Năm C

 
 


Chúa Nhật Phục Sinh 06 - Năm C

Cv 15,1-2. 22-29 / Kh 21,10-14. 22-23 / Ga 14,23-29

 

Lm An Phong op : Đừng Sợ

G. Nguyễn Cao Luật op : Thần Khí Trên Mọi Xác Phàm

Fr Jude Siciliano op. : Bình An Của Đức Kitô

Fr Jude Siciliano op. : Hoa Quả Của thánh Thần

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Bằng chứng của tình yêu

Fr Jude Siciliano op : Thần Khí Chúa Ngự Trên Tôi

Đaminh Tạ Văn Tịnh op : Ai Yêu Mến Thày Hãy Giữ Lời Thày

Đỗ Lực op : Một Biến Cố Ý Nghĩa

Fr. Jude Siciliano, op : Quay lưng lại với các giá trị hư ảo

Fr. Jude Siciliano, op: Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều

 

 
Lm An Phong op

Đừng Sợ
Ga 14,23-29

Bối cảnh của Tin mừng Chúa nhật 6 Phục sinh năm C là : Khi Đức Giêsu sắp sửa giã từ các môn đệ, Người không muốn để các ông "xao xuyến và sợ hãi". Người hứa : "Đấng phù trợ là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy sẽ dạy các con mọi điều". Người còn ban cho các ông bình an "không như thế gian ban tặng", đồng thời Đức Giêsu cũng hứa sẽ trở lại với các ông sau này.

"Thầy ban bình an của Thầy cho các con không như thế gian ban tặng". Sứ điệp chính yếu của Đấng Phục sinh chính là bình an.

Vào thời Đức Giêsu, "Pax Romana" – bình an của Roma – là câu nói nổi tiếng và là niềm kiêu hãnh của chính quyền Rôma. Chính quyền Rôma đã hãnh diện vì trong suốt gần hai thế kỷ họ đã "ban bình an của người thắng trận cho các nước chư hầu". Họ đã giảm tối đa các cuộc xung đột giữa các nước chư hầu với nhau, đồng thời họ cũng dẹp bỏ được những cuộc nỗi loạn chống đối chính quyền Rôma. Đó chính là bình an dựa trên nỗi sợ hãi của các nước chư hầu, của các nước bị đô hộ. Đó chính là bình an của "quyền lực tối thượng" áp đặt để cho xã hội chư hầu luôn bị lệ thuộc. Đó chỉ là bình an vì sợ hãi, bình an "của thế gian ban tặng".

Trong đời thường mỗi ngày, chúng ta có thể bắt gặp được thứ bình an này tại đây đó. Nó được thể hiện dưới muôn hình vạn trạng. Trong một thế giới "chiến tranh lạnh", chúng ta ít thấy những cuộc xung đột vũ trang. Các quốc gia đã cố để thỏa thuận, dàn xếp bằng con đường ngoại giao. Trong một gia đình "bình an" theo kiểu này, nơi đó có thể có sự độc đoán của người gia trưởng làm cho mọi thành viên sợ hãi. Mọi người tránh né nhau để không gây đỗ vỡ. Họ không còn nói chuyện chân thành với nhau được. Thật là sự bình an "chết chóc". Chúng ta cũng có thể bắt gặp một người "bình an". Họ cười đùa vui vẻ bên ngoài để che giấu những lo âu, khắc khoải bên trong... Sự bình an "bên ngoài" đôi khi chỉ là sự thinh lặng chết chóc, tuyệt vọng... , "bình an của nỗi thống khổ".

Nhưng bình an của Đức Giêsu thì khác hẳn. Đó chính là bình an của tâm hồn. Sự bình an phát xuất từ niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa. Đó chính là bình an của "Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Chúng ta có thể bắt gặp được sự bình an này nơi những ai "yêu mến Thầy, giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy" (c. 23). Một gia đình bình an, hạnh phúc sâu xa, dường như là nơi các thành viên trong đó thường mỉm cười với nhau, họ không cần "nhiều lời". Họ vui hưởng những khoảnh khắc thinh lặng, ấm áp. Gia đình Thánh Gia là một điển hình. Nơi đó có sự bình an đích thực, sự bình an nội tâm sâu xa.

Nhưng để có được bình an này, chúng ta cần đến Chúa Thánh Thần. Người sẽ dạy dỗ và nhắc nhở chúng ta những gì Đức Giêsu đã nói. Đôi khi, chúng ta phải "trả giá". Chính Đức Giêsu đã hứa ban bình an này cho các môn đệ khi Người loan báo thế gian sẽ ghét và bách hại các ông cũng như họ đã ghét và bách hại chính Người.

Phải chăng chúng ta chấp nhận "trả giá" để có được bình an của Đức Giêsu ?

Lạy Chúa,

Xin dạy chúng con biết thưởng thức thinh lặng của Chúa
khi bóng đen rập rình và ánh lửa tàn dần.

Xin cho lời cầu nguyện của chúng con
ấm cúng như căn nhà chúng con ở,
để bình an của Chúa cư ngụ nơi đây.

Pierre Emmaud


G. Nguyễn Cao Luật, op

Thần Khí Trên Mọi Xác Phàm
Ga 14,23-29

Cùng một mái nhà

“Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.”

Những lời này của Đức Giêsu được coi như kết thúc cho chặng đường dài. Ở đây, Thiên Chúa hoàn tất công cuộc tìm kiếm. Cánh cửa thiên đàng, lâu nay vẫn đóng kín và do các thần sứ canh giữ, nay đã được mở rộng.

Kể từ thời A-đam và E-va, Thiên Chúa và con người mỗi bên có nơi ở riêng, rất xa nhau.

Khi Đức Chúa xuất hiện tại núi Xi-nai, dân chúng đứng ở phía xa. Còn tại nơi Cực Thánh của đền thờ Giêrusalem, là nơi Đấng Tối Cao ngự, thì không ai được vào, trừ ra vị Thượng tế, và chỉ một năm một lần.

Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm quen với con người. Các ngôn sứ cảm thấy rất rõ sẽ đến lúc diễn ra cuộc gặp gỡ này. Ngôn sứ Xô-phô-ni-a tuyên bố: “Đừng sợ … Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi” (3,16). Còn ngôn sứ Ê-dê-ki-en xác định: “Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng” (3,27), và ngôn sứ Da-ca-ri-a quả quyết: “Này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi” (2,14).

Về phần mình, thánh Gioan biết rằng không bao giờ Thiên Chúa là “người tố cáo” con người. Trái lại, Người là “Đấng bênh vực” họ, là “Đấng an ủi” họ. Sách Khải Huyền loan báo bình an vì kẻ thù đã bị tống ra ngoài: “Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỉ hay Xa-tan … kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước tòa Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12,9-10).

Từ nay, cùng với Đức Giêsu, nhân loại có thể hội nhập vào trong sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Con người lại được chung sống với Thiên Chúa trong cùng một mái nhà.

Tuy nhiên, đây quả là một điều khó khăn ! Dường như TC vẫn đến gặp con người quá sớm. Ông Phê-rô đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Còn con người ngày nay thì thưa: “Lạy Chúa, xin chờ con một chút, con phải thu xếp một số công việc, con đang cần ổn định lại, con phải xưng tội đã !” Dường như Thiên Chúa không biết đến những gì diễn ra dưới bộ mặt trí thức của con người.

Ngày nay, con người cần để Thiên Chúa đến ở nơi họ, nơi tất cả những gì là thực sự của họ. Họ phải để Người ở trong địa ngục của họ. Ho phải để Người hoạt động trong thân xác tội lỗi của họ để Người xem xét lại tất cả. Đức Giêsu đã xuống âm ty trước khi lên trời. Họ phải sống với Người mầu nhiệm này. Hãy sống với Người lời mời gọi tiến về trời, ra khỏi những địa ngục.

Sống được mầu nhiệm này, con người sẽ tìm được bình an, thứ bình an xoa dịu tất cả, thứ “bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4,7).

Thần Khí cho mọi người

Lần đầu tiên trong Mùa Phục Sinh, Tin Mừng xác định rõ là Chúa Thánh Thần sẽ đến. “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần … sẽ dạy anh em mọi điều.”

Phải chăng đã đến ngày mà ông Mô-sê đã thoáng thấy từ xa xưa ? Trên đường trở về Đất Hứa, theo lệnh Đức Chúa truyền, ông Mô-sê đã tập họp bảy mươi người trong số kỳ mục của dân và đặt họ đứng chung quanh Lều Hội Ngộ (x. Ds 11,24). Và Thần khí Thiên Chúa đã đến trên những người này. “ Nhưng việc đó không tái diễn nữa!”

Cũng theo sách Dân Số, Thần Khí Thiên Chúa còn đậu xuống trên hai người không đến Lều Hội Ngộ. Thấy vậy ông Giô-suê nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!”. Ông Giô-suê làm thế vì tưởng rằng như vậy là giữ uy tín cho thầy của mình. Chỉ riêng mình ông Mô-sê hay những người nào cùng ở với ông mới được lãnh nhận Thần Khí. Nhưng ông Mô-sê trả lời: “Anh ghen giùm tôi à? Phải chăng Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ !” (x. Ds 11,26-29).

Vậy, Thần Khí Thiên Chúa đã đến trên mọi tín hữu, trên Hội Thánh. Thần Khí vẫn đang hoạt động, như Đức Giêsu đã hứa. Tuy nhiên người tín hữu vẫn cần phải kêu cầu và chờ đợi Thần Khí, bởi vì họ chưa hoàn toàn ưng thuận để Người phá bỏ những rào cản, những hình thức đóng khung, những nỗi sợ hãi. Đang khi họ tuyên xưng Đức Giêsu, đang khi họ quy tụ để tưởng niệm Đức Giêsu, họ vẫn không ý thức rằng họ đang khép kín nơi chính mình, nơi những cơ cấu, những tổ chức. Họ tự hào về sự an toàn, về những xác tín của mình. Họ nghĩ rằng mình đã có Thần Khí, nhưng thật ra Người lại ở xa họ, và đang đợi họ ở bên ngoài.

Dầu vậy, trong mỗi Kitô hữu cũng như trong Hội Thánh, Thần Khí vẫn đang hiện diện và thôi thúc mỗi người và Hội Thánh tiến về phía trước. Thế giới đã được mở rộng và mỗi người có thể tiến bước mà không sợ hãi gì cả. Giả như có một lúc nào đó người Kitô hữu có cảm tưởng như mình lạc mất Đức Giêsu, thì chính Thần Khí sẽ giúp họ tìm lại được Người nơi những anh em. Tại đó, chính Đức Giêsu chờ đợi họ trong một cuộc gặp gỡ tràn đầy tình yêu.

Tin là sẵn sàng

Đức tin bảo đảm với chúng ta rằng Đấng Phục Sinh vẫn đang hiện diện khắp nơi trong thế giới, nhưng là hiện diện trong vắng mặt. Phải nhận rằng chúng ta ngày nay đang sống trong một tình trạng không rõ ràng: dù ý thức hay không, chúng ta luôn mang trong mình giấc mơ ngàn xưa về một vương quốc hữu hình và trật tự.

Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, Người không chấm dứt hoạt động. Cái chết của Người không phải là dấu chấm hết cho việc nảy sinh một thế giới mới, nhờ lời của Người. Công việc mới chỉ ở bước đầu. Người cần phải ra đi để lời này, thoát khỏi mọi giới hạn về không gian và thời gian, tiếp tục lan tỏa ra khắp thế giới, nảy mầm và đem lại hoa trái.

Đó là lời sống động bởi vì được Thánh Thần thổi vào. Người là Đấng gợi lên và thúc đẩy các sáng kiến của chúng ta. Lời đó được lặp lại không ngừng để giúp ta khám phá ra những ý nghĩa mới. Những ý nghĩa này xuất hiện dần dần tùy theo mức độ chúng ta quy chiếu vào Tin Mừng để nhận định các biến cố, để lựa chọn và để hành động.

Như vậy, thời gian Đức Giêsu vắng mặt cũng là thời gian để chúng ta thi hành trách nhiệm của mình. Chúng ta không được phép ẩn mình trong những điều kiện có sẵn, nhưng trong đức tin và niềm hy vọng, chúng ta sẵn sàng đối đầu với những nguy cơ để tìm ra những giải pháp táo bạo cho những vấn đề luôn luôn mới do cuộc sống tạo nên. Chúng ta đạt tới thái độ sẵn sàng này nhờ lòng tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa, nhờ hoạt động của Thánh Thần. Lúc đó, cuộc sống của chúng ta quả là kỳ diệu. “ Thánh Thần và chúng tôi quyết định …” (Cv 15,28).

Lạy Cha,

mỗi biến cố và mỗi cuộc gặp gỡ

đều nói với chúng con về Đức Giêsu.

Xin cho chúng con biết đón nhận

cách khiêm tốn hơn,

sự hiện diện của Người

bằng cách dẹp bỏ tính kiêu căng.

Bởi vì chúng con biết rằng:

Ai tin vào Đức Kitô

hơn là tin vào chính mình,

người ấy đã có trong mình

sự sống đích thực của Đức Kitô.

theo R. Guelluy


Fr Jude Siciliano,OP.

Bình An Của Đức Kitô Ga
14,23-29

Thưa qúi vị,

Còn hai tuần nữa là đến lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, cho nên chúng ta được nghe “tiếng đồn” về Ngài trong hai bài đọc thánh lễ hôm nay. Sở dĩ có như vậy là vì các tín hữu tiên khởi đã cần đến sự hiện diện của Ngài để giải quyết những mâu thuẫn khá nghiêm trọng trong qúa trình phát triển Giáo hội

Bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông đồ Công vụ đoạn 15, các tín hữu gốc Do thái, có lẽ là những cựu biệt phái, muốn áp đặt luật Mô-sê, nhất là hai luật cắt bì và kiêng ăn lên những tân tòng của Hội thánh. Họ muốn các tân tòng gốc dân ngoại phải trở thành người Do thái trước đã rối mớ thành Kitô hữu như họ vậy. Ý kiến thứ hai của Phaolô và Barnaba ngược hẳn lại (chính Barnaba cũng là người dân ngoại trở lại) cho rằng không cần.

Trên con đường rao giảng tin mừng, Phaolô gặp toàn thất bại trong các hội đường Do thái, thậm chí nhiều lần còn gặp nguy hiểm đến tính mạng, cho nên ông đã quay sang dân ngoại và gặt hái được nhiều thành công. Trong lời rao giảng cho dân ngoại, ông không hề đả động đến luật Mô-sê. Ông dạy rằng chỉ cần tin vào Chúa Giêsu, sự chết và phục sinh của Ngài là đủ để được ơn cứu rỗi. Thiên Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho tất cả nhân loại qua sự chết và phục sinh của Con Ngài mà không cần phải tuân giữ luật Mô-sê tức giao ước cũ. Mâu thuẫn thật là sâu sắc và dễ bùng nổ. Ở thời điểm này, Hội thành Giêrusalem có quyền ra quyết định tối hậu, vì vậy Phaolô và Barnaba và các đồng sự khác lên Giêrusalem để gặp các tông đồ và kỳ mục xin ý kiến. Cuộc gặp mặt này là cuộc gặp mặt đầu tiên của Giáo hội, ngày nay người ta gọi là công đồng Giêrusalem. Hội thánh Giêrusa-lem đã không gặp nhiều khó khăn khi thâu nhận dân ngoại vào cộng đồng mà phần đông là người Do thái. Nhưng khi lời giảng của Phaolô đã lập nên nhiều giáo hội hoàn toàn dân ngoại, không có gốc gác chi với do thái, hoặc sát nhập vào truyền thống Do thái, thì nẩy sinh nhiều vấn đề tín lý và phong tục .

Đối với truyền thống tín hữu ở Giêrusalem thì hình như các giáo đoàn dân ngoại được hưởng qúa nhiều tự do, cho nên họ cảm thấy khó chịu với ý nghĩ rằng Kitô giáo có lẽ sẽ trở nên rộng lớn và không còn kiểm soát được nữa, bởi nó đã vượt ra ngoài ranh giới do thái. Nó đang trở nên tôn giáo của dân ngoại. Nếu thế thì vị trí của các tìn hữu tiên khởi sẽ ra sao ? Họ còn có ảnh hưởng gì nữa haykhông ? Nếu nó đi lạc khỏi đức tin chân thật vào Chúa Giêsu, Đấnh Thiên Sai thì ai sẽ uốn nắn lại ? Ai sẽ hướng dẫn Giáo hội trên đường ngay nẻo chính nếu nó trở nên qúa cồng kềnh, qúa xa trung tâm tôn giáo lúc ấy là Giêrusalem? Nhưng công đồng đã can đảm đồng ý với Phaolô và các cộng sự viên của ông, gởi một lá thư bày tỏ những quyết định của mình cho Giáo đoàn Antiokia, không bắt các dân ngoại phải gia nhập Do thái giáo như con đường dẫn tới Chúa Kitô. Thật là một quyết định đầy khôn ngoan và cách mạng. Quyết định của Chúa Thánh Thần. Bởi lẽ theo não trạng lúc bấy giờ, phép cắt bì là con đường sinh tử dẫn tới ơn cứu độ của lời hứa Abraham, tương tự như phép thánh tẩy của giáo hội ngày nay. Chính thánh Phaolô cũng bị áp lực cắt bì cho Timôtêô để tránh gương mù (Cvtđ,16,3). Còn về kiêng ăn thì được giữ cho tới mức tối thiểu, chỉ có 4 điều. Thánh Giacôbê cầm đầu giáo đoàn Giêrusalem dạy cho các giáo đoàn ngài có ảnh hưởng. Thánh Phaolô chẳng nói gì hết, như thế có nghĩa là sự hoàn toàn đồng nhất về phong tục không phải là vấn đề lớn đối với các tín hữu tiên khởi .

Tác gỉa Raymond Brown nhận xét rằng trong hội nghị Giêrusalem không ai dám lên tiếng công khai bênh vực lập trường các tín hữu gốc dân ngoại không phải giữ lề luật Mô-sê, bởi vì chính Chúa Giêsu đã không miễn trừ cho Ngài lề luật đó, nếu không phải giữ thì Ngài đã tuyên bố như vậy. Thực tế thì Ngài đã giữ hết mọi điều lề luật dậy. Ngày nay lý luận này vẫn còn được dùng trong các vấn đề nóng bỏng của Giáo hội, thí dụ phụ nư làm linh mục, ngừa thai …

Công vụ các Tông đồ thường được coi là Công vụ của Chúa Thánh Thần. Qua những kinh nghiệm như kinh nghiệm hội nghị này, giáo hội tiên khởi đã ý thức được Chúa Thánh Thần đang ngự giữa Hội thánh. Họ nhận ra Chúa Giêsu vẫn ở với họ qua sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, cho nên các quyết định của họ là hợp ý Chúa:”Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không buộc anh em phải giữ điều gì khác, ngoài những điều cần thiết này…”. Dựa vào đâu mà Giáo hội tiên khởi tự tin rằng Chúa Thánh Thần đã ở với họ trong vấn đề nghiêm trọng của tín lý ? Trước hết, kết luận của họ hợp với tin mừng của Chúa Giêsu mà họ đang rao gỉang. Họ nhớ lại khi Chúa ngồi ở bàn ăn với họ, thì Ngài không loại trừ ai, Ngài chấp nhận tất cả “người thân cũng như người sơ”,”bạn hữu cũng như kẻ thù”. Và tất cả đều đặt lòng tin vào Ngài để được ơn cứu độ chứ không phải vì tuân giữ tập tục và lề luật. Dĩ nhiên Giáo hội tiên khởi cũng có lúc ngần ngại đối với sự đe dọa của khác biệt về chủng tộc, màu da, ngôn ngữ. Nhưng thánh Phaolô trong các thư của ngài đã cực lực phản đối thái độ này. Ngài nói : “Không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả anh em là một trong Đức Kitô” (Gl.3,28). Trong Giáo hội không có tín hưũ hạng hai hay tín hữu hạng một, tất cả đều là công dân Nước Trời đầy đủ và trọn vẹn.

Với kinh nghiệm như thế, hội nghị Giêrusalem đã không có ý tưởng kỳ thị bất cứ một ai, một dân tộc nào. Cuộc họp của họ thân tình và đoàn kết thể hiện sự có mặt của Chúa Thánh Thần. Họ không dựa vào một ai đó có các câu trả lời “có sẵn”. Họ bàn bạc và lắng nghe nhau cho dù có nhiều ý kiến đối nghịch bởi những nhóm khác nhau về văn hóa, phong tục. Cuối cùng họ đồng thanh, nhất trí đi đến một kết luận chung, hoàn toàn dựa vào đức tin và gương lành của Chúa Giêsu, họ đang trở nên một Giáo hội rộng mở. Nếu họ vội vã lấy một quyết định hẹp hòi dựa trên những lời dạy và thục hành của các kỳ mục Giêrusalem thì Giáo hội sẽ chẳng bao giờ vượt khỏi ranh giới do thái và các vùng phụ cận .

Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đã gần kề, trong ngày đó chúng ta cũng cử hành sự khác biệt về chủng tộc màu da, ngôn ngữ nhưng duy nhất về đức tin. Mọi người đều nghe Chúa Thánh Thần nói trong ngôn ngữ của mình. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Hội thánh trước khi họp công đồng Giêrusalem. Công đồng Giêrusalem đã lắng nghe sứ điệp của Ngài rất chính xác, quyết định của họ cho đến ngày nay vẫn được nhận biết là tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua dân ngoại. Quyết định của giáo xứ chúng ta ra sao ? của hợp nhất hay chia rẽ. Qua kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần hay về tiền bạc, tự ái, chức quyền?… đây cũng là bài học qúy báu về truyền giáo, hội nhập văn hóa cho chúng ta ngày nay.

Qua bài tin mừng, chúng ta có 3 đề tài quan trọng để khai triển : 1. Tình yêu là động lực kết hiệp chúng ta với Chúa. 2. Lời hứa ban Chúa Thánh Thần. 3. Bình an và hoan lạc Chúa Kitô ban khi Ngài trở về với Thiên Chúa Cha. Rao giảng cả ba đề tài này trong một thánh lễ thì qủa là qúa tải. Tốt hơn nên chọn một hoặc hai .

Chúng ta đang chờ đợi Lễ Ngũ Tuần, như vậy chúng ta có thể khai triển về vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội. Cộng đoàn Hội Thánh của Thánh Gioan tông đồ vào thời điểm tin mừng mang tên ngài được viết (khoảng năm 90) đang ở trong một tình trạng hết sức khó khăn, bên ngoài thì bị bách hại, bên trong thì chia rẽ, các tông đồ đã chết cả, những người trực tiếp chứng kiến Chúa Giêsu chịu hành hình cũng đã qua đời. Vậy mà Chúa vẫn chưa trở lại ! Họ đang cần sự hiện diện của Ngài một cách tuyệt vọng. Bám víu vào đâu để được an ủi mà đứng vững ? Chính là nhưng biểu hiện của Chúa Thánh Linh Qua Chúa Thánh Linh, qua những công việc của Ngài làm trong Giáo hội mà họ biết tinh thần của Chúa Giêsu vẫn hằng ở với họ . Họ chẳng phải vất vả để được Chúa Thánh Linh. Ngài được ban không cho họ nhờ lòng rộng rãi của Thiên Chúa. Chúa Thánh Linh giữ vai trò sinh tử để Hội thánh sống đức tin của mình. Hội Thánh cần sự hiện diện của Ngài để sống còn và phát triển. Bài đọc thứ nhất đã minh chứng điều đó. Thánh Thần sẽ được ban xuống trong Danh của Đức Giêsu để nối kết mỗi cuộc đời chúng ta với Chúa, dậy dỗ chúng ta biết tháp nhập trọn vẹn vào cuộc đời của Chúa trong nếp sống hằng ngày. Với những hoạt động như thế của Thánh Linh ở giữa Hội Thánh chúng ta có bằng chứng đầy đủ về sự hiện diện của Chúa Giêsu trên thế gian .

Đề tài khác chúng ta có thể loan báo hôm nay là về ơn bình an của Chúa Giêsu khi Ngài lìa bỏ các tông đồ. Trong cộng đồng do thái từ “Bình an” (shalom) mang khá nhiều ý nghĩa. Lời chào gặp nhau hay từ biệt ngụ ý chúc cho cộng đoàn dân Chúa sống hòa hợp, lời chúc của một cuộc sống đầy đủ, lời chúc một cuộc đời hạnh phúc… tất cả đều qui chiếu về ngày Đấng Messia ngự đến. Chúa Giêsu mang bình an và mọi ý nghĩa mà từ đó gói ghém cho các môn đệ Ngài. Chính Ngài là Đấng Messia cho nên bình an của Ngài là bình an của Thiên Chúa,đáp ứng ước vọng dân Do thái và loài người. Bình an trong yêu thương và hoan lạc chân thực không giống như bình an gỉa hiệu của thế gian. Vì vậy, người môn đệ của Chúa có bổn phận khơi dậy thứ bình an này trên toàn thế giới, để dập tắt hận thù, chiến tranh, chia rẽ và lập nên cộng đồng shalom nhân loại. Trong mùa phục sinh này đa phần tín hữu đều cảm nghiệm được ơn cứu độ, được bình an của Chúa Giêsu và trong thánh lễ hôm nay, bên bàn tiệc Thánh Thể chúng ta lại lần nữa được ơn bảo đảm thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng. Liệu chúng ta có biết chia sẻ thứ bình an quí báu này cho anh chị em chung quanh ? Liệu chúng ta có biết xây dựng một thế giới biết cảm nghiệm shalom của Chúa Giêsu và sự hiện diện của Chúa Thánh Thần? Tôi hy vọng là được. Amen.


Fr Jude Siciliano,OP.

Hoa Quả Của thánh Thần
(Ga 14, 23-29)

Thưa quý vị.

Trong đời sống gia đình, thể nào cũng có một ngày trọng đại. Ngày công bố nội dung tờ di chúc, cha mẹ đã già cả, chẳng còn sống được bao lâu, thường để lại ý muốn của mình cho con cháu về vấn đề tài sản; ngõ hầu sau khi qua đời thì mọi sự được rõ ràng, khỏi xảy ra tranh chấp. Lúc ấy các con phải có mặt, cha mẹ chia phần cho từng đứa và giải thích lý do tại sao các ngài làm như vậy. Trong trường hợp gia đình hoà thuận, yêu thương thì có lẽ người chị cả sẽ nói : “Thưa bố mẹ, con và chồng con làm ăn khấm khá rồi, có công ăn việc làm đều đặn và tương lai ổn định. Chúng con nhất trí nhường phần gia tài của tụi con cho gia đình của cậu em. Vợ cậu bất toại. Con cái lại còn nhỏ, chưa giúp đỡ được chuyện chi, gia đình nheo nhóc. Tụi con xin cha mẹ chấp thuận”.

Tuy nhiên, nếu gia đình chia rẽ và ghen ghét nhau, hoặc trong quá trình sống cha mẹ không giáo dục con cái tốt, để chúng đặt của cải lên trên hết, thì bức tranh khác hẳn, sẽ có những cuộc cãi cọ tranh giành : Tại sao tụi nó được phần hơn tụi con, trong khi chúng con phụ giúp bố mẹ nhiều hơn, vợ chồng nó suốt ngày lười biếng, ăn bám, phá hoại và lêu lổng. Chúng có yêu bố mẹ đâu ?” Tin Mừng hôm nay mô tả Chúa Giêsu và các môn đệ ở hoàn cảnh tương tự trong bữa tiệc ly, tuy rằng là duy nhất. Đối với Chúa Giêsu, Ngài biết rõ cuộc đời dương thế chấm dứt, các môn đệ cũng linh cảm điều chi quan trọng sắp xảy ra; cho nên bao lâu còn sống, ngồi ăn với các môn đệ, Ngài tuyên bố “di chúc” và “chứng từ” cuối cùng của đời mình. Ngài sẽ để lại cho họ những trăn trối, ngăn ngừa chia rẽ và đổ vỡ. Ngài chỉ đạo cho họ phải làm chi sau khi Ngài ra đi, để họ vẫn sống trung thành như các tông đồ của Ngài. Ngài sẽ phân chia “tài sản thiêng liêng” cho họ. Nhưng liệu có ai được hơn, ai phải chịu phần kém ? Ai sẽ được ưu ái, ai sẽ ra rìa ? Ngài để lại điều chi có khả năng tồn tại vinh hiển chứ không phải chỉ là ký ức chóng qua, mai một trong vài thế hệ ? Hẳn quý vị đã đoán ra giải pháp của Ngài ! Giải pháp đó xứng với sự khôn ngoan thượng trí của Đức Chúa Trời. Nếu chưa tôi xin mách bảo. Ngài trối lại chính bản thân Ngài sống động trong Thần Khí : “Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Như vậy, cùng với sách Công Vụ Tông Đồ, Phúc Âm hôm nay nhắc nhở chúng ta di chúc của Chúa Giêsu là Thần Khí. Tài sản này không nằm ở lãnh vực vật chất mà hoàn toàn thiêng liêng, không thế hệ tín hữu nào có thể tiêu phí, tẩu tán hoặc làm hao mòn. Thần Khí luôn hiện hữu trong Hội Thánh, trong từng linh hồn sống động và tươi trẻ. Chúa Giêsu gọi Thần Khí ấy là Đấng bảo trợ. Như vậy kho tàng của cải của Giáo Hội không phải là vàng bạc đá quý mà là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn ở với Hội Thánh và gần gũi Hội Thánh. Trong mọi hoàn cảnh, những tình huống khó khăn, Hội Thánh có thể cậy dựa vào Chúa Thánh Thần. Ngài là sức mạnh, bênh vực mọi tín hữu, nói cách khác, Chúa Thánh Linh luôn đồng minh với chúng ta, về phe với chúng ta chống lại sa tan, thế gian và xác thịt. Chẳng có di chúc nào cao quý và vững chắc hơn. Nếu hiểu ra, ắt hẳn các tông đồ lòng đầy vui mừng và vững tin. Chẳng những các tông đồ mà chúng ta ngày nay cũng vậy, miễn là giữ được điều kiện của Chúa.

Điều kiện đó là tuân giữ lời Ngài : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Lòng yêu mến này không phải là tình cảm dạt dào chóng qua. Nó sẽ bay thành hơi khói khi gian nan tới hay dục vọng thấp hèn tấn công; nhưng là quyết tâm mạnh mẽ và vững bền sống theo những điều Chúa dạy, ghi khắc vào linh hồn những gương sáng của Ngài. Do đó tuân giữ lời Ngài là dấu chỉ cụ thể chúng ta mến yêu Ngài. Lời nói suông chẳng có ý nghĩa gì, việc làm mới chứng tỏ chúng ta yêu Ngài đích thực. Tuy nhiên tự sức mình các tông đồ, các tín hữu, không thể thực hành những điều Chúa truyền dạy: Tha thứ cho kẻ thù, vả má bên trái đưa luôn má bên phải, cho kẻ đói ăn và kẻ khát uống, chống lại những bất công đến cùng đâu phải là chuyện dễ, mà lại phải làm liên tục, đòi hỏi can trường và kiên nhẫn. Chúng ta cần đến sự trợ lực của Chúa Thánh Thần. Cho nên khi tuyên bố chứng từ di chúc của mình, Đức Giêsu đã để lại một đảm bảo là chúng ta sẽ trung thành thực hiện lời Ngài. Chúng ta kinh nghiệm sâu xa đời sống mới trong linh hồn mình nhờ Thần Khí; Ngài chăm lo trước sự an lành của mỗi linh hồn và toàn thể cộng đoàn Hội Thánh bằng một thứ “an bình” mà loài người không thể ban được. Đó là Chúa Thánh Linh, ngõ hầu mọi người sống xứng đáng danh hiệu tín hữu của Chúa Kitô trong một thế giới luôn thay đổi, bất an và bạo loạn.

Khi suy niệm bài đọc Tin Mừng này, chúng ta nên để ý đến công việc của Chúa Thánh Thần: “Đấng bảo trợ là Chúa Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại những gì Thầy đã nói với anh em”. Với nhiệm vụ là Đấng bảo trợ, Thần Khí sẽ ngự giữa Giáo Hội như Chúa Giêsu đã luôn hiện diện với các tông đồ. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ gởi Thánh Thần xuống trên mỗi tín hữu, cho nên chúng ta chẳng cần thực hiện những kỳ tích để lãnh nhận Ngài. Chỉ phải sống trong danh Đức Kitô và Thần Khí sẽ nối kết chúng ta với Ngài. Đúng theo lời Chúa Giêsu, Thánh Linh sẽ dạy dỗ Hội Thánh, biến Hội Thánh thành hiền thê trong trắng và thánh thiện. Đó là lời an ủi khích lệ các tông đồ, những người nhát đảm và hay lãng quên. Họ cần Thánh Thần giúp đỡ để áp dụng Lời Chúa trong các hoàn cảnh mới.

Nhưng điểm nhấn của Tin Mừng hôm nay là Thần Khí hiện diện trong cộng đoàn. Khám phá Thần Khí trong từng cá nhân chưa đủ, phải là toàn thể cộng đoàn. Bởi lẽ Ngài hướng dẫn và nuôi dưỡng Hội Thánh. Đức tin không chỉ có nghĩa cá nhân mà còn phải liên quan đến cộng đồng, đặt nền tảng trên đức tin Hội Thánh. Giữa tôi và cộng đoàn phải có sự liên hệ hữu cơ, giáo lý Vaticanô II dạy : “Tôi tin, chúng tôi tin”. Mối liên hệ này rõ nét ngay từ buổi đầu của Hội Thánh. Công đồng Giêrusalem đã giải quyết vấn đề dân ngoại trở lại bằng một hợp ý chung : “Vì thế chúng tôi đồng tâm nhất trí quyết định…” nghĩa là Hội Thánh đã bàn bạc và hành động dân chủ, không áp đặt ý kiến riêng tư lên trên cộng đoàn. Vấn đề, nếu hiểu ra, thì rất quan trọng và ảnh hưởng sinh tử đến Giáo Hội non trẻ.

Hai tông đồ Phaolô và Barnaba rao giảng tại miền cận đông, nhiều người dân ngoại như Hy Lạp, La Mã, Capađôcia, Pontô đã nghe theo lẽ phải và trở lại tôn thờ Thiên Chúa của dân Israel, tôn thờ Đức Giêsu cứu thế. Họ khát khao được Ngài hướng dẫn và cứu độ. Câu hỏi nảy sinh là họ có phải giữ luật Môsê không ? Cụ thể là luật cắt bì và kiêng ăn. Các tín hữu gốc Do Thái từ Giuđêa (có lẽ là cựu biệt phái) xuống Antiôkhia nói là có: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê, thì anh em không thể được cứu độ”. Họ theo đúng não trạng và lương tâm của dân tộc mình, Kinh Thánh đã dạy rõ ràng như thế, từ chối là đi trệch con đường Thiên Chúa muốn. Người Do Thái ngoan đạo không bao giờ dám làm. Ngược lại Phaolô và Barnaba cho rằng không cần, chỉ tin vào Chúa Giêsu, sự chết và sống lại của Ngài là đủ để được ơn cứu độ. Câu chuyện thật khó khăn, không như chúng ta nghĩ ngày nay. Nếu giữ luật Môsê để được cứu độ thì cuộc nhập thể, khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu bằng thừa. Mặt khác, nếu không phải giữ thì đạo Do Thái bị phá sản, các giao ước Thiên Chúa lập ra với tổ phụ xem ra không còn giá trị. Tiến thoái lưỡng nan, quay phía nào cũng gặp bế tắc.

Nhưng Giáo Hội tiên khởi đã được Chúa Thánh Linh chỉ dẫn nên đã đưa ra sáng kiến phù hợp với chân lý và lẽ phải: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác, ngoài những điều cần thiết này là kiêng ăn đồ đã cúng ngẫu tượng, không ăn tiết canh, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”. Đúng là một sự nhất trí và can đảm lạ lùng. Ơn Chúa Thánh Linh đã ban cho cộng đoàn tông đồ quyền bính chỉ đạo sáng suốt tài tình. Quyền bính đi theo đường lối của Thiên Chúa mà không làm xáo trộn lương tâm các tín hữu; ngược lại, ban cho họ sự thánh thiện và bình an. Suốt dòng lịch sử, Giáo Hội luôn có nhu cầu về những quyết định loại này và sự đáp trả hữu hiệu. Tuy nhiên chỉ dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh, chúng ta mới được hưởng những ân huệ ấy mà thôi.

Ngay sau khi hứa ban Thần Khí, Chúa Giêsu để lại điều quan trọng bậc nhất cho các tông đồ: Bình an của Ngài: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian”. Chính nhờ ân huệ bình an này mà Hội Thánh tiên khởi đã hành động hàn gắn những chia rẽ, bất hoà ngay khi manh nha và tiếp tục công việc mang bình an Chúa Giêsu đến cho toàn thế giới. Nếu như cộng đoàn tuyên xưng đức tin vào Hoàng Tử Bình An mà còn đầy bất hoà, chia rẽ và chống đối thì làm thế nào rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu cho nhân loại? Cho nên Giáo Hội phải giải quyết ngay những khó khăn nội bộ thì mới có hy vọng thuyết phục thiên hạ tin kính Chúa Giêsu. Một nguyên tắc luôn được ghi nhớ: Ơn thánh của Thiên Chúa không bao giờ mang tính chia rẽ, nó luôn đoàn kết và nhất trí. Chỉ sa tan và tội lỗi mới gây bất hoà.

Cho nên ở đâu có chia rẽ ở đấy có bóng dáng tội lỗi. Điều này đúng trong gia đình, cộng đồng, xã hội và toàn thế giới: Chém giết, chiến tranh không đến từ tình thương Thiên Chúa, mà từ bụng dạ xấu xa của con người. Chúa Giêsu ban Thần Khí cho Hội Thánh là để biến đổi các tín hữu thành sứ giả hoà bình. Sứ giả trong lòng Giáo Hội và trên thế giới. Có rất nhiều bất ổn trong các Giáo Hội tiên khởi. Nó còn kéo dài mãi cho đến ngày nay. Nhưng Hội Thánh còn tồn tại được là nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn. Giữa các tín hữu luôn nảy sinh nhiều sức mạnh hiệp nhất và bình an. Thánh Luca mô tả Chúa Thánh Linh là nguyên lý của sự hiệp nhất đó. Ngài thu thập mọi màu da, tiếng nói, sắc tộc vào lòng Giáo Hội, nhưng vẫn duy nhất trong đức tin.

Theo dòng thời gian, Giáo Hội có nhiều nền văn hoá, phong tục, ý kiến, nhưng hoàn cảnh không cho phép phá vỡ sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu đã tha thiết xin cùng Chúa Cha trước khi Ngài chịu chết. Lễ Chúa Thánh Thần đã gần kề, giáo xứ chúng ta cũng bắt đầu cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Những chia rẽ quá khứ đã gây nhiều thiệt hại, phải rút kinh nghiệm cho tương lai. Thần Khí của Chúa chính yếu mang tính tông đồ. Khi lãnh nhận Ngài, chúng ta cũng lãnh nhận sứ vụ của Ngài. Chúng ta lãnh nhận bình an Chúa Kitô thì cũng phải gieo rắc bình an cho thế giới. Tín hữu phải là kẻ kiến tạo hoà bình, khởi sự từ bản thân, họ hàng và giáo xứ. Chúa Thánh Thần ngự trên cộng đoàn các tông đồ không phải một lần rồi thôi, nhưng ở lại và hoạt động với các ông; để làm cho Chúa Giêsu luôn hiện diện và thúc đẩy chúng ta đem ơn Phục sinh cho thế gian. Như vậy ngay lúc này Thánh Thần vẫn đang ở giữa Giáo Hội như xưa Chúa Giêsu ngự giữa các tông đồ. Khi Chúa ban bình an cho các ông thì Ngài cũng nhắc nhớ Ngài sẽ trở lại. Thực sự Ngài đã giữ lời hứa và trở lại bằng Thần Khí. Cho nên Ngài luôn có mặt giữa Hội Thánh, chỉ có trở ngại là chúng ta hay quên.

Nếu như Phúc Âm dạy dỗ chúng ta điều chi thì đều bảo đảm rằng, Thần Khí sẽ ở với chúng ta, giúp đỡ chúng ta đi theo đúng đường lối Chúa Giêsu. Các tác giả đều viết Tin Mừng sau lễ Hiện Xuống. Cho nên, tâm hồn của họ tràn đầy Thánh Linh, họ mô tả cuộc đời Chúa Cứu Thế đúng như Thánh Linh soi sáng. Nước Thiên Chúa mà họ truyền lại các thế hệ tín hữu là chữa lành bệnh tật, tha thứ xúc phạm, rao giảng hoà bình, dạy dỗ thánh ý Thiên Chúa. Lúc này đây cũng dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Linh, chúng ta có bổn phận tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu và Thần Khí cũng vẫn sẵn sàng giúp đỡ thi hành nhiệm vụ đó. Cho nên: “Lạy Chúa Thánh Linh, xin ngự đến”. Amen. Halleluia.


Giacôbê Phạm Văn Phượng op

Bằng chứng của tình yêu
(Ga 14,23-29)

Sống ở trần gian, ai cũng phải trải qua những giây phút lo âu. Lo âu về tương lai, về gia đình, về con cái, về tiền bạc, về công việc làm ăn, về sức khỏe. Những lo âu ấy như một chất thuốc độc tác hại vào tâm hồn và cướp đi những niềm vui trong lành, những giấc ngủ bình an, khiến chúng ta luôn băn khoăn, khắc khoải.

Chúng ta tìm mọi cách để giải thoát mình khỏi những lo âu. Chẳng hạn : đánh một con số đề, mua một tấm vé kiến thiết để bớt đi những lo âu về tiền bạc. Lao mình vào rượu chè và những thú vui khác nữa để tìm lấy những giây phút thoải mái. Uống một viên thuốc an thần để có được một giấc ngủ nặng nề. Đi thầy bói, thầy tướng, thầy số để kiếm tìm một bảo đảm cho tương lai hậu vận. Tất cả những việc làm ấy, nếu không muốn nói là nhảm nhí, thì cũng chỉ là những giải pháp tạm thời, thiếu căn bản và không nền tảng.

Có một người đàn bà kia lo âu trước viễn tượng một ngày mai đen tối của bản thân và con cái vì ông chồng vừa mới qua đời. Bà suy đi nghĩ lại mà vẫn không tìm ra lối thoát. Sau cùng, bà đến hỏi ý kiến một luật sư, bà ngồi ở phòng đợi và chờ đến lượt mình được kêu vào để giãi bày sự việc. Cặp mắt lo âu đảo quanh phòng, bất ngờ dừng lại trước tấm ảnh thánh Phan-xi-cô Át-si, vị thánh của niềm vui và hạnh phúc.

Bức ảnh rất bình thường. Thánh nhân với một vầng hào quang ở trên đầu, còn dưới chân có những con chim sẻ nhỏ được ngài chăm sóc. Tuy nhiên, bức ảnh đã có một tác động lớn, đến độ đã biến đổi hẳn tâm hồn của người đàn bà lúc bấy giờ.

Bà hồi tưởng lại những gì đã biết về thánh nhân : sống hồn nhiên vô tư, không lo gì đến cả của ăn cho mình và cho các thầy dòng, hoàn toàn phó thác trong bàn tay yêu thương của Chúa.

Bà cố gắng thực hiện như thánh nhân đã làm, đó là coi nhẹ những lo âu. Dù xảy ra thế nào chăng nữa, thì cũng không ngoài thánh ý Chúa. Dù có thất bại, thì biết đâu trước mặt Thiên Chúa, lại là một điều tốt. Bà đã sống theo lời khuyên sau đây của thánh Phê-rô : “Hãy dâng mọi lo âu cho Chúa và hãy đặt chúng vào bàn tay của Ngài”.

Có thể chúng ta sẽ mỉm cười và bảo : điều đó nói thì dễ nhưng làm thì khó, bởi vì trong thực tế chúng ta luôn bị những lo âu dằn vặt. Thánh Phê-rô không phải là ngưòi viển vông và mơ mộng, ngài đã trải qua những khó khăn, vất vả cũng như đã từng có những phút giây yếu đuối và sa ngã, ngài đã nghiệm ra rằng Thiên Chúa chính là một người Cha hằng yêu thương, chăm sóc và tha thứ cho chúng ta, vì thế, hãy phó thác mọi lo âu cho Chúa. Nếu xác tín và tin tưởng như vậy, chúng ta sẽ không còn bị lo âu dằn vặt.

Đàng khác, cũng trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết :“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Một câu Kinh Thánh đó thôi đủ để định nghĩa thế nào là người yêu của Chúa, thế nào là một người yêu mến Chúa.

Nếu có ai hỏi chúng ta hay nếu chúng ta tự hỏi mình : làm sao chúng ta biết được chúng ta có yêu mến Chúa hay không, và yêu mến Chúa nhiều hay ít ? Chúng ta căn cứ vào đâu để trả lời ? Thưa, có một dấu hiệu, một bằng chứng , đó là có tuân giữ lời Chúa hay không. Và cái thước đo lòng yêu mến của chúng ta nhiều hay ít, là chúng ta tuân giữ lời Chúa nhiều hay ít : giữ nhiều là yêu mến nhiều, giữ ít là yêu mến ít.

Hơn nữa, người yêu mến Chúa thật là người yêu mến Chúa bằng hành động, là thực hành lời Chúa. Nếu chúng ta nói chúng ta yêu mến Chúa mà chúng ta không thực hành những lời Chúa dạy, thì có khác gì đứa con “gọi dạ bảo vâng” , chỉ vâng vâng dạ dạ mà không chịu làm việc cha mẹ sai bảo, thì tình yêu của chúng ta chỉ là một thứ tình yêu đầu môi chót lưỡi mà thôi.

Như thế chúng ta sẽ là người không yêu mến Chúa khi chúng ta không làm như lời Chúa dạy, chúng ta sẽ là người ghét Chúa khi chúng ta làm sai lời Chúa dạy, chúng ta sẽ là người phản bội lời Chúa nếu chúng ta tránh né, bỏ bê hay lười biếng không làm những việc đáng phải làm. Vì thế, Chúa luôn nhấn mạnh đến ích lợi và giá trị của việc nghe và làm theo lời Chúa : “Nghe và thực hành lời Chúa là xây nhà mình trên đá”, “Hãy làm theo lời Chúa, chứ đừng nghe suông mà tự lừa dối mình”. Cho nên, lý thuyết và thực hành phải đi song song với nhau mới có ích lợi, đó cũng là ý nghĩa của câu : đức tin không việc làm là đức tin chết.

Xin Chúa cho chúng ta biết thực hành lời Chúa, đó là bằng chứng chúng ta yêu mến Chúa, và không ai có thể trách chúng ta có lý thuyết đúng, có đạo lý hay mà không thực hành đúng, thì cũng như không.


Fr Jude Siciliano,OP

Thần Khí Chúa Ngự Trên Tôi Vì Tôi Thực Thi Thánh Ý Ngài
Ga 14, 23-29.

Thưa quý vị,

Theo thói thường, rời bỏ nơi chốn mình quen sống với người thân, bạn bè, làng giềng là khó, tưởng chừng như cắt đứt một quãng đời, cắt đi một khúc ruột, trừ phi chúng ta ra đi vì hận thù, vì khó khăn kinh tế, chính trị. Sự kiện này khiến chúng ta thông cảm với những người di cư, lỡ bước. Những bài hát “tha hương” lúc nào cũng buồn da diết. Một bà lão gần đây nói với tôi: “Con ghét cay ghét đắng nói câu “tạm biệt”. Con thấy khó nói lắm.” Giọng của bà xem ra độc nhất, gần như chỉ mình bà cảm được điều ấy. Thực tế thì hàng triệu người trên hành tinh này hàng ngày phải chịu cảnh ly hương. Dầu vậy, tâm lý bình thường thì chẳng ai yêu thích nói tạm biệt. Người ta thường nhìn trước vào những giây phút đó với lo sợ và buồn rầu, trừ phi vì tan vỡ gia đình, mất việc, hận thù. Chúng ta biết rằng mình đang bỏ lại đằng sau một thế giới quen thuộc, một quãng đường êm đềm để bước vào tương lai bất định. Chúng ta đã đầu tư quá nhiều tiền bạc, tình cảm, taì năng vào nơi chốn cũ, làm sao dứt áo ra đi? Vì thế thật đau xót khi phải vĩnh biệt!

 Để bù lại mất mát to lớn và tự yên ủi mình, chúng ta thường nói” see you again”. Tôi sẽ thăm ông bà, các bạn khi có thể, tôi sẽ điện cho anh, cho em, cho bố mẹ… và hàng trăm biểu hiện hứa hẹn khác, mặc dù biết đó là những lời hứa khó thực hiện. Những linh hồn yếu mềm, đa cảm thường để cho nước mắt tự do rơi, khóc cho vơi nhẹ nỗi lòng.

Chúng ta hiểu được tâm trạng của Chúa Giêsu và các môn đệ trong bữa tối vĩnh biệt hôm nay. Chúng ta đang ở quãng giữa của diễn từ cuối cùng (từ chương 13-17). Những chi Chúa nói với họ thật đau xót và đầy tâm huyết. Nếu người ta có chút lương tâm chẳng thể không thông cảm với hoàn cảnh. Thực tế tính nặng nề và nghiêm trọng bao trùm toàn thể căn phòng trên lầu, nơi họ ăn bữa vượt qua cũng là bữa vĩnh biệt để chia tay. Chúa Giêsu phải hết sức bình tĩnh để an ủi các môn đệ, những người mà Ngài thương yêu đến cùng: “Thày bảo thật anh em, Thày ra đi và lại đến cùng anh em” hoặc “Thày không bỏ anh em mồ côi, Thày sẽ trở lại cùng anh em.” Hoặc “Thày ra đi để dọn chỗ cho anh em, trong nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở”… và còn nhiều lời tương tự giống như tâm lý tôi vừa miêu tả ở trên, và còn hơn thế nữa vì giây phút này là giây phút quyết liệt. Đúng như khi chia tay, chúng ta thường cố gắng an ủi người ở lại, hứa hẹn với họ đủ điều tốt đẹp, nghĩa là vẫn luôn luôn tiếp xúc, luôn luôn hiện diện. Chúng ta làm hết sức mình để không mất đi những người yêu mến.

Trong suốt 5 chương sách, thánh Gioan đã mô tả tình cảnh biệt ly của Chúa Giêsu. Chúa cố gắng hết sức để an ủi các ông, hò hẹn với các ông rằng luôn tiếp xúc với các ông (stay in touch) bằng cách sai Chúa Thánh Thần ngự xuống: “Đấng bảo trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thày, Đấng ấy sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại những điều Thầy đã nói với anh em.” Chúa có quyền năng để làm trọn lời hứa, nhưng các ông không thể tưởng tượng nổi. Liệu ngày nay chúng ta hiểu nổi và tin tưởng vào Lời Chúa? Vì Ngài cũng nói với chúng ta như vậy trước khi về trời? Thiết nghĩ khó lắm, vì nếu chúng ta thông minh hơn các tông đồ, hẳn đã sống khác, chứ không ươn lười, tầm thường như hiện trạng: nhung lụa, tiện nghi, danh vọng, tiền bạc, miệng lưỡi. Bằng những lời hứa này, Chúa Giêsu không muốn chúng ta chỉ dựa vào ký ức về Ngài, về những lời dạy dỗ của Ngài. Vì Ngài biết các tông đồ chỉ là phàm nhân, và chúng ta cũng vậy, nên trí nhớ sẽ phải nhạt đi, có khi quên bẵng qua dòng chảy thời gian, nhất là lúc gặp khó khăn thử thách, cho nên Ngài gửi Thánh Thần xuống, để đảm bảo mọi sự cho chính xác. Không hiểu ngày nay, người ta sáng kiến nhiều cách hiểu Kinh Thánh, nhiều cách sống Phúc Âm bất chấp lời dạy dỗ của Giáo Hội, thì có phải là do Thánh Thần? Vì Thánh Thần chủ yếu ngự nơi Hội Thánh, nhất là nơi các Công Đồng! Thí dụ thần học giải phóng, thần học phi châu, á châu, giai cấp…Ngày nay người ta đòi quyền làm thần học theo ý mình. Lời hứa của Chúa Giêsu còn mang ý nghĩa nào không?

Lời từ giã của Chúa Giêsu mang ý nghĩa đặc biệt: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thày ban cho anh em bình an của Thày. Thày ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.” Ngài không nói: vui lên, mọi sự không đến nỗi tệ lắm đâu, mà nói Thày để lại bình an cho anh em. Thực tế, tình hình sẽ trở nên cay đắng cho Ngài và cho các môn đệ. Ngài sẽ bị bắt và bị giết, các môn đệ sẽ tan tác, trốn tránh. Nhưng Ngài ban cho họ bình an giữa những hỗn loạn đó và chúng ta ngày nay giữa chiến tranh, hận thù, tranh chấp kinh tế, chính trị, ý thức hệ, tôn giáo, luân lý. Liệu chúng ta có giữ được bình an, hay xao xuyến, sợ hãi vì thời cuộc? Bình an Chúa ban không phải bình an của thế gian. Nó là bình an trong tâm hồn. Bình an của một linh hồn thanh sạch, thánh thiện chứ không phải bình an vật chất hay trí tuệ. Bình an vật chất hệ tại cơm no, áo ấm, giàu sang, phú quý, an toàn kinh tế, xã hội, những thứ mà thế gian tìm kiếm, nhưng mau qua và chóng đổ vỡ. Bình an trí tuệ hệ tại thoả mãn óc tò mò, hiểu biết khoa học, chân lý. Bình an này cũng không bền vững và có giới hạn. Bình an Chúa ban không có giới hạn và bền vững mãi mãi, dầu thế giới có đổi thay và xáo trộn. Nó hệ tại một tâm hồn trong trắng sạch tội, sống bạn hữu với Thiên Chúa. Bình an làm thoả mãn hoàn toàn vì bền vững vĩnh viễn. Đó là thứ bình an của Chúa Thánh Linh trong Đức Giêsu Kitô. Bình an thế gian ban đổ vỡ khi tình hình trở nên tồi tệ, rã rời và thế giới không thể nâng đỡ lòng trí tín hữu. Sợ hãi vây bọc, tai hoạ vẫn đe doạ. Bình an của Chúa Giêsu khác hẳn. Ngài sẽ trở lại với họ, Thánh Thần sẽ kiện cường họ để đối mặt với bất cứ đe doạ nào của thế gian, ma quỷ và xác thịt, làm họ kiên vững trong lòng yêu mến, ngay cả khi đối diện với những cái chết đau đớn. Điều này đã được chứng minh suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội với biết bao vị anh hùng tử đạo. Thật là một thứ bình an chân chính và đáng khát khao.

Vậy chúng ta biết rõ ngày nay, thế giới đang cần thứ bình an nào! Chúng ta không mua được thứ bình an này như mua sắm vũ khí, bom đạn, hoả tiễn tầm xa-tầm gần, xe tăng, chiến thuyền hay trên các bàn hội nghị quốc gia, quốc tế. Chỉ Thần Khí Chúa Kitô mới ban tặng được. Cho nên chúng ta cần những nhà lãnh đạo tài ba biết kính sợ Thiên Chúa. Những người hướng dẫn thiên liêng đạo đức như Giaon XXIII, Gioan Phaolô II, Têrêsa thành Calcutta. Chúng ta cần những Gandhi Mahatma, những Edmond Tutu, Luther King Jr, những Rosa Park bất chấp chiến tranh hàng ngày ở Dafur, Afgahnistan, Iraq.

Chúng ta cần thần khí chữa lành để hàn gắn các rạn nứt trong Giáo Hội, Thần khí dạy chúng ta biết yêu thương như Chúa Giêsu yêu, chứ không phải như mỗi người tưởng tượng, biện minh. Chúng ta cần Thần khí ban hoà bình hoà giải trong các giáo xứ, các khu xóm đang tan nát vì tranh tụng, ghen tương, kiêu ngạo, khiêm nhường giả vờ. Chúng ta cần Thần khí đổi mới niềm tin của chúng ta vào Chúa Cứu Thế như hoàng tử hoà bình và cái nhìn về những kẻ kiến tạo bình an trên thế giới, những kẻ từ chối bạo lực để giải quyêt các xung đột quốc tế, quốc gia. Những kẻ thường bị chế giễu là nhu nhược, không tưởng trong hệ thống chính trị hiện nay.

Đúng vậy, bài đọc sách Khải Huyền xem ra đầy mơ mộng khi mô tả Giêrusalem mới. Người Lamã đã phá huỷ Gierusalem cũ khoảng năm 70 Cn. Gierusalem mới không giống như vậy nữa, giả hình, độc ác, lầm lạc, đóng đinh cả Thượng Đế. Mà là một Gierusalem hoàn toàn thánh thiện, có Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, đến nỗi ở đâu hai, ba người tụ họp nhân danh Chúa thì Ngài ở đó. Trong diễn từ hôm nay, Chúa Giêsu tuyên bố tương tự: “Thày và Cha Thày sẽ ngự giữa họ.” Dĩ nhiên Gierusalem mới này sẽ được nhận biết bằng tình yêu giữa các cộng đoàn dân cư và là dấu chỉ Chúa đang hiện diện với họ. Mỗi tín hữu, người yêu của Thiên Chúa là ngôi đền của Người: “Những ai yêu mến Thày thì sẽ giữ lời Thày. Cha thày sẽ yêu mến kẻ ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy.”

Khi nào thì Chúa Giêsu trở lại? Các tín hữu đang chịu bách hại thường hỏi như vậy. Họ mòn mỏi trông đợi Ngài trở lại để giải phóng họ khỏi tình trạng đen tối hiện tại. Cũng vậy nhiều linh hồn đau khổ từng đặt câu hỏi tương tự. Nhưng chẳng ai biết câu trả lời. Tuy nhiên lời giã từ của Chúa bảo đảm rằng Ngài sẽ trở lại và đã thực hiện đúng như vậy, khi sai Chúa Thánh Thần xuống trên các tông đồ và Giáo Hội tiên khởi. Thần Khí này, mà Chúa gọi là Đấng Bảo Trợ, Ủi an, chính là sự hiện diện của Chúa giữa các tín hữu, để giúp chúng ta thấu hiểu lời Ngài, và đòi hỏi chúng ta phải hành xử ra sao! Phiền là chúng ta thường không nghe theo sự thúc đẩy của Thần Khí, mà thích làm theo ý muốn, rao giảng gian dối, lừa đảo thiên hạ, đến nỗi thánh Phaolô phải thốt lên: “Không hiểu thần khí nào đã thúc giục anh em!” Chúa Giêsu hứa Thiên Chúa Cha sẽ gửi Thần Khí xuống. Và như Ngài đối với các tông đồ thế nào, thì Thần Khí sẽ đối với Hội Thánh như vậy. Cho nên người ta lắng nghe Hội Thánh là lắng nghe Chúa Giêsu, vâng lời Hội Thánh là vâng lời Chúa Kitô. Chúa Giêsu chỉ dẫn phải yêu mến nhau thế nào, thì Thần Khí sẽ làm đúng như vậy, ban khả năng để yêu mến nhau. Những lời Chúa dạy dỗ có nguy cơ bị hiểu sai hoặc lãng quên, thì Thần khí sẽ mở lòng cho họ nhớ lại, cứ như vậy cho đến tận cùng thời gian, qua các thế hệ tín hữu. Cho nên giáo lý của Hội Thánh là tinh tuyền, tông truyền và phổ thông.

Do đó, mặc dù chúng ta chẳng còn được trông thấy Chúa thể lý kiểu như các tông đồ quanh bàn tiệc ly, chứng kiến Ngài rửa chân cho các ông, lắng nghe bài diễn từ cuối cùng và lời hứa bảo đảm. Nhưng giã từ của Ngài là thực sự. Tuy Ngài không còn hiện diện nữa, nhưng chúng ta phải tin Ngài vẫn ở với Hội Thánh bằng hình thức khác, lúc ấy các ông không nghĩ ra được và ngày nay chúng ta vẫn còn nghi ngờ. Ngài ở với nhân loại qua Chúa Thánh Thần, tặng phẩm của Thiên Chúa Cha, đúng như lời Chúa phán. Nếu chúng ta đặt tin tưởng vào sự hiện diện của Thần Khí, thì sẽ được Ngài hướng dẫn, dạy bảo. Linh hồn sẽ được bình an bất chấp những hỗn loạn của thế gian. Giáo Hội sẽ vững chắc trên con đường thánh thiện. Nói dễ hơn làm. Bình an này chúng ta không tạo nên được do tài năng riêng của mình mà hoàn toàn cậy nhờ vào Thiên Chúa. Người ta có thể gọi đó là tặng phẩm mà cũng có thể đặt tên là gia sản của Đức Kitô, Đấng chẳng bao giờ muốn rời bỏ nhân loại. Liệu lúc này chúng ta có sẵn sàng mở rộng lòng mình đón nhận Thần Khí Chúa? Nói thì dễ nhưng làm khó lắm! Bao nhiêu linh hồn nói rồi đấy, nhưng chẳng mấy ai làm! Nếu thực sự làm thì người ta chẳng còn tầm thường như hiện trạng. Chúng ta cầu xin Thánh Thể uốn nắn tâm trí mình trong thánh lễ này, ngõ hầu giúp chúng ta thực sự sống đức tin cho đến lễ Năm Mươi.

Chúa phục sinh thực sự hiện diện với chúng ta hôm nay trên bàn thờ, giống như Ngài hiện diện xưa trong bữa tiệc ly, chỉ có khác ở thể thức. Bữa ăn chúng ta chia sẻ chính là Mình Máu Ngài. Mình Máu ấy cũng giữ chúng ta ở lại trong lời hứa. Thánh Thần sẽ ban cho mỗi người ký ức sống động về Chúa Giêsu, về lời hứa của Ngài. Không phải ký ức đã qua từ lâu lắm , nhưng là Chúa Giêsu hiên diện, hướng dẫn, ủi an mọi người cho kiếp sống muôn thủa. Amen, Alleluia.


Đaminh Tạ Văn Tịnh op

Ai Yêu Mến Thày Hãy Giữ Lời Thày
(Ga 14,23-29)

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể

Cũng như lẽ thường: căn điểm của tình yêu là trao ban và lãnh nhận. Nhưng điều ban tặng của Chúa cho thế gian không phải là vàng bạc hay ngọc quý như người ta vẫn trao cho nhau, mà đó là: Lời Hằng Sống, Thịt Máu và Thánh Thần Chúa. Đây là ba yếu tốt căn bản của tình yêu mà Chúa trao ban cho các môn đệ cũng như cho Hội thánh của Người.

Không khí của tuần phụng vụ thánh này vẫn còn đọng lại trong tâm hồn chúng con niềm vui của ngày Chúa phục sinh; nhưng đồng thời, xen lẫn trong đó là những cảm xúc qua lời nhắn nhủ của Chúa khi Người còn đang ở với các Tông đồ: Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy; Thầy để lại bình an cho anh em; và, Thầy sẽ ban Đấng Bảo Trợ đến với anh em.

Lạy Chúa Giêsu,

Thực tại cuộc sống hôm nay, xem ra, như đang diễn tả cách sống động Lời Hằng Sống của Chúa. Càng ngày người ta đến nhà thờ càng đông để thờ phượng kính mến Chúa. Các hình thức sinh hoạt tâm linh ngày một phong phú và ý nghĩa hơn. Nhiều ngôi nhà thờ được xây dựng khang trang và lộng lẫy. Mặt khác, trong xã hội, rất nhiều người đang dấn thân vào những hoạt động từ thiện, cứu giúp những mảnh đời bất hạnh. Nhờ đó, người nghèo khổ được trợ giúp, người đau yếu được quan tâm, người tật nguyền có hạnh phúc…. Dường như những đòi hỏi của Tin Mừng: kính Chúa và yêu người đã và đang được thể hiện bằng những hành động thực tế.

Tuy nhiên, đó chỉ là những mặt tích cực quá nhỏ bé trong thời đại hôm nay. Mặt trái của đời sống xã hội lại diễn tả ngược hẳn với tinh thần của Chúa. Cuộc sống phàm tục hoá, đang trở nên phổ biến, tạo nên sự què quặt về nhân phẩm cũng như đạo đức. Mối ưu tư lớn nhất của con người thời nay là kinh tế, an ninh, sức khỏe, sắc đẹp, giàu sang và tiếng tăm, chứ không phải là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Những lợi ích vật chất và danh dự khiến cho người ta hành động trái với luân thường đạo lý. Sự coi thường những giá trị truyền thống trong nếp sống gia đình đang là nguy cơ gây nên những tan vỡ trong đời sống hôn nhân. Bên cạch đó, phần đông các bạn trẻ ưa thích lối sống tự do, phóng đãng, vô cảm với những giá trị sống và dễ dàng bị lôi cuốn vào các tệ đoan của thời đại. Người ta sẵn sàng lựa chọn quyền lực và vinh quang thay vì tình yêu và khổ giá…. Đâu là việc tuân giữ Lời Chúa ?.

Hằng ngày, chúng con được lãnh nhận Lời Hằng Sống, cách nghiêm trang, nơi thánh đường; nhưng khi bước ra ngoài xã hội, Lời ấy nhanh chóng bị quên lãng. Tâm hồn chúng con trở nên những mảnh đất khô cằn, làm cho hạt giống Lời Chúa không thể sinh ra hoa trái. Công việc bận rộn cuốn hút chúng con chạy theo những nhu cầu đòi hỏi của thời đại hơn là trở về với Chúa, không gian trong tâm hồn trở nên quá chật hẹp để Chúa khó có thể ngự vào.

Nguyện xin Chúa ban ơn Thánh Thần cho chúng con hầu chúng con có thể nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống hôm nay, xin giúp chúng con chiến thắng những cám dỗ của thế gian và không bị đồng hóa với những mặt trái của đời sống xã hội.

Sau khi trỗi dậy từ cõi chết, nhiều lần Chúa đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Xin Chúa cũng ban ơn bình an cho tâm hồn chúng con ngõ hầu chúng con có thể chia sẻ bình an đó cho những người mà chúng con gặp gỡ.

Các môn đệ đã trung thành làm chứng cho Chúa dù phải hy sinh cả tính mạng. Xin Chúa ban cho chúng con luôn trung thành với những đòi hỏi của Tin Mừng, biết quên mình để phục vụ Chúa, biết tuôn trào tinh yêu thương và sãn lòng trợ giúp những cảnh đời khốn khổ, bất hạnh bằng những hành động thiết thực chứ không chỉ dừng lại ở lý thuyết.

Cho đi tình yêu, nơi đồng loại, là phương thế để chúng con thể hiện tình yêu của chúng con đối với Chúa. Amen.


Đỗ Lực op

MỘT BIẾN CỐ Ý NGHĨA
(Ga 14:23-29)

Năm 1917, vào đúng năm kết thúc Thế Chiến Thứ Nhất, một biến cố đã xảy ra tại Fatima. Mục đích huy động đoàn con cùng Mẹ Maria bước theo Chúa Kitô. Mẹ ban hành Ba Mệnh Lệnh như phương tiện giúp nhân loại đạt tới hòa bình. Kèm theo Ba Mệnh Lệnh là ba Bí Mật Fatima cũng được Mẹ “bật mí” cho ba trẻ Fatima. Ba Mệnh Lệnh Fatima khởi nguồn từ Trung tâm Tin Mừng.

SỨC MẠNH LỜI CHÚA

Trung tâm Tin Mừng chính là lòng “yêu mến Thày,” (Ga 14:23) vì “Thày là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”(Mt 16:16) Tình yêu Chúa Kitô sẽ quyết định tất cả. Tình yêu và sự trung tín gắn bó mật thiết với nhau, như nhân với quả. Thực tế, sự trung tín không ngừng sáng tạo. Chỉ những ai yêu mến và vâng nghe lời Chúa, mới có thể đón nhận mạc khải sâu xa nhất về Chúa mà thôi. Trái tim con người thật nhỏ bé. Vậy mà khi yêu, trái tim con người có thể chiếm đoạt trọn vẹn trái tim Thiên Chúa. Một sự chênh lệch khủng khiếp ! Nhưng đó lại là điều Chúa Giêsu quả quyết trong Ga 14:23. Nhân danh Chúa Giêsu, Chúa Cha sẽ sai Thánh Linh đến làm cho Người hiện diện sống động trong những tâm hồn yêu mến Chúa.

Nếu không liên kết sâu xa với Chúa, chúng ta không thể hiểu sức mạnh kỳ diệu của Lời Chúa. Sở dĩ “Lời Thày nói với anh em là thần khí và là sự sống,” (Ga 6:63) vì “là lời của Chúa Cha, Ðấng đã sai Thày.” (Ga 14:24) Nguồn gốc Thiên giới đó bảo đảm Lời Chúa hoàn toàn siêu việt và chân thực. Bởi thế, nếu có sự hiện diện đích thực của Chúa Cha và Chúa Con trong tâm hồn, chúng ta có thể sống trong thế giới Thiên Chúa. Từ đó, mới hiểu được đòi hỏi duy nhất của Lời Chúa là tình yêu. Chỉ có tình yêu mới đọc và hiểu được ngôn ngữ tình yêu. Lòng yêu mến Thày luôn được bù đắp xứng đáng.

Ai sẽ làm cho Thiên Chúa hiện diện trong chúng ta, nếu không phải là Thánh Linh ? Ðúng hơn, Thánh Linh, tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con, cũng sẽ dẫn đưa chúng ta vào cuộc hiệp thông tuyệt vời với Thiên Chúa.

Cũng chính Thánh Linh sẽ dạy và làm cho chúng ta nhớ lại mọi điều Chúa nói (x. Ga 14:26). Không những thế, Người còn làm cho Lời Chúa có sức sống trong tâm hồn và cộng đoàn. Chính Người “bơm” thần khí và sự sống vào Lời Chúa. Nhờ thế, Lời Chúa có thể xâm nhập vào mọi nền văn hóa và biến cải mọi tâm hồn. Thánh Linh giúp Lời Chúa nhập thể vào cuộc sống. Không có Thánh Linh, Lời Chúa sẽ trở thành những hàng chữ vô hồn. Thánh Linh vô cùng cần thiết cho sự sống và sự phát triển Giáo hội.

Một khi đã sống trọn vẹn trong tình yêu và dưới sự chở che của Chúa, môn đệ rất yên tâm. Ðó không phải là thành quả tự nhiên, nhưng là kết quả của lời hứa và bao hy sinh vô cùng cao quý của Chúa trên cây thập giá. Sự bình an đó tươi đẹp như ánh sáng Phục sinh. Bình an vững chắc như sự sống của chính Ðấng Phục Sinh vậy ! Bình an thế gian chỉ là im tiếng súng. Bình an của Chúa Kitô bảo đảm vững chắc trong mọi hoàn cảnh. Từ nay chúng ta không còn sợ gì trong hiện tại hay tương lai. Chính Thánh Linh sẽ đổ tràn tâm hồn tín hữu sự bình an của Ðức Kitô (1) Nếu sẵn sàng đón nhận sự bình an của Chúa, chúng ta sẽ chiến thắng tội lỗi, nỗi hoài nghi, sự sợ hãi và mọi đối lực trong ta. Hơn nữa, sự bình an đó còn được bảo đảm vững chắc vì Chúa sẽ nắm toàn quyền trên trời dưới đất khi về cùng Chúa Cha (x. Ga 14:28).

Nếu Chúa không về cùng Chúa Cha, làm sao Thánh Linh được sai đến ? Nếu Thánh Linh không đến, làm sao nhân loại nghe loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa ? Thánh Linh không những bảo đảm độ chính xác trong Tin Mừng, nhưng còn giúp tín hữu trung thành tuân giữ giáo huấn của Chúa. Giá trị Tin Mừng hoàn toàn tùy thuộc vào Thánh Linh, Ðấng sẽ giúp các môn đệ nhớ lại những gì Chúa dạy. Họ là những chứng nhân sống động của Lời Chúa. Chắc chắn Tin Mừng là những bản ghi nhận chính xác những điều Chúa nói và làm (x. 1 Cr 2:10-14), dưới cái nhìn của từng thánh ký.

HÒA ÐIỆU TUYỆT VỜI

 Mặc dù Thày đã cống bố đầy đủ Lời Chúa, nhưng các môn đệ cần phải được soi sáng mới thấu hiểu dần. Ngay từ thời các tông đồ, nếu không có Chúa Thánh Linh, chắc chắn không thể khai thông những bế tắc khi áp dụng Lời Chúa vào hoàn cảnh cụ thể của Giáo hội. Huống chi, trong thế hệ sau này, cần phải có Thánh Linh, tín hữu thấy ý nghĩa tiềm ẩn trong Lời Chúa. Nói khác, trải qua bao đời, Kitô hữu mới thấu triệt ý nghĩa tròn đầy của Lời Chúa. (2) Bởi đó, nhìn về tương lai, Chúa tiên đoán : “Ðấng Bảo Trợ sẽ dạy anh em mọi điều,” (Ga 14:26) và “Người sẽ lấy những gì là của Thày mà loan báo cho anh em.” (Ga 16:14) Biến cố chỉ có một. Nhưng việc hiểu biết biến cố ấy tiến triển theo thời gian.

Khi hiện ra tại Fatima, Ðức Mẹ cũng muốn nhắc lại ý nghĩa then chốt của Tin Mừng : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 3:2) Mẹ không muốn mọi người tập trung vào Mẹ, nhưng hướng tới điểm nòng cốt trong Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô : Chúa Cha yêu thương mọi người đến nỗi họ sẽ ăn năn sám hối. Người ban ân sủng cần thiết để họ có thể sống trọn tình con thảo với Chúa. Như Chúa Thánh Linh, Ðức Maria cũng nhắc mọi người nhớ lại lời Ðức Giêsu đã dạy (x. Ga 14:26) về công việc chuẩn bị đón nhận Nước Trời. Sứ điệp Fatima khẩn thiết kêu gọi mọi người trở về với Chúa. Chắc chắn Fatima là biến cố cận đại có ý nghĩa tiên tri lớn nhất.

Mặc dù được công nhận là “mạc khải tư,” biến cố Fatima “không có vai trò hoàn thành Mạc Khải cuối cùng của Ðức Kitô, nhưng giúp chúng ta sống trọn vẹn Mạc Khải của Chúa trong một giai đoạn nhất định của lịch sử.” (3) Như vậy, “mạc khải tư” giúp ta hiểu Mạc Khải cuối cùng của Chúa. Ba Mệnh Lệnh Fatima rõ ràng minh họa và vang vọng toàn bộ Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô. Ngay từ Mệnh Lệnh đầu, Mẹ Maria đã hợp ý với Con kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Ðó là con đường duy nhất để đón nhận Nước Trời. Không sám hối, làm sao có sự công chính ? Không công chính làm sao tìm được “sự bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17) ?

Nếu không công chính, Mẹ Maria đã không thể được diễm phúc làm Thánh Mẫu Thiên Chúa. Không công chính, Mẹ đã không thể thưa “xin vâng” ý Chúa. “Lời thưa xin vâng của Mẹ Maria, phát xuất từ lòng Mẹ, đã biến đổi lịch sử thế giới, vì đem Ðấng Cứu Thế vào trần gian,” (4) để cứu chuộc và đem lại bình an cho toàn thể nhân loại.

Sứ điệp bình an đó đã vang dội tại Fatima. Mẹ lo lắng đến số phận toàn thể nhân loại. Bởi vậy, Mẹ đã tìm một con đường cứu độ mọi người. Như vậy có sự hòa hợp tuyệt vời giữa sứ điệp Fatima và Tin Mừng. Fatima đã hội đủ tiêu chuẩn để trở thành một mạc khải tư có giá trị thực sự, vì hướng về chính Ðức Kitô. Nhờ sứ điệp Fatima, tín hữu nhận ra Ðức Kitô hiện diện trong thời đại mình. Nhờ tin tưởng như thế, chúng ta có thể hiểu những dấu chỉ thời đại và đáp ứng ngay. (5)

Ðể củng cố cho Ba Mệnh Lệnh Fatima, hình như Mẹ Maria còn tìm cách “răn đe” qua những thị kiến kinh hoàng, gói gọn trong ba bí mật Fatima. Phần I và II đặc biệt nói về cảnh khủng khiếp trong hỏa ngục, việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ, Thế Chiến Thứ Hai, và sau cùng tiên báo về sự thiệt hại vô vàn nước Nga sẽ gây ra cho nhân loại vì từ bỏ niềm tin Kitô và đi theo thuyết Cộng sản toàn trị. Ðó là những thị kiến về tương lai thế giới. ÐGH Gioan Phaolô II đã quyết định công khai hóa phần III “bí mật Fatima.” Theo đó, phải chăng nhân loại sắp bị hủy diệt hoàn toàn ?

Chúng ta phải hiểu những hình ảnh răn đe đó theo nghĩa nào ? Khi còn làm Bộ Trưởng Thánh Bộ Ðức Tin, ÐGH Bênêđictô XVI đã có những giải thích tuyệt vời về các thị kiến đó. Thiên thần cầm gươm lửa đứng bên trái Thánh Mẫu Thiên Chúa nhắc lại những hình ảnh tương tự trong Sách Khải Huyền. Ðó như những lời đe loi về ngày tận thế. Thị kiến cho thấy ánh sáng huy hoàng của Thánh Mẫu Thiên Chúa đầy quyền năng chống lại lực lượng hủy diệt. Nhờ đó, Mẹ kêu gọi mọi người sám hối. Ðây là cách nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tự do con người : tương lai không phải là một sự kiện không thể thay đổi. Thực vậy, toàn thể thị kiến muốn đem tự do vào toàn cảnh và đưa tới một chiều hướng tích cực. Thị kiến mang ý nghĩa huy động các lực lượng theo một chiều hướng đúng đắn. Thị kiến muốn nói đến những nguy hiểm và chỉ lối thoát hiểm. Bằng chứng cụ thể, ngày 13.05.1981, ÐGH Gioan Phaolô II bị mưu sát tại quảng trường thánh Phêrô. ÐGH đã thoát chết. Người tự giải thích tại sao mình sống sót : “… chính tay một người mẹ đã hướng viên đạn đi nẻo khác và trong cơn xao động, Giáo Hoàng đã dừng lại trước ngưỡng cửa tử thần.” (6) “Bàn tay một người mẹ” làm lệch hướng viên đạn định mệnh, cho thấy không có một định mệnh bất biến. Ðức tin và lời cầu nguyện là những sức mạnh ảnh hưởng tới lịch sử. Cuối cùng, lời cầu nguyện còn mạnh hơn những viên đạn và đức tin có sức mạnh lớn hơn các đạo quân. (7) Ðó là lý do tại sao sau khi kêu gọi sám hối, Mẹ Fatima khuyên chúng ta lần hạt Mân Côi.

Như vậy, Mệnh Lệnh Fatima giúp chúng ta đạt đến sự bình an của Chúa. Chỉ có bình an này mới làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin, cậy và mến. Ðó cũng là mục đích Mẹ nhắm tới khi hiện ra tại Fatima. Mẹ luôn quan tâm tới đoàn chiên của Chúa. Như bạn đời của Chúa Thánh Linh, Mẹ dạy chúng ta mọi điều và làm chúng ta nhớ lại những điều Chúa đã nói trong Tin Mừng (x. Ga 14:26). Ðể cứu thế giới và nhất là để bảo vệ đoàn chiên Chúa, Mẹ không thể không lên tiếng để ngăn chặn chó sói đột nhập phá hoại đoàn chiên.


[1] Xin coi Pl 4:6,7 để biết thêm vê kinh nghiệm sự bình an của Thiên Chúa.

[2] Giáo Lý Công Giáo, số 66.

[3] Sđd, số 67.

[4] Ratzinger, J., Giải thích “bí mật” Fatima.

[5] sđd.

[6] ÐGH Gioan Phaolô II, 13.05.1994.

[7] Ratzinger, sđd.


Lm. Jude Siciliano, OP
(
Anh Em HV Đaminh chuyển ngữ)

Hãy Quay Lưng Lại Với Các Giá Trị Hư Ảo
Và Các Quyền Lực Giả Trá

Ga: 14: 23-29

Chúng ta đang ở vào đoạn gần cuối Sách Khải Huyền. Tuần tới chúng ta sẽ nghe các câu kết của sách. Những tuần qua, tác giả Gioan đã trò chuyện với chúng ta từ nơi ngài bị phát lưu ở đảo Pát-mô. Vì đã không chịu thần phục La-mã và vì từ chối gọi Xê-da là “Chúa” nên Ngài đã bị đày đến đó. Ngài ra đi, để lại anh chị em Kitô hữu của mình cũng đang chịu bách hại (1,9). Thế nên chẳng có gì lạ khi các thắc mắc được đặt ra: Tại sao Thiên Chúa lại có thể để cho những người tốt lành như thế phải chịu đau khổ cơ chứ? Tại sao kẻ dữ thịnh đạt hoài? Ai sẽ giành chiến thắng chung cuộc, Thiên Chúa hay các địch thủ của Người? Gioan đã viết sách Khải Huyền hầu giúp trả lời cho các vấn nạn thách thức niềm tin ấy. Các vấn nạn này không chỉ rộ lên ở thời xưa, nhưng cũng là các vấn nạn đặt ra cho chúng ta nữa. 

Sách Khải Huyền cho thấy, Gioan đã cố gắng an ủi những giáo hội bị bách hại. Các giáo hội này mới có thể hiểu được các tư tưởng bí nhiệm ngập tràn trong Sách, còn những kẻ bách hại họ thì không. Viết cho các giáo hội gặp cảnh khổ đau, Gioan đã khuyến khích họ kiên trì và hy vọng. Cơn bách hại vẫn còn đe dọa các Kitô hữu đó đây trong thế giới hôm nay và cũng vậy sách Khải Huyền có thể đem lại cho họ niềm an ủi và hy vọng. Sách khải huyền cũng ngỏ lời động viên đến giáo hội đương đại của chúng ta nữa, vì chúng ta cũng đang chịu dày vò vì những thương tích bên trong. Các thương tích này xuất phát từ nỗi đớn đau nhục nhằn có nguyên do bởi những vụ scandal mà chúng ta đang hứng chịu tại nhiều giáo phận rải rác khắp nơi trên thế giới. Những gì sách Khải Huyền soi sáng cũng có thể củng cố lòng quyết tâm của chúng ta trong lúc đương đầu với trào lưu phi tín ngưỡng và thái độ dửng dưng của thế giới quanh ta. 

Sách Khải Huyền là một mảng thuộc văn chương khải huyền. Khải Huyền có nghĩa là “vén màn; tỏ lộ ra” và Khải Huyền là một cố gắng để “mạc khải” ý nghĩa lịch sử cho những ai đang trải bước qua những giờ phút kinh hoàng thống khổ. Sách Khải Huyền không phải là lời tiên báo chính xác về các biến cố tai ương trong tương lai, như những người bảo thủ bám vào nghĩa đen của sách Khải Huyền chủ trương. Đừng quên, Đức Giê-su đã nói với chúng ta rằng, chúng ta không thể biết được ngày giờ chính xác Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử vũ hoàn (Mc 13,32). 

Sách Khải Huyền khởi đi từ ngai Thiên Chúa trên trời (1,12tt), tức là nơi lịch sử nhân loại đã khởi đi và sẽ tiến về. Gioan thuật lại các thị kiến mà ngài đã chứng kiến về cuộc chiến giữa thiện và ác. Qua lối văn được mật mã hóa, Ngài có ý nói về La-mã (Con Thú) và Xê-da (Chương 13-17). Ngài cho đó là các địch thù của Thiên Chúa, như thể chính chúng là tất cả các quyền lực dưới đất đang hòng thay thế đường lối của Thiên Chúa. “Con Thú” là bất kỳ quyền lực nào phát sinh sự dữ; ấy là thù địch của Thiên Chúa qua mỗi thế hệ và cũng đã thu được nhiều thuộc hạ, tức những ai xiêu lòng trước cám dỗ của nó.

 Xin nhớ cho rằng, sách Khải Huyền là một “mạc khải” giúp chúng ta thấy được những nỗi khổ đau trong quá khứ và hiện tại của chúng ta bằng cặp mắt đức tin, tin vào sự thiện hảo, lòng yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa như khiên che thuẫn đỡ. Khải Huyền cũng nói về tương lai với những lời quả quyết chứ không phải là những lời tiên báo chính xác. Gioan nhắc nhớ chúng ta rằng, trong khi chúng ta không có quyền định đoạt tương lai, thì Thiên Chúa lại thực hiện điều ấy. 

Căn cứ vào dấu chứng hiện tại, đúng là khó để biết được ai sẽ giành chiến thắng chung cuộc, Thiên Chúa hay Con Thú. Giữa cảnh đọa đầy sầu thảm, Gioan đã viết lên một thư liệu chất chứa niềm tin khả thị ở tương lai để bênh đỡ tinh thần của các Kitô hữu đang sầu đau suy kiệt. Ngài bảo đảm với chúng ta rằng, rồi đây trong tương lai, Đức Kitô sẽ lại đến. Thoạt đầu, chúng ta đã thấy Người như Con Chiên bị giết (5,12), nhưng khi Người lại đến, chúng ta sẽ trông thấy Người trong vinh quang của Người. Người sẽ đến trong uy quyền, cỡi trên con ngựa trắng của Người, và Người sẽ được gọi là “Đấng Trung Thành và Chân Thật” và “Vua các vua, Chúa các chúa” (19,11-16). Sẽ có một cuộc chung thẩm khi mọi người tề tựu trước nhan Thiên Chúa, đấy là nơi người lành kẻ dữ chịu xét xử. Những ai được ghi tên trong Sách Sự Sống của Con Chiên (20,12) thì sẽ lãnh nhận phần thưởng dành cho họ.

 Bây giờ chúng ta đến với trích đoạn Khải Huyền dành cho Chúa Nhật này. Câu chuyện đang tiến đến hồi kết và làm nổi bật sứ điệp hy vọng của sách Khải Huyền. Như chúng ta đã nghe trong tuần rồi, Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt chúng ta và xua trừ sự chết. Sẽ không còn kêu than nữa và mọi sự được đổi mới. Giờ đây chúng ta được trao ban thị kiến về Thiên Chúa và Con Chiên hằng lưu ngụ ngay giữa chúng ta, ấy cũng là chủ điểm giáo lý về niềm tin vào Thiên Chúa nhập thể của chúng ta. (Đề tài này cũng được tìm thấy trong Hr 11-12). Nơi thành Giêrusalem trên trời, Thiên Chúa sẽ hoàn tất điều Người đã khởi sự và chúng ta sẽ hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và anh chị em chúng ta. Trời mới đất mới sẽ xuất hiện và Giêrusalem mới sẽ từ trời mà xuống như Ê-dê-ki-en đã thị kiến (Ed 40,2). Nơi thành ấy, Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta và sẽ ủi an tất cả những ai đau khổ. Như Gioan nói trong câu 22,5: “Sẽ không còn đêm tối nữa, họ không cần ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu soi trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời.” 

Con Chiên, Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, Người đã đổ máu trên thập giá, cũng sẽ hiện diện nơi Giêrusalem mới. Chúng ta không thể tự cứu mình khỏi vòng tội lụy, và chúng ta cũng chẳng thể đơn thương độc mã mà đánh bại sự dữ nơi thế gian này. Thế nhưng điều chúng ta không thể đạt được với khả năng riêng của chúng ta, thì Thiên Chúa đã thực hiện cho chúng ta. Chúng ta là những người thụ lãnh ân sủng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chiến thắng khải hoàn và đã xóa bỏ tội lỗi của chúng ta.

 Chuỗi ngày hết sức thống khổ cùng muôn vàn thử thách không chỉ xảy ra trong thời của Gioan, mà vẫn còn kéo dài cho đến hôm nay. Gioan đã kết thúc “mạc khải” của ngài với một thị kiến nảy sinh niềm hy vọng về những gì rồi đây sẽ thành hiện thực cho chúng ta. Không ai đòi chúng ta phải làm sáng tỏ hết thảy các biểu tượng trong sách Khải Huyền. Các biểu tượng ấy sẽ rất lý thú khi tìm hiểu trong những lúc rỗi rãi! Tuy nhiên ẩn tàng ở phần cuối quyển sách về các thị kiến này lại là những lời chất vấn chúng ta trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta có tin vào phần kết của câu chuyện này là, nhờ Thiên Chúa, sự thiện sẽ chế ngự điều ác hay không? Ngay cả khi dấu chứng về cuộc khải hoàn đang đến hiện rất ảm đạm, liệu chúng ta có thể giữ lấy niềm hy vọng của chúng ta nơi Thiên Chúa không nào? Sách Khải Huyền cũng là một lời mời gọi đáp trả lại những điều chúng ta đã nghe và đã đón nhận trong cuộc sống mỗi chúng ta. Trong Đức Giê-su Kitô, chúng ta có được kinh nghiệm cá nhân về một tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cuộc đời chúng ta sẽ là một kiểu mạc khải về niềm hy vọng? Chúng ta sẽ làm chứng cho những người khác qua những cách xử sự, qua lời nói và việc làm của chúng ta chứ? 

Bất chấp những gì đang diễn ra hiện thời, liệu chúng ta có thể tin vào những gì Gioan mô tả cho chúng ta, liệu chúng ta có thể tin vào Thiên Chúa là Đấng sẽ thâu về chiến thắng chung cuộc hay không? Sách Khải Huyền nhấn mạnh đến lòng thành tín yêu thương của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Giêsu tự nguyện chịu khổ hình vì chúng ta, là Con Chiên hiền lành bị đem đi giết. Tình yêu của Thiên Chúa là điều dành cho chúng ta bây giờ và sẽ là điều dành cho chúng ta trong tương lai nữa.

 Sách Khải Huyền được viết theo truyền thống các văn phẩm khải huyền trong Cựu Ước, như sách Đanien chẳng hạn. Sách mạc khải một câu chuyện nhất quán về Thiên Chúa từ viễn cảnh của cả truyền thống Do-thái giáo lẫn Kitô giáo. Tại Giêrusalem xưa, không có lầu đài nào thánh thiêng hơn Đền Thờ, tức trung tâm tôn giáo của Ít-ra-en. Thế nhưng trong sách Khải Huyền, Gioan cho chúng ta biết rằng, “Trong thành, tôi không thấy có đền thờ.” Gioan đã thấy Giêrusalem mới có hình thể lập phương, biểu trưng cho sự toàn hảo. Tự thân thành ấy có thể mang hình dáng như Đền Thờ Cực Thánh. Tại Giêrusalem mới, Thiên Chúa sẽ tỏ hiện trước toàn dân một cách trực diện và có thể tiếp cận được, đấy là lời hứa mà Đức Giê-su đã nói với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng, “Này người phụ nữ, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem” (Ga 4,21). 

Sách Khải Huyền một mặt tiếp bước chân ta kiên vững nơi những trận chiến hiện thời để sống đời sống Kitô hữu, mặt khác sách cũng tập trung hướng nhìn của chúng ta về những gì sẽ đến. Vẻ ngoài của thế gian là các quyền lực ngạo nghễ sẽ bị đánh bại cho dù hiện giờ chúng đang dương oai. Rồi đây, chúng ta sẽ cùng nhau cư ngụ trong bình an với Thiên Chúa ở giữa chúng ta. Thiên Chúa chẳng những sẽ không còn chỉ ở trong khuôn viên Đền Thờ, nhưng còn hiện diện với tất cả những ai lưu ngụ trong thành thánh. Có một câu ngạn ngữ vẫn thường nhắc nhớ chúng ta: chiếc áo không làm nên thầy tu, các lầu đài chẳng làm nên nhà thờ. Giáo Hội của chúng ta nhận Đức Giê-su như tâm điểm, là đầu và là “ngọn đèn” tỏa rạng (21,23) mà hiện nay hay trong tương lai chúng ta đều cần đến. 

Gioan mời gọi chúng ta quay lưng lại với các giá trị ảo và các quyền lực giả trá của thế gian, thay vào đó chúng ta hướng về Thành Thánh mới là nơi Thiên Chúa ngự. Nếu chúng ta tin vào thị kiến của Gioan cũng như tin một ngày nào đó thị kiến ấy sẽ thành toàn, thì (ngoài Chúa và giáo hội người thiết lập ra) làm sao chúng ta có thể chọn điều gì khác hay ai khác được nữa cơ chứ? Gioan đã xé toạc bức màn ra cho chúng ta và chúng ta có thể ngắm nhìn nơi cực thánh với tâm điểm là Thiên Chúa, Người cũng là trọng tâm đời sống của chúng ta nữa. Amen.

Lm. Jude Siciliano, OP.

Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều

Cv 15,1-2.22-29; Kh 21,10-14.22-23; Ga 14,23-29

Kính thưa quý vị,

Quý vị có để ý thấy các Chúa Nhật sau Phục sinh, các bài đọc I được trích từ sách Công vụ hay không? Các Chúa Nhật này giúp chúng ta chuẩn bị đón lễ Hiện Xuống bằng việc thay những bài đọc thư Hípri bằng những bài trích từ sách Công vụ tông đồ. Bản văn Công vụ tông đồ là một trình thuật về những hành động của Thánh Thần giữa các Kitô hữu tiên khởi. Thứ tự của các bài đọc dường như hơi rối, vì chúng ta đọc về sức mạnh và công trình của Thánh Thần trong Giáo hội sơ khai trước, sau đó chúng ta mới cử hành lễ đại lễ Hiện Xuống, khi đó chúng ta mới được nghe lại việc Thánh Thần lần đầu tiên hiện xuống trên cộng đoàn (Cv 2,1-11). Những bài đọc sách thánh này cần chúng ta phải điều chỉnh một chút về trật tự thời gian theo kiểu của chúng ta.

Một trong những bất tiện của việc chuyển qua đọc Công vụ tông đồ trong mùa Phục sinh là việc này làm tách biệt hành động liên tục của Thiên Chúa xuyên suốt Cựu Ước, khỏi sự phục sinh và những hành động của Thiên Chúa trong Tân Ước. Một hậu quả không hay khác là việc bỏ qua bài đọc thư Hípri có thể gây hiểu lầm rằng công trình của Thánh Thần trong Tân Ước chỉ là sự cải thiện những cuộc thần hiện của Thánh Thần trong Cựu Ước. Hay nói cách khác, điều này cho thấy rằng trước đây Thánh Thần đã bị treo lại một chỗ, chờ một cuộc tỏ hiện huy hoàng vào Lễ Hiện Xuống. Nhưng các bài đọc sách Hípri mà chúng ta nghe trong suốt năm phụng vụ, thậm chí là toàn thể Cựu Ước, cho thấy Thánh Thần đã hoàn toàn chủ động ngay từ những câu đầu tiên của sách Sáng Thế trong công trình tạo dựng, cho đến Tân Ước và mãi cho đến hôm nay. Vì thế, hãy chú tâm đến bài Tin mừng hôm nay.

Khi khách đến nhà, chúng ta dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ. Sắp xếp đồ vật gọn gẽ; hút bụi và lau chùi; rửa hết chén đĩa còn ngâm trong bồn; thậm chí còn chuẩn bị bữa ăn thịnh soạn và đón tiếp đặc biệt. Chúng ta dọn dẹp ngăn nắp vì khách sắp đến nhà. Nhưng đón tiếp Đấng Bào Chữa mà Đức Giêsu đã hứa “Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy” thì ngược lại. Đấng Bào Chữa, một danh xưng dành cho Chúa Thánh Thần, lấy từ thuật ngữ pháp luật để sử dụng với nghĩa là “một người được gọi đến bên cạnh”. Đó chính là người có thanh danh tốt được mời đến biện hộ cho một người đang bị xét xử, làm nhân chứng hoặc làm người thay mặt phạm nhân xin với tòa, đặc biệt trong trường hợp phạm nhân sắp lãnh án tử hình.

Vì thế, Đấng Bào Chữa hoàn toàn đứng về phía chúng ta và được sai đến để trợ giúp chúng ta. Nếu nói theo kiểu gia đình thì Đấng Bào Chữa đến “để làm cho mọi sự được ngăn nắp”. Đó chẳng phải là một vị khách bất thường sao? Nỗ lực của Đấng Bào Chữa và của chúng ta trộn lẫn vào nhau. Chúng ta nỗ lực kiên trì cầu nguyện, giữ vững đức tin, tự đứng dây sau những vấp ngã – cảm thấy tất cả là do bản thân mình nỗ lực. Nhưng thực ra, đó là sự khéo léo phối hợp cách tài tình của Thánh Thần để giúp ta trở nên môn đệ của Đức Kitô.

Chúa Thánh Thần không thoạt đến thoạt đi khỏi cuộc đời chúng ta như kiểu một vị khách đột xuất. Nhưng, Thánh Thần không ngừng tìm cách thúc đẩy chúng ta để luôn có một con tim và ý muốn sẵn sàng đáp lại những gì Đức Giêsu muốn ta làm cho thế giới này. Khi ta không thể đáp lại bằng sức riêng của mình, thì Thánh Thần luôn bên cạnh để hướng dẫn và ban cho ta sức sống mới. Đời sống Kitô hữu thật khó để mà nèo lái trong thế giới hiện đại này. Khi chúng ta trượt ngã thì có Thánh Thần nâng ta dậy, xóa sạch bùn nhơ và tiếp tục giúp ta kiến tạo cuộc đời mới – giống như một vị khách tuyệt vời và luôn giúp đỡ.

Những ai đã dự lễ Chúa Nhật và cầu nguyện lâu năm sẽ dễ dàng nhận ra tất cả dường như đã trở thành sự lặp đi lặp lại. Trong suốt những giai đoạn ấy, Chúa Thánh Thần “đứng bên cạnh ta” để biến những câu từ thô kệch trở thành những lời nguyện đích thực, thậm chí cả khi chúng ta thấy mình chẳng biết cách cầu nguyện (Rm 8,26-27). Đức Giêsu đã thực hiện lời Người hứa. Chúa Cha đã gửi cho chúng ta Thánh Thần nhân danh Đức Giêsu. Không phải một Thánh Thần thụ động, chỉ ngồi chờ chúng ta cầu nguyện rồi chuyển lời, nhưng là một Thánh Thần “làm cho chúng ta nhớ lại” tất cả những gì Đức Giêsu đã dạy và giúp ta biết cầu nguyện.

Việc nhắc nhở này không chỉ được thực hiện bằng cách ban cho chúng ta một trí nhớ tốt. Có hai giai đoạn thời gian trong diễn từ của Đức Giêsu: thời hiện tại, khi Người nói với các môn đệ của mình trong “Diễn Từ Cuối Cùng” tại bữa Tiệc Ly. Người sẽ sớm rời khỏi các ông. Người cũng nói đến thời gian thứ hai: thời tương lai khi mà Người không còn ở với các ông nữa. Nhưng họ sẽ không bị bỏ rơi, mà ngược lại, Thiên Chúa Cha sẽ sai Đấng Bào Chữa, Thánh Thần đến để đồng hành với các ông. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là Thánh Thần sẽ đợi các ông ở cuối hành trình, chào đón các ông trở về nhà sau khi đã hoàn thành xuất sắc công việc của mình. Nhưng các ông sẽ được Thánh Thần ở cùng trong suốt cuộc đời.

Trong lúc Đức Giêsu nói với các môn đệ khi các ngài đang dùng bữa thì lúc ấy các ông vẫn chưa hiểu ý Người mong muốn các ông làm gì. Cụ thể, Phêrô phản đối ngay từ đầu việc Đức Giêsu rửa chân cho ông. Liệu chúng ta có thể hiểu nổi việc rửa chân đòi hỏi chúng ta điều gì, thậm chí sau ngần ấy thế kỷ trôi qua? ĐGH Phanxicô nhắc nhở chúng ta trong ngày Thứ Năm tuần thánh khi ngài cúi xuống rửa và hôn chân các bạn trẻ trong trung tâm cai nghiện ma túy. Nhưng, liệu chúng ta nhớ được bao lâu.

Những Kitô hữu như chúng ta không biết trong tương lai sẽ còn phải đối diện với những thử thách gì, cả phương diện cá nhân lẫn Giáo hội. Chúng ta sẽ chuẩn bị gì cho những vấn đề có thể xảy đến tình cờ, và đòi ta phải can đảm cũng như khôn ngoan sáng suốt? Chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ trang web hay quyển sách nào có thể đưa ra một chỉ dẫn hay cau trả lời thích hợp. Dù nhiều người ở đây có thể đã học thần học, hoặc đã có những chứng chỉ về giáo lý, nhưng khi đụng phải bức tường ngăn lối, thường chúng ta vẫn thấy lúng túng, lo lắng và bối rối.

Đó chính là điều mà Đức Giêsu nói cho chúng ta biết về công việc của Thánh Thần – nhắc nhớ – như người mẹ yêu mến đặt tay lên vai đứa con để nhắc nhở: “nhớ rửa tay, rửa mặt và đáng răng trước khi đi ngủ nhé”. Nhưng người mẹ biết quá rõ về con mình. Đứa trẻ còn phải học nhiều để biết cách giữ vệ sinh, thế nên bà cùng với con đi ra chỗ bồn rửa, và một lần nữa, chỉ cho đứa trẻ biết phải rửa mặt ra sao. Rồi bà tự nói với mình “một ngày nào đó”…

Thánh Thần sẽ tiếp tục công trình của Đức Giêsu bằng cách nhắc chúng ta nhớ những điều Đức Kitô đã dạy: đừng ích kỷ một mình, nhưng hãy làm việc và chia sẻ với cộng đoàn; không chỉ chăm chú mỗi mục đích của mình nhưng hãy nhìn ra nhu cầu của tha nhân; bỏ qua thù hận và hãy tha thứ; vượt qua nỗi sợ hãi để thực hiện hành động anh hùng qua việc tự hiến. Trong những lời của Đức Giêsu: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”.

Thánh Thần không phải là cái máy tự động đưa ra những giải đáp cho các vấn nạn hay các bài kiểm tra trên trường. (Tôi thi trượt môn vật lý trong năm đầu sau khi đã cầu xin Thánh Thần ban “ơn khôn ngoan và hiểu biết). Nhưng Đức Giêsu hứa rằng trong những lúc gian nan thử thách, Đấng Bầu Chữa sẽ giúp chúng ta vượt qua những nghi ngại và làm chúng ta nhớ lại những lời Đức Giêsu đã dạy. Thánh Thần hiện diện với chúng ta trong “khoảng thời gian” từ sau khi Đức Giêsu đã lên trời và chúng ta đang mong chờ Người trở lại. Trong khi các môn đệ được Đức Giêsu hiện diện bằng sương bằng thịt, thì cũng thế, nay chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần hiện diện, nhắc nhở chúng ta về những giáo huấn của Đức Kitô cũng như giúp chúng ta sống những lời dạy ấy.

Trong ngày Lễ HIện Xuống chúng ta sẽ mừng kính điều chúng ta đã nhận được – như Đức Giêsu đã hứa – ân sủng của Thánh Thần. Hoặc, như đã nói ở trên, Lễ Hiện Xuống nhắc đến “vị khách bất thường” đã đến và ở lại với chúng ta. Không chỉ khoanh tay đứng nhìn hay thờ ơ nhìn xem chúng ta sẽ thực hiện ra sao, nhưng Người xắn tay cùng “làm việc nhà” – dọn dẹp cho tươm tất để xứng đáng là nơi cho Thiên Chúa hằng sống.