Năm C

 
 

Ch�a Nhật XXX Thường Ni�n - Năm C

Hc 35:12-14.16-18 ; 2 Tm 4:6-8.16-18 ; Lc 18:9-14

 

An Phong : H�y Nhận Ra Ch�nh M�nh

Như Hạ op : Tự Trọng

Fr. Jude Siciliano, op : Khi�m Tốn Trong lời Nguyện

Fr. Jude Siciliano, op : Thế N�o L� C�ng Ch�nh ! 

Giuse Nguyễn Cao Luật op : Ai T�n M�nh L�n Sẽ Bị Hạ Xuống

Giac�b� Phạm Văn Phượng op : Khi�m Nhường Cầu Nguyện

Bernard Huỳnh Hữu Ph�c op: Cầu Nguyện Với T�m Hồn Khi�m Cung

Fr. Jude Siciliano, op : Xin Ch�a Sửa Đổi Con

Đỗ Lực op : Cuộc Trần Ai, Ai Dễ Hơn Ai ?

Fr. Jude Siciliano, op : Người khi�m nhường được Ch�a đo�i nghe

Fr. Jude Siciliano, op: Lạy Ch�a, xin thương x�t con

 

 


An Phong

H�y Nhận Ra Ch�nh M�nh
Lc 18:9-14

Sứ điệp Lời Ch�a

Tin mừng ch�a nhật 30 thường ni�n C l� dụ ng�n người thu thuế v� người Pharis�u. Mặc dầu hai người n�y được xem l� hai mẫu người ti�u biểu, đại diện cho người tội lỗi (người thu thuế) v� người đạo đức (người Pharis�u), nhưng họ kh�ng phải l� ti�u biểu cho to�n thể những người m� họ đại diện. Chắc chắn l� c� nhiều người Pharis�u "tốt hơn" người Pharis�u trong c�u chuyện n�y v� nhiều người thu thuế kh�c cũng vậy. C� lẽ �ức Gi�su kh�ng muốn n�i những con người cụ thể cũng như những c�ch sống cụ thể. Dụ ng�n n�y muốn n�i đến Thi�n Ch�a chấp nhận người tội lỗi ho�n cải, v� kh�ng chấp nhận người chỉ tin v�o sự c�ng ch�nh của ri�ng m�nh. Như thế, tin nhận Thi�n Ch�a, sấp m�nh trước nhan Người th� hơn l� bằng l�ng với những th�nh quả đạo đức c� nh�n.

Suy niệm

Trong x� hội Do Th�i, thời �ức Gi�su c� ba việc m� người đạo đức phải thực hiện suốt đời m�nh, đ� l�: cầu nguyện, ăn chay v� bố th�. Người Pharis�u trong c�u chuyện h�m nay l� một người đạo đức. �ng h�nh diện về việc chu to�n lề luật, ăn chay... �ng thực l� một người đạo đức, được mọi người chung quanh t�n trọng. "Khi�m tốn l� d�m chấp nhận những g� m�nh c� được để phục vụ cộng đo�n". Người Pharis�u c� thể được coi l� "người khi�m tốn", nhưng �ng hết khi�m tốn khi đ�nh gi� những việc l�m của m�nh v� khinh khi người kh�c. Hơn thế nữa, trước mặt Thi�n Ch�a, con người chỉ l� con số z�r� lớn. �ng hết khi�m tốn khi h�nh diện về những việc đ� l�m v� tự đ�nh gi� m�nh "hạnh kiểm loại A" trước mặt Thi�n Ch�a. Sự c�ng ch�nh của một người kh�ng phải chỉ l� những th�nh quả c� nh�n trong đời sống đạo đức, nhưng c�n phải tin v�o Thi�n Ch�a v� mở l�ng đ�n nhận ơn cứu độ đến từ Người. N�i như thế kh�ng phải muốn l�m giảm nhẹ những việc đạo đức c� nh�n, nhưng việc đạo đức c� nh�n đ� phải được thực hiện với l�ng tin, cậy, mến y�u Thi�n Ch�a, đồng thời kh�ng coi thường người kh�c.

�ời sống của c�c vị th�nh l� một bằng chứng r� n�t. Phong th�nh cho một người l� đặt người đ� l�m kiểu mẫu, chuẩn mực, ti�u biểu cho đức tin, cậy, mến Kit� gi�o (canonization nghĩa l� chuẩn mực h�a, hay c�n nghĩa l� phong Th�nh). C�c vị th�nh thực hiện c�c nh�n đức như thương người, khổ chế, cầu nguyện... v� c�c vị tin v�o Thi�n Ch�a "hết l�ng, hết linh hồn, hết tr� kh�n". Nếu kh�ng thế, c�c vị chỉ l� những vĩ nh�n của cuộc đời. Vả lại, c�c việc đạo đức c�c vị l�m được kh�ng cầu mong được "cấp bằng khen", "giải thưởng" n�y kh�c (chắc chắn Mẹ T�r�sa Calcutta kh�ng mong những giải thưởng đời ban tặng, nhưng thực tế, Mẹ c� nhiều giải thưởng.).

Người thu thuế trong dụ ng�n l� người nhận m�nh chẳng c� nghĩa l� g� trước mặt Thi�n Ch�a. �ng l� người bị x� hội Do Th�i đ�nh gi� l� người tội lỗi. Những người chung quanh - nhất l� "những người đạo đức" coi thường �ng. �ng đứng xa xa, cầu nguyện như một người đầy mặc cảm v� bị coi thường, nhưng cũng như một người đầy l�ng khi�m tốn "kh�ng d�m ngước mặt l�n trời, đấm ngực v� nguyện rằng: 'Lạy Ch�a, xin thương x�t t�i l� kẻ c� tội'". �ng cần Thi�n Ch�a thương x�t v� cứu độ. L�ng đầy tin tưởng v� cần đến Thi�n Ch�a đ� được Thi�n Ch�a chuẩn nhận "người n�y ra về được khỏi tội". Cho d� �ng c� thực sự tội lỗi đến đ�u, lời �ức Gi�su n�i đ� c�ng ch�nh h�a �ng. Thi�n Ch�a lu�n l� �ấng đưa tay cứu vớt con người khi họ biết đưa tay cầu cứu Người. Sự c�ng ch�nh của mỗi người cũng bắt đầu từ l�c họ biết đấm ngực, c�i m�nh xuống v� xin Thi�n Ch�a thương x�t.

Phải chăng ch�ng ta l� người "đạo đức" - theo kiểu Pharis�u - hay ch�ng ta l� người "c�ng ch�nh" v� cần đến Thi�n Ch�a cứu độ - như người thu thuế.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Ch�a Gi�su,

l� �ức Ch�a v� l� Cứu Ch�a của con.

Trong tay Ng�i, con được an to�n.

Nếu Ng�i g�n giữ con, n�o con sợ chi.

Nếu Ng�i ruồng bỏ con,

con kh�ng c�n g� để hy vọng nữa.

Con xin Ch�a ban điều tốt nhất cho con,

v� con xin ph� th�c ho�n to�n cho Ch�a.

Hồng y Newman


Như Hạ op 

TỰ TRỌNG
Lc 18:9-14

Cầu nguyện l� đặc điểm của con người. Cầu nguyện l� hơi thở của c�c t�n hữu. Nhưng đ�u l� bản chất v� h�nh thức cầu nguyện đ�ch thực. H�m nay, �ức Gi�su tr�nh b�y những điều kiện s�u xa cần thiết cho việc cầu nguyện.

HAI LỜI CẦU NGUYỆN.

Cầu nguyện l� một h�nh vi đạo đức. Nhưng việc đạo đức đ� cũng c� thể trở th�nh v� đạo đức, nếu con người kh�ng biết tự trọng. Lời cầu nguyện h�o huyền chỉ dựa tr�n những điều hư kh�ng. Hư kh�ng đ�ch thực v� lớn nhất tr�n trần gian n�y ch�nh l� c�i t�i. "C� hai người l�n đền thờ cầu nguyện." (Lc 18:10) Cả hai người đều thờ một Ch�a, đều ở trong một đền thờ, đều đang l�m một h�nh vi đạo đức cao cả nhất. Một trong hai người cầu nguyện trong đền thờ l� �ng Pharis�u. Từ t�m t�nh, cung c�ch đến lời n�i đều kh�ng th�ch hợp với việc cầu nguyện. "Người Pharis�u đứng thẳng, nguyện thầm rằng : �Lạy Thi�n Ch�a, xin tạ ơn Ch�a, v� con kh�ng như bao người kh�c : tham lam, bất ch�nh, ngoại t�nh, hoặc như t�n thu thuế kia." (Lc 18:11) �ng x�c định thế đứng của minh trong tương quan với người thu thuế. Khi so s�nh, �ng mới thấy m�nh cao vượt hơn mọi người về mặt đạo đức. Trong khi mọi người sống �ch kỷ, xa hoa, tr�c t�ng, �ng chỉ lo việc đạo đức. Trong việc đạo đức, �ng l� người rất kỷ luật v� sốt sắng. �ng cầu nguyện thường xuy�n v� giữ Luật Thi�n Ch�a. �n vượt tr�n cả những đ�i hỏi của lề luật. Trong khi luật chỉ đ�i ăn chay mội năm một lần v�o Ng�y X� Tội Vong �n, �ng ăn chay một tuần hai lần v�o thứ hai v� thứ năm. �ng kể lể với Ch�a : "Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con d�ng cho Ch�a một phần mười thu nhập của con." (Lc 18:12) Th�i độ tự m�n đ� kh�ng cho �ng nh�n thấy sự thật về m�nh v� người kh�c nữa. Như vậy �ng c�n cần g� đến Ch�a nữa kh�ng ? Vậy tại sao �ng lại v�o đền thờ ? Thực ra �ng quan niệm cầu nguyện chỉ l� việc đổi ch�c theo lẽ c�ng b�nh, chứ kh�ng phải l� một �n sủng.

Trong khi đ�, người thu thuế ho�n to�n � thức tự bản chất cầu nguyện chỉ l� xin Ch�a thương x�t. �ng cảm thấy phải t�y thuộc ho�n to�n v�o Thi�n Ch�a. Nh�n cung c�ch �ng cầu nguyện cũng c� thể thấy được tất cả t�m t�nh của �ng. "Người thu thuế th� đứng đằng xa, thậm ch� chẳng d�m ngước mắt l�n trời." (Lc 18:13) Cung c�ch đ� cho thấy một khoảng c�ch giữa Thi�n Ch�a cực th�nh v� con người tội lỗi. Nếu Ch�a kh�ng thương x�t, khoảng c�ch đ� kh�ng bao giờ lấp đầy được. �ng th�nh t�m cầu nguyện, "vừa đấm ngực vừa thưa rằng : �Lạy Thi�n Ch�a, xin thương x�t con l� kẻ tội lỗi." (Lc 18:13) �ng nhận sự thật về m�nh, chứ kh�ng d�m so s�nh với ai. �ng chỉ biết tương quan giữa Thi�n Ch�a v� m�nh l� một tương quan bất tương xứng. Nhưng �ng tin tưởng tuyệt đối v�o sức mạnh của l�ng Ch�a x�t thương sẽ x�a nh�a bi�n giới giữa c�i th�nh thi�ng v� trần tục.

Dụ ng�n h�m nay mạc khải một l�c hai tương quan. Tương quan giữa Thi�n Ch�a v� con người kh�ng thể ổn định nếu tương quan giữa con người với nhau kh�ng tốt đẹp. Trong dụ ng�n n�y, r� r�ng �ng Pharis�u tập trung ho�n to�n v�o c�i t�i của m�nh. Kh�ng th�ng cảm với người kh�c, l�m sao �ng c� thể đ�i Thi�n Ch�a cảm th�ng với m�nh ? �� l� l� do tại sao �ng thất bại trong việc cầu nguyện. �ng kh�ng l�m đẹp l�ng Ch�a như m�nh tưởng. Thật l� c�ng d� tr�ng bao nhi�u kh� nhọc trong việc giữ luật v� đ�ng g�p v�o đền thờ. Tr�i lại, d� kh�ng c� những việc đạo đức như �ng, người thu thuế "đ� được n�n c�ng ch�nh" (Lc 18:14) v� đ� hết l�ng cầu khẩn Ch�a x�t thương đến th�n phận m�nh. �ng kh�ng c� c�ng trạng g� để tự h�o. Khi nh�n lại m�nh, �ng chỉ thấy một vực thẳm tội lỗi. Nh�n l�n Thi�n Ch�a, �ng lại thấy vực thẳm đầy �n sủng, "�n sủng tự bản chất đầy l�ng thương x�t v� tha thứ." (NIB 1995:343) Tr�i lại, �ng Pharis�u kh�ng hề cầu xin Ch�a tha thứ hay thương x�t, n�n t�nh trạng �ng trước sau như một. �ng coi m�nh ho�n hảo về mọi phương diện, n�n cầu nguyện đối với �ng l� đ�i nợ. Thi�n Ch�a chẳng nợ ai cả, tại sao �ng lại biến Thi�n Ch�a th�nh con nợ ? Lời cầu của �ng ho�n to�n dựa tr�n c�ng trạng ri�ng, chứ kh�ng tr�n t�nh y�u Thi�n Ch�a. �ng n�i bằng một ng�n ngữ lạ hoắc. Thi�n Ch�a kh�ng hiểu �ng muốn n�i g�. �ng tin Ch�a. Nhưng �ng tin m�nh hơn.

Thế mới biết tại sao �ức Gi�su lại n�i c� "một số người tự h�o cho m�nh l� người c�ng ch�nh m� khinh ch� người kh�c." (Lc 18:9) Những hạng c�ng ch�nh như thế kh�ng bao giờ l� đối tượng của sứ mệnh cứu độ. N�i kh�c, ơn cứu độ kh�ng d�nh cho những người ki�u ngạo. Bởi đấy Ch�a mới n�i : "T�i kh�ng đến để k�u gọi người c�ng ch�nh, m� để k�u gọi người tội lỗi s�m hối ăn năn." (Lc 5: 32) Chỉ những người tội lỗi mới hiểu được Ch�a. Ngược lại, chỉ Ch�a mới th�ng cảm với người tội lỗi, v� ch�nh Ch�a đ� từng đi s�t với họ, đến nỗi bị mang tiếng l� "bạn b� với qu�n thu thuế v� phường tội lỗi." (Lc 7:34) Người tội lỗi ho�n to�n tay trắng trước nhan Ch�a. Họ cũng l� một hạng người ngh�o về tinh thần. Họ kh�ng c� g� để kể lể. Lời cầu nguyện của họ thật l� vắn tắt v� đơn sơ, nhưng đầy � nghĩa đối với Ch�a. "�ng đ� chẳng cho đi c�i g�, nhưng đ� nhận được tất cả." (Faley 1994:696)

PHARIS�U THỜI �ẠI.

Th�nh Phaol� cũng đ� từng l� Pharis�u hạng gộc. Nhưng th�nh nh�n đ� trải qua một kinh nghiệm đau thương v� đ� thấy được tất cả bộ mặt thật của những hạng "người tự h�o cho m�nh l� c�ng ch�nh." Nhưng giờ đ�y Người kh�ng tự cho m�nh l� c�ng ch�nh, nhưng hi vọng được vinh dự ấy : "Giờ đ�y t�i chỉ c�n đợi v�ng hoa d�nh cho người c�ng ch�nh." (2 Tm 4:8) Th�nh nh�n cũng cảm thấy tự h�o khi n�i : "Nhờ t�i m� việc rao giảng được ho�n th�nh, v� tất cả c�c d�n ngoại được nghe biết Tin Mừng." (2 Tm 4:17) Thế nhưng, kh�c với đồng m�n xưa, Người qui hướng tất cả về Thi�n Ch�a, �ấng "đ� ban sức mạnh cho t�i." (2 Tm 4:17) �� l� l� do tại sao Người đầy hứng khởi khi "ch�c tụng Ch�a vinh hiển đến mu�n thuở mu�n đời. Amen " (2 Tm 4:18) Kh�c với th�i độ ng�ng ngh�nh của �ng Pharis�u, th�nh nh�n th� nhận : "T�i l� người h�n mọn nhất trong số c�c T�ng �ồ, t�i kh�ng đ�ng được gọi l� T�ng �ồ, v� đ� ngược đ�i Hội Th�nh của Thi�n Ch�a. Nhưng t�i c� l� g�, cũng l� nhờ ơn Thi�n Ch�a." (1 Cr 15:9-10) Ơn Ch�a v� c�ng sung m�n đ� b� đắp được tất cả những thiếu s�t qu� khứ v� đưa th�nh nh�n v�o một tương quan ho�n to�n mới với Thi�n Ch�a v� tha nh�n.

Tương quan giữa con người với Thi�n Ch�a v� với anh em đang đổ vỡ. Khủng bố v� chiến tranh l� bằng chứng cho thấy vẫn c�n nhiều Pharis�u trong cộng đồng nh�n loại. Thượng phụ Igace IV Hazim đ� vạch mặt chỉ t�n: "Ch�nh phủ Hoa Kỳ v� t�nh cho người ta cảm tưởng họ đang t�m c�ch thống trị thế giới,"(CWNews 22/10/2001) trong khi họ vẫn tỏ ra nh�n đạo qua ch�nh s�ch viện trợ. Nh�n đạo chỉ l� phấn son che đậy những n�t cao ngạo tr�n gương mặt �u Mỹ. Giống như Pharis�u, họ xuất hiện trước nhan Ch�a với một tay đầy ắp c�ng đức, một tay ngổn ngang bom đạn. Thử hỏi c� thể lập tương quan với Thi�n Ch�a trong khi tương quan con người bị gẫy đổ kh�ng ? Tương quan nh�n loại h�m nay cần phải được điều chỉnh lại. Nếu kh�ng, nh�n loại sẽ trở về thời ăn l�ng ở lỗ, x�y dựng cuộc sống tr�n luật b�o th�. Theo ph�i đo�n Vatican tại Li�n Hiệp Quốc, cuộc kh�ng k�ch v�o Afghanistan l� "những h�nh động b�o th�, kh�ng loại trừ được c�c nguy�n nh�n g�y n�n khủng bố." (CWNews 23/10/2001) �ức Tổng Gi�m mục Martino cho biết cần phải "loại bỏ c�c yếu tố hiển nhi�n tạo n�n những điều kiện dễ d�ng sinh ra th� hận v� bạo lực. Việc phủ nhận nh�n phẩm, thiếu t�n trọng nh�n quyền v� những quyền tự do căn bản, việc loại trừ một số người khỏi đặc quyền x� hội, những nơi tị nạn kh�ng thể chịu đựng nổi, v� sự đ�n �p về th�n thể cũng như t�m l� l� những mảnh đất mầu mỡ sẵn s�ng cho bọn khủng bố khai th�c. Bởi đấy, bất cứ chiến dịch chống khủng bố n�o cũng cần đưa ra c�c ho�n cảnh x� hội, kinh tế, v� ch�nh trị nu�i dưỡng mầm mống khủng bố, bạo lực, v� xung đột." (CWNews 23/10/2001)


Fr. Jude Siciliano, OP.

Khi�m Tốn Trong lời Nguyện
(Lc 18, 9 - 14)

Tuần n�y ch�ng ta tiếp tục đề t�i cầu nguyện, nhưng nh�n từ kh�a cạnh kh�c. Tuần trước, ki�n tr� n�i nỉ. Tuần n�y th�i độ, trong dụ ng�n người thu thuế v� người Pharis�u l�n đền thờ cầu nguyện. Nh�n chung, c�u chuyện thật buồn v� mang t�nh cảnh gi�c cao, kh�ng n�n tự m�n kể c�ng, nhưng phải ch�n thật th� nhận tội lỗi tự đ�y t�m can.

Thưa qu� vị. Người biệt ph�i trong Tin Mừng h�m nay dự t�nh bắt b� �ức Ch�a Trời. Trong lời cầu nguyện, �ng ta khoe với Ng�i l� �ng ta vượt xa người Do th�i kh�c về l�ng đạo đức. Theo luật lệ th� chỉ buộc ăn chay trong ng�y đền tội (the Day of Atonement). Nhưng �ng ăn chay một tuần hai ng�y. Cũng theo luật lệ th� người Do Th�i chỉ buộc nộp thuế thập ph�n tr�n s�c vật v� thực phẩm qu� b�u. �ằng n�y, �ng nộp tr�n mọi thu nhập của gia đ�nh. Như thế kh�ng những �ng nộp thuế để duy tr� đền thờ, c�c hoạt động t�n gi�o m� c�n g�p phần v�o c�ng việc từ thiện, b�c �i. Ai c� thể ch� bai �ng được ? Cứ theo ti�u chuẩn ng�y nay th� ch�ng ta phải xếp �ng v�o bậc �n nh�n trong gi�o xứ, đ�ng n�u gương cho t�n hữu kh�c noi theo. Nhưng khi ra khỏi đền thờ lại bị Ch�a Gi�su đ�nh gi� kh�ng được n�n "c�ng ch�nh" như người thu thuế. V� �ng đ� đi sai con đường Ng�i muốn. Tức con đường ch�n thật m� mọi người phải c� trước mặt �ức Ch�a Trời. �ng đ� tự lừa dối khi cầu nguyện. �ng đ� n�ng m�nh l�n l�m gương mẫu cho người kh�c, trong khi trước mặt Giav� mọi người chỉ l� tội nh�n, phải khi�m nhường ăn năn thống hối.

C�u chuyện thật đ�ng sợ, l�m c�c t�n hữu năng đi nh� thờ phải nổi da g�, sởn t�c g�y, lạnh xương sống. Bởi ch�ng ta cũng h�nh động như �ng Biệt ph�i, cũng bỏ tiền rộng r�i v�o giỏ lạc quy�n, cũng đ�ng g�p to lớn v�o quỹ x�y dựng th�nh đường, c�c c�ng tr�nh nh� xứ, c�c hội từ thiện b�c �i. Hơn nữa ch�ng ta cũng từng xung phong trong c�c c�ng việc chung. Vậy th� c�n thiếu điều chi? Thực tế ch�ng ta đ� được h�ng xứ c�ng nhận, chiếm được l�ng tin cậy của họ v� c� thể l� chỗ dựa cho nhiều người. Tất cả đều l� gương mẫu. Vậy m� dụ ng�n h�m nay vẫn �m chỉ về ch�ng ta, vẫn l�m cho ch�ng ta nao nao. Cho n�n cần xem lại c�ch sống đạo của m�nh, th�i độ của m�nh đối với người kh�c, nhất l� c�c động lực th�c đẩy m�nh thi h�nh bổn phận đạo đức. Ch�ng ta gia nhập đo�n hội nhằm mục ti�u n�o ? �ể tiến bộ thi�ng li�ng hay để khoe khoang, d�ng người kh�c như b�n đạp ng� hầu đạt tới danh vọng, địa vị, tiền t�i. Xin h�y suy nghĩ kỹ hơn về � nghĩa dụ ng�n, để n� soi s�ng m�nh, nhất l� t�m hồn cầu nguyện của m�nh.

Trước hết, một v�i lời b�nh vực �ng Biệt ph�i. Trong x� hội Do Th�i l�c ấy, c�c Biệt ph�i l� những cột trụ đức tin trong đạo M�s�. T�nh h�nh ch�nh trị th� r� r�ng d�n ch�ng phải sống khốn đốn dưới sự cai trị của người La- m�, v� ảnh hưởng nặng nề của văn ho� ngoại lai, v� đạo. Nhiều người Do Th�i đ� tho�i ho�, lơ l� lề luật t�n gi�o, chạy theo nếp sống xa hoa vật chất, tương tự như một bộ phận t�n hữu trong c�c đ� thị lớn của ch�ng ta ng�y nay. Việc giữ đạo của họ thực chất chỉ c�n c�i vỏ b�n ngo�i, b�n trong l� tiền bạc, dục vọng, tham s�n si nặng nề. Trong bối cảnh đ�, đảng Biệt ph�i quả l� can đảm, đ�ng kh�m phục, bởi họ sống chống lại tr�o lưu, tu�n giữ lề luật M�is�, truyền thống của cha �ng một c�ch nghi�m ngặt. Như vậy đ�ng lẽ họ được Ch�a Gi�su y�u mến, lượng gi� cao. Nhưng thực tế lại bị Ch�a ch� bai. Người Biệt ph�i trong dụ ng�n xem ra vượt xa l�ng đạo đức của người t�n hữu Do th�i tốt, nhưng lại l�m sai lạc � nghĩa về Thi�n Ch�a v� kh�ng biết tr�i tim Giav� nằm ở đ�u. Ch�a Gi�su chỉ cho �ng (v� cả ch�ng ta) tr�i tim Ng�i nằm ở con người thu thuế hối cải. R� r�ng hợp l� c�ch lạ l�ng, kh�ng ai c� thể tưởng tượng tới được.

Xin lưu � t�nh khoe khoang trong lời cầu nguyện của người Biệt ph�i, Ph�c �m m� tả: "�ng ta đứng thẳng nguyện thầm rằng: Lạy Ch�a, xin tạ ơn Ch�a, v� con kh�ng như bao kẻ kh�c, tham lam, bất ch�nh, ngoại t�nh, hoặc như t�n thu thuế kia." �ng ta đ�u c� cầu nguyện, �ng kể c�ng trước mặt �ức Ch�a Trời. Lời cầu của �ng kh�ng hướng về Thi�n Ch�a, kh�ng mở l�ng ra cho Ng�i, kh�ng xin ơn tha thứ tội lỗi m� �ng đ� x�c phạm rất nhiều trong qu� tr�nh sống. �ng khoe m�nh v� c�c việc l�nh �ng đ� thực hiện, �ng ki�u ngạo, chỉ th�ch nghe kể về m�nh, bằng l�ng với nếp sống "đạo đức" của m�nh, khinh dễ kẻ kh�c, c�i nh�n của �ng ta kh�ng tho�t khỏi bản th�n, tức trệch hướng. Ch�nh ra �ng phải nh�n l�n Thượng đế để nhận ra l�ng thương x�t của Ng�i tr�n bản th�n �ng. ��y cũng l� c�i lỗi chung của mọi t�n hữu. Ch�ng ta thường xuy�n kh�ng tạ ơn, ca ngợi Thi�n Ch�a khi cầu nguyện m� chỉ tập trung về m�nh, cầu xin cho c�c nhu cầu của m�nh hay của th�n nh�n, trong khi ch�nh yếu ch�ng ta phải xin cho danh Cha cả s�ng, nước Cha trị đến. như Ch�a Gi�su đ� dạy trong kinh Lạy Cha.

Một trong c�c l� do cầu nguyện l� để lắng nghe tiếng Ch�a n�i trong linh hồn, lay động ch�ng ta khỏi u m�, say đắm thế gian. Tức cầu nguyện để thay đổi m�nh, l�m cho m�nh � thức hơn về l�ng thương x�t của Ch�a. �ấng đ� ki�n nhẫn tha thứ cho m�nh rất nhiều. Từ đ� ch�ng ta rộng l�ng cảm th�ng v� tha thứ cho người kh�c. Họ cũng đang vật lộn để thay đổi bản th�n. Người Pharis�u kh�ng nhận ra được giới hạn của m�nh, hay của nh�n loại n�i chung. �ng đ� kh�ng nhận ra l�ng thương x�t của Thi�n Ch�a bao la, sẵn s�ng tha thứ cho những ai thật l�ng s�m hối. Cho n�n �ng đ� vội v�ng ph�n đo�n sai lệch về người thu thuế. Trong khi đ� người thu thuế � thức được m�nh tội lỗi, cần đến Thi�n Ch�a x�t thương, gi�p đỡ m�nh tho�t khỏi t�nh trạng khốn kh�. �ng kh�ng thể tự th�n tho�t ra khỏi ngục t�. �ng cầu xin Giav� tha thứ. T�m tr� �ng hướng về trời cao, chứ kh�ng về m�nh, tin tưởng Thi�n Ch�a sẽ ra tay cứu gi�p. V� bởi v� cầu nguyện thay đổi con người, cho n�n hậu quả của hai người kh�c nhau. Người Pharis�u ở trong t�nh trạng cũ, kh�ng đổi thay. Người thu thuế trở về nh� th� được n�n c�ng ch�nh. �ng đ� ở trong tương giao hợp l� với Thi�n Ch�a. Mắt �ng đ� được mở rộng. Tr�i lại, người Biệt ph�i vẫn c�n trong u tối của m�nh. ��y l� b�i học lớn cho mỗi t�n hữu. Khi cầu nguyện ch�ng ta phải thay đổi, kh�ng đổi thay kể như kh�ng cầu nguyện. C�u n�i của Ch�a Gi�su chỉ r� như vậy: "Người n�y khi trở xuống m� về nh�, th� được n�n c�ng ch�nh rồi, c�n người kia th� kh�ng". Tức l� �ng vẫn y nguy�n như cũ, vẫn tự lừa dối m�nh trong đường "th�nh thiện" luật định, kh�ng thay đổi chi cả. C�c t�c giả ch� giải th�nh kinh đều đồng � như vậy. V� dụ J. Pirot viết bằng tiếng Ph�p: "C'est-�-dire dans l'illusion de sa propre justice" (nghĩa l� trong ảo tưởng về sự c�ng ch�nh ri�ng của m�nh) chứ kh�ng phải l� sự c�ng ch�nh �ức Ch�a Trời mặc cho nhờ bửu huyết của Ch�a Gi�su. N�i c�ch kh�c, chưa được Ch�a thương x�t tha tội. Cho n�n việc cải ho� khi nguyện cầu l� tối quan trọng cho người t�n hữu, bất kỳ l� ai, gi�o d�n hay c�c đấng, c�c bậc tu sĩ, linh mục.

Thường thường, sau khi chữa l�nh một ai, Ch�a Gi�su tuy�n bố: "L�ng tin của ngươi đ� chữa ngươi." Như vậy đức tin l� căn bản cho người ta nhận được ơn l�nh. N� cho ph�p ch�ng ta tin cậy v�o sự bảo đảm của Ch�a Gi�su rằng Thi�n Ch�a về phe với m�nh. Ng�i muốn cho ch�ng ta được l�nh mạnh. Tuy nhi�n trong c�u chuyện h�m nay, người thu thuế được Ch�a thương tha thứ. Cuộc đời �ng thay đổi lớn lao trong t�m hồn, nhưng chẳng c� dấu chỉ n�o b�n ngo�i. Khi hai người bước ra khỏi đền thờ, d�ng điệu họ ho�n to�n giống như l�c họ tới. Thi�n hạ vẫn tr�ng thấy họ như ngươi b�nh thường. �ng Biệt ph�i vẫn đạo mạo, được d�n ch�ng k�nh nể, �ng về nh� ăn chay hai ng�y một tuần, thứ hai v� thứ s�u, nộp thuế thập ph�n rộng r�i tr�n nguồn lợi gia đ�nh, giữ nghi�m ngặt c�c luật lệ t�n gi�o. C�n người thu thuế, c� lẽ cũng vẫn như trước. Nhưng ch�ng ta c� thể dự đo�n �ng đ� thay đổi nếp sống, tin tưởng rằng m�nh đ� được Thi�n Ch�a thứ tha. Hạnh kiểm của �ng kh� hơn, đối xử với vợ con, tha nh�n hiền hậu hơn theo ti�u chuẩn của l�ng Ch�a x�t thương m� �ng đ� nhận được. Ph�c �m kh�ng kể ra điều n�y, tất cả những chi ch�ng ta biết được l� bề ngo�i �ng kh�ng thay đổi, vẫn bị đồng b�o khinh bỉ như kẻ thu thuế tội lỗi. Tuy nhi�n, Ch�a Gi�su đ� tuy�n bố �ng được c�ng ch�nh ho�, l�m bạn hữu với Thi�n Ch�a, ở trong tương giao tốt l�nh với Ng�i.

Căn cứ v�o lời cầu nguyện của hai người, ch�ng ta nhận ra được sự kh�c biệt, n�u r� t�m trạng của từng nh�n vật trước t�n nhan Thi�n Ch�a. Người Biệt ph�i n�i: "T�i xin tạ ơn Ch�a, t�i kh�ng như bao kẻ kh�c, t�i ăn chay mỗi tuần hai lần, t�i d�ng cho Ch�a một phần mười thu nhập của t�i". Tất cả 5 chữ t�i, một sự khoe khoang kh�ng thể tưởng tượng, �ng l�m chủ lời cầu nguyện của m�nh. C�n người thu thuế khi�m nhường hơn, lời cầu xin của �ng rất ngắn, chỉ vỏn vẹn như sau: "Lạy Thi�n Ch�a, xin thương x�t con l� kẻ tội lỗi". �ng kh�ng l�m chủ m� chỉ l� kẻ thụ ơn l�ng x�t thương của Thi�n Ch�a. �ng mở rộng l�ng ra để đ�n nhận t�nh y�u Thi�n Ch�a v�o l�ng. Hai t�m trạng tr�i ngược nhau. Người Biệt ph�i bộc lộ m�nh l� người tự cao, tự đại, điều khiển cuộc sống theo � m�nh, l� chủ trong tương giao với Thi�n Ch�a, kh�ng c� chỗ cho Ng�i h�nh động trong sinh hoạt của m�nh. Ch�a Gi�su kh�ng ưa th�i độ n�y, Ng�i năng n�u t�n họ như kẻ giả h�nh. T�i đếm trong Ph�c �m tất cả 15 lần: "Khốn cho c�c ngươi, hỡi những người Pharis�u v� k� lục, c�c ngươi giả h�nh,.. (Lc 11,42).

Trong cuộc sống ri�ng tư, c� lẽ ch�ng ta vẫn thường mắc phải n�o trạng biệt ph�i, vụ h�nh thức, �ch kỉ v� tham lam. Bởi lẽ chất liệu để l�m n�n biệt ph�i vẫn c�n đầy ắp trong Gi�o Hội. Phải kh� khăn lắm mới c� thể lương thiện với ơn gọi của m�nh. Ch�ng ta cần Lời Ch�a để gọt giũa t�m hồn. V� Lời Ng�i giải ph�ng ta khỏi lầm lạc, tự ki�u, ảo tưởng. Thực sự, đ�y l� l�c ch�ng ta phải tỏ ra th�nh thật với ch�nh m�nh v� nhận ra � định của Thi�n Ch�a muốn tưới gội ơn l�nh cho ch�ng ta, nhờ sự dẫn dắt của dụ ng�n h�m nay. Ch�ng ta lu�n thất bại về lu�n l� trước mặt Thi�n Ch�a, kh�ng sống đ�ng với chương tr�nh Ng�i dự định cho m�nh! Vậy kh�ng thể nhận vị tr� của người Biệt ph�i được: "T�i kh�ng như bao kẻ kh�c, tham lam, bất ch�nh, ngoại t�nh hoặc như t�n thu thuế kia". C�u th�nh ngữ th�m v�o: "Ph�m ai t�n m�nh l�n sẽ bị hạ xuống; c�n ai hạ m�nh xuống sẽ được t�n l�n". Th�nh Luca đ� nhắc đến một trường hợp kh�c, tức dụ ng�n c�c kh�ch mời dự tiệc cưới (14,15). Th�nh Matth�u viết kh�c đi một ch�t: "Những kẻ đứng trước ti�n sẽ phải xuống hạng ch�t v� kẻ hạng ch�t sẽ được l�n h�ng đầu." Thi�n Ch�a thấu suốt mọi t�m can, sẽ lượng gi� ch�ng ta theo ti�u chuẩn của Ng�i, chứ kh�ng phải của thế gian. Ng�i thấu r� mọi h�nh động của ch�ng ta l� do tư tưởng thực sự n�o, chứ kh�ng phải d�ng vẻ b�n ngo�i.

Do đ�, xin th�nh thực với ch�nh m�nh trước Th�nh thể trong th�nh lễ h�m nay. Chẳng một ai trong ch�ng ta l� ho�n hảo trước mặt Thi�n Ch�a. Th�nh thể kh�ng phải l� chỗ để ch�ng ta lừa dối m�nh, sống trong ảo tưởng, vụ lợi m� l� nơi để b�y tỏ tấm l�ng th�nh thật, lương thiện. Ch�ng ta đến trước mặt Ch�a l� để xin ơn tha thứ tội lỗi, ca tụng l�ng thương x�t của Ng�i. Ng�i ban lương thực để trợ gi�p ch�ng ta thay đổi cuộc sống cho am hợp với đường lối Ph�c �m hơn. Mặc d� bề ngo�i kh�ng c� chi đổi thay. Nhưng lương t�m được Ng�i thanh luyện, dẫn dắt, tr�n con đường th�nh thiện thực sự. Nhờ đ� c�c h�nh vi b�n ngo�i c� sự tiến bộ. Ch�ng ta sẽ trở n�n lương thiện, ngay ch�nh, b�c �i, c�ng bằng hơn. Bớt đi nhưng th�i giả h�nh, lường gạt, quanh co, những t�nh hư nết xấu; rượu ch� say sưa, ươn lười, hưởng thụ, ghen tương,. Nguy�n do l� bởi l�c n�y Thi�n Ch�a l� chủ thể c�c lời cầu nguyện của ch�ng ta, chứ kh�ng phải đứng nghe ch�ng ta khoe khoang th�nh t�ch. Ch�ng ta sẽ l� kẻ thụ hưởng ơn l�nh biến đổi, giống như người thu thuế trở về nh� được n�n c�ng ch�nh. C� lẽ đ� l� ước nguyện của mọi t�n hữu ng�y nay vậy. Amen.


Fr. Jude Siciliano, OP.

Thế N�o L� C�ng Ch�nh ! 
Lc 18:9-14

Thưa qu� vị.

B�i đọc thứ nhất v� b�i đọc thứ ba Ch�a Nhật h�m nay vẫn c�n tiếp tục đề t�i cầu nguyện như những Ch�a Nhật trước. Một trong hai b�i đọc đều c� thể gi�p ch�ng ta suy niệm thấu đ�o về cầu nguyện. Tuy nhi�n kịch t�nh giữa người thu thuế v� người Pharis�� của b�i Tin mừng thu h�t t�m tr� th�nh giả hơn cả, n�n ch�ng ta chẳng thể bỏ qua. Dầu vậy xin h�y rảo qua �ng Sirach đ�.

S�ch Sirach l� một phần của truyền thống kh�n ngoan Do Th�i. Nh� th�ng th�i Gi�su Ben Sirach đ� viết s�ch đ� khoảng năm 180 trước C�ng Nguy�n. N� ti�u biểu cho đức tin Do Th�i gi�o suốt kỷ nguy�n Hy lạp. Trong quy điển Kinh th�nh Do Th�i n� đứng ở cuối bảng cho n�n chứa đựng học thuyết về cầu nguyện rất cao độ. N�n biết, văn chương kh�n ngoan l� loại văn chương r�t ra từ kinh nghiệm sống l�u d�i. N� c� mục ti�u truyền đạt cho c�c thế hệ tương lai những lời nhắn nhủ hữu �ch nhất. Những cuộc đời tốt l�nh được hưởng phần thưởng. Những cuộc đời tồi tệ sẽ phải sụp đổ v� chịu h�nh phạt. Vậy sự kh�n ngoan l� �n huệ ph�t xuất từ Thi�n Ch�a, gi�p con người sống ngay l�nh, th�nh thiện. Nếu ch�ng ta muốn được th�nh c�ng trong mọi việc l�m, ch�ng ta phải để tai nghe những gi�o huấn của �ng Sirach v� những nh� kh�n ngoan kh�c của Th�nh kinh.

B�i đọc Ch�a Nhật h�m nay tr�ch từ ph�n đoạn kh� d�i (34, 18 - 35, 20) n�i về việc thờ phượng cho xứng đ�ng. N� được chọn đọc h�m nay v� t�nh chất song song với dụ ng�n của Tin Mừng. Trước nhất, �ng Sirach gọi Thi�n Ch�a l� �ức Ch�a của sự c�ng ch�nh, Ng�i chẳng hề biết thi�n tư, t�y vị ai, Ng�i lu�n lắng nghe lời cầu xin của những kẻ ngh�o kh� hoặc bị �p bức v� c�c kẻ phụng thờ Ng�i c�ch ch�nh trực. �ng Sirach li�n kết �ức ch�nh trực của Thi�n Ch�a với việc Ng�i lu�n lắng nghe tiếng k�u van của c�c kẻ yếu thế. Suy rộng ra, ch�ng ta chỉ được Ng�i nghe lời khi ch�ng ta sống c�ng ch�nh, kh�ng bạc đ�i một ai. Ngược lại, nếu ch�ng ta l� căn nguy�n của bất cứ một sự bất c�ng n�o, th� đừng tr�ng mong Thi�n Ch�a nghe lời. Lời cầu nguyện của ch�ng ta th�nh thật thế n�o được khi cuộc sống bất c�ng với người kh�c ? Hội th�nh kh�ng c� h�o luỹ v�y quanh n�n ch�ng ta chẳng thể n�o sống t�ch biệt với thế giới b�n ngo�i, m� phải sống tr� chộn với to�n thể nh�n loại. Do đ� l�ng đạo đức của ch�ng ta trong Gi�o hội phải phản �nh đời sống c�ng ch�nh ở giữa thế gian.

Hơn nữa, ch�ng ta cũng kh�ng thể l�m ngơ nhắm mắt trước những bất c�ng hay �p bức của những c� nh�n hoặc tổ chức kinh doanh quốc tế. Thi�n Ch�a y�u thương tất cả. Nhưng Thi�n Ch�a của Kinh Th�nh lu�n về phe với c�c kẻ yếu thế trong x� hội. Tại sao? Tại v� những người gi�u c� đ� c� rất nhiều quyền lực, nhiều chỗ dựa, nhiều li�n minh. C�n những kẻ ngh�o khổ chẳng c� chi cả ! Kh�ng ai b�nh vực, kh�ng biết luật lệ, kh�ng người ủng hộ trước mặt x� hội đầy dẫy bất c�ng ! Tất cả những g� người ngh�o khổ c� được l� những tiếng k�u cứu trước mặt Thi�n Ch�a v� lương t�m nh�n loại. Họ chỉ c� thế th�i v� hy vọng được nhận lời. �ng Sirach bảo đảm với họ, tối thiểu, trước Thi�n Ch�a họ kh�ng gặp Ng�i nặng tai.

Vừa l�c n�y th� Ch�a Gi�su n�m v�o giữa cộng đồng nh�n loại dụ ng�n người thu thuế v� người biệt ph�i l�n đền thờ cầu nguyện. �ng biệt ph�i khoe đủ mọi thứ : Nộp thuế thập ph�n, đinh lương, bạc h�, kh�ng trộm cướp, kh�ng ngoại t�nh, ăn chay, bố th�, v.v� rồi �ng khinh dể to�n bộ c�c "người kh�c". Ra về �ng bị kết �n "c�n nguy�n tội trạng". Người thu thuế chẳng c� chi để khoe, �ng chỉ đấm ngực ăn năn th� tội, k�u xin l�ng Ch�a thương x�t. Ra về, �ng được trắng �n. Tự th�n ch�ng ta kh�ng thể n�o tuy�n xưng c�ng ch�nh trước mặt Thi�n Ch�a. D� c� thực hiện bao nhi�u việc l�nh đi nữa, ch�ng ta vẫn l� tội nh�n ! kh�ng c� quyền đ�i hỏi Thi�n Ch�a phải lắng nghe. Vậy th� phải l�m thế n�o ? Th�nh Luca đ� "bật m�" cho ch�ng ta b� quyết phải l�m sao để được nhậm lời trong b�i Tin mừng tuần trước. B� go� ki�n tr� cầu xin �ng quan to� thối n�t. B� c� một nhu cầu lớn v� l� gương mặt ho�n to�n kh�ng quyền lực. Sức mạnh của b� ch�nh ở chỗ k�u xin ki�n tr� v� b� đ� được nhận lời. Ch�ng ta sẵn s�ng về phe với b�. Nhưng b�i Tin mừng h�m nay lại kh�c đối với th�nh giả của Ch�a Gi�su v� đối với ch�ng ta h�m nay. �ng thu thuế phục vụ người La m� b�c lột đồng b�o m�nh, phản bội họ v� v� thế bị đồng b�o �ng gh�t cay gh�t đắng. B� go� l� mẫu mực của lời cầu nguyện, �ng thu thuế kh�ng phải vậy.

Ch�ng ta phải nh�n s�u hơn v�o dụ ng�n để hiểu được tại sao �ng lại được tuy�n bố "khỏi tội". Trước hết, ch�ng ta kh�ng n�n tự động coi �ng biệt ph�i l� một kẻ xấu. �ng ti�u biểu cho những điều tốt đẹp nhất của x� hội t�n gi�o thời bấy giờ. �ng phản �nh những �u lo về t�n gi�o, tu�n giữ c�c giới luật đến mức độ chi ly v� thi�n hạ coi �ng l� nh� đạo đức gương mẫu, ngưỡng mộ đức tin m�nh liệt của �ng. �ng tạ ơn Thi�n Ch�a đ� g�n giữ �ng khỏi phạm tội. Th�nh giả thời ấy với n�o trạng về sự c�ng ch�nh h�nh thức c� lẽ đ� t�n đồng lời cầu nguyện của người biệt ph�i n�y. Nhưng trong khi cảm tạ Thi�n Ch�a, �ng đ� tự phụ khẳng định c�ng nghiệp của m�nh. Lời cầu nguyện của �ng to�n l� chữ "t�i" đ�ng gh�t. "t�i" ăn chay 2 lần một tuần, "t�i" kh�ng như những người kh�c, "t�i" nộp thuế thập ph�n � ngay từ l�c mở đầu dụ ng�n th�nh Luca đ� n�i ngay � định của Ch�a Gi�su l� n�i cho những kẻ tự đắc, coi m�nh l� c�ng ch�nh m� khinh ch� người kh�c. Họ kh�ng những khinh khi người biệt ph�i, m� bất cứ những ai kh�ng thuộc về giai cấp đạo đức của m�nh.

Ngược lại, người thu thuế chẳng thể dựa v�o đ�u m� mong Ch�a nghe lời. �ời �ng l� một mối b�ng bong c�c việc l�m xấu xa. �ng sống tr�n lưng đồng b�o m�nh. Nhưng tại sao Ch�a lại cho �ng cơ hội h�m nay ? �ng kh�ng thuộc v�o hạng người được Ch�a sẵn s�ng lắng nghe m� Sirach đ� m� tả ở phần tr�n tức c�c người ngh�o kh�, bị �p bức hoặc những kẻ phục vụ Thi�n Ch�a c�ch ngay ch�nh. Trong lời cầu nguyện �ng kh�ng hứa cải tổ cuộc đời. Liệu sau khi rời đền th�nh, �ng c� thay đổi lối sống ? Tin mừng chẳng n�i. Nhưng c� một điều chắc chắn l� lời cầu nguyện của �ng ta đơn giản, ch�n th�nh v� khẩn thiết. �ng ho�n to�n tin tưởng v�o sự tốt l�nh v� l�ng thương x�t của Thi�n Ch�a, kh�ng hề khoe khoang c�ng lao của m�nh. X�t xem cả cuộc đời, �ng kh�ng c� đất đứng để m� cầu xin, to�n l� tội lỗi. Vậy kh�n ngoan dạy �ng đứng tr�n mảnh đất vững chắc nhất m� khẩn khoản, tức l�ng Ch�a x�t thương. Lập tức �ng được nhận lời. Sirach gọi lối cầu nguyện n�y l� của kẻ ngh�o h�n xuy�n qua tầng m�y thẳm (35, 17). Dầu sao �ng l� kẻ cần đến l�ng Ch�a tha thứ nhất trong đền thờ ng�y h�m ấy.

�ọc dụ ng�n h�m nay, ch�ng ta thấy giống giọng của điệu th�nh Phaol� t�ng đồ b�t chiến chống người Do th�i cố chấp. Nhưng Th�nh nh�n gay gắt hơn nhiều. Ai được tuy�n xưng c�ng ch�nh ho� trước mặt Thi�n Ch�a ? V� tr�n nền tảng n�o ? Chẳng ai d�m tuy�n xưng như vậy tr�n nền tảng c�c việc l�m của m�nh. Ho�n to�n l� nhờ v�o l�ng thương x�t của Thi�n Ch�a qua c�ng nghiệp của Ch�a Gi�su Kit�. Vậy th� b�i Tin mừng h�m nay g�y hết sức ngạc nhi�n cho những �ng th�nh b� thần giả h�nh, m�nh đeo đầy tr�ng hạt, thẻ kinh, nhưng cuộc sống th� lại c� vấn đề.

Người biệt ph�i đ� tự đứng ri�ng ra, tự nhận m�nh kh�ng giống như phần c�n lại của nh�n loại. Tự th�m t�m ch�ng ta c� t�m thấy �ng biệt ph�i n�o ẩn n�p trong con người ch�ng ta kh�ng ? Ẩn n�p trong c�c việc đạo đức của ch�ng ta kh�ng ? Ch�ng ta thực h�nh b�c �i, thương người, hy sinh, ăn chay, cầu nguyện, h�m m�nh, �p x�c, nhưng n�n nhớ ch�ng ta vẫn thuộc "phần c�n lại" của lo�i người tội lỗi, tham lam, bất lương, giả dối, � giống như �ng thu thuế. Vậy trong th�nh lễ h�m nay, th�nh t�m v� tha thiết ch�ng ta đọc ba lần : "Xin Ch�a thương x�t ch�ng con. Xin Ch�a Kit� thương x�t ch�ng con". "Lạy Ch�a con chẳng đ�ng Ch�a ngự v�o l�ng con, nhưng xin Ch�a ph�n một lời th� linh hồn con được l�nh mạnh". Người thu thuế đ� được trắng �n, ra đi b�nh an. Ch�ng ta được rước Ch�a v�o l�ng, cũng ra đi với lời kh�ch lệ của �ng Sirach : "phụng sự Ch�a cho ngay ch�nh". Amen.


Giuse Nguyễn Cao Luật op

Ai T�n M�nh L�n Sẽ Bị Hạ Xuống
Lc 18:9-14

Hai mẫu người

Theo c�i nh�n b�n ngo�i, hai nh�n vật của dụ ng�n đều bắt đầu từ một khởi điểm. Nhưng ...

Người biệt ph�i bước đi chững chạc, hi�n ngang. �ng đang ở trong �ền Thờ nhưng �ng cảm thấy thoải m�i dễ chịu như đang ở nh� m�nh : đầu ngẩng cao, mắt nh�n đầy vẻ tự tin. Bản kết to�n của �ng đầy n�t t�ch cực : �ng biết điều đ� v� �ng n�i l�n. �ng kể ra những con số. Tất cả đều tốt đẹp. �ng tự xếp m�nh v�o số những người suy nghĩ tốt, l�m tốt, v� c� đạo đức : �ng tự nhận m�nh l� người c�ng ch�nh.

Nơi �ng kh�ng c� một kẽ hở, kh�ng một sự chờ đợi, kh�ng một khoảng c�ch. �ng chiếm trọn cả lớp kịch : vừa l� diễn vi�n, vừa l� kh�n giả. Tr�n nguy�n tắc, �ng thưa với Ch�a, nhưng trong thực tế, "�ng cầu nguyện nơi ch�nh m�nh". �ng chi�m ngắm ch�nh m�nh, �ng n�i với ch�nh m�nh. Thi�n Ch�a chỉ l� c�ng ch�ng nghe �ng n�i v� vị Thi�n Ch�a đ� được đổng ho� với lương t�m của �ng, một lương t�m ho�n to�n tin chắc v�o ch�nh m�nh.

Chỉ c� một khoảng c�ch được th� nhận : �ng đứng xa người c� tội ... tức l� những người kh�c, những người bị �ng coi thường.

�� l� một con người đ� đạt tới đ�ch. �ng c�n c� thể l�m g� hơn được nữa ? Chẳng c�n một khoảng trống n�o để �ng băng qua. �ng chỉ c�n đợi l�nh triều thi�n. �� l� một con người đ� ho�n th�nh. L�m sao �ng c� thể t�i sinh được ?

Trong khi đ�, người thu thuế đứng xa xa, ph�a cuối đền thờ. Trước mắt x� hội, h�nh ảnh của anh kh�ng phải l� một h�nh ảnh dễ thương. Anh kh�ng được c�ng nhận l� c�ng ch�nh v� đ� vi phạm qu� nhiều, đ� thoả hiệp với tiền t�i, với quyền lực. Giờ đ�y, anh dứng im, kh�ng d�m ngẩng mặt l�n. Anh sẵn s�ng chui xuống đất, nếu c� thể được. Anh biết rằng m�nh chưa được sinh ra. V� khi ấy, tất cả đều trở th�nh c� thể.

Anh cầu nguyện, anh thưa với Thi�n Ch�a : "Xin thương x�t con." Anh nhận thức trọn vẹn khoảng c�ch giữa t�nh trạng con người của anh v� sự cao cả của Thi�n Ch�a, khoảng c�ch giữa sự "c�ng ch�nh" của anh v� sự c�ng ch�nh của Thi�n Ch�a. Anh t�m kiếm sự li�n lạc, t�m kiếm sự gần gũi với Thi�n Ch�a, một sự hiệp th�ng mặc d� từ căn bản, c� một sự kh�c biệt : "Con kh�ng phải như Thi�n Ch�a ! Con chỉ l� một kẻ tội lỗi ! Ch�a c� nghe lời con chăng ?" V� khi ấy, tất cả đều c� thể.

Khi bước v�o đền thờ, mỗi người đều quay trở về với ch�nh m�nh. Nhưng ...
Một người th� v�nh vang với lương t�m tốt l�nh của m�nh, tự h�o v� những x�c t�n của m�nh. �ng hiện diện trước Thi�n Ch�a dựa tr�n nền tảng l� c�i c� : lối sống của �ng, Thi�n Ch�a của �ng, quyền lợi của �ng.

C�n người kia trở về với sự khốn c�ng b�n trong của m�nh. Anh đứng trước nhan Ch�a với nền tảng l� sự thiếu thốn : bước v�o đền thờ, anh đ� bỏ lại thế giới tiền bạc, để đi t�m một điều g� kh�c.

Với hai con người như thế, Thi�n Ch�a sẽ giải quyết c�ch n�o ?

Một kẽ hở cho Thi�n Ch�a

Người biệt ph�t tr�nh b�y d�i l� th�. �ng c�m ơn Thi�n Ch�a, m� �ng nghĩ rằng m�nh biết r�, v� đ� n�ng đỡ, trợ gi�p �ng, để �ng "kh�ng như bao kẻ kh�c". Trong mối tương giao của �ng với Thi�n Ch�a, �ng chối bỏ người kh�c : �ng tự loại m�nh ra khỏi m�i trường hoạt động của t�nh y�u. ��i tay �ng đ� đầy những c�ng ph�c, đầu �c �ng đầy những x�c t�n của ri�ng m�nh. �� ch�nh l� th�i độ của niềm tin m� qu�ng. Mọi c�nh cửa đều đ�ng k�n : Thi�n Ch�a kh�ng thể v�o được.

Người thu thuế th� k�u cầu. Bị x� hội ch� bỏ, anh nhẫn nại chịu đựng : biết m�nh xa c�ch Thi�n Ch�a, anh chờ đợi. Anh chẳng c�n biết b�y tỏ với ai nữa, v� anh xin Thi�n Ch�a can thiệp. ��i tay anh trống kh�ng, anh đợi chờ : đ� ch�nh l� th�i độ của l�ng tin. Mọi c�nh cửa đều mở toang : Thi�n Ch�a c� thể v�o được.

Trước hai con người n�y, Thi�n Ch�a kh�ng ch�t do dự. Người l�m bạn với ch�ng thu thuế, c�ng với anh rời khỏi đền thờ, v� bỏ mặc người Biệt ph�i với c�c việc l�nh của �ng, để �ng ra về một m�nh.

Tại sao thế ?

Người biệt ph�i đ� l�m những việc đạo đức tốt l�nh, lại kh�ng phải l� người c�ng ch�nh ; đang khi đ� người thu thuế l� kẻ tội lỗi th� được n�n c�ng ch�nh. Thi�n Ch�a c� bất c�ng qu� kh�ng ?

Một khi đ�i tay đ� đầy, l�ng tr� đ� thoả m�n, th� Thi�n Ch�a sẽ kh�ng thể chen v�o được. L�m sao Người c� thể đến được khi kh�ng c� chỗ cho Người ? Bởi đ�, Thi�n Ch�a y�u chuộng kẻ kh� ngh�o kh�ng phải chỉ tại họ ngh�o, nhưng hơn thế, v� họ cảm thấy m�nh lu�n thiếu thốn v� họ chờ đợi. Như vậy, con người lu�n phải nhận ra m�nh ngh�o kh� trước Thi�n Ch�a, lu�n cần đến sự trợ gi�p, cần sự hiện diện của Người. V� quan trọng hơn, điều thiết yếu l� con người kh�ng được tự nhốt k�n sự ngh�o kh� của m�nh, nhưng l� sống trong th�i độ rộng mở. Người ngh�o kh�, v� nhu cầu cần thiết, lu�n biết tr�ng chờ sự gi�p đỡ của người kh�c. �� ch�nh l� th�i độ căn bản của Kit� gi�o.

Dĩ nhi�n, đ�y kh�ng phải l� sự ngh�o kh� vật chất, nhưng l� th�i độ ngh�o kh� trong tinh thần. Vẫn c� những người t�ng thiếu c�ng cực, nhưng vẫn l� một đời sống kh�p k�n. Vẫn c� những người c� nhiều t�i sản vật chất, nhưng lại biết đ�n chờ, biết mở rộng t�m hổn. V� quan trọng hơn nữa, đ� l� một th�i độ ngh�o kh� trong đời sống thi�ng li�ng. Con người kh�ng được quyền cậy dựa v�o bất cứ h�nh vi n�o để cho rằng m�nh l� người đạo đức, l� người đ� đạt tới sự th�nh thiện. Con người kh�ng thể nghĩ rằng m�nh đ� được n�n c�ng ch�nh do c�c việc m�nh l�m. Một khi c� quan niệm cho rằng m�nh đ� đạo đức, đ� th�nh thiện, tức l� kh�ng cần đến sự trợ gi�p, sự can thiệp của Thi�n Ch�a. �� l� một th�i độ đ�ng k�n, th�i độ của con người chỉ biết hướng về m�nh, chứ kh�ng phải về người kh�c, v� nhất l� về Thi�n Ch�a. Con người đ� kh�ng biết thế n�o l� s�m hối, thế n�o l� trở về, v� như vậy, trong t�m hổn của họ, kh�ng c� chỗ cho Thi�n Ch�a.

D� thế n�o, d� đạt tới mức độ n�o, vẫn phải l� người ngh�o trước Thi�n Ch�a, vẫn phải l� người cần trợ gi�p. Thi�n Ch�a cần c� những cửa ng� để đi v�o, cho d� đ�i khi chỉ l� một kẽ hở.

Cả hai đều cần

Như t�c giả x�c định, �ức Gi�su đ� n�i dụ ng�n n�y với những người tự cho rằng m�nh l� người c�ng ch�nh v� khinh miệt người kh�c. V�o thời �ức Gi�su, đ� l� những người biệt ph�i, những người chấp h�nh luật ph�p c�ch nghi�m ngặt.

Thực ra, c�c h�nh vi của người biệt ph�i thật đ�ng khen. C� mấy người trong ch�ng ta thực h�nh được như �ng ta ? Thế nhưng, �ng thiếu mất một điều, v� đ� l� điều quan trọng nhất : đ� ch�nh l� th�i độ khi�m tốn, biết tr�ng cậy v�o t�nh thương của Thi�n Ch�a. Ch�nh sự thiếu s�t n�y đ� ph� tan tất cả cố gắng, tất cả mọi h�nh động của �ng.

Ng�y nay, trong ch�ng ta, vẫn c� những người nghĩ rằng m�nh đ� đạo đức, đ� th�nh thiện nhờ những việc tốt của m�nh, nhờ việc giữ đạo của m�nh. Tất nhi�n, những điều đ� rất tốt. Nhưng nếu dựa v�o đ� để lấy l�m thoả m�n, để coi thường người kh�c th� thật l� tai hại. Phải hiểu rằng người Kit� hữu được mời gọi đạt tới sự th�nh thiện của Thi�n Ch�a, v� đ� l� một h�nh tr�nh d�i, h�nh tr�nh chưa chấm dứt. Một khi tự cho rằng m�nh đ� tới đ�ch, tức l� đ� ngưng lại, v� nguy hiểm hơn nữa, l� đ� lạc đường, đ� mất phương hướng. Mỗi người ch�ng ta vẫn c� thể nhận ra m�nh, �t l� một phần n�o đ�, qua lời cầu nguyện đầy vẻ tự m�n của người biệt ph�i.

Tuy vậy, kh�ng c� nghĩa l� �ức Gi�su dạy ch�ng ta chỉ cần thưa với Thi�n Ch�a như người thu thuế. �iểm nhấn mạnh của �ức Gi�su l� th�i độ trước Thi�n Ch�a, nhưng kh�ng v� thế m� c� quyền bỏ những h�nh vi đạo đức. Kh�ng phải người ta cứ sống theo � th�ch của m�nh, để rổi chỉ cần thưa với Thi�n Ch�a một c�u ngắn gọn l� được tha thứ, được n�n c�ng ch�nh. Th�i độ tin tưởng, tr�ng chờ sự trợ gi�p của Thi�n Ch�a kh�ng loại bỏ những nỗ lực của con người.

Như thế, ch�ng ta c� thể nh�n thấy một mẫu người Kit� hữu đ�ch thực, dựa tr�n hai nh�n vật của b�i Tin Mừng. �� l� một con người lu�n cố gắng chu to�n những lời gi�o huấn của Thi�n Ch�a, một con người thi h�nh trọn vẹn những g� luật ph�p quy định, đổng thời cũng l� người biết tin tưởng v� ph� th�c cho t�nh thương của Thi�n Ch�a. C�ng tiến triển, lại c�ng phải khi�m tốn. V� người khi�m tốn th� được Thi�n Ch�a y�u thương, được Thi�n Ch�a l�m cho n�n c�ng ch�nh.

Lạy Ch�a,

Ch�a biết r� nỗi khốn c�ng của con,

Ch�a thấu hiểu nỗi c� đơn đang v�y bọc quanh con,

Ch�a nh�n thấy t�nh cảnh yếu đuối v� bệnh tật của con,

�i Ch�a l� �ấng dựng n�n con.

Ch�a biết tất cả.

 

Xin nh�n đến con đang hết l�ng khi�m nhường v� thống hối.

Xin nh�n đến con đang t�m đến b�n Ch�a.

�i Ch�a l� �ấng thương x�t,

xin đừng nghoảnh mặt l�m ngơ.

xin đừng qu�n kẻ đang khao kh�t t�m Ch�a.
...

 

Trong tr�i tim Ch�a, con t�m được chỗ ẩn th�n,

trong l�ng thương x�t Ch�a, con t�m được nơi an nghỉ.

Con k�u l�n Ch�a cậy nhờ v�o t�nh y�u Ch�a d�nh cho nh�n loại.

theo Sym�on le Nouveau Th�ologien.


Giac�b� Phạm Văn Phượng op

Khi�m nhường cầu nguyện
(Lc 18,9-14)

Mỗi khi cầu nguyện, ch�ng ta tin tưởng v� mong ước dẫn tới hiệu quả tốt. Sự thường l� như thế, nhưng thực sự nhiều khi lại kh�ng phải như thế, bằng chứng l� c� lần ch�ng ta cầu nguyện th� được như �, nhưng cũng kh�ng thiếu những lần ch�ng ta cầu nguyện ho�i m� chưa được hay kh�ng được. Cũng vậy, c� người cầu nguyện th� được Ch�a nhận lời, c� người th� kh�ng. Tại sao vậy ? C� phải ch�ng ta thiếu điều kiện n�o chăng ? Đ�ng vậy, một trong những yếu tố hay điều kiện quan trọng, đ� l� th�i độ v� t�m t�nh th�ch hợp. B�i Tin Mừng h�m nay cho ch�ng ta biết th�i độ v� t�m t�nh th�ch hợp cần c�, đ� l� khi�m tốn, khi�m nhường.

Để hiểu biết sức mạnh của khi�m nhường, ch�ng ta h�y tưởng tượng hay h�nh dung hai cỗ xe : một cỗ xe được k�o bởi hai con ngựa l� nh�n đức v� ki�u ngạo, c�n cỗ xe kia được k�o bởi hai con ngựa l� tội lỗi v� khi�m nhường. Cả hai xe c�ng chạy, nhưng chẳng bao l�u cỗ xe tội lỗi vượt trước cỗ xe nh�n đức. Tại sao vậy ? Chắc chắn kh�ng phải do khả năng của ch�nh n�, tức l� tội lỗi, nhưng bởi sức mạnh của đức khi�m nhường c�ng đi chung với n�. C�n cỗ xe kia bị qua mặt, chẳng phải v� nh�n đức yếu đuối m� v� sự ki�u ngạo qu� nặng nề v� to lớn. Điều ấy bảo cho ch�ng ta biết : đức khi�m nhường, nhờ cố gắng vươn l�n, đ� thắng được sức cản của tội lỗi, v� l�n đến trời trước nhất, c�n ki�u ngạo, v� nặng nề v� to lớn, n�n �t cả sự nhanh nhẹn của nh�n đức, v� dễ d�ng k�o n� xuống s�u.

Về hai cỗ xe n�y, ch�ng ta đem �p dụng v�o hai người Pha-ri-s�u v� thu thuế l�n đền thờ cầu nguyện ch�ng ta sẽ thấy r� : người Pha-ri-s�u đ� cột chung nh�n đức với ki�u ngạo : �ng đứng thẳng một c�ch hi�n ngang, tự đắc, ngực ưỡn, đầu ngẩng cao, v� mắt c� lẽ liếc nh�n người thu thuế một c�ch khinh bỉ v� h�nh diện trước mặt Thi�n Ch�a. �ng cầu nguyện g� ? �ng kh�ng cầu g� cả, �ng kể c�ng với Ch�a, �ng tự m�n về những g� �ng đ� l�m, �ng l�n đền thờ để khoe m�nh chứ kh�ng phải để cầu xin với Ch�a, n�n lời cầu nguyện của �ng chẳng những kh�ng đưa �ng tới gần Ch�a m� c�n l�m cho �ng xa Ch�a hơn v� l�m cho Ch�a buồn hơn.

Tr�i lại, người thu thuế đ� cột chung tội lỗi với khi�m nhường : �ng kh�p n�p, kh�m n�m, đứng m�i đ�ng xa, kh�ng d�m đến gần b�n thờ, cũng chẳng d�m ngước mắt l�n trời, tức l� �ng tự nhận m�nh bất xứng, chỉ biết c�i đầu, đấm ngực tỏ l�ng ăn năn s�m hối. C�n về lời cầu nguyện, �ng n�i với Ch�a chứ kh�ng n�i về m�nh, �ng chẳng c� g� hay để kể cho Ch�a nghe, chẳng c� c�ng g� để khoe với Ch�a v� cũng chẳng d�m xin g� kh�c ngo�i l�ng thương x�t của Ch�a.

Qua đ�, ch�ng ta thấy tại sao cả hai người c�ng cầu nguyện, nhưng chỉ c� một người đẹp l�ng Ch�a, được Ch�a tha thứ ban ơn, chỉ v� người ấy khi�m nhường, tin tưởng, cậy tr�ng v�o t�nh thương của Ch�a, c�n người kia tự m�n về những g� �ng l�m th� �ng trở về với những g� �ng đ� l�m, Ch�a kh�ng ban g� cho �ng. N�i r� hơn, người thu thuế về nh� được c�ng ch�nh h�a, c�n người Pha-ri-s�u th� kh�ng, đ� l� kết quả tất yếu : người Pha-ri-s�u đ�u c� cần đến Ch�a, đ�u cần Ch�a c�ng ch�nh h�a, �ng tưởng rằng tự �ng c� thể mua được sự c�ng ch�nh bằng c�ng trạng của m�nh, �ng đ� lầm to, v� được trở n�n c�ng ch�nh hay kh�ng l� một qu� tặng của Thi�n Ch�a trao ban cho người biết khi�m nhường như người thu thuế đ� l�m, l� � thức r� c�i t�i tội lỗi, h�n k�m, bất lực của m�nh, th�i độ đ� Thi�n Ch�a rất vui l�ng, rất đẹp l�ng Thi�n Ch�a.

Từ hai nh�n vật ti�u biểu về khi�m nhường v� ki�u ngạo, được x�c định bằng th�i độ của họ trước mặt Thi�n Ch�a v� trước mặt anh em, Ch�a Gi�su đưa ra một nguy�n tắc tổng qu�t : �Ai t�n m�nh l�n, sẽ bị hạ xuống; c�n ai hạ m�nh xuống, sẽ đựơc t�n l�n�. Ai hạ xuống ? ai t�n l�n ? Thưa ch�nh Thi�n Ch�a. Kẻ tự t�n m�nh l�n th� Thi�n Ch�a hạ xuống, kẻ tự hạ m�nh xuống th� Thi�n Ch�a t�n l�n. Đ� l� lối h�nh động của Thi�n Ch�a, đ� l� c�ch Thi�n Ch�a trả lời cho kẻ tự đắc, kẻ cho m�nh l� c�ng ch�nh v� khinh ch� những người kh�c. Bởi v� chẳng ai c� thể tự đắc trước mặt Thi�n Ch�a, chẳng ai c� g� để kể c�ng với Người. T�nh thương của Thi�n Ch�a l� t�nh thương nhưng kh�ng, ai xin th� được, c�n ai tự cho m�nh l� c� quyền đ�i th� Thi�n Ch�a kh�ng cho. Trước mặt Thi�n Ch�a, tất cả ch�ng ta đều l� những kẻ tội lỗi, tất cả đều ngh�o h�n, cần đến l�ng thương x�t của Người.

Ch�ng ta l� người Pha-ri-s�u hay người thu thuế ? Chắc chắn kh�ng ai nhận m�nh l� người Pha-ri-s�u, nhưng chưa chắc đ� nhận m�nh l� người thu thuế. Đ�ng, ch�ng ta kh�ng tự nhận l� người Pha-ri-s�u, d� c� khi ch�ng ta c�n tệ hơn người Pha-ri-s�u, nhưng ch�ng ta c� d�m bắt chước người thu thuế kh�ng ?

Ch�ng ta c� thể s�nh v� việc cầu nguyện của ch�ng ta cũng giống như chiếc cầu mong manh dẫn ch�ng ta tới Ch�a. Khi đi qua một chiếc cầu nhỏ, bắt ngang bằng những tấm v�n hay những kh�c c�y mong manh, ch�ng ta phải hết sức cầm tr� v� � tứ cẩn thận thế n�o, th� khi cầu nguyện ch�ng ta cũng phải cầm tr� v� cẩn thận như vậy, tức l� ch�ng ta phải c� th�i độ khi�m tốn, tin tưởng, cậy tr�ng.


Bernard Huỳnh Hữu Ph�c op

Cầu Nguyện Với T�m Hồn Khi�m Cung
(Lc 18,9-14)

Bạn c� bao giờ tự h�o về sự th�nh thiện hay những việc l�m tốt đẹp của m�nh chưa ? Th�nh Phaol� đ� viết: �Người n�o kh�ng dựa v�o việc l�m nhưng tin v�o Thi�n Ch�a, Đấng l�m cho kẻ v� đạo n�n c�ng ch�nh, th� l�ng tin sẽ l�m cho người ấy được Thi�n Ch�a kể l� c�ng ch�nh� (Rm 4,5). Thế n�n, t�nh ki�u ngạo, tự m�n l� đầu mối mọi tội lỗi, n� xấu xa v� t�c hại hơn bất kỳ tội �c n�o.

B�i Tin Mừng h�m nay gi�ng l�n hồi chu�ng cảnh b�o những ai chỉ biết cậy v�o sức m�nh, ki�u ngạo, th�ch tự h�o về những việc l�m đạo đức, th�nh thiện của bản th�n. Người Pha-ri-s�u trong tr�nh thuật Tin Mừng của Th�nh Luca đến với Ch�a bằng một th�i độ �kể c�ng�, điều n�y thể hiện nơi lời cầu nguyện của �ng. X�t về mặt l�m việc l�nh ph�c đức, người Pha-ri-s�u đ� chu to�n bổ phận, nhưng thay v� đến với Ch�a bằng tấm l�ng khi�m tốn nh�n nhận bản t�nh yếu đuối của th�n phận con người, th� �ng lại đem những c�ng trạng của m�nh để �t�nh sổ� với Ch�a v� y�u cầu Thi�n Ch�a b� đắp tương xứng cho �ng. Hơn nữa, �ng đ� tự n�ng m�nh l�n l�m gương mẫu cho người kh�c noi theo, trong khi �ng kh�ng nhận ra rằng con người chỉ l� tội nh�n, phải khi�m nhường, ăn năn thống hối trước mặt Thi�n Ch�a.

H�nh ảnh người Pha-ri-s�u khiến những t�n hữu năng đến nh� thờ, bỏ tiền rộng r�i v�o giỏ lạc quy�n, đ�ng g�p to lớn v�o những quỹ như x�y dựng th�nh đường, c�ng tr�nh nh� xứ, hội từ thiện b�c �i� phải giật m�nh v� tự hỏi những việc l�m đạo đức ấy v� mục đ�ch g� ? Phải chăng l� để tăng tiến đời sống thi�ng li�ng hay chỉ v� khoe khoang, ph� trương với người đời v� mưu cầu danh vọng, địa vị, tiền t�i.

Kh�c hẳn c�ch thức cầu nguyện của người Pha-ri-s�u trong b�i Tin Mừng, người thu thuế cầu nguyện với � thức m�nh kh�ng l� g� trước mặt Thi�n Ch�a. Anh nhận ra t�nh trạng tội lỗi của m�nh v� th�nh thật hối hận v� đ� lỗi phạm đến Thi�n Ch�a. Anh thấy m�nh ho�n to�n bất xứng với Người. Ch�nh th�i độ cầu nguyện khi�m cung của người thu thuế đ� được Ch�a Gi�su chữa l�nh t�m hồn anh. Thật vậy, tuy tội lỗi l�m mất l�ng Thi�n Ch�a nặng nề, nhưng t�nh y�u được thể hiện bằng tấm l�ng khi�m nhượng lại đẹp l�ng Thi�n Ch�a biết bao.

Lạy Ch�a Gi�su Th�nh Thể

Cầu nguyện cũng c� nghĩa l� đối thoại, nhưng đ�y l� một cuộc đối thoại kh�ng ngang h�ng, c�n sức giữa một b�n l� Thi�n Ch�a, Đấng to�n năng, gi�u l�ng thương x�t v� một b�n l� con người yếu đuối, tội lỗi.

Lạy Ch�a ! Xin cho ch�ng con lu�n biết mở l�ng để lắng nghe tiếng Ch�a, hầu k�n m�c nguồn �n sủng Ch�a trong t�m t�nh tạ ơn, ca ngợi Ng�i. Kh�ng những thế, xin gi�p ch�ng con nhận ra những giới hạn nơi bản th�n, để ch�ng con biết cảm th�ng với những yếu đuối của người anh chị em, v� sẵn s�ng ph� th�c, tin cậy v�o l�ng nh�n từ, khoan dung của Thi�n Ch�a.

Lạy Ch�a Gi�su Th�nh Thể

Trước mặt Ch�a, t�nh �ch kỷ v� ki�u ngạo đ� khiến ch�ng con trở th�nh bất ch�nh. Thế n�n, sự c�ng ch�nh kh�ng do ở việc giữ lề luật, nhưng chỉ khi đặt n� trong tương quan với ơn cứu độ của Thi�n Ch�a d�nh cho nh�n loại, con người mới trở n�n c�ng ch�nh. Amen


Fr. Jude Siciliano, op

XIN CH�A SỬA ĐỔI CON
Lc 18, 3-14

Qu� vị th�n mến,

B�i đọc 1 theo s�ch Huấn ca h�m nay, c� m�u thuẫn với lời Ch�a Gi�su kh�ng? C�u mở đầu đọc rằng:"Ch�a l� quan �n, Người coi thường vinh quang của lo�i người. Người kh�ng vị nể kẻ nghịch với người ngh�o kh�. Người nhậm lời kẻ bị �p bức k�u cầu..." Những phần c�n lại th� diễn tả một c�ch rất thi�n vị "Người đ� tỏ th�i độ b�nh vực người bị �p bức, mồ c�i, g�a bụa v� thấp h�n". Ch�a thật thi�n vị đo�i nh�n những người bị x� hội ch�ng ta ph�n biệt đối xử.

S�ch Huấn ca được viết bằng tiếng Do Th�i khoản năm 180 trước Thi�n Ch�a v� 50 năm sau đ� được dịch ra tiếng Hy Lạp để phổ biến cho người Do Th�i sống trong x� hội Hy Lạp. S�ch Huấn Ca tr�nh b�y hai yếu tố đặc biệt của một x� hội bất b�nh đẳng. Đối với những người gi�u c� đ� được Ch�a ch�c ph�c cho việc thiện họ đ� l�m v� địa vị họ trong x� hội, lời Huấn ca c� một quan điểm kh�c. Ch�a kh�ng thi�n vị người gi�u c�, mặc d� họ c� đủ bằng chứng tỏ rằng Ch�a đ� chấp nhận họ.

Trong mọi ho�n cảnh, Ch�a muốn b�nh vực người ngh�o, để � c�ch ri�ng đến lời k�u xin của kẻ thấp h�n. V� v� thế b�i Huấn ca n�y li�n hệ đến b�i Ph�c �m h�m nay. S�ch Huấn Ca n�i rằng, nếu Ch�a đứng về ph�a người ngh�o v� người bị �p bức, th� tốt hơn ch�ng ta cũng n�n hướng về ph�a những người đ�. Lẻ c�ng ch�nh buộc: Người c� thể gi�p được th� n�n gi�p những người kh�ng tự lo cho họ được.

T�c giả Diane Bergant (trong s�ch: with Richard Fragomeni, Preaching the New Lectionary Collegeville: The Liturgical Press,2000) giải th�ch rỏ về s�ch Huấn Ca viết bằng tiếng Hy Lạp n�i l� Ch�a kh�ng những nghe tiếng k�u xin của người bị �p bức, m� Ch�a c�n l�m hơn nữa. Ch�a như tự buộc m�nh phải đ�p lại lời k�u xin một c�ch cụ thể như lời Ng�i đ� hứa, Kể cả khi ch�ng ta; người k�u xin Ch�a với nhiều hứa nguyện m� kh�ng giử lời. Điều l�m ta ngạc nhi�n l� hai b�i trong s�ch Huấn Ca v� Ph�c �m n�i về những người m� x� h�i kh�ng chấp nhận lại l� những người m� lời k�u xin được Ch�a lắng nghe, v� chấp thuận.

Ph�c �m h�m nay dạy ch�ng ta rất nhiều về lời cầu nguyện. Thứ nhất, lời cầu nguyện kh�ng cần d�i d�ng. 2 người v�o đền thờ đều cầu nguyện trong chốc l�t. (C� một gi�o sư Thần học đ� c� lần n�i: Lời cầu nguyện c� thể thật ngắn như "xin cứu gi�p"). Nhưng 2 lời cầu nguyện của 2 người được kể trong ph�c �m rất kh�c nhau.

Người Biệt ph�i d�ng chữ "con" 4 lần.Trong l�c �ng ta cảm ơn Ch�a về những g� �ng ta đ� c�, �ng c� vẻ như tự vổ vai m�nh. Theo � �ng th� �ng l� người độc nhất, đặc biệt nhất. �ng ta cảm ơn Ch�a l� �ng ta kh�ng giống những người kh�c" kh�ng tham lam, kh�ng gian dối, kh�ng ngoại t�nh,..v� cũng kh�ng giống người thu thuế kia." Theo � �ng thi �ng l� người xứng đ�ng. Trong đời �ng chắc chỉ cần phải thay đổi một ch�t th�i. C� lẻ �ng ta đọc lời nguyện chứ kh�ng cầu nguyện, v� bản th�n kh�ng thấy cần phải thay đổi nhiều. Ch�a cần phải đến để gi�p �ng ta.

Tr�i lại; ch�ng ta kh�ng nghe tiếng "con" (l� chủ từ) trong lời người thu thuế; m� �ng ta d�ng " với con". "cho con" (l� thụ động) Xin Ch�a tha tội "cho con". Trong c�u n�y Ch�a l� chủ động. Xin Ch�a thương x�t "cho con". Người thu thuế kh�ng tự m�nh thương x�t m�nh, �ng cần Ch�a tha tội cho �ng, thương x�t �ng v� sữa đổi đời �ng. Dụ ng�n n�y thật l� r� r�ng v� sắc b�n, đ� l�m cho người đọc phải ngạc nhi�n.

Người Biệt ph�i kh�ng phải l� người xấu.�ng đ� l�m những g� �ng phải l�m, v� đ� cố gắng sống theo lề luật. Sự thật �ng c�n đi xa hơn thế nữa. �ng ta d�ng lời kinh tạ ơn Ch�a vi �ng đ� sống một đời sống gương mẫu.

Người thu thuế l� người l�m việc cho đế quốc Roma. �ng ta kh�ng được coi trọng, người ta coi �ng l� người phản bội, phản d�n Do Th�i v� phản Ch�a. Nhưng Ch�a lại l�m cho �ng ta; một người c� tội; trở n�n c�ng ch�nh. �ng ta l�m việc m� luật ph�p buộc phải l�m. v� Ch�a tha người c� tội v� l�m cho họ trở n�n c�ng ch�nh. Điều l�m người thu thuế trở n�n c�ng ch�nh trước mặt Ch�a, kh�ng li�n hệ g� đến việc thi h�nh luật ph�p hay l�m việc hằng ng�y trong đời sống của �ng. Ch�a chấp nhận �ng v� �ng ta xưng m�nh l� kẻ c� tội v� hy vọng Ch�a tha thứ. Suy cho c�ng, ch�ng ta n�n tin v�o l�ng từu bi của Ch�a hơn l� dựa v�o những cố gắng ri�ng m�nh v� những g� Ch�a c�ng g�nh v�c với ch�ng ta.

Như hai người l�n đền thờ cầu nguyện; h�m nay ch�ng ta đến nh� thờ để cầu nguyện. H�y bắt chước như người thu thuế, ch�ng ta chấp nhận ch�ng ta kh�ng ho�n to�n. Ch�ng ta nhận biết ch�ng ta phải đưa Ch�a ngự v�o l�ng ch�ng ta để sữa chữa ch�ng ta. Tr�i tim ch�ng ta c� những g�? Trong đời, ch�ng ta c� những g� cần được thay đổi? ch�ng ta ao ước những g�?, v� c� g� c�n ngăn trở ch�ng ta? H�m nay ch�ng ta tự nhận ch�ng ta l� những người cần phải được thay đổi, v� ch�ng ta sấp m�nh cầu nguyện trước mặt Ch�a.

Ch�ng ta kh�ng giống người Biệt ph�i. Ch�ng ta kh�ng cần phải so s�nh ch�ng ta với kẻ kh�c.Ch�ng ta chỉ cần phải nghỉ đến ch�ng ta m� th�i v� th�nh thật với Ch�a. Ch�a thấy mọi chổ trống trong l�ng ch�ng ta. v� Ch�a sẽ lấp đầy những chổ ấy, v� tha thứ tội lổi ch�ng ta. Kh�ng ai biết được nơi b�n tiệc th�nh h�m nay Ch�a sẽ l�m g� cho ch�ng ta. Kh�ng ai biết được những thay đổi Ch�a sẽ l�m khi ch�ng ta đặt m�nh v�o b�n tay Ch�a.

Ch�ng ta c� thể nhận ra l�: Ch�ng ta sẽ bớt chỉ tr�ch người kh�c, Ch�ng ta sẽ tha thứ cho kẻ kh�c, Ch�ng ta sẽ để Ch�a x�t xử, Ch�ng ta sẽ qu�n lỗi lầm v� những va chạm của người kh�c, Ch�ng ta sẽ ngạc nhi�n nh�n thấy người kh�c tốt hơn.

T�m lại, ch�ng ta c� thể thấy ch�ng ta bỏ qua nhiều th�nh kiến v� để cho kẻ kh�c thay đổi đời họ. Ch�a thay đổi ch�ng ta qua lời cầu nguyện h�m nay, th� ch�ng ta cũng n�n để người kh�c thay đổi. Lời cầu nguyện c� ảnh hưởng g�? C� lời cầu nguyện n�o xin Ch�a h�y thay đổi ch�ng ta?

Ph�c �m h�m nay n�i l� người thu thuế ra về trở th�nh một người trung trực, nghĩa l� được thay đổi n�n tốt hơn. Như vậy nghĩa l� �ng ta c� được trung ch�nh trong li�n hệ với Ch�a. Lời cầu nguyện của �ng ta đ� thay đổi điều g� trong đời �ng ta. Nếu lời cầu nguyện kh�ng thay đổi đời ch�ng ta th� c� lẻ ch�ng ta kh�ng để Ch�a l� chủ động trong lời cầu. V� ch�ng ta kh�ng tự coi m�nh l� thụ động, hảy l� người nhận lảnh ơn Ch�a như người thu thuế đ� l�m. C� lẻ ch�ng ta đ� từng cầu nguyện, nhưng trong việc đ�, phải thể hiện nhiều � nguyện hơn l� nhiều lời. (Chuyển ngữ Fx Trọng Y�n )

 
Đỗ Lực op

Cuộc Trần Ai, Ai Dễ Hơn Ai ?
(Lc 18:9-14)

S�ng nay, l�n mạng, t�i say sưa với c�u chuyện đầy � nghĩa �Nắng chiều dọi l�n hi�n nh� b� Thảo, con Ph�c buồn buồn nằm tắm nắng. Những vết thương lở lo�t tr�n khắp th�n thể n� như đang l�nh, ngứa ng�y kh� chịu nhưng n� kh�ng buồn đưa ch�n l�n g�i. Giờ n�y mấy đứa con n� đều đang lẩn quẩn trong nh�, kh�ng d�m ra ngo�i n�y v� sợ thằng Bạo n�n chẳng ai quấy ph� n�. N� nằm lim dim kh�ng ngủ, hồi tưởng về tất cả những g� xảy ra trong đời n�.

Cuộc đời n�, lẽ ra cũng �m ả, hạnh ph�c như bao nhi�u con ch� kh�c v� n� may mắn c� được b� chủ tốt bụng. B� Thảo thương n� lắm. Ng�y n� c�n trẻ, sạch sẽ, b� dẫn n� đi nhiều nơi lắm. B� thương n� như những đứa con của b�. C�u chuyện chỉ bắt đầu từ khi c�i g� chủ qu�n thịt cầy dọn tới ở s�t b�n nh�.�(1)

�ọc xong, t�i nghĩ ngay tới th�n phận người thu thuế trong x� hội đạo đời Do th�i ng�y xưa. Dưới mắt �ng Pharis�u, người thu thuế c� kh�c g� con Ph�c ? Nhưng cuộc đời cứ nh�n nhau như vậy, liệu c� giải quyết được vấn đề g� kh�ng ? X� hội v� Gi�o hội đi tới đ�u ?

KH�C CA L�N �ỀN

Tất cả những kh� khăn trong cuộc sống đều bắt nguồn từ sự v� minh về bản th�n. H�m nay, Ch�a đưa ra h�nh ảnh hai người đang cầu nguyện trong đền thờ, để mọi người thấy ngay cả đạo đức cũng cần x�t lại. Ngay cả trong việc cầu nguyện, chưa chắc đ� t�m  được sự c�ng ch�nh cần thiết cho Nước Trời. Ch�nh trong tương quan với Thi�n Ch�a tha nh�n, con người c� thể x�c định bản chất v� những c�ng việc của m�nh.

Cầu nguyện với Thi�n Ch�a trong �ền th�nh kh�ng phải l� một việc ngo�i chợ. Thế m� con người vẫn c�n bị những thứ tiếng động quấy ph�. Tiếng động kh�ng ph�t xuất từ b�n ngo�i, nhưng từ ch�nh nội khảm của c�i t�i. Kh�ng c� lời cầu nguyện n�o ồn �o như lời nguyện ph�t xuất từ miệng lưỡi người Pharis�u h�m nay. �ng thấy m�nh đứng giữa một tương quan hai chiều, với Thi�n Ch�a v� đồng loại. Nhưng cả hai tương quan đều cho thấy �ng đang đ�nh mất ch�nh m�nh. Trước nhan Ch�a, �ng khoe khoang mọi việc đạo đức của m�nh. L�m như Thi�n Ch�a cũng cần �ng m�ch nước mới kh�m ph� những kỳ c�ng đạo đức trong cuộc đời ! �ối với tha nh�n, tương quan của �ng cũng chẳng �m thắm ch�t n�o. C�i t�i của �ng ph� nộn tới mức b�o động. �ng thấy m�nh vượt xa đồng loại, nhất l� người thu thuế đang cầu nguyện với �ng trong đền thờ. T�m lại, �ng muốn Thi�n Ch�a phải kh�m phục trước những việc phi thường �ng đ� thực hiện.

Ngay cả sự c�ng ch�nh của con người cũng phải x�t lại. M� qu�ng v� ki�u ngạo chi phối v�o tận lời cầu nguyện : �Lạy Thi�n Ch�a, xin tạ ơn Ch�a, v� con kh�ng như bao người kh�c : trộm cướp, bất ch�nh, ngoại t�nh, hoặc như t�n thu thuế kia.� (Lc 18:11) Những việc đạo đức đ� l�m �ng l�a mắt đến nỗi kh�ng nh�n thấy Thi�n Ch�a v� tha nh�n nữa. ��ng hơn, �ng muốn biến Thi�n Ch�a th�nh một con nợ. C� một khoảng c�ch giữa niềm tin Thi�n Ch�a v� c�ng việc đạo đức. Dựa tr�n những việc đ�, �ng nghĩ m�nh c� thể tự cứu lấy m�nh.

Tr�i lại, người thu thuế cảm thấy m�nh ho�n to�n bất lực v� tội lỗi. �ng cảm thấy kh�ng thể tự cứu v� kh�ng xứng đ�ng xuất hiện trước Thi�n Ch�a. Tất cả t�y thuộc l�ng quảng đại của Thi�n Ch�a. Bởi đ�, �ng k�u l�n : �Lạy Thi�n Ch�a, xin thương x�t con l� kẻ tội lỗi.� (Lc 18:13) Nh�n lại m�nh, �ng thấy to�n những c�ng việc bất ch�nh, nhất l� đ� cộng t�c với đế quốc đ�n �p d�n tộc bằng ch�nh s�ch sưu cao thuế nặng. C�i nh�n của d�n ch�ng về �ng v� nh�m người như �ng quả kh�ng sai. C�ng với những bọn đĩ điếm v� ngoại gi�o, �ng bị xếp v�o hạng những người tội lỗi. Nhưng Ch�a Gi�su lại th�ch giao du v� ăn uống với hạng người n�y. Ch�a kh�ng đến k�u gọi người c�ng ch�nh, nhưng những người tội lỗi (Mt 9:13 v� 11:19). Ch�a qủa quyết những người thu thuế v� bọn đĩ điếm v�o Nước Thi�n Ch�a trước những tư tế v� trưởng l�o trong d�n (Mt 21:31).

Ch�a biết c� những người thu thuế đ�ng k�nh, những người trở lại như L�vi (Mt 10:3), Giak�u (Lc 19:2), hay như người đ� gợi hứng cho Ch�a n�i dụ ng�n n�y. Ch�nh sự khi�m tốn trong lời cầu nguyện đ� l�m cho người tội lỗi trở th�nh người c�ng ch�nh. L� do v� chỉ c� t�m hồn như thế mới thấy v� đ�n nhận được tất cả hồng �n cứu độ của Thi�n Ch�a. Khi nh�n nhận m�nh yếu đuối, người thu thuế ngấm ngầm nh�n nhận m�nh cần một �đấng cứu độ.� �ng nhận biết m�nh kh�ng thể đơn thương độc m� tho�t khỏi t�nh trạng tội lỗi. �ng n�i l�n sự thiếu thốn của m�nh v� th� nhận m�nh cần đến Ch�a để học c�ch y�u thương. C�n Pharis�u tự tin m�nh ho�n hảo, tự m�n v� tự cao. ��y l� một bi kịch : �ng tin m�nh c� thể sống m� kh�ng cần đến Thi�n Ch�a. Tự th�m t�m, �ng lu�n ca b�i : �Kh�ng ! Kh�ng ! T�i kh�ng cần y�u ai nữa !� �ng kh�ng cần ai, kể cả Thi�n Ch�a.

Thực tế, chỉ những ai nh�n nhận m�nh �mỏng gi�n,� yếu ớt, thiếu thốn mới c� thể đọc l�n lời kinh thấu đến tận con tim �ấng Cứu �ộ. �Lời nguyện của người ngh�o vươt ng�n m�y thẳm.� (Hc 35:17) Triết gia Emmanuel Levinas cũng n�i : �Chỉ khi bị tổn thương, bản th�n mới c� thể y�u thương tha nh�n.� �iều đ� đ�ng từ trong s�ch vở đến ngo�i thực tế. Tra tự điển Anh Ph�p, ch�ng ta sẽ thấy chữ �prayer� (pri�re, cầu nguyện) v� �precarious� (pr�caire, mỏng gi�n) đều c� c�ng gốc La tinh (precarius). Thật l� th� vị.

Trong mỗi người đều c� người thu thuế như thưa l�n : �Lạy Ch�a, xin thương x�t con l� kẻ tội lỗi. Con biết sự c�ng ch�nh của con kh�ng do ch�nh con, nhưng do Ch�a, nhờ niềm tin v�o Ch�a Gi�su Kit� !� (Rm 3:22) Dụ ng�n kh�ng ngừng dạy ch�ng ta một b�i học đơn giản : Ch�a cực kỳ th�nh thiện, c�n ch�ng ta l� những tội nh�n. �� l� điều l�m ch�ng ta xa c�ch Ch�a nhất, nhưng cũng l� điều l�m ch�ng ta hướng về Ch�a nhất. Thay v� t�m những việc tốt để khoe khoang, n�u cao những c�ng tr�nh, biện minh cho ch�nh m�nh, ch�ng ta cần noi gương người thu thuế, nhận thực về m�nh : �Ch�nh khi ta n�i với Thi�n Ch�a : con hư v�, th� Ch�a n�i : Ta l�m cho con hiện hữu. Ch�nh khi ta n�i với Thi�n Ch�a : con tội lỗi, th� Ch�a n�i : Ta tha thứ v� y�u thương con. Khi tự đặt m�nh v�o số phận ch�n thật nhất, ch�ng ta c� thể c� tất cả, kh�ng chỉ cho m�nh, nhưng c�n cho tha nh�n. Tr�i lại, nếu tự phụ, ch�ng ta sẽ đ�nh mất tất cả v� chẳng l�m �ch g� cho ai, d� ch�ng ta c� l� g� v� quyền lực tới đ�u.

BIẾT M�NH BIẾT NGƯỜI

V� kh�ng biết m�nh, Pharis�u kh�ng thể trở n�n c�ng ch�nh. C� nh�n bất ch�nh, x� hội tắc loạn. Nhiều lần Ch�a Gi�su khiển tr�ch họ sống c�ng ch�nh theo m� bề ngo�i, trong khi b�n trong �đầy những chuyện cướp b�c, gian t�.� (Lc 11:39) L�c n�o miệng cũng h� h�o phải tu�n giữ lề luật. Nhưng thực tế, họ �xao l�ng lẽ c�ng b�nh v� l�ng y�u mến Thi�n Ch�a.� (Lc 11:42) Kh�ng những c� nh�n m� cả tập thể t�n gi�o v� x� hội đều x�y dựng tr�n sự thật ảo.

Về phương diện thi�ng li�ng, những con người giả h�nh kh�ng c� khả năng hướng dẫn ai. Suốt đời họ nỗ lực �kh�a cửa Nước Trời kh�ng cho thi�n hạ v�o !� v� �l�m cho (thi�n hạ) đ�ng xuống hỏa ngục gấp đ�i.� (Mt 23:13.15) Về phương diện x� hội, kh�ng những họ kh�ng bao giờ phục vụ ai, m� c�n ra sức b�c lột người ngh�o. Bằng chứng, họ �nuốt hết t�i sản của c�c b� g�a� (Mt 23:14) để vinh th�n ph� da. T�n gi�o của họ l� một rừng nghi lễ. Một đo�n người theo họ đang lạc l�ng bơ vơ như mất định hướng, v� ch�nh họ đ� dẹp �bỏ diều quan trọng nhất trong Lề Luật l� c�ng l�, l�ng nh�n v� th�nh t�n.� (Mt 23:23) Bởi thế, họ kh�ng ngần ngại nh�ng tay v�o những tội �c như s�t hại c�c ng�n sứ (x. Mt 23:34).

Niềm tin Pharis�u l� một niềm tin cứng ngắc v� đầy h�nh thức. Niềm tin đ� kh�ng đem lại sự giải tho�t cho nh�n loại. Cũng kh�ng thể t�m thấy c�ng l� nơi lối sống đạo thiếu chiều s�u đ�. �Quả thực, c�ng l� kh�ng phải l� một kh� ước thuần t�y nh�n loại, v� điều �c�ng ch�nh� trước ti�n kh�ng ph�t xuất từ lề luật, nhưng từ căn t�nh s�u xa của con người quy định.� (2) Nếu kh�ng bắt nguồn từ căn t�nh s�u xa đ�, t�n gi�o sẽ bất lực trong việc giải quyết mọi vấn đề của con người v� x� hội. C�ng l� cũng kh�ng hiện diện trong c�c tổ chức t�n gi�o đ�. Dĩ nhi�n, �tự bản chất, c�ng l� kh�ng đủ. Thực thế, nếu kh�ng mở ra đ�n nhận  quyền năng s�u xa hơn, tức t�nh y�u, c�ng l� c� thể phản bội ch�nh m�nh. Thực vậy, Học Thuyết X� Hội của Gi�o hội đặt gi� trị t�nh li�n đới b�n cạnh gi� trị c�ng l�, mở ra con đường độc đ�o dẫn tới h�a b�nh.� (3) Nh�n lại lời n�i v� h�nh động của Pharis�u, ch�ng ta thấy �ng vừa thiếu c�ng l� vừa ph� tan mối d�y li�n đới với đồng loại. L�m c�ch n�o c� thể h�a giải h�a hợp hai lối sống v� nếp nghĩ kh�c nhau như thế ?

Thiếu sự hiểu biết về Thi�n Ch�a v� tha nh�n, Pharis�u đ� ho�n to�n thu gọn tầm nh�n v�o những c�ng tr�nh c� nh�n. Nhưng �kh�ng thể y�u thương tha nh�n như ch�nh m�nh, v� ki�n tr� trong h�nh động n�y nếu kh�ng quả quyết mạnh mẽ v� ki�n nhẫn h�nh động mưu �ch cho tất cả v� mỗi người, v� tất cả ch�ng ta đều thực sự c� tr�ch nhiệm với mọi người. Theo gi�o huấn C�ng đồng, ch�ng ta phải t�n trọng v� y�u thương những người suy nghĩ v� h�nh động kh�c ch�ng ta về những vấn đề x� hội, ch�nh trị, v� t�n gi�o. Thực vậy, c�ng suy nghĩ s�u xa về những c�ch suy nghĩ c�ch �m �i, c�ng c� thể dễ d�ng đối thoại với họ.� (4) Thực tế, cuộc đối thoại kh�ng dễ d�ng thực hiện, v� c�n t�y thuộc quan niệm v� c�ch xử sự của đối t�c nữa.

L�m sao đối thoại với Pharis�u khi �ng tự n�ng m�nh l�n ch�n tầng m�y xanh ? Muốn bắt đầu đối thoại, cần phải c� b�nh đẳng v� c�ng l�. C�ng l� đ�i mọi người phải t�n trọng nhau như những nh�n vị. Cuộc đối thoại chỉ c� thể th�nh c�ng, khi mọi người đều nhắm đến c�ng �ch. �Nguy�n tắc hướng dẫn c�ng �ch c� li�n quan tới mọi mặt đời sống x� hội, nếu đạt đến � nghĩa trọn vẹn, ph�t xuất từ phẩm gi�, sự hiệp nhất v� b�nh đẳng của mọi người.� (5) R� r�ng Pharis�u đ� kh�ng theo đ�ng nguy�n tắc đối thoại. �ng kh�ng c� khả năng đối thoại, v� �ng chỉ biết c� m�nh. �ng mở đầu lời nguyện rất �ngon l�nh.� Nhưng kết th�c thật tệ hại v� dẫn đến kết quả tr�i ngược. Uổng cả một đời nỗ lực n�n c�ng ch�nh ! Chỉ v� khinh thế ngạo vật, mọi sự tan ra m�y kh�i.

�ỐI THOẠI ?

Nh�n v�o x� hội Việt nam h�m nay, ai d�m n�i đang c� một cuộc đối thoại thực sự để giải quyết những vấn đề x� hội ? Cả trong đạo ngo�i đời, những người cầm quyền c� d�m nh�n thẳng v�o thực tế kh�ng ? Họ c� thực sự nhắm đến lợi �ch quần ch�ng kh�ng ? L�m sao đối thoại hữu hiệu với Nh� Nước, trong khi Gi�o Hội kh�ng được nh�n nhận l� một thực thể ph�p nh�n ? �� ch�nh l� l� do tại sao Gi�o hội kh�ng được ph�p tham gia sinh hoạt trong c�c ng�nh gi�o dục, y tế v� kh�ng được hợp t�c trong nhiều l�nh vực để hướng dẫn v� phục vụ quần ch�ng, nhất l� giới trẻ.

Trong dịp viếng mộ th�nh Ph�r� năm 2002, c�c Gi�m mục Việt Nam đ� được �GH Gioan Phaol� II mở ra một định hướng mục vụ t�ch cực: �Đối thoại ch�n th�nh v� hợp t�c l�nh mạnh.� Nhưng nh�n lại, �phải chăng trong mấy thập ni�n vừa qua, Hội Đồng Gi�m mục Việt Nam đ� cố gắng thể hiện định hướng đ� bằng những h�nh thức v� c�ch thế ri�ng? Nhưng c� bao nhi�u cơ hội để thể hiện n�?� (6) Trong ho�n cảnh Việt Nam hiện nay, kh�ng phải chỉ c� kinh tế thị trường, nhưng cả t�n gi�o cũng phải đi v�o định hướng x� hội chủ nghĩa, do đảng tự do tung ho�nh l�nh đạo về mọi mặt. Chỉ c� một thực tại duy nhất tồn tại l� đảng m� th�i. Trong t�nh thế đ�, c� đối thoại cả trăm năm cũng kh�ng cải tiến được x� hội. Nếu kh�ng c� đối thoại, mọi việc hợp t�c đều giả hiệu v� v� hiệu. Thực vậy, l�m sao phục vụ, nếu kh�ng c� c�ng l� ? L�m sao c� c�ng l�, nếu kh�ng c� sự thật ? L�m sao t�m được sự thật, nếu kh�ng đối thoại ? Th�nh Augustin� quả quyết : �Bất cứ những g� tr�i với sự thật đều kh�ng thể c� c�ng l�.�

L�m sao c� thể đối thoại khi Đảng chỉ c�ng nhận �t�n gi�o l� vấn đề c�n tồn tại l�u d�i. T�n ngưỡng, t�n gi�o l� nhu cầu tinh thần của một bộ phận nh�n d�n� (7) ? Khi kh�ng c�ng nhận Gi�o hội, họ cũng chẳng cần biết �mục đ�ch của Gi�o Hội v� Nh� Nước thuộc hai l�nh vực kh�c nhau, c� những phương tiện ri�ng, v� độc lập trong những l�nh vực hoạt động li�n hệ.� (8) Nếu thực t�nh phục vụ con người, ai chẳng cần đến những c�i nh�n v� nỗ lực từ nhiều ph�a ? Thật vậy, �c�ng việc phục vụ ph�c lợi quần ch�ng v� cộng đồng nh�n loại chỉ c� thể hữu hiệu khi c� cuộc đối thoại theo cơ chế giữa Gi�o hội v� ch�nh quyền. Mục đ�ch nhằm g�p phần v�o c�ng cuộc tiến bộ mỗi d�n tộc v� to�n thể nh�n loại trong c�ng l� v� h�a b�nh.�(9) �ối thoại l� con đường duy nhất để nh�n ra vấn đề v� phục vụ hữu hiệu. Thực vậy, muốn c� c�ng l� để h�nh động, cần phải vận dụng tư tưởng v� lời n�i để đối thoại. Nếu kh�ng, sẽ l�ng ph� nhiều t�i nguy�n quốc gia v� Gi�o hội v� chẳng bao giờ c� thể đ�p ứng những nhu cầu lớn lao của quần ch�ng.

Trước cảnh đau thương của d�n tộc, Gi�o hội đ�nh b� tay khi nh�n c�c nạn nh�n đang quằn quại trong c�c bệnh viện hay bị bưng b�t trong nền gi�o dục một chiều. Thật vậy, �ng�nh y tế ch�ng ta cũng đang gặp khủng hoảng, cả về chất lượng lẫn số lượng. Tại Tp HCM chẳng hạn, để thực hiện c�ng t�c điều trị b�nh thường, mỗi ng�y cần khoảng 14.000 giường cho bệnh nh�n. Thế nhưng, tất cả bệnh viện c�ng v� tư ở th�nh phố mới c� khoảng 8000 giường, nghĩa l� chỉ mới đạt tới hơn một nửa nhu cầu. V� thế t�nh trạng 2 bệnh nh�n một giường sẽ c�n tiếp diễn trong những năm tới. Nếu Tp HCM l� đầu t�u kinh tế của cả nước m� c�n xảy ra t�nh trạng thiếu hụt ở tr�n, th� những v�ng s�u, xa v� cao của đất nước sẽ sao? Trong qu� khứ giới C�ng gi�o đ� đ�ng g�p nhiều cho l�nh vực y tế. Bao giờ mới được t�i nhập cuộc để xoa dịu nỗi đau v� nỗi khổ của đồng b�o?�(10)

Trong ng�nh gi�o dục, vấn đề trầm trọng kh�ng k�m. D� việc phục vụ tương lai d�n tộc đang bị bỏ b� v� xuống cấp v� thiếu thốn cơ sở cũng như nh�n sự trầm trọng, nhưng gi�o dục vẫn l� l�nh vực độc quyền của Nh� Nước. Gi�o hội l�m được g� khi bị đặt ra ngo�i cơ chế gi�o dục, d� m�nh c� rất nhiều nh�n sự sẵn s�ng nhập cuộc ? �Nhiều người vẫn băn khoăn thắc mắc: Tại sao vẫn chưa cho ph�p c�c t�n gi�o trong nước, những người c�ng chung một gi�ng m�u v� một t�nh tự d�n tộc được trực tiếp tham gia v�o l�nh vực gi�o dục? Tại sao chưa để cho c�c tu sĩ c� cơ hội đ�ng g�p tim - �c của m�nh cho tương lai d�n tộc?� (11) Thật l� tiếng k�u bức x�c v� thất thanh giữa sa mạc !

Biết thế, H�GMVN năm 2007 vẫn b�n về một l�nh vực m� m�nh chẳng c� ảnh hưởng g�, ngo�i trường mẫu gi�o ? Thư Chung 2007 n�i về qu� khứ như một điều đ�ng tiếc, nhưng vẫn quyết t�m v� tin tưởng k�u gọi gi�o hội Việt NAM Tham gia v�o l�nh vựa gi�o dục trong kế hoạch ba năm. Hy vọng với sự quyết t�m ấy, gi�o hội sẽ t�m ra cơ hội để cống hiến cho thế hệ trẻ tương lai.

T�m lại, c�ng trong một đền thờ, c�ng t�n thờ một Thi�n Ch�a, v� c�ng nh�n v�o bản th�n, nhưng �ng Pharis�u v� người thu thuế theo những đường hướng kh�c nhau. V� ki�u ngạo, Pharis�u đ� kh�ng nhận ra sự thật về Thi�n Ch�a, bản th�n v� tha nh�n. �ng đ�nh mất tương quan với Thi�n Ch�a v� tha nh�n. Lời cầu nguyện trở th�nh độc thoại. �ng tự t�ch m�nh khỏi Thi�n Ch�a v� anh em. Tr�i lại, trong khi�m cung, người thu thuế đ� được n�ng l�n h�ng c�ng ch�nh, v� �kẻ phục vụ �ức Ch�a theo � Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ k�u xin sẽ vọng tới c�c tầng m�y.� (Hc 35:16)

C�ng l�n đền thờ Thi�n Ch�a, nhưng mỗi người ca một kh�c kh�c nhau. Tiếng ca của người Pharis�u ch�i tai cả Thi�n Ch�a lẫn con người. C� lẽ giờ đ�y, kh�ng ai muốn đồng hội đồng thuyền với Pharis�u. Ai cũng tự xếp m�nh v�o h�ng ngũ người thu thuế. Như vậy, phải chăng m�nh cũng đang muốn m�nh hơn người Pharis�u ?! Coi chừng kh�c ca cũng ch�i tai kh�ng k�m đ�u nh� !

Lạy Ch�a, tất cả cuộc đời v� sứ mệnh con đều t�y thuộc v�o l�ng thương x�t của Ch�a. Xin cho con được gặp gỡ Ch�a v� đồng loại h�m nay để c� thể  phục vụ theo đ�ng th�nh � Ch�a. Amen.

đỗ lực 28.10.2007

 

1. Đo�n Kiếm, http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4046

2. To�t yếu Học Thuyết X� Hội của Gi�o Hội, 202.

3. ibid., 203.

4. ibid., 43.

5. ibid., 164.

6. Nguyễn Th�i Hợp,  http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577

7. http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577

8. To�t yếu Học Thuyết X� Hội của Gi�o Hội, 445.

9. Ibid.

10. Nguyễn Th�i Hợp,  http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577

11. Ibid.

12 H�GMVN, Thư Chung 2007, số 19, http://www.conggiaovietnam.net/tulieugiaohoi/thuchungHDGMVN2007.htm


Lm. Jude Siciliano, OP
(Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh G� Vấp)

NGƯỜI KHI�M NHƯỜNG ĐƯỢC CH�A ĐO�I NGHE
 Luca  18: 9-14

Trong dụ  ng�n về người Pharis�u v�  một người l�m nghề thu thuế  l�n đền thờ cầu nguyện, người Pharis�u th�  thường được mi�u tả  ti�u cực � �ng ta l�  người xấu trong c�u truyện. �ng ta thật ki�u ngạo v�  tự đắc! Nhưng những người đang nghe Ch�a Gi�su giảng th�  kh�ng thấy �ng ta l�  người xấu. �ng thu thuế  trong c�u chuyện mới l�  người xấu xa đối với họ. Nghề của �ng ta l� thu thuế cho người R�ma. Khi nghe Đức Gi�su đề cập đến �ng trong dụ ng�n, những người đang lắng nghe sẽ tự nhi�n nghĩ rằng: �Kẻ phản bội-h�n hạ nhất trong những kẻ h�n hạ� G� nữa n�o, nếu c� bất cứ nghi ngờ g� về phẩm chất đời sống của họ, th� cả hai người đ�n �ng n�y cũng đ� x�c nhận t�nh trạng đạo đức của họ kh� r� r�ng, như ch�ng ta thấy trong dụ ng�n.

 Người Pharis�u l� một người tốt v� được người đương thời k�nh nể. Họ �th�nh thiện� đến nỗi l�m hơn những g� luật đ�i hỏi. Đệ Nhị Luật đ�i phải nộp một phần mười hoa lợi. Xin biết cho, người Pharis�u n�y nộp thuế thập ph�n l� �tất cả thu nhập� của �ng ta. �ng nộp nhiều hơn những g� �ng phải l�m.

V� thế, ch�ng ta c� thể cho rằng những g� �ng ta m� tả về đời sống đạo đức của m�nh l� ch�nh x�c: �ng ta �kh�ng như bao kẻ kh�c � tham lam, bất ch�nh, ngoại t�nh.� �ng ta sống cuộc sống tốt hơn ��ng thu thuế kia�. Vấn đề kh�ng phải l� chỗ �ng ta kh�ng phải l� người tốt v� kh�ng tu�n giữ lề luật. Những người thấy �ng Pharis�u rời Đền Thờ sau khi cầu nguyện ng�y ấy c� lẽ đ� đồng � với lượng gi� của bản th�n �ng. �ng được ngưỡng mộ v� h�nh vi mẫu mực của �ng; trong khi người thu thuế kia c� thể bi coi thường v� đời sống kh�ng đạo đức của �ng. Như vậy, r�t ra kết luận kh� r� rằng, c�u chuyện kết th�c.

 hưng kh�ng nhanh vậy  đ�u! Nhớ l� Đức Gi�su đang kể dụ ng�n v�  dụ ng�n thường kh�ng theo lối  �b�nh thường� �  theo kiểu ch�ng ta mong đợi hay cho l�  quen thuộc. Việc cố gắng sử dụng lối l� luận đơn thuần v� t�nh to�n của con người thực sự chẳng bao giờ hiệu quả với những dụ ng�n. Những dụ ng�n kh�ng ph� hợp với sự kh�n ngoan của nh�n loại. Dụ ng�n h�m nay l� một v� dụ hay cho ch�ng ta, khi bước v�o thế giới của những dụ ng�n l� ch�ng ta bước v�o một thực tại ho�n to�n mới - �Vương Quốc của Thi�n Ch�a�.

 Chưa ai c�  thể gọi vương quốc m�  Ch�a Gi�su đến loan b�o l�  �hợp l��. Tạ ơn Ch�a! Ch�ng ta c� thể kh�ng c� cơ may n�o nếu như ph�n quyết hợp l� v� thuần t�y nh�n loại được �p v�o cuộc sống ch�ng ta? Nhưng thay v� thế, dụ ng�n h�m nay chỉ ra cho ch�ng ta một lần nữa rằng đường lối của Thi�n Ch�a th� kh�ng theo t�nh to�n của con người. C�ng l� của Ch�a l� �n sủng, v� �n sủng th� kh�ng thể được đo bằng c�n c�n như được vẽ trong tay của bức tượng Thần C�ng L� nổi tiếng. Dụ ng�n h�m nay n�i về c�ng l� của Thi�n Ch�a � c�ng l� n�y được trao cho người thực sự đau khổ chứ kh�ng phải cho những ai nghĩ rằng họ đ� c� được n�.

 Nếu như  những g� �ng Pharis�u n�i về  �ng l� đ�ng, th� vấn  đề nằm chỗ n�o? Chỗ  l�, �ng ta đang nh�n sai hướng. �ng ta đang cầu nguyện nhưng ch� � v�o đời sống của �ng ta. Để � xem, c� bao nhi�u lần �ng ta đề cập đến th�n m�nh� �T�I�. Dường như Thi�n Ch�a chẳng qua cũng chỉ l� những người đang quan s�t b�n ngo�i v� danh mục những th�nh t�ch của �ng.

 Một số  người cho rằng lời cầu nguyện của ch�ng ta c�  thể thay đổi � định của Thi�n Ch�a. Thực ra, lời cầu nguyện đ�ch thực biến  đổi ch�ng ta. Thế nhưng, lời cầu nguyện của người Pharis�u ra như chẳng thể mang lại bất kỳ biến đổi n�o nơi �ng ta. �ng ta c� vẻ tin rằng cuộc đời qu� tốt của �ng c� thể mang lại cho �ng ơn cứu độ; rằng Thi�n Ch�a mắc nợ �ng một phần thưởng v� những việc đạo đức của �ng. Những con người ng�y ấy nh�n thấy �ng Pharis�u bước ra khỏi Đền Thờ c� lẽ đ� thấy đ� l� một người m�n nguyện đ� ho�n th�nh nghĩa vụ t�n gi�o của m�nh.

 Nhưng liệu qu�  vị c� nhận ra sự  dị thường trong việc  �ng ta tự tập trung về  những th�nh quả của m�nh hay kh�ng? Đ�u l� �n sủng của Thi�n Ch�a trong đời sống con người? Người Pharis�u kia qu�  nhấn mạnh đến việc tốt của m�nh m�  qu�n mất h�nh động của Thi�n Ch�a trong cuộc  đời �ng. Đức hạnh của con người kh�ng bắt nguồn từ  nơi con người, nhưng l�  từ Thi�n Ch�a. Ch�a l� đấng ban ph�t sự tốt l�nh, v� sự tốt l�nh của ch�ng ta phản �nh sự tốt l�nh của Thi�n Ch�a nơi ch�ng ta.

 Th�nh Luca cho ch�ng ta biết rằng Đức Gi�su kể  dụ ng�n n�y �cho những người tự  cho m�nh l� c�ng ch�nh�� Đ� l� c�u chuyện cảnh b�o về  khuynh hướng m� những người đạo đức như ch�ng ta v�  những d�ng tu c� thể  gặp phải: cho rằng ch�ng ta c�  thể tự m�nh nắm  được ch�n l� v� biết người ta n�n h�nh xử  như thế n�o. Người Pharis�u đạo đức tự kết �n bất cứ ai kh�ng đạt được những ti�u chuẩn của �ng ta. �Người c�ng ch�nh� đi ph�n quyết kẻ tội lỗi v� kh�ng chừa chỗ cho những trao đổi v� những thay đổi.

 Người thu thuế  th� kh�ng ch� � đến việc �ng ta l� ai, v� cũng chẳng nhắc đến những c�ng l�nh m� m�nh l�m được, nhưng tập trung v�o việc �ng ta chưa l� g� v� những điều �ng c�n thiếu x�t. Thực ra, kh�ng giống như người Pharis�u, �ng lập tức hướng �nh mắt ra khỏi bản th�n để nh�n về Thi�n Ch�a. �ng cần ơn l�nh của Thi�n Ch�a v� kh�ng tự m�nh đạt được. �ng ta ho�n to�n lệ thuộc v�o Thi�n Ch�a v� ph� th�c bản th�n trong b�n tay của Thi�n Ch�a. H�m ấy, khi �ng rời Đền Thờ th� những người kh�c cũng nh�n �ng như vậy. Nhưng Đức Gi�su chỉ ra sự kh�c biệt m� họ kh�ng thể thấy � �ng ta �về nh� th� được n�n c�ng ch�nh�. Trong ng�n ngữ của S�ch Th�nh th� điều n�y nghĩa l� �ng được tha tội. L�m sao như thế được? Người thu thuế đ� l�m g� để �xứng đ�ng� với sự tha thứ n�y? Chẳng g� cả. �ng ta l� một tội nh�n đ� ho�n to�n quay về với thi�n Ch�a để xin tha thứ, v� Thi�n Ch�a đ� dủ l�ng thương.

 Người biết  được bản t�nh nh�n loại của m�nh sẽ  biết rằng tương quan với Thi�n Ch�a v�  với người kh�c l� tặng phẩm từ  Thi�n Ch�a. Nhưng nếu ch�ng ta � thức được bản t�nh nh�n loại của m�nh, ch�ng ta cũng sẽ nhận ra ch�ng ta mỏng d�n v� hay thay đổi ra sao v� cả nguy cơ phạm t�i nữa. V� thế, lời cầu nguyện của người thu thuế h�m nay cũng ch�nh l� lời cầu nguyện của ch�ng ta, �Lạy Ch�a, xin thương x�t con l� kẻ tội lỗi�. Ch�ng ta đ� đặt niềm tin v�o Thi�n Ch�a, Đấng tạo n�n ch�ng ta v� cho ch�ng ta một l� tr� để ch�ng ta c� thể ca tụng vẻ đẹp v� sự tốt l�nh b�n trong cũng  như xung quanh ch�ng ta nữa. Ch�ng ta cũng biết m�nh c� thể tin tưởng v�o một Thi�n Ch�a tha thứ tội lỗi cho ch�ng ta cả khi ch�ng ta ngoảnh mặt đi v� đặt ch�ng ta l� tr�n hết � như người Pharis�u.

 John Shea nhắc lại cho ch�ng ta kinh nghiệm mặc khải m� Thomas Merton đ� nhận được khi đứng tại g�c đường Luoisville, ở Kenturky. Merton bị ngập tr�n trong t�nh y�u �ng d�nh cho mọi người xung quanh v� cảm x�c dạt d�o khi nhận ra m�nh kh�ng hề bị t�ch biệt khỏi người kh�c, nhưng l� một trong số họ. �ng n�i: �Tạ ơn Ch�a, xin tạ ơn v� con cũng giống như những người kh�c, tạ ơn v� con chỉ l� một người trong số những người kh�c�. V� c�n th�ch th� hơn, Merton  hoan hỉ ca ngợi rằng: �Thi�n Ch�a được vinh danh trong việc trở n�n một th�nh vi�n của nh�n loại. Một th�nh vi�n của nh�n loại!�. V� thế, trong khi ch�ng ta �tự hạ� như Đức Gi�su đề nghị, ch�ng ta nhớ với lời nguyện rằng ch�ng ta kh�ng chỉ li�n đới với mỗi người trong gia đ�nh nh�n loại nhưng c�n với Thi�n Ch�a, Đấng khi�m nhường v� c�ng, đ� trở n�n một trong ch�ng ta nơi Đức Gi�su Kit�.

 Ben Sira điều h�nh một học viện cho giới trẻ  khoảng hai thế kỷ trước Ch�a gi�ng sinh. Những lời dạy kh�n ngoan về vấn nạn trần thế v� truyền thống đức tin Doth�i gi�o được người ch�u thu thập lại cho những thế hệ tương lai của những người Doth�i bị ph�n t�n, những người phải phấn đấu giữ đức tin giữa những kẻ kh�ng c� đức tin. Ben Sira nhắc nhở những học tr� th�n y�u của m�nh rằng địa vị hay gi� trị của lễ của họ trước b�n thờ th� kh�ng tự nhi�n được Ch�a lắng nghe. Nhưng l�, như ch�ng ta nghe trong b�i đọc một, Thi�n Ch�a nghe lời cầu xin của những kẻ b� nhỏ nhất trong x� hội.

 B�i tr�ch S�ch Huấn Ca h�m nay nhắc nhớ dụ ng�n về l�ng ki�n tr� của b� g�a đ�i c�ng b�nh từ vi�n quan t�a trong b�i Tin mừng ch�ng ta nghe tuần trước. S�ch Huấn Ca nhắc ch�ng ta nếu Ch�a ban �n huệ th� đ� l� d�nh cho những người bị �p bức, �Lời nguyện của kẻ h�n mọn vượt ng�n m�y thẳm, lời nguyện chưa tới đ�ch, họ chưa an l�ng�. Những người m� s�ch Huấn ca gọi l� �h�n mọn�, b� g�a v� c� nhi, bị những kẻ c� quyền thế cai trị. V� vậy, người ngh�o chỉ c�n c� Ch�a để hướng về. Niềm tr�ng cậy trong lời cầu nguyện với Ch�a th� kh�ng chỉ thấy nơi người ngh�o nhưng cả nơi ch�ng ta những người khi�m tốn đặt cuộc đời m�nh trong b�n tay Thi�n Ch�a. T�c giả S�ch Huấn Ca cũng nhắc nhở những học tr� th�n y�u của m�nh rằng nếu Thi�n Ch�a nghe lời cầu cứu của những người ngh�o, th� họ cũng n�n l�m như vậy. Việc Ch�a Gi�su đến, chưa đầy hai thế kỷ sau S�ch Huấn Ca, quả l� một dấu chỉ chắc chắn về l�ng thương x�t của Thi�n Ch�a đ�p lời kẻ ngh�o k�u xin.

Lm. Jude Siciliano, O.P. (Anh em Học viện Đaminh chuyển ngữ)

 

LẠY CH�A, XIN THƯƠNG X�T CON

Hc 35,12-14.16-18; Tm 4,6-8.16-18; Lc 18,9-14

K�nh thưa qu� vị,

Liệu người Pharis�u trong tr�nh thuật Tin mừng h�m nay cũng n�i như một số Kit� hữu ng�y nay rằng họ đang chống lại s�ch b�o khi�u d�m, ly h�n, ngoại t�nh, việc nạo ph� thai, th�i nghiện rượu, sự kết h�n, nghiện ngập ma t�y v� hầu hết c�c phim ảnh kh�ng? Để n�i về những điều m� họ đ� đạt được th� quả l� kh� khăn. V� được tạo dựng theo h�nh ảnh v� giống như Thi�n Ch�a, n�n ch�ng ta th�ch hay ngưỡng mộ điều kh�c lạ nơi tha nh�n.

Một số Kit� hữu cho ch�ng ta thấy một h�nh ảnh c�ng khai ti�u cực hay l�m bộ đoan trang kiểu c�ch. Họ y hệt với những người được mi�u tả trong Tin mừng th�nh Luca m� Đức Gi�su đề cập trong dụ ng�n h�m nay: �Người tự h�o cho m�nh l� c�ng ch�nh m� khinh ch� người kh�c.� Kh�ng biết th�i độ tự m�n đ� được kể v�o số c�c nh�n đức Kit� gi�o từ khi n�o? Nếu c� ai đ� chất vấn về niềm tin Kit� gi�o, ch�ng ta c� bắt đầu kể ra một danh s�ch những điều phải chống lại như đ� kể ở tr�n, hay sẽ n�i về những điều mang lại cho m�nh một cuộc sống mới, v� niềm vui m� ta đ� l�nh nhận được trong đức tin?

Phải chăng c� một số người Kit� hữu l�ng qu�n hai điều đ� kết nối ch�ng ta lại với nhau: Tất cả ch�ng ta đều l� tội nh�n v� đều nhận được l�ng thương x�t đ� sao? Ch�ng ta đang c�ng với người thu thuế chỉ d�m đứng xa xa m� cất tiếng cầu nguyện rằng: �Lạy Thi�n Ch�a, xin thương x�t con l� kẻ tội lỗi.� Thi�n Ch�a, Đấng c� thể vượt một đoạn đường d�i để đến với từng người tội lỗi, th�n h�nh đến tận nơi ch�ng ta v� thanh tẩy ch�ng ta qua việc th�ng ban l�ng thương x�t, l�m cho ch�ng ta được n�n c�ng ch�nh trước nhan Ch�a. Mặt kh�c, th�i độ tự h�o cho m�nh l� c�ng ch�nh lại đặt ch�ng ta xa c�ch với Thi�n Ch�a. Đ� l� một khoảng c�ch m� chỉ c� �n sủng mới c� thể nối liền được m� th�i.

Nếu ch�ng ta đang t�m một �lối cầu nguyện th�ch hợp�, th� việc liệt k� c�c th�nh t�ch của m�nh hay vui mừng v� ta kh�ng �giống như bao kẻ tội lỗi� nhất định kh�ng phải l� lựa chọn ti�n quyết. Tốt nhất, h�y đặt sự thiếu thốn, yếu đuối, tinh thần ngh�o kh� v� tội lỗi của m�nh trước nhan Thi�n Ch�a. Rồi ch�ng ta tin tưởng rằng m�nh sẽ được đo�i nghe, v� lời cầu nguyện của ch�ng ta sẽ được đ�p lại. Ch�nh Thi�n Ch�a sẽ ho�n to�n nhậm lời nếu lời khẩn n�i l�ng thương x�t được khởi đi đ�ng chỗ.

Chẳng c� g� phải ngạc nhi�n khi Thi�n Ch�a lại đ�p lời người thu thuế. Chủ đề thường xuy�n v� quan trọng trong Kinh th�nh l� Thi�n Ch�a nhận thấy nhu cầu của những người khi�m nhu v� đ�p lời họ. C� thể ch�ng ta thấy m�nh kh�ng c� quyền, hoặc chưa xứng đ�ng để ngước nh�n l�n Thi�n Ch�a v� chờ mong Người nhận lời. Tự sức m�nh, ch�ng ta kh�ng thể đ�i hỏi đặc �n hay sự đền b� xứng đ�ng. Thế nhưng, Thi�n Ch�a đ� quan t�m đến ta cả khi ta c�n l� những tội nh�n, v� đ� ngự đến với ch�ng ta trong Đức Gi�su để chia sẻ th�n phận l�m người của ta. Hơn thế nữa, Thi�n Ch�a đ� ở với ch�ng ta qua c�i chết, ng� hầu ch�ng ta được chung phần phục sinh với Người.

Thi�n Ch�a thấy ch�ng ta. V� ta l� ai? Ch�ng ta đ� bắt đầu bữa Tiệc Th�nh n�y với khẩn cầu l�ng thương x�t. C�ng với người thu thuế v� những người kh�c, ch�ng ta đ� được nhận l�nh những điều m� tự sức ri�ng của m�nh kh�ng d�m cầu xin. Nhờ Đức Gi�su, ch�ng ta được trở n�n c�ng ch�nh trước nhan Thi�n Ch�a.

Những người thuộc c�c tổ chức, thế tục hay t�n gi�o, phải thận trọng khi cho rằng họ sở hữu tất cả ch�n l�, v� c� lời đ�p trả đ�ng đắn cho mọi khổ đau tr�n trần gian. Thoạt đầu, người Pharis�u c� vẻ d�ng lời cảm tạ v� những g� �ng đ� nhận l�nh được từ Thi�n Ch�a; một bi�n bản mẫu mực trong h�nh vi t�n gi�o v� đạo đức. �Lạy Thi�n Ch�a, xin tạ ơn Ch�a, v� con kh�ng như�� Thật ra, Thi�n Ch�a kh�ng phải l� đối tượng trong lời ngợi khen của �ng, nhưng lại l� ch�nh �ng. �ng kh�ng cầu xin Thi�n Ch�a bất cứ điều g� v� �ng đ� c� tất cả. Trong khi đ�, người thu thuế kh�ng hề đề cao ti�u chuẩn của m�nh.    

Những ai � thức được nh�n t�nh của m�nh, l�ng dạ người đ� d�ng tr�o sự biết ơn, v� những �n huệ đ� l�nh nhận được l� mối quan hệ của ch�ng ta với Thi�n Ch�a, v� mối tương giao với những người kh�c. Thi�n Ch�a l� nguồn mạch tất cả �n huệ, v� v� thế, ch�ng ta k�nh d�ng Người cảm tạ, tri �n. Thế nhưng, kh�ng giống như người Pharis�u, ch�ng ta kh�ng dừng lại ở điều ấy, v� cũng � thức được sự mong manh, đổ vỡ v� tội lỗi của m�nh.

Tin tức hằng ng�y nhắc nhở ta về c�c tội �c m� con người c� khả năng g�y ra cho ch�nh m�nh hay cho người kh�c. V� m�nh c� thể phạm tội, n�n ch�ng ta kh�ng dừng dụ ng�n n�y ở nửa chừng. Ch�ng ta cũng kết hợp với người thu thuế trong sự cần thiết chung khi ta cầu nguyện rằng: �Lạy Thi�n Ch�a, xin thương x�t con l� kẻ tội lỗi�. Người ta ph�n n�n rằng ch�ng ta đang bận t�m đến tội lỗi. Kh�ng, ch�ng ta kh�ng như thế. Dụ ng�n n�y nhắc nhở rằng đạo của ch�ng ta l� một t�n gi�o của l�ng thương x�t, mọi người được giải tho�t khỏi sự thống trị của tội lỗi.

Đ�y l� Ch�a Nhật thứ tư tr�ch đọc từ thư gởi �ng Tim�th�. Th�nh Phaol� khởi đầu l� thư n�y bằng lời ch�o �ng Tim�th� l� �người con đ�ch thực� (1,1-2) của ng�i, điều n�y cho thấy mối quan hệ gần gũi giữa hai người. Trong thư, th�nh Phaol� n�i với �ng Tim�th� lời khuy�n c� nh�n về ơn gọi của m�nh cho d�n ch�ng trước danh Thi�n Ch�a. Bức thư n�y kh�ng chỉ cho thấy một mối quan hệ gần gũi, m� �ng c�n ủy th�c cho �ng Tim�th� tiếp tục sứ vụ của m�nh. Mối quan t�m của th�nh Phaol� kh�ng chỉ l� �ng Tim�th�, m� c�n l� Tin mừng v� th�ng điệp của th�nh nh�n được truyền lại sao cho trung thực với c�c thế hệ Kit� hữu tương lai.

Điều g� đ� l�m cho th�nh Phaol� cảm động v� th�c giục th�nh nh�n viết thư cho �ng Tim�th�? Th�nh Phaol� đang bị cầm t� ở R�ma, v� b�i đọc h�m nay cho thấy r� th�nh nh�n biết được l� ng�i sắp chịu tử đạo. Ng�i mượn h�nh ảnh của một cuộc điền kinh; ng�i đ� �chạy hết chặng đường�. Mặc d� đang bị giam trong ngục, nhưng th�nh Phaol� chẳng quan t�m đến những nỗi gian nan m�nh đang phải chịu. Ngục t� kh�ng thể giam h�m Lời Ch�a, v� th�nh nh�n vẫn kh�ng ngừng rao giảng, thậm ch� c�n dạy dỗ cho cả những người l�nh R�ma tr�ng giữ ng�i (Pl 1,13).

Th�nh Phaol� phải chịu mu�n v�n kh� khăn gian nan dường n�o. Ng�i kh�ng chỉ thấy kết cục của đời m�nh, m� c�n bị ruồng bỏ, �mọi người đ� bỏ mặc t�i�. Tuy nhi�n, sau c�ng, ng�i rao giảng tin mừng của m�nh v� tuy�n xưng sự hiện hữu v� bảo trợ của Thi�n Ch�a: �Nhưng c� Ch�a đứng b�n cạnh, Người đ� ban sức mạnh cho t�i.�

T�i th�ch lưu � đến những chỗ c� sự xuất hiện của hạn từ �nhưng� trong bản văn, giống như trong bản văn ng�y h�m nay. Tr�nh tự diễn ra giống như thế n�y: nhu cầu trước ti�n của con người được thể hiện ra. Đối với th�nh Phaol�, đ� l� sự giam cầm v� sự bỏ rơi của những người m� lẽ ra phải đứng về ph�a ng�i khi biện hộ. Tiếp đ�, kh�ng c� ai ủng hộ, th�nh Phaol� được Thi�n Ch�a trao cho quyền năng. T�nh thế của ng�i hiện nay rất nghi�m trọng, nhưng �Ch�a sẽ cho t�i tho�t khỏi mọi h�nh vi hiểm độc, sẽ cứu v� đưa t�i v�o vương quốc của Người ở tr�n trời�.

Th�nh Phaol� l� một Kit� hữu, v� cũng giống như Đức Kit� tr�n thập gi� hay như �ng St�phan�, khi th�nh nh�n được l�nh ph�c tử đạo (Cv 7,60; 8,1), ng�i cũng tha thứ cho những người đ� bỏ mặc ng�i: �Xin Ch�a đừng chấp tội họ�. Đ�y l� lời cầu nguyện m� ng�y nay ch�ng ta c� thể d�ng l�n cho những người đ� bỏ rơi ch�ng ta, hoặc kh�ng trợ gi�p khi ch�ng ta gặp gian nan. Lấy cảm hứng từ cảnh t� đ�y, v� c� độc của th�nh Phaol�, ch�ng ta cũng cầu nguyện rằng: �Xin Ch�a đừng chấp tội họ�.