![]() | |
Chúa Nhật XXX Thường Niên - Năm C Hc 35:12-14.16-18 ; 2 Tm 4:6-8.16-18 ; Lc 18:9-14
An Phong : Hãy Nhận Ra Chính Mình Fr. Jude Siciliano, op : Khiêm Tốn Trong lời Nguyện Fr. Jude Siciliano, op : Thế Nào Là Công Chính ! Giuse Nguyễn Cao Luật op : Ai Tôn Mình Lên Sẽ Bị Hạ Xuống Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Khiêm Nhường Cầu Nguyện Bernard Huỳnh Hữu Phúc op: Cầu Nguyện Với Tâm Hồn Khiêm Cung Fr. Jude Siciliano, op : Xin Chúa Sửa Đổi Con Đỗ Lực op : Cuộc Trần Ai, Ai Dễ Hơn Ai ? Fr. Jude Siciliano, op : Người khiêm nhường được Chúa đoái nghe Fr. Jude Siciliano, op: Lạy Chúa, xin thương xót con
Hãy
Nhận Ra Chính Mình Sứ điệp Lời Chúa Tin mừng chúa nhật 30 thường niên C là dụ ngôn người thu thuế và người Pharisêu. Mặc dầu hai người này được xem là hai mẫu người tiêu biểu, đại diện cho người tội lỗi (người thu thuế) và người đạo đức (người Pharisêu), nhưng họ không phải là tiêu biểu cho toàn thể những người mà họ đại diện. Chắc chắn là có nhiều người Pharisêu "tốt hơn" người Pharisêu trong câu chuyện này và nhiều người thu thuế khác cũng vậy. Có lẽ Ðức Giêsu không muốn nói những con người cụ thể cũng như những cách sống cụ thể. Dụ ngôn này muốn nói đến Thiên Chúa chấp nhận người tội lỗi hoán cải, và không chấp nhận người chỉ tin vào sự công chính của riêng mình. Như thế, tin nhận Thiên Chúa, sấp mình trước nhan Người thì hơn là bằng lòng với những thành quả đạo đức cá nhân. Suy niệm Trong xã hội Do Thái, thời Ðức Giêsu có ba việc mà người đạo đức phải thực hiện suốt đời mình, đó là: cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Người Pharisêu trong câu chuyện hôm nay là một người đạo đức. Ông hãnh diện về việc chu toàn lề luật, ăn chay... Ông thực là một người đạo đức, được mọi người chung quanh tôn trọng. "Khiêm tốn là dám chấp nhận những gì mình có được để phục vụ cộng đoàn". Người Pharisêu có thể được coi là "người khiêm tốn", nhưng ông hết khiêm tốn khi đánh giá những việc làm của mình và khinh khi người khác. Hơn thế nữa, trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là con số zêrô lớn. Ông hết khiêm tốn khi hãnh diện về những việc đã làm và tự đánh giá mình "hạnh kiểm loại A" trước mặt Thiên Chúa. Sự công chính của một người không phải chỉ là những thành quả cá nhân trong đời sống đạo đức, nhưng còn phải tin vào Thiên Chúa và mở lòng đón nhận ơn cứu độ đến từ Người. Nói như thế không phải muốn làm giảm nhẹ những việc đạo đức cá nhân, nhưng việc đạo đức cá nhân đó phải được thực hiện với lòng tin, cậy, mến yêu Thiên Chúa, đồng thời không coi thường người khác. Ðời sống của các vị thánh là một bằng chứng rõ nét. Phong thánh cho một người là đặt người đó làm kiểu mẫu, chuẩn mực, tiêu biểu cho đức tin, cậy, mến Kitô giáo (canonization nghĩa là chuẩn mực hóa, hay còn nghĩa là phong Thánh). Các vị thánh thực hiện các nhân đức như thương người, khổ chế, cầu nguyện... vì các vị tin vào Thiên Chúa "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn". Nếu không thế, các vị chỉ là những vĩ nhân của cuộc đời. Vả lại, các việc đạo đức các vị làm được không cầu mong được "cấp bằng khen", "giải thưởng" này khác (chắc chắn Mẹ Têrêsa Calcutta không mong những giải thưởng đời ban tặng, nhưng thực tế, Mẹ có nhiều giải thưởng.). Người thu thuế trong dụ ngôn là người nhận mình chẳng có nghĩa lý gì trước mặt Thiên Chúa. Ông là người bị xã hội Do Thái đánh giá là người tội lỗi. Những người chung quanh - nhất là "những người đạo đức" coi thường ông. Ông đứng xa xa, cầu nguyện như một người đầy mặc cảm vì bị coi thường, nhưng cũng như một người đầy lòng khiêm tốn "không dám ngước mặt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: 'Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội'". Ông cần Thiên Chúa thương xót và cứu độ. Lòng đầy tin tưởng và cần đến Thiên Chúa đã được Thiên Chúa chuẩn nhận "người này ra về được khỏi tội". Cho dù ông có thực sự tội lỗi đến đâu, lời Ðức Giêsu nói đã công chính hóa ông. Thiên Chúa luôn là Ðấng đưa tay cứu vớt con người khi họ biết đưa tay cầu cứu Người. Sự công chính của mỗi người cũng bắt đầu từ lúc họ biết đấm ngực, cúi mình xuống và xin Thiên Chúa thương xót. Phải chăng chúng ta là người "đạo đức" - theo kiểu Pharisêu - hay chúng ta là người "công chính" vì cần đến Thiên Chúa cứu độ - như người thu thuế. Lời nguyện hiệp lễ Lạy Chúa Giêsu, là Ðức Chúa và là Cứu Chúa của con. Trong tay Ngài, con được an toàn. Nếu Ngài gìn giữ con, nào con sợ chi. Nếu Ngài ruồng bỏ con, con không còn gì để hy vọng nữa. Con xin Chúa ban điều tốt nhất cho con, và con xin phó thác hoàn toàn cho Chúa. Hồng y Newman
TỰ TRỌNG Cầu nguyện là đặc điểm của con người. Cầu nguyện là hơi thở của các tín hữu. Nhưng đâu là bản chất và hình thức cầu nguyện đích thực. Hôm nay, Ðức Giêsu trình bày những điều kiện sâu xa cần thiết cho việc cầu nguyện. HAI LỜI CẦU NGUYỆN. Cầu nguyện là một hành vi đạo đức. Nhưng việc đạo đức đó cũng có thể trở thành vô đạo đức, nếu con người không biết tự trọng. Lời cầu nguyện hão huyền chỉ dựa trên những điều hư không. Hư không đích thực và lớn nhất trên trần gian này chính là cái tôi. "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện." (Lc 18:10) Cả hai người đều thờ một Chúa, đều ở trong một đền thờ, đều đang làm một hành vi đạo đức cao cả nhất. Một trong hai người cầu nguyện trong đền thờ là ông Pharisêu. Từ tâm tình, cung cách đến lời nói đều không thích hợp với việc cầu nguyện. "Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng : “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao người khác : tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia." (Lc 18:11) Ông xác định thế đứng của minh trong tương quan với người thu thuế. Khi so sánh, ông mới thấy mình cao vượt hơn mọi người về mặt đạo đức. Trong khi mọi người sống ích kỷ, xa hoa, trác táng, ông chỉ lo việc đạo đức. Trong việc đạo đức, ông là người rất kỷ luật và sốt sắng. Ông cầu nguyện thường xuyên và giữ Luật Thiên Chúa. Ôn vượt trên cả những đòi hỏi của lề luật. Trong khi luật chỉ đòi ăn chay mội năm một lần vào Ngày Xá Tội Vong Ân, ông ăn chay một tuần hai lần vào thứ hai và thứ năm. Ông kể lể với Chúa : "Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con." (Lc 18:12) Thái độ tự mãn đã không cho ông nhìn thấy sự thật về mình và người khác nữa. Như vậy ông còn cần gì đến Chúa nữa không ? Vậy tại sao ông lại vào đền thờ ? Thực ra ông quan niệm cầu nguyện chỉ là việc đổi chác theo lẽ công bình, chứ không phải là một ân sủng. Trong khi đó, người thu thuế hoàn toàn ý thức tự bản chất cầu nguyện chỉ là xin Chúa thương xót. Ông cảm thấy phải tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nhìn cung cách ông cầu nguyện cũng có thể thấy được tất cả tâm tình của ông. "Người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời." (Lc 18:13) Cung cách đó cho thấy một khoảng cách giữa Thiên Chúa cực thánh và con người tội lỗi. Nếu Chúa không thương xót, khoảng cách đó không bao giờ lấp đầy được. Ông thành tâm cầu nguyện, "vừa đấm ngực vừa thưa rằng : “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi." (Lc 18:13) Ông nhận sự thật về mình, chứ không dám so sánh với ai. Ông chỉ biết tương quan giữa Thiên Chúa và mình là một tương quan bất tương xứng. Nhưng ông tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của lòng Chúa xót thương sẽ xóa nhòa biên giới giữa cõi thánh thiêng và trần tục. Dụ ngôn hôm nay mạc khải một lúc hai tương quan. Tương quan giữa Thiên Chúa và con người không thể ổn định nếu tương quan giữa con người với nhau không tốt đẹp. Trong dụ ngôn này, rõ ràng ông Pharisêu tập trung hoàn toàn vào cái tôi của mình. Không thông cảm với người khác, làm sao ông có thể đòi Thiên Chúa cảm thông với mình ? Ðó là lý do tại sao ông thất bại trong việc cầu nguyện. Ông không làm đẹp lòng Chúa như mình tưởng. Thật là công dã tràng bao nhiêu khó nhọc trong việc giữ luật và đóng góp vào đền thờ. Trái lại, dù không có những việc đạo đức như ông, người thu thuế "đã được nên công chính" (Lc 18:14) vì đã hết lòng cầu khẩn Chúa xót thương đến thân phận mình. Ông không có công trạng gì để tự hào. Khi nhìn lại mình, ông chỉ thấy một vực thẳm tội lỗi. Nhìn lên Thiên Chúa, ông lại thấy vực thẳm đầy ân sủng, "ân sủng tự bản chất đầy lòng thương xót và tha thứ." (NIB 1995:343) Trái lại, ông Pharisêu không hề cầu xin Chúa tha thứ hay thương xót, nên tình trạng ông trước sau như một. Ông coi mình hoàn hảo về mọi phương diện, nên cầu nguyện đối với ông là đòi nợ. Thiên Chúa chẳng nợ ai cả, tại sao ông lại biến Thiên Chúa thành con nợ ? Lời cầu của ông hoàn toàn dựa trên công trạng riêng, chứ không trên tình yêu Thiên Chúa. Ông nói bằng một ngôn ngữ lạ hoắc. Thiên Chúa không hiểu ông muốn nói gì. Ông tin Chúa. Nhưng ông tin mình hơn. Thế mới biết tại sao Ðức Giêsu lại nói có "một số người tự hào cho mình là người công chính mà khinh chê người khác." (Lc 18:9) Những hạng công chính như thế không bao giờ là đối tượng của sứ mệnh cứu độ. Nói khác, ơn cứu độ không dành cho những người kiêu ngạo. Bởi đấy Chúa mới nói : "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5: 32) Chỉ những người tội lỗi mới hiểu được Chúa. Ngược lại, chỉ Chúa mới thông cảm với người tội lỗi, vì chính Chúa đã từng đi sát với họ, đến nỗi bị mang tiếng là "bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi." (Lc 7:34) Người tội lỗi hoàn toàn tay trắng trước nhan Chúa. Họ cũng là một hạng người nghèo về tinh thần. Họ không có gì để kể lể. Lời cầu nguyện của họ thật là vắn tắt và đơn sơ, nhưng đầy ý nghĩa đối với Chúa. "Ông đã chẳng cho đi cái gì, nhưng đã nhận được tất cả." (Faley 1994:696) PHARISÊU THỜI ÐẠI. Thánh Phaolô cũng đã từng là Pharisêu hạng gộc. Nhưng thánh nhân đã trải qua một kinh nghiệm đau thương và đã thấy được tất cả bộ mặt thật của những hạng "người tự hào cho mình là công chính." Nhưng giờ đây Người không tự cho mình là công chính, nhưng hi vọng được vinh dự ấy : "Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính." (2 Tm 4:8) Thánh nhân cũng cảm thấy tự hào khi nói : "Nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng." (2 Tm 4:17) Thế nhưng, khác với đồng môn xưa, Người qui hướng tất cả về Thiên Chúa, Ðấng "đã ban sức mạnh cho tôi." (2 Tm 4:17) Ðó là lý do tại sao Người đầy hứng khởi khi "chúc tụng Chúa vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen " (2 Tm 4:18) Khác với thái độ ngông nghênh của ông Pharisêu, thánh nhân thú nhận : "Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Ðồ, tôi không đáng được gọi là Tông Ðồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa." (1 Cr 15:9-10) Ơn Chúa vô cùng sung mãn đã bù đắp được tất cả những thiếu sót quá khứ và đưa thánh nhân vào một tương quan hoàn toàn mới với Thiên Chúa và tha nhân. Tương quan giữa con người với Thiên Chúa và với anh em đang đổ vỡ. Khủng bố và chiến tranh là bằng chứng cho thấy vẫn còn nhiều Pharisêu trong cộng đồng nhân loại. Thượng phụ Igace IV Hazim đã vạch mặt chỉ tên: "Chính phủ Hoa Kỳ vô tình cho người ta cảm tưởng họ đang tìm cách thống trị thế giới,"(CWNews 22/10/2001) trong khi họ vẫn tỏ ra nhân đạo qua chính sách viện trợ. Nhân đạo chỉ là phấn son che đậy những nét cao ngạo trên gương mặt Âu Mỹ. Giống như Pharisêu, họ xuất hiện trước nhan Chúa với một tay đầy ắp công đức, một tay ngổn ngang bom đạn. Thử hỏi có thể lập tương quan với Thiên Chúa trong khi tương quan con người bị gẫy đổ không ? Tương quan nhân loại hôm nay cần phải được điều chỉnh lại. Nếu không, nhân loại sẽ trở về thời ăn lông ở lỗ, xây dựng cuộc sống trên luật báo thù. Theo phái đoàn Vatican tại Liên Hiệp Quốc, cuộc không kích vào Afghanistan là "những hành động bào thù, không loại trừ được các nguyên nhân gây nên khủng bố." (CWNews 23/10/2001) Ðức Tổng Giám mục Martino cho biết cần phải "loại bỏ các yếu tố hiển nhiên tạo nên những điều kiện dễ dàng sinh ra thù hận và bạo lực. Việc phủ nhận nhân phẩm, thiếu tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản, việc loại trừ một số người khỏi đặc quyền xã hội, những nơi tị nạn không thể chịu đựng nổi, và sự đàn áp về thân thể cũng như tâm lý là những mảnh đất mầu mỡ sẵn sàng cho bọn khủng bố khai thác. Bởi đấy, bất cứ chiến dịch chống khủng bố nào cũng cần đưa ra các hoàn cảnh xã hội, kinh tế, và chính trị nuôi dưỡng mầm mống khủng bố, bạo lực, và xung đột." (CWNews 23/10/2001)
Khiêm Tốn
Trong lời Nguyện Tuần này chúng ta tiếp tục đề tài cầu nguyện, nhưng nhìn từ khía cạnh khác. Tuần trước, kiên trì nài nỉ. Tuần này thái độ, trong dụ ngôn người thu thuế và người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện. Nhìn chung, câu chuyện thật buồn và mang tính cảnh giác cao, không nên tự mãn kể công, nhưng phải chân thật thú nhận tội lỗi tự đáy tâm can. Thưa quý vị. Người biệt phái trong Tin Mừng hôm nay dự tính bắt bí Ðức Chúa Trời. Trong lời cầu nguyện, ông ta khoe với Ngài là ông ta vượt xa người Do thái khác về lòng đạo đức. Theo luật lệ thì chỉ buộc ăn chay trong ngày đền tội (the Day of Atonement). Nhưng ông ăn chay một tuần hai ngày. Cũng theo luật lệ thì người Do Thái chỉ buộc nộp thuế thập phân trên súc vật và thực phẩm quý báu. Ðằng này, ông nộp trên mọi thu nhập của gia đình. Như thế không những ông nộp thuế để duy trì đền thờ, các hoạt động tôn giáo mà còn góp phần vào công việc từ thiện, bác ái. Ai có thể chê bai ông được ? Cứ theo tiêu chuẩn ngày nay thì chúng ta phải xếp ông vào bậc ân nhân trong giáo xứ, đáng nêu gương cho tín hữu khác noi theo. Nhưng khi ra khỏi đền thờ lại bị Chúa Giêsu đánh giá không được nên "công chính" như người thu thuế. Vì ông đã đi sai con đường Ngài muốn. Tức con đường chân thật mà mọi người phải có trước mặt Ðức Chúa Trời. Ông đã tự lừa dối khi cầu nguyện. Ông đã nâng mình lên làm gương mẫu cho người khác, trong khi trước mặt Giavê mọi người chỉ là tội nhân, phải khiêm nhường ăn năn thống hối. Câu chuyện thật đáng sợ, làm các tín hữu năng đi nhà thờ phải nổi da gà, sởn tóc gáy, lạnh xương sống. Bởi chúng ta cũng hành động như ông Biệt phái, cũng bỏ tiền rộng rãi vào giỏ lạc quyên, cũng đóng góp to lớn vào quỹ xây dựng thánh đường, các công trình nhà xứ, các hội từ thiện bác ái. Hơn nữa chúng ta cũng từng xung phong trong các công việc chung. Vậy thì còn thiếu điều chi? Thực tế chúng ta đã được hàng xứ công nhận, chiếm được lòng tin cậy của họ và có thể là chỗ dựa cho nhiều người. Tất cả đều là gương mẫu. Vậy mà dụ ngôn hôm nay vẫn ám chỉ về chúng ta, vẫn làm cho chúng ta nao nao. Cho nên cần xem lại cách sống đạo của mình, thái độ của mình đối với người khác, nhất là các động lực thúc đẩy mình thi hành bổn phận đạo đức. Chúng ta gia nhập đoàn hội nhằm mục tiêu nào ? Ðể tiến bộ thiêng liêng hay để khoe khoang, dùng người khác như bàn đạp ngõ hầu đạt tới danh vọng, địa vị, tiền tài. Xin hãy suy nghĩ kỹ hơn về ý nghĩa dụ ngôn, để nó soi sáng mình, nhất là tâm hồn cầu nguyện của mình. Trước hết, một vài lời bênh vực ông Biệt phái. Trong xã hội Do Thái lúc ấy, các Biệt phái là những cột trụ đức tin trong đạo Môsê. Tình hình chính trị thì rõ ràng dân chúng phải sống khốn đốn dưới sự cai trị của người La- mã, và ảnh hưởng nặng nề của văn hoá ngoại lai, vô đạo. Nhiều người Do Thái đã thoái hoá, lơ là lề luật tôn giáo, chạy theo nếp sống xa hoa vật chất, tương tự như một bộ phận tín hữu trong các đô thị lớn của chúng ta ngày nay. Việc giữ đạo của họ thực chất chỉ còn cái vỏ bên ngoài, bên trong là tiền bạc, dục vọng, tham sân si nặng nề. Trong bối cảnh đó, đảng Biệt phái quả là can đảm, đáng khâm phục, bởi họ sống chống lại trào lưu, tuân giữ lề luật Môisê, truyền thống của cha ông một cách nghiêm ngặt. Như vậy đáng lẽ họ được Chúa Giêsu yêu mến, lượng giá cao. Nhưng thực tế lại bị Chúa chê bai. Người Biệt phái trong dụ ngôn xem ra vượt xa lòng đạo đức của người tín hữu Do thái tốt, nhưng lại làm sai lạc ý nghĩa về Thiên Chúa và không biết trái tim Giavê nằm ở đâu. Chúa Giêsu chỉ cho ông (và cả chúng ta) trái tim Ngài nằm ở con người thu thuế hối cải. Rõ ràng hợp lý cách lạ lùng, không ai có thể tưởng tượng tới được. Xin lưu ý tính khoe khoang trong lời cầu nguyện của người Biệt phái, Phúc âm mô tả: "Ông ta đứng thẳng nguyện thầm rằng: Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia." Ông ta đâu có cầu nguyện, ông kể công trước mặt Ðức Chúa Trời. Lời cầu của ông không hướng về Thiên Chúa, không mở lòng ra cho Ngài, không xin ơn tha thứ tội lỗi mà ông đã xúc phạm rất nhiều trong quá trình sống. Ông khoe mình và các việc lành ông đã thực hiện, ông kiêu ngạo, chỉ thích nghe kể về mình, bằng lòng với nếp sống "đạo đức" của mình, khinh dễ kẻ khác, cái nhìn của ông ta không thoát khỏi bản thân, tức trệch hướng. Chính ra ông phải nhìn lên Thượng đế để nhận ra lòng thương xót của Ngài trên bản thân ông. Ðây cũng là cái lỗi chung của mọi tín hữu. Chúng ta thường xuyên không tạ ơn, ca ngợi Thiên Chúa khi cầu nguyện mà chỉ tập trung về mình, cầu xin cho các nhu cầu của mình hay của thân nhân, trong khi chính yếu chúng ta phải xin cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến. như Chúa Giêsu đã dạy trong kinh Lạy Cha. Một trong các lý do cầu nguyện là để lắng nghe tiếng Chúa nói trong linh hồn, lay động chúng ta khỏi u mê, say đắm thế gian. Tức cầu nguyện để thay đổi mình, làm cho mình ý thức hơn về lòng thương xót của Chúa. Ðấng đã kiên nhẫn tha thứ cho mình rất nhiều. Từ đó chúng ta rộng lòng cảm thông và tha thứ cho người khác. Họ cũng đang vật lộn để thay đổi bản thân. Người Pharisêu không nhận ra được giới hạn của mình, hay của nhân loại nói chung. Ông đã không nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa bao la, sẵn sàng tha thứ cho những ai thật lòng sám hối. Cho nên ông đã vội vàng phán đoán sai lệch về người thu thuế. Trong khi đó người thu thuế ý thức được mình tội lỗi, cần đến Thiên Chúa xót thương, giúp đỡ mình thoát khỏi tình trạng khốn khó. Ông không thể tự thân thoát ra khỏi ngục tù. Ông cầu xin Giavê tha thứ. Tâm trí ông hướng về trời cao, chứ không về mình, tin tưởng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu giúp. Và bởi vì cầu nguyện thay đổi con người, cho nên hậu quả của hai người khác nhau. Người Pharisêu ở trong tình trạng cũ, không đổi thay. Người thu thuế trở về nhà thì được nên công chính. Ông đã ở trong tương giao hợp lý với Thiên Chúa. Mắt ông đã được mở rộng. Trái lại, người Biệt phái vẫn còn trong u tối của mình. Ðây là bài học lớn cho mỗi tín hữu. Khi cầu nguyện chúng ta phải thay đổi, không đổi thay kể như không cầu nguyện. Câu nói của Chúa Giêsu chỉ rõ như vậy: "Người này khi trở xuống mà về nhà, thì được nên công chính rồi, còn người kia thì không". Tức là ông vẫn y nguyên như cũ, vẫn tự lừa dối mình trong đường "thánh thiện" luật định, không thay đổi chi cả. Các tác giả chú giải thánh kinh đều đồng ý như vậy. Ví dụ J. Pirot viết bằng tiếng Pháp: "C'est-à-dire dans l'illusion de sa propre justice" (nghĩa là trong ảo tưởng về sự công chính riêng của mình) chứ không phải là sự công chính Ðức Chúa Trời mặc cho nhờ bửu huyết của Chúa Giêsu. Nói cách khác, chưa được Chúa thương xót tha tội. Cho nên việc cải hoá khi nguyện cầu là tối quan trọng cho người tín hữu, bất kỳ là ai, giáo dân hay các đấng, các bậc tu sĩ, linh mục. Thường thường, sau khi chữa lành một ai, Chúa Giêsu tuyên bố: "Lòng tin của ngươi đã chữa ngươi." Như vậy đức tin là căn bản cho người ta nhận được ơn lành. Nó cho phép chúng ta tin cậy vào sự bảo đảm của Chúa Giêsu rằng Thiên Chúa về phe với mình. Ngài muốn cho chúng ta được lành mạnh. Tuy nhiên trong câu chuyện hôm nay, người thu thuế được Chúa thương tha thứ. Cuộc đời ông thay đổi lớn lao trong tâm hồn, nhưng chẳng có dấu chỉ nào bên ngoài. Khi hai người bước ra khỏi đền thờ, dáng điệu họ hoàn toàn giống như lúc họ tới. Thiên hạ vẫn trông thấy họ như ngươi bình thường. Ông Biệt phái vẫn đạo mạo, được dân chúng kính nể, ông về nhà ăn chay hai ngày một tuần, thứ hai và thứ sáu, nộp thuế thập phân rộng rãi trên nguồn lợi gia đình, giữ nghiêm ngặt các luật lệ tôn giáo. Còn người thu thuế, có lẽ cũng vẫn như trước. Nhưng chúng ta có thể dự đoán ông đã thay đổi nếp sống, tin tưởng rằng mình đã được Thiên Chúa thứ tha. Hạnh kiểm của ông khá hơn, đối xử với vợ con, tha nhân hiền hậu hơn theo tiêu chuẩn của lòng Chúa xót thương mà ông đã nhận được. Phúc âm không kể ra điều này, tất cả những chi chúng ta biết được là bề ngoài ông không thay đổi, vẫn bị đồng bào khinh bỉ như kẻ thu thuế tội lỗi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã tuyên bố ông được công chính hoá, làm bạn hữu với Thiên Chúa, ở trong tương giao tốt lành với Ngài. Căn cứ vào lời cầu nguyện của hai người, chúng ta nhận ra được sự khác biệt, nêu rõ tâm trạng của từng nhân vật trước tôn nhan Thiên Chúa. Người Biệt phái nói: "Tôi xin tạ ơn Chúa, tôi không như bao kẻ khác, tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, tôi dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của tôi". Tất cả 5 chữ tôi, một sự khoe khoang không thể tưởng tượng, ông làm chủ lời cầu nguyện của mình. Còn người thu thuế khiêm nhường hơn, lời cầu xin của ông rất ngắn, chỉ vỏn vẹn như sau: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi". Ông không làm chủ mà chỉ là kẻ thụ ơn lòng xót thương của Thiên Chúa. Ông mở rộng lòng ra để đón nhận tình yêu Thiên Chúa vào lòng. Hai tâm trạng trái ngược nhau. Người Biệt phái bộc lộ mình là người tự cao, tự đại, điều khiển cuộc sống theo ý mình, là chủ trong tương giao với Thiên Chúa, không có chỗ cho Ngài hành động trong sinh hoạt của mình. Chúa Giêsu không ưa thái độ này, Ngài năng nêu tên họ như kẻ giả hình. Tôi đếm trong Phúc âm tất cả 15 lần: "Khốn cho các ngươi, hỡi những người Pharisêu và ký lục, các ngươi giả hình,.. (Lc 11,42). Trong cuộc sống riêng tư, có lẽ chúng ta vẫn thường mắc phải não trạng biệt phái, vụ hình thức, ích kỉ và tham lam. Bởi lẽ chất liệu để làm nên biệt phái vẫn còn đầy ắp trong Giáo Hội. Phải khó khăn lắm mới có thể lương thiện với ơn gọi của mình. Chúng ta cần Lời Chúa để gọt giũa tâm hồn. Vì Lời Ngài giải phóng ta khỏi lầm lạc, tự kiêu, ảo tưởng. Thực sự, đây là lúc chúng ta phải tỏ ra thành thật với chính mình và nhận ra ý định của Thiên Chúa muốn tưới gội ơn lành cho chúng ta, nhờ sự dẫn dắt của dụ ngôn hôm nay. Chúng ta luôn thất bại về luân lý trước mặt Thiên Chúa, không sống đúng với chương trình Ngài dự định cho mình! Vậy không thể nhận vị trí của người Biệt phái được: "Tôi không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc như tên thu thuế kia". Câu thành ngữ thêm vào: "Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên". Thánh Luca đã nhắc đến một trường hợp khác, tức dụ ngôn các khách mời dự tiệc cưới (14,15). Thánh Matthêu viết khác đi một chút: "Những kẻ đứng trước tiên sẽ phải xuống hạng chót và kẻ hạng chót sẽ được lên hàng đầu." Thiên Chúa thấu suốt mọi tâm can, sẽ lượng giá chúng ta theo tiêu chuẩn của Ngài, chứ không phải của thế gian. Ngài thấu rõ mọi hành động của chúng ta là do tư tưởng thực sự nào, chứ không phải dáng vẻ bên ngoài. Do đó, xin thành thực với chính mình trước Thánh thể trong thánh lễ hôm nay. Chẳng một ai trong chúng ta là hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa. Thánh thể không phải là chỗ để chúng ta lừa dối mình, sống trong ảo tưởng, vụ lợi mà là nơi để bày tỏ tấm lòng thành thật, lương thiện. Chúng ta đến trước mặt Chúa là để xin ơn tha thứ tội lỗi, ca tụng lòng thương xót của Ngài. Ngài ban lương thực để trợ giúp chúng ta thay đổi cuộc sống cho am hợp với đường lối Phúc âm hơn. Mặc dù bề ngoài không có chi đổi thay. Nhưng lương tâm được Ngài thanh luyện, dẫn dắt, trên con đường thánh thiện thực sự. Nhờ đó các hành vi bên ngoài có sự tiến bộ. Chúng ta sẽ trở nên lương thiện, ngay chính, bác ái, công bằng hơn. Bớt đi nhưng thói giả hình, lường gạt, quanh co, những tính hư nết xấu; rượu chè say sưa, ươn lười, hưởng thụ, ghen tương,. Nguyên do là bởi lúc này Thiên Chúa là chủ thể các lời cầu nguyện của chúng ta, chứ không phải đứng nghe chúng ta khoe khoang thành tích. Chúng ta sẽ là kẻ thụ hưởng ơn lành biến đổi, giống như người thu thuế trở về nhà được nên công chính. Có lẽ đó là ước nguyện của mọi tín hữu ngày nay vậy. Amen.
Thế Nào Là
Công Chính ! Thưa quý vị. Bài đọc thứ nhất và bài đọc thứ ba Chúa Nhật hôm nay vẫn còn tiếp tục đề tài cầu nguyện như những Chúa Nhật trước. Một trong hai bài đọc đều có thể giúp chúng ta suy niệm thấu đáo về cầu nguyện. Tuy nhiên kịch tính giữa người thu thuế và người Pharisêô của bài Tin mừng thu hút tâm trí thính giả hơn cả, nên chúng ta chẳng thể bỏ qua. Dầu vậy xin hãy rảo qua ông Sirach đã. Sách Sirach là một phần của truyền thống khôn ngoan Do Thái. Nhà thông thái Giêsu Ben Sirach đã viết sách đó khoảng năm 180 trước Công Nguyên. Nó tiêu biểu cho đức tin Do Thái giáo suốt kỷ nguyên Hy lạp. Trong quy điển Kinh thánh Do Thái nó đứng ở cuối bảng cho nên chứa đựng học thuyết về cầu nguyện rất cao độ. Nên biết, văn chương khôn ngoan là loại văn chương rút ra từ kinh nghiệm sống lâu dài. Nó có mục tiêu truyền đạt cho các thế hệ tương lai những lời nhắn nhủ hữu ích nhất. Những cuộc đời tốt lành được hưởng phần thưởng. Những cuộc đời tồi tệ sẽ phải sụp đổ và chịu hình phạt. Vậy sự khôn ngoan là ân huệ phát xuất từ Thiên Chúa, giúp con người sống ngay lành, thánh thiện. Nếu chúng ta muốn được thành công trong mọi việc làm, chúng ta phải để tai nghe những giáo huấn của ông Sirach và những nhà khôn ngoan khác của Thánh kinh. Bài đọc Chúa Nhật hôm nay trích từ phân đoạn khá dài (34, 18 - 35, 20) nói về việc thờ phượng cho xứng đáng. Nó được chọn đọc hôm nay vì tính chất song song với dụ ngôn của Tin Mừng. Trước nhất, ông Sirach gọi Thiên Chúa là Ðức Chúa của sự công chính, Ngài chẳng hề biết thiên tư, tây vị ai, Ngài luôn lắng nghe lời cầu xin của những kẻ nghèo khó hoặc bị áp bức và các kẻ phụng thờ Ngài cách chính trực. Ông Sirach liên kết Ðức chính trực của Thiên Chúa với việc Ngài luôn lắng nghe tiếng kêu van của các kẻ yếu thế. Suy rộng ra, chúng ta chỉ được Ngài nghe lời khi chúng ta sống công chính, không bạc đãi một ai. Ngược lại, nếu chúng ta là căn nguyên của bất cứ một sự bất công nào, thì đừng trông mong Thiên Chúa nghe lời. Lời cầu nguyện của chúng ta thành thật thế nào được khi cuộc sống bất công với người khác ? Hội thánh không có hào luỹ vây quanh nên chúng ta chẳng thể nào sống tách biệt với thế giới bên ngoài, mà phải sống trà chộn với toàn thể nhân loại. Do đó lòng đạo đức của chúng ta trong Giáo hội phải phản ánh đời sống công chính ở giữa thế gian. Hơn nữa, chúng ta cũng không thể làm ngơ nhắm mắt trước những bất công hay áp bức của những cá nhân hoặc tổ chức kinh doanh quốc tế. Thiên Chúa yêu thương tất cả. Nhưng Thiên Chúa của Kinh Thánh luôn về phe với các kẻ yếu thế trong xã hội. Tại sao? Tại vì những người giàu có đã có rất nhiều quyền lực, nhiều chỗ dựa, nhiều liên minh. Còn những kẻ nghèo khổ chẳng có chi cả ! Không ai bênh vực, không biết luật lệ, không người ủng hộ trước mặt xã hội đầy dẫy bất công ! Tất cả những gì người nghèo khổ có được là những tiếng kêu cứu trước mặt Thiên Chúa và lương tâm nhân loại. Họ chỉ có thế thôi và hy vọng được nhận lời. Ông Sirach bảo đảm với họ, tối thiểu, trước Thiên Chúa họ không gặp Ngài nặng tai. Vừa lúc này thì Chúa Giêsu ném vào giữa cộng đồng nhân loại dụ ngôn người thu thuế và người biệt phái lên đền thờ cầu nguyện. Ông biệt phái khoe đủ mọi thứ : Nộp thuế thập phân, đinh lương, bạc hà, không trộm cướp, không ngoại tình, ăn chay, bố thí, v.v… rồi ông khinh dể toàn bộ các "người khác". Ra về ông bị kết án "còn nguyên tội trạng". Người thu thuế chẳng có chi để khoe, ông chỉ đấm ngực ăn năn thú tội, kêu xin lòng Chúa thương xót. Ra về, ông được trắng án. Tự thân chúng ta không thể nào tuyên xưng công chính trước mặt Thiên Chúa. Dù có thực hiện bao nhiêu việc lành đi nữa, chúng ta vẫn là tội nhân ! không có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải lắng nghe. Vậy thì phải làm thế nào ? Thánh Luca đã "bật mí" cho chúng ta bí quyết phải làm sao để được nhậm lời trong bài Tin mừng tuần trước. Bà goá kiên trì cầu xin ông quan toà thối nát. Bà có một nhu cầu lớn và là gương mặt hoàn toàn không quyền lực. Sức mạnh của bà chính ở chỗ kêu xin kiên trì và bà đã được nhận lời. Chúng ta sẵn sàng về phe với bà. Nhưng bài Tin mừng hôm nay lại khác đối với thính giả của Chúa Giêsu và đối với chúng ta hôm nay. Ông thu thuế phục vụ người La mã bóc lột đồng bào mình, phản bội họ và vì thế bị đồng bào ông ghét cay ghét đắng. Bà goá là mẫu mực của lời cầu nguyện, ông thu thuế không phải vậy. Chúng ta phải nhìn sâu hơn vào dụ ngôn để hiểu được tại sao ông lại được tuyên bố "khỏi tội". Trước hết, chúng ta không nên tự động coi ông biệt phái là một kẻ xấu. Ông tiêu biểu cho những điều tốt đẹp nhất của xã hội tôn giáo thời bấy giờ. Ông phản ánh những âu lo về tôn giáo, tuân giữ các giới luật đến mức độ chi ly và thiên hạ coi ông là nhà đạo đức gương mẫu, ngưỡng mộ đức tin mãnh liệt của ông. Ông tạ ơn Thiên Chúa đã gìn giữ ông khỏi phạm tội. Thính giả thời ấy với não trạng về sự công chính hình thức có lẽ đã tán đồng lời cầu nguyện của người biệt phái này. Nhưng trong khi cảm tạ Thiên Chúa, ông đã tự phụ khẳng định công nghiệp của mình. Lời cầu nguyện của ông toàn là chữ "tôi" đáng ghét. "tôi" ăn chay 2 lần một tuần, "tôi" không như những người khác, "tôi" nộp thuế thập phân … ngay từ lúc mở đầu dụ ngôn thánh Luca đã nói ngay ý định của Chúa Giêsu là nói cho những kẻ tự đắc, coi mình là công chính mà khinh chê người khác. Họ không những khinh khi người biệt phái, mà bất cứ những ai không thuộc về giai cấp đạo đức của mình. Ngược lại, người thu thuế chẳng thể dựa vào đâu mà mong Chúa nghe lời. Ðời ông là một mối bòng bong các việc làm xấu xa. Ông sống trên lưng đồng bào mình. Nhưng tại sao Chúa lại cho ông cơ hội hôm nay ? Ông không thuộc vào hạng người được Chúa sẵn sàng lắng nghe mà Sirach đã mô tả ở phần trên tức các người nghèo khó, bị áp bức hoặc những kẻ phục vụ Thiên Chúa cách ngay chính. Trong lời cầu nguyện ông không hứa cải tổ cuộc đời. Liệu sau khi rời đền thánh, ông có thay đổi lối sống ? Tin mừng chẳng nói. Nhưng có một điều chắc chắn là lời cầu nguyện của ông ta đơn giản, chân thành và khẩn thiết. Ông hoàn toàn tin tưởng vào sự tốt lành và lòng thương xót của Thiên Chúa, không hề khoe khoang công lao của mình. Xét xem cả cuộc đời, ông không có đất đứng để mà cầu xin, toàn là tội lỗi. Vậy khôn ngoan dạy ông đứng trên mảnh đất vững chắc nhất mà khẩn khoản, tức lòng Chúa xót thương. Lập tức ông được nhận lời. Sirach gọi lối cầu nguyện này là của kẻ nghèo hèn xuyên qua tầng mây thẳm (35, 17). Dầu sao ông là kẻ cần đến lòng Chúa tha thứ nhất trong đền thờ ngày hôm ấy. Ðọc dụ ngôn hôm nay, chúng ta thấy giống giọng của điệu thánh Phaolô tông đồ bút chiến chống người Do thái cố chấp. Nhưng Thánh nhân gay gắt hơn nhiều. Ai được tuyên xưng công chính hoá trước mặt Thiên Chúa ? Và trên nền tảng nào ? Chẳng ai dám tuyên xưng như vậy trên nền tảng các việc làm của mình. Hoàn toàn là nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa qua công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô. Vậy thì bài Tin mừng hôm nay gây hết sức ngạc nhiên cho những ông thánh bà thần giả hình, mình đeo đầy tràng hạt, thẻ kinh, nhưng cuộc sống thì lại có vấn đề. Người biệt phái đã tự đứng riêng ra, tự nhận mình không giống như phần còn lại của nhân loại. Tự thâm tâm chúng ta có tìm thấy ông biệt phái nào ẩn núp trong con người chúng ta không ? Ẩn núp trong các việc đạo đức của chúng ta không ? Chúng ta thực hành bác ái, thương người, hy sinh, ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, ép xác, nhưng nên nhớ chúng ta vẫn thuộc "phần còn lại" của loài người tội lỗi, tham lam, bất lương, giả dối, … giống như ông thu thuế. Vậy trong thánh lễ hôm nay, thành tâm và tha thiết chúng ta đọc ba lần : "Xin Chúa thương xót chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con". "Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh". Người thu thuế đã được trắng án, ra đi bình an. Chúng ta được rước Chúa vào lòng, cũng ra đi với lời khích lệ của ông Sirach : "phụng sự Chúa cho ngay chính". Amen.
Ai Tôn Mình Lên Sẽ Bị Hạ
Xuống Hai mẫu người Theo cái nhìn bên ngoài, hai nhân vật của dụ ngôn đều bắt đầu từ một khởi điểm. Nhưng ... Người biệt phái bước đi chững chạc, hiên ngang. Ông đang ở trong Ðền Thờ nhưng ông cảm thấy thoải mái dễ chịu như đang ở nhà mình : đầu ngẩng cao, mắt nhìn đầy vẻ tự tin. Bản kết toán của ông đầy nét tích cực : ông biết điều đó và ông nói lên. Ông kể ra những con số. Tất cả đều tốt đẹp. Ông tự xếp mình vào số những người suy nghĩ tốt, làm tốt, và có đạo đức : Ông tự nhận mình là người công chính. Nơi ông không có một kẽ hở, không một sự chờ đợi, không một khoảng cách. Ông chiếm trọn cả lớp kịch : vừa là diễn viên, vừa là khán giả. Trên nguyên tắc, ông thưa với Chúa, nhưng trong thực tế, "ông cầu nguyện nơi chính mình". Ông chiêm ngắm chính mình, ông nói với chính mình. Thiên Chúa chỉ là công chúng nghe ông nói và vị Thiên Chúa đó được đổng hoá với lương tâm của ông, một lương tâm hoàn toàn tin chắc vào chính mình. Chỉ có một khoảng cách được thú nhận : ông đứng xa người có tội ... tức là những người khác, những người bị ông coi thường. Ðó là một con người đã đạt tới đích. Ông còn có thể làm gì hơn được nữa ? Chẳng còn một khoảng trống nào để ông băng qua. Ông chỉ còn đợi lãnh triều thiên. Ðó là một con người đã hoàn thành. Làm sao ông có thể tái sinh được ? Trong khi đó, người thu thuế đứng xa xa, phía cuối đền thờ. Trước mắt xã hội, hình ảnh của anh không phải là một hình ảnh dễ thương. Anh không được công nhận là công chính vì đã vi phạm quá nhiều, đã thoả hiệp với tiền tài, với quyền lực. Giờ đây, anh dứng im, không dám ngẩng mặt lên. Anh sẵn sàng chui xuống đất, nếu có thể được. Anh biết rằng mình chưa được sinh ra. Và khi ấy, tất cả đều trở thành có thể. Anh cầu nguyện, anh thưa với Thiên Chúa : "Xin thương xót con." Anh nhận thức trọn vẹn khoảng cách giữa tình trạng con người của anh và sự cao cả của Thiên Chúa, khoảng cách giữa sự "công chính" của anh và sự công chính của Thiên Chúa. Anh tìm kiếm sự liên lạc, tìm kiếm sự gần gũi với Thiên Chúa, một sự hiệp thông mặc dù từ căn bản, có một sự khác biệt : "Con không phải như Thiên Chúa ! Con chỉ là một kẻ tội lỗi ! Chúa có nghe lời con chăng ?" Và khi ấy, tất cả đều có thể.
Khi bước vào đền thờ, mỗi người đều quay trở
về với chính mình. Nhưng ... Còn người kia trở về với sự khốn cùng bên trong của mình. Anh đứng trước nhan Chúa với nền tảng là sự thiếu thốn : bước vào đền thờ, anh đã bỏ lại thế giới tiền bạc, để đi tìm một điều gì khác. Với hai con người như thế, Thiên Chúa sẽ giải quyết cách nào ? Một kẽ hở cho Thiên Chúa Người biệt phát trình bày dài lê thê. Ông cám ơn Thiên Chúa, mà ông nghĩ rằng mình biết rõ, vì đã nâng đỡ, trợ giúp ông, để ông "không như bao kẻ khác". Trong mối tương giao của ông với Thiên Chúa, ông chối bỏ người khác : ông tự loại mình ra khỏi môi trường hoạt động của tình yêu. Ðôi tay ông đã đầy những công phúc, đầu óc ông đầy những xác tín của riêng mình. Ðó chính là thái độ của niềm tin mù quáng. Mọi cánh cửa đều đóng kín : Thiên Chúa không thể vào được. Người thu thuế thì kêu cầu. Bị xã hội chê bỏ, anh nhẫn nại chịu đựng : biết mình xa cách Thiên Chúa, anh chờ đợi. Anh chẳng còn biết bày tỏ với ai nữa, và anh xin Thiên Chúa can thiệp. Ðôi tay anh trống không, anh đợi chờ : đó chính là thái độ của lòng tin. Mọi cánh cửa đều mở toang : Thiên Chúa có thể vào được. Trước hai con người này, Thiên Chúa không chút do dự. Người làm bạn với chàng thu thuế, cùng với anh rời khỏi đền thờ, và bỏ mặc người Biệt phái với các việc lành của ông, để ông ra về một mình. Tại sao thế ? Người biệt phái đã làm những việc đạo đức tốt lành, lại không phải là người công chính ; đang khi đó người thu thuế là kẻ tội lỗi thì được nên công chính. Thiên Chúa có bất công quá không ? Một khi đôi tay đã đầy, lòng trí đã thoả mãn, thì Thiên Chúa sẽ không thể chen vào được. Làm sao Người có thể đến được khi không có chỗ cho Người ? Bởi đó, Thiên Chúa yêu chuộng kẻ khó nghèo không phải chỉ tại họ nghèo, nhưng hơn thế, vì họ cảm thấy mình luôn thiếu thốn và họ chờ đợi. Như vậy, con người luôn phải nhận ra mình nghèo khó trước Thiên Chúa, luôn cần đến sự trợ giúp, cần sự hiện diện của Người. Và quan trọng hơn, điều thiết yếu là con người không được tự nhốt kín sự nghèo khó của mình, nhưng là sống trong thái độ rộng mở. Người nghèo khó, vì nhu cầu cần thiết, luôn biết trông chờ sự giúp đỡ của người khác. Ðó chính là thái độ căn bản của Kitô giáo. Dĩ nhiên, đây không phải là sự nghèo khó vật chất, nhưng là thái độ nghèo khó trong tinh thần. Vẫn có những người túng thiếu cùng cực, nhưng vẫn là một đời sống khép kín. Vẫn có những người có nhiều tài sản vật chất, nhưng lại biết đón chờ, biết mở rộng tâm hổn. Và quan trọng hơn nữa, đó là một thái độ nghèo khó trong đời sống thiêng liêng. Con người không được quyền cậy dựa vào bất cứ hành vi nào để cho rằng mình là người đạo đức, là người đã đạt tới sự thánh thiện. Con người không thể nghĩ rằng mình đã được nên công chính do các việc mình làm. Một khi có quan niệm cho rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện, tức là không cần đến sự trợ giúp, sự can thiệp của Thiên Chúa. Ðó là một thái độ đóng kín, thái độ của con người chỉ biết hướng về mình, chứ không phải về người khác, và nhất là về Thiên Chúa. Con người đó không biết thế nào là sám hối, thế nào là trở về, và như vậy, trong tâm hổn của họ, không có chỗ cho Thiên Chúa. Dù thế nào, dù đạt tới mức độ nào, vẫn phải là người nghèo trước Thiên Chúa, vẫn phải là người cần trợ giúp. Thiên Chúa cần có những cửa ngõ để đi vào, cho dù đôi khi chỉ là một kẽ hở. Cả hai đều cần Như tác giả xác định, Ðức Giêsu đã nói dụ ngôn này với những người tự cho rằng mình là người công chính và khinh miệt người khác. Vào thời Ðức Giêsu, đó là những người biệt phái, những người chấp hành luật pháp cách nghiêm ngặt. Thực ra, các hành vi của người biệt phái thật đáng khen. Có mấy người trong chúng ta thực hành được như ông ta ? Thế nhưng, ông thiếu mất một điều, và đó là điều quan trọng nhất : đó chính là thái độ khiêm tốn, biết trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Chính sự thiếu sót này đã phá tan tất cả cố gắng, tất cả mọi hành động của ông. Ngày nay, trong chúng ta, vẫn có những người nghĩ rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện nhờ những việc tốt của mình, nhờ việc giữ đạo của mình. Tất nhiên, những điều đó rất tốt. Nhưng nếu dựa vào đó để lấy làm thoả mãn, để coi thường người khác thì thật là tai hại. Phải hiểu rằng người Kitô hữu được mời gọi đạt tới sự thánh thiện của Thiên Chúa, và đó là một hành trình dài, hành trình chưa chấm dứt. Một khi tự cho rằng mình đã tới đích, tức là đã ngưng lại, và nguy hiểm hơn nữa, là đã lạc đường, đã mất phương hướng. Mỗi người chúng ta vẫn có thể nhận ra mình, ít là một phần nào đó, qua lời cầu nguyện đầy vẻ tự mãn của người biệt phái. Tuy vậy, không có nghĩa là Ðức Giêsu dạy chúng ta chỉ cần thưa với Thiên Chúa như người thu thuế. Ðiểm nhấn mạnh của Ðức Giêsu là thái độ trước Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà có quyền bỏ những hành vi đạo đức. Không phải người ta cứ sống theo ý thích của mình, để rổi chỉ cần thưa với Thiên Chúa một câu ngắn gọn là được tha thứ, được nên công chính. Thái độ tin tưởng, trông chờ sự trợ giúp của Thiên Chúa không loại bỏ những nỗ lực của con người. Như thế, chúng ta có thể nhìn thấy một mẫu người Kitô hữu đích thực, dựa trên hai nhân vật của bài Tin Mừng. Ðó là một con người luôn cố gắng chu toàn những lời giáo huấn của Thiên Chúa, một con người thi hành trọn vẹn những gì luật pháp quy định, đổng thời cũng là người biết tin tưởng và phó thác cho tình thương của Thiên Chúa. Càng tiến triển, lại càng phải khiêm tốn. Và người khiêm tốn thì được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa làm cho nên công chính. Lạy Chúa, Chúa biết rõ nỗi khốn cùng của con, Chúa thấu hiểu nỗi cô đơn đang vây bọc quanh con, Chúa nhìn thấy tình cảnh yếu đuối và bệnh tật của con, ôi Chúa là Ðấng dựng nên con. Chúa biết tất cả.
Xin nhìn đến con đang hết lòng khiêm nhường và thống hối. Xin nhìn đến con đang tìm đến bên Chúa. Ôi Chúa là Ðấng thương xót, xin đừng nghoảnh mặt làm ngơ.
xin đừng quên kẻ đang khao khát tìm Chúa.
Trong trái tim Chúa, con tìm được chỗ ẩn thân, trong lòng thương xót Chúa, con tìm được nơi an nghỉ. Con kêu lên Chúa cậy nhờ vào tình yêu Chúa dành cho nhân loại. theo Syméon le Nouveau Théologien.
Khiêm nhường cầu nguyện Mỗi khi cầu nguyện, chúng ta tin tưởng và mong ước dẫn tới hiệu quả tốt. Sự thường là như thế, nhưng thực sự nhiều khi lại không phải như thế, bằng chứng là có lần chúng ta cầu nguyện thì được như ý, nhưng cũng không thiếu những lần chúng ta cầu nguyện hoài mà chưa được hay không được. Cũng vậy, có người cầu nguyện thì được Chúa nhận lời, có người thì không. Tại sao vậy ? Có phải chúng ta thiếu điều kiện nào chăng ? Đúng vậy, một trong những yếu tố hay điều kiện quan trọng, đó là thái độ và tâm tình thích hợp. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và tâm tình thích hợp cần có, đó là khiêm tốn, khiêm nhường. Để hiểu biết sức mạnh của khiêm nhường, chúng ta hãy tưởng tượng hay hình dung hai cỗ xe : một cỗ xe được kéo bởi hai con ngựa là nhân đức và kiêu ngạo, còn cỗ xe kia được kéo bởi hai con ngựa là tội lỗi và khiêm nhường. Cả hai xe cùng chạy, nhưng chẳng bao lâu cỗ xe tội lỗi vượt trước cỗ xe nhân đức. Tại sao vậy ? Chắc chắn không phải do khả năng của chính nó, tức là tội lỗi, nhưng bởi sức mạnh của đức khiêm nhường cùng đi chung với nó. Còn cỗ xe kia bị qua mặt, chẳng phải vì nhân đức yếu đuối mà vì sự kiêu ngạo quá nặng nề và to lớn. Điều ấy bảo cho chúng ta biết : đức khiêm nhường, nhờ cố gắng vươn lên, đã thắng được sức cản của tội lỗi, và lên đến trời trước nhất, còn kiêu ngạo, vì nặng nề và to lớn, nên át cả sự nhanh nhẹn của nhân đức, và dễ dàng kéo nó xuống sâu. Về hai cỗ xe này, chúng ta đem áp dụng vào hai người Pha-ri-sêu và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện chúng ta sẽ thấy rõ : người Pha-ri-sêu đã cột chung nhân đức với kiêu ngạo : ông đứng thẳng một cách hiên ngang, tự đắc, ngực ưỡn, đầu ngẩng cao, và mắt có lẽ liếc nhìn người thu thuế một cách khinh bỉ và hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. Ông cầu nguyện gì ? Ông không cầu gì cả, ông kể công với Chúa, ông tự mãn về những gì ông đã làm, ông lên đền thờ để khoe mình chứ không phải để cầu xin với Chúa, nên lời cầu nguyện của ông chẳng những không đưa ông tới gần Chúa mà còn làm cho ông xa Chúa hơn và làm cho Chúa buồn hơn. Trái lại, người thu thuế đã cột chung tội lỗi với khiêm nhường : ông khép nép, khúm núm, đứng mãi đàng xa, không dám đến gần bàn thờ, cũng chẳng dám ngước mắt lên trời, tức là ông tự nhận mình bất xứng, chỉ biết cúi đầu, đấm ngực tỏ lòng ăn năn sám hối. Còn về lời cầu nguyện, ông nói với Chúa chứ không nói về mình, ông chẳng có gì hay để kể cho Chúa nghe, chẳng có công gì để khoe với Chúa và cũng chẳng dám xin gì khác ngoài lòng thương xót của Chúa. Qua đó, chúng ta thấy tại sao cả hai người cùng cầu nguyện, nhưng chỉ có một người đẹp lòng Chúa, được Chúa tha thứ ban ơn, chỉ vì người ấy khiêm nhường, tin tưởng, cậy trông vào tình thương của Chúa, còn người kia tự mãn về những gì ông làm thì ông trở về với những gì ông đã làm, Chúa không ban gì cho ông. Nói rõ hơn, người thu thuế về nhà được công chính hóa, còn người Pha-ri-sêu thì không, đó là kết quả tất yếu : người Pha-ri-sêu đâu có cần đến Chúa, đâu cần Chúa công chính hóa, ông tưởng rằng tự ông có thể mua được sự công chính bằng công trạng của mình, ông đã lầm to, vì được trở nên công chính hay không là một quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho người biết khiêm nhường như người thu thuế đã làm, là ý thức rõ cái tôi tội lỗi, hèn kém, bất lực của mình, thái độ đó Thiên Chúa rất vui lòng, rất đẹp lòng Thiên Chúa. Từ hai nhân vật tiêu biểu về khiêm nhường và kiêu ngạo, được xác định bằng thái độ của họ trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh em, Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát : “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ đựơc tôn lên”. Ai hạ xuống ? ai tôn lên ? Thưa chính Thiên Chúa. Kẻ tự tôn mình lên thì Thiên Chúa hạ xuống, kẻ tự hạ mình xuống thì Thiên Chúa tôn lên. Đó là lối hành động của Thiên Chúa, đó là cách Thiên Chúa trả lời cho kẻ tự đắc, kẻ cho mình là công chính và khinh chê những người khác. Bởi vì chẳng ai có thể tự đắc trước mặt Thiên Chúa, chẳng ai có gì để kể công với Người. Tình thương của Thiên Chúa là tình thương nhưng không, ai xin thì được, còn ai tự cho mình là có quyền đòi thì Thiên Chúa không cho. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, tất cả đều nghèo hèn, cần đến lòng thương xót của Người. Chúng ta là người Pha-ri-sêu hay người thu thuế ? Chắc chắn không ai nhận mình là người Pha-ri-sêu, nhưng chưa chắc đã nhận mình là người thu thuế. Đúng, chúng ta không tự nhận là người Pha-ri-sêu, dù có khi chúng ta còn tệ hơn người Pha-ri-sêu, nhưng chúng ta có dám bắt chước người thu thuế không ? Chúng ta có thể sánh ví việc cầu nguyện của chúng ta cũng giống như chiếc cầu mong manh dẫn chúng ta tới Chúa. Khi đi qua một chiếc cầu nhỏ, bắt ngang bằng những tấm ván hay những khúc cây mong manh, chúng ta phải hết sức cầm trí và ý tứ cẩn thận thế nào, thì khi cầu nguyện chúng ta cũng phải cầm trí và cẩn thận như vậy, tức là chúng ta phải có thái độ khiêm tốn, tin tưởng, cậy trông.
Cầu Nguyện Với Tâm Hồn
Khiêm Cung Bạn có bao giờ tự hào về sự thánh thiện hay những việc làm tốt đẹp của mình chưa ? Thánh Phaolô đã viết: “Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin sẽ làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính” (Rm 4,5). Thế nên, tính kiêu ngạo, tự mãn là đầu mối mọi tội lỗi, nó xấu xa và tác hại hơn bất kỳ tội ác nào. Bài Tin Mừng hôm nay gióng lên hồi chuông cảnh báo những ai chỉ biết cậy vào sức mình, kiêu ngạo, thích tự hào về những việc làm đạo đức, thánh thiện của bản thân. Người Pha-ri-sêu trong trình thuật Tin Mừng của Thánh Luca đến với Chúa bằng một thái độ “kể công”, điều này thể hiện nơi lời cầu nguyện của ông. Xét về mặt làm việc lành phúc đức, người Pha-ri-sêu đã chu toàn bổ phận, nhưng thay vì đến với Chúa bằng tấm lòng khiêm tốn nhìn nhận bản tính yếu đuối của thân phận con người, thì ông lại đem những công trạng của mình để “tính sổ” với Chúa và yêu cầu Thiên Chúa bù đắp tương xứng cho ông. Hơn nữa, ông đã tự nâng mình lên làm gương mẫu cho người khác noi theo, trong khi ông không nhận ra rằng con người chỉ là tội nhân, phải khiêm nhường, ăn năn thống hối trước mặt Thiên Chúa. Hình ảnh người Pha-ri-sêu khiến những tín hữu năng đến nhà thờ, bỏ tiền rộng rãi vào giỏ lạc quyên, đóng góp to lớn vào những quỹ như xây dựng thánh đường, công trình nhà xứ, hội từ thiện bác ái… phải giật mình và tự hỏi những việc làm đạo đức ấy vì mục đích gì ? Phải chăng là để tăng tiến đời sống thiêng liêng hay chỉ vì khoe khoang, phô trương với người đời và mưu cầu danh vọng, địa vị, tiền tài. Khác hẳn cách thức cầu nguyện của người Pha-ri-sêu trong bài Tin Mừng, người thu thuế cầu nguyện với ý thức mình không là gì trước mặt Thiên Chúa. Anh nhận ra tình trạng tội lỗi của mình và thành thật hối hận vì đã lỗi phạm đến Thiên Chúa. Anh thấy mình hoàn toàn bất xứng với Người. Chính thái độ cầu nguyện khiêm cung của người thu thuế đã được Chúa Giêsu chữa lành tâm hồn anh. Thật vậy, tuy tội lỗi làm mất lòng Thiên Chúa nặng nề, nhưng tình yêu được thể hiện bằng tấm lòng khiêm nhượng lại đẹp lòng Thiên Chúa biết bao. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể Cầu nguyện cũng có nghĩa là đối thoại, nhưng đây là một cuộc đối thoại không ngang hàng, cân sức giữa một bên là Thiên Chúa, Đấng toàn năng, giàu lòng thương xót và một bên là con người yếu đuối, tội lỗi. Lạy Chúa ! Xin cho chúng con luôn biết mở lòng để lắng nghe tiếng Chúa, hầu kín múc nguồn ân sủng Chúa trong tâm tình tạ ơn, ca ngợi Ngài. Không những thế, xin giúp chúng con nhận ra những giới hạn nơi bản thân, để chúng con biết cảm thông với những yếu đuối của người anh chị em, và sẵn sàng phó thác, tin cậy vào lòng nhân từ, khoan dung của Thiên Chúa. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể Trước mặt Chúa, tính ích kỷ và kiêu ngạo đã khiến chúng con trở thành bất chính. Thế nên, sự công chính không do ở việc giữ lề luật, nhưng chỉ khi đặt nó trong tương quan với ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại, con người mới trở nên công chính. Amen
XIN
CHÚA SỬA ĐỔI CON Quý vị thân mến, Bài đọc 1 theo sách Huấn ca hôm nay, có mâu thuẫn với lời Chúa Giêsu không? Câu mở đầu đọc rằng:"Chúa là quan án, Người coi thường vinh quang của loài người. Người không vị nể kẻ nghịch với người nghèo khó. Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu..." Những phần còn lại thì diễn tả một cách rất thiên vị "Người đã tỏ thái độ bênh vực người bị áp bức, mồ côi, góa bụa và thấp hèn". Chúa thật thiên vị đoái nhìn những người bị xã hội chúng ta phân biệt đối xử. Sách Huấn ca được viết bằng tiếng Do Thái khoản năm 180 trước Thiên Chúa và 50 năm sau đó được dịch ra tiếng Hy Lạp để phổ biến cho người Do Thái sống trong xã hội Hy Lạp. Sách Huấn Ca trình bày hai yếu tố đặc biệt của một xã hội bất bình đẳng. Đối với những người giàu có đã được Chúa chúc phúc cho việc thiện họ đã làm và địa vị họ trong xã hội, lời Huấn ca có một quan điểm khác. Chúa không thiên vị người giàu có, mặc dù họ có đủ bằng chứng tỏ rằng Chúa đã chấp nhận họ. Trong mọi hoàn cảnh, Chúa muốn bênh vực người nghèo, để ý cách riêng đến lời kêu xin của kẻ thấp hèn. Và vì thế bài Huấn ca này liên hệ đến bài Phúc âm hôm nay. Sách Huấn Ca nói rằng, nếu Chúa đứng về phía người nghèo và người bị áp bức, thì tốt hơn chúng ta cũng nên hướng về phía những người đó. Lẻ công chính buộc: Người có thể giúp được thì nên giúp những người không tự lo cho họ được. Tác giả Diane Bergant (trong sách: with Richard Fragomeni, Preaching the New Lectionary Collegeville: The Liturgical Press,2000) giải thích rỏ về sách Huấn Ca viết bằng tiếng Hy Lạp nói là Chúa không những nghe tiếng kêu xin của người bị áp bức, mà Chúa còn làm hơn nữa. Chúa như tự buộc mình phải đáp lại lời kêu xin một cách cụ thể như lời Ngài đã hứa, Kể cả khi chúng ta; người kêu xin Chúa với nhiều hứa nguyện mà không giử lời. Điều làm ta ngạc nhiên là hai bài trong sách Huấn Ca và Phúc âm nói về những người mà xã hôi không chấp nhận lại là những người mà lời kêu xin được Chúa lắng nghe, và chấp thuận. Phúc âm hôm nay dạy chúng ta rất nhiều về lời cầu nguyện. Thứ nhất, lời cầu nguyện không cần dài dòng. 2 người vào đền thờ đều cầu nguyện trong chốc lát. (Có một giáo sư Thần học đã có lần nói: Lời cầu nguyện có thể thật ngắn như "xin cứu giúp"). Nhưng 2 lời cầu nguyện của 2 người được kể trong phúc âm rất khác nhau. Người Biệt phái dùng chữ "con" 4 lần.Trong lúc ông ta cảm ơn Chúa về những gì ông ta đã có, ông có vẻ như tự vổ vai mình. Theo ý ông thì ông là người độc nhất, đặc biệt nhất. ông ta cảm ơn Chúa là ông ta không giống những người khác" không tham lam, không gian dối, không ngoại tình,..và cũng không giống người thu thuế kia." Theo ý ông thi ông là người xứng đáng. Trong đời ông chắc chỉ cần phải thay đổi một chút thôi. Có lẻ ông ta đọc lời nguyện chứ không cầu nguyện, vì bản thân không thấy cần phải thay đổi nhiều. Chúa cần phải đến để giúp ông ta. Trái lại; chúng ta không nghe tiếng "con" (là chủ từ) trong lời người thu thuế; mà ông ta dùng " với con". "cho con" (là thụ động) Xin Chúa tha tội "cho con". Trong câu này Chúa là chủ động. Xin Chúa thương xót "cho con". Người thu thuế không tự mình thương xót mình, ông cần Chúa tha tội cho ông, thương xót ông và sữa đổi đời ông. Dụ ngôn này thật là rõ ràng và sắc bén, đã làm cho người đọc phải ngạc nhiên. Người Biệt phái không phải là người xấu.Ông đã làm những gì ông phải làm, và đã cố gắng sống theo lề luật. Sự thật ông còn đi xa hơn thế nữa. Ông ta dâng lời kinh tạ ơn Chúa vi ông đã sống một đời sống gương mẫu. Người thu thuế là người làm việc cho đế quốc Roma. Ông ta không được coi trọng, người ta coi ông là người phản bội, phản dân Do Thái và phản Chúa. Nhưng Chúa lại làm cho ông ta; một người có tội; trở nên công chính. Ông ta làm việc mà luật pháp buộc phải làm. và Chúa tha người có tội và làm cho họ trở nên công chính. Điều làm người thu thuế trở nên công chính trước mặt Chúa, không liên hệ gì đến việc thi hành luật pháp hay làm việc hằng ngày trong đời sống của ông. Chúa chấp nhận ông vì ông ta xưng mình là kẻ có tội và hy vọng Chúa tha thứ. Suy cho cùng, chúng ta nên tin vào lòng từu bi của Chúa hơn là dựa vào những cố gắng riêng mình và những gì Chúa cùng gánh vác với chúng ta. Như hai người lên đền thờ cầu nguyện; hôm nay chúng ta đến nhà thờ để cầu nguyện. Hãy bắt chước như người thu thuế, chúng ta chấp nhận chúng ta không hoàn toàn. Chúng ta nhận biết chúng ta phải đưa Chúa ngự vào lòng chúng ta để sữa chữa chúng ta. Trái tim chúng ta có những gì? Trong đời, chúng ta có những gì cần được thay đổi? chúng ta ao ước những gì?, và có gì còn ngăn trở chúng ta? Hôm nay chúng ta tự nhận chúng ta là những người cần phải được thay đổi, và chúng ta sấp mình cầu nguyện trước mặt Chúa. Chúng ta không giống người Biệt phái. Chúng ta không cần phải so sánh chúng ta với kẻ khác.Chúng ta chỉ cần phải nghỉ đến chúng ta mà thôi và thành thật với Chúa. Chúa thấy mọi chổ trống trong lòng chúng ta. và Chúa sẽ lấp đầy những chổ ấy, và tha thứ tội lổi chúng ta. Không ai biết được nơi bàn tiệc thánh hôm nay Chúa sẽ làm gì cho chúng ta. Không ai biết được những thay đổi Chúa sẽ làm khi chúng ta đặt mình vào bàn tay Chúa. Chúng ta có thể nhận ra là: Chúng ta sẽ bớt chỉ trích người khác, Chúng ta sẽ tha thứ cho kẻ khác, Chúng ta sẽ để Chúa xét xử, Chúng ta sẽ quên lỗi lầm và những va chạm của người khác, Chúng ta sẽ ngạc nhiên nhìn thấy người khác tốt hơn. Tóm lại, chúng ta có thể thấy chúng ta bỏ qua nhiều thành kiến và để cho kẻ khác thay đổi đời họ. Chúa thay đổi chúng ta qua lời cầu nguyện hôm nay, thì chúng ta cũng nên để người khác thay đổi. Lời cầu nguyện có ảnh hưởng gì? Có lời cầu nguyện nào xin Chúa hãy thay đổi chúng ta? Phúc âm hôm nay nói là người thu thuế ra về trở thành một người trung trực, nghĩa là được thay đổi nên tốt hơn. Như vậy nghĩa là ông ta có được trung chính trong liên hệ với Chúa. Lời cầu nguyện của ông ta đã thay đổi điều gì trong đời ông ta. Nếu lời cầu nguyện không thay đổi đời chúng ta thì có lẻ chúng ta không để Chúa là chủ động trong lời cầu. Và chúng ta không tự coi mình là thụ động, hảy là người nhận lảnh ơn Chúa như người thu thuế đã làm. Có lẻ chúng ta đã từng cầu nguyện, nhưng trong việc đó, phải thể hiện nhiều ý nguyện hơn là nhiều lời. (Chuyển ngữ Fx Trọng Yên )
Cuộc
Trần Ai, Ai Dễ Hơn Ai ? Sáng nay, lên mạng, tôi say sưa với câu chuyện đầy ý nghĩa “Nắng chiều dọi lên hiên nhà bà Thảo, con Phúc buồn buồn nằm tắm nắng. Những vết thương lở loét trên khắp thân thể nó như đang lành, ngứa ngáy khó chịu nhưng nó không buồn đưa chân lên gãi. Giờ này mấy đứa con nó đều đang lẩn quẩn trong nhà, không dám ra ngoài này vì sợ thằng Bạo nên chẳng ai quấy phá nó. Nó nằm lim dim không ngủ, hồi tưởng về tất cả những gì xảy ra trong đời nó. Cuộc đời nó, lẽ ra cũng êm ả, hạnh phúc như bao nhiêu con chó khác vì nó may mắn có được bà chủ tốt bụng. Bà Thảo thương nó lắm. Ngày nó còn trẻ, sạch sẽ, bà dẫn nó đi nhiều nơi lắm. Bà thương nó như những đứa con của bà. Câu chuyện chỉ bắt đầu từ khi cái gã chủ quán thịt cầy dọn tới ở sát bên nhà.”(1) Ðọc xong, tôi nghĩ ngay tới thân phận người thu thuế trong xã hội đạo đời Do thái ngày xưa. Dưới mắt ông Pharisêu, người thu thuế có khác gì con Phúc ? Nhưng cuộc đời cứ nhìn nhau như vậy, liệu có giải quyết được vấn đề gì không ? Xã hội và Giáo hội đi tới đâu ? KHÚC CA LÊN ÐỀN Tất cả những khó khăn trong cuộc sống đều bắt nguồn từ sự vô minh về bản thân. Hôm nay, Chúa đưa ra hình ảnh hai người đang cầu nguyện trong đền thờ, để mọi người thấy ngay cả đạo đức cũng cần xét lại. Ngay cả trong việc cầu nguyện, chưa chắc đã tìm được sự công chính cần thiết cho Nước Trời. Chính trong tương quan với Thiên Chúa tha nhân, con người có thể xác định bản chất và những công việc của mình. Cầu nguyện với Thiên Chúa trong Ðền thánh không phải là một việc ngoài chợ. Thế mà con người vẫn còn bị những thứ tiếng động quấy phá. Tiếng động không phát xuất từ bên ngoài, nhưng từ chính nội khảm của cái tôi. Không có lời cầu nguyện nào ồn ào như lời nguyện phát xuất từ miệng lưỡi người Pharisêu hôm nay. Ông thấy mình đứng giữa một tương quan hai chiều, với Thiên Chúa và đồng loại. Nhưng cả hai tương quan đều cho thấy ông đang đánh mất chính mình. Trước nhan Chúa, ông khoe khoang mọi việc đạo đức của mình. Làm như Thiên Chúa cũng cần ông mách nước mới khám phá những kỳ công đạo đức trong cuộc đời ! Ðối với tha nhân, tương quan của ông cũng chẳng êm thắm chút nào. Cái tôi của ông phì nộn tới mức báo động. Ông thấy mình vượt xa đồng loại, nhất là người thu thuế đang cầu nguyện với ông trong đền thờ. Tóm lại, ông muốn Thiên Chúa phải khâm phục trước những việc phi thường ông đã thực hiện. Ngay cả sự công chính của con người cũng phải xét lại. Mù quáng và kiêu ngạo chi phối vào tận lời cầu nguyện : “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao người khác : trộm cướp, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.” (Lc 18:11) Những việc đạo đức đã làm ông lóa mắt đến nỗi không nhìn thấy Thiên Chúa và tha nhân nữa. Ðúng hơn, ông muốn biến Thiên Chúa thành một con nợ. Có một khoảng cách giữa niềm tin Thiên Chúa và công việc đạo đức. Dựa trên những việc đó, ông nghĩ mình có thể tự cứu lấy mình. Trái lại, người thu thuế cảm thấy mình hoàn toàn bất lực vì tội lỗi. Ông cảm thấy không thể tự cứu và không xứng đáng xuất hiện trước Thiên Chúa. Tất cả tùy thuộc lòng quảng đại của Thiên Chúa. Bởi đó, ông kêu lên : “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18:13) Nhìn lại mình, ông thấy toàn những công việc bất chính, nhất là đã cộng tác với đế quốc đàn áp dân tộc bằng chính sách sưu cao thuế nặng. Cái nhìn của dân chúng về ông và nhóm người như ông quả không sai. Cùng với những bọn đĩ điếm và ngoại giáo, ông bị xếp vào hạng những người tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu lại thích giao du và ăn uống với hạng người này. Chúa không đến kêu gọi người công chính, nhưng những người tội lỗi (Mt 9:13 và 11:19). Chúa qủa quyết những người thu thuế và bọn đĩ điếm vào Nước Thiên Chúa trước những tư tế và trưởng lão trong dân (Mt 21:31). Chúa biết có những người thu thuế đáng kính, những người trở lại như Lêvi (Mt 10:3), Giakêu (Lc 19:2), hay như người đã gợi hứng cho Chúa nói dụ ngôn này. Chính sự khiêm tốn trong lời cầu nguyện đã làm cho người tội lỗi trở thành người công chính. Lý do vì chỉ có tâm hồn như thế mới thấy và đón nhận được tất cả hồng ân cứu độ của Thiên Chúa. Khi nhìn nhận mình yếu đuối, người thu thuế ngấm ngầm nhìn nhận mình cần một “đấng cứu độ.” Ông nhận biết mình không thể đơn thương độc mã thoát khỏi tình trạng tội lỗi. Ông nói lên sự thiếu thốn của mình và thú nhận mình cần đến Chúa để học cách yêu thương. Còn Pharisêu tự tin mình hoàn hảo, tự mãn và tự cao. Ðây là một bi kịch : ông tin mình có thể sống mà không cần đến Thiên Chúa. Tự thâm tâm, ông luôn ca bài : “Không ! Không ! Tôi không cần yêu ai nữa !” Ông không cần ai, kể cả Thiên Chúa. Thực tế, chỉ những ai nhìn nhận mình “mỏng giòn,” yếu ớt, thiếu thốn mới có thể đọc lên lời kinh thấu đến tận con tim Ðấng Cứu Ðộ. “Lời nguyện của người nghèo vươt ngàn mây thẳm.” (Hc 35:17) Triết gia Emmanuel Levinas cũng nói : “Chỉ khi bị tổn thương, bản thân mới có thể yêu thương tha nhân.” Ðiều đó đúng từ trong sách vở đến ngoài thực tế. Tra tự điển Anh Pháp, chúng ta sẽ thấy chữ “prayer” (prière, cầu nguyện) và “precarious” (précaire, mỏng giòn) đều có cùng gốc La tinh (precarius). Thật là thú vị. Trong mỗi người đều có người thu thuế như thưa lên : “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Con biết sự công chính của con không do chính con, nhưng do Chúa, nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô !” (Rm 3:22) Dụ ngôn không ngừng dạy chúng ta một bài học đơn giản : Chúa cực kỳ thánh thiện, còn chúng ta là những tội nhân. Ðó là điều làm chúng ta xa cách Chúa nhất, nhưng cũng là điều làm chúng ta hướng về Chúa nhất. Thay vì tìm những việc tốt để khoe khoang, nêu cao những công trình, biện minh cho chính mình, chúng ta cần noi gương người thu thuế, nhận thực về mình : “Chính khi ta nói với Thiên Chúa : con hư vô, thì Chúa nói : Ta làm cho con hiện hữu. Chính khi ta nói với Thiên Chúa : con tội lỗi, thì Chúa nói : Ta tha thứ và yêu thương con. Khi tự đặt mình vào số phận chân thật nhất, chúng ta có thể có tất cả, không chỉ cho mình, nhưng còn cho tha nhân. Trái lại, nếu tự phụ, chúng ta sẽ đánh mất tất cả và chẳng làm ích gì cho ai, dù chúng ta có là gì và quyền lực tới đâu. BIẾT MÌNH BIẾT NGƯỜI Vì không biết mình, Pharisêu không thể trở nên công chính. Cá nhân bất chính, xã hội tắc loạn. Nhiều lần Chúa Giêsu khiển trách họ sống công chính theo mã bề ngoài, trong khi bên trong “đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.” (Lc 11:39) Lúc nào miệng cũng hô hào phải tuân giữ lề luật. Nhưng thực tế, họ “xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa.” (Lc 11:42) Không những cá nhân mà cả tập thể tôn giáo và xã hội đều xây dựng trên sự thật ảo. Về phương diện thiêng liêng, những con người giả hình không có khả năng hướng dẫn ai. Suốt đời họ nỗ lực “khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào !” và “làm cho (thiên hạ) đáng xuống hỏa ngục gấp đôi.” (Mt 23:13.15) Về phương diện xã hội, không những họ không bao giờ phục vụ ai, mà còn ra sức bóc lột người nghèo. Bằng chứng, họ “nuốt hết tài sản của các bà góa” (Mt 23:14) để vinh thân phì da. Tôn giáo của họ là một rừng nghi lễ. Một đoàn người theo họ đang lạc lõng bơ vơ như mất định hướng, vì chính họ đã dẹp “bỏ diều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín.” (Mt 23:23) Bởi thế, họ không ngần ngại nhúng tay vào những tội ác như sát hại các ngôn sứ (x. Mt 23:34). Niềm tin Pharisêu là một niềm tin cứng ngắc và đầy hình thức. Niềm tin đó không đem lại sự giải thoát cho nhân loại. Cũng không thể tìm thấy công lý nơi lối sống đạo thiếu chiều sâu đó. “Quả thực, công lý không phải là một khê ước thuần túy nhân loại, vì điều ‘công chính’ trước tiên không phát xuất từ lề luật, nhưng từ căn tính sâu xa của con người quy định.” (2) Nếu không bắt nguồn từ căn tính sâu xa đó, tôn giáo sẽ bất lực trong việc giải quyết mọi vấn đề của con người và xã hội. Công lý cũng không hiện diện trong các tổ chức tôn giáo đó. Dĩ nhiên, “tự bản chất, công lý không đủ. Thực thế, nếu không mở ra đón nhận quyền năng sâu xa hơn, tức tình yêu, công lý có thể phản bội chính mình. Thực vậy, Học Thuyết Xã Hội của Giáo hội đặt giá trị tình liên đới bên cạnh giá trị công lý, mở ra con đường độc đáo dẫn tới hòa bình.” (3) Nhìn lại lời nói và hành động của Pharisêu, chúng ta thấy ông vừa thiếu công lý vừa phá tan mối dây liên đới với đồng loại. Làm cách nào có thể hòa giải hòa hợp hai lối sống và nếp nghĩ khác nhau như thế ? Thiếu sự hiểu biết về Thiên Chúa và tha nhân, Pharisêu đã hoàn toàn thu gọn tầm nhìn vào những công trình cá nhân. Nhưng “không thể yêu thương tha nhân như chính mình, và kiên trì trong hành động này nếu không quả quyết mạnh mẽ và kiên nhẫn hành động mưu ích cho tất cả và mỗi người, vì tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm với mọi người. Theo giáo huấn Công đồng, chúng ta phải tôn trọng và yêu thương những người suy nghĩ và hành động khác chúng ta về những vấn đề xã hội, chính trị, và tôn giáo. Thực vậy, càng suy nghĩ sâu xa về những cách suy nghĩ cách êm ái, càng có thể dễ dàng đối thoại với họ.” (4) Thực tế, cuộc đối thoại không dễ dàng thực hiện, vì còn tùy thuộc quan niệm và cách xử sự của đối tác nữa. Làm sao đối thoại với Pharisêu khi ông tự nâng mình lên chín tầng mây xanh ? Muốn bắt đầu đối thoại, cần phải có bình đẳng và công lý. Công lý đòi mọi người phải tôn trọng nhau như những nhân vị. Cuộc đối thoại chỉ có thể thành công, khi mọi người đều nhắm đến công ích. “Nguyên tắc hướng dẫn công ích có liên quan tới mọi mặt đời sống xã hội, nếu đạt đến ý nghĩa trọn vẹn, phát xuất từ phẩm giá, sự hiệp nhất và bình đẳng của mọi người.” (5) Rõ ràng Pharisêu đã không theo đúng nguyên tắc đối thoại. Ông không có khả năng đối thoại, vì ông chỉ biết có mình. Ông mở đầu lời nguyện rất “ngon lành.” Nhưng kết thúc thật tệ hại vì dẫn đến kết quả trái ngược. Uổng cả một đời nỗ lực nên công chính ! Chỉ vì khinh thế ngạo vật, mọi sự tan ra mây khói. ÐỐI THOẠI ? Nhìn vào xã hội Việt nam hôm nay, ai dám nói đang có một cuộc đối thoại thực sự để giải quyết những vấn đề xã hội ? Cả trong đạo ngoài đời, những người cầm quyền có dám nhìn thẳng vào thực tế không ? Họ có thực sự nhắm đến lợi ích quần chúng không ? Làm sao đối thoại hữu hiệu với Nhà Nước, trong khi Giáo Hội không được nhìn nhận là một thực thể pháp nhân ? Ðó chính là lý do tại sao Giáo hội không được phép tham gia sinh hoạt trong các ngành giáo dục, y tế và không được hợp tác trong nhiều lãnh vực để hướng dẫn và phục vụ quần chúng, nhất là giới trẻ. Trong dịp viếng mộ thánh Phêrô năm 2002, các Giám mục Việt Nam đã được ÐGH Gioan Phaolô II mở ra một định hướng mục vụ tích cực: “Đối thoại chân thành và hợp tác lành mạnh.” Nhưng nhìn lại, “phải chăng trong mấy thập niên vừa qua, Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã cố gắng thể hiện định hướng đó bằng những hình thức và cách thế riêng? Nhưng có bao nhiêu cơ hội để thể hiện nó?” (6) Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, không phải chỉ có kinh tế thị trường, nhưng cả tôn giáo cũng phải đi vào định hướng xã hội chủ nghĩa, do đảng tự do tung hoành lãnh đạo về mọi mặt. Chỉ có một thực tại duy nhất tồn tại là đảng mà thôi. Trong tình thế đó, có đối thoại cả trăm năm cũng không cải tiến được xã hội. Nếu không có đối thoại, mọi việc hợp tác đều giả hiệu và vô hiệu. Thực vậy, làm sao phục vụ, nếu không có công lý ? Làm sao có công lý, nếu không có sự thật ? Làm sao tìm được sự thật, nếu không đối thoại ? Thánh Augustinô quả quyết : “Bất cứ những gì trái với sự thật đều không thể có công lý.” Làm sao có thể đối thoại khi Đảng chỉ công nhận “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân” (7) ? Khi không công nhận Giáo hội, họ cũng chẳng cần biết “mục đích của Giáo Hội và Nhà Nước thuộc hai lãnh vực khác nhau, có những phương tiện riêng, và độc lập trong những lãnh vực hoạt động liên hệ.” (8) Nếu thực tình phục vụ con người, ai chẳng cần đến những cái nhìn và nỗ lực từ nhiều phía ? Thật vậy, “công việc phục vụ phúc lợi quần chúng và cộng đồng nhân loại chỉ có thể hữu hiệu khi có cuộc đối thoại theo cơ chế giữa Giáo hội và chính quyền. Mục đích nhằm góp phần vào công cuộc tiến bộ mỗi dân tộc và toàn thể nhân loại trong công lý và hòa bình.”(9) Ðối thoại là con đường duy nhất để nhìn ra vấn đề và phục vụ hữu hiệu. Thực vậy, muốn có công lý để hành động, cần phải vận dụng tư tưởng và lời nói để đối thoại. Nếu không, sẽ lãng phí nhiều tài nguyên quốc gia và Giáo hội và chẳng bao giờ có thể đáp ứng những nhu cầu lớn lao của quần chúng. Trước cảnh đau thương của dân tộc, Giáo hội đành bó tay khi nhìn các nạn nhân đang quằn quại trong các bệnh viện hay bị bưng bít trong nền giáo dục một chiều. Thật vậy, “ngành y tế chúng ta cũng đang gặp khủng hoảng, cả về chất lượng lẫn số lượng. Tại Tp HCM chẳng hạn, để thực hiện công tác điều trị bình thường, mỗi ngày cần khoảng 14.000 giường cho bệnh nhân. Thế nhưng, tất cả bệnh viện công và tư ở thành phố mới có khoảng 8000 giường, nghĩa là chỉ mới đạt tới hơn một nửa nhu cầu. Vì thế tình trạng 2 bệnh nhân một giường sẽ còn tiếp diễn trong những năm tới. Nếu Tp HCM là đầu tàu kinh tế của cả nước mà còn xảy ra tình trạng thiếu hụt ở trên, thì những vùng sâu, xa và cao của đất nước sẽ sao? Trong quá khứ giới Công giáo đã đóng góp nhiều cho lãnh vực y tế. Bao giờ mới được tái nhập cuộc để xoa dịu nỗi đau và nỗi khổ của đồng bào?”(10) Trong ngành giáo dục, vấn đề trầm trọng không kém. Dù việc phục vụ tương lai dân tộc đang bị bỏ bê và xuống cấp vì thiếu thốn cơ sở cũng như nhân sự trầm trọng, nhưng giáo dục vẫn là lãnh vực độc quyền của Nhà Nước. Giáo hội làm được gì khi bị đặt ra ngoài cơ chế giáo dục, dù mình có rất nhiều nhân sự sẵn sàng nhập cuộc ? “Nhiều người vẫn băn khoăn thắc mắc: Tại sao vẫn chưa cho phép các tôn giáo trong nước, những người cùng chung một giòng máu và một tình tự dân tộc được trực tiếp tham gia vào lãnh vực giáo dục? Tại sao chưa để cho các tu sĩ có cơ hội đóng góp tim - óc của mình cho tương lai dân tộc?” (11) Thật là tiếng kêu bức xúc và thất thanh giữa sa mạc ! Biết thế, HÐGMVN năm 2007 vẫn bàn về một lãnh vực mà mình chẳng có ảnh hưởng gì, ngoài trường mẫu giáo ? Thư Chung 2007 nói về quá khứ như một điều đáng tiếc, nhưng vẫn quyết tâm và tin tưởng kêu gọi giáo hội Việt NAM Tham gia vào lãnh vựa giáo dục trong kế hoạch ba năm. Hy vọng với sự quyết tâm ấy, giáo hội sẽ tìm ra cơ hội để cống hiến cho thế hệ trẻ tương lai. Tóm lại, cùng trong một đền thờ, cùng tôn thờ một Thiên Chúa, và cùng nhìn vào bản thân, nhưng ông Pharisêu và người thu thuế theo những đường hướng khác nhau. Vì kiêu ngạo, Pharisêu đã không nhận ra sự thật về Thiên Chúa, bản thân và tha nhân. Ông đánh mất tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Lời cầu nguyện trở thành độc thoại. Ông tự tách mình khỏi Thiên Chúa và anh em. Trái lại, trong khiêm cung, người thu thuế đã được nâng lên hàng công chính, vì “kẻ phục vụ Ðức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây.” (Hc 35:16) Cùng lên đền thờ Thiên Chúa, nhưng mỗi người ca một khúc khác nhau. Tiếng ca của người Pharisêu chói tai cả Thiên Chúa lẫn con người. Có lẽ giờ đây, không ai muốn đồng hội đồng thuyền với Pharisêu. Ai cũng tự xếp mình vào hàng ngũ người thu thuế. Như vậy, phải chăng mình cũng đang muốn mình hơn người Pharisêu ?! Coi chừng khúc ca cũng chói tai không kém đâu nhé ! Lạy Chúa, tất cả cuộc đời và sứ mệnh con đều tùy thuộc vào lòng thương xót của Chúa. Xin cho con được gặp gỡ Chúa và đồng loại hôm nay để có thể phục vụ theo đúng thánh ý Chúa. Amen. đỗ lực 28.10.2007
1. Đoàn Kiếm, http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4046 2. Toát yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 202. 3. ibid., 203. 4. ibid., 43. 5. ibid., 164. 6. Nguyễn Thái Hợp, http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577 7. http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577 8. Toát yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 445. 9. Ibid. 10. Nguyễn Thái Hợp, http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577 11. Ibid. 12 HÐGMVN, Thư Chung 2007, số 19, http://www.conggiaovietnam.net/tulieugiaohoi/thuchungHDGMVN2007.htm
NGƯỜI KHIÊM NHƯỜNG ĐƯỢC CHÚA ĐOÁI NGHE Trong dụ ngôn về người Pharisêu và một người làm nghề thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, người Pharisêu thì thường được miêu tả tiêu cực – ông ta là người xấu trong câu truyện. Ông ta thật kiêu ngạo và tự đắc! Nhưng những người đang nghe Chúa Giêsu giảng thì không thấy ông ta là người xấu. Ông thu thuế trong câu chuyện mới là người xấu xa đối với họ. Nghề của ông ta là thu thuế cho người Rôma. Khi nghe Đức Giêsu đề cập đến ông trong dụ ngôn, những người đang lắng nghe sẽ tự nhiên nghĩ rằng: “Kẻ phản bội-hèn hạ nhất trong những kẻ hèn hạ” Gì nữa nào, nếu có bất cứ nghi ngờ gì về phẩm chất đời sống của họ, thì cả hai người đàn ông này cũng đã xác nhận tình trạng đạo đức của họ khá rõ ràng, như chúng ta thấy trong dụ ngôn. Người Pharisêu là một người tốt và được người đương thời kính nể. Họ “thánh thiện” đến nỗi làm hơn những gì luật đòi hỏi. Đệ Nhị Luật đòi phải nộp một phần mười hoa lợi. Xin biết cho, người Pharisêu này nộp thuế thập phân là “tất cả thu nhập” của ông ta. Ông nộp nhiều hơn những gì ông phải làm. Vì thế, chúng ta có thể cho rằng những gì ông ta mô tả về đời sống đạo đức của mình là chính xác: ông ta “không như bao kẻ khác – tham lam, bất chính, ngoại tình.” Ông ta sống cuộc sống tốt hơn “ông thu thuế kia”. Vấn đề không phải là chỗ ông ta không phải là người tốt và không tuân giữ lề luật. Những người thấy ông Pharisêu rời Đền Thờ sau khi cầu nguyện ngày ấy có lẽ đã đồng ý với lượng giá của bản thân ông. Ông được ngưỡng mộ vì hành vi mẫu mực của ông; trong khi người thu thuế kia có thể bi coi thường vì đời sống không đạo đức của ông. Như vậy, rút ra kết luận khá rõ rằng, câu chuyện kết thúc. hưng không nhanh vậy đâu! Nhớ là Đức Giêsu đang kể dụ ngôn và dụ ngôn thường không theo lối “bình thường” – theo kiểu chúng ta mong đợi hay cho là quen thuộc. Việc cố gắng sử dụng lối lý luận đơn thuần và tính toán của con người thực sự chẳng bao giờ hiệu quả với những dụ ngôn. Những dụ ngôn không phù hợp với sự khôn ngoan của nhân loại. Dụ ngôn hôm nay là một ví dụ hay cho chúng ta, khi bước vào thế giới của những dụ ngôn là chúng ta bước vào một thực tại hoàn toàn mới - “Vương Quốc của Thiên Chúa”. Chưa ai có thể gọi vương quốc mà Chúa Giêsu đến loan báo là “hợp lý”. Tạ ơn Chúa! Chúng ta có thể không có cơ may nào nếu như phán quyết hợp lý và thuần túy nhân loại được áp vào cuộc sống chúng ta? Nhưng thay vì thế, dụ ngôn hôm nay chỉ ra cho chúng ta một lần nữa rằng đường lối của Thiên Chúa thì không theo tính toán của con người. Công lý của Chúa là ân sủng, và ân sủng thì không thể được đo bằng cán cân như được vẽ trong tay của bức tượng Thần Công Lý nổi tiếng. Dụ ngôn hôm nay nói về công lý của Thiên Chúa – công lý này được trao cho người thực sự đau khổ chứ không phải cho những ai nghĩ rằng họ đã có được nó. Nếu như những gì ông Pharisêu nói về ông là đúng, thì vấn đề nằm chỗ nào? Chỗ là, ông ta đang nhìn sai hướng. Ông ta đang cầu nguyện nhưng chú ý vào đời sống của ông ta. Để ý xem, có bao nhiêu lần ông ta đề cập đến thân mình– “TÔI”. Dường như Thiên Chúa chẳng qua cũng chỉ là những người đang quan sát bên ngoài và danh mục những thành tích của ông. Một số người cho rằng lời cầu nguyện của chúng ta có thể thay đổi ý định của Thiên Chúa. Thực ra, lời cầu nguyện đích thực biến đổi chúng ta. Thế nhưng, lời cầu nguyện của người Pharisêu ra như chẳng thể mang lại bất kỳ biến đổi nào nơi ông ta. Ông ta có vẻ tin rằng cuộc đời quá tốt của ông có thể mang lại cho ông ơn cứu độ; rằng Thiên Chúa mắc nợ ông một phần thưởng vì những việc đạo đức của ông. Những con người ngày ấy nhìn thấy ông Pharisêu bước ra khỏi Đền Thờ có lẽ đã thấy đó là một người mãn nguyện đã hoàn thành nghĩa vụ tôn giáo của mình. Nhưng liệu quý vị có nhận ra sự dị thường trong việc ông ta tự tập trung về những thành quả của mình hay không? Đâu là ân sủng của Thiên Chúa trong đời sống con người? Người Pharisêu kia quá nhấn mạnh đến việc tốt của mình mà quên mất hành động của Thiên Chúa trong cuộc đời ông. Đức hạnh của con người không bắt nguồn từ nơi con người, nhưng là từ Thiên Chúa. Chúa là đấng ban phát sự tốt lành, và sự tốt lành của chúng ta phản ánh sự tốt lành của Thiên Chúa nơi chúng ta. Thánh Luca cho chúng ta biết rằng Đức Giêsu kể dụ ngôn này “cho những người tự cho mình là công chính…” Đó là câu chuyện cảnh báo về khuynh hướng mà những người đạo đức như chúng ta và những dòng tu có thể gặp phải: cho rằng chúng ta có thể tự mình nắm được chân lý và biết người ta nên hành xử như thế nào. Người Pharisêu đạo đức tự kết án bất cứ ai không đạt được những tiêu chuẩn của ông ta. “Người công chính” đi phán quyết kẻ tội lỗi và không chừa chỗ cho những trao đổi và những thay đổi. Người thu thuế thì không chú ý đến việc ông ta là ai, và cũng chẳng nhắc đến những công lênh mà mình làm được, nhưng tập trung vào việc ông ta chưa là gì và những điều ông còn thiếu xót. Thực ra, không giống như người Pharisêu, ông lập tức hướng ánh mắt ra khỏi bản thân để nhìn về Thiên Chúa. Ông cần ơn lành của Thiên Chúa và không tự mình đạt được. Ông ta hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và phó thác bản thân trong bàn tay của Thiên Chúa. Hôm ấy, khi ông rời Đền Thờ thì những người khác cũng nhìn ông như vậy. Nhưng Đức Giêsu chỉ ra sự khác biệt mà họ không thể thấy – ông ta “về nhà thì được nên công chính”. Trong ngôn ngữ của Sách Thánh thì điều này nghĩa là ông được tha tội. Làm sao như thế được? Người thu thuế đã làm gì để “xứng đáng” với sự tha thứ này? Chẳng gì cả. Ông ta là một tội nhân đã hoàn toàn quay về với thiên Chúa để xin tha thứ, và Thiên Chúa đã dủ lòng thương. Người biết được bản tính nhân loại của mình sẽ biết rằng tương quan với Thiên Chúa và với người khác là tặng phẩm từ Thiên Chúa. Nhưng nếu chúng ta ý thức được bản tính nhân loại của mình, chúng ta cũng sẽ nhận ra chúng ta mỏng dòn và hay thay đổi ra sao và cả nguy cơ phạm tôi nữa. Vì thế, lời cầu nguyện của người thu thuế hôm nay cũng chính là lời cầu nguyện của chúng ta, “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Chúng ta đã đặt niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng tạo nên chúng ta và cho chúng ta một lý trí để chúng ta có thể ca tụng vẻ đẹp và sự tốt lành bên trong cũng như xung quanh chúng ta nữa. Chúng ta cũng biết mình có thể tin tưởng vào một Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng ta cả khi chúng ta ngoảnh mặt đi và đặt chúng ta là trên hết – như người Pharisêu. John Shea nhắc lại cho chúng ta kinh nghiệm mặc khải mà Thomas Merton đã nhận được khi đứng tại góc đường Luoisville, ở Kenturky. Merton bị ngập tràn trong tình yêu ông dành cho mọi người xung quanh và cảm xúc dạt dào khi nhận ra mình không hề bị tách biệt khỏi người khác, nhưng là một trong số họ. Ông nói: “Tạ ơn Chúa, xin tạ ơn vì con cũng giống như những người khác, tạ ơn vì con chỉ là một người trong số những người khác”. Và còn thích thú hơn, Merton hoan hỉ ca ngợi rằng: “Thiên Chúa được vinh danh trong việc trở nên một thành viên của nhân loại. Một thành viên của nhân loại!”. Vì thế, trong khi chúng ta “tự hạ” như Đức Giêsu đề nghị, chúng ta nhớ với lời nguyện rằng chúng ta không chỉ liên đới với mỗi người trong gia đình nhân loại nhưng còn với Thiên Chúa, Đấng khiêm nhường vô cùng, đã trở nên một trong chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô. Ben Sira điều hành một học viện cho giới trẻ khoảng hai thế kỷ trước Chúa giáng sinh. Những lời dạy khôn ngoan về vấn nạn trần thế và truyền thống đức tin Dothái giáo được người cháu thu thập lại cho những thế hệ tương lai của những người Dothái bị phân tán, những người phải phấn đấu giữ đức tin giữa những kẻ không có đức tin. Ben Sira nhắc nhở những học trò thân yêu của mình rằng địa vị hay giá trị của lễ của họ trước bàn thờ thì không tự nhiên được Chúa lắng nghe. Nhưng là, như chúng ta nghe trong bài đọc một, Thiên Chúa nghe lời cầu xin của những kẻ bé nhỏ nhất trong xã hội. Bài trích Sách Huấn Ca hôm nay nhắc nhớ dụ ngôn về lòng kiên trì của bà góa đòi công bình từ viên quan tòa trong bài Tin mừng chúng ta nghe tuần trước. Sách Huấn Ca nhắc chúng ta nếu Chúa ban ân huệ thì đó là dành cho những người bị áp bức, “Lời nguyện của kẻ hèn mọn vượt ngàn mây thẳm, lời nguyện chưa tới đích, họ chưa an lòng”. Những người mà sách Huấn ca gọi là “hèn mọn”, bà góa và cô nhi, bị những kẻ có quyền thế cai trị. Vì vậy, người nghèo chỉ còn có Chúa để hướng về. Niềm trông cậy trong lời cầu nguyện với Chúa thì không chỉ thấy nơi người nghèo nhưng cả nơi chúng ta những người khiêm tốn đặt cuộc đời mình trong bàn tay Thiên Chúa. Tác giả Sách Huấn Ca cũng nhắc nhở những học trò thân yêu của mình rằng nếu Thiên Chúa nghe lời cầu cứu của những người nghèo, thì họ cũng nên làm như vậy. Việc Chúa Giêsu đến, chưa đầy hai thế kỷ sau Sách Huấn Ca, quả là một dấu chỉ chắc chắn về lòng thương xót của Thiên Chúa đáp lời kẻ nghèo kêu xin. Lm. Jude Siciliano, O.P. (Anh em Học viện Đaminh chuyển ngữ)
LẠY CHÚA, XIN THƯƠNG XÓT CON Hc 35,12-14.16-18; Tm 4,6-8.16-18; Lc 18,9-14 Kính thưa quý vị, Liệu người Pharisêu trong trình thuật Tin mừng hôm nay cũng nói như một số Kitô hữu ngày nay rằng họ đang chống lại sách báo khiêu dâm, ly hôn, ngoại tình, việc nạo phá thai, thói nghiện rượu, sự kết hôn, nghiện ngập ma túy và hầu hết các phim ảnh không? Để nói về những điều mà họ đã đạt được thì quả là khó khăn. Vì được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa, nên chúng ta thích hay ngưỡng mộ điều khác lạ nơi tha nhân. Một số Kitô hữu cho chúng ta thấy một hình ảnh công khai tiêu cực hay làm bộ đoan trang kiểu cách. Họ y hệt với những người được miêu tả trong Tin mừng thánh Luca mà Đức Giêsu đề cập trong dụ ngôn hôm nay: “Người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác.” Không biết thái độ tự mãn đã được kể vào số các nhân đức Kitô giáo từ khi nào? Nếu có ai đó chất vấn về niềm tin Kitô giáo, chúng ta có bắt đầu kể ra một danh sách những điều phải chống lại như đã kể ở trên, hay sẽ nói về những điều mang lại cho mình một cuộc sống mới, và niềm vui mà ta đã lãnh nhận được trong đức tin? Phải chăng có một số người Kitô hữu lãng quên hai điều đã kết nối chúng ta lại với nhau: Tất cả chúng ta đều là tội nhân và đều nhận được lòng thương xót đó sao? Chúng ta đang cùng với người thu thuế chỉ dám đứng xa xa mà cất tiếng cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Thiên Chúa, Đấng có thể vượt một đoạn đường dài để đến với từng người tội lỗi, thân hành đến tận nơi chúng ta và thanh tẩy chúng ta qua việc thông ban lòng thương xót, làm cho chúng ta được nên công chính trước nhan Chúa. Mặt khác, thái độ tự hào cho mình là công chính lại đặt chúng ta xa cách với Thiên Chúa. Đó là một khoảng cách mà chỉ có ân sủng mới có thể nối liền được mà thôi. Nếu chúng ta đang tìm một “lối cầu nguyện thích hợp”, thì việc liệt kê các thành tích của mình hay vui mừng vì ta không “giống như bao kẻ tội lỗi” nhất định không phải là lựa chọn tiên quyết. Tốt nhất, hãy đặt sự thiếu thốn, yếu đuối, tinh thần nghèo khó và tội lỗi của mình trước nhan Thiên Chúa. Rồi chúng ta tin tưởng rằng mình sẽ được đoái nghe, và lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được đáp lại. Chính Thiên Chúa sẽ hoàn toàn nhậm lời nếu lời khẩn nài lòng thương xót được khởi đi đúng chỗ. Chẳng có gì phải ngạc nhiên khi Thiên Chúa lại đáp lời người thu thuế. Chủ đề thường xuyên và quan trọng trong Kinh thánh là Thiên Chúa nhận thấy nhu cầu của những người khiêm nhu và đáp lời họ. Có thể chúng ta thấy mình không có quyền, hoặc chưa xứng đáng để ngước nhìn lên Thiên Chúa và chờ mong Người nhận lời. Tự sức mình, chúng ta không thể đòi hỏi đặc ân hay sự đền bù xứng đáng. Thế nhưng, Thiên Chúa đã quan tâm đến ta cả khi ta còn là những tội nhân, và đã ngự đến với chúng ta trong Đức Giêsu để chia sẻ thân phận làm người của ta. Hơn thế nữa, Thiên Chúa đã ở với chúng ta qua cái chết, ngõ hầu chúng ta được chung phần phục sinh với Người. Thiên Chúa thấy chúng ta. Và ta là ai? Chúng ta đã bắt đầu bữa Tiệc Thánh này với khẩn cầu lòng thương xót. Cùng với người thu thuế và những người khác, chúng ta đã được nhận lãnh những điều mà tự sức riêng của mình không dám cầu xin. Nhờ Đức Giêsu, chúng ta được trở nên công chính trước nhan Thiên Chúa. Những người thuộc các tổ chức, thế tục hay tôn giáo, phải thận trọng khi cho rằng họ sở hữu tất cả chân lý, và có lời đáp trả đúng đắn cho mọi khổ đau trên trần gian. Thoạt đầu, người Pharisêu có vẻ dâng lời cảm tạ vì những gì ông đã nhận lãnh được từ Thiên Chúa; một biên bản mẫu mực trong hành vi tôn giáo và đạo đức. “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như…” Thật ra, Thiên Chúa không phải là đối tượng trong lời ngợi khen của ông, nhưng lại là chính ông. Ông không cầu xin Thiên Chúa bất cứ điều gì vì ông đã có tất cả. Trong khi đó, người thu thuế không hề đề cao tiêu chuẩn của mình. Những ai ý thức được nhân tính của mình, lòng dạ người đó dâng trào sự biết ơn, vì những ân huệ đã lãnh nhận được là mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, và mối tương giao với những người khác. Thiên Chúa là nguồn mạch tất cả ân huệ, và vì thế, chúng ta kính dâng Người cảm tạ, tri ân. Thế nhưng, không giống như người Pharisêu, chúng ta không dừng lại ở điều ấy, vì cũng ý thức được sự mong manh, đổ vỡ và tội lỗi của mình. Tin tức hằng ngày nhắc nhở ta về các tội ác mà con người có khả năng gây ra cho chính mình hay cho người khác. Vì mình có thể phạm tội, nên chúng ta không dừng dụ ngôn này ở nửa chừng. Chúng ta cũng kết hợp với người thu thuế trong sự cần thiết chung khi ta cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người ta phàn nàn rằng chúng ta đang bận tâm đến tội lỗi. Không, chúng ta không như thế. Dụ ngôn này nhắc nhở rằng đạo của chúng ta là một tôn giáo của lòng thương xót, mọi người được giải thoát khỏi sự thống trị của tội lỗi. Đây là Chúa Nhật thứ tư trích đọc từ thư gởi ông Timôthê. Thánh Phaolô khởi đầu lá thư này bằng lời chào ông Timôthê là “người con đích thực” (1,1-2) của ngài, điều này cho thấy mối quan hệ gần gũi giữa hai người. Trong thư, thánh Phaolô nói với ông Timôthê lời khuyên cá nhân về ơn gọi của mình cho dân chúng trước danh Thiên Chúa. Bức thư này không chỉ cho thấy một mối quan hệ gần gũi, mà ông còn ủy thác cho ông Timôthê tiếp tục sứ vụ của mình. Mối quan tâm của thánh Phaolô không chỉ là ông Timôthê, mà còn là Tin mừng và thông điệp của thánh nhân được truyền lại sao cho trung thực với các thế hệ Kitô hữu tương lai. Điều gì đã làm cho thánh Phaolô cảm động và thúc giục thánh nhân viết thư cho ông Timôthê? Thánh Phaolô đang bị cầm tù ở Rôma, và bài đọc hôm nay cho thấy rõ thánh nhân biết được là ngài sắp chịu tử đạo. Ngài mượn hình ảnh của một cuộc điền kinh; ngài đã “chạy hết chặng đường”. Mặc dù đang bị giam trong ngục, nhưng thánh Phaolô chẳng quan tâm đến những nỗi gian nan mình đang phải chịu. Ngục tù không thể giam hãm Lời Chúa, vì thánh nhân vẫn không ngừng rao giảng, thậm chí còn dạy dỗ cho cả những người lính Rôma trông giữ ngài (Pl 1,13). Thánh Phaolô phải chịu muôn vàn khó khăn gian nan dường nào. Ngài không chỉ thấy kết cục của đời mình, mà còn bị ruồng bỏ, “mọi người đã bỏ mặc tôi”. Tuy nhiên, sau cùng, ngài rao giảng tin mừng của mình và tuyên xưng sự hiện hữu và bảo trợ của Thiên Chúa: “Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi.” Tôi thích lưu ý đến những chỗ có sự xuất hiện của hạn từ “nhưng” trong bản văn, giống như trong bản văn ngày hôm nay. Trình tự diễn ra giống như thế này: nhu cầu trước tiên của con người được thể hiện ra. Đối với thánh Phaolô, đó là sự giam cầm và sự bỏ rơi của những người mà lẽ ra phải đứng về phía ngài khi biện hộ. Tiếp đó, không có ai ủng hộ, thánh Phaolô được Thiên Chúa trao cho quyền năng. Tình thế của ngài hiện nay rất nghiêm trọng, nhưng “Chúa sẽ cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời”. Thánh Phaolô là một Kitô hữu, và cũng giống như Đức Kitô trên thập giá hay như ông Stêphanô, khi thánh nhân được lãnh phúc tử đạo (Cv 7,60; 8,1), ngài cũng tha thứ cho những người đã bỏ mặc ngài: “Xin Chúa đừng chấp tội họ”. Đây là lời cầu nguyện mà ngày nay chúng ta có thể dâng lên cho những người đã bỏ rơi chúng ta, hoặc không trợ giúp khi chúng ta gặp gian nan. Lấy cảm hứng từ cảnh tù đày, và cô độc của thánh Phaolô, chúng ta cũng cầu nguyện rằng: “Xin Chúa đừng chấp tội họ”.
|