HOME

 
 


05. Th�nh Đamin
h,
con người cầu nguyện

 

Kh�ng bao giờ Th�nh Đa Minh đi nghỉ ngơi m� trước đ� kh�ng d�nh thời giờ để cầu nguyện, v� thường l� với những tiếng r�n siết, thở d�i v� nhấn mạnh, đến nỗi nhiều lần g�y tiếng động l�m anh em thức giấc� Như vậy, th�nh nh�n d�nh nhiều giờ để cầu nguyện hơn l� nghỉ ngơi� Người hạn chế những lời n�i v� �ch v� lu�n n�i với Thi�n Ch�a hay về Thi�n Ch�a (VIE tr. 44, chứng từ của anh Guillaume de Montferrat, trong �n phong th�nh tại Bologna.

Tất cả những ai sống với Đa Minh, tất cả những ai tiếp x�c với th�nh nh�n, d� gần hay xa, tất cả những nh�n chứng được hỏi trong �n phong th�nh, tất cả đều nhấn mạnh đến cường độ lời cầu nguyện của Đa Minh. Th�nh Đa Minh cầu nguyện như l� h�t thở. Th�nh nh�n kh�ng phải l� người d�ng thời giờ để viết s�ch, ngay cả những s�ch về việc cầu nguyện. Người cầu nguyện. Người d�nh phần lớn thời giờ để cầu nguyện. Người đi v�o việc cầu nguyện c�ch tự nhi�n v� dễ d�ng hơn nhiều người đi v�o giấc ngủ. Thiếp ngủ tự nhi�n l� một �n huệ của tuổi ni�n thiếu. Đa Minh l� một trẻ em theo Tin Mừng, một đứa trẻ tắm m�nh trong cầu nguyện khi c� thời giờ. V� điều ấy xảy ra đặc biệt v�o ban đ�m. Với Th�nh Đa Minh, ban đ�m l� giờ cầu nguyện.

Ngay từ khi l� một tu sĩ trẻ, Đa Minh đ� tỏ ra l� một con người chuy�n t�m cầu nguyện.

Như c�y �-liu trổ sinh hoa tr�i hay như c�y hương nam v�t l�n trời, th�nh nh�n ng�y đ�m sử dụng mảnh đất l� nh� thờ, để kh�ng ngừng cầu nguyện v� chuộc lại thời gian suy niệm, hầu như l� kh�ng ra khỏi khu�n vi�n tu viện. Thi�n Ch�a đ� ban cho th�nh nh�n một �n sủng đặc biệt l� cầu nguyện cho c�c tội nh�n, cho những người ngh�o khổ, v� những kẻ muộn phiền : th�nh nh�n đem những nỗi khổ đau của họ v�o trong nơi th�nh th�m s�u l� l�ng thương cảm của m�nh, v� những d�ng lệ n�ng hổi tu�n tr�o từ đ�i mắt chứng tỏ l�ng nhiệt th�nh đang thi�u đốt t�m hồn Người. Th�nh nh�n c� th�i quen qua đ�m bằng việc cầu nguyện. Cửa đ�ng lại, v� Người cầu nguyện với Ch�a Cha. V�o cuối những lời kinh, Người c� th�i quen thốt ra những tiếng r�n, những tiếng thổn thức từ t�m hồn. Người kh�ng thể giữ lại, v� những tiếng k�u n�y, ph�t ra c�ch tự nhi�n, c� thể nghe được r� r�ng từ tr�n cao (LIB s. 12).

Như ngọn đ�n trong đ�m, Đa Minh thực hiện lệnh truyền của Ch�a : Vậy anh em h�y tỉnh thức v� cầu nguyện lu�n (Lc 21,36). Th�nh nh�n kh�ng chỉ cầu nguyện nơi miệng. Trọn vẹn con người của Đa Minh đều rơi v�o cầu nguyện, Người cầu nguyện với cả thể x�c v� t�m hồn. Người bừng l�n v� Ch�a của m�nh. Người ch�y lửa y�u mến Ch�a. Với Th�nh Đa Minh, cầu nguyện l� đ�p trả một sự th�c b�ch. Kh�ng c� thời giờ mất đi c�ch v� �ch. Điều mất đi, đ� l� c�c linh hồn. Những ai l�m cảnh muộn phiền, c� nguy cơ tuyệt vọng. Cần phải can thiệp ngay.

Điều g�y cảm động nơi Th�nh Đa Minh l� sự vận dụng to�n bộ con người v�o việc cầu nguyện. Th�nh nh�n kh�ng chỉ cầu nguyện với c�i đầu hay tr�i tim. Người cầu nguyện với cả đ�i tay, c�nh tay, lưng, đ�i ch�n v� b�n ch�n. Lời cầu nguyện của Người tr�n m�i miệng, nhưng cũng kh�ng thiếu c�c cử chỉ.

V� hơn thế, c�n l� những d�ng lệ tu�n tr�o từ đ�i mắt. Ch�ng diễn tả c�ch cụ thể mối hiệp th�ng s�u xa với nỗi niềm của những người khổ đau. Đ�  kh�ng phải l� những giọt nước mắt t�nh cờ, do ho�n cảnh g�y x�c động trong chốc l�t. Đ� l� những d�ng lệ thường xuy�n, v� th�nh nh�n lu�n c� trong mắt m�nh cuộc khổ nạn của Ch�a Cứu Thế cũng như cuộc khổ nạn của những người đương thời.

Tại ng�i trường học của Th�nh Đa Minh, người ta học cầu nguyện với tất cả con người của m�nh. Để c� thể noi gương bắt chước Người, trước ti�n cần phải quan s�t Người, như chị C�cile đ� kh�ng ngừng nh�n ngắm Thầy của m�nh cầu nguyện. Nội dung lời cầu nguyện của Người được diễn tả qua c�c h�nh động. Ch�ng n�i l�n tất cả. Dưới đ�y l� một v�i thời điểm ch�nh yếu.

Để thật sự hiện diện trước Đấng ta muốn ngỏ lời, trước hết phải phủ phục trong đức tin. V� thế, Th�nh Đa Minh cầu nguyện bằng c�ch khi�m tốn sấp m�nh trước b�n thờ, như thể l� ch�nh Ch�a Gi�-su Ki-t�, được  biểu tượng qua b�n thờ, đang đ�ch th�n hiện diện thật sự (M 1).

Để diễn tả th�i độ khi�m nhường, điều xứng hợp duy nhất đối với người � thức về sự bất xứng của m�nh, đ� l� trở n�n một với b�n đất � l�humus � v� phủ phục th�n m�nh c�ng với tất cả con người của m�nh. Th�nh Đa Minh thường cầu nguyện, mặt �p xuống đất (M 2).

V� việc cầu nguyện Ki-t� gi�o trước ti�n l� noi gương Ch�a Ki-t� cầu nguyện, v� v� việc cầu nguyện của Ch�a Gi�-su Ki-t� đạt tới mức ho�n hảo tr�n thập gi�, n�n người Ki-t� hữu hiểu rằng cần phải đi qua thập gi� mới bước v�o việc cầu nguyện thật sự. Chi�m ngắm thập gi�, �m lấy thập gi�, n�p m�nh v�o thập gi�, như Fra Angelico thường vẽ về th�nh Đa Minh, đ� l� k�o d�i hy tế của th�nh lễ, đ� l� đi v�o ch�nh việc cầu nguyện của Ch�a Gi�-su. V� vậy, th�nh Đa Minh đặc biệt ưa th�ch chi�m ngắm Ch�a chịu đ�ng đinh. Người d�nh cho th�nh gi� l�ng t�n k�nh đặc biệt. Người thường b�i gối trước th�nh gi�.

Trong tất cả c�c tư thế cầu nguyện, tư thế g�y t�c động hơn cả l� tư thế đứng. C�ng đồng chung đầu ti�n, � C�ng đồng Nicea năm 325, truyền dạy c�c t�n hữu của Đức Ki-t� phục sinh phải đứng khi đọc kinh nguyện th�nh thể, để chứng tỏ m�nh l� những người đ� phục sinh. Th�nh Đa Minh th�ch đứng m� cầu nguyện. Người đứng đ�, đ�i tay mở ra như dấu chỉ d�ng hiến, như người l�nh nhận mọi sự, người k�n m�c từ cạnh sườn Đức Gi�-su d�ng nước cần thiết để sống.

Khi ở tu viện, Cha Đa Minh thường đứng trước b�n thờ, đứng thẳng tr�n đ�i ch�n, kh�ng dựa v�o đ�u cả, đ�i tay mở ra trước ngực như một cuốn s�ch đang mở (M 5).

Để n�n một với Ch�a Cứu Thế d�ng hiến m�nh tr�n thập gi�, th�nh Đa Minh qu� chuộng đặc biệt h�nh thức cầu nguyện, tay dang ra theo h�nh th�nh gi�. Kh�ng c� chứng cứ n�o n�i đến việc Người được ghi c�c dấu th�nh, như vị th�nh c�ng thời l� Phanxic�. Người cũng kh�ng xin điều n�y. Nhưng Người muốn chu to�n lời mời gọi của Ch�a l� mang lấy thập gi� để xứng đ�ng được gọi l� m�n đệ của Ch�a. Người ta thấy nhiều lần kh�c Th�nh Đa Minh cầu nguyện, hai tay giang thẳng ra theo h�nh th�nh gi�, th�n thẳng đứng, như c� thể (M 6).

V� cũng với tư thế đứng, Th�nh Đa Minh thể hiện h�nh ảnh như một mũi t�n tr�n c�nh cung. Người hướng về Ch�a, Người vươn m�nh, hay đ�ng hơn Người để m�nh hướng về Ch�a nhờ sức mạnh của Th�nh Thần, Đấng hiện diện nơi ch�ng ta như động lực mạnh mẽ của việc cầu nguyện.

Người ta thường thấy th�nh nh�n hướng to�n th�n về trời, theo c�ch thức một mũi t�n tr�n c�nh cung hướng thẳng về bầu trời. Người giơ thẳng tay vươn cao khỏi đầu, đ�i ban tay nắm lấy nhau hay h� mở như l� để l�nh nhận điều g� đ� từ trời (M 7).

Th�nh Đa Minh đắm m�nh trong việc cầu nguyện, như trong được đặt trong một c�i nồi, để được s�ng ngời, được thanh tẩy, được biến đổi v� chưng cất mọi � nghĩa, mọi dự ph�ng để trở th�nh một của lễ ho�n hảo. Kh�ng phải l� th�nh nh�n cầu nguyện với th�n x�c, nhưng ch�nh th�n x�c trở th�nh lời cầu nguyện. Người đ� diễn tả tuyệt vời điều th�nh Phaol� đ� viết : �Ch�ng ta đ� l�nh nhận Thần Kh� như �n huệ mở đầu, ch�ng ta cũng r�n xiết trong l�ng, đang khi chờ đợi Thi�n Ch�a cứu chuộc th�n x�c ch�ng ta nữa� (Rm 8,23). Những tiếng r�n xiết của Đa Minh khi cầu nguy�n, những tư thế kh�c nhau của th�n thể Người, v� cả việc cầu nguyện l�c đ�m khuya, tất cả minh chứng sự biến đổi do việc cầu nguyện nơi Người.

Đa Minh kh�ng cầu nguyện cho m�nh. Như Đức Ki-t�, th�nh nh�n cầu nguyện cho người kh�c. Th�nh nh�n để Ch�a khởi sự nơi m�nh việc t�i tạo c�c tạo vật, như Ch�a muốn về thế giới : Mu�n lo�i thụ tạo c�ng r�n siết v� quằn quại như sắp sinh nở� (Rm 8,22).

N�t độc đ�o trong việc cầu nguyện của Th�nh Đa Minh ở chỗ đ�. Lời cầu nguyện của Người c� t�nh t�ch cực, lời giảng của Người cũng thế. V� lời cầu nguyện kh�ng kh�c lời giảng. Lời cầu nguyện l� h�nh ảnh của lời giảng l�c đ�m khuya. Ban ng�y, người gieo giống đi gieo hạt, ban đ�m, Ch�a l�m cho hạt giống lớn l�n. Ban ng�y, Th�nh Đa Minh hiến m�nh cho người kh�c qua việc giảng thuyết, v� ban đ�m Người hiến m�nh cho Thi�n Ch�a qua việc cầu nguyện. Việc n�y kh�ng thể t�ch rời khỏi việc kia, tương tự như việc nắn tượng v� đưa v�o l� nung. Chỉ c� một c�ng việc, một mục đ�ch ph�t xuất từ c�ng một mối bận t�m, đ� l� ơn cứu độ c�c linh hồn.