HOME

 
 


10. Th�nh Đamin
h, Con người từng trải

 

 

Sở dĩ anh em đo�n tụ l�m một trước hết l� để anh em sống đồng t�m nhất tr� trong một nh� v� để anh em chỉ c� một l�ng một � trong Thi�n Ch�a� Tất cả đều l� của chung cho canh em (Tu luật Th�nh �utinh).

Như tu luật dậy, sở dĩ anh em đo�n tụ l�m một trước hết l� để anh em chỉ c� một l�ng một � trong Thi�n Ch�a (HP 2).

Như trong Hội Th�nh của c�c t�ng đồ, sự hiệp th�ng giữa ch�ng ta phải được đặt nền, x�y dựng v� củng cố trong c�ng một Th�nh Thần, trong Người, ch�ng ta đ�n nhận Ng�i Lời bởi Thi�n Ch�a Cha bằng một đức tin, ch�ng ta chi�m ngưỡng bằng một t�m hồn v� ch�ng ta ca tụng bằng một miệng lưỡi ; trong Người, ch�ng ta trở n�n một th�n thể v� th�ng phần c�ng một B�nh ; sau hết, trong Người, ch�ng ta để mọi sự l�m của chung v� được cắt cử v�o c�ng một c�ng việc loan b�o Tin Mừng (HP 3).

Chắc chắn rằng D�ng của Th�nh Đa Minh đặt nền tảng tr�n đời sống cộng đo�n, khi chọn tu luật th�nh �utinh, D�ng đ� dựa tr�n gương mẫu Gi�o Hội của c�c Kit� hữu thời đầu tại Gi�rusalem. Ngay từ Hiến ph�p nguy�n thuỷ, khi n�i đến đ�i hỏi đồng t�m nhất tr� trong đời sống chung, cha Đa Minh đ� nhấn mạnh điều cốt yếu theo như � Người : La vita apostolica, nếp sống của c�c t�ng đồ.

Thật r� r�ng thời của Th�nh Đa Minh c�ch xa thế kỷ chủ trương đề cao c� nh�n. V�o thế kỷ XIII, người ta kh�ng suy nghĩ bắt nguồn từ c� nh�n, từ � thức ri�ng, từ số phận c� nh�n, như người ta sẽ l�m v�o thế kỷ XVI. Tr�i lại, v�o thời Th�nh Đa Minh, người ta suy tư về cộng đo�n, về �ch lợi chung, về sự hiệp th�ng c�c th�nh.

Trong c�c truyền thống tu tr� trước Th�nh Đa Minh, từ đ� Người k�n m�c � tưởng cho D�ng của m�nh, tất cả đều c� t�nh cộng đo�n. Điều n�y c� thể nhận thấy nơi c�c đan sĩ của th�nh Biển Đức cũng như c�c tu sĩ Pr�montr�s của th�nh Bruno. Tất cả đều mong muốn thực hiện l� tưởng của đời sống Kit� gi�o như được mi�u tả trong s�ch C�ng vụ T�ng Đồ. Tất cả c�c t�n hữu chỉ c� một l�ng một �, v� để mọi sự l�m của chung (x. Cv 2,44).

Khi Th�nh Đa Minh nhận được linh hứng th�nh lập một D�ng gồm những người giảng thuyết, th�nh nh�n nghĩ ngay đến t�nh cộng đo�n. Người muốn rằng c�c anh em sẽ sống chung với nhau, cầu nguyện chung, v� đi giảng thuyết chung với nhau.

Đ�ng kh�c, theo bi�n ni�n sử, ta thấy Đa Minh lu�n ở giữa anh em. Người kh�ng bao giờ ở một m�nh. Điều ấy kh�ng thể tưởng tượng được. Người linh hoạt ngay tại c�c cộng đo�n được h�nh th�nh dần dần. V� khi phải di chuyển, Người đi từ tu viện n�y sang tu viện kh�c, tu�n theo c�c tục lệ địa phương tại nh� cơm cũng như tại cung nguyện. Ngay cả khi đi đường, Người cũng kh�ng bao giờ đi một m�nh, nhưng lu�n với một hay nhiều bạn đồng h�nh. Ch�nh những người n�y thuật lại cho ch�ng ta những chứng từ qu� b�u về th�i độ của Th�nh Đa Minh trong những ho�n cảnh kh�c nhau. Ng�y h�m nay cũng như thời xưa, đời sống chung kh�ng phải l� điều dễ d�ng. C�u ch�m ng�n sau đ�y vẫn đ�ng : Vita communis, maxima paenitentia, đời sống chung l� việc đền tội lớn nhất.

Th�nh Đa Minh được m� tả như một người c� đủ mọi đức t�nh cần thiết cho đời sống chung.

Cha l� một người khi�m tốn, dịu d�ng, ki�n nhẫn, nh�n từ, thanh thản, �n ho�, nh� nhặn, giản dị đạo hạnh, đầy ch�n chắn trong mọi h�nh động v� lời n�i. Cha l� người an ủi mọi người, nhất l� c�c anh em, l� người rất nhiệt th�nh trong đời sống tu tr�, v� l� người y�u mến sự ngh�o kh�, kh�ng ai s�nh bằng (VIE tr. 46).

Chứng từ tr�n của anh Amizo th�nh Milan cũng tr�ng hợp với chứng từ của c�c anh em kh�c, v� chứng từ n�y cũng n�u l�n một n�t m� mọi người đều đồng � : Đa Minh l� một người an ủi tuyệt vời của anh em, ch�ng ta c�ng xem chứng từ của anh Phaolo th�nh Venise :

Th�nh nh�n l� một người an ủi tuyệt hảo đối với anh em v� những người l�m cảnh khốn khổ hay đang bị thử th�ch. Chứng nh�n biết được điều n�y do kinh nghiệm ri�ng cũng như kinh nghiệm của những người kh�c (VIE tr. 70).

N�i theo ng�n ngữ ng�y nay, th�nh nh�n c� ơn đặc sủng để đồng h�nh thi�ng li�ng. Người kh�ng chỉ bằng l�ng với việc l�i cuốn anh em v�o D�ng, nhưng c�n biết đồng h�nh với họ, n�ng đỡ họ trong những l�c kh� khăn, bảo vệ họ khi gặp những thử th�ch kh�ng tr�nh khỏi trong một cuộc sống đầy s�ng gi�, khuyến kh�ch họ những khi nản ch�, cảnh c�o họ những l�c phản bội. Bởi v� Th�nh Đa Minh kh�ng hề thiếu can đảm, một điều rất hiếm trong đời sống chung : biết cứu lại những tội nh�n m� kh�ng l�m họ bị thương tổn. Người ta cũng thấy th�nh nh�n tỏ ra nghi�m khắc, ngay thẳng nhưng nghi�m nghị, như chứng từ của anh Frogier de Penna.

V� th�nh nh�n tu�n giữ lề luật c�ch nghi�m ngặt v� đầy đủ, n�n Người cũng y�u cầu c�c anh em phải trung th�nh như vậy. Nếu thấy anh em n�o vi phạm, Người sẽ nghi�m phạt, nhưng lại với l�ng khoan dung v� những lời lẽ rất �m dịu, khiến kh�ng ai chống đối, d� rằng h�nh phạt rất nặng (VIE, tr. 73).

Theo Th�nh Đa Minh, đời sống chung kh�ng chỉ giới hạn trong việc c�ng sống dưới một m�i nh�. Để cuộc sống n�y tốt đẹp, cần phải c� yếu tố kh�ng thể thiếu l� sự đồng t�m nhất tr�. Trước ti�n, điều n�y c� nghĩa l� chỉ c� một t�m hồn : điều n�y kh�ng chỉ đ�ng trong đời sống cộng đo�n th�ng thường, d� rằng kh�ng phải l� đơn giản, nhưng c�n trong việc l�nh tr�ch nhiệm tập thể trong đời sống cộng đo�n n�y. Như c�c bạn d�ng Xit�, từ khi thức dậy đến khi đi ngủ, sống một đời sống đan viện ho�n to�n c� t�nh cộng đo�n. Th�nh Đa Minh muốn rằng c�c anh em của Người cũng sống đời sống cộng đo�n như thế, nhưng l� đời sống của c�c t�ng đồ. C�u ch�m ng�n nổi bật của c�ch tổ chức n�y l� : Điều g� cần được mọi người sống, phải do mọi người quyết định.

Đời sống cộng đo�n Đa Minh dựa tr�n sự đa dạng được chuẩn bị rất kỹ của c�c c�ng hội. Th�ng thường, kh�ng bao giờ c� anh em sống một m�nh. Họ sống th�nh  tu viện, n�i kh�c đi l� sống hiệp th�ng. Tu viện được quy tụ th�nh c�ng hội đều đặn. Những người n�o c� quyền đầu phiếu th� tham gia c�ng hội. Tại đ� người ta quyết định mọi việc : bầu bề tr�n tu viện, chấp nhận ph� bề tr�n, đưa ra những định hướng t�ng đồ ch�nh của tu viện. Ngay cả chi tiết của thời kho� biểu cũng được quyết định trong c�ng hội.

C�c tu viện họp nhau th�nh Tỉnh D�ng. Mỗi tỉnh d�ng cũng c� c�ng hội để quyết định những g� li�n quan. Tất cả c�c tỉnh d�ng họp nhau th�nh D�ng Giảng Thuyết, v� họp nhau ba năm một lần trong Tổng Hội để quyết định mọi sự, trừ việc thay đổi n�t ch�nh yếu của ơn gọi Đa Minh.

V� vậy, cần thiết phải thực h�nh việc đồng t�m nhất tr� : kh�ng c� yếu tố n�y, c�c cuộc hội họp trở th�nh những việc c� nh�n xếp cạnh nhau nhằm bảo vệ quyền lợi nghiệp đo�n, như người ta thường thấy trong c�c cuộc hội họp được gọi l� d�n chủ. Kh�ng c� đồng t�m nhất tr�, kh�ng thể n�o c� cộng đo�n, nhưng l� những tập thể. Một điều như thế kh�ng hề c� trong t�m tr� Th�nh Đa Minh, cũng kh�ng c� trong dự ph�ng của Người. T�i năng thi�n ph� của Người l�, ngay từ ban đầu, đ� thấy được những nguy cơ của lối quản trị cộng đo�n n�y v� đ� dự tr� những phương thế để việc quản trị n�y lu�n c� t�nh cộng đo�n v� c� thể thực h�nh được. Những người đương thời đều tin rằng to�n bộ D�ng của Người dựa tr�n lời cầu nguyện của Đấng S�ng Lập. Ng�y nay, c�c anh em của Người vẫn tin như thế.

Người trợ gi�p c�c nh� truyền gi�o của m�nh nhờ lời chuyển cầu v� nhờ sức mạnh của Ch�a l�m cho số người ấy tăng th�m m�i (LIB s. 62).

Tất cả những ai thực h�nh nếp sống n�y đều hiểu rằng đời sống cộng đo�n chỉ c� thể th�nh c�ng nếu người ta chịu trả gi�. V� c�i gi� phải trả hệ tại việc cho đi ch�nh m�nh ho�n to�n, kh�ng chiếm hữu, tận hiến m�nh cho người kh�c m� kh�ng đ�i đ�p trả. Điều n�y đ�ng trong đời sống thường ng�y tại c�c tu viện v� cũng đ�ng trong đời sống t�ng đồ. Đ� cũng l� trở n�n kh� ngh�o, trong tinh thần của Th�nh Đa Minh, kh�ng giữ bất cứ điều g� cho m�nh, nhưng trao tặng tất cả những g� m�nh đ� l�nh nhận, sống lệ thuộc v�o c�c anh em cũng như c�c �n nh�n, t�n th�c v�o lối l� luận tin mừng l� mất tất cả để được tất cả.

Cần phải x�c định r� r�ng v� phải c� sức mạnh của t�m hồn, như Th�nh Đa Minh đ� l�m. Trong đoạn văn dưới đ�y, người ta sẽ nhận ra những n�t cho thấy sự hiện diện đầy tinh tế của Người trong đời sống cộng đo�n (l�ng tr�u mến dạt d�o, tận tuỵ hết m�nh).

Cha th�nh đ�n nhận mọi người v�o trong tấm l�ng bao la của t�nh mến v�, bởi v� Người y�u mến mọi người, n�n mọi người y�u mến Người. Người ra luật ri�ng cho m�nh l� vui với người vui, kh�c với người kh�c, dạt d�o l�ng tr�u mến đạo hạnh v� tận tuỵ hết m�nh lo cho người kh�c, đầy l�ng thương với những người l�m cảnh khốn khổ (LIB s. 107).

Nhưng một khi đời sống cộng đo�n được thể hiện đ�ng mức như cần phải c�, lại trở th�nh nguồn mạch đem lại niềm vui tuyệt vời, thứ niềm vui do Ch�a hứa v� thế gian kh�ng hiểu được. Ch�n phước R�ginaldo đ� kể lại chứng từ thay cho nhiều anh em :

T�i nhớ lại khi cha th�nh c�n tại thế, anh Matth�u l� người đ� biết th�nh nh�n khi l�c ở ngo�i đời, đ� hỏi anh R�ginaldo với đầy vẻ ngạc nhi�n : Thưa Cha, Cha kh�ng cảm thấy kh� chịu g� với bộ �o D�ng đang mặc chứ ? Nhưng ng�i c�i đầu xuống v� n�i : t�i nghĩ rằng kh�ng c� một c�ng trạng n�o để sống trong D�ng n�y, v� t�i t�m được ở đ�y qu� nhiều niềm vui (LIB s. 64).