Năm C

 
 

Ch�a Nhật XII Thường Ni�n - Năm C

Dcr 12,10-11 /Gl 3,26-29 / Lc 9,18-24

 

Lm An Phong op : Tin L� Đồng h�nh tr�n đường thập gi�

Lm Như Hạ op : Liều Mạng

G. Nguyễn Cao Luật op : T�n v� Người

Lm Giac�b� Phạm Văn Phượng op : Đau khổ

Fr. Jude Siciliano, op : H�nh trang theo Ch�a l� cầu nguyện

Fr. Jude Siciliano, op: Đức Kit�, cội nguồn hạnh ph�c của ch�ng ta

 


Lm An Phong op

Tin : Đồng h�nh tr�n đường thập gi�
Lc 9,18-24

1. Tin l� gắn b�

Tin Mừng h�m nay tường thuật một biến cố quan trọng; đ�y l� một bước ngoặc trong tiến tr�nh huấn luyện c�c t�ng đồ. Khởi từ đ�y, Ch�a bắt đầu mặc khải cho c�c �ng biết "vận mệnh" của "Con Người", Người sẽ phải chịu khổ h�nh; v� Ch�a chuẩn bị để dẫn c�c �ng l�n Gi�rusalem.

Ph�r�, thay mặt cho c�c t�ng đồ, đ� tuy�n xưng niềm Tin của m�nh v�o �ức Gi�su : "Thầy l� �ấng Kit� của Thi�n Ch�a". �ặt m�nh trong truyền thống Do Th�i, ta hiểu rằng đ�y kh�ng phải chỉ l� một sự nhận biết của l� tr�, nhưng l� một sự gắn b� cụ thể với �ức Gi�su. Người Do Th�i, trong suốt qu� tr�nh lịch sử d�i v� đau khổ, vẫn kh�ng ngừng tr�ng đợi �ấng Cứu Tinh đến để giải ph�ng d�n tộc. Ph�r� v� c�c t�ng đồ kh�ng n�i l�n một sự nhận định của l� tr�, rồi sau đ� "đường ai nấy đi"; nhưng c�c �ng x�c nhận chọn lựa, x�c định con đường dấn th�n theo Ch�a Gi�su.

2. Tin l� gắn b� trong qu� tr�nh lịch sử

Ch�a Gi�su hiểu con đường m� Người phải trải qua theo Th�nh � Ch�a Cha, con đường đổ m�u để mang lại ơn Cứu độ cho con người. Ch�a Gi�su đ� cẩn thận hỏi lại niềm tin của c�c t�ng đồ trước khi c�ng với c�c �ng tiến về Gi�rusalem để chịu tử nạn. Ch�a Gi�su vui mừng khi thấy sự gắn b� của c�c m�n đệ với Người, nhưng Người cũng hiểu rằng niềm tin ấy, sự gắn b� ấy cần phải diễn ra trong thực tế của cuộc đời, được chứng tỏ trong qu� tr�nh lịch sử, cũng như bao mối tương quan của con người với nhau.

Quả thực, ch�ng ta thấy Ph�r� v� c�c t�ng đồ thực sự tin v�o Ch�a Gi�su như l� một sự gắn b� bản th�n với Người, c�c �ng đ� sẵn s�ng theo Ch�a Gi�su. L�ng tin ấy c� yếu đuối, chưa vững bền, nhưng d� sao đ� kh�ng phải l� một niềm tin của l� tr�... L�ng tin ấy cần được vững chắc v� ch�n thật hơn trong qu� tr�nh lịch sử của cuộc sống; ch�nh v� thế, Ch�a Gi�su tiếp tục c�ng c�c �ng đi l�n Gi�rusalem.

3. Tin l� gắn b� trong đau khổ

Mặc d� đ� c� những lời ti�n b�o trong c�c ng�n sứ về "Người T�i Tớ đau khổ của Giav�", nhưng truyền thống Do Th�i kh�ng hiểu được, kh�ng cảm được, kh�ng đ�n nhận được. Họ chỉ c� thể chấp nhận được một �ấng M�ssia quyền năng, vinh quang v� "bắt kẻ th� l�m bệ dưới ch�n".

Nhưng đường lối của Thi�n Ch�a l� b�y tỏ một l�ng y�u thương lớn lao hơn mọi t�nh y�u (cuộc tử nạn), v� muốn c�c m�n đệ thực sự tin tưởng v�o Ch�a khi c�ng với Người trải qua đau khổ. Ch�nh qua kinh nghiệm ấy, l�ng tin của c�c �ng nơi Ch�a được vững chắc v� ch�n thật hơn.

"Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị c�c kỳ mục, thượng tế c�ng kinh sư loại bỏ, bị giết chết v� ng�y thứ ba sống lại"

Lạy Ch�a Gi�su

Ch�a qu� biết sự nh�t đảm của con,
như Ch�a cũng biết
sự nh�t đảm của c�c t�ng đồ khi xưa.

Con bước theo Ch�a, nhưng
từng bước rụt r�,
từng bước lo �u.
xin cho bước ch�n con
mỗi ng�y mỗi mạnh dạn v� can đảm hơn,
bước qua những khổ đau đang chờ con v� Ch�a
tr�n đường đời.


Lm Như Hạ op

LIỀU MẠNG
Lc 9:18-24

Th�nh gi� tr�n ngập cuộc sống con người. N�i kh�c, đời l� bể khổ. Muốn tho�t khổ hay muốn lợi dụng đau khổ cho một mục ti�u n�o đ� ? Vấn đề l� c� nh�n thấy đau khổ như một phương tiện hay một chướng ngại cho cuộc đời. Thế th�i. �ức Gi�su sẽ mạc khải tất cả chiều k�ch đau khổ trong sứ mệnh cứu độ nh�n loại.

TIỀM NĂNG

Khi t�m c�ch tr�nh n� đau khổ, người ta c� th�i độ n�o nếu kh�ng phải l� sợ h�i, kinh tởm . Như thế, phải chăng đau khổ kh�ng c� một � nghĩa v� gi� trị n�o đối với con người. �ức Gi�su kh�ng dạy ch�ng ta đi t�m đau khổ. �� l� một hoang tưởng. Nhưng Người dạy ch�ng ta chọn một th�i độ trước đau khổ.

Muốn hay kh�ng, cuộc đời đầy đau khổ. C� những đau khổ ph�t xuất từ l�ng tham của con người. Nhưng cũng c� những đau khổ kh�ng t�y thuộc con người. Chẳng hạn, tai nạn, thi�n tai. C� khi do tha nh�n, chứ kh�ng t�y thuộc c� nh�n m�nh. Như thế, diệt dục c� chấm dứt nổi đau khổ hay kh�ng ?

�ức Gi�su đi v�o kiếp người. Người cũng phải chấp nhận tất cả khổ đau của th�n phận l�m người. Bởi vậy, Người kh�ng ngần ngại mạc khải tất cả sự thật về ch�nh m�nh : "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị c�c kỳ mục, thượng tế c�ng kinh sư loại bỏ, bị giết chết" (Lc 9:22). Nhưng Người kh�ng chịu đau khổ v� đau khổ. Thực vậy, Người buồn rầu khi nghĩ tới đau khổ (Ga 12:27), cầu xin Ch�a Cha cất ch�n đắng (Lc 22:42), v� cảm thấy thấm th�a đau khổ tr�n thập gi� (Mt 27:46).

Nếu cứ quay cuồng trong đau khổ, Người sẽ kh�ng t�m được lối tho�t. Dĩ nhi�n đau khổ của Người ph�t xuất từ l�ng tham lam v� gian �c của con người. Nhưng thay v� tr�nh n�, Người đ� mạc khải tất cả bản chất v� � nghĩa đau khổ. C�i chết của Người tuyệt đối cần thiết cho c�ng cuộc cứu độ v� vinh quang phục sinh (Mc 8:31-33; Lc 24:25-26). �au khổ l� phương tiện để Người trở th�nh "�ấng Kit� của Thi�n Ch�a" (Lc 9:20). Từ vị tr� n�y, Người thấy r� một tương lai rực rỡ mở ra trước mắt. Nghĩa l�, sau khi bị giết chết, Người "sẽ chỗi dậy" (Lc 9:22).

Kh�ng phải chỉ Người mới chỗi dậy. Nhưng "ch�ng ta cũng sẽ n�n một với Người, nhờ được sống lại như Người đ� sống lại" (Rm 6:5). Ch�nh v� thế, �ức Gi�su mới d�m k�u gọi mọi người theo Ch�a (x. Lc 9:23). Nếu kh�ng theo Ch�a, cứ lầm lũi v�c thập gi� theo � m�nh, chắc chắn sẽ kh�ng thể n�o v�o c�i vinh quang phục sinh. Người đ� kh�ng dừng lại ở bi�n giới đau khổ, nhưng đ� vượt l�n tr�n để mạc khải � nghĩa của đau khổ h�m nay. �� chỉ l� con đường đưa tới vinh quang, chứ kh�ng phải l� trở ngại cho bước tiến của con người. �� cũng kh�ng phải l� sức mạnh đ�m tối ph� tan mọi ước vọng con người.

Hơn nữa, cũng như �ức Gi�su, Kit� hữu c� thể biến thập gi� th�nh sức mạnh cứu độ cho to�n thể nh�n loại. Bởi vậy, Kit� hữu tr�n trọng từng bước ch�n theo Th�y. Nếu ng� gục dưới sức nặng khổ gi�, họ sẽ kh�ng thể n�o bước v�o vinh quang. Phải bước theo Th�y, mới c� đủ sức mạnh biến khổ đau th�nh nguồn ơn cứu độ cho ch�nh m�nh v� tha nh�n.

Như thế, nhờ đau khổ, �ức Gi�su đ� mạc khải ch�nh m�nh. Cũng ch�nh nhờ đau khổ, Kit� hữu mới c� thể biết Ch�a l� ai. Người kh�ng muốn ch�ng ta đau khổ. Nhưng Người muốn ch�ng ta tin tưởng v�o t�nh y�u Thi�n Ch�a khi chạm tr�n với thực tế cuộc đời. Con người c� khuynh hướng tr�nh đau khổ. Khi gặp đau khổ, họ tự nhi�n muốn co cụm lại, chỉ muốn tr�nh xa mọi người v� sống cho ri�ng m�nh. L�c đ�, con người t�m mọi c�ch để cứu mạng sống m�nh. Nhưng đ� kh�ng phải l� con đường giải tho�t. Chỉ c� một lối duy nhất đem lại sự to�n vẹn cho con người, đ� l� liều mất mạng sống v� Th�y Ch� Th�nh (Lc 9:24).

Chỉ khi n�o dấn th�n tới mức đ�, Kit� hữu mới c� thể thấy bản chất Kit� hữu l� g� (Mt 5:10-12). Cũng như �ức Kit�, c�c m�n đệ sẽ chịu b�ch hại (Mt 10:24; Ga 15:19-21). Theo �ức Kit�, họ phải từ bỏ ch�nh m�nh (Mt 16:24; Mc 8:34-35; Lc 9:23), phải học chịu đau khổ bất c�ng (1 Pr 4:15-19), m� vẫn vui mừng (Gc 1:2; 1 Pr 4:13), v� Ch�a Kit� (1 Cr 4:9-11; Pl 1:29).

GIẢI THO�T

�au khổ dai dẳng nhất trong cuộc sống ch�nh l� lao động. Danh lợi v� tủi nhục cũng từ đ�. Lao động c� thể giải tho�t, nhưng cũng c� thể x�ch h�a con người. Nhờ đ�i tay, con người tạo ra danh lợi. Nhưng cũng ch�nh danh lợi lại trở th�nh cạm bẫy nhốt chặt con người.

Kh�ng bao giờ c�i v�ng danh lợi bu�ng tha con người. Thật luẩn quẩn ! Con người tưởng chừng l�n tới tận m�y xanh nhờ sức mạnh danh lợi. Nhưng thực tế họ bị tội lỗi v� l�ng dạ �ch kỷ che mờ l� tr� đến nỗi kh�ng c�n nh�n thấy chương tr�nh quan ph�ng đầy ắp t�nh y�u Thi�n Ch�a. �ể t�m lại h�nh ảnh nguy�n thủy, con người cần phải bắt đầu lấy lời Ch�a giải cứu việc l�m khỏi "l�-g�ch của lợi nhuận, chia rẽ, nong nả t�m kiếm th�m của cải, l�ng tham t�ch lũy v� hưởng thụ," v� khi lệ thuộc "t�i sản phi nh�n bản" việc l�m trở th�nh một "ngẫu tượng quyến dũ v� bất nh�n" (Gioan Phaol� II : Zenit 4/5/2004). Phải bắt đầu c�ng cuộc cứu độ từ ch�nh việc l�m, v� việc l�m đ�o luyện v� s�ng tạo con người về một phương diện n�o đ�.

Nhưng lao động để l�m g� ? Phải chăng lao động chỉ để kiếm ăn ? Nếu đ�ng thế, con người v� lo�i vật kh�c nhau chỗ n�o ? Thật l� luẩn quẩn. Chỉ Th�nh Linh mới c� thể ph� vỡ v�ng luẩn quẩn đ� m� th�i. Thật thế, "người lao c�ng Nadar�t nhắc nhở ch�ng ta rằng cuộc sống c�n gi� trị hơn thực phẩm v� lao động v� con người, chứ con người kh�ng sinh ra để lao động. C�i l�m cho cuộc sống cao cả kh�ng phải l� to�n bộ những g� thủ đắc, cũng kh�ng phải loại chuy�n m�n, hay cấp độ c�ng việc. Con người v� c�ng cao cả hơn những sản phẩm họ sản xuất hay sở hữu." Thực tế, "t�m hồn con người quan t�m qu� mức tới đồ ăn �o mặc m� chẳng quan t�m tới những anh em ngh�o khổ nhất, con tim bị m� qu�ng v� của cải, mất khả năng sống li�n đới v� y�u thương v� vị lợi, kh�p chặt t�m hồn trước Thi�n Ch�a v� anh em. Bởi vậy, người Kit� hữu, c� nh�n hay tập thể, đặc biệt gi�o d�n, c� bổn phận len lỏi v�o cơ cấu x� hội để in s�u luật Ch�a v�o cuộc sống trần thế" (Gioan Phaol� II : Zenit 4/5/2004). Nhờ thế, con người v� m�i trường sẽ được ph�c �m h�a. Ơn cứu độ sẽ chan h�a mặt đất. H�a b�nh sẽ đến với nh�n loại.


Lm G. Nguyễn Cao Luật OP

T�n v� Người
Lc 9,18-24

C�u hỏi g�y bối rối

Th�m một lần nữa, t�c giả Lu-ca cho biết l� Đức Gi�su đang cầu nguyện, tức l� đang trao đổi th�n mật với Ch�a Cha. V� "cầu nguyện một m�nh" c� nghĩa l� tho�t khỏi mọi x�n xao để c� thể đ�n nhận t�nh y�u đang ở trong m�nh.

Chỉ một m�nh t�c giả Luca thuật lại chi tiết c�c m�n đệ c�ng đi với Đức Gi�su. Trong cuộc tiếp x�c ri�ng tư giữa Thầy v� tr�, Đức Gi�su đ� hỏi c�c m�n đệ về căn t�nh của Người.

Khởi đầu, Đức Gi�su kh�ng v�o vấn đề ngay. Người n�u l�n một c�u hỏi c� t�nh gợi �, th�ng tin : "Đ�m đ�ng n�i Thầy l� ai ?"

C�c m�n đệ đ� thuật lại những � nghĩ của d�n ch�ng về Đức Gi�su. Người ta kh�ng biết r� Người l� ai, nhưng họ nhận thấy Người quả l� một nh�n vật lạ l�ng, g�y nhiều ngỡ ng�ng. C� người cho rằng Đức Gi�su l� một ng�n sứ, c� người nghĩ rằng Đức Gi�su l� �ng �-li-a sống lại, người trước đ�y đ� được cất đi trong chiếc xe bằng lửa. Bao nhi�u l� � kiến, bao nhi�u l� nhận định.

"C�n anh em, anh em bảo Thầy l� ai ?"

C�u hỏi n�y l�m c�c m�n đệ bối rối. C�c �ng y�n lặng nh�n nhau. Đ�y kh�ng phải l� chuyện b�o c�o lại nữa. Đ�y cũng kh�ng phải l� chuyện trả lời về điều m�nh biết, nhưng l� điều m�nh tin. Đức Gi�su mời gọi c�c m�n đệ x�c định mối tương giao c� nh�n v� s�u xa của c�c �ng với Người. Ai d�m chắc chắn để trả lời? Một c�ch n�o đ�, th�i độ y�n lặng của c�c m�n đệ cũng c� � nghĩa : c�c �ng nhận thấy nơi Đức Gi�su một điều g� đ� rất đặc biệt, nhưng kh�ng thể diễn tả.

�ng Ph�r� thưa : "Thầy l� Đấng Kit� của Thi�n Ch�a." �ng trả lời như một người Do-th�i c� thể l�m. C�u trả lời của �ng n�i l�n niềm tr�ng đợi của d�n �t-ra-en l� chờ mong Đấng M�-si-a. Nhưng c�u trả lời của �ng quả l� lạ kỳ v� x�c định r� Đức Gi�su l� Đấng M�-si-a. Kh�ng ai trong số c�c m�n đệ phản đối. C�c �ng y�n lặng v� như vậy, c� thể hiểu l� c�c �ng đồng �.

Thực ra, �ng Ph�r� chưa hiểu hết � nghĩa của điều �ng vừa n�i : �ng kh�ng hề nghĩ rằng Đức Gi�su sẽ bị h�ng l�nh đạo Do-th�i loại bỏ, Người sẽ phải đi qua cuộc Thương Kh�, phải đ�n nhận c�i chết. Do đ�, Đức Gi�su b�o cho �ng v� c�c m�n đệ biết điều n�y, đồng thời Người cũng cho biết l� Ch�a Cha sẽ cho Người sống lại. Trong khi chờ đợi những điều ấy xảy ra, tất cả vẫn c�n trong v�ng b� mật.

Tiếp đến, Đức Gi�su mời gọi mọi người c�ng tiến bước với Người tr�n con đường y�u mến để gặp gỡ với Ch�a Cha. Đ� l� một t�nh y�u mở ra với người kh�c, v� do đ�, người ta phải từ bỏ ch�nh m�nh. Cũng do t�nh y�u n�y th�c đẩy, người ta sẵn s�ng chấp nhận mang nơi m�nh mọi m�u thuẫn v� mọi kh� khăn, đ� l� "v�c thập gi� m�nh hằng ng�y".

Như vậy, đời sống y�u thương n�y mời gọi mỗi người rời bỏ sự đầy đủ của m�nh, để t�m thấy nơi Đức Gi�su lẽ sống cho cuộc đời, d� c� những c�m dỗ v� thử th�ch. Người ta kh�ng thể cứu mạng sống m�nh khi muốn t�ch ri�ng ra một chỗ, bằng mọi gi�, nhằm trốn tr�nh đau khổ v� sự chết.

Như vậy, mỗi người đều c�ng sống với Đức Gi�su dưới c�i nh�n đầy y�u thương của Ch�a Cha. Mỗi người đều tin rằng m�nh sẽ vượt qua những thất bại của cuộc sống. Họ được hướng dẫn, vượt l�n tr�n c�i chết để đạt tới niềm vui đ� được ban tặng trong Đức Gi�su Phục Sinh, Đấng đi trước họ.

Danh hiệu vượt tr�n mọi danh hiệu

Anh l� ai ?

Người ta vẫn đặt c�u hỏi như thế với người họ cần tiếp x�c. Một c�u hỏi rất b�nh thường bởi v� người ta cần ph�n biệt người đang n�i chuyện với m�nh ra khỏi đ�m đ�ng m� người ta kh�ng biết, kh�ng quen.

C�n Đức Gi�su lại đảo ngược c�u hỏi. Người hỏi c�c m�n đệ : "Anh em bảo Thầy l� ai ?"

Thực ra việc đọc t�n một người kh�ng gợi l�n một điều g� về con người mang t�n ấy. Vẫn c� những t�n gọi gợi l�n một � nghĩa kh�c, trong khi ch�nh con người lại kh�ng c� g� ph� hợp với t�n gọi. Cần phải c� thời gian, phải c� một lịch sử chung để t�n gọi ấy gắn liền với một con người duy nhất, kh�ng thể thay thế được.

Khi đặt c�u hỏi xem c�c m�n đệ bảo m�nh l� ai, Đức Gi�su mời c�c �ng c�ng bước đi tr�n con đường c�c �ng đang theo Người. T�n gọi đ�ch thực của Người kh�ng phải do con người đặt cho. C�c m�n đệ chỉ hiểu được trọn vẹn � nghĩa của t�n gọi ấy khi đi đến cuối h�nh tr�nh. H�nh tr�nh n�y bao h�m một sự hiểu biết, một cuộc sinh ra.

L�c n�y đ�y, c�c T�ng Đồ chưa thể cảm nhận hết tầm mức của t�n gọi do �ng Ph�r� n�i l�n. C� lẽ c�c �ng chỉ hiểu từ ngữ M�sia như Kinh Th�nh quen sử dụng: đ� l� t�n gọi vẫn được biết đến nơi những người tr�ng chờ Thi�n Ch�a. C�n trong thực tế, c�c �ng chưa hiểu được � nghĩa thực sự của t�n gọi n�y.

Để đạt tới tầm mức hiểu biết ấy, c�c �ng phải gạt bỏ những ước vọng ri�ng tư về Vị Thầy của m�nh, v� nh�n nhận Thầy theo thực tại s�u xa của t�nh y�u bị đ�ng đinh tr�n thập gi�.

Chỉ những người n�o c�ng theo Đức Gi�su l�n đồi Can-v� mới c� thể đọc l�n t�n gọi Đức Gi�su v� nắm bắt to�n bộ � nghĩa của t�n gọi ấy. Ch�nh tại đ�y, t�n gọi ấy trở th�nh danh hiệu trổi vượt tr�n mu�n ng�n danh hiệu.

Nếu Đức Gi�su trở lại

Ng�y nay, nếu Đức Gi�su trở lại v� đặt c�u hỏi : "Anh em bảo Thầy l� ai ?", con người ng�y nay sẽ trả lời như thế n�o ? Phải chăng l� một c�u trả lời như sau : "Lạy Ch�a, Ng�i l� Đấng đ� lập n�n một t�n gi�o tuyệt vời, l�m cho mỗi người y�u qu� vị tr� của m�nh, Ng�i xuất hiện như bảo đảm chắc chắn cho trật tự x� hội."

Hay một c�u trả lời kh�c: "Ng�i l� Đấng đ� gợi l�n một nền văn minh ho�n hảo." hay "Ng�i l� Đấng đ� đề ra những quy tắc đạo đức đ�ng đắn nhất�.

Nhưng ch�ng ta c� nghĩ rằng đ� l� một trong những c�u trả lời của Mẹ T�r�xa Cancutta ? Chắc chắn l� kh�ng. C� lẽ Mẹ sẽ trả lời : "Lạy Ch�a, Ng�i l� Đấng đ� n�i : H�y y�u thương người kh�c. Ng�i cũng l� Đấng đ� n�i : Điều c�c ngươi l�m cho một trong những anh em b� nhỏ nhất của Ta đ�y, l� l�m cho ch�nh Ta."

C�n Madeleine Delbr�l, người đ� sống với những người ngh�o, những người v� thần, c� lẽ sẽ trả lời : "Lạy Ch�a, Ng�i l� Đấng đ� chiếu s�ng tr�n con, đ� l�m cho con n�n gần gũi với những anh em kh�ng Kit� gi�o." V� gi�m mục Dom Helder Camara sẽ n�i : "Lạy Ch�a, Ng�i l� Đấng đ� dạy con l� h�y cho đi tất cả những g� con c�, h�y cho đi tất cả những g� con l�."

Ch�ng ta c� chấp nhận c�u trả lời ấy ? Đ� l� những c�u trả lời xuất ph�t từ một l�ng tin sống động, một tấm l�ng ch�n th�nh, một cuộc sống được Đức Gi�su chiếm đoạt (x. Pl 3,12).

* * *

�i Ch�a Kit�,

Ch�a kh�ng ngừng n�u l�n c�u hỏi :

Con bảo Thầy l� ai ?

Ch�a l� Đấng y�u thương con

m�i m�i trong cuộc sống, kh�ng bao giờ chấm dứt.

Ch�a mở ra cho con con đường.

Ch�a đi trước con tr�n đường th�nh đức,

tại đ�, ph�c cho người chết v� y�u mến,

v� tử đạo l� c�u trả lời cuối c�ng.

Ch�a l� Đấng đang cầu nguyện trong con,

cả đ�m lẫn ng�y

m� con chẳng biết như thế n�o.

Ch�a l� Đấng v�o mỗi buổi s�ng

xỏ v�o tay con chiếc nhẫn,

chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền lợi v� lễ mừng.

Ch�a l� Đấng kh�ng ngừng kiếm t�m con.

Tại sao con lại nghi ngờ

v� d�nh thời gian cho những việc ri�ng ?

Tại sao khi đ� cầm c�y,

m� vẫn c�n ngo�i lại đ�ng sau ?

Con đ� kh�ng xứng đ�ng để đi theo Ch�a.

Dầu vậy,

dầu kh�ng nh�n thấy Ch�a,

con vẫn y�u mến Ch�a.

theo R. Schutz n


Lm Giac�b� Phạm Văn Phượng op

Đau khổ
(Lc 9,18-24)

Nh�m 12, tức l� c�c t�ng đồ, sau một thời gian được ở b�n Ch�a, được chứng kiến mọi việc Ng�i l�m, được Ng�i dạy dỗ c�ch ri�ng, được tham dự v�o ch�nh c�ng việc rao giảng Tin Mừng của Ng�i, được dự phần v�o việc Ng�i nu�i d�n ch�ng bằng năm chiếc b�nh v� hai con c�, nay đến l�c Ch�a muốn c�c �ng dứt kho�t lập trường, n�i l�n l�ng tin v�o Ch�a. Nhưng đ�y cũng l� kh�c quanh quan trọng : Ch�a bắt đầu tỏ ra cho c�c m�n đệ biết con đường đau khổ Ng�i phải đi để ho�n th�nh sứ mạng. Bởi vậy việc �ng Ph�-r� tuy�n xưng l�ng tin v� việc Ch�a b�o trước con đường đau khổ của Ng�i l� một biến cố bản lề trong qu� tr�nh thi h�nh sứ mạng của Ch�a cũng như trong qu� tr�nh huấn luyện c�c m�n đệ, v� khi n�i về con đường của Ng�i th� Ch�a cũng n�i đến con đường c�c m�n đệ phải đi theo Ng�i. Đ� l� nội dung b�i Tin Mừng h�m nay, ch�ng ta c� thể nhận ra ba điều r� r�ng : Người ta nghĩ g� v� c�c m�n đệ nghĩ g� về Ch�a Gi�-su, con đường đau khổ Ch�a phải đi, v� con đường c�c m�n đệ v� mọi người đi theo Ch�a.

Mở đầu, Ch�a Gi�-su hỏi c�c m�n đệ về dư luận của quần ch�ng : người ta bảo Ng�i l� ai ? Hẳn c�c �ng phải biết, v� c�c �ng vẫn ngồi lẫn trong đ�m đ�ng khi Ch�a giảng dạy, bởi vậy c�c �ng c� thể trả lời dễ d�ng : người th� bảo l� Gio-an Tẩy Giả, kẻ th� bảo l� �-li-a, người kh�c lại cho l� một vị ng�n sứ n�o thời trước đ� sống lại. C�u trả lời cho thấy dư luận quần ch�ng kh� hoang mang về Ch�a Gi�-su, họ nhận ra một kh�a cạnh n�o đ� của Ng�i, v� cố gắng diễn tả bằng những h�nh ảnh quen thuộc, do kinh nghiệm hoặc do truyền thống, như vậy họ mới chỉ biết mập mờ về Ch�a v� bập bẹ n�i về Ng�i.

Nhưng c�u hỏi mở đầu của Ch�a chỉ l� để chuẩn bị cho một c�u hỏi quyết liệt v� li�n quan trực tiếp tới c�c t�ng đồ : �C�n anh em, anh em bảo Thầy l� ai ?�. �ng Ph�-r� đ� thay mặt cho anh em đ�p ngay : �Thầy l� Đấng Ki-t� của Thi�n Ch�a�. Sau c�u trả lời ấy, ch�ng ta c� thể ngạc nhi�n khi thấy Ch�a kh�ng vỗ tay hoan h� cũng kh�ng n�i một lời khen hoặc x�c nhận �ng Ph�-r� n�i đ�ng, nhưng lại trịnh trọng truyền cho c�c �ng kh�ng được n�i điều đ� với ai, v� ch�nh Ch�a giải th�ch l� do tại sao Ng�i truyền như thế : �Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị c�c kỳ mục, thượng tế c�ng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, v� ng�y thứ ba sẽ trỗi dậy�, đ� l� con đường Ng�i phải đi. Liền sau đ� Ch�a n�i với mọi người chứ kh�ng phải chỉ n�i với c�c m�n đệ, về con đường họ phải đi : �Ai muốn theo t�i, phải từ bỏ ch�nh m�nh, v�c thập gi� m�nh hằng ng�y m� theo�.

Từ bỏ m�nh v� v�c thập gi� kh�ng phải l� hai h�nh động ri�ng biệt, nhưng l� hai mặt của một h�nh động. Từ bỏ m�nh ở đ�y kh�ng phải l� một sự vong th�n, nhưng l� một điều kiện để th�nh c�ng, để vươn tới một c�i g� cao hơn. Trong cuộc sống ch�ng ta thấy muốn theo bất cứ một l� tưởng n�o, cũng phải từ bỏ m�nh để đi theo, thực hiện l� tưởng ấy. Muốn đi theo Ch�a lại c�ng phải từ bỏ m�nh để đi v�o con đường của Ng�i. Đ�nh mất mạng sống m�nh v� Đức Ki-t� nghĩa l� chọn lấy tương lai của Ch�a l�m của m�nh. Đ�nh mất ở đ�y kh�ng phải chỉ bằng c�ch đưa đầu cho đao phủ ch�m như c�c vị tử đạo, đ� chỉ l� hạnh ph�c của một số �t, nhưng l� sự từ bỏ li�n lỉ hằng ng�y. Suốt cuộc đời của người Ki-t� hữu l� một cuộc chết dần đi để cho Đức Ki-t� sống mạnh hơn. N�i t�m lại, Ch�a Gi�-su đ� kh�ng che đậy, kh�ng giấu diếm về con đường Ng�i phải đi v� con đường những người tin Ng�i phải đi theo Ng�i, đ� l� đi tới vinh quang bằng con đường gian nan đau khổ. Mơ ước vinh quang th� dễ, nhưng chấp nhận con đường đau khổ để đi tới vinh quang th� kh�. Đ� l� b�i học Ch�a dạy ch�ng ta h�m nay.

Trong đời sống, hầu như hằng ng�y ch�ng ta đều gặp phải những điều bực m�nh, khổ t�m, v� cuộc đời ch�ng ta được th�u dệt bằng nhiều thứ đau khổ về thể x�c v� t�m hồn: bệnh tật, đau yếu, lo �u, bất c�ng, t�ng thiếu, cực nhọc, ngh�o khổ� n�n người ta n�i trần gian l� chốn khổ ải, l� thung lũng nước mắt quả thực kh�ng sai ch�t n�o. Từ trong n�i cho đến khi nằm y�n nơi phần mộ, đời sống con người phải trải qua bao nhi�u kh�c l�c, thở than, v� c� một điều kỳ kh�i l� thường những người tốt lại gặp đau khổ nhiều hơn. Cũng như s�t thường đ�nh những c�y cao hay những t�a nh� nhiều tầng, cũng vậy, sự thử th�ch h�nh như cũng thường �thăm hỏi� những người cao thượng v� th�nh thiện, v� thế, Ch�a Gi�-su, cũng ch�nh l� sự th�nh thiện v� cao thượng tuyệt đối, đ� muốn v�c c�y thập gi� nặng nhất để khuyến kh�ch ch�ng ta v� cho ch�ng ta một mẫu gương cụ thể, sống động.

Trước những đau khổ v� thử th�ch, ch�ng ta phải hiểu thế n�o ? Ch�ng ta đừng bao giờ hiểu đ� l� h�nh phạt Ch�a trừng phạt, nhưng đ� l� một c�ch Ch�a d�ng để gi�o dục ch�ng ta, chẳng hạn : một hoạn nạn, một sự c�m dỗ dạy ch�ng ta biết cầu nguyện tha thiết hơn; một c�i chết của người th�n y�u khơi dậy nơi ch�ng ta l�ng gắn b� với nước trời v� cố gắng sống tốt đẹp hơn; một lời xỉ nhục, một l�ng phụ bạc, một sự phản bội t�ch ch�ng ta xa l�nh c�c tạo vật để b�m chặt v�o Ch�a hơn; một lỗi lầm l�m ch�ng ta nghĩ đến sự c�ng ch�nh của Ch�a v� hy vọng v�o l�ng nh�n từ của Ng�i. Đ�ng kh�c, mỗi thử th�ch, mỗi đau khổ ch�ng ta gặp l� h�nh như Ch�a trao cho ch�ng ta một c�i gai đội tr�n đầu Ng�i, ch�ng ta đừng vất c�i gai ấy, nhưng h�y nhận lấy v� mạnh dạn bước theo ch�n Thầy. Người Ki-t� hữu phải sẵn s�ng chịu đau khổ một c�ch ph� th�c, v� phải biết nh�n l�n thập gi� của Ch�a để th�m tin tưởng v� hy vọng. Ch�ng ta h�y nhớ rằng : đau khổ thường đi trước niềm vui, th�nh gi� phải đi trước triều thi�n, v� thế, mỗi đau khổ ch�ng ta chấp nhận v� t�nh y�u Ch�a, mai n�y sẽ trở th�nh một vi�n ngọc vĩnh cửu cho ch�nh m�nh.


Lm. Jude Siciliano, OP
(Chuyển ngữ FX. Trọng Y�n, OP)

H�NH TRANG THEO CH�A: CẦU NGUYỆN
Lc  9: 18-24

B�i ph�c �m h�m nay c� vẻ như một b�i kiểm tra trong lớp học. Thầy gi�o đặt c�u hỏi v� học sinh hăm hở đưa tay trả lời. Ch�ng ta nghe c�u Ch�a Gi�su hỏi: �D�n ch�ng n�i Thầy l� ai?� C�u trả lời ngay: ��ng Gioan Tẩy Giả�, �Elia�, �Một trong c�c ng�n sứ thời xưa đ� sống lại�.

Ch�ng ta nghe c�c c�u trả lời, nhưng c�c bạn c� biết phản ứng của c�c gương mặt của những người trả lời ra sao kh�ng? Chắc những người n�y đ� k�o đo�n h� reo đi theo một thủ lĩnh với đầy tham vọng v� đắc �. Họ đang đi với một thủ lĩnh đang rao giảng v� được d�n ch�ng ủng hộ. Họ chỉ c� suy nghĩ đơn giản l� coi Thầy họ ngang h�ng với Gioan Tẩy Giả, Elia, hay một ng�n sứ? C�c m�n đệ đang nghĩ họ đang tiến đến vinh quang. C� thể đ�ng thật, nhưng kh�ng phải loại vinh quang như c�c �ng đang nghĩ.

Trong lớp, khi học sinh kh�ng trả lời đ�ng c�u hỏi, th� Thầy gi�o đặt lại c�u hỏi theo c�ch kh�c. Đ� l� việc Ch�a Gi�su l�m. Ch�a Gi�su lại đặt c�u hỏi ch� trọng v�o c�c �ng, mong rằng c�c �ng sẽ trả lời đ�ng kinh nghiệm của c�c �ng về Thầy họ. �C�n anh em, anh em bảo Thầy l� ai?�. Ph�r�, thủ lĩnh của nh�m, đ�i khi cũng kh�ng trả lời đ�ng c�u hỏi được. Nhưng, lần n�y, Ph�r� c� vẻ trả lời đ�ng �Thầy l� Đấng Kit� của Thi�n Ch�a�.

Gương mặt của Ph�r� trong l�c trả lời tr�ng ra sao? C� vẻ t�n k�nh, hay k�nh sợ? H�i l�ng v� m�nh trả lời đ�ng? Ph�r� trả lời đ�ng, nhưng �ng ta hiểu sai về phong c�ch Ch�a Gi�su l� �Đấng Kit� của Thi�n Ch�a�. C�c m�n đệ, kể cả Ph�r�, c�n phải t�m hiểu nhiều về Ch�a Gi�su l� ai. V� thế khi thầy gi�o bảo c�c học sinh im lặng c� nghĩa l� c�c em c�n phải học hỏi nhiều. Cũng vậy, đối với c�c t�ng đồ, Ch�a Gi�su muốn c�c �ng lu�n học hỏi về Ng�i. V� c�c buổi học sau Ch�a Gi�su dạy cho c�c �ng về tin mừng Ng�i đem đến. L� �Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị c�c kỳ mục, thượng tế c�ng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, v� ng�y thứ ba sẽ trỗi dậy.�

Sau đ� Ch�a Gi�su bắt đầu h�nh tr�nh đi Gi�-ru-sa-lem. (Ch�ng ta sẽ nghe đoạn n�y ph�c �m th�nh Luca tuần tới). Ng�i dạy c�c �ng nhiều lần nữa trong l�c c�c �ng đồng h�nh với Thầy l�n th�nh th�nh. Tr�n đường đi c�c �ng sẽ nghe Thầy dạy dỗ; Thầy sẽ tranh luận với c�c l�nh đạo t�n gi�o, v� c�c �ng sẽ tr�ng thấy Thầy chữa bệnh v� tha thứ cho người tội lỗi. Suốt m�a h� cho đến th�ng 11, ch�ng ta sẽ c�ng đi với c�c �ng, v� sẽ nghe c�c c�u chuyện ph�c �m tr�n đường l�n Gi�-ru-sa-lem.

C�c m�n đệ sẽ hiểu biết th�m Ch�a Gi�su l� ai. Nhưng cuối c�ng, c�c �ng sẽ ngỡ ng�n v� bị khủng hoảng v� sự đau khổ của Ch�a Gi�su v� c�c �ng sẽ bỏ chạy mất. L� Thầy c�c �ng Ch�a Gi�su kh�ng bỏ rơi c�c �ng. Ng�i sẽ chịu đau khổ v� chịu chết, nhưng, như Thầy đ� n�i với c�c �ng l� đ� kh�ng phải l� kết th�c c�u chuyện �Đến ng�y thứ ba� Thầy sẽ chỗi dậy. L�c bấy giờ c�c �ng chưa hiểu Thầy muốn n�i g� tr�n con đường vinh quang c�c �ng đang đi. Nhưng, Ch�a Gi�su vẫn tiếp tục dạy dỗ c�c �ng, cho đến Khi Ng�i trở về với Ch�a Cha. Rồi Ch�a Gi�su sẽ gởi Th�nh Thần xuống tr�n c�c �ng, v� ngay đoạn đầu ph�c �m ch�ng ta đ� nghe Gioan Tẩy Giả n�i: Đấng đến sau �ng sẽ �l�m ph�p rửa trong Th�nh Thần v� lửa� (Lc 3:16)

C�c m�n đệ cần phải hiểu c�c ph�p lạ Ch�a Gi�su l�m, v� sự hoan h� của đ�m đ�ng, kh�ng đ�p đ�ng c�u hỏi của Ch�a Gi�su. �C�n anh em, anh em nghĩ Thầy l� ai?� Th�ng vừa qua ch�ng ta mừng lễ Ch�a Th�nh Thần. Ch�ng ta đ� l�nh nhận Ch�a Th�nh Thần m� Ch�a Gi�su đ� hứa. Nhưng, thử hỏi ch�ng ta c� biết g� nhiều hơn c�c m�n đệ trong l�c c�c �ng đi theo Ch�a Gi�su l�n Gi�-ru-sa-lem kh�ng? H�m nay Ch�a Gi�su cho ch�ng ta ch�t �nh s�ng để hiểu biết th�m về việc l�m m�n đệ của Ng�i l� thế n�o, v� t�i muốn n�i sang đề t�i kh�c. T�i cũng như một học sinh đang gặp một b�i học kh� hiểu. T�i đợi đến giờ chơi để ra khỏi lớp.

Đối với m�n đệ của Ch�a Gi�su, kh�ng c� niềm vui s�u đậm n�o m� kh�ng c� b�ng d�ng ơn Ch�a Th�nh Thần. N�i vậy kh�ng c� nghĩa l� đối với người m�n đệ, đường l�n Gi�-ru-sa-lem l� một h�nh tr�nh vui vẻ đ�u. H�m nay Ch�a Gi�su n�i cho c�c m�n đệ biết l� ai muốn theo Ng�i c� thể phải trả một gi� đắt l� sẽ bị chết. Nếu Theo Ch�a Gi�su l� l�n đường thắng cuộc, th� ch�ng ta n�n kết luận rằng thắng cuộc l� do bởi sự cố gắng của ch�ng ta. Ch�ng ta l�m việc nhiều, cố gắng nhiều v� ch�ng ta thắng cuộc. Nhưng, ngược lại, khi ch�ng ta theo ch�n Ch�a Gi�su, ch�ng ta nghiệm lại sự yếu đối, v� thất bại như c�c m�n đệ đ� gặp. V� rồi, ch�ng ta lại t�m thấy sự vui vẻ mới, v� ch�ng ta ki�n tr� trong đau khổ, v� điều đ� do bởi Ch�a Th�nh Linh của Đấnhg đ� hứa l� Ng�i sẽ chỗi dậy v�o ng�y thứ ba phải kh�ng?

Ch�ng ta hiểu ngay v� sao b�i ph�c �m h�m nay li�n hệ đến b�i đọc thứ nhất của ng�n sứ Zacaria. Đối với nhiều người, ng�n sứ viết về người chịu khổ l� một điều kh� hiểu. Mặc d� ch�ng ta kh�ng hiểu ng�n sứ c� � g�, nhưng c�c Kit� Hữu ti�n khởi hiểu đoạn văn n�y �m chỉ Ch�a Kit�. Ng�n sứ Zacaria c� thể viết về một số người tốt v� huy ho�ng trong qu� khứ, v� ngay cả đến b�y giờ, đ� bị chịu khổ h�nh v� họ gi�p đỡ người kh�c. Tiếc thay số c�c th�nh chịu chết v� đạo rất nhiều. Kh�ng ai c� thể biết được người n�o đại diện Thi�n Ch�a, v� theo đường Thi�n Ch�a c� thể dắt đến đỉnh tối cao đ�.

Zacaria diễn tả Thi�n Ch�a l� �Thần Kh� ơn huệ v� khấn nguyện� đối với những người chống đối lại. V� rồi, như một tấm m�n được v�n l�n, những người đ� sẽ tr�ng thấy sự dữ họ đ� l�m (ch�ng sẽ nh�n l�n Ta, người ch�ng đ� đ�m, ch�ng sẽ kh�c than như người ta kh�c than người con một��) v� họ sẽ thay l�ng đổi dạ v� trở về với Thi�n Ch�a. Sự tha thứ của Thi�n Ch�a sẽ như �suối mở ra� để tẩy rửa tội lụy v� uế nhơ�.

H�y trở về với lớp học ch�ng ta. Ch�ng ta tập ăn năn như c�c m�n đệ một c�ch m�y m�c, kh�ng như đức tin m� ch�ng ta đ� tuy�n xưng. Ch�ng ta chỉ trả lời �xin v�ng� tr�n m�i hay �Thầy l� Đức Kit�� m�p th�i nhưng lại kh�ng chấp nhận lối sống của Đấng Kit�, v� ch�ng ta chọn sự khai th�c hơn l� phục vụ; chọn sự lấy l�ng hơn ngay thẳng; chọn sự t�ch lũy hơn l� chia sẻ; chọn quyền uy hơn b�nh đẳng; chọn l�n �n hơn l� tha thứ. 

Ch�ng ta thấy r� l� Ch�a Gi�su đ� n�i l� l�m m�n đệ của Ng�i kh�ng phải l� việc l�m  b�n thời gian: Chỉ l� v�o ng�y Ch�a Nhật ở nh� thờ v� đ�i khi h�y l�m v�i việc thiện trong cả tuần. V�c th�nh gi� kh�ng phải l� h�nh động trong ng�y thứ s�u tuần th�nh, nhưng phải lu�n v�c khi n�o ch�ng ta cảm thấy c� năng lực. V� cũng kh�ng phải hy sinh v� danh th�nh Ch�a Gi�su l� việc d�nh ri�ng cho c�c th�nh tử đạo m� th�i. Tr�i lại, Ch�a Gi�su đ�i h�y hy sinh mạng sống m�nh v� danh Ng�i h�ng ng�y. V� thế, trong suốt đời theo l�m m�n đệ Ch�a. V� việc v�c th�nh gi� kh�ng chỉ d�nh ri�ng cho một số �t người, nhưng tất cả ch�ng ta, c�c m�n đệ đều phải l�m để theo Ch�a Gi�su.

B�i ph�c �m h�m nay bắt đầu �H�m ấy, Đức Gi�su cầu nguyện một m�nh�. Việc cầu nguyện l� điểm ch�nh trong ph�c �m th�nh Luca, v� thường xảy ra trước một việc quan trọng. Th� dụ: trước khi Ch�a Gi�su chịu ph�p rửa (3:21); trước khi Ch�a Gi�su chọn mười hai t�ng đồ (6:12); Ph�r� tuy�n xưng đấng Kit� trước khi Ch�a Gi�su ti�n b�o sự đau khổ của Ng�i (9:18); trước khi Ch�a Gi�su dạy c�c m�n đệ đọc kinh �Lạy Cha� (11:2) v.v� Th�nh Luca thường viết Ch�a Gi�su đi một m�nh để cầu nguyện.

Người đọc ph�c �m th�nh Luca cần phải học hỏi để trở n�n m�n đệ ch�a kh�ng chỉ do lời dạy của Ch�a Gi�su, hay l� người đ� c� l�ng đạo đức tốt m� th�i. Nhưng thật ra, ch�ng ta học cầu nguyện nơi Ch�a Gi�su v� Ng�i lu�n cầu nguyện; đ� l� h�nh trang của ch�ng ta tr�n đường đi theo Ng�i, ngay cả khi ch�ng ta c�ng chịu đau khổ v� Ng�i tại Gi�-ru-sa-lem. Ai lại muốn theo Thầy khi nghe thầy bảo h�y chịu đau khổ? Ai lại muốn khi l�m m�n đệ th� phải lu�n chịu hy sinh? Ở Brooklyn người ta thường trả lời vấn nạn n�y bằng c�u �h�y thử xem�.

Nhưng, ph�c �m th�nh Luca (v� s�ch C�ng vụ T�ng đồ) hứa với ch�ng ta l� ch�ng ta kh�ng đi một m�nh ch�ng ta tr�n đường đời. Ch�ng ta, những người đ� nhận B� t�ch rửa tội, đ� được Ch�a Th�nh Linh cho ch�ng ta năng lực v� xức dầu ch�ng ta để h�ng ng�y gi�p ch�ng ta l�m việc bổn phận. C� lẽ v� thế m� th�nh Luca n�i Ch�a Gi�su năng cầu nguyện để nhắc ch�ng ta lu�n cầu nguyện. V� khi cầu nguyện, mắt ch�ng ta sẽ được mở ra, v� ch�ng ta sẽ cảm nhận được Ch�a Gi�su v� Ch�a Th�nh Linh đang c�ng đồng h�nh với ch�ng ta tr�n đường đi Gi�-ru-sa-lem.

Đức Kit�, cội nguồn sự hiệp nhất của ch�ng ta

Zacharia 12: 10-11; Tvịnh 63; Gal�t 3: 26-29;

Luca 9: 18-24

Lm. Jude Siciliano, OP

(Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh V� Vấp)

 

Đ�i khi Đức Gi�su được những th�nh vi�n của nhiều nh�m đạo đức gọi l� Rabbi. Nhưng Người l� một kiểu thầy dạy kh�c lạ. Trong Tin mừng theo th�nh M�tth�u, ch�ng ta nghe thấy rằng Người giảng dạy kh�ng như những những vị kh�c đ� dạy, nhưng �Người giảng dạy như một Đấng c� thẩm quyền, chứ kh�ng như c�c kinh sư� (7, 28-29).

 Một trong những c�ch thức c�c thầy Rabbi dạy l� đặt c�u hỏi. Những vị thầy giỏi th� đặt những c�u hỏi sao cho hướng đến những c�u trả lời của người hỏi đặt ra hơn l� chỉ cho họ c�u trả lời. (C� c�u n�i đ�a rằng: một sinh vi�n hỏi Rabbi, �Thưa Rabbi, tại sao thầy lu�n trả lời bằng một c�u hỏi kh�c?� Vị Rabbi trả lời, �Thế tại sao t�i kh�ng n�n trả lời bằng một c�u hỏi?�)

 Nếu Rabbi đưa ra c�u trả lời, th� đ� l� c�u trả lời của thầy. Nhưng nếu thầy hỏi c�u hỏi đ�ng, th� �ng c� thể c� một c�u trả lời kh�c v� c�u trả lời của đồ đệ được ghi nhớ v� được tiếp thu. Th�m nữa, nếu Rabbi đưa ra c�u trả lời th� vấn đề đ� được x�c định rồi. Nhưng nếu c�u hỏi kh�c được hỏi th� vấn đề tiếp tục được mở rộng cho việc t�m kiếm v� kh�m ph� th�m. Trong b�i Tin mừng h�m nay, Đức Gi�su hỏi c�c c�c m�n đệ một c�u hỏi quan trọng. Người kh�ng đưa ra c�u trả lời, nhưng cho họ thời gian v� th�m kinh nghiệm để t�m ra c�u hỏi của ri�ng họ.

 Khởi đầu Tin mừng của m�nh, t�c giả Luca thuật lại việc cha mẹ Đức Gi�su t�m kiếm Người sau khi họ ph�t hiện ra Người kh�ng c�ng đi với họ trong đo�n h�nh hương từ dịp lễ Vượt qua ở Gi�rusalem. Sau ba ng�y t�m kiếm, họ thấy đứa con trai 12 tuổi của m�nh trong đền thờ, �đang ngồi giữa c�c thầy dạy, nghe v� hỏi họ� (2,46).

 Khi Đức Gi�su hỏi c�c m�n đệ: �đ�m đ�ng bảo thầy l� ai?� Họ đ� ở với Người một thời gian v� đ� thấy v� đ� nghe khi Đức Gi�su n�i những nhu cầu của d�n ch�ng, dạy đ�m đ�ng v� đối đ�p trước những tấn c�ng từ nh�m đạo đức. Những lời đ�p đầu ti�n của họ với Đức Gi�su được r�t ra từ những điều họ đ� quan s�t v� đ� nghe người kh�c n�i.

 Thế rồi, Đức Gi�su đưa ra c�u hỏi, �C�n anh em bảo Thầy l� ai?� C�u hỏi của vị Thầy đ�i hỏi c�c m�n đệ trở về l�ng m�nh, r�t ra từ những kinh nghiệm ở c�ng Đức Gi�su v� r�t ra quyết định của ri�ng m�nh. Ph�r� đ�p thay cho cộng đo�n: �Thầy l� Đấng Kit� của Thi�n Ch�a�. C�u trả lời của �ng kh�ng chỉ l� một ch�t th�ng tin để mang theo trong cả phần đời c�n lại. �ng sẽ c� Đức Kit� hằng sống với �ng v� sẽ c� th�m cho kinh nghiệm, sự hấp thụ v� h�nh tr�nh. C�u hỏi của Đức Gi�su sẽ lu�n gắn chặt trong tr� nhớ v� � thức của �ng v� �ng sẽ phải trở lại l�ng m�nh để trả lời n� nhiều lần nữa khi �ng biết hơn về �Đấng Kit� của Thi�n Ch�a�.

D� cho lời đ�p của Ph�r� đ�ng, nhưng �ng sẽ phải củng cố n� c�ch quyết liệt để hợp với những sự kiện bi thảm sẽ nảy sinh khi �ng tiếp tục theo Đức Gi�su. Đối với �ng v� c�c m�n đệ kh�c �Đấng Kit� của Thi�n Ch�a� nghĩa l� người cai trị đầy quyền lực sẽ l�nh đạo d�n Israel v� đ�nh đuổi người R�ma. Nhưng Đức Gi�su ph� tan kh�i niệm đ� khi Người khiển tr�ch c�c m�n đệ. Người hướng sự �m chỉ đến ch�nh m�nh từ �Đấng Kit� của Thi�n Ch�a� đến �Con Người�.

 B�i tin mừng nằm trước b�i Tin mừng h�m nay thuật lại ph�p lạ h�a b�nh cho 5000 người ăn (9,10-17). C�ch tr�nh b�y n�y hẳn sẽ đề nghị c�c m�n đệ rằng Đức Gi�su l� Đấng M�sia hằng được mong đợi, �Đấng Kit� của Thi�n Ch�a�. Cuối c�ng, đ�y l� Đấng M�sia bắt đầu một thời đại mới. Điều n�y đủ thực, nhưng Đức Gi�su th�m rằng người ta chỉ v�o được thời đại mới n�y khi họ c� t�nh y�u hy sinh � sự hy hiến n�y đ� được Đức Gi�su thực hiện tr�n thập gi�. �Rồi Đức Gi�su n�i với mọi người�� � Đức Gi�su đưa ra một lời mời gọi phổ qu�t cho bất kỳ ai khao kh�t chấp nhận n�. Nhưng những ai chấp nhận phải d�m từ bỏ tất cả: tham vọng, những c�ch thức nhận biết tha nh�n, những ưu ti�n hằng ng�y, những th�i �ch kỷ của họ - cuộc sống của họ ch�nh l� thế!

 Nghe lời  đ�p của Ph�r� Đức Gi�su hướng sự �m chỉ đến ch�nh m�nh từ �Đấng Kit� của Thi�n Ch�a� tới �Con Người�. Trong c�c Tin mừng, thuật ngữ n�y �m chỉ đến Đức Gi�su. Đ�y l� một danh hiệu ưa th�ch d�nh cho Đức Gi�su trong Tin mừng Luca v� mang c�c tầng � nghĩa. Trước hết, đơn giản n� c� nghĩa l� �con người�. Nhưng n� cũng l� danh hiệu thi�n sai được d�ng 70 lần trong Tin mừng nhất l�m v� 12 lần trong Tin mừng Gioan. N� xuất hiện trong s�ch Đaniel (7,13) để m� tả �ai như con người�, đại diện cho d�n Israel mới v� hiện ra tr�n m�y trời để nhận vương quốc từ Đấng L�o Th�nh. �Con Người� được d�ng thường xuy�n qua c�c s�ch Tin mừng v� thường �m chỉ sự vượt qua v� c�i chết � như trong b�i Tin mừng h�m nay.

Sau khi Đức Gi�su phục sinh, Ph�r� sẽ mở rộng c�u trả lời của �ng cho c�u hỏi của Đức Gi�su. Trong chương 3 quyển thứ 2 của Luca, C�ng vụ t�ng đồ, sau khi Ph�r� v� Gioan chữa trị người qu� ở cổng Đền thờ (3,1-26), Ph�r� n�i với đ�m đ�ng v� �m chỉ Đức Gi�su như: t�i tớ của Thi�n Ch�a, Đấng Th�nh v� Đấng C�ng Ch�nh, T�c giả của Sự sống, v� Đấng M�sia. R� r�ng trong c�c s�ch Tin mừng, Ph�r� c� nhiều thiếu s�t v� những h�nh động sai lầm, nhưng nhờ kết quả của việc Đức Gi�su phục sinh v� qu� tặng của Th�nh Thần, cuộc đời Ph�r� đ� thay đổi. Lời đ�p của �ng cho c�u hỏi của Đức Gi�su tăng trưởng v� những sự kiện l�m thay đổi cuộc sống nhờ v�o sự vượt qua v� sự phục sinh của Đức Gi�su.

Kinh nghiệm của Ph�r� dạy rằng ch�ng ta kh�ng thể d�ng c�u trả lời của người kh�c để trả lời cho c�u hỏi m� Đức Gi�su đ� hỏi c�c m�n đệ v� tiếp tục hỏi ch�ng ta, �C�n anh em bảo Thầy l� ai?� C�u hỏi n�y đ�i ch�ng ta phải trả lời mỗi ng�y. Ch�ng ta trả lời c�u hỏi n�y bằng những quyết định m� ch�ng ta c� li�n quan đến chọn lựa của c�c bạn b� ch�ng ta; ch�ng ta sử dụng thời gian của m�nh ra sao; đầu tư cho c�c nguồn của ch�ng ta; đối xử với tha nh�n, đặc biệt � nghĩa tối thiểu; một sự sẵng s�ng để được nhận biết như c�c m�n đệ Đức Kit�; v� sự thực h�nh từ chối bản th�n trước của cải của người kh�c.

 Đức Gi�su hứa trong qu� tr�nh từ bỏ cuộc sống hằng ng�y của m�nh, ch�ng ta sẽ t�m lại được. Thế gian khuy�n ch�ng ta t�m kiếm lợi lộc ri�ng m�nh, cẩn trọng v� t�m kiếm bằng nỗ lực tối thiểu. T�i đang giữ lại cho bản th�n những g�? Tại sao? Đức Gi�su đ�i hỏi sự rủi ro v� l�ng quảng đại khi người kh�c cần đến m�nh. Ở chỗ kh�c c� n�i hạt giống được t�ch trữ sẽ mục n�t. Đ� kh�ng phải sự tối thiểu m� t�i c� thể l�m � nhưng l� hết khả năng.

 Đức Gi�su kh�ng phải l� người th�ch đau khổ, việc chọn đau khổ v� mục đ�ch đau khổ. Hơn thế nữa, c� lẽ được hướng dẫn bởi những ng�n sứ như Dacaria (trong b�i đọc 1), Người đ� nhận ra vai tr� thi�n sai như một người bị ruồng bỏ, đau khổ v� thập gi�. Người dạy cho Ph�r� biết kh�i niệm về Đấng M�sia. Đấng M�sia sẽ phải đau khổ v� trong h�nh động cũng dạy cho ch�ng ta c�ch thức để theo Người bằng c�ch sống cuộc đời của ch�ng ta. Theo Đức Gi�su l�m cho ch�ng ta mở ra với c�ng c�ch đối xử m� thế thế gian đ� g�y ra cho Người. Tuy nhi�n, n� kh�ng kết th�c bằng c�i chết, nhưng trong sự chung chia trong sự phục sinh v� sự sống mới của Đức Gi�su.

T�n hữu Galat đề nghị  c�ch thức những ai c�ng với đời sống mới m�  Đức Gi�su trao tặng, phải nh�n ch�nh họ v� thế giới. Khi ch�ng ta chịu thua thiệt như c�c m�n đệ v� đ�n nhận thập gi� của Đức Kit�, th� ch�ng ta đ� bước v�o mối tương quan s�u xa với Thi�n Ch�a v� với cả người kh�c. V� đời sống mới, ch�ng ta sẽ thấy được gi� trị của mỗi v� mọi người. Đ� l� l� do ch�ng ta được Đức Gi�su gọi để thể hiện sự ưa th�ch tối thiểu. V� Đức Gi�su ch�ng ta chia sẻ c�ch ngang bằng như con c�i của Thi�n Ch�a. �Kh�ng c�n chuyện ph�n biệt Do th�i hay Hy lạp, n� lệ hay tự do, đ�n �ng hay đ�n b�; nhưng tất cả anh em chỉ l� một trong Đức Ki-t��