HOME

 
 


09. Th�nh Đamin
h, Con người tri thức

 

 

Cha Th�nh Đa Minh của ch�ng ta c�n c� một c�ch thức cầu nguyện kh�c, rất đẹp, đầy sốt sắng v� duy�n d�ng. Người thực hiện c�ch thức n�y qua c�c giờ kinh theo quy định v� sau khi c�m ơn chung tiếp liền mỗi bữa ăn. Người cha tốt l�nh n�y, một người cha rất mực giản dị v� tr�n đầy tinh thần đạo đức, đ� k�n m�c từ những lời thi�ng th�nh được h�t trong cung nguyện hay trong nh� cơm, lại mau ch�ng t�m một nơi ri�ng, trong ph�ng hay một nơi kh�c, để đọc s�ch v� cầu nguyện, thinh lặng với m�nh v� hướng về Thi�n Ch�a. Người ngồi đ� c�ch an b�nh, v� sau khi l�m dấu th�nh gi�, Người đọc cuốn s�ch n�o đ� đang mở ra trước mặt : khi ấy t�m hồn Người tr�o l�n sự x�c động dịu d�ng, như thể l� Người đang nghe ch�nh Ch�a ngỏ lời với Người (M 8).

Th�nh Đa Minh k�n m�c l�ng nhiệt th�nh giảng thuyết từ Th�nh Kinh. Người đ� đ�n nhận từ c�c vị tiền bối lối đọc s�ch thi�ng li�ng � lectio divina, v� Người truyền lại cho c�c anh chị em của Người. Cha th�nh l� người giảng thuyết Tin Mừng kh�ng mỏi mệt cũng l� một người say m� đọc Tin Mừng,  bởi v� chỉ c� một Lời Thi�n Ch�a. C�ng một lời cần được loan b�o tr�n m�i nh�, đồng thời cần được h�t l�n trong cung nguyện, cần được đọc v� suy gẫm trong kinh nguyện, cần được chi�m ngắm trong khẩn cầu, cần được chia sẻ trong đời sống huynh đệ.

Như đ� n�i, Th�nh Đa Minh kh�ng để lại một khảo luận đạo đức n�o, cũng như kh�ng một thủ bản n�o về luyện tập thi�ng li�ng. Nhưng khi bổ sung những yếu tố tạo n�n nền tảng nội t�m của Người, người ta kh�m ph� ra rằng thay v� để lại một phương thế, Người đ� để lại một lối thực h�nh, v� điều n�y tốt hơn. Để đi theo Người, cần phải bắt chước Người. Người c� thể n�i như th�nh Phao-l� : Anh em h�y bắt chước t�i, như t�i bắt chước Đức Ki-t� (1 Cr 11,1).

Ch�n phước Gioan Fiesole, một hoạ sỹ thi�n t�i được biết đến dưới t�n Fra Angelico, đ� lưu lại trong một căn ph�ng tại tu viện th�nh Marc� ở Florence một bức tranh tuyệt vời trong đ� Th�nh Đa Minh đang ngồi đọc s�ch. Khu�n mặt Người rất trẻ trung v� phản ảnh sự trẻ trung vĩnh cửu của bản văn Người đang suy niệm. Người ta c� cảm tưởng Người tập trung v�o bản văn, ch�m đắm v�o đ�. Th�i độ n�y ph� hợp với c�ch thức cầu nguyện thứ 8 của cha th�nh, m� thiết tưởng cũng n�n thuật lại ở đ�y :

Khi tranh luận với một người bạn đồng h�nh, c� l�c dường như th�nh nh�n kh�ng thể cầm giữ ng�n từ v� � tưởng, c� l�c lại lắng nghe c�ch thanh thản, thảo luận v� đấu tranh. Người ta thấy th�nh nh�n l�c th� kh�c, l�c th� cười, nh�n thẳng, mắt c�i xuống, th� thầm với m�nh v� tay đấm ngực.

N�i c�ch kh�c. Khi đọc Kinh Th�nh, nhất l� c�c Tin Mừng, Cha Th�nh Đa Minh của ch�ng ta thật sự ch� t�m v�o việc đọc s�ch. Người chuy�n t�m v�o việc đọc s�ch như ch� t�m v�o những người n�i chuyện với Người. Mọi chứng từ đều quả quyết  rằng : Th�nh nh�n rất mực lưu t�m đến người kh�c. Vả lại đối với th�nh nh�n, Tin Mừng kh�ng chỉ l� một bản văn, nhưng l� một ng�i vị. Ch�ng ta biết rằng Người đ� từng gọi c�c cuốn s�ch l� những mảnh da chết (xem chứng từ của anh Stephano, VIE tr. 61). Nhưng đối với Kinh Th�nh v� Đấng n�i trong đ� th� kh�ng phải thế. Khi ấy t�m hồn Người tr�o l�n sự x�c động dịu d�ng, như thể l� Người đang nghe ch�nh Ch�a ngỏ lời với Người.

Cũng như cha th�nh gặp thấy Đức Ki-t� nơi mỗi người lắng nghe cha loan b�o Tin Mừng th� cha cũng gặp ch�nh Ch�a mỗi lần suy niệm Tin Mừng. Người cũng c� th�i quen chuyển nhanh từ đọc s�ch sang cầu nguyện, từ cầu nguyện sang n�i van, từ n�i van sang chi�m niệm. Đ� l� c�ch thế của Người. C�ch thế ấy đơn giản nhất trong c�c c�ch thế. Đ� cũng l� c�ch thế Ch�a sử dụng khi c�ng đi đường với �ng Cleopha v� bạn đồng h�nh từ Gi�-ru-sa-lem về Em-mau. Ch�a đ� l�m g� ? �Người giải th�ch cho hai �ng những g� li�n quan đến Người trong tất cả S�ch Th�nh� (Lc 24,27). Th�nh Đa Minh, cũng như tất cả những ai bước đi theo th�nh nh�n, thực thi việc đọc Kinh Th�nh n�y, khi ngước mắt l�n từ trang s�ch hay đang khi suy niệm tr�n đường đi, đều c� thể bảo nhau : �Dọc đường, khi Người n�i chuyện v� giải th�ch Kinh Th�nh cho ch�ng ta, l�ng ch�ng ta đ� chẳng bừng ch�y l�n sao ?� (Lc 24,32).

Th�nh Đa Minh kh�ng đọc dồn dập như ch�ng ta đọc h�ng đống giấy mỗi ng�y. Người kh�ng bị �p lực phải c� cuốn s�ch n�y hay cuốn kia. Trong thực tế, Người c� rất �t s�ch. Theo lời kể của c�c anh em, những người đồng h�nh với Người trong những chuyến đi d�i từ Toulouse đến Paris, đến R�-ma hay Bologna, th�nh nh�n chỉ mang theo m�nh v�i cuốn s�ch v� thường lợi dụng những l�c đi đường để suy niệm l�u giờ về c�c gi�o huấn.

Qua lời n�i hay bản văn, Th�nh Đa Minh khuyến kh�ch c�c anh em trong D�ng chuy�n chăm học T�n v� Cựu Ước. Người l�m chứng điều n�y (đ�y l� anh Gioan người T�y Ban Nha) đ� nghe v� đ� đọc c�c thư của th�nh nh�n. Cha Th�nh lu�n mang theo m�nh Tin Mừng th�nh M�tth�u v� c�c thư th�nh Phaol�; Người d�nh nhiều thời giờ học hỏi s�ch Tin Mừng cũng như c�c thư n�y đến nỗi hầu như thuộc l�ng (VIE tr. 55).

Người ta c� thể h�nh dung ra được mối tương giao giữa Lời Ch�a với con người b�n nhạy n�y, một người kh�ng ngần ngại diễn tả những t�m tư th�m s�u của m�nh, như c� thể thấy qua c�ch đối xử với c�c anh em trong đời sống chung : Người an ủi họ, khiển tr�ch, vui mừng v� kh�c l�c v� thương cảm. Ta c� thể đọc thấy.

Khi đọc s�ch như thế, Người t�n k�nh cuốn s�ch, c�i đầu v� h�n k�nh, nhất l� khi đ� l� s�ch Tin Mừng. Người đọc s�ch với lời lẽ như l� Ch�a Gi�su Kit� đo�i thương đọc qua m�i miệng Người.

Sao người ta lại kh�ng thể diễn tả : như một người y�u nhận được l� thư từ người y�u của m�nh, say m� đọc thư, đọc đi đọc lại, đọc v� cảm x�c, xem l� thư như biểu hiện sự hiện diện của người y�u ? Đa Minh kh�ng thuộc số những người nghi ngờ t�nh trung thực trong lời của Đức Kit�.

Từ đọc s�ch đến học hỏi

Thời thanh ni�n, Đa Minh đ� được đ�o tạo vững chắc về thần học, như nh� viết tiểu sử l�m chứng.

Th�nh nh�n đ� trải qua 4 năm học hỏi th�nh khoa. Người đ� ki�n tr� v� khao kh�t k�n m�c c�c nguồn mạch từ Th�nh Kinh đến nỗi kh�ng cảm thấy mệt mỏi khi học h�nh ; c� nhiều đ�m dường như Người kh�ng ngủ, dầu vậy, trong t�m tư của Người, l�c n�o tr� nhớ sắc b�n cũng lưu giữ ch�n l� Người đ� nghe được qua đ�i tai. Điều Người dễ d�ng học được nhờ c�c �n sủng, th� Người tưới gội bằng t�m t�nh đạo hạnh v� l�m nảy sinh những c�ng tr�nh đem lại ơn cứu độ (LIB s.7).

V�o tuổi trưởng th�nh, v� d�nh nhiều thời giờ để giảng thuyết, canh thức v� lo lắng cho việc th�nh lập D�ng, cha Đa Minh kh�ng c�n rảnh rang để l�m c�ng việc của một nh� thần học. Dầu vậy Người vẫn duy tr� mối quan t�m d�nh cho việc học, với ch�nh bản th�n m�nh cũng như với c�c anh em thời kỳ đầu. C� một mẩu chuyện rất hay minh hoạ cho mối quan t�m muốn k�o d�i việc suy niệm từ Lectio divina th�nh suy tư s�u xa, hướng tới việc giảng thuyết dựa tr�n những nền tảng vững chắc.

Maitre Stavenby, l�c ấy l� gi�m đốc tại Toulouse, v� sau đ� trở th�nh gi�m mục coi s�c địa phận Coventry v� Lichfield ; ch�nh vị n�y đ� kể lại c�u chuyện dưới đ�y, tại triều đ�nh Anh Quốc, 10 năm sau khi biến cố xảy ra.

Một vị gi�o sư lừng danh v� d�ng d�i, danh gi�, t�n tuổi đang giữ ghế giảng sư thần học tại Toulouse. Một buổi s�ng sớm nọ, l�c đang chuẩn bị b�i vở để l�n lớp, bỗng thấy buồn ngủ, �ng gục đầu xuống b�n v� ngủ m� đi. Trong giấc ngủ, �ng c� một thị kiến : bảy ng�i sao hiện ra trước mặt �ng. Đang khi �ng rất ngạc nhi�n v� điều kỳ lạ n�y, th� c�c ng�i sao lớn dần l�n, cả về �nh s�ng lẫn k�ch thước, đến nỗi soi s�ng khắp v�ng v� to�n thế giới. �ng chợt tỉnh giấc v� thấy ng�y đ� s�ng, n�n gọi người hầu đem s�ch vở v� �ng đi v�o lớp. Khi ấy Đa Minh c�ng với 6 người bạn đồng h�nh y phục giống nhau tiến đến ch�o �ng. Họ cho �ng biết họ l� những anh em c� nhiệm vụ giảng thuyết cho c�c t�n hữu v� chống lại những người theo lạc gi�o tại Toulouse. Họ cũng b�o với �ng l� họ mới ghi t�n tại lớp học của �ng v� rất ước ao mong muốn học với �ng. Sau đấy, vị gi�o sư n�y trở th�nh bạn th�n v� tận t�m của bảy anh em, �ng giảng dạy cho họ như l� những học tr� của m�nh. Nhớ lại thị kiến trước đ� �t l�u, �ng hết l�ng tận tuỵ đối với Đa Minh v� c�c bạn đồng h�nh, �ng hiểu họ l� bảy ng�i sao s�ng. Ch�nh vị gi�o sư n�y đ� kể lại c�u chuyện tr�n đ�y cho anh Arnulf v� bạn đồng h�nh, khi họ đang ở Anh Quốc, tại triều đ�nh nh� vua (EVA tr. 84).

Như vậy, hoạt động thần học, trước hết l� một c�ng tr�nh đức tin nhằm phục vụ việc loan b�o Tin Mừng sẽ l� một kh�a cạnh thiết yếu cho người muốn theo học tại ng�i trường của Th�nh Đa Minh. Người ấy phải biết li�n tục từ đọc s�ch sang suy niệm, từ suy niệm sang chi�m niệm, từ chi�m niệm sang thần học, v� từ thần học sang giảng thuyết. Như vậy người ấy thực hiện trọn hảo c�u ch�m ng�n của th�nh Thoma Aquino : Contemplari et contemplata adiis tradere.

Để thi h�nh hoạt động tr� thức đều đặn n�y, Th�nh Đa Minh đ� thiết lập hai lối thực h�nh mới nhưng cần thiết để cổ v� việc học : - chuẩn chước để kh�ng đọc kinh thần vụ chung, gi�p cho c�c anh em c� khả năng c� thể l�m việc tối đa, -  v� ph�ng ri�ng, tạo điều kiện cho c�c anh em n�y l�m việc tốt hơn v� hữu hiệu hơn. Tại c�c ph�ng ri�ng n�y, ai muốn th� c� thể học h�nh, viết l�ch, cầu nguyện, nghỉ ngơi v� cả thức đ�m, để học h�nh (x. LIB s.44).

Kh�ng phải l� Th�nh Đa Minh muốn th�nh lập một D�ng gồm những người tr� thức, nhưng Người muốn d�nh cho hoạt động tr� thức một vị tr� cao trong D�ng. Bước đi theo Người, c�c anh em phải nỗ lực trung th�nh với trực gi�c n�y.

Từ nay, cầu nguyện với Th�nh Đa Minh, cũng ch�nh  l� cầu nguyện với th�nh Thoma Aquino m� th�nh t�ch của Người được lưu giữ v� t�n k�nh tại nh� thờ Jacobins tại Toulouse.