Năm C

 
 


Chúa Nhật Lễ Lá Năm C

Is 50,4-7 / Pl 2,6-11 / Lc 22,14 – 23,56


An Phong op : Cứu Độ Là Hoà Giải

Fr Jude Siciliano, op : Hy Vọng Nảy Sinh Từ Tuyệt Vọng

Fr Jude Siciliano, op : Tình Thương Từ Thánh Giá

G. Nguyễn Cao Luật op : Buổi Sáng Và Cây Ô-Liu

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Chúa Giêsu lên Giêrusalem

Giuse Trần Ngọc Thiện : Qua Thập Giá Mới Bước Vào Vinh Quang

Fr Jude Siciliano, op. : Đồng Hành Với Chúa Vào Giêrusalem

Lm Đỗ Lực op : Giữa Hai Lằn Đạn
Fr Jude Siciliano, op: Vạn tuế Đấng ngự đến nhân danh Chúa

 
An Phong op

Cứu Độ Là Hoà Giải
Lc 22,14 – 23,56

Hôm nay Chúa nhật Lễ Lá, Giáo hội tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem được mọi người tung hô là con vua Đavít. Dân Do Thái vẫn hy vọng Người làm một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của người La mã. Nhưng Người đã không đáp ứng niềm hy vọng đó. Người chỉ muốn một cuộc giải phóng tâm linh đó là hòa giải nhờ thập giá, biểu tượng của tình yêu và sự tuân phục.

* "Mọi sự đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người" (2Cr 5,18). Hòa giải là một sáng kiến của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là chủ xướng, còn chúng ta là người được hưởng công trình hòa giải đó. Đây thực là một sáng kiến tràn đầy ân sủng và tình thương của Thiên Chúa.

* "Ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà chúng ta được hòa giải với Người" (Rm 5,10). Hòa giải chính là ơn cứu độ Thiên Chúa thực hiện khi chúng ta còn là tội nhân và thù địch với Người.

* "Nhờ thập giá Người đã làm cho đôi bên - dân Do Thái và dân ngoại - được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất" (Ep 2,15). Không thể có hòa giải với Thiên Chúa nếu không có hòa giải với anh chị em mình. Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với chính Người và giữa chúng ta với nhau. "Nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ tại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5,23-24).

* Vì Thiên Chúa đã làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Đức Giêsu, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình" (Cl 1,19). Hoa trái của hòa giải là sự bình an cho muôn loài dưới đất và muôn vật trên trời (Cl 1,22). Thiên Chúa là bình an cho mọi người, mọi người là bình an cho nhau.

* "Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá" (Pl 2,8). Đức Giêsu đã hòa giải thế gian với Thiên Chúa bằng tình yêu và sự vâng phục. Thập giá là dấu chỉ của hận thù, của xung đột. Đó là nơi mà lòng ghen ghét đã lên đến đỉnh cao. Đó cũng là nơi sự kiêu ngạo, sự khước từ Thiên Chúa thể hiện rõ nét. Khi đóng đinh Đức Kitô trên thập giá, con người đã đóng đinh tình yêu và sự vâng phục. Ađam xưa đã phạm tội nguyên tổ khi khước từ và bất tuân phục Thiên Chúa. Nhưng thập giá không phải là tận điểm. Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu phục sinh.

Như thế thập giá Đức Kitô là một lời mời gọi phải hòa giải.

* Hòa giải với Thiên Chúa. Thập giá Đức Kitô đứng giữa trời đất bao la như giao hòa đất với trời, con người tội lỗi với Thiên Chúa.

* Hòa giải với anh chị em mình. "Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa" (2Cr 5,20).

Bí tích Thánh tẩy là một sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa. Bí tích này mang lại ơn hòa giải đầu tiên với Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm hòa giải của Đức Kitô tử nạn và phục sinh trong cộng đoàn Giáo hội, một cộng đoàn qui tụ trong và quanh Đức Kitô. Được hoà giải trong bí tích Thánh Thể, các chi thể của thân mình Đức Kitô trở thành những tôi tớ phục vụ sự hòa giải giữa loài người, đồng thời trở thành những chứng nhân của niềm vui Phục sinh.

Lạy Chúa,

Thập giá là khổ đau, là bất tuân phục,
nhưng thánh giá cứu độ,
là hoà giải với Thiên Chúa và với nhân loại.

Đôi khi có quá nhiều thập giá trong cuộc sống,
thập giá làm người khác khó chịu.
Đây thực là một khổ tâm.
Thập giá đó không phải là thánh giá,
Thánh giá là bác ái.

Lạy Chúa, chúng con không hiểu rõ
mình đang mang gánh nặng của thập giá
hay sự cứu độ của thánh giá trong đời sống mỗi ngày.

Xin cho chúng con biết lãnh lấy thánh giá của hoà giải
và bác ái trong đời sống chúng con.


Fr Jude Siciliano, op

Hy Vọng Nảy Sinh Từ Tuyệt Vọng

Thưa qúi vị,

Tuần này chúng ta có hai bài thương khó. Bài thứ 1 của thánh Luca cho Chúa nhật hôm nay. Bài thứ 2 của thánh Gioan cho thứ sáu tuần thánh. Mỗi bài đều có một lối trình bày riêng theo chủ ý của tác giả. Cho nên chúng ta phải để ý đến cách viết của họ. Nếu chúng ta chọn một đề tài tổng quát thì e rằng vấn đề chỉ được khai thác chung chung. Nhưng nếu chọn từng phần thì lại rơi vào thiếu sót. Linh mục Gerard Sloyan đề nghị một phương pháp tiếp cận thứ ba đó là nghiêm chỉnh suy gẫm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem một cách trọng thể (Lc 19,28-40). Tin mừng theo Thánh Luca thường hay nhắm đến hành trình của Chúa Giêsu lên Giêrusalem và việc Ngài vào thánh thánh là chủ ý của Ngài.

Hôm nay Ngài vào thành Giêrusalem từ cổng phía đông, hướng mặt trời mọc. Nghĩa là Ngài long trọng báo hiệu một ngày mới. Vậy thì mọi tư duy cổ điển đều phải được xóa bỏ. Sự chết không còn là tận cùng của đời sống. Thành công không con là thước đo gía trị của con người, quyền lực không còn là phương tiện hữu hiệu và bền lâu để kiểm soát nhân loại. Bạo hành không còn là đường lối khả dụng để đè bẹp đối phương. Thiên Chúa không thể còn được coi như dửng dưng với số phận loài người. Những tiếng kêu xé rách trời đất của khổ đau, nhọc nhằn không còn được xem như rơi vào sa mạc mênh mông. Vì Thiên Chúa đã ghé tai nghe. Ngài đã đích thân đi vào “quê hương”của nhân loại, vào “thành thánh” của khổ đau, thất bại để biến đổi chúng thành “cái giá” phục hồi. Ngài đã đối mặt với sự dữ không phải theo cách chúng ta nghĩ tưởng, nhưng theo đường lối và phương pháp của Thiên Chúa.

Quyền lực của đền thờ Giêrusalem xem ra thắng thế trong các biến cố tuần này và Chúa Giêsu là người thua cuộc thê thảm. Thê thảm đến nỗi chết tất tưởi trên một cây gỗ, không mảnh vải che thân. Từ đấy mỗi người kitô hữu đều có một thành Giêrusalem và cũng vào đấy hàng ngày để trở nên người thua cuộc. Thua cuộc về nhân phẩm, thua cuộc về danh vọng, thua cuộc về quyền lực, thua cuộc về công ăn việc làm…

Những giá trị người có đạo ấp ủ, vun trồng thì trong thành này người ta vứt bỏ hay chế diễu. Đó là thành mà người ta chuộng điều dữ hơn điều lành, gian dối hơn chân thật. Đó là thành mà giầu có được kính trọng, nghèo hèn bị khinh khi. Đó là một thế giới tội ác có tổ chức, một thế giới chính trị đầy âm mưu dã man. Đó là những nơi dân đen không có lấy một tiếng nói, bị tước bỏ mọi tự do, mọi nhân cách. Đó là những nơi người ta chất chứa mọi ấm ức trong lòng. Đó là những nơi thách thức quyền lực có nghĩa là mang vào mình cái chết hoặc mất mát kinh khủng. Ngày hôm nay tất cả chúng ta được kêu gọi theo Chúa Giêsu đi vào những nơi này, vác lấy thập gía và sẵn sàng chịu chết.

Suốt tuần lễ chúng ta được Hội Thánh mời gọi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, đồng hóa với những đau khổ của Người để rồi sẽ được cảm nghiệm sự sống mới nẩy sinh từ cái chết và sự phục sinh của Ngài. Người tôi tớ đau khổ của tiên tri Isaia và Chúa Giêsu mang cùng một vóc dáng. Các ngài đã lắng nghe Thiên Chúa và lớn tiếng bênh vực những kẻ rã rời, bất chấp mọi hậu quả. Giống như dân Do thái lang thang trong sa mạc, các ngài đã được Thiên Chúa nâng đỡ mỗi ngày, dậy bảo mỗi ngày và các ngài đã đáp trả thuận lợi. Hôm nay chúng ta cũng mừng chúc tất cả những ai dám lên tiếng nhân danh những người không có tiếng nói trong giáo hội cũng như ngoài xã hội, an ủi họ, động viên họ mà không sợ hậu quả.

Chúng ta phất cao cành lá làm gì ? Chắc chắn không phải vì một chiến thắng nào đó của điều lành trên sự dữ, càng không phải vì hết khổ đau trên thế giới. Người lành không hề trốn tránh đau khổ, hy sinh. Chúa Giêsu và người tôi tớ của tiên tri Isaia đã chứng minh điều đó. Chúng ta phất cao cành lá để cùng vào thành với Chúa Giêsu, hiên ngang chịu đòn vọt, chịu chê cười, chịu thua thiệt, miễn là được trung thành vời Lời Chúa. Có quá nhiều con người chịu đau khổ trên thế gian này. Đau khổ vì bệnh tật, đau khổ vì chiến tranh, đau khổ vì bị áp bức bóc lột, đau khổ vì tuổi gìa sức yếu, đau khổ vì gia đình băng hoại… Chúng ta phất cao cành lá để chúc mừng Thiên Chúa vinh hiển, nhưng đồng thời cũng chúc mừng Thiên Chúa khổ đau.

Hầu hết các tôn giáo truyền thống đều tỏ ra lúng túng trước vấn nạn tại sao người vô tội phải chịu đau khổ ? Câu chuyện sau đây là lời đáp trả của Chúa Giêsu đang chịu thương khó :

Một bà mẹ 34 tuổi, vừa bị chồng ruồng bỏ, bà chỉ còn trong tay đứa con trai duy nhất 3 tuổi để an ủi, chắt chiu và hy vọng. Một hôm bà đi làm về thì thấy con đã chết ở cái hồ sau nhà. Bà vớt con lên, ôm con khóc thảm thiết rồi lịm đi. Chôn cất con xong thì bà hóa điên, chạy vào nhà thờ cầu nguyện rồi hỏi tượng Chúa, hỏi tượng Đức Mẹ, hỏi tượng các thánh tại sao con bà chết ? Tại sao bà chịu khổ đến cỡ này. Nhưng các tượng đều đứng im lìm. Bà chạy ra đường phố, gặp bất cứ ai cũng níu lại hỏi cho rõ nguyên cớ tại sao con bà chết ? tại sao bà chịu khổ như vầy ? Chẳng ai trả lời được...

Bà gặp một cô gái trẻ đẹp, cũng đang vừa đi vừa khóc sướt mướt, bà hỏi tại sao khóc. Cô gái trả lời cô mới mất tình nhân. Anh ta là một thanh niên tuấn tú, học giỏi, tài cao. Anh học kỹ sư năm cuối, ra trường là hai người thành hôn. Hôm qua anh đi ăn sinh nhật người bạn, uống rượu say, ra đường bị xe tông, chết tại chỗ. Cô đang thắc mắc tại sao lại trớ trêu đến thế. Tại sao tai nạn lại không đến với cô ? Hai người rủ nhau đi hỏi Chúa Giêsu. Đi được một lúc, hai người thấy một người đàn ông trung niên đang ngồi bưng mặt khóc dưới gốc cây. Hai người tiến lại hỏi tại sao ông khóc ? Người đàn ông trả lời : “Tôi là họa sĩ tài ba, tôi đang vẽ một bức tranh kiệt tác để lãnh một số tiền lớn. Nhà tôi nghèo. Nhưng đang vẽ thì ống sơn đổ ụp vào mặt, mù cả hai mắt ! Tại sao tôi lại khổ thế này ? Tôi đang tự hỏi thì các người đến”.

Thế là cả ba đi tìm hỏi Chúa Giêsu. Đi được một quãng thì thấy Chúa đang ở đầu đường đàng kia tiến lại, vai mang thập gía. Cả ba người chạy vội đến gặp Chúa, bày tỏ nỗi niềm, rồi đặt cho Người câu hỏi tại sao ? Chúa không nói gì, ôm chầm lấy ba người khóc. Hồi lâu sau, Chúa chậm rãi nói : “Ta không trả lời các con câu hỏi tại sao ? Câu hỏi này các con đặt cho Adam, Evà, thượng tế, kinh sư, luật sĩ, linh mục, giám mục. Họ biết câu trả lời. Ta đến đây vác thập gía này, để gánh lấy những thống khổ đó của các con, của nhân loại”. Nói xong Chúa biến đi .

Như thế Chúa không ở xa những đau khổ của loài người. Ngài ở gần, ở giữa những đau khổ của chúng ta. Hôm nay Ngài đi vào thành thánh, đi vào những khổ đau của nhân loại. Chúa viếng thăm và chia sẻ kiếp làm người với chúng ta. Ngài không đứng xa xa để chúng ta thờ lạy, Ngài không xa lánh những đớn đau của nhân loại. Ngài liên kết với chúng ta, cùng chung số phận với nhân loại. Như thế vinh quang của Thiên Chúa đang chiếu giãi trên chúng ta trong những ngày này. Mô-sê đã được bảo phải bỏ giầy trước bụi gai đang cháy, bởi nơi ông đứng là nơi thánh. Chúng ta cũng được bảo phải bỏ giầy và sấp mình thờ lạy bởi chúng ta cũng tới đất thánh với Chúa Giêsu khi cùng vào thành Giêrusalem với Ngài. Từ nay, những đau khổ của loài người không còn là những đau khổ tầm thường, gây chết chóc. Nhưng là những đất thánh nẩy sinh mầm sống mới, huy hoàng, rực rỡ, nẩy sinh tương lai cho nhân loại.

Đám đông Do thái đâu có ngờ trước được tầm quan trọng sâu thẳm của việc Chúa vào thành. Họ chỉ cảm nhận được những gì tai mắt họ xem thấy, nghe thấy. Họ hy vọng ông Giêsu này sẽ nói lên như một lãnh tụ, can đảm đứng dậy giải phóng họ khỏi kiếp sống tối tăm hiện thời, lật đổ ách thống trị áp bức của người La mã. Nhưng rồi họ thất vọng khi Ngài bị bắt, bị kết án và bị giết như bao lãnh tụ khác của họ. Họ cũng chứng kiến các môn đệ của ông ta phân tán mỗi người một ngả. Chấm dứt một phong trào. Họ đâu có đoán được cái gì sẽ xẩy ra vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Trong bóng tối Maria Mađalêna chạy đến mồ. Ánh sáng chói lòa của Đức Kitô phục sinh đánh tan mọi thống khổ của nhân loại. Bình minh sinh ra từ đêm tối. Sự sống sinh ra từ cõi chết. Hy vọng nẩy sinh từ tuyệt vọng, và từ đấy, chẳng còn quyền lực nào thắng được quyền lực của điều thiện, chẳng còn thù hận nào thắng đựoc yêu thương. Tử thần đã bị đánh bại, sự dữ đã phãi qui hàng. Cho nên cuộc đời chúng ta dầu có phải tan tác biết mấy thì vẫn còn hy vọng chỗi dậy phục sinh với Chúa Kitô. Amen.


Fr Jude Siciliano, op

Tình Thương Từ Thánh Giá
(Lc 22,14-26)

Thưa quý vị,

Bài thương khó năm nay trích từ Phúc Âm thánh Luca, nó quá dài, thính giả phải đứng mỏi chân để lắng nghe Lời Chúa. Hy sinh của họ thật đáng thán phục. Nhiều chủ sự còn muốn nói vài lời. Vậy làm thế nào tập trung? Làm thế nào tránh nói vô bổ? Một phương pháp khả thi là nêu lên những đặc điểm Luca trong trình thuật của ông. Ví dụ thánh nhân khác với các tác giả Matthêu, Marcô ra sao ? Ông cố gắng trình bày chủ đích nào ? Chúa Giêsu trong trình thuật của ông có những đặc điểm nào ?...

Phương pháp khác, là sắp đặt chương trình đọc bài thương khó và để cho văn bản tự nói với cộng đồng. Hãy để cho giáo dân nghe tỏ và chìm đắm vào các sự kiện. Nhưng linh mục phải giúp tín hữu làm việc này, nghĩa là sửa soạn kỹ lưỡng trước, người đọc, cung giọng, cử chỉ và gợi ra những điểm cốt yếu trong trình thuật Luca. Quý vị tự do lựa chọn, bất cứ tiếp cận nào cũng đều mang lại hiệu quả cao. Tôi xin cống hiến vài tư tưởng chung cho cả hai phương án. Khi nghe kể chuyện thương khó, thính giả tự đồng hoá với ai? Với đám đông dân chúng đón rước Chúa Giêsu ? Bởi lẽ trong nghi lễ mở màng, mỗi tín hữu đã cầm sẵn cành lá xanh tươi trong tay. Hoặc với các tông đồ, sợ hãi và chạy trốn, bỏ mặc Chúa Giêsu, vì quyền bính đền thờ quá hùng hậu? Hoặc với Thượng Tế, Kinh sư, luật sĩ. Những nhà lãnh đạo tôn giáo nhiệt tâm, muốn bảo vệ đạo thánh an toàn bằng những luật lệ và truyền thống cha ông? Họ nghĩ phải trừ khử tên quấy rối vô danh để Đền Thánh trở lại bình thường và dân chúng tự do thờ phượng Thiên Chúa thoải mái. Và bởi đây là tác phẩm của thánh Luca, cho nên không thể bỏ qua yếu tố cầu nguyện.

Xem ra Chúa Giêsu dồn mọi nghị lực vào sự kiện sau khi cầu nguyện. Ngài chờ đợi thánh ý Đức Chúa Cha được thực hiện. Ngài khẩn khoản xin cho mình khỏi uống chén đắng, nhưng kết thúc bằng vâng phục. Thiên Chúa lập tức đáp trả lời Ngài cầu xin và sai thiên thần đến trợ giúp. Chìa khoá của bản văn nằm ở điểm Chúa Giêsu là con người vô tội. Nhiều lần những kẻ liên quan đến vụ án đã phải tuyên bố Ngài trong trắng: Philatô ba lần, Hêrôđê chẳng thấy Ngài có tội, kể là kẻ điên khùng nên trả về cho quyền bính Giêrusalem, viên cai đội khi thấy Ngài tắt thở cách lành thánh đã hô lên : “Đúng thật người này là con Đức Chúa Trời” (Lc 22,47). Toàn dân thấy thế đấm ngực trở về. Người trộm lành cùng chịu đóng đanh với Chúa Giêsu đã tuyên xưng đức tin : “Lạy Ngài, khi về nước Ngài xin nhớ đến tôi cùng”. Và bởi lẽ Ngài vô tội, nên rất tin tưởng vào Thiên Chúa: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha”. Còn chi rõ ràng hơn nữa ?

Đặc điểm thứ hai là lòng tha thứ của Chúa Giêsu. Đối với thánh sử Luca, lúc Chúa Giêsu chịu đóng đinh là thời điểm Ngài tuyên bố lòng thứ tha của mình. Ngài nài xin Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc mình làm”. Do lòng tha thứ này mà tên trộm lành “ăn cướp” được thiên đàng. Thánh Luca cũng không thuật lại việc đám đông nhạo báng Đức Giêsu như các Phúc Âm khác. Ông không đổ lỗi cho dân chúng về cái chết của Chúa Giêsu mà ngược lại còn mô tả họ “đấm ngực trở về”.

Đặc điểm thứ ba là Chúa Giêsu luôn trung thành với Chúa Cha. Ngài không rút lui khỏi sứ vụ nhưng chai mặt trơ như đá đi lên Giêrusalem để chịu khổ nạn và chịu chết (Lc 9,51). Ngài còn khuyên nhủ những kẻ theo Ngài vác thập giá mình hàng ngày mà theo. Ông Simon người Cyrênê và mấy phụ nữ Galilêa là những hạng người như vậy trên con đường thánh giá của Ngài. Xin nhớ ở đoạn 4,18-19 Chúa Giêsu tuyên bố sứ mệnh của Ngài là phóng thích tù nhân, trả tự do cho người bị áp bức, ban ánh sáng cho kẻ mù loà, công bố năm hồng ân của Chúa… Nhưng ở giai đoạn này của Phúc Âm, Ngài đang bị cầm tù, đánh đập, kết án… cho nên những kẻ theo Ngài phải kiên trung với ơn gọi của mình, sẵn sàng đối đầu với các tổ chức, các thế lực trần gian đi ngược lại với đường lối yêu thương của Ngài. Loại này nhiều lắm và ngay cả trong các tôn giáo, người ta thừơng nhân danh Thiên Chúa để ngăn cản nước Đức Chúa Trời. Những kẻ tự phong đạo đức lại là những người mạnh tay nhất trong việc triệt hạ Nước Trời. Cho nên thánh giá hôm nay là biểu tượng rõ nét cho những gian truân, các vật lộn của những kẻ theo Chúa chân chính đang phải gánh chịu, trên con đường thi hành ơn gọi, không thối chí hoặc lùi bước trước những khó khăn. Vác thập giá theo Chúa, là can trường chịu đựng những khổ đau hữu hình cũng như vô hình, thể xác cũng như tinh thần, thể lý cũng như tâm lý. Nói tắt đi thì đủ mọi loại và đủ mọi hình thức khổ nạn. Tuy nhiên nó là con đường tự do lựa chọn, dâng hiến toàn thân để thi hành thánh ý Thiên Chúa và những thực tại của thế giới mai sau. Amen.


G. Nguyễn Cao Luật op

Buổi Sáng Và Cây Ô-Liu

Từ một biến cố rất đơn giản

Chắc chắn rằng trình thuật Thương Khó được đọc lại trong Chúa nhật hôm nay là phần nòng cốt sơ khởi của Tin Mừng. Các tác giả đã cùng hướng về một biến cố rất đơn giản, nhưng đầy bi tráng, và cố gắng thuật lại cuộc Thương Khó. Các ông đã nỗ lực minh chứng rằng Kitô giáo không phải là một hoạt động phản loạn hay hình sự. Các ông đã tố giác âm mưu đẩy Đức Giêsu đến chỗ chết đồng thời cũng cho thấy sự vô tội của Người Tôi Tớ bị các tội nhân đóng đinh thập giá.

Qua các trình thuật này, dân Ít-ra-en khám phá ra những điểm trùng hợp giữa cái chết của Người Tôi Tớ và những lời Thánh Kinh. Những lời này đã được nên trọn, không chỉ qua biến cố chính, nhưng cả trong những chi tiết. Trình thuật Tin Mừng cho biết bối cảnh lịch sử của cuộc Thương Khó là dịp cử hành lễ Vượt Qua của người Do-thái. Vì thế, cuộc Thương Khó chính là một hy lễ, một nghi thức mới của giao ước thay thế cho việc tế sát con chiên. Sau cùng, trình thuật cũng nêu lên mẫu gương về đức khiêm nhường, việc cầu nguyện, sự nhẫn nhục và những đau khổ của Đức Giêsu. Đó là con đường dành cho Hội Thánh.

Ngoài ra cũng nên để ý đến một vài yếu tố khác được xếp đặt trong biến cố thập giá: mối tương quan giữa Đức Giêsu và Giu-đa giáo; nguồn gốc, bản chất và sứ mạng của Hội Thánh; vai trò của các Tông Đồ nói chung và cách riêng của ông Phê-rô.

Như cành Ô-liu

Hôm nay là Chúa nhật của cây Ô-liu - Chúa nhật Ô-liu : những cành Ô-liu, núi Ô-liu. Cây Ô-liu vẫn là biểu tượng cho hoà bình, cho bình minh trong sáng và êm đềm. Nó vẫn xuất hiện ở mỗi khúc quanh của bản văn Tin Mừng hôm nay.

Trong tiếng ồn ào đang làm náo động thành phố Giêrusalem khi Đức Giêsu tiến vào thành, khi Người bị bắt, bị xét xử và tiến lên đồi Can-vê, cây Ô-liu nhắc lại rằng tất cả những điều ấy đều khởi đầu ý nghĩa từ ngôi vườn chan hoà ánh sáng êm dịu của mặt trời ngày Vượt Qua.

Cây Ô-liu chính là Đức Kitô. Chỉ mình Người biết được tính khắc nghiệt của cuộc Vượt Qua cũng như vinh quang ở cuối hành trình. Không phải là Người không rung động, nhưng Người bình tĩnh đợi chờ.

Chung quanh Đức Giêsu, người ta xô lấn nhau và xô lấn Người. Dân chúng hoan hô : "Chúc tụng Đức Vua", và ít giờ sau, họ lại hô to : "Giết nó đi, giết nó đi !" Ông Phê-rô quả quyết là hết lòng theo Người, "sẵn sàng vào tù, chết cũng can đảm", nhưng lại bỏ rơi Người.

Trong tất cả những sự kiện ấy, Đức Kitô vẫn luôn tỏ ra Người là Thầy, là Người Tôi Tớ. Người xin Chúa Cha tha thứ, yên ủi, nâng đỡ.

Nếu có câu nào cần ghi nhớ, có lẽ sẽ là câu nói của Đức Giêsu với ông Phê-rô : "Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho cho các anh em của anh nên vững mạnh."

"Một khi đã trở lại" từ những sai lầm, từ những nghi ngờ, từ những thay đổi, từ những cám dỗ về quyền lực, từ những ý nghĩ u ám về cuộc sống, từ tính ích kỷ ... Một khi đã trở lại với Tình yêu, với sự thật ...

"Hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh", chính là hãy làm cho họ trở thành những người biết tin tưởng vào tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha, những người mến yêu Sự Sống, những người luôn vui tươi trước những điều phật ý, những người trong sáng trước những biến động của cuộc sống. Hãy đưa tay nâng đỡ họ để tất cả anh em được hưởng sự sống vĩnh cửu ngay từ bây giờ, sự sống đã trào vọt từ một ngôi mộ vào buổi sáng ngày lễ Vượt Qua.

Với mọi người, giữa những sợ hãi và tủi nhục, giữa những cô đơn và muộn phiền, Đức Kitô luôn nhắc lại lời mời đã được ngôn sứ Ê-dê-ki-en nói trước : "Hãy trở lại và được sống."

 
Giacôbê Pham Văn Phượng op

Chúa Giêsu lên Giêrusalem
(Lc 22,14 - 23,56)

1200 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, một cuộc giải phóng đã diễn ra, một cuộc giải phóng do Thiên Chúa tính toán và đặt kế hoạch, nghĩa là Thiên Chúa đã sai ông Mô-sê giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập. Tuy nhiên, con người có thể được giải phóng khỏi nô lệ về phương diện xã hội, chủng tộc v.v… nhưng không vì thế mà thoát khỏi ách nô lệ của sự dữ nguy hiểm hơn nhiều. Đó là điều người ta nhận thấy, ngay khi dân Do Thái vừa ra khỏi Ai Cập, lữ thứ trên các đường mòn băng qua sa mạc, trong thời gian dựng nước tại Pa-lét-tin, và suốt lịch sử của dân tộc đó. Bên cạnh những tình cảm đẹp, những hy sinh cao cả, có biết bao là ghen tị, độc ác, chia rẽ, tội lỗi, chiến tranh, không thiếu lý do khiến người ta tuyệt vọng.

Từ đó, về lâu về dài, người ta đã đi tới những kết luận : Thế giới và con người được Thiên Chúa dựng nên thực sự rất tốt lành, nhưng rồi con người bị nhiễm chất độc của sự dữ do đôi vợ chồng đầu tiên là A-dong E-và đã lạm dụng tự do, ngả theo chước cám dỗ và chống lại Thiên Chúa, vì thế mất ơn nghĩa Thiên Chúa, bị cắt đứt liên hệ với Thiên Chúa và rơi vào sự thống trị của ma quỷ. Tuy nhiên, Thiên Chúa yêu thương con người bằng một mối tình cao cả, bằng chứng là Người không bao giờ bỏ dân Do Thái, mặc dầu nhiều lần họ chống lại Người, tỏ ra bội bạc đối với Người. Và cuối cùng để thể hiện trọn vẹn tình yêu đó, Người đã sai một vị giải phóng mới, cao trọng hơn Mô-sê bội phần, đến giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ của sự dữ và tội lỗi, để nhân loại tìm lại được mối tình thân thiết với Thiên Chúa.

Vị giải phóng mới đó chính là Chúa Giêsu. Ngài là một nhân vật vừa có nhân tính vừa có thần tính. Ngài tuyên bố Ngài có quyền năng của Thiên Chúa, Ngài thấu suốt mọi tâm hồn, Ngài tuyên bố Nước Trời đã đến và Ngài dẫn chứng cho người ta thấy bằng những phép lạ : chữa lành những người bệnh tật, giải thoát những kẻ bị quỷ ám, cho kẻ chết sống lại. Đó là những dấu chỉ cho người ta biết bệnh tật của linh hồn dưới ách tội lỗi và sự chết bị đánh bại. Và Ngài tuyên bố : ai muốn thuộc về nước trời thì phải tin vào Ngài, nhưng Ngài không ép buộc ai, bởi vì với quyền năng của Ngài, Ngài có thể dùng vũ lực và uy thế buộc mọi người phải chấp nhận nước trời, nhưng Ngài không hành động như vậy, vì Ngài sẽ giải thoát nhân loại bằng phương thế gánh hết tội trần gian, đền tội cho mọi người bằng sự hạ mình, chịu đau khổ và chịu chết.

Quả thực, Chúa Giêsu đã hiến mình làm lễ vật hiến tế, bằng cách để cho một môn đệ phản bội, để cho người ta bắt, đem xử, lên án, tra tấn, đánh đập và giết chết trên thập giá, nhưng ngày thứ ba Ngài sống lại. Thế là sứ mạng Chúa Cha sai Ngài đến trần gian, Ngài đã thực hiện xong, và công cuộc giải phóng con người khỏi tội lỗi đã thành tựu. Như vậy, nhiệm vụ của Chúa đã hoàn tất, nên chỉ còn bổn phận của chúng ta đối với công cuộc cứu chuộc của Chúa mà thôi. Thực vậy, chuộc tội là việc vủa Chúa, đền tội là việc của chúng ta, thánh Phao-lô đã nói : “Ai thuộc về Chúa Ki-tô thì phải đóng đinh xác thịt và đam mê của mình”. Vậy nếu chúng ta không chịu treo trên thập giá như Chúa thì nhiệm vụ của chúng ta chẳng bao giờ chu toàn được, vì trong đời chúng ta, nếu không có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ chẳng bao giờ có Chúa nhật phục sinh, nếu không có vòng gai nhọn sắc, sẽ chẳng bao giờ có thân xác vinh quang, nếu không có chiến cuộc, sẽ chẳng bao giờ có chiến thắng, nếu không có thập giá, sẽ chẳng bao giờ có nấm mồ trống rỗng.

Chúa nhật lễ Lá hôm nay, chúng ta tưởng nhớ sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem và được dân chúng cầm ngành lá thiên tuế long trọng đón rước. Đây là một cuộc khải hoàn của Chúa, vì thời đó, người ta thường tặng ngành thiên tuế cho những người thắng giải tại đấu trường hay vận động trường. Với Chúa Giêsu, họ tặng ngành thiên tuế cho Ngài để biểu dương Ngài đã chiến thắng sự chết, vì mấy ngày trước đó Ngài đã cho La-da-rô sống lại. Với chúng ta hôm nay cũng mừng lễ với ý nghĩa và niềm tin đó, mừng Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.

Thực vậy, đây là lần cuối cùng Chúa Giêsu về Giêrusalem, Ngài biết rõ những gì đang chờ đợi Ngài. Người ta đã không tin lời Ngài, Ngài phải công bố một lần nữa, và lần này bằng chính cái chết của Ngài. Khi Chúa tiến vào thành Giêrusalem, dân chúng đã hồ hởi tung hô Ngài, nhưng vòng vây âm mưu cũng đang bắt đầu thắt chặt lại quanh Ngài.

Chúa Giêsu lên Giêrusalem, có thể nói đó là đích điểm của đời Ngài. Ngài lên Giêrusalem để thiết lập một thành đô mới, một Giêrusalem không còn vây kín bởi các bức tường của chia rẽ nữa, một Giêrusalem mà tường vách chính là tận cùng trái đất, mọi dân tộc, mọi mầu da, mọi tiếng nói đều qui tụ vào thành đô mới ấy.

Nhưng Giêrusalem cũng là biểu tượng cho chính cái chết của Ngài, lên Giêrusalem tức là đương đầu với cái chết đang chờ đợi Ngài. Thế nhưng, chính nhờ cái chết vì vâng phục Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã đem lại ơn cứu rỗi cho nhân loại, trong đó có mỗi người chúng ta. Con đường vâng phục và tín thác nơi Chúa Cha ấy, Chúa Giêsu cũng mời gọi tất cả chúng ta bước theo Ngài.

 
Giuse Trần Ngọc Thiện

Qua Thập Giá Mới Bước Vào Vinh Quang

 Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã chọn cho mình con đường cứu độ không giống bất kỳ ai, thậm chí quá điên rồ khi chọn cho mình một cái chết mà người đời cho là nhục nhã, tự gán cho mình một bản án đồng số kiếp với một tội nhân chết treo trên thập giá.  

Thập giá vốn là một khổ hình mà người Rôma áp dụng cho những tử tội sẽ bị kết án tử hình, đặc biệt cho những tên nô lệ bỏ trốn hoặc cho những kẻ bạo loạn chống lại hoàng đế. Tại Palestin, các cuộc nổi dậy của người Do thái đều bị kết thúc bằng hình phạt đóng đinh treo lên cây thập giá vì tội phản nghịch mưu cầu đại sự không thành. Hình phạt của tội nhân bị trói hoặc bị đóng đinh chân tay vào thập giá. Thập giá được dựng thẳng lên, chân chôn sâu dưới đất. Tội nhân sẽ chết dần vì bị đau đớn, ngộp thở hoặc bị mất hết máu trong người. Cực hình này kéo dài trong nhiều giờ đợi cho đến khi nào tội nhân chết hẳn mới đem táng xác. Vì thế, trong con mắt nhiều người thời Chúa Giêsu, thập giá thật sự là một khổ hình dã man và tàn khốc.

“Hoan hô con Vua Đavít, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa” (Mt 21,9). Trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Đức Giêsu, thân mình cỡi lừa đi trên thảm đỏ tiến vào thành đô Giêrusalem trong không khí chào đón hớn hở vui mừng của dân chúng. Không khí hân hoan chào đón này đã chẳng kéo dài được bao lâu nhưng nhanh chóng kết thúc bằng một thảm trạng bi thảm, đến ngay cả các môn đệ và những người thân yêu của Ngài cũng không thể hiểu được chuyện gì sắp xảy ra. Phần Đức Giêsu, ngay cả chính Ngài cũng phải sợ hãi, toát mồ hôi máu khi cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha trong vườn cây dầu : "Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha." (Mt 26,42). Trong hoàn đau thương bi đát khi sắp phải chịu khổ hình, các bạn bè của Ngài đã hoảng loạn bỏ chạy. Ngài bị môn đệ thân tín Phêrô chối từ, Giuđa bội phản, còn những người khác thì biệt tăm chạy trốn.

Trong những hoàn cảnh nghiệt ngã của cuộc đời như thế, có ai hiểu thấu cho được con đường thập giá của Đức Giêsu lại là con đường tình Thiên Chúa dành cho nhân loại. Mầu nhiệm nhập thể của Đức Giêsu được đẩy đến mầu nhiệm đỉnh cao là Hy tế thập giá. Dưới con mắt nhiều người, con đường thập giá Đức Giêsu là một thảm trạng thất bại, u uất, khinh bỉ và nhục nhã bởi sự đau khổ quá mức của đòn roi, của cực hình cả về thể xác lẫn tâm hồn, thậm chí sự đơn độc buông rơi tất cả, cảm thấy không còn ai cứu giúp nổi mình khi Ngài thét gào trên thập giá “Lạy Cha, sao Cha lại bỏ con” (x. Mt 27,45).

Cuộc đời Đức Giêsu chấm dứt nếu chỉ có vậy thôi, thì Tin Mừng đem đến cho chúng ta quả là bất hạnh, và cuộc đời nhân loại sẽ chấm hết trong đau khổ tuyệt vọng dưới nấm mồ. Tuy nhiên, mầu nhiệm thập giá không chỉ tạm dừng và chấm dứt ở sự đau khổ hay chết chóc của phận người nhưng sau cùng của con đường ấy là một sự Phục Sinh vinh thắng bởi chưng chính Ngài đã sống lại. Thánh Phaolô tông đồ đã nói : “Đức Kitô đã chết và đã sống lại, đó là Tin Mừng tôi rao giảng cho anh em” (x Cv 17,3). Nhờ mầu nhiệm thập giá, niềm vui mới lại lan tràn. Hoa trái của đau khổ là triều thiên vinh quang. Hoa trái của sự chết là sự sống lại bất diệt. Sự sống lại của Đức Kitô đem lại cho chúng ta một chân lý cứu độ của phận người : “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại ; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại.” (1Cr 6,14). Chúng ta sẵn sàng đón nhận sự chết và đau khổ của Đức Kitô để được cùng sống lại và hiển trị với Ngài.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Cuộc sống tiện nghi vật chất ngày nay đôi lúc đã làm cho chúng con có thái độ tránh né và khiếp sợ khi đứng trước khó khăn gian khổ. Chúng con dễ để cho mình bị lôi cuốn bởi một lối sống buông thả, bằng lòng, tìm an phận cho cá nhân và cuộn tròn cho chính mình. Bản thân chúng con không dám liều mình để dấn thân sống hy sinh cho người khác. Nhưng là người môn đệ của Chúa, Chúa muốn mời gọi chúng con tiếp bước theo Chúa, tiếp tục con đường Ngài đã đi để tìm lấy niềm vui sự sống qua con đường đau khổ của thập giá.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Khi ngước nhìn lên thánh giá, chúng con khám phá ra một Thiên Chúa yêu thương chúng con vô ngần. Khi chịu lấy đau khổ và sự chết của phận người, Chúa đã biến đổi những yếu đuối, sợ hãi và bất lực của chúng con thành niềm hy vọng lớn lao. Bởi chưng, một khi phải mang nặng đau khổ hay đứng trước cái chết gần kề, chúng con cảm thấy mình vô vọng, không biết phải làm gì ? Nhưng tình yêu mãnh liệt của Ngài trên thập giá có thể làm tan biến đi bao sợ hãi, đau khổ và sự chết. Tình yêu của Ngài có thể làm cho chúng con được hồi sinh, nâng bổng chúng con khỏi mặt đất này và đem chúng con về trời cao. Xin cho chúng con được yêu mến con đường Ngài đã đi, biết dấn thân không ngại gian khổ, biết chết đi để được sống. Nhờ sức mạnh của tình yêu Ngài nâng đỡ, chúng con dám can đảm đón nhận và yêu mến những thập giá hằng ngày của đời chúng con. Amen


Lm. Jude Siciliano, OP.

Đồng Hành Với Chúa Vào Giêrusalem
Lc 22, 14 – 23

Thưa quý vị,

Có lẽ nhận xét sau đây của đức cha Helder Camara giúp chúng ta dễ hiểu đau khổ và cái chết của Đức Kitô trong tuần này: “Một số linh hồn giống như cây mía, khi bị bầm dập nghiền nát, vắt ép trong chiếc máy làm đường, nó chỉ cho ra mật ngọt mà thôi.” Đau khổ của Đức Giêsu cũng vậy, nó ban cho nhân loại hạnh phúc trong tình yêu thần linh. Đau khổ của Ngài không trực tiếp cứu thế giới, mà chỉ là phương tiện. Yếu tố chính yếu cứu thế giới là tình yêu. Tình yêu khiến Ngài chịu đau khổ và cái chết vì nhân loại.

Đó là lý do tại sao trong suốt Phúc Âm Luca, Chúa Giêsu luôn miệng nói với đám đông: “Tôi phải đi lên Giêrusalem.” Và ngày hôm nay, câu mở đầu của Tin Mừng là: “Bấy giờ Đức Giêsu dẫn đầu các môn đệ, tiến lên Giêrusalem.” Trình thuật tiếp tục kể về giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình định mệnh này. Ngài cưỡi trên lưng lừa con và toàn dân tung hô: Hoan hô con vua Đavít, Đấng ngự đến nhân danh Thiên Chúa. Chúc tụng Thiên Chúa trên các tầng trời. Đây là khoảnh khắc cao điểm của Chúa Giêsu và các môn đệ, không khoảnh khắc nào mang tính quyết định như hôm nay, mặc dầu các môn đệ không hiểu biết gì! Và chúng ta cũng được dẫn vào mầu nhiệm tuần thánh.

Chúa Giêsu tiến vào thành thánh từ phía đông. Phía đông là phía mặt trời mọc. Một ngày mới bắt đầu. Chúa Giêsu cũng báo hiệu một kỷ nguyên mới cho nhân loại. Kỷ nguyên với mặt trời cứu độ xuất hiện. Bóng tối của bao nhiêu thế kỷ đã bị đẩy lui, những nếp sống cũ không còn thống trị nữa. Chết không phải là tận cùng. Thành công kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự… không còn là tiêu chuẩn để đo lường con người sinh ra trên mặt đất này. Bạo lực không còn là phương tiện để đàn áp đối thủ. Hôm nay, Chúa Giêsu, các môn đệ, đám đông vào thành thánh khởi sự một ngày mới cho toàn thể nhân loại. Nó nói với mỗi linh hồn: Thiên Chúa không hề lãng quên tình trạng đen tối của bất cứ ai. Xin đừng nghi ngờ. Các đau khổ của nhân loại không rơi vào tai điếc. Thiên Chúa đã chú ý lắng nghe và Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để cứu chuộc.

Thực vậy, nếu chúng ta để ý, Giêrusalem là biểu tượng của thế giới này. Lúc ấy, Giêrusalem là thành phố rất quan trọng và nổi tiếng. Nó là trung tâm tôn giáo, chính trị của người Dothái và cả miền trung đông. Đi lên Giêrusalem là một niềm vui. Người ta hồ hởi lên thành thánh trong các dịp lễ lớn. Người Dothái đạo đức không hề thíêu sót bổn phận lên Giêrusalem để dâng lễ vật và tham dự các nghi thức. Đối với tín hữu Dothái, Giêrusalem là biểu tượng vĩ đại của lòng tin và danh dự dân tộc, nhất là ngôi đền đẹp đẽ nguy nga mà cha ông đã dày công xây dựng. Các lễ nghi đều diễn ra trong đền thánh hay chung quanh đền. Nhưng đối với người Rôma, Giêrusalem cũng là thành phố quan trọng về mặt quân sự, chính trị. Không những quyền bính Dothái nằm ở đó, mà quyền bính đế quốc cũng hội tụ ở đó. Như vậy Giêrusalem về nhiều mặt, là trung tâm của thế giới Dothái mà người Rôma phải lưu ý. Như vậy, hôm nay Chúa Giêsu bước vào một nơi mà các quyền lực đạo đời tập trung. Ngài vào với một tư cách đặc biệt, một sứ mệnh đặc biệt, vào dịp lễ đặc biệt của dân tộc Dothái, lễ vượt qua, kỷ niệm cha ông họ được thoát vòng nô lệ Ai cập.

Đức Giêsu và các môn đệ hiểu rõ cuộc hành trình này nguy hiểm biết bao. Các thế lực đạo đời không thể làm ngơ sự có mặt của Chúa và các môn đệ. Quan điểm tôn giáo về Thiên Chúa, về con người, về đền thờ, về tập tục, về luật Môsê đe doạ nền an ninh chung. Lòng hào hiêp đối với tội nhân, lòng thương cảm đối với những kẻ bên lề gây rối loạn xã hội. Nhất là lời dạy về Nước Trời, trực tiếp đối lập với truyền thống cha ông. Còn đối với chính quyền Rôma, Ngài thách thức sức mạnh của họ, trong việc đàn áp kẻ yếu thế bằng bạo lực tàn nhẫn. Đó là tình hình Giêrusalem khi Đức Giêsu bước vào cổng thành: “Hoan hô con vua Đavít, Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến, vinh quang trên các tầng trơì.”

Chẳng lạ gì các quyền bính thế tục mau chóng tìm bắt Chúa, thẩm tra Ngài, kết án và đóng đinh. Đó cũng là số phận của những ai muốn thiết lập Nước Trời trong xã hội, trên thế giới hôm nay. Giêrusalem chính là biểu tượng của các vị thần mà chúng ta tôn thờ: tiền bạc, chức quyền, sắc dục, tiện nghi, giàu có, tiếng tăm, địa vị. Giêrusalem tân thời của chúng ta là đủ mọi loại thoả hiệp với thế gian để được an toàn tôn giáo, chính trị mà làm ngơ trước bất công, bóc lột. Chúng ta có thể bằng lòng với hiện trạng. Việc chi phải lên Giêrusalem? Cứ trung lập và giảng giải những điều vô hại, tránh xa những rắc rối, cầu nguyện và hy vọng lên thiên đàng. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu vào thành Gierusalem “giơ mặt chai như đá” và thách đố mỗi người theo gương Ngài, chống đối Gierusalem tân thời. Chúng ta khuất phục ai? Tôn thờ ai? Thoả hiệp với ai? Ai điều khiển cuộc đời chúng ta? Chúng ta lẩn tránh những trách nhiệm nào? Tiếng Chúa gây hiệu quả nào nơi chúng ta? Phúc Âm đòi hỏi chúng ta bổn phận nào? Cứ đặt những câu hỏi như vậy, chúng ta sẽ nhận ra thiếu sót của mình.

Trong một lớp giáo lý, cha xứ hỏi các học viên: Chúng con nghĩ thế nào về Chúa Giêsu: Ngài thành công hay thất bại? Sau lúc yên lặng và suy nghĩ, một thiếu niên đứng dậy trả lời: Thưa cha, thất bại thê thảm. Thế lực đền thờ chẳng tin vào Ngài, cho Ngài là một mối đe doạ, sai bắt và giết đi, các môn đệ trốn hết, chẳng thất bại là gì? Và họ muốn cha xứ giải quyết vấn đề! Cha xứ chỉ lên cây thánh giá, ôn tồn nói: Đó, cờ hiệu chiến thắng của chúng ta là tượng chịu nạn. Khi người tín hữu gặp cái dữ thì không trốn chạy để được an toàn, mà đối đầu trực tiếp với nó. Cái dữ luân lý phải bị đánh bại bằng bất cứ giá nào, ngay cả khi phải thiệt mạng. Chúa Giêsu làm đúng như vậy. Các con bảo Ngài thất bại hay thành công? Thưa, thành công, cả lớp đồng thanh nói. Vậy thì chúng ta không được chạy trốn, cha xứ tiếp, người công giáo không được lảng tránh đối đầu với cái dữ.

Thiết tưởng ý nghĩ của cha xứ đã rõ ràng. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã đánh bạc với thế gian và Ngài đã thua. Nhưng từ cái thua ấy mà chiến thắng nảy sinh. Thiên Chúa đã hành động qua Đức Kitô. Ngài đã thua, nhưng tất cả nhân loại đều thắng. Vậy đạo công giáo làm nhiều hơn là giải thích đau khổ và sự chết. Nó cống hiến cho cái chết và đau khổ một ý nghĩa. Chúa Giêsu đã cứu chuộc đau khổ của nhân loại. Cho nên đau khổ của mỗi người phải góp phần cứu rỗi thế giới: “Những ai không vác thập giá mình mà theo, thì chẳng xứng đáng là môn đệ ta.” Trốn tránh đau khổ chẳng giúp ích được gì, chỉ làm đau khổ tăng thêm. Đối đầu với nó mới là giải pháp làm giảm thiểu đau khổ trên thế giới.

Vậy, mỗi người chúng ta phải liên kết với Chúa Giêsu đi lên Gierusalem tân thời “giơ mặt chai như đá” với các xấu xa của lòng mình, của thế gian. Giống như Chúa Giêsu, có thể Gierusalem mới đặt chúng ta vaò tình huống thất bại. Chúng ta phải gánh lấy chê cười, nhục nhằn và cả cái chết. Hằng ngày chúng ta phải trực diện với những sức mạnh thù nghịch ghê gớm: Giáo dục thế tục, giải trừ thánh thiêng, cổ võ phá thai, trợ tử, hô hào bạo lực, những tổ chức xã hội đen, những dụ dỗ ngon ngọt, thần mammon. Phải can đảm lắm mới giữ vững lập trường theo Chúa lên Gierusalem và kinh nghiệm những gì Chúa đã trải qua. Chúng ta được Chúa mời gọi vác thập gia và khinh chê những giá trị trước đây mình trân trọng. Nhưng trước hết hãy để Chúa Giêsu vác thập giá đi tiên phong, chúng ta sẽ theo Ngài. Theo một cách cương quyết và trung thành. Theo Ngài vào Gierusalem tân thời với những thách thức của nó. Chúng ta không sợ thương tích nếu thật lòng yêu mến Chúa Kitô, nhắm thẳng con đường vâng phục Chúa Cha. Có lẽ chúng ta phải gánh chịu thiệt thòi với Ngài, đồng hoá với thất bại của Ngài. Nhưng ngang qua cái chết và phục sinh của Ngài, chúng ta kinh nghiệm sức sống mới.

Tại sao hôm nay giơ cao cành lá và vẫy chào Đức Kitô? Có phải chiến thắng rồi sao? Có phải mọi thứ trên thế giới đã đi vào ổn định? Có phải không còn đau khổ nữa? Không đúng vậy. Thế giới vẫn còn vô số những khổ cực. Chiến tranh vẫn đang tiếp diễn ở nhiều nơi trên thế giới. Người ta đang tranh giành khốc liệt quyền lực, ảnh hưởng, thị trường, sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự. Còn đầy dẫy xìke, ma tuý, aids, khủng bố, bạo lực. Chúng ta không thể nhắm mắt với thực tế rồi giơ cao cành lá vẫy chào! Thế giới còn quá nhiều gian khổ, bất công. Nhưng hôm nay Đức Kitô vào thành thánh để cứu chuộc nó. Chúa thẳng thắn đối diện với tội lỗi để tẩy trừ nó khỏi thế gian, giải phóng loài người khỏi kiếp nô lệ satan và chúng ta được tự do như dân Dothái xưa. Chẳng phải đó là nỗi vui mừng lớn lao sao? Chẳng phải đó là lý do chính đáng để đám đông xưa và chúng ta hôm nay đón chào sao? Các thần Hylạp ngày xưa đã chịu thua sự dữ, họ bị kìm kẹp không lối thoát, cho nên các triết gia Hylạp phát triển một hệ thống triết lý định mệnh rất phong phú: Các thần lại chào thua tài trí của mình. Đến thời đông phương cống hiến học thuyết phiếm thần, thì con người lại rơi vào vòng luẩn quẩn của nghiệp chướng, luân hồi. Nguyền rủa số phận, nguyền rủa cái dữ là phạm thượng, vì cái dữ cũng là thần!

Chúa Giêsu chiếng thắng tất cả não trạng đó, cứu chuộc đau khổ, trả lại hạnh phúc cho nhân loại. Hôm nay khởi sự tiến trình ấy, chúng ta không có lý do để vui mừng sao? Thực sự Chúa vào thành thánh của mỗi tâm hồn. Nơi đó tích tụ mọi rác rến của bản tính sa ngã: kiêu ngạo, dâm dục, giả hình, cùng với những thất bại khổ đau, để biến đổi chúng nên thánh thiện. Đường lối của Ngài như bài đọc hai hôm nay chỉ ra: Vâng lời Thiên Chúa cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đi ngược hẳn với nếp sống của chúng ta, để thánh hoá nó. Ngài chọn thánh thánh mỗi người để chịu đau khổ và sống lại vinh quang. Chúng ta chẳng còn con đường nào khác ngoài việc noi gương Ngài. Đường lối kiêu căng giả hình của cấp lãnh đạo Do thái và quyền bính Rôma phải bị loại bỏ. Nhưng vừa đúng lúc tới cổng thành, tưởng chừng như chiến thắng đã đến nơi thì Chúa Giêsu oà lên khóc. Vì sao? Quý vị hẳn đoán ra: Thế gian từ chối Ngài, hành hạ và đóng đinh Ngài. Liệu đó là thái độ của bạn, của tôi trước sự hiện diện của Chúa? Nếu chúng ta hằng ngày chọn thế gian và những sung sướng của nó thì đúng vậy. Chúng ta chỉ là những kẻ giả hình không hơn không kém. Nhưng nếu chúng ta thực sự là môn đệ Chúa, chúng ta phải từ chối hoàn toàn bản thân mình, đi theo Ngài vào thành. Lúc ấy chúng ta có lý do để giơ cao cành lá, đón chào ơn cưú độ. Giây phút sống lại chẳng còn bao xa. Amen.

 
Đỗ Lực op

Giữa Hai Lằn Đạn
(Lc 19:28-40; 22:14-23:56)

Ngày xưa, khi còn ngồi ghế nhà trường tiểu học, chúng tôi thường hát bài suy tôn Ngô Tổng Thống trước khi vào lớp : “Ai bao năm vì dân nước quên thân mình. Cứu đất nước, thề tranh đấu cho tự do …” Tiếng hát làm sống lại cả một tuổi thơ đầy mơ mộng trong tôi. Những ngày tháng đó thật ngắn ngủi, nhưng cũng đủ cho Tổng Thống dẹp yên những bạo loạn và đặt nền tảng cần thiết cho cuộc sống tự do cho toàn dân .

Nhưng khi chưa kịp bước vào tuổi trưởng thành, tôi đã trải qua những đêm lịch sử kinh hoàng cho Tổng thống và dân tộc. Ngày 26.10.1963 vinh quang Tổng Thống lên tột đỉnh, sau khi được tái đắc cử. Không đầy một tuần sau, ngày 01.11.1963, Tổng Thống đã gục ngã trên vũng máu đào cùng với bào đệ trong hầm tối.

Tổng thống là một Kitô hữu. Cuộc đời ông khác gì Thày Chí Thánh ? Từ vinh quang giữa rừng người cầm lá, trải khăn trên đường đón tiếp tung hô, đến cái chết tủi nhục tang thương trên Thánh giá, Ðức Giêsu chỉ có một thời gian rất ngắn để sống bình an trên mặt đất. Vinh quang trần gian nào chẳng đầy quyến rũ ? Ðau khổ nào chẳng là ma lực trấn áp con người ? Ðó là hai lằn đạn. Cả nhân loại bị kẹt cứng giữa hai lằn đạn đó. Chúa Giêsu cũng là con người, nên cũng không thoát khỏi thân phận đó.

Trong khi nhiều người ngã gục giữa hai lằn đạn, tại sao Chúa Giêsu đứng vững ? Giữa cảnh tưng bừng nhộn nhịp “gần chỗ dốc xuống núi Ôliu,” (Lc 19:37) Chúa xuất hiện như Vị Thiên Sai. Tất cả dân chúng và đoàn môn đệ tung hô : “Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng ngự đến nhân danh Chúa !” Bước đi giữa cảnh nườm nượp cành ôliu và trên các tấm áo choàng dân chúng trải xuống mặt đường, chắc chắn các ông không thể không nghĩ tới vị trí hai bên tả bên hữu trong Vương Quốc Thày. Trước đó ít lâu, “các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm đươc coi là người lớn nhất.” (Lc 22:24). Nếu có cùng tâm trạng với các môn đệ như thế, Thày đã sa vào chước cám dỗ trong hoang địa rồi.

 Rõ ràng ngay giữa những thành công, Người vẫn nhất quyết chọn theo hướng Chúa Cha. Người đang muốn mọi người rời xa thứ vinh quang mau qua và giả tạo nơi trần thế. Sứ mạng của Người hướng mọi người tới “bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời !” (Lc 19:38) Thật khác hẳn những gì các tông đồ vẫn mơ mộng.

Chỉ có vinh quang Thiên quốc mới đủ sức thúc đẩy Người vượt trên những giới hạn tầm thường của kiếp người và mạnh dạn vác Thánh giá lên tận đỉnh đồi Canvê. Người chìm ngập trong đau khổ và uống chén đắng đến giọt cuối cùng. Chén đắng đó có đủ mùi vị của kẻ thù lẫn người thân. Nếu Giuđa không phản bội, kẻ thù cũng không biết cách nào hại Thày. Khuôn mặt môn đệ thân tín như Phêrô cũng in đậm nét bất trung khi ngang nhiên chối Thày tới ba lần. Những con người phản bội như thế làm Thày đau khổ gấp mấy lần kẻ thù ! Mặc dù đã tiên liệu, Thày cũng không tránh khỏi đau khổ.

Ðau khổ do kẻ thù gây ra cũng có nhiều hình thức khác nhau. Có những đau khổ tinh thần như những lời nhạo báng, xúc phạm đến chính sứ mệnh tiên tri của Chúa. Hạng vô lại và thất học lại dám cả gan nhục mạ Ðấng Toàn Tri ! Hạng lãnh đạo cũng không khá hơn. Họ lợi dụng khả năng và địa vị để xuyên tạc và vu cáo Người như một tên bạo loạn chống chính quyền. Trước những cật vấn của bọn cầm quyền, Người không hề run sợ. Người vẫn giữ thái độ thinh lặng, mặc cho những trận cười chế diễu và thái độ khinh dể trong triều đình Hêrôđê. Sự đau khổ tinh thần lên đến tột độ khi Chúa bị mọi người hạ nhục. Số phận Người không bằng một tên cướp. Họ la hét đòi giết Người cho bằng được ! Tới giờ linh thiêng nhất trên thập giá, Người vẫn còn phải trải qua những cơn thách đố ghê rợn về chính sứ mạng Thiên Sai và địa vị cao cả nhất của Người.

Còn những đau khổ nơi thân xác Chúa, bút mực nào tả xiết ?! Người đã bị bắt như một tên cướp, trong khi Người là Ðấng công chính ! Những trận đòn tan xương nát thịt xối xả tuôn xuống thân xác gầy gò của Người. Những vết thương bật máu rải đều khắp thân thể. Cây Thánh giá ngàn cân vừa đè nặng vừa ghì chặt Thân Người bằng những mũi đinh nhọn. Từ đỉnh đầu tới bàn chân, không chỗ nào không rướm máu. Thật khủng khiếp ! “Quyền lực tối tăm” (Lc 22:47) nhất trí đẩy Người ra khỏi cõi sống.

 Nhưng có chết đi, Người mới đem lại niềm hy vọng cho nhân loại. Bước theo Người, các vị tử đạo đã trở thành “niềm hy vọng cho thế giới, vì họ làm chứng cho mọi người biết rằng tình yêu Ðức Kitô mạnh hơn bạo lực và hận thù.” [1] Người Anh Cả đã hành động phi thường để chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa và đàn em đông đúc.

Nhờ tình yêu đó, Người đứng vững giữa hai lằn đạn ! Chính nhờ Thần Khí, Người kiên vững giữa bao cơn phong ba bão táp. Thánh ý Chúa Cha xác định Người là Con Thiên Chúa và đã được Chúa Cha tuyển chọn làm Ðấng Cứu độ muôn dân (Lc 9:35) nhờ Thánh giá, một chứng từ mãnh liệt nhất cho tình yêu. Thánh giá trở thành lời nói vượt trên mọi ngôn từ. Lời nói đó chính là tình yêu Ðấng Vĩnh hằng ban tặng cho dân Người, cho mọi người và mỗi người, cho từng người chúng ta. Thánh giá cũng là dấu chỉ sự vâng phục tuyệt đối Thánh Ý Chúa Cha. Nhờ đó, giữa những cơn thử thách lớn lao, Người vẫn hiên ngang xác định mình là “Con Thiên Chúa,” (Lc 22:70-71) “là Mêsia, là Vua nữa.” (Lc 23:2-3)

Ngay khi Người vừa tắt thở, “viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng : ‘Người này đích thực là người công chính !’” (Lc 23:47) Tại sao lời tôn vinh này lại được đặt vào miệng viên sỹ quan ? Hẳn ông đã điều động toán lính thi hành việc bắt bớ, đánh đập và đóng đinh Chúa Giêsu. Trước khi dẫn Tử tội ra pháp trường, chắc chắn ông đã đọc kỹ bản án. Nhưng sau chứng kiến tất cả những gì đã diễn ra trước và sau cuộc hành hình, ông nhận thấy Tử tội là nạn nhân của những âm mưu đen tối bất công và chính sách bất công. Lời tôn vinh đó trở thành lời phủ nhận tất cả những tố cáo trước kia của giới lãnh đạo cũng như quần chúng. Tất cả sự thật đã được phơi bày.

Ðức Giêsu đã sống và chết như người công chính. Người dám chết để nói lên tiếng nói của những người thấp cổ bé họng trước bọn cường quyền và đám đông ngông cuồng. Dù không làm chính trị, Người vẫn chết cho quyền làm người và làm con Chúa. Người chết cho tự do con người !

Lạy Chúa, giữa cơn khát vọng nhân quyền hôm nay, xin cho chúng con biết phải làm gì cho dân tộc và giáo hội chúng con. Dù đang ở giữa quê hương hay lưu lạc khắp bốn phương trời, xin cho chúng con luôn gắn bó mật thiết với Chúa và hăng say hành động theo tiếng gọi và sự thôi thúc của Chúa cũng như của quê hương. Xin cho tất cả mọi phán đoán, mọi kế hoạch, mọi hành xử của chúng con đều khơi nguồn từ cầu nguyện. Xin đừng để chúng con hành động vì danh lợi cá nhân, nhưng chỉ nhằm phục hưng Dân Chúa và dân tộc chúng con.[2] Amen

Lm. Jude Siciliano, OP. (Anh Em Nhà Học Đaminh Gò Vấp chuyển ngữ.)

 

Vạn tuế Đấng ngự đến nhân danh Chúa

Lc 19,28-40; Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22,14-23,56

Kính thưa quý vị,

Hầu hết mọi người đều biết rằng khi đến nhà thờ vào ngày hôm nay và Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta sẽ được nghe trình thuật về cuộc thương khó. Bài đọc này rất dài, thường được chia ra thành ba phần. Vào các Chúa Nhật khác, chúng ta thường được nghe những trình thuật Tin mừng ngắn hơn, nhưng các bài Tin mừng của hai ngày này thì khá dài. Vào thời đầu, trình thuật thương khó là một bài liên tục, không chia thành những phân đoạn ngắn. Còn hôm nay, người công bố được chọn đọc bài ngắn hơn, tỉ như là trình thuật thương khó của Luca, nhưng tại sao lại cắt ngắn bài mà theo truyền thống vốn đọc đầy đủ? Nếu thánh Luca cho rằng bài thương khó ngắn thôi cũng có thể đáp ứng được mục đích của mình thì ngài có lẽ đã viết ngắn. Với những người đọc có chuẩn bị kỹ thì câu truyện này sẽ khá hấp dẫn, nhất là vì chúng ta không được nghe bài thương khó trong bất kỳ dịp nào khác, và tôi có thể đoan chắc rằng, chúng ta không khi nào chọn bài Tin mừng này để cầu nguyện.

Hôm nay, các nhà thờ sẽ chật kín người: lá được làm phép và phân phát cho mỗi người, rồi sẽ rước từ cuối nhà thờ lên đến cung thánh. Nhưng, chắc chắn là chúng ta không đang diễn lại một biến cố quá khứ của Đức Giêsu, phải không quý vị? Chúng ta không giả vờ như không biết điều gì đang chờ Người phía trước, Người sẽ chết thế nào và sống lại ra sao. Ngược lại, chúng ta đã nghe Tin mừng và cử hành những hiệu quả của Tin mừng ấy suốt năm phụng vụ này. Trong suốt tuần này chúng ta tiếp tục cử hành những điều ấy. Vì thế, hôm nay chúng ta cùng hợp với các tín hữu khắp nơi và mọi thời trong việc cử hành niềm vui này.

Trong Tin mừng Luca, Đức Kitô đang dẫn đầu đoàn người tiến lên Giêrusalem nơi Người sẽ chiến thắng không phải bằng sức mạnh của bạo lực và vũ khí, như hy vọng của đám đông những người chứng kiến Người tiến vào Giêrusalem, nhưng bằng thập giá mà Người tự nguyện vác lấy.

Trong khi bài đọc khá dài thì đổi lại bài giảng sẽ ngắn. Chúng ta có thể tập trung vào bài Tin mừng Luca được đọc trước khi rước lá (19,28-40). Trình thuật Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem mang nhiều dấu chỉ Kinh thánh Cựu Ước về niềm mong chờ Đấng Mêsia và trình thuật phong vương của vua. Vì thế, dân chúng trải áo mình dưới chân Đức Giêsu như xưa kia Giêhu được chào đón (2V 9,13). Vua Đavít muốn rằng con trai của ông là Salômôn, người thừa kế ngai vàng,  phải cưỡi con la của Đavít (1V 1,33). Con lừa con, chứ không phải một con ngựa chiến, là một con vật biểu tượng cho hòa bình, là dấu chỉ của việc Đấng Mêsia dịu hiền đang đến giữa dân (St 49,11). Đức Giêsu là người đầu tiên ngồi trên con vật này, Người “đăng quang” khi bước vào thành thánh để hoàn tất sứ điệp mà Người đã ra giảng về một triều đại mới dưới sự cai trị của Thiên Chúa.

Một vị vua được mong mỏi từ rất lâu nay đang tiến vào trong thành để lên nắm vương quyền của người. Sự hồ hởi của “vô số các môn đệ” sẽ sớm bị dập tắt bởi những biến cố sắp xảy đến. Vị vua sẽ bị đóng đinh vào thập giá. Sự căng thẳng theo Đức Giêsu bấy lâu nay sẽ không ngừng gia tăng. Đám đông ra đón Người, như chúng ta cũng sẽ làm thế khi Người trở lại vào ngày sau hết (ngày quang lâm). Những trình thuật trong tuần này sẽ có những biến cố đầy kịch tính, nhưng sẽ kết thúc ở nơi sự từ bỏ cách thanh thản của Đức Giêsu: “Lạy Cha, Con xin phó thác hồn Con trong tay Cha” (Lc 23,46). Trên thập giá, phía trên đầu Đức Giêsu có ghi: “Đây là vua dân Dothái” – để mỉa mai Người, nhưng với con mắt đức tin có thể nhìn ra đó lại là một chân lý sâu thẳm hơn.

Khi Đức Giêsu đến gần thành Giêrusalem, Người dừng chân trên Núi Cây Dầu và cầu nguyện cho thành (19,41). Từ vị trí đó, Người có thể đã nhìn thấy thành và cổng Đền Thờ mở ra để đón Người. Người có vẻ khẩn trương vào thành. “Trình thuật hành trình” của thánh Luca (bắt dầu từ chương 9,15) cho thấy Đức Giêsu quyết tâm lên Giêrusalem. Nhưng, điểm nhấn không phải là việc Người vào thành, mà là đi thẳng đến đích mà Người dự định, là Đền Thờ. Một trong những chủ đề xuyên suốt của Tin mừng Luca là cầu nguyện. Điều này được thể hiện qua việc Tin mừng của ngài khởi đi từ Đền Thờ và cũng sẽ kết thúc ở đó. Sau khi sống lại, Đức Giêsu hiện ra cùng các môn đệ và nhắn nhủ họ hãy ở lại Giêrusalem cho đến khi Người gửi Thánh Thần đến. Người lên trời và, thánh Luca cho biết, người ta thấy các môn đệ “không ngừng lên Đền Thờ để ca tụng Thiên Chúa” – và ngay tại Đền Thờ, tin mừng bắt đầu và kết thúc. (Lc 24,53)

Rất dễ chú ý đến bản tính kiên định của những người ùa ra chào đón Đức Giêsu cũng như sự phấn khởi quá khích và những mong muốn sai lầm của các môn đệ. Mới vừa đó thôi họ còn chào đón Người, chẳng lâu sau chính họ lại hò la đòi xử tử Người, còn các môn đệ thì bỏ rơi Người. Quả thật các nhà giảng thuyết khó mà trình bày được.

Đây là những con người tuyệt vọng, cả lịch sử của họ toàn là kiếp nô lệ. Và nay đất của họ lại bị thế lực tàn ác khác chiếm cứ. Dĩ nhiên, họ muốn Thiên Chúa gửi đến cho họ vài người có khả năng đánh đuổi quân thù và tái lập tự do trên mảnh đất mà Thiên Chúa đã ban cho. Đó chẳng phải là điều mà Thiên Chúa muốn cho họ hay sao? Đức Giêsu từ trên Núi Cây Dầu đi xuống và những môn đệ đang phấn khởi la lên “Vạn tuế đức vua, đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao! Vinh quang trên các tầng trời!” chắc chắn đã làm lóe lên niềm hy vọng trong dân chúng đang tụ tập quanh đó. Một người Galilê cùng với các môn đệ khố rách áo ôm liệu có phải là cách Thiên Chúa đáp lại lời kêu xin bao đời của họ chăng? Liệu “Đức vua ngự đến nhân danh Chúa” này sẽ là người tái lập vương triều Đavít? Chắc họ cũng phải đắn đo đôi chút, nhưng với cái chết của Đức Giêsu thì niềm hy vọng này cũng tắt ngúm.

Dân chúng sẽ sớm thất vọng. Thiên Chúa đã không sai đến một đấng cứu tinh giỏi tài quân sự để chiến đấu. Nhưng, như thánh Phaolô nói với chúng ta hôm nay, “ dẫu là là Thiên Chúa … nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Quả là cách biểu lộ vinh quang kỳ lạ! Thay vì là một chiến thắng uy hùng thì Thiên Chúa lại gửi đến một người dám hy sinh chính mình cho chúng ta.

Khi – người nghèo nghe Tin mừng; những kẻ đang bị giam cầm sẽ được tự do; người mù được thấy Chúa trên trần gian – hay nói cách khác, khi chúng ta cảm nghiệm được “năm hồng ân” mà Đức Kitô hứa trong hội đường (Lc 4,16-21), thì chúng ta cũng sẽ hy sinh chính mình vì tha nhân, như Đức Kitô đã làm. Những gì Người thực hiện cho chúng ta hôm nay sẽ hoàn thành lời Người hứa với thính giả trong hội đường trước kia.

Như đã nói trên đây: những gì chúng ta đang cử hành không chỉ là việc nhìn lại những đau khổ và cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Một lần nữa, trong tuần này chúng ta lại được nghe Tin mừng về công trình cứu chuộc của Đức Giêsu và được Tin mừng ấy canh tân, để rồi chúng ta lại dám can đảm dấn thân bước theo con đường thập giá của Đức Giêsu trong việc phục vụ người khác.

 

 

[1] ÐGH Bênêđictô XVI, Zenit 25.03.2007.

[2] Theo Hoàng Quý, “Nêhêmia, Gương Mặt Lãnh Ðạo Giáo Dân,” Tiengnoigiaodan.net 28-03-07.