Năm C

 
 


Chúa Nhật II Mùa Chay - Năm C

St 15, 5-12.17-18 / Pl 3,17 – 4,1 / Lc 9, 28b-36


An Phong op : Đức Giêsu, Vinh Quang của Thiên Chúa Cha

Như Hạ op : Ánh Sáng Cuối Đường Hần

Như Hạ 2004 : Sau Cơn mưa Trời Lại Sáng

Fr.Jude Siciliano.OP. Từ Bỏ Mọi Ảo Vọng Về Vinh Quang Của Mình

G. Nguyễn Cao Luật op : Tượng Đài Ánh Sáng

Giuse Đặng Chí San op : Ánh Sáng Trên Đường Dài Mỏi Mệt

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Đau khổ và vinh quang

Tađêô Hồ Vĩnh Thịnh op : Thưa Thày Chúng Con Ở Đây Thật Là Hay

Đỗ Lực op : Đồng Hình Hay Biến Hình

Fr. Jude Siciliano, op : Hãy Vâng Nghe Lời Người

Fr Jude Siciliano, op: Hãy vâng nghe lời Người

 

 
An Phong op

Đức Giêsu, Vinh Quang của Thiên Chúa Cha
Lc 9, 28b-36

Tin mừng hôm nay là trình thuật Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, Người đã "biến hình" – tỏ vinh quang – trước mắt các ông. Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa, sẽ dùng thập giá mà đi vào vinh quang của Vương Quốc Thiên Chúa. Trình thuật biến hình này là sự báo trước vinh quang đó. Cuộc tử nạn không phải là tận điểm, nhưng chính là vinh quang Phục sinh. Môsê và Êlia là hai thế giá – Luật và các Ngôn sứ – đảm bảo cho cuộc biến hình này. Lời Thiên Chúa Cha : "Đây là Con Ta yêu dấu..." còn âm hưởng của biến cố Chúa chịu phép rửa. Như thế, qua biến cố biến hình này, Thiên Chúa Cha đã chuẩn nhận tình yêu và sự vâng phục của Đức Giêsu được thực hiện qua cuộc khổ nạn. Thiên Chúa Cha đã "biến hình" Đức Giêsu trong ánh sáng và vinh quang.

Cuộc biến hình của Đức Giêsu là một "cú sốc" đối với các môn đệ của Người : Đức Giêsu thường ngày, người từng chia sẻ cuộc sống với họ bỗng chốc trở nên sáng láng, vinh quang; Đức Giêsu, hình ảnh Thiên Chúa vô hình bỗng chốc trở nên hữu hình trong thân xác biến hình của Người.

Cái thường ngày đôi khi làm chúng ta không nhận ra những điều kỳ diệu của cuộc sống. Rồi xảy ra một biến cố đặc biệt nào đó, chúng ta sẽ bị "sốc". Trong cuộc lữ hành đức tin của chúng ta, đôi khi chúng ta cũng không nhận ra Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống, bởi lẽ Người vẫn là một Vị Thiên Chúa ẩn giấu (chứ không vắng mặt). Đôi khi Thiên Chúa hiện diện trong các điều "kỳ diệu", qua các biến cố đời thường, nhưng chúng ta lại không nhận ra Người.

Qua cuộc biến hình của Đức Giêsu, Thiên Chúa Cha chuẩn nhận tình yêu và lòng vâng phục của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã loan báo về cuộc khổ nạn của Người. Người hoàn toàn ý thức rằng mình sẽ phải chịu tử nạn. Người chấp nhận cuộc tử nạn mà Thiên Chúa Cha muốn để cứu độ trần gian. Thiên Chúa Cha đã cho Người phục sinh trong vinh quang.

Đời sống kitô hữu là gì nếu không phải là đời sống trong tình yêu và sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Nếu chúng ta vâng phục thánh ý Thiên Chúa, chúng ta hy vọng sẽ được vinh quang, niềm vui, bình an. Đôi khi sự vâng phục này làm chúng ta đau đớn "đến chết được". Chúng ta sẽ cảm nghiệm được sự bình an của Đức Giêsu, đồng thời có thể nói lên : "Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người" (Ga 8,29).

Đức Giêsu đã biến hình khi Người đang cầu nguyện. Cầu nguyện là đàm đạo, là gặp gỡ, là thái độ tâm hồn hướng lên. Các vị Thánh là những người cầu nguyện và tôn thờ Thiên Chúa bằng cả cuộc đời mình.

Nếu chúng ta vẫn trung thành với việc cầu nguyện, chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ ban bình an, niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta.

Sau khi biến hình, các môn đệ chỉ còn nhận ra Đức Giêsu "đời thường", với một đời sống bình thường như xưa. Chỉ sau biến cố Phục sinh, các ông mới hiểu trọn vẹn ý nghĩa cuộc biến hình.

Đời sống thường nhật mỗi ngày không thiếu "những vinh quang", nhưng cũng có cả bóng tối và thập giá. Dường như đời sống chúng ta luôn có thập giá. "Qua thập giá đến Phục sinh, qua đau khổ đến vinh quang" vốn là châm ngôn của đời sống công giáo.

Biến cố biến hình của Đức Giêsu dạy chúng ta biết nhìn ra điều kỳ diệu vốn giấu ẩn qua những nét thường tình của đời sống. Biến cố biến hình dạy chúng ta biết luôn sống tình yêu và vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Biến cố biến hình dạy chúng biết qua đau khổ đến vinh quang.

Lạy Chúa, Chúa chúng con.

Xin cho chúng con phát hiện Chúa trong thế giới.
Nhận thấy Chúa qua mọi biến cố trong lịch sử chúng con.
Xin mở rộng tinh thần chúng con tìm kiếm tình yêu Chúa.
Xin uốn nắn lưỡi chúng con xưng tụng Thánh Danh Chúa.
Xin hướng dẫn tay chúng con xây dựng Vương Quốc Chúa,
vì Chúa ở trong nỗ lực chúng con đi tìm,
Chính Chúa làm sinh động cuộc tìm kiếm.

Chúa ngự trong cuộc sống chúng con,
chính Chúa ban cho cuộc sống ý nghĩa đích thực – lẽ sống duy nhất.
Vì Chúa là mục tiêu duy nhất.
Yêu mến Chúa thêm một chút,
để tiến dâng Chúa lời chúc tụng vẻ vang nhất.
Hân hoan thêm một chút,
để đem đến cho muôn loài khuôn mặt thật là Tôn Nhan Chúa.


Như Hạ OP

ÁNH SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM
Lc 9, 28b-36

Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh sáng có thể bay nhanh tới những miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có thể di chuyển nhanh như thế. Nhờ ánh sáng Chúa biến hình hôm nay, ba môn đệ cũng phóng tầm nhìn rất xa, xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì thế, các ông đã xác định được hướng sống và tìm được nền tảng của niềm hi vọng cho cuộc đời. Trong ánh sáng thần kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Người. Sứ mệnh Người hiện rõ từng nét. Chúng ta tìm về ánh sáng đó để cùng các môn đệ ngất ngây chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt vời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ muôn dân.

ÁNH SÁNG THẦN KỲ

Nếu không được chứng kiến ánh sáng thần kỳ trên núi, các môn đệ mãi mãi sống trong giằng co bất tận giữa thực tế và mộng tưởng. Giấc mơ Thiên sai vẫn đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh hùng cái thế thực hiện tất cả những giấc mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực tế Thày lại tiên báo về một Thiên sai đau khổ và bị những nhà lãnh đạo dân chúng tiêu diệt khỏi mặt đất (Mt 16:21; Lc 9:22; Mc 8:31). Lời Thày như dẫn các môn đệ vào con đường hầm dầy đặc bóng tối.

Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm. Đức Giêsu muốn lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang đó. Người phải củng cố niềm tin các môn đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn chiếc phao và sẽ trôi dạt đến một chân trời vô định. Cả sự nghiệp Thày trò sẽ tan tành ra mây khói. Bởi vậy Thày quyết định dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm một điểm mốc cho tương lai.

Núi là nơi lý tưởng để Thày trò cầu nguyện. Nhưng lần này khác hẳn. “Núi là nơi thường chứng kiến những mạc khải siêu nhiên và những cuộc thần hiển” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:615). Sau khi đã leo tới đỉnh núi, “Người biến đổi hình dạng trươc mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9:3).

Đức Giêsu đã xuất hiện nguyên hình. Thân xác không cản nổi luồng sáng từ thiên tính Người. Niềm tin các môn đệ bừng dậy. Có lẽ trong niềm tin Phật tử, Đức Phật cũng tỏa ra một thứ hào quang tương tự khi chứng ngộ, thành đạo dưới gốc cây bồ đề (?). Bởi vậy nói theo kinh nhà Phật, trong cuộc biến hình hôm nay, Đức Giêsu cũng đã thành con đường dẫn các môn đệ thoát khỏi bến mê và trở về nhà Cha an toàn.

Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ sẽ hiểu được lời Đức Giêsu hứa về “Triều Đại Thiên Chúa đầy uy lực” (Mc 9:1) và xác tín “Thày là Đức Kitô” (Mc 8:30). Nói cách khác, Thày tự mạc khải là Đấng quyền năng có sứ mạng cứu nhân độ thế. Trong địa vị và vai trò lớn lao đó, Thày xứng đáng là vị lãnh đạo muôn dân vào Đất Hứa. Thày xuất hiện để lời các tiên tri trở thành hiện thực. Chính vì thế hai ông Môsê và Êlia đã xuất hiện để củng cố và chiếu sáng niềm tin các môn đệ vào sứ mạng của Thày. Đúng hơn, hai ông là cái nền đánh bóng dung nhan Đức Giêsu.

CHÂN TƯỚNG VỊ THIÊN SAI

Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây ngất về dung nhan Thày trổi vượt hơn các ông Môsê và Elia, thì “có một đám mây bao phủ các ông” (Mc 9:7). Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện. Phải được nhắc lên đám mây, các ông mới nghe được tiếng Chúa Cha : “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Lời trìu mến chừng nào !

Tất cả cơ nghiệp Chúa Cha là Đức Giêsu ! Nhưng cơ nghiệp ấy Chúa Cha đã không ngần ngại hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Hình ảnh Abraham sẵn sàng sát tế Isaac chỉ diễn tả phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của Thiên Chúa đối với con người. Abraham chỉ bị thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí. Trái lại, “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha tới mức nào. Vậy mà Người đã hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent Cycle B] 1999:10). “Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em”6 (1 Cr :20).

“Tiếng trong đám mây làm liên tưởng tới vị tiên tri trong Đệ Nhị Luật (18:15) sẽ được lắng nghe vào những ngày sau hết” (Faley 1994:231). Đám mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng tự bản tính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Còn ai xứng đáng cho các môn đệ nghe lời hơn không ? Vậy mà từ xưa tới nay, các ông vẫn hoang mang vì dư luận ! Bởi vậy từ nay, dù Thày có nói những điều trái tai gai mắt, các môn đệ cũng phải chấp nhận. Sự thật vẫn là sự thật. Thày không sợ sự thật. Thày muốn môn đệ cũng phải đối diện với sự thật. Vì “sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8:32).

Thấy cảnh Đức Giêsu biến hình, Phêrô cảm thấy lúng túng. “Ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (Mc 9:6). Một kinh nghiệm khó quên. Một cảm nghiệm thần bí tuyệt vời. Tuyệt vời đến nỗi ông muốn kéo dài mãi cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba lều chỉ là một cách nói lên điều ông không biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng ngây ngất. Nhưng Đức Giêsu không muốn các môn đệ “ngủ quên trên chiến thắng”. Ngay trên núi, vừa mới chứng kiến cảnh Thày biến hình, các ông bị trả về thực tế. “Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (Mc 9:8). Thực tế trơ ra đó. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế. Các ông lại phải tiếp tục nghe những điều nhức nhối tâm can phát ra từ miệng Thày. Thày trò rủ nhau xuống núi. Thày tiếp tục quả quyết về số phận không thể tránh : “Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê” (Mc 9:12).

Lúc này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức Giêsu hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh Thày biến hình khỏi tâm trí các ông ? Làm sao các ông quên được lời phán từ đám mây : “Hãy vâng nghe lời Người”. Nghe lời Người để tìm đến sự sống, chứ không phải cái chết. Đúng hơn, niềm hi vọng sẽ bừng dậy khi “Con Người từ cõi chết sống lại” (Mc 9:9). Đó mới là điều ám ảnh tâm trí các ông suốt đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả lời đích xác, dẹp yên mọi xôn xao trong lòng các ông từ trước tới nay. Từ đây giấc mộng Thiên sai bá chủ sẽ nhường bước cho niềm hi vọng Phục sinh lớn lao đó. Ánh sáng biến hình chỉ là bóng mờ so với ánh sáng Phục sinh.

Nhưng không chứng kiến hay cảm nghiệm được ánh sáng biến hình, người ta có thể ngộ nhận về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Đó là lý do tại sao “Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người từ cõi chết sống lại” (Mc 9:9). Trong ánh sáng Phục sinh, các môn đệ mới nhận thấy rõ ràng “nơi Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã can thiệp để cứu độ dân Người” (Fisichella 1995:669). Người chính là vị Thiên sai đến thực hiện tất cả những lời Thiên Chúa hứa giải thoát nhân loại.

Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhân loại vẫn còn sống trong những đường hầm chật chội, tăm tối. Sự dữ và bất công còn hiện diện khắp nơi. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn chưa thể nghỉ yên. “Sứ mệnh Thiên sai vẫn còn đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện cuộc giải thoát toàn vẹn và sau cùng. Biến cố huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã mang lại ơn cứu độ. Biến cố đó không chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng ta phải trở nên khí cụ thực hiện công bình và từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn hoành hành”(Fisichella 1995:669). Nhờ đó, hòa bình sẽ là dấu chỉ rõ nhất của Thiên Chúa tình yêu giữa một xã hội đầy bạo động và sa đọa này. Vẫn còn hi vọng ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm.


Như Hạ 2004

SAU CƠN MƯA TRỜI LẠI SÁNG
Lc 9, 28b-36

Còn gì vui hơn khi thấy giấc mơ thành sự thật. Các môn đệ đã thấy rõ Đức Giêsu đến thực hiện tất cả mộng ước của dân Do thái về Đấng Messia. Niềm hi vọng tưởng như bừng lên khi ông Phêrô tuyên xưng : Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” (Lc 9:20) Nhưng đám mây đen đã kéo đến với lời Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn sắp tới (x. Lc 9:22), tiếp sau biến cố Gioan Tẩy giả vừa mới bị giết (Mt 14:1-12; Mc 6:14-29).

CẢNH BỒNG LAI

Để khai quang đám mây đen đó, “Đức Giêsu lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.” (Lc 9:28b) Chỉ có lời cầu nguyện mới giữ nổi niềm hi vọng. Chính vì thế, Đức Giêsu đặt hết niềm tin tưởng nơi Chúa Cha, Đấng có thể thỏa mãn mọi niềm hi vọng. “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác.” (Lc 9:29) Cuộc kết hiệp đã đưa Người xa rời thế giới chung quanh, đi vào cảnh bồng lai Thiên Chúa. Cả cảnh vật chung quanh cũng biến đổi theo cuộc kết hiệp vĩ đại đó : “Y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa.” (Lc 9:29) Cuộc kết hiệp thần kỳ đã mở ra tất cả bí mật của thế giới Thiên Chúa. Rõ nhất là tương quan phụ tử : “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn.” (Lc 9:35) Tương quan này sẽ chi phối tất cả cuộc đời và con người của Đức Giêsu. Tương quan cực kỳ sâu đậm, cao đẹp và thắm thiết. Tất cả những tương quan khác trong biến cố biến hình đều tùy thuộc vào tương quan đó. Nhờ thế, Đức Giêsu đã có thể làm tất cả mọi sự để hoàn thành sứ mệnh cứu độ trần gian. Sứ mệnh đó bắt nguồn từ lời hứa của Thiên Chúa.

Lời hứa đó được nhắc lại khi “ông Môsê và ông Elia hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.” (Lc 9:31) Những hình ảnh Cựu Ước tuyệt vời này đã củng cố niềm tin cho các tông đồ. Nguyên sự xuất hiện đó đã đưa uy tín của Đức Giêsu lên tột đỉnh niềm tin của các ông. Huống nữa các ông Môsê và Elia còn nói về một cuộc xuất hành mới tại Giêrusalem. Cuộc xuất hành mới sẽ đem muôn dân vào miền đất hứa mới. Đức Giêsu rất xứng đáng lãnh đạo toàn thể nhân loại, chứ không chỉ một dân tộc như Môsê. Người còn có thể phóng tầm nhìn xa hơn một tiên tri như Elia để đem lại niềm hi vọng lớn lao cho lòng người, vì Người sẽ đem tất cả nhân loại vào tương quan sâu xa với Thiên Chúa. Chỉ trong tương quan này, “con người mới tìm thấy chính mình cách trọn vẹn và khám phá ra ý nghĩa tối hậu của đời sống.” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 27/2/2001) Nhờ tương quan đó, Người đã có thể hoàn thành cuộc xuất hành ở Giêrusalem, cao điểm của mọi lời hứa.

Khi các nhân vật Cựu Ước đã hoàn thành nhiệm vụ, các nhân vật Tân Ước cũng được trình diện với Thiên Chúa trong công cuộc xuất hành mới. Đây là những nhân vật quan trọng sẽ góp phần vào công cuộc giải phóng dân Chúa. Do đó các ông cũng cần đi vào cuộc tiếp xúc sâu xa với Thiên Chúa. Cuộc tiếp xúc với các nhân vật Cựu Ước đã khiến Phêrô muốn dừng lại để định cư với những túp lều lý tưởng. Nhưng ông bị đẩy xa hơn. Đám mây đã đem các ông vào một trời đất mênh mông, vượt trên mọi biên giới trần gian. Các ông bị choán ngợp trong thế giới Thiên Chúa. Thật vậy, khi “ông (Phêrô) còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.” (Lc 9:34) Lúc này các ông không còn nghe thấy tiếng loài người nữa, nhưng trực tiếp nghe Thiên Chúa xác quyết về bản chất và sứ mệnh của Đức Giêsu. Người thực sự là Con Thiên Chúa, được tin tưởng và ủy thác việc hoàn thành cuộc xuất hành mới. Nếu Thiên Chúa còn tin tưởng và giao cho Người sứ mệnh cao cả như vậy, làm sao con người lại không tin ? Tiếng nói của Chúa Cha là một bảo đảm vững chắc nhất : “Hãy vâng nghe lơi Người !” (Lc 9:35) ngay cả trong những nghịch lý của cây khổ giá. Từ nay, Lời Chúa phải có một giá trị tuyệt đối. Chỉ cần nghe lời Đức Giêsu là vâng phục Thiên Chúa. Bởi vậy, “tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu.” (Lc 9:36) Từ nay chẳng cần một cuộc biến hình nào nữa, vì chỉ một mình Đức Giêsu cũng đủ cho con người thấy tất cả hồng ân cao cả của Thiên Chúa.

CUỘC XUẤT HÀNH MỚI.

Chỉ khi nào vào trong đám mây, nghĩa là cũng biến hình như Chúa, các tông đồ mới có thể định hướng cho cuộc xuất hành mới. Hướng mới chính là Đức Giêsu Kitô. Trước đây, dù ngay khi còn trên núi, các ông đã lâm vào tình trạng “không biết mình đang nói gì” (Lc 9:33) hay “hoảng sợ.” (Lc 9:34) Nhưng giờ đây, sau khi đã thấy rõ tất cả sự thật về Đức Giêsu, chắc chắn các ông sẽ vững tâm hơn. Từ nay, các ông tin tưởng tuyệt đối “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3:21) Cuộc biến hình này sẽ đẩy chúng ta vào cuộc xuất hành mới.

Cuộc biến hình đó có thể thực hiện ngay trên mặt đất. Xưa kia, vì “tin Đức Chúa,” (St 15:6) ông Abraham được “Đức Chúa lập giao ước.” (St 15:18) Không những thề, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15:5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể là người công chính.” (St 15:6) Nói khác, lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời ông.

Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, hơn nữa trở nên bạn hữu Đức Kitô, để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa. Từ cuộc hiệp thông này, chúng ta mới có thể hòa giải với tha nhân. “Hòa giải cho dù mình có lỗi đã là khó. Hòa giải ngay cả khi người ta lỗi đến mình xem ra còn khó khăn hơn vì nhiều người vẫn cho là điều nhục nhã vô lý.” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 25/2/2001) Lòng tự ái thật là trái núi lớn nằm chình ình giữa tương giao nhân loại. Nhưng nếu “có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây, qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt 17:20-21) Ai có thể lường hết sức mạnh đức tin ?!

Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.

Là con cái Giáo hội và là chính Giáo hội, người Kitô hữu phải làm gì để luôn phản ánh “vinh quang của Đức Giêsu” (Lc 9:32) giữa những sinh hoạt muôn mặt hôm nay ? Làm sao sống xứng đáng “là niềm vui, là vinh dự” (Pl 4:4) của Giáo hội giữa một thế giới đầy bất ổn và buồn chán hôm nay ? Chỉ có cách bám chặt vào niềm hi vọng duy nhất là Đức Kitô. Sống giữa trần thế, nhưng chúng ta vẫn không quên “quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta.” (Pl 3:20).


Fr.Jude Siciliano.OP.

Từ Bỏ Mọi Ảo Vọng Về Vinh Quang Của Mình
Lc 9, 28b-36

Kính thưa qúi vị.

Câu chuyện Chúa Giêsu biến hình còn xa mới đến cậu chuyện về cuộc khổ nạn của Ngài. Trình thuật này ở chương 9, trình thuật khổ nạn ở chương 22 trong tin mừng thánh Luca. Vì vậy chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng trong giai đoạn này, Chúa Giêsu đang tràn ngập vinh quang vì những thành công, và danh tiếng Ngài đang lan rộng khắp miền Palestina. Nhưng nếu đọc kỹ chương này ta sẽ thấy không phải như thế. Mây xám đang kéo về vần vũ trên bầu trời của Ngài, hứa hẹn một trận cuồng phong ghê gớm.

Chương 9 khởi sự với việc Chúa Giêsu sai phái 12 tông đồ đi rao giảng, đầy quyền năng và uy tín. Vua Hêrôđê đã bắt đầu quan tâm đến Chúa Giêsu. Tiếp theo là các môn đệ trở về kể lại cho Ngài những việc làm sáng chói và những thành tựu vang dội. Đám đông theo Chúa đều được chữa lành mọi bệnh tật và được ăn no nê với vài cái bánh và mấy con cá nhỏ. Ong Phêrô tuyên xưng đức tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu, một đức tin có lẽ đã được hậu thuẫn bởi những phép lạ Ngài làm . Nhưng Chúa Giêsu cắt ngang lời tán dương của ông va loan báo rằng Ngài sẽ bị giới cầm quyền đền thờ ghét bỏ, chịu muôn vàn hình khổ và chịu chết. Ngài còn thêm: những ai muốn theo Ngài thì cũng sẽ phải chịu khổ như vậy, vác lấy thánh gía mình mà theo. Câu chuyện tin mừng của chương này là như vậy. Lời nói va việc làm lạ lùng của Chúa Giêsu lôi kéo một đám đông không đếm nổi. Có lẽ các môn đệ đã “đụng” phải một “người hùng”thời đại. Nhưng Chúa Giêsu đã làm cho không khí hồ hởi đó phải tắt ngúm khi Ngài báo trước những tai họa sắp tới. Riêng câu chuyện về việc hiển dung hôm nay cũng pha trộn hai thái độ: một vui, một buồn. Nhưng các tông đồ chỉ lưu tâm đến khía cạnh vui, rực rỡ, huy hoàng, nên họ đã bỏ lỡ mất toàn thể thực tại của việc theo Chúa mà Ngài muốn dậy. Họ đã trở nên những kẻ “mộng du”.

Ngài chọn ba môn đệ gần gũi nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Các ngài leo lên một ngọn núi cao, tương truyền là nơi gặp gỡ thần linh. Có lẽ Chúa muốn cho họ được nghe, nhìn rõ hơn về nhân cách của Ngài và học hỏi thêm theo Ngài có những hệ qủa ra sao ? Đòi hỏi những gì ? Nhưng đáng lý đây là những giây phút nghiêm trọng, họ phải toàn lực cảnh giác, tỉnh thức và sẵn sàng thì họ lại thiếp ngủ. Môn đệ Chúa Giêsu có thói quen”ngủ khì” vào những giây phút quan trọng. Xin qúi vị nhớ lại vào đêm Chúa ở trong vườn Cây Dầu lúc bị bắt, các môn đệ đã làm gì ? Họ đang ngon giấc điệp !

Nói cho thật tình, chúng ta cũng là những kẻ “mộng du”, nhắm mắt lại thiếp đi ngon lành đúng vào những thời điểm oái oăm và nếu không thức dậy kịp thời chúng ta cũng sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội quan trọng để rồi sẽ bị dẫn đến lầm đường, lạc lối. Không chịu tỉnh thức đối mặt với thực tại qủa là một nguy hiểm tai hại. Cứ xem các tông đồ là những kẻ mộng du. Họ theo Chúa Giêsu, nhưng vẫn giữ những giấc mơ riêng của mình về những thay đổi mà họ đòi hỏi Chúa Giêsu thực hiện. Một con người đầy quyền phép và năng lực như vậy lại không thể đổi thay tình thế qúa ư tồi tệ của đất nước ? Thế giới này cần được đổi mới. Người ta cần những mùa màng bội thu để nuôi thêm kẻ đói khát. Phải có trật tự kinh tế mới ngõ hầu người nghèo, kẻ cùng khổ không còn là nạn nhân cũa các tay cường hào ác bá…vân vân và vân vân.

Các tông đồ đã ngủ cả, khi Chúa Giêsu đàm đạo với ông Mô-sê và Elia. Họ đã bỏ lỡ nội dung của cuộc đàm đạo đó. Mà nội dung ấy lại tối quan trọng cho họ. Đó là về cuộc vượt qua của Ngài tại Giêrusalem. Đó là một cuộc xuất hành mới, xuất hành khỏi vòng tội lỗi đã bao đời kìm kẹp nhân loại. Nhưng xuất hành thế nào, họ đâu có biết ! Họ ngủ cả, cho nên họ đâu nắm được những bài học qúi gía và nghiêm trọng của biến cố này ! Hy sinh để được Chúa nâng đỡ bằng chính cuộc hy sinh của Ngài ! Vì vậy chẳng lạ gì khi Chúa phải vác thập tự thì không thấy tông đồ nào có mặt để vác giúp. Họ hoàn toàn ngỡ ngàng khi thánh gía xuất hiện. Nếu như họ đừng ngủ trên núi biến hình, nếu như họ đừng ngủ khi Chúa chịu cực hình ở Giêrusalem, nếu như họ ở lại trên ngọn đồi Can-vê , dương to đôi mắt, mở to đôi tai, luôn luôn tỉnh thức, sẳn sàng, họ đã không bỏ lỡ sự phục sinh của Ngài va một đời sống hoàn toàn mới thuộc vể họ. Lúc ấy chẳng bao giờ họ thiếp ngủ được nữa.

Lúc ấy, hào quang của biến cố hiển dung sẽ trở nên hào quang của Chúa phục sinh và chắc chắn họ cũng được chia sẻ hào quang đó. Họ sẽ được thay đổi và họ sẽ thay đổi được thế giới, để rồi kẻ đói được thêm bánh ăn, kẻ bất hạnh được đối xử tử tế, người nghèo được trân trọng. Mọi người bất kể là ai, trẻ, già, trai, gái, giầu có hay thiếu thốn, thông minh hay dốt nát thẩy được bình đẳng. Lúc ấy ánh sáng chói lọi từ Chúa Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta để chúng ta cũng được hiển dung với Chúa hay ít nhất thế giới có được những thay đổi như mọi lòng mong ước.

Mùa chay là mùa biến đổi tất cả chúng ta thành môn đệ thực sự của Chúa Giêsu. Chúng ta học mở to hai con mắt, từ bỏ mọi cuộc mộng du, ảo vọng, quan niệm sai lầm về mình, về vinh quang của mình, nhìn rõ hơn về ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày. Ngay trong thánh lễ hôm nay chúng ta cũng có thể là kẻ mộng du. Tìm chỗ tốt thả hồn lang thang, nói chuyện gẫu, vừa dự lễ vừa uống cà phê…, hay chúng ta cũng có thể được tiệc thánh Chúa chỉ đường dẫn lối tự biến đổi và biến đổi cả thế giới.

Bài đọc Cựu ước đưa chúng ta vào thời tổ phụ Abraham (St12,1…) Thiên Chúa hứa với ông Apram rằng Ông sẽ là cha một dân tộc to lớn. Abraham đã tin vào lời hứa ấy. Ông cùng với vợ là Sara đã bỏ mọi sự và đi đến một miền đất hoàn toàn xa lạ. Hai ông bà đã nên gương mẫu đức tin cho con cháu mai sau. Một đức tin vững chắc, sẵn lòng phó thác vào lời Thiên Chúa hứa ngay cả chẳng có gì làm bằng chứng để có thể tin cậy được. Lúc ấy họ chưa có con dù cả hai đã gìa,chưa có một mảnh đất cắm dùi, nhưng họ vẫn kiên định đi theo Chúa.

Kiên định như thế để được cái gì ? Chỉ vì lời hứa có con cháu nối dòng ! Vậy điều quan trọng nổi bật ở đây, không phải là đức tin của Abraham hay bất cứ ai khác, mà là Thiên Chúa. Ngài nói với Abraham : “Ta là Đức Chúa, đã đưa ngươi ra khỏi thành Ur của dân Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu”. Abraham đã hỏi lại những câu mà có lẻ tất cả chúng ta cũng muốn hỏi, tùy vào hoàn cảnh của mổi người : “Làm sao tôi biết được đất này làm sở hữu ? làm sao tôi biết được Chúa về phe với tôi trong những hòan cảnh khó khăn khi không có lấy một bằng chứng đáng tin cậy ? Làm sao tôi biết được lòng Chúa tín trung ? Làm sao tôi biết được mình không bị lừa dối ? Làm sao tôi biết được mình không lầm khi khăng khăng tin cậy vào Chúa trước những thực tế phũ phàng ? Làm sao và làm sao ???

Câu trả lời từ phía Thiên chúa là một nghi lễ giao ước cổ truyền (Gr.34,18-20). Khi làm giao ước, các sinh vật được cắt làm đôi. Mỗi bên ký giao ước phải bước đi qua giữa hai nửa, như muốn nói rằng, nếu tôi vi phạm, tôi sẽ bị xẻ làm đôi như những sinh vật này. Lễ nghi này là một giao ước rất cụ thể Chúa thực hiện với Abraham và với mỗi người chúng ta. Danh dự của Chúa đả được đặt ngang hàng với danh dự của chúng ta, một chi tiết quan trọng: Ông Abraham đã không đi qua phần kia của sinh vật. Ông đả không ký kết giao ước, chỉ có một mình Thiên Chúa ký giao ước ! Thường thì cả hai phải ký, cả hai phải đi qua giửa các con vật đã được xẻ làm đôi. Bởi vì cả hai phải tôn trọng giao ước. Ông Abraham đã không hứa, chỉ một mình Thiên Chúa hứa mà thôi. Nghĩa là Abraham và mỗi người chúng ta không phải ký giao ước mà chỉ phải phó thác cuộc đời mình, hiện tại cũng như tương lai, vào lòng trung tín của Thiên Chúa. Oi lòng thương xót Chúa thật nhiệm mầu. Nếu chúng ta phải ký giao ước thì chúng ta phải bị chặt làm đôi nhiều lần !

Vậy giao ước không chỉ nói về hiện tại, tương lai của mình. Mùa chay này nó còn gợi lên những việc làm đáng xấu hổ của quá khứ mỗi người. Chúng ta đã phản bội lòng trung tín của Thiên Chúa rất nhiều lần. Nhưng hảy can đảm đứng dậy. Vì câu chuyện hôm nay còn nói lên điều mà sau này Th.Phaolô khai triển rộng hơn trong Tân ước:”Bởi vì tôi biết chắc rằng dầu sự sống hay sự chết, dầu hiện tại hay tương lai, dầu chiều cao hay chiều sâu, thiên thần hay ma qủy hoặc bất cứ loài thọ tạo nào, không có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Kitô, Chúa chúng ta” (Rm.8,38-39).

Trong nghi lễ giao ước Thiên Chúa đảm nhận bổn phận thực thi lời hứa và cũng tự nhận lấy lời nguyền rủa (hãy để xảy ra cho tôi như vậy, nếu…). Chắc chắn Chúa se giải cứu chúng ta khỏi tội. Không phải vì chúng ta xứng đáng, nhưng chỉ vì Ngài đã hứa. Thiên Chúa là tác nhân chính trong qúa trình giải phóng, chứ không phải loài người. Ngài luôn trung tín, không bao giờ quên lời hứa. Thực tế chính Thiên Chúa tuyên bố Ngài mắc nợ chúng ta về lời hứa. Vì thế trong mùa chay này, chúng ta hãy chỗi dậy, ngẩng đầu lên, bởi lẽ ngày cứu rỗi đã đến gần. Mỗi người sẽ được sạch tội, được biến hình trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Amen.


G. Nguyễn Cao Luật op

Tượng Đài Ánh Sáng
Lc 9, 28b-36

Chặng dừng chân

Trong mùa chay, sau trình thuật Đức Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa, phụng vụ đọc tiếp trình thuật Đức Giêsu biến hình đổi dạng. Điều này có một ý nghĩa đặc biệt. Quả thế, trong Tin Mừng Lu-ca, các trình thuật ông Phê-rô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất và Đức Giêsu biến hình đổi dạng là một chặng dừng trong hành trình lên Giêrusalem: Thành phố này là đỉnh cao trong sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu, đồng thời cũng là nơi diễn ra cuộc cám dỗ cuối cùng, mà theo thánh Luca, sẽ xảy ra tại Đền Thờ. Điều này có nghĩa là cuộc hành trình lên Giêrusalem đầy những gian nan vất vả. Đức Giêsu lên Giêrusalem như một vị tư tế bước lên những bậc cấp của bàn thờ để tiến dâng hy lễ. Biến cố Đức Giêsu biến hình đổi dạng trùng hợp với chặng dừng này, trong đó Đức Giêsu hiện diện trước Chúa Cha, trong ánh sáng rực rỡ.

Chắc chắn vì lý do này mà tác giả đã nhấn mạnh, như trong nhiều biến cố quan trọng khác, rằng cuộc biến hình đổi dạng đã diễn ra khi “Đức Giêsu đang cầu nguyện”. Người ta có thể suy đoán được nội dung của lời cầu nguyện này. Đang khi những người bạn đồng hành với Đức Giêsu chìm trong giấc ngủ, cũng như sau này tại núi Cây Dầu, thì ông Mô-sê và ông Ê-li-a đàm đạo với Đức Giêsu “về cuộc Xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem”. Trước khi tiếp tục hành trình lên đồi Canvê, Đức Giêsu đã trải qua một khoảnh khắc tuyệt vời, trong đó ý nghĩa Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn được bày tỏ cách trọn vẹn. Nhờ vậy, Người sẵn sàng chấp nhận mầu nhiệm sắp xảy ra, tức là cái chết và cuộc phục sinh của Người.

Hôm nay, ba môn đệ được nhìn thấy khuôn mặt chói ngời ánh sáng của Đức Giêsu. Ít lâu sau, cũng ba ông được nhìn thấy khuôn mặt khác của Đức Giêsu, khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi và máu. Người ta sẽ khạc nhổ vào khuôn mặt ấy, và đội lên trên đó một mạo gai. Khi bị treo trên thập giá, Đức Giêsu sẽ kêu lên: “Lạy TC, lạy Thiên Chúa của con, sao ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46), như thể TC đã bỏ rơi Người. Còn hôm nay, trong biến cố này, chính TC nói về Người: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9,35)

Nhỏ bé trước tình yêu

Đức Giêsu cùng với ba môn đệ đi cầu nguyện. Ba người môn đệ này là những người thân tín nhất của Đức Giêsu trong Nhóm 12. Biến cố này xảy ra tám ngày sau khi ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa.

Phản ứng của Đức Giêsu đã phần nào xô đổ dự kiến của các môn đệ: câu chuyện kết thúc quá xấu và Đức Giêsu báo cho các ông biết bí mật về cái chết của Người. Cái chết của Đức Giêsu phá vỡ mọi chương trình hành động của các ông. Người tuyên bố : “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, … bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Đức Giêsu luôn làm cho người ta bối rối, ngay chính lúc người ta tưởng đã hiểu được Người.

Vậy, Đức Giêsu ra đi cùng với các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Các ông mệt mỏi nên ngủ thiếp đi, trong khi Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Thật là không dễ dàng chút nào khi phải sống chung với một Đấng Thánh, nhất là khi người đó lại là Đức Giêsu. Tinh thần thì nhanh nhẹn, nhưng xác thịt thì nặng nề …

Thình lình, niềm vui ùa tới, xóa tan điềm xấu trước đó. Đức Giêsu chìm trong ánh sáng, các ông chưa từng thấy bao giờ. Các ông Môsê và Êlia đang đàm đạo với Người: toàn bộ lời Thiên Chúa hứa với dân Ít-ra-en nay được thực hiện trong hạnh phúc khôn tả, như thể mục đích đã đạt được.

Phấn khích trước niềm vui lớn lao, ông Phê-rô chẳng còn lo lắng gì nữa. Ông muốn nắm lấy và giữ chặt món quà Thiên Chúa tặng ban. Ông đã lên tiếng nói thay vì lắng nghe Thiên Chúa, đấng đang đưa ông vào trong đám mây, và xa hơn, đưa ông đến tiếp xúc Thiên Chúa. Thế nhưng sau đó, nỗi sợ hãi đã xâm chiếm ông và hai người bạn. Các ông không còn biết gì nữa. Đây không phải là nỗi sợ hãi so những sức mạnh ác độc gây nên, nhưng là nỗi sợ hãi của con người trước mặc khải chói ngời của Thiên Chúa. Con người cảm thấy nhỏ bé và tầm thường trước tình yêu Thiên Chúa, tình yêu làm biến đổi cả thân xác. “Đây là Con Ta, người được ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người !”

Sau đó, Đức Giêsu còn lại một mình, trở lại tình trạng bình thường như các ông vẫn thấy thường ngày, nhưng giờ đây, các ông đã hiểu rõ hơn sự sâu xa tiềm ẩn nơi con người ấy.

Như thế, Thiên Chúa Cha đã bày tỏ lòng ưu ái dành cho các ông cũng là cho mọi người: trong cuộc sống bình thường và gian nan của nhân loại, con người vẫn có thể nhận được ánh sáng rực rỡ, tình yêu mãnh liệt và bình an trong Đức Giêsu.

Cuối cùng, trong niềm tin và hy vọng, Đức Giêsu muốn dẫn đưa loài người đến sự biến đổi tự bên trong, một món quà hôm nay mới tỏ hiện một phần, và ngày sau được tỏ hiện trọn vẹn.

Cuộc hiển hiện mới

Mặc khải tại núi Xi-nai… Đức Giêsu biến đổi hình dạng: hai biến cố này song đối với nhau. Biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng là một xác nhận về giao ước mới: dân chúng đi theo Đức Giêsu (ở đây là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, đại diện cho Nhóm Mười Hai, tức là toàn thể các chi tộc Ítraen), đó là dân Ít-ra-en đích thực của Thiên Chúa.

Trong biến cố này, tất cả các dấu chỉ về Thiên Chúa được bày tỏ: đám mây, ngọn núi, màu trắng … đó là cuộc gặp gỡ giữa Đấng Sáng tạo và thụ tạo của Người, cuộc gặp gỡ giữa trời và đất. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ này còn có một ý nghĩa sâu xa hơn: hội ngộ giữa Chúa Cha và Chúa Con.

Trong biến cố này, Đức Giêsu không lên tiếng nói. Người ở trong vinh quang. Trước đây vinh quang này đã bao phủ hai vị đại diện cho lòng tin của Ít-ra-en, đó là các ông Mô-sê và Ê-li-a. Giờ đây, vinh quang ấy tập trung nơi Đức Giêsu: hai vị ngôn sứ, trước đây là tác viên chính, giờ đây chỉ là người chứng kiến.

Đang khi đó, các môn đệ của Đức Giêsu thiếp ngủ. Trong thực tế, các ông ở bên ngoài những gì đang xảy ra và những gì vượt trên các ông. Vì các ông sống trong giấc mơ của mình, trong khát vọng của mình: chúng ta hãy định cư tại đây, hãy giữ chặt lấy Thiên Chúa. Thế nhưng, ông Phê-rô “không biết mình đang nói gì.”

Về phần mình, Đức Giêsu vẫn im lặng. Nhưng tiếng nói bí mật đã tuyên bố: “Hãy vâng nghe lời Người.” Có nghĩa là: Hãy đón nhận mầu nhiệm! Hãy nghe theo Đấng mở ra con đường.

“Chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu.” Chỉ còn lại một con người. Qua con người này, nhân loại phải tiếp tục nhận ra vinh quang của Thiên Chúa.

Được tình yêu bao phủ

Biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng đưa chúng ta vào trung tâm của mầu nhiệm Đức Giêsu. Người thuộc dòng dõi những tôi tớ của Thiên Chúa, đã được các ngôn sứ của Thiên Chúa báo trước. Như các tôi tớ khác, Người cũng bị loài người ruồng bỏ và chịu đau khổ – đúng ra là hơn những người khác. Tuy nhiên, Người là Con chí ái của Chúa Cha, và chính Người đến làm cho Hội Thánh được khai sinh.

Với biến cố này, chúng ta được mời gọi trở nên giống Chúa Giêsu: những khuôn mặt âu lo và đau đớn, những khuôn mặt buồn phiền và thất vọng được kêu mời biến đổi thành những khuôn mặt rạng rỡ, vui tươi.

Thánh Phaolô viết: “Quê hương chúng ta ở trên trời … Đức Giêsu Kitô có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21). Từ nay chúng ta là anh em với Đức Giêsu, cùng được bao phủ trong một tình yêu, tình yêu đã bao phủ Đức Giêsu tại đồi Can-vê cũng như khi Người biến hình đổi dạng, tình yêu đồng hành với chúng ta trong mọi thử thách của cuộc đời.

* * *

Ai có thể chỉ cho tôi

thấy khuôn mặt của Thiên Chúa

mà tôi hằng khát khao?

Tìm đâu ra khuôn mặt này,

khuôn mặt không chỗ ở

và không có tuổi tác.

Đôi mắt của trẻ thơ

và ánh sáng lấp lánh của chòm sao

cũng như dòng suối tinh ròng,

và những nét kỳ diệu khó hiểu của thời gian

chỉ cho tôi thấy những bóng mờ

của khuôn mặt này.

Chỉ một người có thể cho tôi thấy được

khuôn mặt của Thiên Chúa,

đó là nụ cười của một vị thánh trong lần ra đi cuối cùng.

theo J. Vuaillat, 1975


Lm Giuse Đặng Chí San

ÁNH SÁNG TRÊN ĐƯỜNG DÀI MỎI MỆT
Mc 9, 28b

Thúy Kiều ơi, ghê quá, những bơ vơ thân gái dặm trường, những cô liêu tàn bạo giữa đen rầm ngàn mây bạc phau cầu giá, những bát ngát lạc loài khủng khiếp trong dặm khuya mù khơi ngất tạnh. Chao ôi cuộc lữ kiếp người ! Cuộc lữ cũng là cô lữ ! Hun hút đường dài ! Vó câu khấp khểnh ! Vó người thì cà rịch cà tang, cà nhỏng cà nhơ, cà lơ thất thểu. Lưu linh lưu địa mãi trên mảnh đất xa lạ này để làm gì, để về đâu ? Ai là kẻ cảm thông ? Ai là người đồng điệu ? Và tại sao hành trình diệu vợi và gian khó này, rồi ra, cuối cùng, cũng dẫn về NỖI CHẾT ?!

Mỗi người, giàu hay nghèo, đẹp hay xấu, một khi đến cuộc đời này đều được (bị?) trao cho một cây THẬP TỰ. Cây thập tự kiếp người ! cây thập tự gia đình người yêu bố mẹ vợ chồng con cái, cây thập tự nhân cách, tăm tiếng, danh dự giữa trăm vạn thứ nhí nhố lũ người sống với nhau, cây thập tự của đủ mọi vấn đề cà chớn cà chua cà khùng cà giật. Biết bỏ cho ai ? biết ném về đâu cho rảnh nợ ? Cứ phải khư khư vác è cổ trên vai. Cứ phải khư khư gập người kéo lê kéo lết. Vác cây thập tự phận người. Vác phận trâu bò gà ngựa kiếp người ! Vác mãi tưởng rồi cũng được kiếm chác chút gì, nào ngờ vẫn chỉ để về Đồi Sọ, treo thây mình lên, gục xuống mênh mông nỗi chết !

Bác Hai Giêsu ơi ! Bác là Ông Thiên Chúa ! Bác đến trần gian này, sao bác không hóa giải cái vèo cái phụp cho xong ? Bác làm vài phép lạ đi ! Bác xì ra vài “miếng võ thượng thừa” đi ! Thế là tụi tui hí húm nhẹ tênh, trên vai không còn gánh nặng ! Đàng này, hoàn toàn không. Bác cứ như chúng tôi, lặng lẽ lúi húi mà đi, lặng lẽ è cổ để cũng vác cây thập tự tổ bà kền mà tới ! Bác là Thiên Chúa, mà sao cũng dúm dó ốm o so bại đến thế ! Bác là Thiên Chúa, mà sao cũng liêu xiêu vẹo vọ khốn khổ phận người đến thế ! Bác còn nói rằng : “Vác thập giá đời mình mà theo Tui”! Chao ôi ! vác thập giá đời mình mà theo Giêsu về Đồi Sọ ! Lắm khi chúng tôi chịu không nổi nữa ! Nhìn Bác, chúng tôi càng thấy oải hơn thôi !

Thì đây, hôm nay, để trợ đỡ cho sự hời hợt của chúng tôi, để cho thấy Huyền Nhiệm dấu sâu ẩn kín trong tâm của Bác, Bác đành phải toả ra một chút ánh sáng nhiệm mầu ! Bác là nơi dồn tụ của biến cố vui buồn hợp tan lịch sử khi Moise và Elia đứng kề bên ! Bác là Ý nghĩa và Giá trị của hành trình cô lữ trần gian khi Ánh Sáng toả ngời ngời xuyên tà áo bụi đường tơi tả. Nhưng dù sao, thì Bác vẫn mãi là người đồng hành, đồng phận, khi Cha vẫn cất tiếng nói : “Đây là Con yêu dấu của Ta, con đẹp lòng Ta mọi đàng”, nghĩa là, để trở thành Đấng Cứu Độ, Bác vẫn phải thi hành thánh ý Chúa Cha, làm người tôi trung đau khổ của Giavê. Bác phải lịch nghiệm cho hết hành trình đau khổ, uống cho cạn chén đắng phận người. Và chỉ như thế, chúng tôi mới có thể GIÁC NGỘ được rằng, từng tiếng nấc, từng giọt máu, và từng giọt nước mắt mặn chát trần gian, tất cả qua Bác, đều trở thành Mầu Nhiệm, đều có thể chan hòa Ánh Phục Sinh.

Quả là chúng tôi vẫn chờ mong một Giêsu rực rỡ, Giêsu vinh vang, Giêsu phép tắc giải quyết mọi sự cái vèo, cái rụp. Chúng tôi muốn trốn chạy thân phận của mình. Chúng tôi muốn giải quyết đời mình tưng tưng trên bề mặt. Chúng tôi nào biết được CHƯƠNG TRÌNH TÌNH YÊU CỨU ĐỘ của người Tôi Trung Thiên Chúa chỉ là lặn xuống, chìm xuống, mang vác Cây Thập Tự Đời trên vai, để đồng hành, đồng phận với những kiếp người cô lữ ! Chúng tôi rất ít khi mở rộng tâm hồn để thấy, để đón nhận và thể hiện được giá trị của CẢM THÔNG, của YÊU THƯƠNG, vốn chỉ “mạc khải” ra cách nhiệm lạ trong đói khát, mệt mỏi, cô liêu, đau khổ.

Thôi thì, trong những giây phút tịch mịch lặng thầm trên núi thẳm hồn mình, trong những giây phút mà lời cầu nguyện hiệp nhất đưa chúng tôi chìm vào trong Huyền Nhiệm Giêsu, có lẽ, đôi khi, chúng tôi cũng sẽ THẤY ĐƯỢC VINH QUANG của CON NGƯỜI GIÊSU và cũng là VINH QUANG CỦA CHÍNH CHÚNG TÔI, trong Giêsu Ngôi Lời Nhập Thể. Thế nhưng, điều quan trọng hơn gấp bội phần, vẫn là xuống núi. Xuống núi và dám đi lên Đồi Sọ. Xuống núi và dám gánh vác thân phận của mình như ý nghĩa và giá trị của Tình yêu, của Cảm thông, của nâng niu thương mến trao Đời, trao nhau. Và tất cả hành trình gập ghềnh khúc khuỷu đó, ngay cả trên Đồi Sọ phận người ấy, Giêsu vẫn toả một Ánh Quang Thầm Lặng : Ánh Quang Tình Yêu Xoá Mình của Thiên Chúa.


Giacôbê Phạm Văn Phượng op

Đau khổ và vinh quang
Lc 9, 28b-36

Trong truyền thống Kinh Thánh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Vì thế, chúng ta thấy hầu hết những mặc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Chẳng hạn, ông Mô-sê đã được kêu mời lên núi Si-nai để gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho dân riêng, ông Ê-li-a đã dòng dã 40 đêm ngày lên núi Hô-rép để gặp Chúa, ông Ê-li-sa cũng lên núi Các-men để gặp Chúa, và Chúa Giê-su cũng khởi sự đời sống công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong 3 năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giê-su cũng đưa 3 môn đệ thân tín nhất lên núi Ta-bo để tỏ vinh quang của Ngài. Từ trên núi cao, các ông đã nhận ra được con người và sứ mạng của Chúa, các ông thấy vinh quang của Ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng người ta không lên núi cao để ở lại đó mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giê-su, con đường đó chính là cái chết đang chờ đợi Ngài, và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giê-su cũng muốn đưa các môn đệ thân tín trở lại với cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối, nói tắt là đau khổ, đang chờ đợi trước mắt.

Trong hành trình đức tin, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa : núi cao của thánh lễ, của khung cảnh đạo đức; núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay... Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thế là tiếp tục con đường Chúa Giê-su đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành. Sống như thế là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Chúng ta cũng nhận ra một điều khác nữa, đó là cuộc sống ở trần gian này lúc nào cũng có đau khổ. Vậy điều quan trọng không phải là tránh đau khổ mà chính là cách thức chúng ta đáp lại chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Nếu chúng ta chán nản, buông xuôi, thất vọng thì đau khổ càng đè nặng trên chúng ta, ngược lại, nếu chúng ta bắt chước Chúa Giê-su can đảm cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ biến chúng thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống. Bởi vì chính những đau khổ ấy sẽ biến đổi chúng ta thành người tốt hơn, nhiệt tình hơn, khiêm tốn hơn, biết từ tâm hơn và biết thông cảm kẻ khác hơn. Để sống được như thế, đòi hỏi chúng ta phải có đức tin, bởi vì đức tin như con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang.

Thực vậy, đức tin giúp chúng ta sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng hôm nay, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hằng ngày.

Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là “khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ : Thiên Chúa, Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.

Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp thầy gặp thuốc để chữa lành. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng Ngài lại mở ra cửa sổ khi cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời.

Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.


Tađêô Hồ Vĩnh Thịnh op

Thưa Thày Chúng Con Ở Đây Thật Là Hay
Lc 9, 28b-36

Con người được dựng nên để thông phần vào tình yêu và vinh quang Thiên Chúa. Chính vì vậy tình yêu và vinh quang này là niềm khao khát mong đợi của mọi người. Thánh Augustinô đã tâm sự : “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và chúng con vẫn còn khắc khoải bao lâu chưa được nghỉ ngơi trong Chúa”. Bài tin mừng hôm nay kể lại cuộc hiển dung của Chúa. Đây là lần đầu tiên các môn đệ được chiêm ngưỡng thân xác phục sinh của Đức Giêsu. Cuộc hiển dung này được ông Môsê và ông Êlia, hai người phát ngôn của Lề Luật và ngôn sứ, và cũng là hai nhân vật tiêu biểu của Cựu Ước làm chứng.

Như xưa kia, Thiên Chúa đã đưa hai ông Môsê và ông Êlia lên núi để trở thành chứng nhân cho vinh quang Thiên Chúa, thì hôm nay, các tông đồ cũng được Chúa Giêsu dẫn lên núi và biểu lộ vinh quang cho họ. Được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa lòng trí các tông đồ ngất ngây. Phêrô thưa với Chúa nhưng ông không biết mình đang nói gì. Lời nói của ông là phản ứng của vô thức. Thế nhưng chính phản ứng này lại cho ta thấy sức hấp dẫn của vinh quang Thiên Chúa : “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay”. Được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, các tông đồ không còn muốn gì hơn là được luôn chiêm ngưỡng vinh quang đó. Thế nhưng, thời gian chưa cho phép. Các ông còn phải xuống núi để tiếp tục rong ruổi và làm chứng cho vinh quang của Thầy.

Cuộc hiển dung cho các tông đồ thấy trước thân xác phục sinh của Chúa Giêsu. Đó cũng sẽ là thân xác chúng ta sau cuộc lữ hành trần thế này. Thánh Phao lô đã khuyên chúng ta qua các tín hữu Philipphê rằng : “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3, 20-21). Do đó chúng ta có quyền hy vọng.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Con người ngày nay đang đánh mất dần những giá trị căn bản và thiêng liêng. Tiền tài, danh vọng, quyền lực là những thứ con người đang hướng tới ; trong khi những giá trị nhân bản, đạo đức và tinh thần đang bị lu mờ. Con người lấy sự hưởng thụ ở trần gian này làm mục đích thay vì hướng về những giá trị đích thật trên quê trời. Xin Chúa hướng dẫn để chúng con biết xếp đặt lại các bậc thang giá trị và can đảm chọn lựa những gì mang lại sự bảo đảm cho cuộc sống mai này.

Giờ đây, chúng con đang quây quần trước Thánh Thể. Chúng con tin rằng Chúa đã dẫn chúng con đến đây như xưa kia đã dẫn các môn đệ lên núi. Sự hiện diện của chúng con cũng như sự hiện diện của các tông đồ. Chúng con đang chiêm ngưỡng Thánh Thể Chúa. Xin cho mỗi người chúng con ý thức sâu xa sự hiện diện này. Xin Ngài chạm đến chúng con để chúng con không còn lo nghĩ gì khác nhưng được chìm ngập trong vinh quang Ngài. Xin Chúa tuôn đổ đầy tràn tình yêu trên tâm hồn chúng con để lát nữa đây chúng con cũng “xuống núi”. Chúng con sẽ trở thành những chứng nhân cho Ngài ngay trong gia đình, trong cộng đoàn và trong môi trường sống của chúng con. Amen.


Đỗ Lực op

ÐỒNG HÌNH HAY BIẾN HÌNH
(Lc 9:28b-36)

Mùa Chay là cơ hội giúp tín hữu cố gắng đi sâu vào mầu nhiệm Thánh giá và Phục sinh. Thế nhưng, đó cũng là dịp truyền thông Hoa kỳ tung ra cuốn phim tài liệu “Ngôi Mộ Thất Lạc của Ðức Giêsu.” Mục đích phủ nhận sự kiện Phục sinh và xóa bỏ niềm tin Kitô trong lòng hai tỉ tín hữu trên thế giới. Phải chăng đó là lần đầu tiên kỹ nghệ phim ảnh hợp tác với khảo cổ học lũng đoạn và phá hủy các giáo hội Kitô ? Nếu sự thật đúng như họ công bố, chẳng còn gì để nói về biến cố Hiển dung hôm nay. Ánh sáng Hiển dung chỉ có ý nghĩa và giá trị khi dẫn đến ánh sáng Phục sinh mà thôi.

Sự thật vẫn là sự thật. Các nhà khảo cổ Do thái hoàn toàn bác bỏ tài liệu khảo cổ đó, vì chứng cứ mâu thuẫn. Sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh đã được năm trình thuật dẫn chứng nghiêm nhặt trong Tân Ước về những lần Chúa hiện ra: bốn trình thuật trong Tin Mừng và một do thánh Phaolô. Các môn đệ đã làm chứng và hy sinh mạng sống vì Chúa Phục sinh.[i]

Cách đây hơn hai ngàn năm, các tông đồ đã trải qua những thách đố lớn lao khi Ðức Giêsu sửa soạn bước vào những ngày đen tối nhất cuộc đời. Mấy ai vững bước trong đêm trường ?! Bởi thế, Ðức Giêsu muốn dẫn các môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao để chứng kiến tất cả vinh quang và cảm nghiệm mối thâm tình giữa Chúa Cha và Chúa Con. Nhờ đó, họ thấy được tất cả nền tảng niềm hy vọng đã đặt nơi Ðức Giêsu.

Còn hơn thế, họ được phép đi vào tương quan thâm sâu giữa Cha Con. Quả thực, họ như lạc vào trong đám mây, tức là sống giữa sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ đã ra khỏi môi trường sống bình thường của trần thế. Họ lọt vào thế giới Thiên Chúa. Ðó là lý do tại sao “các ông hoảng sợ.” (Lc 9:34) Mới nhìn thấy “vinh quang của Ðức Giêsu,” (Lc 9:32) chiếu tỏa rực rỡ giữa hai ông Môsê và Êlia, ông Phêrô đã lạc giọng và không kiểm soát nổi mình. Vậy khi các ông chiêm ngắm và sống mầu nhiệm Thiên Chúa trên đỉnh non cao, bút mực nào có thể diễn tả ?

Khi được đưa vào cõi Thiên Chúa, các ông mới thấy nguyên hình Ðức Giêsu. Ánh sáng lúc này phải tăng tới độ vô cùng mới diễn tả được vinh quang và địa vị Con Thiên Chúa của Ðức Giêsu. Lúc này không phải Ðức Giêsu tự làm chứng nữa, nhưng chính Chúa Cha xác nhận địa vị cao cả vô cùng của Chúa Con. Không có lời chứng nào chính xác và giá trị hơn ! Tình yêu Chúa Cha mãnh liệt đến độ Chúa Con đã “lọt mắt xanh” Chúa Cha, được tuyển chọn để trở thành Thiên Sai giữa trần thế.

Như thế, khi xuống trần gian, Ðức Giêsu đã được Chúa Cha tin tưởng tuyệt đối, đến nỗi trở thành mẫu mực và phát ngôn chính thức của Chúa Cha. Tin tưởng tuyệt đối đến nỗi Chúa Cha phải phán với các môn đệ : “Hãy vâng nghe lời Người !” (Lc 9:35) Con tim Chúa cũng có cùng một nhịp đập khi nghe tiếng nói tương tự của Ðức Mẹ trong tiệc cưới Cana : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo !” (Ga 2:5)

Uy thế Chúa Giêsu chưa bao giờ lên cao như vậy. Nếu muốn lên cao như Chúa, các môn đệ cũng phải biến hình nhờ sức mạnh thần khí và sự sống Thiên Chúa, tức là Lời Chúa (x. Ga 6:63) . Ðó là lý do tại sao Chúa Cha truyền cho các môn đệ phải vâng giữ Lời Chúa. Lời Chúa sẽ thực hiện cuộc biến đổi sâu xa và toàn diện nơi những ai thực tâm sống Lời Chúa. Cuộc biến đổi này cũng giống như việc Chúa biến hình hôm xưa.

Cuộc biến hình này mau qua. Cuộc biến hình và hiển vinh miên viễn chỉ đến qua những đau khổ của Ðức Giêsu, một đề tài được trao đổi giữa Chúa và hai vị khách từ thiên giới (Lc 9:31). “Hình như các thánh sử cũng cho thấy sự liên kết giữa những đau khổ và vinh quang của Ðức Kitô, vì cuộc Biến hình được đặt trong bối cảnh lời tiên báo đầu tiên về cuộc Thương khó, cái chết và sự Phục Sinh (Mt 16:21-23; Mc 8:31-33; Lc 9:22).”[ii] Nếu cuộc Thương khó và cái chết chứng tỏ Ðức Kitô đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang” (Pl 2:7) Thiên Chúa, thì biến cố Hiển dung và Phục Sinh mạc khải Ðức Giêsu là Ðức Chúa. Người đến thực hiện những Lời Kinh Thánh (x. Lc 24:44-48) và lời các tiên tri về Ðấng Thiên Sai, Ðầy Tớ Ðức Giavê và Con Người. Qua Ðức Giêsu, Thiên Chúa thực hiện những điều đã hứa và đến ở giữa dân Người. Ðồng thời, biến cố Hiển dung xác nhận lời tuyên xưng đức tin của Phêrô tại Cesarea Philiphê (Mt 16:16). Ánh sáng Hiển dung còn mạc khải Con Người Ðức Giêsu có cùng một vinh quang với Thiên Chúa Cha.

Muốn chung hưởng vinh quang với Ðức Giêsu, Kitô hữu phải gặp gỡ Người trong bí tích và tham dự vào mầu nhiệm sự chết và Phục sinh của Người, một mầu nhiệm được báo trước trong biến cố Hiển dung hôm nay. Ngay bây giờ, Kitô hữu phải luôn luôn và không ngừng để Chúa Thánh Linh tác động (2Cr 3:18) hầu hoàn toàn biến hình, đợi ngày phục sinh vinh quang của toàn thể vũ trụ khi Chúa đến lần thứ hai. Trước khi vui hưởng vinh quang cuối cùng, và được biến hình với Ðức Kitô, họ phải nên đồng hình (đồng dạng) với Người. Dù sống trong một thế giới đầy đau khổ và thập giá, Kitô hữu vẫn hy vọng và hoàn toàn xác tín Chúa Thánh Thần đang hoạt động mãnh liệt để chiến thắng Satan và đạt vinh quang cuối cùng trong cuộc biến hình hoàn toàn.[iii]

Chính vì thế, đúng như thánh Phaolô nói (Rm 3:35), không gì có thể làm cho Kitô hữu tuyệt vọng. Tuy không phải là tông đồ được lên núi với Chúa, nhưng được “một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ,” (Cv 22:6) Thánh nhân đã biến hình hoàn toàn. Một cuộc lột xác tận bên trong và toàn thể cuộc sống ! Từ đó, mặc dù phải ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, ông vẫn luôn rao giảng Tin Mừng. Ngay cả lúc ngồi tù, ông vẫn hô hào mọi người : “Vui lên anh em !” (Pl 4:4) Lúc trước, suốt ngày mặt ông đằng đằng sát khí với các Kitô hữu. Từ khi trở nên đồng hình (đồng dạng) với Chúa Kitô, ông đã tìm thấy niềm vui và bình an thực sự. Lý do vì ông đã biết lắng nghe và vâng lời Con Chí Ái của Chúa Cha.

Có nhiều môn đệ chưa đau khổ bằng thánh Phaolô, nhưng cuộc đời đầy ắp u buồn. Nhìn lại quá khứ, tôi thấy những mảnh đời không đồng hình (đồng dạng) với Chúa Kitô. Bởi đó, tôi không thể biến hình với Thày Chí Thánh. Ánh sáng Hiển dung chưa chiếm trọn con tim, làm sao con mắt nhìn thấy Thiên Chúa đang hiện diện nơi từng anh em ? Niềm tin non nớt chỉ sinh ra cay đắng. Nếu có đức tin bằng hạt cải, tôi đã có thể nhìn thấy hồng ân trong tất cả. Nếu tôi lên núi với Người, cuộc đời đã tràn ngập niềm vui. Vì ngại lên núi biến hình với Chúa, tôi đã không thể vận dụng mọi lẽ thuận nghịch trong cuộc sống và không vượt qua được đêm tối trần gian.

Ngày xưa, đứng trước thực tế đầy nguy hiểm và éo le, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ thân tín nhất lên núi chiêm ngưỡng Chúa biến hình. Chắc chắn khi được đám mây bao phủ, các ông đã cùng “biến hình” với Chúa. Trước và sau cuộc biến hình này, Chúa đều kêu gọi các môn đệ hãy đồng hình. Nếu không biến hình với Chúa, liệu các ông có đồng hình được không ? Nhưng nếu không đồng hình (đồng dạng) với Chúa, các ông có thể biến hình trong ánh sáng Phục sinh không ? Biến hình hay đồng hình, sự kiện nào xảy ra trước ?

Thực tế, Chúa chỉ chọn ba tông đồ lên núi mà thôi. Như thế chỉ có một phần tư trong số tông đồ đoàn được may mắn chiêm ngưỡng Chúa Hiển dung. Ba phần tư còn lại cũng phải vác thập giá theo Thày và chia sẻ chén đắng suốt cuộc đời. Tại sao những ông này không được vinh dự và hạnh phúc như ba vị kia ? Họ sẽ lấy sức mạnh ở đâu để trung thành với Thày tới cùng ?

Tin Mừng nói rõ Chúa hiển dung đang lúc cầu nguyện (x. Lc 9:29). Trong cầu nguyện Chúa đã hiệp thông sâu xa với Chúa Cha. Những biến đổi bên ngoài dung mạo và y phục diễn tả phần nào cuộc hiệp thông đó. Chẳng lẽ các tông đồ không thay đổi gì sau bao lần chứng kiến và cùng cầu nguyện với Chúa ? Chính trong lời cầu nguyện, các ông đã được biến hình sâu xa để có thể đồng hình (đồng dạng) với Chúa trong cuộc đời. Bởi thế, Chúa mới dạy chúng ta phải cầu nguyện không ngừng (x.Lc 21:36). Nhờ cầu nguyện, chúng ta biến hình giống như Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con lên núi với Chúa. Giữa cuộc sống đầy tăm tối hôm nay, xin Chúa ban cho con ngày càng nên đồng hình với Con Chúa, để con có thể biến hình trong vinh quang Phục sinh. Amen.

 

[i] Tgm Bruno Forte, Zenit 01.03.2007.

[ii] New Catholic Encyclopedia 2003:154.

[iii] x. ibid.


Lm. Jude Siciliano, OP
(Anh em học viện Đaminh)

 HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI
Lc 9: 28b-36

 Cùng với thánh Phêrô, thánh Giacôbê và thánh Gioan, hôm nay chúng ta cũng nhập đoàn với Chúa Giêsu đi lên núi để cầu nguyện. thường thì trong tin mừng Luca mỗi câu chuyện đều bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Đó cũng là cách thánh Luca cho chúng ta biết sẽ có điều quan trọng diễn ra đối với các tông đồ cũng như cho chúng ta. Vì thế chúng ta cũng hãy hành xử như các tông đồ; chúng ta bị đánh thức và chúng ta lắng nghe. Cảnh tượng bỗng chố xảy ra: hai nhân vật vĩ đại nhất của lịch sử Israen hiện ra đàm đạo với đức Giêsu về những gì đang chờ Người ở Giêrusalem. Các ngài không ở đó để bàn bạc về những vấn đề tôn giáo thường ngày. Đó không phải là lúc để thảo luận hay cứu xét nhưng là lúc để suy nghĩ nghiêm túc về những gì sắp xảy đến. Môisê và Êlia ở đó cũng giống như hai thiên thần trong vườn Giệt Sêmani, để giúp đức Giêsu đối diện với những gì sắp xả đến cho Người. Thánh Luca mô tả đó như biến có xuất hành của ngài.

 Với những ai đọc Kinh Thánh thì hai từ Xuất Hành nhắc nhớ về biến cố quan trọng trong lịch sử của dân Do-thái. Đó là lúc Đức Chúa dẫn dắt dân đang chịu cảnh nô lệ đến với tự do. Đó là hành trình dẫn họ băng qua sa mạc để có được những hiểu biết sơ khởi về Thiên Chúa. Thiên Chúa là sức mạnh của họ khi họ yếu đuối. Ngài cho họ thức ăn khi đói và ban nước uống khi họ khát. Sau khi cố gắng vượt qua hành trình ấy, họ được vào Đất Hứa.

Đức Chúa giải thoát họ khỏi ách nô lệ không phải vì họ hùng mạnh, không phải vì họ xứng đáng, cũng chẳng phải do mẫu gương tuyệt vời về lòng tin của họ - nhưng là vì sáng kiến của Thiên Chúa. Qua kinh nghiệm sống trong sa mạc, dân đã có thể biết một Thiên Chúa, Đấng đã mạc khải tên mình cho Môisê: “Ta là Đấng Tự Hữu.” Nghĩa là “Ta sẽ luôn ở với các ngươi.” Nên không lạ gì bài Tin Mừng hôm nay với âm vang của cuộc Xuất Hành được chọn cho Chúa Nhật Mùa Chay này. Trong đó có một lời hứa cho chúng ta, khi chúng ta suy niệm về như cầu cần được giải phóng của chúng ta. Thiên Chúa Đấng đã dẫn dắt Israen ra khỏi cảnh nô lệ cũng sẽ giải thoát chúng ta khi chúng ta ý thức hơn đến sự cần thiết phải hoán cải trong Mùa Chay. Điều đó cả Israen và chúng ta không tự mình làm được, nhưng Thiên Chúa sẽ thực hiện.

 Xin đừng nhìn cuộc hành trình của dân Israen cáh lảng mạn khi chúng ta đứng ở một khoảng cách an toàn cách họ cả hàng ngàn năm. Dữ kiện Kinh Thánh cho chúng ta biết về những cám dỗ thường ngày của họ, những lần bất trung với Thiên Chúa, những phàn nàn chống đối Môisê và Đức Chúa. Họ ngày càng chán ngán cuộc hành trình của mình, với những đấu tranh thường nhật và nỗi bấp bênh. Mỗi ngày qua đi họ lại cảm thấy lo sợ, “liệu ngày mai chúng ta có bị lạc đường và bị diệt vong trong sa mạc hay không?” Cám dỗ bỏ cuộc trở nên rất mạnh mẽ và việc trở lại chính nơi mà họ làm nô lệ xem ra lại hợp lý. Ít nhất ở đó họ cũng có một chút thức ăn và biết được mỗi ngày họ sẽ được gì. Họ biết được công việc thường ngày và biết họ phải làm gì. Còn ở trong sa mạc không có sự bảo đảm đó, nhưng chỉ có sự bấp bênh, nguy hiểm và vất vả. Nhưng chính trong sa mạc cùng với tất cả những khốn khổ khốn nạn ấy họ mới khám phá ra rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa mà Người đã ký kết với họ. “Ta là Đấng sẽ ở với các ngươi luôn mãi.”

 Chính lối suy nghĩ và hành xử cũ đã cho họ sự thoải mái, ngay cả khi họ phạm tội và giới hạn. Còn cuộc hành trình đòi họ phải đẩy lùi những lối nghĩ và cách làm cũ ấy để sống can đảm và thích nghi mỗi ngày. Đôi khi lối nghĩ và hành xử cũ vẫn cám dỗ người ta ngừng cố gắng, dễ đầu hàng và trở về đường lối cũ.

 Thế nhưng khoảng cách ngàn năm của chúng ta thực ra cũng không phải là an toàn bởi vì chúng ta, cá nhân cũng như cộng đoàn, cũng lại được mời gọi để thực hiện một hành trình sa mạc. Giống như tổ tiên dân Dothái, chúng ta cũng là những kẻ lữ hành trong sa mạc. Chúng ta cũng luôn được mời gọi từ bỏ những lối sống quen cũ của mình, những lối sống không thể giúp chúng ta tồn tại mà chỉ khiến chúng ta đói khát trong sa mạc của cuộc sống hiện đại này. Mùa Chay giúp chúng ta hiểu được những gì khiến chúng ta có thứ cảm giác sai lầm về sự an toàn thì nên bỏ lại phía sau, vì chúng ta đang bước vào một miền đất mới. Phá vỡ những thói quen và lối sống cũ quả là khó khăn và mất thời gian. Nên chúng ta cũng có thể bị cám dỗ chùn bước và trở lại với lối sống cũ. Thế nhưng nếu chúng ta nghiêm túc thực hiện, thì cuộc hành trình, thì Mùa Chay sẽ thực sự đáng giá khi chúng ta thấy được cuộc sống mới ở cuối hành trình, đó là cuộc họp mừng Lễ Phục Sinh của chúng ta.

 Chúng ta bỏ lại phía sau thế giới mà ta đã rất quen thuộc và lắng nghe tiếng nói khích lệ chúng ta tiếp tục hành trình, dẫu rất khó khăn. Trong giọng nói ấy chúng ta cũng nghe thấy một lời hứa “Ta là Đấng sẽ ở với ngươi luôn.” Đó cũng là lời mà Môisê và Êlia đã nghe và đã đi theo. Tiếng nói ấy cũng phát ra trên đỉnh núi để hướng dẫn các tông đồ và chúng ta, “Đây là Người con ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người.”

 Ngay sau biến cố này, đức Giêsu cương quyết hướng về Giêrusalem. Trong cuộc hành trình ấy, Người biết thế nào là bị người thân thiết nhất bỏ rơi, kế hoạch của Người thất bại và cuối cùng bị chết tức tưởi trên thập giá. Ngay sau cuộc hành trình sa mạc của Người, Người đã được Thiên Chúa tôn vinh. Cuộc vượt qua của Nguòi đã hoàn tất. Khác với dân Do Thái, đức Giêsu đã trunt thành với lời mời gọi của mình, tin tưởng Thiên Chúa và đặt mọi sự trong tay Người. Đó là những gì mà Môisê và Êlia nói với đức Giêsu về những gì Người sẽ “hoàn thành” ở Giêrusalem.

 Bên cạnh cách đánh giá của chúng ta, những gì đức Giêsu đã làm trong cuộc đời Người có vẻ như thất bại hơn là hoàn tất. Khi chúng ta nói đến những thành quả vĩ đại thì thường nghĩ đến việc hoàn tất một dự định có ý nghĩa; một việc làm tốt phải được mọi người tán thưởng. Thường thì mọi người hay đề cập đến việc tăng số lượng, ngay cả trong gia đình Giáo hội của chúng ta. Chúng ta quan tâm xem: có bao nhiêu người đến với lớp giáo lý? Cộng đoàn chúng ta có bao nhiêu thành viên? Có bao nhiêu tham dự viên trong chương trình học tập của giáo xứ trong năm nay? Mùa chay này, chúng ta được mời gọi để bước vào một cuộc xuất hành, cả trên bình diện cá nhân lẫn cộng đoàn. Chúng ta xin Thiên Chúa “hoàn tất” những thay đổi mà chúng ta mong muốn.

Khi chúng ta xem xét kỹ lưỡng hiện tại và tương lai của mình, thì thấy những gợi ý mà chúng ta cần thay đổi trong Mùa Chay thánh này. Thánh Phêrô đã cảm thấy hạnh phúc và không muốn thay đổi, nhưng muốn giữ mọi sự yên như thế. Ông sẵn sàng ở lại nơi ông đang ở, thay vì tiếp tục lên đường với đức Giêsu tiến về Giêrusalem. Mùa Chay cũng cho chúng ta cơ hội để làm những việc mà đức Giêsu và các tông đồ đã làm: lánh ra một nơi để cầu nguyện, phản tỉnh và lắng nghe – và rồi tiến đến giai đoạn tiếp theo trên cuộc hành trình của chúng ta.

 Cương vị môn đệ đòi hỏi mỗi ngày phải vượt từ cái tôi cũ kỹ của chúng ta đến đời sống mới mà đức Kitô đã mang lại. Biến cố Biến Hình đòi chúng ta phải lắng nghe tiếng nói từ đám mây và lắng nghe xem đức Giêsu muốn chúng ta bước theo Người như thế nào. Chúng ta đều biết việc lắng nghe phải bắt đầu từ sự thinh lặng. Thánh Luca cho chúng ta biết các môn đệ đã đi vào tĩnh lặng. Các ngài cũng giống như chúng ta, trong một trạng thái chạng vạng, nửa tỉnh nửa mê, các ngài nghe thấy cũng có thể đã không nghe. Mùa Chay là thời gian để hành động, nhưng hành động khởi đi từ việc lắng nghe Lời Chúa cách chăm chú hơn – cả Kinh Thánh lẫn nơi những người khác. Chúng ta đang lắng nghe điều gì? Đó là nghe tiếng gọi chúng ta từ tình trạng nô lệ và hướng dẫn chúng ta đến với không gian tự do khỏi tội lỗi.

 Tại tiệc Thánh Thể này chúng ta hướng về Thiên Chúa để có sự sống, tin tưởng sâu sắc hơn và cầu xin sự giúp đỡ để giữ thinh lặng; để mở ra không gian lắng nghe Lời Chúa, Lời hướng dẫn chúng đi qua cuộc xuất hành của mình. Một lần nữa, hôm nay chúng ta đặt niềm tín thác vào Đấng đã nói: “Ta là Đấng sẽ ở cùng các ngươi luôn mãi.”. 


Lm. Jude Siciliano, OP. (Anh em học viện chuyển ngữ)

  

Hãy vâng nghe lời Người

St 15, 5-12, 17-18; Tv 27; Pl 3, 17-4:1, Lc 9, 28b-36

Kính thưa quý vị,

“Này, ai chịu trách  nhiệm chính ở đây vậy?” Đây là một mệnh đề, không mang tính trách cứ, của một người đang cần sự giúp đỡ. Có thể ai đó đi vào trong một tiệm sửa chữa và xem ra chăng ai thèm quan tâm gì hết. Các công nhân quá lơ đễnh hoặc đang bận tâm đến nhiệm vụ của mình. Còn có thể nói gì khác hơn laf hỏi: “Thế ai phụ trách chính ở đây?” Chắc chắn sẽ có người nghe thấy và giúp đỡ.

Vì hậu quả của tội lỗi mà thế giới này trở nên một nơi hỗn độn và chẳng ai biết phải làm gì nữa. Con người sao nhãng và chỉ quan tâm đến thế giới riêng của họ. Thậm chí các quốc gia cũng lạnh nhạt với những nỗi đau của đám đông dân chúng. Chúng ta không chịu nổi và phải hỏi một câu hỏi lớn: “Ai chịu trách nhiệm đây?” Chúng ta hỏi câu hỏi đó bằng nhiều cách khác nhau: “ Cuộc chiến này đã bắt đầu ra sao?” “Tại sao có quá nhiều người nghèo đói trên thế giới?” “Ai đã làm xáo trộn môi trường?” “Tại sao chúng ta phải chi khá nhiều tiền cho những thứ vũ khí quân sự?” “Tại sao quá nhiều người trước đây vẫn đi nhà thờ nay lại bỏ không đi nữa?” Chúng ta phải làm gì với vấn nạn nghiện ngập và cuộc sống của những bạn trẻ đang bị chúng huỷ hoại?” “Ai chịu trách nhiệm thế?”

Chính Thiên Chúa  Đấng nói với chúng ta hôm nay qua Sách thánh cũng đang tiến đến và mời gọi chúng ta đáp lại trong vâng phục và tín thác. Liệu chúng ta có thể chấp nhận lời mời đó cũng như luật lệ của Người hay không? Nếu có thể , ít là một lần trong đời khi chúng ta hỏi: “Thế ai chịu trách nhiệm ở đây?” chúng ta có thể trả lời bằng chính lời của mình và hành vi của đời mình: “Thiên Chúa chứ ai”.

Ápraham bắt đầu hiểu ra rằng Thiên Chúa có một kế hoạch dành cho nhân loại đang sống trong tình trạng hỗn độn do tội lỗi gây nên. Thiên Chúa đã gọi Ápraham và hứa rằng ông và Sara sẽ có con cái đông đảo và trở thành “một đất nước vĩ đại” (St 12,1-2). Câu chuyện Sách Sáng Thế hôm nay đã bắt đầu hé lộ cho thấy kế hoạch của Thiên Chúa sẽ được hoàn tất ra sao.

Trước hết, Ápraham và bà Sara không hề tin vào lời Thiên Chúa hứa với họ; họ không phải là những siêu mẫu về đức tin, ít là vào lúc ban đầu. Người ta có thể nghĩ  rằng nếu thực sự Thiên Chúa muốn hoàn thành một điều vĩ đại, như Ngài hứa, Thiên Chúa nên chọn những ứng viên sáng giá hơn để khởi đầu cho tiến độ của mình. Nhưng ngay cả người tốt nhất cũng không thể nào xoá sạch được những xáo trộn của thế giới; chỉ Thiên Chúa mới có thể làm điều đó. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước khi bước vào cuộc đời của Ápraham và Sara.

Sự  tỏ hiện cho Ápraham  bao phủ ông trong một “sự tối tăm kinh hãi”. Trong Sách thánh khi Thiên Chúa tỏ hiện với con người, thường thì phản ứng trước tiên của họ là sợ hãi. Điều đó cũng đúng với những gì xảy ra trong Tin mừng; như được chứng tỏ trong câu chuyện Biến hình hôm nay.  Một đám mây bao phủ trên ba Tông đồ và khi bước vào khung cảnh ấy họ hoảng sợ. Quý vị có sợ không? Đó là nỗi sợ của con người đơn thuần trước Đấng Toàn Năng và Đấng Thánh.

Thánh Phaolô (Rm 4,3) sẽ suy tư về sự đáp trả của Ápram (mà sau này gọi là Ápraham). Như được nói trong Sáng thế: “Ápraham đặt niềm tin nơi Đức Chúa, và Người gọi ông là công chính”. Một người trở nên công chính bằng cách dấn thân và bước vào trong tương quan với Thiên Chúa.Chính lòng tín thác khiến cho Ápraham được nên công chính trước mặt Thiên Chúa; ông tin những gì Thiên Chúa hứa và nay trong mối tương quan thâm tín nơi Thiên Chúa. Ông sẽ đi đến cùng, tin tưởng rằng lời hứa dành cho ông đã được thực hiện.

Giao ước giữa Thiên Chúa và Ápraham chỉ là khởi đầu cho những lời hứa tương tự Thiên Chúa sẽ thực hiện với những con người khác. Điều yêu cầu nơi con người trong mỗi giao ước là tin tưởng vào lời hứa và thực thi những điều ấy – dẫu cho nó chưa thực sự hoàn trọn. Các Môn đệ của Đức Giêsu cũng làm tương tự: bước vào trong tương quan yêu thương với Đức Giêsu và thay đổi cuộc đời của mình để cho thấy sự dấn thân của họ cho những gì đã cam kết.

Phêrô, Giacôbê và Gioan cùng đi với Đức Giêsu lên núi để cầu nguyện. (Trong phần này của Tin mừng Luca, Đức Giêsu lưu tâm đến một nhóm nhỏ các môn đệ). Luôn luôn, trong Tin mừng Luca Đức Giêsu là hình ảnh của một con người cầu nguyện; đặc biệt là trước khi Người sắp quyết định một điều lớn lao. Trong bài Tin mừng hôm nay dường như các môn đệ cũng ở đó để cầu nguyện. Môsê  và Êlia ở đó để nói về   “cuộc vượt qua” của Đức Giêsu – một hình ảnh gợi nhớ việc dân Israel được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Aicập.  Xuất hành cũng ám chỉ đến việc Đức Giêsu chịu chết tại Giêrusalem; một cuộc giải thoát cho chúng ta khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi.

Thế giới xáo trộn vì tội lỗi. Thiên Chúa lãnh trách nhiệm này và, trong Đức Giêsu, Người đã bước vào để can thiệp. Nếu có bất kỳ nghi ngại nào về việc Thiên Chúa sẽ hoàn tất hành động này ra sao thì tiếng nói phát ra từ đám mây loan báo cho các môn đệ: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Các môn đệ “đang ngủ say” nhưng lại “hoàn toàn tỉn thức” khi vinh quang của Đức Giêsu chiếu toả và Môsê  với Êlia hiện ra với Người.  Một lần khác, các môn đệ cũng lại mê ngủ khi Đức Giêsu trải qua cơn hấp hối trong vườn Cây Dầu. Biến cố Biến Hình là hình bóng cho thấy vinh quang phục sinh và đưa ra hứa hẹn rằng các Tông đồ sẽ mãi là những môn đệ trung tín của Đức Kitô.

Những thất bại của các môn đệ cũng được nêu ra trong suốt Tin mừng. Thậm chí ngay trong bối cảnh này, Phêrô cũng không hiểu được tầm quan trọng của những gì ông đang chứng kiến. Ông muốn dựng ba chiếc lều cho Đức Giêsu, Êlia và Môsê. Dường như ông cho rằng cả ba đều cùng một cấp độ. Ông cũng muốn dừng lại đôi chút. Nhưng Đức Giêsu muốn những kẻ theo Người cùng hành trình lên Giêrusalem với Người. Người có việc phải làm và các môn đệ cũng sẽ tiếp tục công việc đó sau khi Người phục sinh và ban Thánh Thần cho các ông. Tiếng nói: “Đây là Con Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”, phải làm sáng tỏ sự việc cho các môn đệ. Đức Giêsu không chỉ là người ra lề luật như Môsê  hay đơn thuần là ngôn sứ như Êlia. Nhưng, kế hoạch của Thiên Chúa hầu chữa lành con người khỏi vết thương do tội lỗi sẽ được thực hiện nơi Đức Kitô, Đấng trong tương quan đặc biệt với Thiên Chúa như tiếng nói ấy đã loan báo.

Tiếng nói đó cũng tỏ cho thấy Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa về dòng dõi, đông như sao trên trời, mà Người đã hứa cùng Ápraham và Sara. Những người “lắng nghe” Đức Giêsu sẽ được kể vào số những con cái của dòng dõi này. Trong Sách thánh “lắng nghe” hay “nghe” ám chỉ bước kế tiếp sau khi nghe – tin tưởng vào người nói và hành động theo những gì vừa nghe.

Chúng ta đang cùng với Đức Giêsu và ba môn đệ đi xuống núi. Nhưng nếu như kinh nghiệm trên đỉnh núi có chút nào ý nghĩa với các Kitô hữu hiện đại, thì điều đó cũng mạc khải Đức Giêsu cho chúng ta và vinh quang mà chúng ta sẽ được chia sẻ với Người khi chúng ta được sống lại. Trong khi chúng ta “đang lắng nghe” những gì Người nói với các môn đệ xưa kia cũng là nói với chúng ta về lời mời gọi vác lấy thập giá và theo Người trên con đường tự phục vụ, trao hiến chính mình cho người khác, như Người đã làm.

Thường thì những của lễ mà tư tế dâng trong Đền Thờ cũng như những hành vi vâng phục làm co một người nên “công chính”. Nhưng với trường hợp của Ápraham và những gì chúng ta nghe được trong trình thuật Biến Hình trên núi, thì chính đức tin mới đưa chúng ta vào trong tương quan đích thực với Thiên Chúa và tha nhân. Căn bản của sự công chính nơi chúng ta chính là niềm tin vào Đức Giêsu Kitô và lời của Người.

Lắng nghe lời của Đức Giêsu lúc đầu có thể cảm thấy lúng túng và khó hiểu. Nhưng một khi chúng ta nghe Người nói những lời an ủi và đảm bảo về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, thì đáng để chúng ta dành cả đời cho vị thế đáng giá của người môn đệ. Nếu chúng ta muốn chia sẻ vinh quang của Người, chúng ta cũng phải chia sẻ đau khổ của Người nữa. Chúng ta không chỉ đón nhận những đau khổ này cách đơn thuần như việc tự khinh chê mình, một hình thức của khổ chế. Nhưng, chúng ta trao hiến chính mình như người phục vụ dành cho những kẻ đau khổ sống xung quanh.

Những thực hành Mùa Chay cho chúng ta biết rằng, như những môn đệ trên núi, chúng ta cũng đang mê ngủ trong những trách nhiệm của người Kitô hữu, buồn ngủ và mộng tưởng về chính mình. Nếu như vinh quang của Đức Kitô có thể thấy được ngay bây giờ thì chúng ta thấy được ngay bên dưới những đau khổ. Mùa Chay mở mắt và đánh thức chúng ta để đáp lại lời mời gọi: “hãy vâng nghe lời Người”. Những gì chúng ta nghe được nơi Lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta phục vụ tha nhân.

Sau khi tiếng nói được phát ra, thánh Luca cho chúng ta biết “chỉ còn lại một mình”  Đức Giêsu. Nơi Người có trọn vẹn cả hai vai trò: Môsê đại diện cho luật pháp và Êlia đại diện cho ngôn sứ. Tin tưởng vào Đức Giêsu giúp chúng ta thực thi luật và làm cho chúng ta trở nên công chính; lắng nghe và làm theo những lời ngôn sứ của Người, như các ngôn sứ đã làm, giúp chúng ta lắng nghe được tiếng kêu than của người nghèo.

Vì thế, chúng ta nhìn quanh và hỏi: “Ai chịu trách nhiệm ở đây?” Trong sách Sáng Thế và Tin mừng Luca, chúng ta lại được nhắc cho biết: “là chính Chúa”. Đức Giêsu là dấu chắc chắn nhất cho thấy Thiên Chúa đã thực thi sự tha thứ, chữa lành và hiệp nhất. Nếu những dấu chỉ ấy đã được nhìn ra ngay trong thế giới của chúng ta, là những môn đệ của Người, pải nghe được lời Người nói và làm cho lời ấy thành hiện thực bằng chính hành động của chúng ta. Như tiếng nói phát ra trên núi: “Hãy vâng nghe lời Người”.