội. Thánh lễ này nhằm tôn kính đặc ân riêng cho mẹ là đă được thụ thai trong ḷng thánh Anna một cách tinh tuyền không vương t́ ố. Thiên Chúa đă giữ ǵn Mẹ khỏi tội tổ tông, tội mà v́ mọi người chúng ta khi sinh ra đều vướng mắc v́ thuộc ḍng giống Adam. Đức Maria, do một đặc ân duy nhất, từ lúc h́nh thai, vẫn luôn tinh tuyền xinh đẹp trước mặt Chúa. Bởi vậy, do ơn thánh và do cuộc sống, Mẹ luôn là đối tượng đẹp mắt Chúa, theo như lời thánh kinh đă được quy về Mẹ: - Mẹ tuyệt mỹ, không hề vương vấn tội t́nh. Người ta có thể tự hỏi, làm sao lại có đặc ân này ? Để trả lời cho trường hợp đặc biệt này, chúng ta chạy đến ơn phúc của Chúa Giêsu Kitô. Ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đă có sức mạnh toàn năng để cứu nhân loại khỏi tội nguyên tổ, cũng đă giữ ǵn cho Mẹ khỏi tội tổ tông. Chắc chắn đây là một phép lạ, nhưng phép lạ này không lạ lùng hơn các điều kỳ diệu trong cuộc đời Đức Mẹ. Hơn nữa, các dặc ân khác Đức Mẹ thụ hưởng mà chúng ta chấp nhận sễ dàng, đều là hiệu quả của ơn vô nhiễm nguyên tội và giả thuyết ơn huệ này, nếu chối bỏ ơn Vô Nhiễm nguyên tội, mỗi biến cố trong cuộc đời Đức Maria đều giả thiết một phép lạ mới, nhưng với ơn vô nhiễm nguyên tội, mọi điều đều có thể giải thích được dễ dàng, v́ không vương mắc tội nguyên, Mẹ Maria vượt qua tất cả những ǵ là hiệu quả và h́nh phạt do tội gây nên, như t́nh tư dục, thống khổ và tan rữa sau khi chết. Con người không mắc tội nguyên tổ là một bí ẩn không thể giải thích nổi. Đức Maria, nếu mắc tội nguyên tổ lại c̣n là một bí ẩn khó giải thích hơn nữa. Niềm tin vào sự vô nhiễm nguyên tội của Mẹ Maria là một niềm tin không thễ thay đổi. Các nhà thần học đă chứng minh điều đó, các giáo phụ giảng dạy, các nhà giảng thuyết phổ biến... nhưng thời đại của chúng ta được thấy sự vinh quang cao cả này trở thành tín điều trong đức tin Kitô giáo, ngày 8 tháng 12 năm 1854, trước sự hiện diện của 54 hồng y, 42 Đức Tổng giám mục và 92 Đức Giám mục cùng đoàn người đông đảo, vị đại diện Chúa Kitô đă tuyên bố tín điều từ bao thế kỷ đợi trông. Chúng ta kể ra một vài lư do khiến Giáo hội công bố tín điều : Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. 1. Chúa Giêsu Kitô, v́ sự thánh thiện của Ngài, phải được sinh ra bởi người mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội. Đấng thấy cả t́ vết nơi các thiên thần, lại chịu sinh ra từ một thân thể bị nhơ nhớp v́ tội lỗi được sao ? Thân xác của Chúa Kitô là xác thân bởi Mẹ Maria. Vậy nếu Mẹ Maria thụ thai trong tội, hẳn Ngài đă thông truyền cho Chúa Giêsu một xác thể bị nhơ uế v́ tội lỗi. Quả là một điều ô nhục cho Chúa Giêsu một xác thể bị nhơ uế v́ tội lỗi. Quả là một điều ô nhục cho Chúa ! Nhưng những chiến thắng này chưa hoàn toàn. C̣n một lúc mà quyền lực hỏa ngục khoe khoang rằng: có thể làm cho ơn thánh bị vô hiệu, đó là lúc thụ thai. Vậy sự chiến thắng sẽ hoàn hảo nếu Mẹ Maria được ơn vô nhiễm nguyên tội, đặc ân này thể hiện lời hứa đă được loan báo từ trước: - Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa gịng giống ngươi và ḍng giống nó. Ḍng giống nó sẽ đạp nát đầu ngươi, c̣n ngươi sẽ táp lại gót chân" (St 3,15). Niềm tin vào ơn vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria đă được chính Đức Mẹ chứng thực. Năm 1858, nghĩa là chỉ bốn năm sau ngày tuyên bố tín điều, Mẹ đă hiện ra tại Lộ Đức và tuyên bố : - Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội ngay từ buổi đầu thai. Việc mừng trọng thể lễ Đức Trinh nữ Maria Vô nhiễm nguyên tội vào mùa vọng có một ư nghĩa đặc biệt, như mừng "cuộc chuẩn bị căn bản cho Đấng Cứu thế xuất hiện, vầng đông sáng tươi của một Hội Thánh không t́ vết" (Marialis Cultus 3) Thánh ĐAMASÔ I Đây là một vị giáo hoàng sáng chói trong Hội Thánh. Ngài đă xác nhận quyền tài thẩm trên toàn thể Giáo hội là do thánh Phêrô lănh được bởi Chúa Kitô. Đức giáo hoàng Libêriô đă chú ư tới linh mục Damasô gốc Tân Ban Nha và đặt Ngài làm tổng phó tế cai quản Giáo hội. Khi hoàng đế Constance ủng hộ phái Ariô bắt Đức Libêriô đi đày. Damasô đi theo Ngài. Nhưng Đức Libêriô cảm thấy ḿnh sắp chết, và để chiều theo ư Ngài, Damasô trở lại Roma, nơi Ngài sẽ được chọn làm giáo hoàng. Giữa những phiến động, phân ly và xáo trộn, triều đại giáo hoàng của Ngài khổ năo tột cùng. Dầu vậy, chính những điều đó làm nên vinh quang cho đức giáo hoàng. Là nhà trí thức, khảo cổ và thi nhân, Đức Damasô đă lưu giữ những chứng liệu quư báu về Roma của Kitô giáo thời xưa, Ngài đă sửa sang phần mộ các thánh tử đạo, trước tác những vần thơ để ở mộ bia. Những nét chữ đẹp trên các mộ mênh danh là "chữ Damasô". Ngài cho xây nhiều đại thánh đường và nhiều nhà từ thiện. Chúng ta phải biết ơn thánh Damasô nhiều, v́ Ngài đă nhận thức được tài năng giá trị của thánh Hiêrônimô và đă trao phó trách nhiệm hiệu đính bản dịch thánh kinh. Chính Ngài đă kết các thánh vịnh bằng kinhsáng danh. Giữ cho đức tin được tinh ṛng ở cộng đồng Nicêa chống lại phái Ariô, Đức Damasô đă triệu tập nhiều công đồng. Công đồng Constantinople đă đưa Ngài tới danh hiệu cao cả nhất là "viên ngọc của đức tin". Đức Damasô đă viết nhiều vần thơ đề mộ bia. Có một tấm Ngài viết về chính ḿnh và đăt ở nghĩa trang thánh Callistô : "Tôi, Damasô muốn được chôn cất tại đây, nhưng tôi sợ phàm tục hóa xương cốt các thánh nhân". Bởi vậy, Ngài đă được chôn cất trong một thánh đường ở Via Ardeatina. Thánh GIOANA PHANXICA CHANTAL Gioana Phanxica Fremyet chào đời ngày 23.01.1572 ở Dijon, là con của vị chủ tịch nghị viện. Thuộc một gia đ́nh công giáo đạo đức, ông đă đào tạo con gái của ḿnh nên một đứa trẻ có đời sống tín hữu mạnh mẽ. Học tập như các trẻ em khác, thánh nữ có một tinh thần sống động và tỏ ra vừa vui tươi vừa đứng đắn. Dầu c̣n nhỏ, Gioana Phanxica quyết xa rời những người lạc đạo, Ngài la hét khi có ai trong số họ chạm tới Ngài. Khi đến tuổi hoà ḿnh với đời sống đài các, sự dè giữ của thánh nữ chứng tỏ Ngài đă không ao ước một cuộc sống dễ dăi trống rỗng. Một trong những nhiệt huyết nơi Ngài là được thực hiện những công tŕnh lớn cho Thiên Chúa: Ngài muốn được tử đạo. Ngài đă phát khóc khi thấy những người khốn cực, Ngài nói : - "Nếu không yêu thương người nghèo, tôi thấy ḿnh như không yêu mến Thiên Chúa". Vị bá tước de Chantal thấy rằng : Gioana Phanxica sẽ là người vợ quí nhất trên thế gian. Cuộc hôn nhân hoàn tất. Gioana Fremyet lúc ấy 20 tuổi trở thành Gioana De Chantal. Buổi đầu, vị nữ bá tước trẻ lo âu v́ những món nợ cũ phải thanh toán. Nhưng GIOANA đă vui cười bắt tay vào việc. Ngài chỗi dậy từ 5 giờ sáng, dự thánh lễ, dùng ngựa để đi thăm nông trại và đất đai, kéo sợi và may vá với những người giúp việc, Ngài tỏ ra là một người quản lư danh tiếng, đồng thời cũng rất bác ái và dễ yêu đến nỗi người ta gọi Ngài là "bà phúc hậu". Có người c̣n nói rằng: ḿnh thích mang bệnh để được nữ bá tước viếng thăm, nhưng Ngài cũng biết rằng: săn sóc và mỉm cười chưa đủ, phải có Chúa giúp sức. Chẳng hạn đến với một bênh nhân xem như tuyệt vọng, Ngài thức đêm cầu nguyện và đến sáng th́ bệnh nhân được lành. Vị bá tước nhiều lần thấy người vợ đầy ḷng bác ái qú cầu nguyện . Khi xảy ra nội chiến, cảnh khốn cùng lan rộng cắp làng quê. Vị nữ bá tước đón tiếp các người bị bỏ rơi. Bệnh tật và các trẻ sơ sinh. Đoàn người thiếu ăn trong ṿng bảy dặm tuôn đến, Ngài tự tay múc cháo phục vụ mọi người. Thấy người đă được trợ cấp trở lại, Ngài không từ chối giúp đỡ họ và thưa với Chúa : - "Con đến gơ cửa van xin ḷng thương xót của Chúa, nào là con có muốn đến lần thứ hai thứ ba mà bị xua đuổi đâu ?" Bá tước de Chantal là một sị quan, thường vắng mặt để phục vụ nhà vua nơi triều đ́nh hay trong quân đội. Khi ấy thánh nữ bỏ đồ trang sức và áo nhung, tự khép ḿnh với sáu người con và các việc nội trợ, dành nhiều thời gian hơn để cầu nguyện. Khi bá tước trở về, Ngài tổ chức ăn mừng với nét mặt rạng rỡ vui tươi. Hạnh phúc chiếu sáng tổ ấm gia đ́nh. Nhưng trong một cuộc đi săn, bá tước bị tử thương. Ngườivợ trẻ thành góa bụa lúc 28 tuổi, đă đau đớn khóc lóc : - "Lạy Chúa, xin hăy cất đi mọi của cải và con cái, nhưng xin để lại người chồng yêu quí mà Chúa ban cho con". Dầu vậy, trong cơn thất vọng, thánh nữ đă điều khiển được ḷng ḿnh và t́m vâng theo thánh ư Chúa. Gioanna Phanxica phải từ giă lâu đài để về sống gần cha chồng. Những người nghèo vây quanh xe Ngài khóc lóc v́ họ đă mất người mẹ hiền. Một cảnh huống nặng nề đang đợi Gioanna nơi nhà cha chồng. Người quản gia già nắm mọi quyền bính, bắt Ngài nuôi nấng con cái bà với con cái của thánh nữ. Người đàn bà trẻ đă cố gắng để khỏi bị chống đối, Ngài luôn hiền hậu và không hề làm cha chồng nổi nóng. Ngài cũng tổ chức một pḥng thuốc cấp cứu và săn sóc người nghèo. Bảy năm trôi đi trong nếp sống khó khăn và hăm ḿnh. Năm 164, Gioanna Phanxica gặp thánh Phanxicô Salesiô. Vị thánh quyết định đời Ngài. Thánh nhân giảng mùa chay tại Dijon và nhận thấy thánh nữ chăm chú nghe ḿnh. Ngài hỏi thánh nữ có ư định tái gái không ? Thánh nữ kêu: - Không ! Và thánh nhân đă trả lời : - "Vậy phải kéo bảng hiệu xuống". Chỉ muốn Chúa thôi, đừng làm dỏm, dẹp bỏ tất cả chi tiết phong lưu lẫn ḷng kiêu hănh. Gioanna tự lo cho ḿnh, phục vụ người nghèo, lau rửa những người khốn klhổ đầy chấy rận. Mặc đồ sạch sẽ cho họ rồi nấu giặt và vá mạng áo quần cho họ. Thánh Phaxicô Salesiô dẫn Ngài tới sự Thánh thiện bằng đời sống ngày càng kết hiệp sâu xa hơn với Chúa. Thánh nhân cũng qủa quyết rằng: thời giờ đă đến để thánh nữ từ bỏ thế gian. Đường chân thực của thánh nữ là trở nên tu sĩ và thiết lập ḍng thăm viếng. Gioanna đă anh hùng từ giă gia đ́nh, Ngài dẫn người con gái không lập gia đ́nh là Fracoise để bổ túc việc giáo dục bên cạnh Ngài. Người con trai ở lại với ông nội đă chống lại việc Ngài ra đi và nằm ngang cửa ngăn cản. Cử chỉ của thánh nữ không theo tầm mức của chúng ta: Gioanna lau nước mắt bước qua ḿnh con. Ngài biết rằng: con ḿnh sẽ không bị bỏ rơi, v́ Ngài đă trao phó cho người cậu là tổng giám mục Bourges. Và mỗi khi cần đến, Ngài sẽ đi thăm để lo cho lợi ích của các con. Tháng 6 năm 1610, thánh nữ đă thiết lập tu viện dầu tiên ở Annecy và khẩn nguyện luôn thực hiện điều ǵ xem ra hoàn hảo hơn. Danh tiếng của các nữ tu ḍng Thăm Viếng tận tâm phục vụ người nghèo, bệnh nhân và giáo dục các thiếu nữ lan rộng mau chóng. Suốt 30 năm, mẹ de Chanltal đă thiết lập nhiều tu viện, hiến ḿnh làm nọi việc. Vào cuối đời, Ngài kể lại: - "Tôi như những nữ tá thô kệch thời thu hoạch. Người cha gia đ́nh nói với họ: hăy đến chỗ này, hăy đi chỗ nọ, hăy trở lại cánh đồng này, hăy đi tới chỗ khác. Chẳng hạn người cha diễm phúc của chúng tôi đă nói: hăy đi thiết lập ở Lyon , ở Grenoble, hăy trở lại để đi Bourges, hăy đi Paris, hăy từ giă Paris và trở lại Dijon. Chẳng hạn nhiều năm tôi chỉ đi và đến, khi th́ ở một trong những cánh đồng, khi th́ ở một nơi khác của cha thân yêu". Nơi nào thánh nữ đi qua, Ngài đều để lại sự êm dịu, sự phấn khởi và niềm tin tưởng. Người ta thấy Ngài chống lại sự nhọc mệt bằng niềm vui và can đảm. Linh động trong công việc, Ngài nấu ăn và coi ḅ, giờ giải trí, Ngài vui vẻ với các nữ tu... khiến họ nói: "Khi Mẹ chúng ta không giải trí được là thiếu một phần vui tươi êm ái". Bệnh tật không ngăn cản Ngài săn sóc và nghĩ tới mọi sự . Với một trí khôn nhanh nhẹn và chính xác, một lúc, Ngài đọc cho 3 nữ tu ghi chép. Mười chín năm trước khi qua đời, Gioanna Phanxica mất người bạn, người cha, người nâng đỡ là thánh Phanxicô Salesio. Sự đau đớn của Ngài thực sự lớn lao. Rồi đến cái chết của người con trai để lại một cháu gái sẽ là nữ nam tước de Sévigné. Các tang lễ liên tiếp nơi các người thân. Nhưng thử thách lớn lao nhất của thánh nữ là những chán nản nội tâm, những cám dỗ kinh khủng nghịch lại đức tin. Ngài không hể tỏ lộ những đau đớn của ḿnh và lấy sự b́nh thản để phủ lấp những lo âu. Mẹ de Claugy đă nói về những khô khan liên tục của Ngài: - "Chỉ trong cơi đời đời, người ta mới biết hết được". Khi Ngài qua đời, cha giải tội nói : - "Suốt 23 năm, tôi đă thán phục nơi thánh nữ một lương tâm tinh ṛng trong suốt và rơ rệt hơn cả pha lê". Trong những hành tŕnh cuối cùng mẹ de Chantal được reo mừng khắp nơi. Khi có dịch hạch ở Annecy, Ngài đă không từ chối bỏ nơi này và tăng gấp các việc bố thí và lời cầu nguyện . Ở St. Germain, hoàng hậu đưa hai người con tới gặp và xin Ngài chúc lành. Ngài hân hạnh được gặp thánh Vinh -sơn Phaolô, Dân Paris chen lấn để mong chạm tới Ngài và nghe Ngài nói. Trở về, Ngài ngă bệnh ở Monlins. Tới phút cuối Ngài vẫn c̣n lo lắng đến mọi việc. Và sau 3 lần kêu danh Chúa Giêsu, Ngài tắt thở năm 1641, năm 1767 Ngài được tuyên thánh. Thánh LUCIA Theo lịch sử, chắc chắn là đă có một thánh nữ tử đạo tên là Lucia và mộ Ngài được t́m thấy trong hang toại đạo của các Kitô hữu Syracusa. Sau đây là câu chuyện về cuộc tử đạo của Ngài. Lucia là một thiếu nữ quí phái người Syracusa tại thủ đô miền Sicily. Mẹ Ngài gốc người Hy Lạp tên là Eutychia, có nghĩa là hạnh phúc. Sớm thành goá phụ, bà đă gắng chuẩn bị cho Lucia một điạ vị cao bằng cách dưỡng dục thánh nữ theo tinh thần Kitô giáo. Bà thường nói với con gái ḿnh về ḷng can đảm của các vị tử đạo đă tưới máu trên đế quốc hai thế kỷ qua. Như ở Sicily, tại hải cảng Catana, nửa thế kỷ trước thánh nữ Agatha thay v́ chối bỏ đức tin, đă khước từ t́nh yêu của quan cầm quyền và trung thành với Chúa Kitô giữa các cực h́nh. Mẫu gương đáng phục này đă ám ảnh Lucia và khi Eutychia nhận lời cầu hôn cho con gái ḿnh, Lucia khẩn cầu Chúa cất xa những cuộc cưới hỏi trần thế để dâng hồn xác phụng sự một ḿnh Ngài thôi. Bỗng Eutychia ngă bệnh, Lucia lấy cớ này để đ́nh hôn. Dầu vậy, Ngài thấy buồn v́ mẹ khổ lâu, nên khuyên bà kêu cầu với thánh nữ Agatha, Ngài đưa mẹ đi Cathana để dưỡng bệnh. Khi đó, Ngài xem thường những sắc lệnh bách hại đạo của Điôclêtianô, khấn hiến ḿnh hoàn ṭan cho Thiên Chúa. Ngài đ̣i phân gia tài để phân phát cho người ghèo. Ngài nói : - "Dâng cho Chúa điều người ta không mang theo sau khi chết th́ cũng không có ǵ là nhiều". Nhưng người theo đuổi Lucia thấy Ngài bán nữ trang và ruộng đất rồi phát cho người khổ cực, liền nổi giận và tố cáo với Paschse là người cầm quyền ở Syracusa. Lucia bị cầm tù. Trước ṭa, Ngài đă trả lời cách đáng phục : "Giờ th́ tôi chẳng c̣n ǵ nữa để dâng, tôi dâng chính ḿnh như bánh thánh lên Thiên Chúa tôi cao. Ong run rẩy trước mặt Thiên Chúa, c̣n tôi, tôi kính sợ Thiên Chúa. Ông muốn làm đẹp ḷng họ, c̣n tôi, tôi chỉ có một ước vọng là làm đẹp ḷng Chúa Kitô thôi. Những người thiêu huỷ thân xác là những người bỏ niềm vui mau qua để đổi lấy những niềm vui đời đời. Thánh Phaolô tông đồ đă nói: Ai sống trong sạch và đạo đức là đền thờ Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần ở trong họ. Thân thể chỉ ra nhơ uế nếu linh hồn đồng t́nh với nó". Nhà cầm quyền truyền trao Lucia cho bọn đâm đăng êể làm nhục cho đến chết. Nhưng Ngài đă thành một sức mạnh khủng khiếp khiến bao sức lực của họ cũng không thể kéo Ngài đi được. Người ta kêu các phù thủy, đưa ḅ đến kéo nhưng không nghĩa lư ǵ đối với sự bất động của Trinh nữ. Người ta đốt lửa cũng không chạm tới Ngài. Sau cùng, người ta dùng giáo đâm cổ Ngài, nhưng Ngài c̣n tiên báo một cách lạ lùng : - "Tôi báo cho các ngươi biết rằng, Giáo hội Chúa được ơn b́nh an v́ hôm nay Điôclêtiano bị đuổi khỏi đế quốc, Maximianô phải chết. Và như Catana vui sướng được chị tôi là Agatha bảo trợ, thành Syracusa được Chúa ban cho tôi, nếu các ngươi hết ḷng thực hiện thánh ư Chúa". Thánh GIOAN THÁNH GIÁ Gioan de Yepes sinh tại Phontiveros, gần Avila. Tây Ban Nha ngày 24 tháng 6 năm 1542. Cha Ngài làm thợ dệt, bị gia đ́nh giàu có làmnghề buôn bán loại trừ v́ đă cưới một người vợ kém hơn. Mẹ Ngài là một người đàn bà thánh thiện, trở thành goá phụ sau khi sinh Gioan. Không nguồn lợi, với 3 đứa con, bà đă làm thuê cho một thợ dệt. Bé Gioan dần dần đă học nghề thợ mộc, may vá, điêu khắc, hội họa trong t́nh yêu mến Chúa Giêsu Kitô. Trong mọi việc, Ngài có thói quen tự hỏi: - "Vào trường hợp tôi, Chúa Giêsu sẽ làm ǵ ?" Ngài không trốn tránh một hy sinh nào. Lúc 12 tuổi, Gioan được học đọc, học viết với các nữ tu ở Medina del Campo. Đức bác ái của Ngài bao la: tư hồi c̣n niên thiếu, Ngài đă dùng giờ rảnh để phục vụ các bệnh nhân ở nhà thương, dầu vẫn theo học văm phạm và triết học nơi các cha ḍng Tên. Gioan trở thành người con thiêng liêng của người nữ tu Carmêlô này. Cha 25 tuổi và chị 52 tuổi. Chị gửi cha đến với hai người bạn ở Duruelô trong cảnh cô tịch và đây là nguồn gốc của ḍng Carmêlô canh tân đi chân không, Ngài lấy tên là Gioan Thánh Giá. Sự nghèo túng thật khủng khiếp, Ngài chỉ sống bằng cỏ, nhưng vẫn dùng những khúc ca tạ ơn Chúa v́ đă chỉ cho biết phải sống và cư xử cách nào. Ngài hành động cách khác thường trên những người chung quanh, giải thoát họ khỏi những việc hư hỏng, tạo cho họ một ḷng yêu thích hy sinh. Sau khi chống lại đoàn thể các tu sĩ Carmêlô ở Alcala de Hélenrés, Ngài trở thành tuyên úy của tu viện Avila trong 5 năm, thánh nữ Têrêxa giới thiệu với con cái ḿnh : - "Cha là vị thánh". Sự thánh thiện của Gioan vượt quá nhiều người và trở nên khó hiểu, sự canh tân khiến Ngài bị tố cáo là nổi loạn. Các thày ḍng Carmêlô chước giảm chống lại các thày ḍng Carmêlô đi chân không. Cuối cùng, sau những nhục mạ dữ dội, Ngài bị cầm tù ở Tolêđô. Người ta đối xử cứng rắn với Ngài, ba lần mỗi tuần họ đưa Ngài tới nhà cơm và đánh đập không nương tay. Nhưng Ngài cảm thấy đang đi đúng đường Chúa muốn và tạ ơn Chúa v́ đă chịu được hạ nhục và chịu khổ cực. Những bắt bớ tăng thêm đức tin và lư tưởng của Ngài. Đáp lại, Ngài yêu mến nhiều hơn và trong hầm tối thiếu khí trời, Ngài trước tác những vần thơ bí nhiệm làm thành cuốn "Thánh ca thiêng liêng" (cantiques spirituelles). Được 9 tháng thánh nhân vượt ngục. Trước khi đến tu viện định tới, Ngài dừng lại trong một ḍng nữ. Ngài nghe một nữ tu ca hát về "hạnh phúc của đau khổ" và bỗng Ngài phải bám chặt vào cửa sắt nhà khách. Ngài đă xuất thần. Ư tưởng được chịu khổ v́ Chúa đă làm cho Ngài cả thấy dư tràn hạnh phúc. Phép lạ này trong tâm hồn, như muốn lôi kéo cả thân xác đổi mới theo... thánh Têrêxa nói : - "Không có cách ǵ để nói về Thiên Chúa với cha Gioan Thánh Giá. Ngài xuất thần ngay và lôi kéo người khác theo". Một ngày kia quỳ bên song sắt, thánh nữ nghe cha nói về Chúa Ba Ngôi, th́ thánh linh như muốn nâng Ngài lên. Khiêm tốn, Ngài nắm lấy tay vào thành ghế. Nhưng hoạt động thần linh đă nâng Ngài lên tới trần nhà. Têrêxa ở trước mặt Ngài cũng xuất thần và bay bổng. Một nữ tu tiến vào, cảm kích và cảnh tượng vội đi gọi các nữ tu khác đến chiêm ngưỡng cả hai vị thánh được Chúa chúc phúc. Đức Thánh cha và vua Philipphe II ủng hộ những cuộc cải cách và bây giờ Gioan phải nhận nhiều trọng trách. Ngài làm bề trên ḍng Calvariô. Ngài lập cộng đoàn Carmêlô Baeza và 3 năm sau được chọn làm tu viện trưởng ở Grenade. Đi đường qua các thành Tây Ban Nha, Ngài chinh phục các linh hồn về cho Chúa Kitô, chính Ngài đă xây dựng một thủy lộ, một tu viện. Trong 15 ngày, Ngài đă viết cuốn "ngọn lửa t́nh yêu sống động" (la vive flamme d'amour). Cuối cùng Ngài trở thành Tổng đại diện Andalousia. Sự trong trắng của thánh nhân đă tạo cho Ngài một quyền năng trên quỉ thần. Ngài đă giải thoát nhiều bị quỉ ám. Người ta nói rằng, bằng những dấu thánh giá Ngài dẹp tan cơn băo, bằng lời nguyện, Ngài dập tắt một hỏa hoạn. Các thú vật quí mến Ngài. Để giữ ḿnh trong sạch, thánh nhân tự nhận lấy đau khổ nhưng lại rất thương cảm những đau khổ của người khác, Ngài c̣n tế nhị hơn nữa đối với những đau khổ tinh thần mà Ngài gọi là "đêm tối của tâm hồn". Nhưng Ngài hiểu rằng, những đau khổ này thanh tẩy tâm hồn rất nhiều. Không kết hợp với Chúa được nếu không có khổ hạnh trong tâm hồn. Thường nhà ḍng nghèo khó đến độ có ngày không có bánh ăn. Tập họp ở nhà ăn, thánh nhân nói với các tu sĩ về hạnh phúc được chịu khổ v́ Chúa Giêsu Kitô. Họ khóc v́ nhiệt tâm và lui ra. Bỗng chuông reo, một người vô danh đă đem bánh cho nhà ḍng. Các tu sĩ trở lại pḥng ăn. Lần này, thánh nhân khóc và nói: - "Oi, vậy là Chúa đă thấy sự yếu đuối của chúng con không chịu thử thách được lâu. Ngài đă sớm thương hại chúng ta". Lần kia, Ngài đă trả lời Chúa Giêsu khi Ngài hỏi về phần thưởng Ngài muốn rằng : - "Lạy Chúa, xin cho con được chịu khổ và bị khinh miệt v́ Chúa". Và Ngài đă xin ba ơn này là: đừng có ngày nào mà không được chịu đau khổ, đừng là bề trên vào lúc chết và được chết trong khiêm hạ. Thiên Chúa đă nhận lời Ngài. Thánh nhân được chọn một trong hai nơi để chữa bệnh, hoặc ở Baeza, nơi người ta qúi mến, hoặc ở Ubeda, nơi tu viện trưởng có ác cảm với Ngài. Ngài đă chọn tu viện Ubeda. Những cư xử nghiêm nhặt làm cho Ngài đau đớn thêm. Nhưng Ngài càng ôm chặt thánh giá vào ḷng. Vị tu viện trưởng cảm động v́ sự dịu dàng không mệt mỏi, v́ ḷng bác ái sâu xa của bệnh nhân, cuối cùng đă hiểu và xin Ngài tha thứ. Ngài c̣n nh́n các tu sĩ, hôn Chúa Kitô và tắt thở. Ngài đă viết: - "Vào xế chiều cuộc sống này, bạn được phán xét về t́nh yêu". Thánh PHÊRÔ CANISIÔ Thánh tiến sĩ Phêrô Canisiô thường được gọi là vị tông đồ thứ hai của nước Đức. Ngài chào đời 8 ngày tháng 5 năm 1521 tại Nijmegen. Cha Ngài là người công giáo, 9 lần làm thị trưởng Nijmegen. Ông gửi Ngài tới phại học Cologne lúc Ngài 15 tuổi. Nơi ấy Ngài gặp được một vị linh mục trẻ thánh thiện Nicolaus van Esch. Chính vị linh mục này đă đưa Canisiô vào nhóm người trung thành với công giáo được h́nh thành để chống lại Hermann van Wied, vị tổng giám mục đă sang hàng ngũ Luthêrô. Canisiô được nhóm chọn để tiếp xúc với hoàg đế và tổng giám mục, và việc thoái vị của tổng giám mục đă tránh cho người công giáo Phineland một thảm họa. Ít lâu sau đó, Canisiô gặp được chân phước Phêrô Faber, một trong các bạn tiên khởi của thánh Inhaxiô và được hướng dẫn linh thao. Trong cuộc tĩnh tâm này, Ngài đă t́m được giải đàp cho vấn nạn Ngài tự đặt cho ḿnh làm sao phụng sự Chúa tốt đẹp nhất và nâng đỡ Giáo hội công giáo đang bị tấn công ? Ngài gia nhập ḍng Tên, thụ phong linh mục năm 1546 và sớm lừng danh do việc ấn hành các tác phẩm của thánh Cyrillô thành Giêruslem và của thánh Leo cả. Năm 1547 Ngài tham dự công đồng Tridentinô như là đại diện của giám mục Augsburg. Năm 1549, Ngài được gọi về Roma và lănh nhận trách nhiệm truyền giáo cho nước Đức, điều sẽ trở thành công tŕnh của đời Ngài. Trong cuộc chinh phục của bá tước Bavaria, Canisiô và hai cha ḍng Tên khác được chọn để dạy thần học tại đại học Ingolstadt. Chẳng bao lâu, Ngài được đặt làm viện trưởng đại học, rồi sau đó, do sự can thiệp của vua Ferdinand, Ngài được gởi đi thi hành cũng một nhiệm vụ tại đại học Vienna, Ngài thành công mỹ măn đến nỗi nhà vua đă cố đưa Ngài lên chức tổng giám mục. Dầu đă từ chối vinh dự này, Ngài cũng được gọi để quản nhiệm địa phận trong khoảng một năm. Dường như Ngài không thể nào kiệt sức được. Ngài nói với vài người đă tố cáo Ngài làm việc quá độ rằng : - "Nếu bạn phải làm việc quá nhiều, với sự trợ lực của Chúa, bạn sẽ t́m giờ để làm cho hết". Ở Balan năm 1558, Ngài đă kiểm soát được một đe dọa mới chớm nở đối với niềm tin cổ truyền của xứ sở. Và trong cùng một năm ấy, Ngài đă nhận được lời cám ơn của Đức Piô IV về tài ngoại giao của Ngài trong việc hàn gắn sự bất hoà giữa Đức Thánh Cha và hoàng đế. Năm 1561, Ngài được trao phó để công bố các sắc lệnh của công đồng Tridentinô tại nước Đức. Từ năm1580 tới khi qua đời năm 1597, Ngài đă cực nhọc và đau khổ nhiều ở Thụy Sĩ. Sáu năm cuối, Ngài nhẫn nại chịu dựng và cầu nguyện lâu giờ tại học viện Fribourg, v́ bây giờ, sức khỏe tàn tạ không cho phép Ngài có thể hoạt động tích cực nữa. Chẳng bao lâu sau khi Ngài qua đời, ngày 21 tháng 12 năm 1597 mộ Ngài đă được tôn kính. Nhiều phép lạ đă diễn ra nhờ lời chuyển cầu của Ngài. Ngài là duy nhất đă được tuyên thánh và tuyên dương làm tiến sĩ Hội Thánh vào cùng một ngày, ngày 21 tháng 6 năm 1925. Thánh GIOAN KENTY Chúng ta biết đến thánh Gioan Kenty như là một con người thánh thiện và học thức, Ngài vừa là một giáo sư đại học lừng danh, vừa là một ân nhân của người nghèo. Có một truyền thuyết rất đẹp về ḷng bác ái của thánh nhân. Một người nghèo ăn xin ở cửa pḥng ăn. Mỗi người có đúng phần ḿnh, nhưng Gioan đă lấy trọn phần ḿnh cho người bất hạnh. Từ đó, phần của người ăn xin được dành riêng. Công thức "người nghèo đến" được đáp ứng lại bằng "Chúa Kitô đến". Gioan Kenty c̣n đưa chính áo choàng của ḿnh cho người bị lạnh lẽo. Là bậc thầy về đức ái, Ngài cũng rất vui tươi. Một lần, được những người quí phái mời, Ngài đến với y phục rất khiêm tốn của ḿnh và bị đầy tớ chủ nhà xua đuổi. Thay bộ đồ khiêm tốn ấy đi Ngài được mời vào tiệc. Chẳng may, một người giúp việc vụng về làm rớt đồ ăn vào đó. Ngài nói : - "Này, chính nhờ bộ áo mà tôi được ở đây, thế là nó cũng được quyền nếm nước chấm nữa". Tinh thần và bác ái đi đôi quá chân thật có một không hai. Ngày kia, khi đi Roma, Ngài bị bọn cướp bóc lột, Ngài nói với họ là không c̣n ǵ nữa. Nhưng sau đó Ngài thấy tiền trong áo kép. Ngài vội đuổi theo họ, thú nhận ḿnh ăn cắp và đưa cho họ số tiền này. Lịch sử kể lại rằng, bon cướp đă hối cải ngay. Kenty, quê hương của Gioan gần Cracovia, là nơi Ngài theo học và đạt bằng tiến sĩ triết học lẫn thần học, Ngài thụ phong linh mục. Giữ ghế tại đại học, Ngài nói tiếng Latinh và tiếng Balan. Khi cần thiết, Ngài chỉ tranh luận trong tinh thần bác ái bao dung. Trả lời cho những nhục mạ của đối phương, Ngài chỉ biết nói: "Tạ ơn Chúa". Để vượt qua mọi cực nhọc, thử thách, Ngài tự nhủ: "ráng lên". Ngài thường nói với học tṛ của ḿnh : - "Hăy lấy nhẫn nại, dịu dàng và t́nh yêu làm khí giới để chống lại những quan điểm sai lầm. Thô bạo chỉ hại cho linh hồn và làm hư chính nghĩa". Những ghen tương đố kỵ đă làm cho Ngài mất chức đại học và đẩy Ngài vào công việc nặng nhọc tại giáo xứ. Thời gian làm cha sở tại Gracôvia, Ngài đă tỏ ra có một đức bác ái vô bờ, nhưng đại học lại đ̣i Ngài phải trở về, Ngài lănh trách nhiệm dạy kinh thánh và tôn giáo cho các công tử Balan. Ngài hành hương Giêrusalem và lắng nghe các lương dân. Khi qua đời vào tuổi rất thọ, sự thánh thiện của Ngài đă lừng khắp nơi Ngài đă đi qua. Thánh Gioan Kenty đă để lại lời kinh rất đẹp này. "Xin hăy cho chúng con yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu mọi người v́ Chúa và làm đẹp ḷng Chúa trong tâm hồn và trong hành động của chúng con". Thánh STÊPHANÔ Thật đáng tiếc khi chúng ta không biết được nhiều hơn về thánh Stephanô. Như một người trong số người Do thái lưu lạc nói tiếng Hy Lạp, được giáo dục theo văn minh La-Hy và như vị tiền hô của thánh Phaolô, Ngài là một nhân vật rất quan trọng trong lịch sử Giáo hội thời sơ khai. Có chút hiển nhiên là Ngài đă được giáo dục tại Alexandria. Có lẽ Ngài thuộc vào số những người "Hy Lạp" t́m Chúa vào những ngày cuối cùng của Người trên trần gian (Ga 12,20). Nếu đúng như vậy th́ quả Ngài đă chứng minh nơi con người ḿnh những lời Chúa Giêsu đă nói rằng: "hạt lúa ḿ không thể sinh hoa trái nếu không rơi xuống đất và chết đi" (Ga 12,24-25). Ngài xuất hiện lần đầu trong lịch sử như một trong bảy vị Phó tế các tông đồ đă tấn phong (Cv 6) để trợ giúp các Ngài trong việc quản trị, nhưng Ngài dường như đă dấn ḿnh vào việc rao giảng và hộ giáo hướng tới những hội đường nói tiếng Hy Lạp. Chính ở nơi một những hội đường này mà nhóm người "tự do" đă tố cáo Ngài truóc hội đồng công tọa như một người lạc đạo. Họ bắt giam và thử thách thánh Stephanô. Diễn từ Stephanô nói để biện minh cho ḿnh được thánh Luca kể lại khá dài ḍng và xem ra có hơi buồn đối với độc giả tân tiến. Đó là ǵ, nếu không phải là một đoạn lược tóm lịch sử Cựu ước ? Tại sao nó lại đưa những người học thức tới cơn giận dữ không kiềm chế nổi ? Bởi v́ sự vặn ngược trong đó cũng như sự giải thích minh nhiên hoặc mặc nhiên không đặt vào câu chuyện. Ngài đưa ra hai điểm: trước hết, Thiên Chúa không chỉ t́m được trong đền thờ hay ở Giêrusalem hoặc ở Palestina, nhưng ở bất cứ nơi nào. Thiên Chúa ở với Abraham tại Chaldes, với Giuse ở Ai cập, với Môsê trên núi Sinai, với dân Israel trong sa mạc,với David cả trước khi xây cất đền thờ. Điểm thứ hai là các nhà lănh đạo chính thức của Do thái thường hay khước từ sứ giả của Chúa. Các tổ phụ bán Giuse đi làm nô lệ, miêu duệ của họ bắt Môsê phải lưu lạc, trong hoang địa, Aaron dẫn họ xa khỏi lề luật mà thờ ngẫu tượng. Liên tiếp, các thủ lănh của dân Do thái đă loại bỏ, ném đá và bắt bớ những ngôn sứ của Chúa. Bấy giờ tới tuyệt đỉnh, họ đă sát hại Đấng thiên sai, người công chính, Con người. Nhưng Chúa Giêsu bây giờ đang ngự bên hữu Thiên Chúa trong vinh quang. Hội đồng công tọa điên tiết. Họ xô Stephanô ra một chỗ ở ngoài thành và ném đá. trước khi chết, Ngài cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin đừng chấp tội họ". Lời cầu đă được Chúa và cả Saulê nghe thấy. Saulê có mặt trong vụ này. Ông biết ḿnh đang chứng kiến một tội phản. Tự ḿnh, ông không ném đá nhưng giữ áo cho nhóm người hành sự. Sau này, ông cố trấn an lương tâm bằng việc bắt bớ dữ dội các Kitô hữ khác. Nhưng khốn cho ông khi đạp mũi nhọn. Sau đó không lâu, ông đi Damas, con đường dẫn ông tới cuộc tử đạo như Stephanô. Thánh Augustinô nói: "Nếu Stephanô không cầu nguyện, Giáo hội khó có thể có được một Phaolô". Thánh GIOAN TÔNG ĐỒ Gioan là tông đồ yêu dấu, tông đồ t́nh yêu mà trong bữa tiệc ly đă dựa đầu vào ḷng Chúa Giêsu. Mọi điều Ngài viết là t́nh yêu. Nhưng Ngài cũng là ngư phủ thô kệch hăng hái và bồng bột khi Chúa gọi làm môn đệ, đến nỗi Chúa Giêsu gọi là "con cái sấm sét" (Mc 3,7). Gioan là ngư phủ ở Galilê, con của ông Giêbêđê và bà Salomê. Năm 20 tuổi, Ngài là môn đệ của thánh Gioan tẩy giả đang giảng dạy trong sa mạc. Ngài t́m kiếm sự hoàn thiện. Gioan tẩy giả đă thấy Chúa Thánh Thần xuống trên Chúa Kitô và loan báo cho mọi người rằng Người ở giữa họ, nhưng người ta không nhận biết Người. Ngày kia, Chúa Giêsu đi qua, Gioan tẩy giả chỉ cho Gioan và Anrê: "Đây là chiên Thiên Chúa". Lập tức, hai ông đă theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đă yêu thương Gioan cách đặc biệt v́ sự trong trắng, nhiệt tâm và thành tín của Ngài. Ở trường học Thần Linh, Ngài tự biến đổi, thủ đắc tinh thần hiền hậu, học được đức ái chân thật và tiến tới tinh thần hy sinh. Gioan cùng với anh là Giacôbê, cũng như mỗi người đều tin rằng, Chúa Giêsu sắp tái lập vương quyền và họ xin Người cho họ được giữ những chỗ danh dự trong ngày vinh quang của thày. Nhưng Chúa Giêsu đă từng nói vương quốc của Ngài không thuộc thế gian này và đă trả lời bằng việc trao thánh giá cho họ: "Các con có thể uống chén Ta không ?" Đầy nhiệt tâm, họ trả lời: "Dạ được". Như thế là họ biết rằng, việc chia sẻ vinh quang sẽ tiếp sau việc chia sẻ đau khổ. Suốt ba năm sống công khai của Chúa Giêsu, Gioan không rời thày ḿnh. Ngài có mặt khi thầy làm phép lạ và tâm sự với thày bằng những lời mang lại sự sống. Ngài đă thấy thầy chói sáng trên núi Tabor. Với kỷ niệm này, Gioan viết rằng: "Chúng tôi đă thấy vinh quang Con Một Thiên Chúa Cha: Chúa Giêsu đă chọn Ngài với Phêrô để dọn lễ Vượt qua, và trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đă nói những lời mà Gioan không bao giờ quên được. Ngài sẽ ghi lại diễn từ ấy trong sách Phúc âm của ḿnh. Chỉ có một ḿnh Gioan trong số 12 tông đồ trung thành theo Chúa Giêsu tới thánh giá. Ngài đứng cạnh Mẹ Maria. Chúa Giêsu đă nói với Mẹ Maria: "Này là con bà", và với Gioan : "này là Mẹ con". Và mọi người đă trở thành con mẹ trong con người của Gioan. Sau phục sinh. Maria Madalêna không thấy xác thày và hớt hả đi báo tin. T́nh yêu như chắp cánh thêm, Gioan đă chạy tới mồ trước, nhưng v́ tôn trọng thủ lănh các tông đồ, nên đă dừng lại trước khi cúi nh́n mộ (Ga 20,1-8) V́ ngày sau, khi Gioan cùng với các môn đệ khác đi đánh cá, Chúa Giêsu hiện ra. Được t́nh yêu soi sáng, Gioan đă nhận ra thày và thốt lên: "Chúa đấy" (Ga 21,1-8) Sau khi nhận lấy Chúa Thánh Thần trong dịp lễ Ngũ Tuần, Gioan ở lại Giêrusalem, người ta nghĩ rằng, Ngài sống với Đức Trinh nữ. Ngày kia, Ngài cùng với thánh Phêrô vào đền thờ cầu nguyện. Một người què xin bố thí, các tông đồ đă chữa lành anh ta (Cv 3,1-8). Các thủ lănh bắt giam các Ngài, cấm không được rao truyền danh Chúa Giêsu, các tông đồ đă trả lời: "Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là loài người " (Cv 4,1-20). Một lần khác, Gioan bị bắt và bị đánh đ̣n, Ngài hănh diện khi thấy ḿnh được chịu đau khổ v́ Chúa Kitô. Gioan sống rất thọ và trải qua nhiều thử thách gian khổ. Những người chung quanh không biết Chúa Kitô bớt lần. Chắc hắn Ngài sống ở Antiokia rồi ở Ephêssô. Hoàng đế Domitianô đă truyền bách hại các Kitô hữu. Từ đây, tường thuật không có mấy giá trị lịch sử. Sử sách kể lại rằng, khi biết c̣n một môn đệ chót của Chúa Giêsu sống và giảng dạy ở Á Châu, ông truyền đem về Roma để kết án tử. Người ta đánh đ̣n Ngài rồi dẫn tới cửa La-tinh và d́m vào vạc dầu sôi. Thật lạ lùng, Ngài đi ra không hề hấn ǵ. Quan án xúc động không dám hành hạ Ngài nữa và truyền đày ải ở đảo Patnmô. Vị tông đồ rao giảng Tin Mừng và rửa tội cho dân trên đảo. Chính ở đây mà Ngài có được thị kiến và lănh mệnh lệnh ghi lại trong sách "Khải huyền". Những cao siêu mà vị tông đồ vươn tới, đă làm cho Ngài được ví như cánh chim phượng hoàng bay bổng trên trời cao. Dầu vậy, có thể sách Khải huyền đă cho một môn đệ của Gioan viết. Khi hoàng đế bằng hà, những người bị lưu đày được gọi trở về, và Gioan trở lại Ephêsô. Một kỷ niệm cảm động liên quan tới những chuyến hành tŕnh của Ngài. Trong một cuộc du hành, Ngài đă rửa tội cho một thiếu niên, rồi trao phó cho vị giám mục sở tại. Nhưng khi trở về, Ngài được vị giám mục buồn sầu cho biết rằng con trẻ này đă thành kẻ cướp. Lập tức, dầu già nua, Gioan đă và cỡi ngựa đi t́m đứa con. Khi thấy Ngài, người đó chạy trốn. Vị tông đồ đuổi theo và khuyên nhủ : - "Con ơi, tại sao con chạy trốn cha già không có khí giới ? C̣n hy vọng được cứu rỗi, cha sẽ vui ḷng chết cho con như Chúa Giêsu sai cha đến với con". Tên cướp xúc động ngừng lại, bởi khí giới: chàng khóc trong tay cha già đang ôm chặt chàng vào ḷng và dẫn chàng về với Giáo hội. Gioan trở thành ánh sáng vùng Tiểu á, đến lúc đó Ngài vẫn lớn tiếng giảng dạy, nhưng những lạc thuyết đang lộ diện giữa Giáo hội sơ khai. Nhưng kiến sĩ giả hiệu làm biến tính Phúc âm của thánh Matthêu, chối Chúa Giêsu vừa là Chúa vừa là người. Để bác bỏ những sai lầm, vừa để bổ túc ba Phúc âm đă xuất hiện, Ngài viết cuốn thứ tư, trong đó, t́nh yêu Chúa Kitô đốt cháy ḷng Ngài. C̣n ba bức thư nữa thuộc về Ngài. Bức thư thứ I tóm tắt trọn mạc khải: "Thiên Chúa là t́nh yêu". "Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa đă có, bây giờ chúng ta biết Ngài là ai. Ngài là cha yêu thương ta hết ḷng và đ̣i ta yêu nhau". Và hướng ta về thực tại không thể kể ra được, Ngài nói: "các con thân yêu, ngay từ giờ này, chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng ngày mai chúng ta như thế nào th́ chưa tỏ lộ ra". Về già, không đi được nữa, Ngài được mang tới nhà thờ. Ngài thường lặp lại: "các con hăy yêu thương nhau". Thấy Ngài nói măi một điều, người ta kêu ca và Ngài trả lời: "Đó là lệnh truyền của Chúa, và như vậy là đủ". Thánh Gioan là bổn mạng các văn sĩ và mọi người cầm viết. CÁC THÁNH ANH HÀI Hằng năm tại Bêlem, người ta kỷ niệm lễ chu niên các thánh thơ nhi măng sữa đă chịu khó v́ Chúa Kitô dưới thời Hêrôdê. Các thánh Anh hài dù chưa biết tới gian khổ cuộc sống, đă được tế hiến cho Đấng Cứu chuộc thế gian. Các Ngài tiến về trời trong ánh quang. Chúa Giêsu đă đến thế gian tại Belem. Các đạo sĩ những người thông thái và quyền thế, được ánh sao mới bất ngờ xuất hiện báo tin, đă theo ánh sao đi t́m Chúa Giêsu. Họ muốn thờ lạy Người. Sau một chuyến hành tŕnh dài, họ tới Gierusalem. Nhờ họ, Hêrôđê là vua Giuda biết rằng: Đấng thiên sai mà các ngôn sứ loan báo đă sinh ra. Ông sợ rằng: Đấng Thiên sai này một ngày kia những đoạt ngôi của ḿnh. Để biết rơ vua Do thái tương lai ở đâu, ông căn dặn các đạo sĩ trở lại Giêrusalem cho ông biết, v́ ông cũng muốn bái thờ Người. Nhưng ông ta đă không gặp các đạo sĩ nữa. Bởi v́ lúc trở về, họ đă được báo qua giấc mộng để đi đường khác. Hêrôđê giận dữ điên người lên với ư tưởng là mai kia đứa trẻ này sẽ làm vua. Ông truyền lệnh tàn sát mọi con trẻ dưới hai tuổi ở Belem và các vùng phụ cận. Như thế là Tân vương sẽ bị diệt. Trong khi thánh Giuse được thiên thần báo trước đă cùng với Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu trốn qua Ai cập th́ binh sĩ thi hành của Hêrôđê. Nỗi thất vọng của các bà mẹ không diễn tả nổi. Ngôn sứ Giêrêmia đă nói về họ: "tại Rama, người ta nghe thấy tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con ḿnh, bà không chịu cho ai an ủi bà, v́ các con bà không c̣n nữa" (Gr 31,15-20) Đối với các trẻ em, đây là vinh quang cao cả. Các Ngài đă chết thay cho Con Thiên Chúa, và Chúa Giêsu ban cho các Ngài sự sống đời đời. Trong sách Khải huyền, thánh Gioan chỉ cho thấy các Thánh Anh hài bao xung quanh ṭa Con Chiên Thiên Chúa như là những tâm hồn trong trắng nhất. Thánh TOMA BECKET Thánh Toma Becket sinh ra tại Luân Đôn năm 1118. Cha Ngài, ông Gibert Becket, là một hiệp sĩ người Normandy, đă trở thành thương gia giàu có ở Luân Đôn. Mẹ Ngài cũng là người Normandy. Ngài có ít là hai chị em mà một người sau này làm tu viện trưởng Barking. Ngài thừa hưởng từ người mẹ ḷng đạo đức, ḷng sùng kính Đức Mẹ và ḷng quảng đại đối với người nghèo khó. Từ người cha, Toma Becket thừa hưởng một tính khí kiêu hùng và cương quyết. Dáng người cao ráo, đẹp trai, hấp dẫn và thông minh. Sau khi theo học tại Oxford, Đức Tổng giám mục Cantebury là Thaobald đă triệu mời Ngài làm quản trị, lo những chuyện liên hệ với Roma. Toma Becket đă kể ra đáng kể đến nỗi vua Henri II đă đặt Ngài làm chưởng ấn của vương quốc. Ngài thường khoe khoang, ngựa gịng chim ưng, chó quí là bạn thân của Ngài. Bù lại sự xa hoa này, Ngài đă tỏ ra quảng đại nhiều với những hy sinh thầm kín. Ngài cũng rất hiếu chiến và dùng đến các quyền hạn của hoàng tử ḿnh, Ngài đă tỏ ra có giá trong một trận chiến gần Toulouse. Ngài c̣n tự lượng sức trong một trận chiến đấu đơn với một hiệp sĩ danh tiếng người Pháp. Tổng giám mục Theobald qua đời, và Toma được chọn làm kế vị bất kể sự chống đối Chúa hàng giáo sĩ khi thấy "một người thế tục và ồn ào như vậy" được đưa lên ṭa giám mục. Trong khi đó, Toma Becket đă tiên báo cho nhà vua biết rằng: - "Thưa Ngài, nếu Chúa cho phép tôi làm Tổng giám mục Canterbury, tôi sẽ hết được Ngài sủng ái. Ngài sẽ đ̣i tôi nhiều điều, và Ngài đă làm nhiêu điều chống lại Giáo hội mà tôi sẽ không thể chịu nổi. T́nh cảm của Ngài sẽ sớm đổi thành thù hận không chấm dứt nổi. Nhưng nhà vua vẫn muốn thấy Ngài lên ngai giám mục. Ngày 3 tháng sáu năm 1162, Toma Becket đă thụ phong linh mục và ngày hôm sau được tấn phong giám mục. Kẻ nô bộc của các hoàng tử đă trở thành nộ bộc của Giáo hội, và chỉ c̣n muốn giữ vẻ xa hoa bên ngoài, Ngài trở nên khiêm tốn hơn, mặc áo nhặm, tha thiết yêu thương kẻ nghèo và xa cách đối với người giàu. Những nhưng điều lo ngại của thánh nhân không tự biện minh măi được. Vua Henri II bóp nghẹt sự tự do của các tác viên Giáo hội, muốn bắt chàng giáo sĩ nước Anh phải phục thẩm quyền các ṭa án hoàng gia, tước đoạt kho tàng của dân nghèo. Trước ư muốn của nhà vua, các vị giám mục ngập ngừng, nhiều vị khứng chịu. Nhưng Tổng giám mục Canterbury không để ḿnh bị quyến dũ. Tức giận, nhà vua triệu vời các giám mục vương quốc lại. Trong căn pḥng tụ họp, hiện ra những con người mang khí giới như s ẵn sàng tiêu diệt các Ngài. Các giám mục và các lănh Chúa kinh hoàng khấn nài xin vị giáo chủ nhượng bộ. Để cứu những người chung quanh, Toma Becket như nửa ưng thuận, đă xin hoăn lại để nghiên cứu vấn đề. Ngài viết thư cho đức Thánh Cha xin phán định. Đức Thánh Cha đă kết án tất cả những ai đă phát thệ. Thế là Toma Becket đă rút lại lời một cách cao thượng. Nhà vua bắt bớ Ngài. Đáp lại các lời tố cáo, Ngài tỏ ra cương quyết và luôn giữ được tâm hồn thanh thản. Thất vọng nhà vua hô hoán : - "Hoặc là ta mất ngôi, hoặc là con người ấy không c̣n là tổng giám mục nữa". Các hiệp sĩ gọi Ngài là kẻ bội phản. Toma Becket đă trả lời cho một người trong bọn họ : "Nếu đôi tay này không phải là đôi tay của một linh mục th́ ông phải biết". Trong một công đồng ở Nerthampton năm 1164, Ngài lại tỏ ra chống đối và khi bị đe dọa đếng mạng sống hoặc tù tội. Một đêm kia, Ngài đă tàng h́nh để thoát thân. Lang thang nhiều ngày, Ngài tới bờ biển và được một thuyền đánh cá tiếp nhận Ngài đang lúc mệt nhọc đến đứt hơi và đưa qua Pháp. Vua Lu-y VII đă hân hạnh tiếp đón vị tổng giám mục Caterbury, ông nói : - "Nước Pháp có thói quen nuôi dưỡng vbảo vệ những người chịu đau khổ, nhất là những người bị lưu đày v́ công chính". Vị giáo chủ lưu ngụ tại tu viện Pontiguy và tăng gấp nếp sống khắc khổ, đến nỗi có thể nói được đây là cuộc "Hoán cải thứ nh́, từ đạo đức tới thánh thiện". Ngài có giờ để cầu nguyện và suy gẫm. Ngài tuân theo luật và nếp sống của tu viện. Dầy vậy cuộc trả thù của nhà vua vẫn tiếp tục. Cha mẹ và bạn hữu Ngài bị tước hết tài sản, bị trục xuất tới số 400 người. Họ buộc ḷng phải đến với Ngài, làm thành một đoàn người đáng thương. Toma Becket rất nhiệt thành năng đỡ người nghèo. Lần này bất lực v́ không thể giúp đỡ được những người thân yêu nhất đang bị khổ cực v́ ḿnh. Sau cùng, vua Henri loan báo là sẽ tiêu diệt mọi nhà ḍng Xitô, nếu một nhà ḍng Xitô nào c̣n tiếp tục dung duơng Ngài. Toma Becket liền đến một nữ tu viện Bênedictô ở Sens. Những năm tháng đau khổ và trơ trọi nối tiếp nhau. Trong khi đó, nhà vua bị Đức Thánh Cha đe dọa, tỏ ra muốn giao ḥa với vị Tổng giám mục vào những tháng cuối cùng năm 1169. Một thứ ḥa hoăn chẳng dễ ǵ. Nhưng vị giáo chủ đă nói với những người muốn ngăn cuộc hồi hương của ḿnh rằng : - "Dù có biết chắc ḿnh sẽ bị chặt thành trăm mảnh, tôi vẫn trở về. Đă sáu năm rồi, đoàn chiên của tôi vắng bóng chủ chăn". Ngài tạo thêm nhiều thù địch khi đưa ra những sắc lệnh huyền chức những vị giám mục muốn chống đối lại Ngài. Khi tới Canterbury, dân chúng chen lẫn nhau giữa những khúc thánh ca và những hồi chuông đổ dồn để đến lănh phép lành của Ngài. Những lời đầu tiên Ngài nói trên ṭa giảng là : - "Tôi đă tới để chịu chết giữa anh em". Nhà vua tức giận với cuộc trở về khải hoàn này của Toma Becket, một con người không thể lay chuyển trong mọi việc bảo vệ những quyền tự do của Giáo hội. Người ta nghe thấy vua Henri kêu lớn : - "Không có được lấy một người trong số những kẻ hèn ta nuôi dưỡng đây gỡ cho chúng ta người giáo sĩ ngạo mạn này sao ?" Khi ấy có bốn hiệp sĩ đi Canterbury. Họ gặp vị giáo chủ trong căn pḥng gần nhà thờ chính ṭa với các linh mục và tu sĩ. Họ nhục mạ Ngài, nhưng Ngài nói : - "Đừng mất thời gian đe dọa tôi. Để sát cánh chiến đấu, các người sẽ thấy tôi luôn luôn ở trong trận chiến của Chúa". Các hiệp sĩ hùng hổ đi ra. Các giáo sĩ trách Ngài làm cho họ phải chết. Toma Becket không trốn tránh, Ngài nói với họ : - "Tất cả chúng ta hoặc phải chết. Đừng để sự sợ hăi làm cho chúng ta xa rời sự công chính. Tôi sẵn sàng chết v́ t́nh yêu Chúa mà những người này giết tôi không phải v́ t́nh yêu như vậy". Và khi nghe bước chân và tiếng kêu của các hiệp sĩ có vơ trang, Ngài leo lên thang nhà thờ chính ṭa Ngài nói: - "Tôi ra tiền tuyến". Trả lời cho những lăng nhục, Ngài nói: - "Tôi không phải là kẻ phản bội, nhưng là một linh mục. Tôi sẵn sàng v́ Danh đấng đă lấy máu cứ chuộc tôi ... Nhưng v́ Danh Thiên Chúa, đừng động tới những người này của tôi". Dựa lưng vào cột, Đức Tổng giám mục chống lại những người muốn đưa Ngài đi, đẩy những người tấn công ngă soài xuống đất : "Tôi không đi đâu hết, hăy làm việc đó ở đây đi". Những người khác ngập ngừng. Vị tử đạo lớn tiếng phú ḿnh cho Chúa và Giáo hội : "Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Chúa". Hai nhát gươm tiếp liền. Toma Becket ngă xuống miệng c̣n nói : - "V́ danh Chúa Giêsu và v́ Giáo hội, tôi bằng ḷng chịu chết". Và Ngài nằm chết cạnh bàn thờ. Cái chết của Đức tổng giám mục làm chấn động lương tâm toàn thể Chân Au. Các phép lạ được phổ biến trên mộ Ngài. Đức Alexander III năm 1173 đă phong Ngài làm thánh tử đạo. Nhà vua đă thống hối công khai bên mộ Ngài và những ǵ khiến thánh nhân chịu khổ đă được sua sai nhờ cái chết của Ngài. Canterbury trở thành nơi hành hương thứ nh́ sau Rôma. Thánh SILVESTRÔ I Thánh Silvestrô kế vị Thánh Miltiades làm giáo hoàng năm 314, sau khi Constantinô đă trả lại tự do cho Kitô giáo bằng sắc lệnh Milanô ít lâu. Có lẽ chính Ngài đă rửa tội cho Gustantinô, và đă chữa cho ông khỏi bệnh củi và nhà vua đă dâng cho Đức Silvestrô công trường Latêranô. Cả một khối truyền thuyết cho Ngài là một thày thuốc, một nhà thần học, một luật gia. Nhưng có lẽ Ngài đă không phải như vậy. Điều chắc chắn là Ngài đă cai quản Giáo hội dưới thời vua Constantino và đă góp phần vào việc xây dựng những đại thánh đường. Cũng vào thời Ngài, cuộc ly khai của phái Dônatô và sự sai lầm của phái Atiô đă gây nên nhiều tai hoạ lớn lao cho Giáo hội. Cộng đồng Nicêa năm 325 dưới thời Ngài đă chặn đứng những tai hoạ ấy.
Ngài qua đời năm 335 và được mai táng tại nghĩa trang Priscilla, đường Salaria. |