HOME

 

T�m theo mẫu tự

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

TH�NG GI�NG

 


Ng�y
01 Th�nh Mẫu Thi�n Ch�a

02 Th�nh Basili�, Gm, Ts

02 Th�nh Gr�gori� Nazian�, Gm, Ts

07 Th�nh Raymundo Pennafort, Lm OP

13 Th�nh Hilari�, Gm, Ts

17 Th�nh Ant�n đan sĩ

20 Th�nh Fabian�, Gh, Tđ

20 Th�nh Sebastian�, Tđ


Ng�y
21 Th�nh Agnes, Tntđ

22 Th�nh Vinhsơn, ph� tế

24 Th�nh Phanxic� Sal�si�, Gm, Ts

25 Th�nh Phaol� trở lại

26 Th�nh Tim�th�o v� Tit�, t�ng đồ

27 Th�nh Angela M�rici, Tn

28 Th�nh T�ma Aquin�, Lm, Ts

31 Th�nh Gioan Bosc�, Lm

 


Ng�y 01-01

ĐỨC MARIA, MẸ THI�N CH�A

Mẹ Thi�n Ch�a, đ� l� phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, ch�nh phẩm chức cao cả n�y l� nền tảng mỗi đặc �n kh�c d�nh cho Mẹ. C�ng đồng Vaticano II đ� tr�nh b�y c�c đặc �n li�n kết với phẩm chức Thi�n Ch�a như sau:

  • "Kh�ng c� g� lạ, nếu c�c gi�o phụ đ� thường xưng tụng Mẹ l� Đấng to�n th�nh, kh�ng vương nhiễm một tội n�o, như một tạo vật mới do Ch�a Th�nh Thần uốn nắn v� t�c th�nh. Tr�n đầy th�nh thiện, c� một kh�ng hai ngay từ l�c thụ thai, Đức Trinh Nữ th�nh Nazareth được Thi�n thần v�ng lệnh Ch�a đến truyền tin v� đ� k�nh ch�o l� "Đầy ơn phườc" (Lc. 1,28). (GH.59).

  • "Được g�n giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguy�n tổ, v� sau khi ho�n tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh V� nhiễm đ� được đưa l�n hưởng vinh quang tr�n trời cả hồn lẫn x�c, v� được Thi�n Ch�a t�n vinh l�m nữ Vương vũ trụ, để n�n giống Con Ng�i c�ch trọn vẹn hơn" (GH.59).

  • "Đức Maria lu�n tiếp tục thi�n chức l�m Mẹ... Thật vậy, sau khi về trời, vai tr� của Ng�i trong việc cứu chuộc kh�ng chấm dứt, nhưng Ng�i vẫn tiếp tục li�n lỉ cầu bầu để đem lại cho ch�ng ta những �n huệ gi�p ch�ng ta được phần rỗi đời đời... V� thế trong Gi�o hội, Đức Trinh Nữ Maria được k�u cầu qua c�c tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng ph� hộ v� Đấng Trung gian" (GH.62)

Như vậy, long trọng mừng Đức Maria l� Mẹ Thi�n Ch�a, ch�ng ta h�y tỏ một niềm tin vững chắc v�o vai tr� của Mẹ trong chương tr�nh cứu rỗi nh�n loại. Đức Maria l� Mẹ Thi�n Ch�a v� Ng�i đ� sinh ra cho ch�ng ta Thi�n Ch�a cứu chuộc. Trong buổi Truyền Tin, ch�nh sứ thần Gabriel đ� quả quyết: "Người sẽ thụ thai v� sinh con... trẻ sẽ sắp sinh sẽ được gọi l� Đấng Th�nh, l� Con Thi�n Ch�a" (Lc 1,31-35). Được Th�nh Thần linh hứng, b� Elisabeth cũng đ� l�n tiếng: "Bởi đ�u t�i được thế n�y, l� mẹ Ch�a t�i đến với t�i" (Lc1,43). Niềm tin v�o chức phẩm cao qu� l� Mẹ Thi�n Ch�a của Đức Maria đ� c� từ đầu Gi�o hội. Ch�nh th�nh Phaol� đ� viết: "Khi thời vi�n m�n đến, Thi�n Ch�a sai con của Người, sinh bởi người Nữ" (Gl 4,4).

Tiếp tục niềm tin đ� c� từ đầu, c�c t�n hữu c�n x�c t�n hơn nữa do biến cố dẫn tới những x�c quyết chắc chắn của C�ng đồng chung Eph�s� (năm 413). Nestori� khi ấy b�c bỏ tước hiệu Mẹ Thi�n Ch�a của Đức Maria, �ng chỉ chấp thuận Đức Maria l� Mẹ Ch�a Kit�, v� Ng�i chỉ sinh ra x�c thể Ch�a Kit� th�i, chống lại lời rao giảng của Gi�m mục Nestori�, khoảng hai trăm Gi�m mục đ� họp tại Eph�s� ng�y 22.6.431, dưới quyền chủ tọa của Th�nh Cyrill� th�nh Alexandrioa. C�ng đồng n�y kết �n Nestori� v� tuy�n bố t�n điều Đức Maria l� Mẹ Thi�n Ch�a. To�n thể d�n th�nh đ� c�ng khai b�y tỏ niềm h�n hoan trước th�nh quả n�y. Họ tổ chức rước đuốc để mừng c�c nghị phụ c�ng đồng. Cũng từ c�ng đồng n�y m� c� phần sau của kinh K�nh mừng: "Th�nh Maria, Đức Mẹ Ch�a Trời, cầu cho ch�ng con l� kẻ c� tội khi nay v� trong giờ l�m tử".

Hợp với niềm h�n hoan của d�n Ch�a dịp c�ng đồng �ph�s� bế mạc, niềm t�n k�nh d�ng l�n Mẹ Thi�n Ch�a ng�y một th�m s�u đậm. Vua Giuse Emmanuel nước Bồ Đ�o Nha đ� xin �ng được đặc �n mừng lễ Mẹ Thi�n Ch�a. Th�nh bộ nghi lễ đ� ban bố sắc lệnh thiết lập ng�y 22 th�ng gi�ng năm 1751 v� ấn định v�o Ch�a nhật đầu th�ng năm. Từ đ� nhiều nước cũng được hưởng đặc �n n�y.

Năm 1931, dịp kỷ niệm 1500 năm, c�ng đồng Eph�s�, Đ.G.H Pi� XI đ� lập lễ Đức Maria l� Mẹ Thi�n Ch�a, k�nh trọng thể trong khắp Gi�o hội v�o ng�y 11 th�ng 10. Ch�nh Đức gi�o ho�ng Pi� XI đ� viết : - "T�n điều Mẹ Thi�n Ch�a l� một mối nước mầu nhiệm v� tận, đ� tu�n ra mọi đặc �n cho Đức Mẹ v� n�ng Người l�n một địa vị cao sang tuyệt vời b�n Thi�n Ch�a (Lux Veritatis 1931).

Năm 1962, Đức Gi�o ho�ng Gioan XXIII đ� chọn lễ k�nh Mẹ Thi�n Ch�a l�m ng�y khai mạc c�ng đồng Vatican� II.

Đức gi�o ho�ng Phaol� VI dời ng�y lễ v�o đầu năm dương lịch, việc dời ng�y k�nh n�y v�o ng�y thế giới H�a B�nh, nhấn mạnh th�m � nghĩa lễ Đức Maria, Mẹ Thi�n Ch�a h�m nay.

Đức gi�o ho�ng Phaol� VI viết : - "Khi canh t�n m�a Gi�ng sinh, mọi người phải ch� � đến việc t�i lập lễ Đức Maria Mẹ Thi�n Ch�a v�o ng�y 1 th�ng gi�ng, đ�ng phụng vụ Roma từ xưa, nhằm t�n k�nh việc Đức Maria g�p phần v�o mầu nhiệm cứu rỗi v� t�n vinh địa vị đặc biệt, khiến cho "Mẹ rất th�nh, đ�ng tiếp nhận Nguồn sống cho ch�ng t�i". Lễ n�y cũng l� dịp rất tốt để ch�ng ta t�n thờ Vua H�a B�nh mới sinh, v� nghe lại lời ch�c ho� b�nh của c�c thi�n sứ (Lc 2,14), để cầu Ch�a, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương H�a B�nh, ban cho ta ơn cao cả nhất l� H�a b�nh. V� sự tr�ng hợp tốt đẹp giữa ng�y 1 th�ng gi�ng với ng�y thứ t�m gi�p Lễ Gi�ng sinh m� ch�ng t�i đ� đặt ng�y đ� l� ng�y thế giới h�a b�nh, m� thế giới mỗi ng�y c�ng hưởng ứng th�m, v� th�nh quả của h�a b�nh đ� ph�t sinh trong l�ng nhiều Người" (ĐGH Phaol� VI. Marialis Cultus, số 5b)


Ng�y 02-01

TH�NH BASILI� CẢ
Gi�m mục, Tiến Sĩ (329-397)

Th�nh Basili�, con người kỳ diệu m� mọi thời gọi l� th�nh Cả, ch�o đời v�o khoảng cuối năm 329 tại C�sar�a, thủ đ� miền Cappadocia. Ng�i thật c� ph�c v� được sinh ra trong một gia đ�nh th�nh thiện. Cha Ng�i l� th�nh Basilio, mẹ Ng�i l� th�nh nữ Emelia. Nhưng sinh ra Ng�i, cha mẹ Ng�i đ� chịu bao nỗi lo �u. Một cơn bệnh nặng tưởng như đ� cất mất mạng sống của Ng�i. Việc Ng�i b�nh phục được coi như l� kết quả của lời cầu nguyện m� th�i.

Từ thuở thơ ấu th�nh nh�n đ� đến sống với người b� l� th�nh nữ Macrina. Tại đ�y, Ng�i đ� hấp thụ được những nguy�n tắc sống đạo đức đầu ti�n. Ng�i n�i: t�i kh�ng hề qu�n được những lời dạy dỗ v� gương l�nh m� người b� th�nh thiện đ� ghi v�o trong t�m hồn b� thơ của t�i.

Ngay khi tới buổi đi học, cha Ng�i, một con người vừa đạo đức vừa hoạt b�t, đ� tự đảm nhiệm việc dạy dỗ Ng�i những yếu tố đầu ti�n về văn chương. Sau khi cha qua đời, Ng�i được gửi đi C�sarea rồi Constantinople để học khoa h�ng biện. Sau c�ng, Ng�i đi Athena, kinh th�nh �nh s�ng của thế giới n�i tiếng Hy Lạp thời đ�. Tại đ�y, Ng�i c� dịp l�m quen với Th�nh Gregori� th�nh Nazianze. Hai người kết th�n với nhau v� t�nh bạn đầy th�nh thiện của họ kh�ng hề bị một �ng m�y m� n�o che phủ. Trong th�nh phố xa hoa ấy, họ chỉ biết c� hai con đường dẫn tới nh� thờ v� tới trường học.

Sau khi ho�n tất c�c m�n học, Ng�i dồn nỗ lực học kinh th�nh v� c�c gi�o phụ. Ng�i đ� k�n m�c được từ kho t�ng phong ph� n�y những hiểu biết v� những t�m t�nh cao thượng qui hướng con người l�n trời.

L�c hai mươi bảy tuổi, Ng�i trở về qu� nh� v� biện hộ cho một v�i vụ kiện tụng. T�i lợi khẩu v� th�nh c�ng tưởng đ� cột chặt Ng�i v�o với ph�p đ�nh. Nhưng chị Ng�i l� th�nh nữ Macrina (trẻ) đ� n�i cho Ng�i biết về sự giả tr� của những t�i năng của cả lo�i người, v� về những gi� trị ch�n thực m� Ng�i nhhư đ� bỏ qu�n. Thế l� th�nh nh�n quyết từ gi� thế gian v� đeo đuổi đời sống tu tr�. Ng�i đ� viếng thăm c�c tu viện b�n Đ�ng phương để t�m kiếm gương mẫu v� thầy dạy đường nh�n đức. Một năm sau Ng�i trở về Cappadocia, rồi lui về miền Pont v� thiết lập nhiều tu viện. C�c qui luật Ng�i soạn ra cho c�c tu viện đ� trở th�nh danh tiếng v� ng�y nay vẫn c�n được �p dụng tại c�c tu viện của Gi�o hội c�ng gi�o theo nghi lễ Byzantin. Ch�nh th�nh B�n�dict� cũng chịu ảnh hưởng của Ng�i qua bản dịch tiếng la Tinh của Ruffin�. Th�nh Basili� chỉ sống năm năm như tu sĩ trong viện. Nhưng điều Ng�i đ� l�m đ� viết l� phần th�nh c�ng trực tiếp v� l�u bền nhất trong c�ng tr�nh đời Ng�i.

Năm 370 khi Đức gi�m mục Eu-s�-bi-� qua đời, th�nh Basili� được bầu l�m gi�m mục C�saria. Th�nh nh�n đ� l�nh nhận gi�o phận trong một ho�n cảnh đầy s�ng gi� v� đ� tỏ ra l� một chủ chăn bất khuất trong việc bảo vệ đức tin. L�c ấy lạc gi�o Ari� đang ở v�o thời cực thịnh. Ho�ng đế Va-lăng (valens) đ�ng v�o ph�i lạc gi�o để b�ch hại Gi�o hội. Th�nh Gr�gori� đ� kể lại cuộc đời th�nh Basili�, c� lẽ đ� t� điểm th�m đ�i ch�t, nhưng đ� cho thấy được c� t�nh của th�nh nh�n như thế n�o. Va-lăng ph�i Modest�, một tổng trấn nổi tiếng mưu m� v� hung �c đến gặp th�nh nh�n.

Hắn n�i: - Tại sao �ng d�m chống lại ho�ng đế v� kh�ng theo đạo của Ng�i.
Th�nh nh�n trả lời : - Bởi v� Thi�n Ch�a l� ho�ng thượng của t�i, Ng�i bảo vệ t�i.

Modest� vặn lại : - Vậy �ng coi ch�ng t�i l� thứ g� chứ ?

Th�nh nh�n trịnh trọng đ�p lời : - T�i chẳng coi c�c �ng l� g� cả, bởi v� c�c �ng đ� bắt ch�ng t�i phải c� những điều phản nghịch lại th�nh � Thi�n Ch�a:

Modest� liền dở tr� đe dọa: - �ng kh�ng biết rằng t�i c� thể cho �ng nếm m�i sức mạnh của ch�ng t�i sao ?

Nhưng th�nh nh�n đ� khẳng kh�i trả lời : - Những hậu quả do sức mạnh của c�c �ng chỉ c� thể l� tịch bi�n t�i sản, lưu đ�y, tra tấn hay l� s�t hại m� th�i. Đối với việc tịch bi�n t�i sản th� người kh�ng c� g� như t�i l�m g� m� phải sợ. T�i c�ng kh�ng sợ phải lưu đ�y, bởi v� đ�u c� Ch�a th� đấy cũng l� qu� hương của t�i. Đối với những tra tấn �ng muốn bắt t�i phải chịu, th� quả thật t�i đ� qu� yếu đuối v� kh�ng đủ sức để chịu được một cuộc tra tấn thứ hai. Về c�i chết, l�m sao t�i lại phải sợ, v� n� sẽ sớm đưa t�i về với Thi�n Ch�a hơn".

Vị tổng trấn ngạc nhi�n : - T�i chưa hề gặp người n�o gan dạ như �ng.
V� th�nh Basili� b�nh tĩnh trả lời : - Bởi v� �ng chưa n�i chuyện với một gi�m mục n�o.

Sau cuộc đ�m thoai nẩy lửa n�y, t�nh h�nh lắng dịu một thời gian. Nhưng v� �p lực của b� rối, ho�ng đế Valăng t�nh bắt gi�m mục Basili� đi đ�y. Nhưng � định bất th�nh v� ngay đ�m trước con �ng ng� bệnh nặng, được gi�m mục viếng thăm v� cầu nguyện cho l�nh, n� cũng đ� qua đời v� sự thay l�ng đổi dạ của nh� vua. Dầu vậy, dưới �p lực mạnh mẽ của b� rối, vua cũng quyết k� �n lệnh ph�t lưu Đức gi�m mục. Lần n�y, �ng vẫn thất bại v� ba bốn lần cầm lấy viết th� viết bị hư, cầm đến ấn th� ấn bị bể n�t.

Ngo�i sự can trường để bảo vệ đức tin ch�n ch�nh, th�nh Basilio c�n l� một mục tử nhiệt h�nh v� gi�u l�ng b�c �i, Ng�i đ� li�n tục đi thăm viếng từng miền trong gi�o phận, Ng�i chuy�n chăm dạy dỗ đo�n chi�n v� một số b�i giảng của Ng�i được lưu giữ tới ng�y nay l� những c�ng tr�nh thần học rất đ�ng gi�. Ngo�i ta th�nh nh�n c�n thương y�u đặc biệt những người ngh�o kh� bệnh tật. Ng�i đ� thiết lập một nh� thương, đặt t�n l� Basili� (Basiliade) để săn s�c họ.

Th�nh nh�n đ� được sống để chứng kiến c�i chết của Valăng lẫn sự t�n lụi của lạc gi�o Ari�. Nhưng chẳng bao l�u sau Ng�i cũng qua đời v� kiệt sức, ng�y 1 th�ng gi�ng năm 379.


Ng�y 02-01

Th�nh GREG�RI� NAZIANZ�N�
Gi�m Mục Tiến Sĩ - (329 - 390)

Th�nh Gr�g�ri� Nazianz�n� l� một trong những gi�o phụ danh tiếng của gi�o hội Hy Lạp v� được mệnh danh l� thần học v� gi�o thuyết rất s�u sắc của Ng�i. Ng�i ra đời khoảng năm 329, trong một gia đ�nh danh gi� v� đ�ng mến chuộng. Cha Ng�i, cũng t�n l� Gr�g�ri�, l�c ấy c�n l� lương d�n. Nhưng th�nh nữ Monna, mẹ Ng�i, nhờ nh�n đức si�u vượt, sự dịu hiền, đời sống gương mẫu với kinh nghiệm v� nước mắt đ� đưa �ng về với Ch�a Gi�su.

Th�nh Le�ng (L�once) gi�m mục th�nh C�sar�a đ� rửa tội cho �ng. V�i năm sau, nhờ đời sống đạo đức trổi vượt, �ng đ� xứng đ�ng l�nh chức gi�m mục, cai quản điạ phận Nazianze.

Th�nh Gr�g�ri� ra đời như kết quả lời cầu nguyện của b� mẹ th�nh thiện, chỉ mong c� được người con để phục vụ b�n th�nh. Khi th�nh nh�n ra đời, b� coi Ng�i như qu� tặng của trời cao. Được đ�o tạo trong một m�i trường th�nh thiện như vậy, ngay từ nhỏ, Ng�i đ� biết qu� trọng những n�t đẹp của tội thơ v� tội.

Th�nh nh�n được cử đi học h�ng biện ở C�sar�a, rồi Palestina. Sau đ� Ng�i đ� qua Alexandria v� sau c�ng tới Athena l� nơi coi l� nguồn gốc đ�ch thật của khoa h�ng biện, tr�n đường tới Athena, con t�u th�nh nh�n đi đ� phải một cơn b�o dữ dội, tưởng chừng như sẽ bị đắm ch�m trong l�ng biển. L�c ấy th�nh nh�n chưa được rửa tội v� rất lo �u cho phần rỗi của m�nh. Ng�i tha thiết cầu khẩn Thi�n Ch�a th�nh cho được sống th�m, để c� thể l�m con Ch�a. Th�nh nh�n đ� được nhậm lời. Cơn gi�ng b�o chấm dứt v� Ng�i tới được Athena.

Tại đ�y th�nh Gregorio gặp lại một người bạn cũ của m�nh l� th�nh Basili�. Mối gi�y th�n t�nh giữa c�c Ng�i ng�y c�ng trở n�n bền chặt hơn. Cho đến ng�y nay, người ta vẫn c�n trưng dẫn hai vị nh�n n�y như l� khu�n mẫu cho t�nh bạn trong trắng v� ch�n th�nh nhất. Kh�ng thể l�a xa nhau, họ c�n ch� t�m tr�nh tho�t mọi cuộc kết th�n nguy hiểm v� chỉ giao tiếp với những bạn b� m� l�ng hiếu học lu�n đi đ�i với việc thực h�nh c�c nh�n đức. Kh�ng bao giờ người ta thấy họ đi v�o c�c cuộc giải tr� c� t�nh c�ch trần tục. Trong th�nh phố xa hoa ấy họ chỉ biết c� hai con đường dẫn tới nh� thờ v� c�c trường học.

Ho�n tất việc học h�nh, th�nh Gr�g�ri� trở về sống với cha m�nh đang l�m gi�m mục cai quản gi�o phận Nazianze v� được cha ban ph�p Rửa tội cho. Một khi đ� được đ�ng ấn t�n thần linh, Ng�i coi m�nh ho�n to�n thuộc về Thi�n Ch�a v� hiến th�n phung sự Ng�i,

Ng�i n�i: - "T�i hiến trọn cho Đấng đ� ban cho t�i tất cả. Từ nay chỉ c� Ng�i l� phần sản nghiệp của t�i".

T�nh thảo hiếu đ� giữ lại b�n người cha gi� t�m mươi tuổi trong ba năm trời. Ng�i gi�p đỡ cha trong mọi c�ng việc v� chăm s�c mọi việc trong nh�. Nhưng l�ng y�u th�ch được ẩn dật đ� đưa Ng�i tới gặp th�nh Basili� đang theo đuổi nếp sống tu tr�. Ng�i đ� sống xa thế gian một thời gian v� chỉ lo tới sự ho�n thiện của m�nh. Nhưng thời gian ẩn dật n�y mới chỉ đủ cho Ng�i nếm thử được sự ngọt ng�o để m� luyến tiếc th�i, người cha gi� ch�n mươi tuổi đ� gọi Ng�i về gi�p việc điều khiển giao phận. Nhận thấy rằng: Gi�o hội sẽ được lợi �ch nhiều bởi người con th�n y�u của m�nh, vị th�nh gi�m mục gi� cả đ� truyền chức linh mục cho Ng�i ng�y 6 th�ng 1 năm 362. L�c ấy th�nh Greg�ri� hơn ba mu�i lăm tuổi v� ấn t�ch mới c�ng tăng th�m nhiệt t�nh của Ng�i.

Th�nh Basili� l�c ấy đ� l�m tổng gi�m mục C�sal�a, quyết định n�ng th�nh Gregori� l�n l�m gi�m mục cai quản điạ phận Sarima. Nhưng v� những chống đối dữ dội, Ng�i đ� kh�ng hề tới nhậm điạ phận được v� dường như Ng�i chịu chức gi�m mục chỉ để gi�p đỡ người cha m� tuổi t�c đ� kh�ng cho ph�p chu to�n phận sự được nữa. Sau khi cha qua đời năm 374 th�nh nh�n trở lại Nazianze săn s�c cho gi�o phận, nhưng kh�ng hề muốn l�m gi�m mục của gi�o phận n�y.

Năm 380, tức l� khoảng năm năm sau, c�c t�n hữu ở Constantinopkle đ� khẩn n�i th�nh nh�n tới củng cố gi�o phận đ� bị b� rối Ari� t�n ph� của họ, với nhiệt t�m t�ng đồ, th�nh nh�n đ� nhận lời. Trước ti�n th�nh nh�n đ� kh�ng được tiếp đ�n nồng hậu lắm. Trong một th�nh phố xa hoa gi�u c� v� l� thủ đ� mới của đế quốc n�y, người ta đang ng�ng đợi một nh�n vật c� khu�n mặt s�ng sủa giữa một đ�m rước linh đ�nh. Nhưng người ta đ� v� c�ng kinh ngạc khi thấy Ng�i chỉ l� một �ng l�o gi� yếu, ăn mặc giản dị v� lời n�i vắn gọn.

Những người theo lạc gi�o Ari� chế giễu phỉ b�ng Ng�i. Dầu vậy, bằng những gi�o huấn vững chắc v� h�ng hồn, Ng�i đ� th�nh c�ng trong việc đưa d�n th�nh n�y từ chỗ bỏ c�i sai lầm của lạc gi�o m� trở về với đức tin c�ng gi�o. Sau bốn mươi bị năm bị t�n ph�. Gi�o phận kh�ng c� nh� thờ, Ng�i rao giảng tr�n đường phố hay tại một ng�i nh� m� Ng�i đăt t�n l� Anastasia.

Hương thơm nh�n đức v� sự hiểu biết uy�n th�m của Ng�i đ� lối k�o cảm t�nh người nghe c�ng th�m đ�ng. Từ trong sa mạc, th�nh Hi�ronym� cũng t�m đến nghe người giảng thuyết. Tuy nhi�n bề ngo�i khi�m tốn b�nh dị v� ho�n cảnh kh� khăn ấy cũng l� một kh� khăn khiến cho địch thủ đ� nhiều lần toan t�nh �m hại Người.

Năm 381, c�ng đồng chung họp tại Constantinople, th�nh Gr�g�ri� được bầu l�n l�m gi�m mục ch�nh t�a của gi�o phận n�y v� giữ ghế chủ tịch c�ng đồng. Nhưng �t l�u sau, một số gi�m mục đ� chất vấn t�nh c�ch hợp ph�p của chức vụ Ng�i. Lợi dụng những chống đối n�y, th�nh Gr�g�ri� đ� xin từ chức. Sau khi đ� l�m vui l�ng c�c nghị phụ c�ng đồng bằng quyết định của m�nh, th�nh nh�n đ� đe5 đơn l�n Ho�ng đế T�od� (Th�sdose) Ho�ng đế buộc l�ng chấp thuận, cho Ng�i từ nhiệm, chỉ v� l� do sứ ckhỏe m� th�i. Trước khi dứt m�nh khỏi Gi�o hội m� Ng�i đ� d�y c�ng tạo lập với đầy t�nh y�u qu�, Ng�i đ� n�i với mọi t�n hữu v� với c�c nghị phụ một diễn từ đặc sắc. Người ta gọi diễn từ ấy l�: những lời gi� biệt (Les Adieux).

Lui về Nazianze, th�nh Gr�g�ri� d�nh thời gian viết s�ch. Năm 390 Ng�i qua đời v� để lại cho Gi�o hội một kho t�ng qu� b�u gồm 45 b�i suy luận thần học v� điếu văn, 245 bức thư v� mấy tập thi ca. Người ta đọc cuộc đời trong những t�c phẩm c� gi� trị văn chương v� t�n l�, ch�nh �n đức ấy v� sức mạnh tinh thần của Ng�i.

Người ta c�n giữ được bản di ch�c v� bản văn tr�n bia mộ ch�nh Ng�i s�ng t�c. Bản mộ thi n�y l� một t�m lược kh�c chiết trọn đời Ng�i với những d�ng kết th�c như sau: - "T�i l� mục tử kh�ng c� đo�n chi�n, v� t�i đ� đau khổ kh�ng �t bởi ch�nh c�c mục tử. T�i để Ch�a Gi�su Kit� lo lắng cho tương lai đời t�i như ch�nh Người đ� lo cho t�i trong qu� khứ".


Ng�y 07-01

TH�NH RAYMUNDO PENYAFORT
Linh Mục (1175-1275)

Th�nh Raymud� ch�o đời năm 1175 trong một gia đ�nh hiệp sĩ tại l�u đ�i Penyafort ở California. Kh�ng chiều theo cuộc sống dễ d�i, Ng�i đ� d�nh trọn nỗ lực tuổi trẻ v�o việc học h�nh v� thực tập c�c nh�n đức. Mới 20 tuổi, Ng�i đ� giữ ghế triết tại đại học Barcelona. Nhưng v� tinh thần hiếu học v� muốn gi�p �ch cho Gi�o hội đắc lực hơn, năm 30 tuổi, Ng�i qua Italia để tiếp tục học luật tại Bologna. Tại đ�y Ng�i đ� tốt nghiệp tiến sĩ v� th�nh c�ng trong nghề luật sư, lại c�n giảng dạy tại ch�nh đại học Bologna trong ba năm. Nhiều nh� qu� ph�i v� bậc thứ giả t�m đến với Ng�i. Tận tụy hướng dẫn họ, Ng�i chỉ mong cho họ tiến bộ. Nếu c� bị �p để nhận một �t th� lao n�o, Ng�i cũng đem ph�n ph�t cho người ngh�o.

Năm 1249, Đức gi�m mục địa phận Bacelona mời Ng�i về gi�p việc địa phận. Nhưng l�c 48 tuổi, th�nh nh�n đ� trốn mọi danh vọng v� xin gia nhập d�ng Daminh, Ng�i chỉ ao ước được trao ph� cho những c�ng việc thấp h�n nhất. Nếu được t�n thưởng, Ng�i liền xin bề tr�n cho được l�m việc đền tội. Tuy nhi�n việc đền tội Ng�i kh�ng mong mỏi ch�t n�o, l� việc nh� d�ng trao cho Ng�i tr�ch nhiệm viết một t�c phẩm về c�c vấn đề lương t�m để hướng dẫn c�c cha giải tội. T�c phẩm n�y cho tới ng�y nay vẫn c�n danh tiếng.

Năm 1230, Đức gi�o ho�ng Gregori� IX cảm k�ch những th�nh quả do th�nh Raymund� mang lại, đ� mời l�m cha giải tội cho m�nh, đồng thời chọn Ng�i l�m tổng gi�m mục th�nh Tarragona. Nhưng danh dự n�y đ� khiến th�nh nh�n, khi nghe tin, l�n cơn sốt liền trong v�ng ba ng�y, Ng�i đ� xin c�c đức hồng y can thiệp cho m�nh khỏi l�nh nhận danh dự v� g�nh nặng n�y. Cuối c�ng Đức gi�o ho�ng đ�nh chấp thuận. Năm năm l�m việc tại gi�o triều, đức gi�o ho�ng đ� ủy th�c cho th�nh nh�n thu thập c�c sắc lệnh của c�c đức gi�o ho�ng v� c�c c�ng đồng th�nh nh�n đ� gom g�p v�o năm cuốn s�ch v� được ph� chuẩn năm 1234. Ngo�i việc chu to�n c�c nghĩa vụ được trao ph�, Ng�i c�n theo đuổi một nếp sống nhiệm nhặt, khiến Ng�i l�m trọng bệnh. Th�nh nh�n liền khẩn n�i cho m�nh được trở về với nếp sống tu sĩ b�nh thường.

Từ khứơc mọi đặc �n th�nh nh�n rời khỏi Roma trở về Barcelona. Tr�n chuyến t�u Ng�i gặp một người l�m bệnh nặng kh�ng c�n n�i năng g� được. Cầu nguyện v� xin mọi người cầu nguyện cho �ng, th�nh nh�n hỏi �ng c� muốn xưng tội kh�ng ? Bệnh nh�n bỗng n�i được. �ng ta đ� xưng tội rồi tắt thở.

Tại Barcelon, th�nh nh�n trở lại đời sống s�m hối rất gương mẫu. H�ng ng�y Ng�i vẫn xưng tội rước khi d�ng lễ. Ng�i n�i : - "Những ng�y bị ngăn trở kh�ng xưng tội được, đối với t�i l� những tang chế u sầu".

Năm 1238, Ng�i được bầu l�m bề tr�n tổng quyền thứ ba của d�ng Daminh. Suốt hai năm l�m bề tr�n, Ng�i đ� đi bộ đến thăm viếng mỗi tỉnh d�ng để hun n�ng l�ng nhi�t th�nh của c�c tu sĩ. Hai năm sau Ng�i xin từ chức v� tuổi gi� sức yếu.

Tuy nhi�n trong tuổi gi� yếu, Ng�i vẫn g�p phần x�y dựng cho tổ quốc. Ng�i đ� viết thư y�u cầu th�nh T�ma viết một bộ s�ch để chống lại bọn lạc gi�o, như vua Giac�b� y�u cầu. Th�nh T�ma đ� nhận lời v� viết bộ s�ch "Summa Contra Ghentiles" D� được nh� vua qu� mến chiều chuộng, nhưng th�nh nh�n kh�ng ngại cảnh c�o �ng ta. Một lần kia, trong cuộc chinh phục đảo Maiorqua. Vua mời th�nh nh�n c�ng đi. Th�nh nh�n nhận lời với ước vọng giảng thuyết để ph� đổ những sai lầm tại đ�. Nhưng tới nơi, Ng�i kh�m ph� ra rằng nh� vua đang ph� hoại tổ chức bằng cuộc sống tội lỗi của m�nh. Ng�i can ngăn nhưng nh� vua kh�ng giữ lời hứa.

Th�nh nh�n liền tuy�n c�o: - V� Ng�i kh�ng bỏ đường tội lỗi n�n t�i sẽ bỏ đi.

Hoảng hốt, nh� vua cấm mọi t�u thuyền kh�ng được ph�p chở Ng�i. Tương truy�n rằng: th�nh nh�n đ� n�i với một tu sĩ đi theo Ng�i rằng:  - Một vua trần thế cản đường, th� vua tr�n trời sẽ mở lối cho ch�ng ta đi.

N�i rồi, Ng�i cởi �o ngo�i trải ra tr�n mặt biển, cắm c�y gậy l�m cột v� cuốn một g�c l�m buồm. Ng�i mời thầy d�ng l�n "T�u" nhưng �ng kh�ng d�m. Thế l� một m�nh Ng�i đ�p "t�u" hồi hương. V�i giờ sau th�nh nh�n tới bến v� Ng�i vội v�ng cuốn �o thẳng về nh� d�ng để tr�nh tiếng hoan h� của d�n ch�ng. Ph�p lạ n�y đ� trở th�nh sức mạnh cải h�a nh� vua, đưa �ng trở lại với lương t�m v� qu� hương m�nh.

Về gi�, th�nh Raymund� đ� chịu nhiều cơn đau yếu, nhưng l�ng nhiệt th�nh của Ng�i vẫn bốc ch�y kh�ng ngừng. Ng�y 6 th�ng gi�ng năm 1275 Ng�i đ� từ gi� c�i thế l� nơi m� Ng�i đ� hiến trọn đời phụng vụ Ch�a.


Ng�y 13-01

Th�nh HILARI�
Gi�m Mục Tiến Sĩ (khoảng 320-368)

Th�nh Hilari� ch�o đời tại Poa-tu (Poitou) Ng�i l� con một nh� qu� tộc l�m nghị vi�n v� được gi�o dục đầy đủ. C�c m�n học m� th�nh nh�n ưa th�ch l� văn chương, thi ca, nhất l� triết l�. Việc học tập của Ng�i lu�n được đ�o s�u cho tới c�ng l� Thi�n Ch�a, Ng�i nhận định rằng: hạnh ph�c thật của con người kh�ng phải bị những th� vui đời n�y, d� ch�ng thanh cao đến mấy đi nữa. Tr�i lại hạnh ph�c l� được sống cho ch�n l� ở một cuộc sống kh�c với cuộc sống tạm tr�n trần gian n�y. Ng�i n�i: - "T�i kh�c l�n v� vui sướng mỗi khi nghĩ đến th�n x�c n�y chỉ được tiền định để phải chết đi".

Nhưng l�m thế n�o m� th�nh nh�n đ� gặp được ch�n l�, gặp được Thi�n Ch�a m� c�c triết gia v� c�c t�n gi�o thường n�i tới một c�ch m� mờ ? Ch�nh th�nh nh�n kể lại cuộc kh�m ph� của m�nh: - "Từ m�i trường ngoại gi�o, Ch�a đ� dẫn đưa t�i tới nguồn s�ng ch�n thực. Giữa bao nhi�u hệ thống triết l� v� tư tưởng kh�c nhau, t�i vẫn ưu tư t�m đến Ch�a bằng con đường ngay thật, chắc chắn hữu thể thần linh vĩnh cửu phải l� đơn thuần v� độc nhất, kh�ng c� g� l� kh�ng bắt nguồn tự Ng�i, vạn vật đều phải thờ phượng Ng�i".

X�c t�n rằng phải c� Ch�a, Ng�i c�n suy nghĩ về c�c phẩm t�nh thần linh của Ch�a.

- "Nếu một c�ng r�nh vượt qu� tr� kh�n ch�ng ta, th� nh� nghệ sĩ thần linh c�n trổi vượt c�ng tr�nh đ� thế n�o ? Vậy phải nhận biết rằng, Thi�n Ch�a tuyệt mỹ v� ch�ng ta chỉ cảm nhận m� ch�ng ta kh�ng thể thấu hiểu nổi".

Trong khi c�n mi�n man suy nghĩ như vậy. Th�nh nh�n bỗng gặp được một cuốn kinh th�nh. Ng�i đọc được đoạn văn tr�n Ch�a hiện ra với M�s� v� tự b�y tỏ: "Ta l� Đấng hiện hữu".

Ng�i sung sướng với kh�m ph� n�y : - "T�i vui thỏa với danh hiệu m� Thi�n Ch�a đ� tỏ ra cho M�s�. Th�nh danh ấy vừa biểu lộ một quan niệm s�u xa về Thi�n Ch�a, lại vừa tầm với tr� �c con người.

Từ đ� th�nh nh�n say m� nghi�n cứu th�nh kinh, nhất l� c�c s�ch ti�n tri với những đoạn loan b�o về Đấng thi�n sai. Trong c�c s�ch Tin Mừng, Ng�i th�ch nhất tự ng�n của Tin Mừng theo th�nh Gioan. - "Tr� t�i học biết v� Thi�n Ch�a vượt qu� điều n� d�m ước mong... l�ng t�i run rẩy bồn chồn v� vui sướng trước gi�o thuyết về Thi�n Ch�a Ba Ng�i v� trước lời mời gọi t�i sinh nhờ đức tin".

Thế l� th�nh nh�n đ� l�nh nhận ph�p rửa tội v� cảm thấy hạnh ph�c lạ l�ng. Ng�i đ� lập gia đ�nh v� c� được một người con g�i. Rồi đ�y Ng�i sẽ đưa cả vợ con về với đức tin. Khi Ng�i muốn trở th�nh linh mục, vợ Ng�i chỉ c�n gặp lại Ng�i tại b�n th�nh v� coi Ng�i như một người anh. Nh�n đức v� tr� kh�n ngoại hạng c�n đưa Ng�i tới chức gi�m mục cai quản địa phận Pcachie (Poutiers) năm 350.

L�c ấy lạc gi�o Ari� nổi l�n như vũ b�o trong Gi�o hội. Vua Constanti� ủng hộ lạc gi�o v� tiếp tay cho cuộc b�ch hại. Th�nh Athanasi� bị bắt đi lưu đ�y. Th�nh Hilari� đứng l�n l�nh đạo c�ng cuộc bảo vệ đức tin ch�n ch�nh. Ng�i triệu tập một c�ng đồng để l�n �n hai gi�m mục theo lạc gi�o. Cộng đồng c�n cử Ng�i đi thương thuyết với nh� vua. Nhưng l�ng can đảm của Ng�i đ� bị trừng phạt bằng cuộc lưu đ�y năm 356, chấp nhận gian khổ, Ng�i tuy�n bố:

- "Người ta c� thể bắt c�c gi�m mục lưu đ�y, nhưng c� thể trục xuất ch�n l� được kh�ng ?"

Cuộc h�nh tr�nh tới Phrygia nằm ở cuối miền Tiểu � thật d�i v� đầy gian khổ. Nhưng th�nh nh�n đ� kh�ng hề ph�n n�n m� vẫn b�nh thản sống mật thiết kết hợp với Ch�a. Đầy dũng cảm, Ng�i vẫn tiếp tục l�m rung chuyển thế giới bằng c�ng việc viết l�ch của m�nh.

Ng�i n�i : - "Dầu bị lưu đ�y, ch�ng t�i vẫn tiếp tục n�i bằng s�ch vở, bởi v� người ta kh�ng thể giam h�m lời Ch�a".

Ng�i đ� viết 12 khảo luận b�n về Ch�a Ba Ng�i, v� đưa gi�o thuyết ch�n ch�nh của c�ng gi�o với những tư tưởng kinh tế của Hylạp v�o thổ ngữ. Ng�i tiếp tục điều khiển gi�o phận bằng thư t�n. Cũng v�o thời n�y, th�nh nh�n diụ d�ng hướng dẫn Ebra, người con g�i của m�nh tới đời sống th�nh thện. Một bức thư Ng�i viết trong buổi lưu đ�y c�n s�t lại c� khuy�n nhủ n�ng tận hiến cho Ch�a như sau:

- "Con th�n y�u, con l� đứa con duy nhất của cha, cha muốn thấy con đẹp nhất v� đẹp nhất trong c�c phụ nữ. Người ta n�i với cha về một thanh ni�n c� một vi�n ngọc qu� v� một bộ �o qu� gi� đến nỗi ai m� c� được những thứ đ� th� sẽ l� người gi�u c� hơn hết mọi người".

V� th�nh nh�n kể lại rằng: phải kh� khăn l�u ng�y, Ng�i mới gặp được người thanh ni�n n�y để xin Người ban vi�n ngọc v� chiếc �o ấy cho Ebra. B�n chiếc �o n�y, tuyết hết trắng, kh�ng c� một vết niơ n�o c� thể b�i bẩn, kh�ng một tai nạn n�o c� thể x� r�ch. C�n vi�n ngọc, kh�ng vật n�o chịu nổi vể rực rỡ huy ho�ng, chẳng bao giờ t�n sắc, ai mang được sẽ hết khổ v� kh�ng phải chết.

V� Ng�i tiếp : - "Đấy l� những m�n trang sức m� cha ước ao, những thứ ban ơn cứu rỗi v� hạnh ph�c vĩnh cửu".

Ng�i c�n gửi cho c� những kh�c th�nh thi để c� ca nguyện sớm chiều. Ebra sớm theo ước nguyện của người cha nhưng cũng sớm l�a trần.

Bốn năm tr�i qua, Ho�ng đế cho triệu tập c�ng đồng S�l�ucia. May mắn Ng�i cũng được mời dự. Tại đ�y Ng�i đ� d�ng hết t�i h�ng biện v� tr� th�ng minh để chống lạc gi�o, bảo vệ đức tin ch�n ch�nh. Kh�ng chịu nổi ảnh hưởng của Ng�i. Bọn theo lạc gi�o đ� can thiệp để Ng�i về qu� hương cho rảnh rợ. Thế l� năm 360, Đức Gi�m mục Hilari� được trở về Poa-chi-�.

Cuộc hồi hương của th�nh nh�n l� niềm vui cho to�n d�n chứ kh�ng ri�ng g� cho gi�o phận Poa-chi-�. Th�nh Hi�r�num� đ� n�i : "To�n d�n G�n (Gaules) �m h�n vị anh h�ng tay mang ng�nh vạn tuế trở về".

Trong đo�n người đ�ng đảo đ�n mừng người cha gi�, phải kể đến một người l�nh trẻ t�n l� Martin�. L�c ấy Martin� đang sống ẩn dật ở Ganlinaria v� sau n�y sẽ l�m th�nh gi�m mục. Ng�y về của vị gi�m mục gi� cả c�n được ghi dấu bằng một ph�p lạ nh�n tiền. Một b� mẹ kh�c l�c �m một đứa con mới chết gặp Ng�i. B� tha thiết xin th�nh nh�n cứu sống con m�nh, �t ra để n� được rửa tội. Cảm tưởng nỗi niềm đau đớn của người thiếu phụ, Ng�i qu� gối cầu nguyện v� da thịt đứa trẻ dần dần đỏ hồng rồi sống lại.

Tuổi gi� sức yếu nhưng th�nh nh�n vẫn nhiệt th�nh chỉnh đốn lại những t�n ph� do b� rối g�y n�n. L�ng nhiệt th�nh đ� đưa Ng�i tới tận Milan khiến bọn lạc gi�o kinh ho�ng v� l�m �p lực bắt Ng�i phải trở lại Poa-chi-�. Ng�y 13 th�ng gi�ng năm 386 Ng�i đ� qua đời. Người ta kể lại rằng: l�c th�nh nh�n tử trần, một luồng ch�i chang khắp ph�ng.

Ng�y 10 th�ng gi�ng năm 1852, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị gi�m mục. Đức gi�o ho�ng phong Ng�i l�n bậc Tiến sĩ Hội Th�nh. Ng�i l� vị th�nh tiến sĩ đầu ti�n ở G�n.


Ng�y 17-01

Th�nh ANT�N
Viện Phụ (Thế kỷ IV)

Th�nh Ant�n ch�o đời năm 250 tại Corma, gần Hieraclens, miền thượng Ai cập. Cha mẹ Ng�i nổi danh gi�u c� lẫn đạo đức, đ� lo lắng dạy dỗ Ng�i sống đạo ngay từ nhỏ.

Khi được 18 tuổi th� cha mẹ Ng�i qua đời. S�u th�ng sau ng�y mất cha mất mẹ, tại một gi�o đường, th�nh nh�n đ� nghe đọc lời s�ch th�nh : "Nếu con muốn n�n trọn l�nh, h�y về b�n hết của cải v� đem ph�n ph�t cho kẻ ngh�o kh� rồi theo Ta" (Mt 19,21). Tưởng như Thi�n Ch�a n�i ri�ng với m�nh đ� về b�n hết của cải v� đem ph�n ph�t cho người ngh�o kh�.

Sau khi lo lắng gửi gấm em g�i của m�nh cho một nữ tu viện, Ng�i lui v�o sa mạc để l�m việc v� cầu nguyện, Ng�i theo đuổi một cuộc sống rất khắc khổ, chỉ ăn b�nh với muối v� uống nước ng�y một lần sau khi mặt trời lặn. Để giữ được sự c� tịch trọn vẹn, Ng�i c�n ẩn th�n v�o một ng�i mộ bỏ trống. Thỉnh thoảng một người bạn mang b�nh đến cho Ng�i b�nh đến cho Ng�i nhưng ma quỉ đ� t�m c�ch quấy ph� để trục Ng�i ra khỏi "căn ph�ng" v� cuộc sống khắc khổ, ch�ng thường hay la h�t v� hiện h�nh kỳ qu�i. Phản ứng lại, th�nh nh�n thường cầu nguyện nhiều hơn v� tăng gấp những việc h�m m�nh. Giận dữ v� c�c mưu m� bị thất bại, ma quỉ c�n c�ng khai h�nh hạ Ng�i nữa.

Một ng�y kia người bạn mang b�nh đến, bỗng thấy th�nh nh�n nửa sống nửa chết, m�nh đầy thương t�ch. Nhưng khi vừa bừng tỉnh, th�nh nh�n liền chỗi dậy v� la lớn: - T�i c�n sẵn s�ng chiến đấu. Lạy Ch�a, kh�ng, kh�ng g� c� thể t�ch l�a con khỏi l�ng y�u mến Ch�a được.

Giữa những đau đớn v� c�c cuộc tấn c�ng của ma quỉ, Ng�i khinh bỉ trả lời : - Ồn �o v� �ch. Dấu th�nh gi� v� l�ng tin tưởng v�o Ch�a l� những th�nh tr� ki�n cố.

Th�nh nh�n lu�n tin tưởng nơi Ch�a. Ng�y kia, được an ủi trong t�m hồn v� cảm thấy l� ma quỉ đ� l�i bước, Ng�i cầu nguyện : - Oi, lạy Ch�a, Ch�a ở đ�u ? Sao Ch�a kh�ng ở đ�y lau sạch nước mắt v� thoa dịu những d�y v� của con ?

Tiếng Ch�a trả lờ i: - Cha ở gần con, cha gi�p con chiến đấu. Bởi v� con đ� chống trả lại ma quỉ, cha sẽ bảo vệ qu�ng đời c�n lại của con. Cha sẽ l�m cho t�n con rạng rỡ tr�n trời.

Tr�n đầy nghị lực, th�nh nh�n chỗi dậy tạ ơn Ch�a. Muốn xa mọi người hơn nữa, Ng�i vượt s�ng Nil đến tr� ngụ trong một ph�o đ�i hoang phế đầy những rắn rết. Nhưng sự th�nh thiện của Ng�i như một sức nam ch�m, vẫn thu h�t nhiều người đến xin l�m m�n đệ. Thế l� một phong tr�o ẩn tu nổi l�n mạnh mẽ. Sa mạc mọc l�n những m�i tranh, từ đ� kh�ng ngừng vang l�n những lời kinh ca khen Ch�a. Th�nh nh�n trở n�n vị thủ l�nh của nếp sống ẩn tu.

Dầu vậy, th�nh An t�n đ� hai lần từ gi� sa mạc. V�o năm 311 khi c� cuộc b�ch hại của Alaximi�, Ng�i n�i: - N�o ta c�ng đi chiến đấu với anh em ta.

Ng�i l�n đường đi Alexandria. Người ta thấy th�nh nh�n kh�ch lệ c�c t� nh�n nơi c�c trại giam, theo họ tới trước quan t�a v� khuy�n nhủ họ can đảm chết v� đạo, Ng�i c�n xuống hầm tr� để an ủi c�c linh mục. Ng�i tho�t chết l� một điều lạ l�ng.

Cuộc b�ch hại chấm đứt được một năm, th�nh nh�n lại t�m về sa mạc. Số c�c m�n sinh ng�y c�ng tăng th�m đ�ng. Sợ bị c�m dỗ th�nh ki�u căng, v� thấy gương c�c th�nh tử đạo, th�nh Ant�n khao kh�t sống khắc khổ để đền tội. Ng�i tiến s�u hơn nữa v�o sa mạc. Sau ba ng�y đi theo đo�n người bu�n b�n, Ng�i dừng lại gần biển Đỏ, dưới ch�n n�i Kolzim v� dựng một căn lều vừa đủ để nằm để ở. D�n B�-đu-anh (B�douins) cho Ng�i b�nh ăn. Về sau c�c m�n sinh t�m tới v� mang cho Ng�i một c�i xuổng với một �t hạt giống, đ�y l� nguồn gốc của tu viện th�nh Ant�n hay l� Deir-el-Arat, một tu viện theo nghi lễ Cốp (Copte) ng�y nay vẫn c�n.

Lần thứ hai, th�nh nh�n trở lại Alexandria theo lời mời của đức gi�m mục Athanasi�, để chống lại lạc gi�o. D�n ch�ng cả th�nh chen lấn nhau đi đ�n Ng�i. C�c lương d�n cũng bảo nhau : - Ch�ng ta đi gặp người của Thi�n Ch�a.

Nhiều người cảm động v� những b�i diễn thuyết v� những ph�p lạ Ng�i l�m, đ� xin l�nh b� t�ch rửa tội, người ta tưởng sẽ gặp một l�o gi� t�m mươi hoang dại, nhưng đ� ngạc nhi�n khi thấy Ng�i rất lịch thiệp, xử dụng ng�n ngữ văn h�a v� diễn tả tư tưởng rất uy�n th�m. C�c triết gia ngoại gi�o ngạc nhi�n hỏi Ng�i:

- Ng�i l�m g� được trong sa mạc kh�ng c� s�ch vở chi hết ? Th�nh nh�n trả lời:

- Thi�n nhi�n đối với t�i l� một cuốn s�ch mở rộng.

V� người ta ngỡ ng�ng về những điều th�nh nh�n đ� kh�m ph� được trong cuốn s�ch vĩ đại n�y của Đấng Tạo h�a.

Điều đ�ng kể dường như kh�ng phải những nhiệm nhặt Ng�i theo đuổi, m� l� t�m hồn trong trắng Ng�i kết hiệp mật thiết với Ch�a, Ng�i n�i: - Hư danh l� kẻ th� nguy hiểm nhứt của ch�ng ta.

Danh tiếng của th�nh Ant�n lan rộng đến nỗi vua Constantin� v� con c�i �ng đ� viết thư tham khảo � kiến Ng�i, M�n sinh của Ng�i h�nh diện lắm. Nhưng Ng�i bảo họ :

- Đừng ngạc nhi�n lắm khi thấy nh� vua l� một con người viết thư cho một con người. Đ�ng ngạc nhi�n l� ch�nh Thi�n Ch�a đ� muốn viết luật cho lo�i người, v� đ� n�i với ch�ng ta qua đức Gi�su Kit� .

V� trả lời cho lớp người vương giả ấy, Ng�i d�ng những lời cao thượng để khuy�n họ biết khinh ch� danh vọng m� nhớ tới cuộc chung thẩm.

Khi Ng�i đ� qu� 90 tuổi, Thi�n Ch�a qua một thị kiến đưa ng�i đến thăm th�nh Phaol� ẩn tu trong sa mạc. Ng�i c�n được cho biết l� sẽ sống tới tuổi 105.

Biết sắp tới giờ từ gi� trần gian, Ng�i đi thăm anh em Ng�i lần ch�t. Ng�i n�i với họ về sự chết với niềm vui của người hồi hương. Họ đ� kh�c r�ng, nhưng Ng�i khuy�n nhủ họ: - H�y sống như phải chết mỗi ng�y. H�y cố gắng noi gương c�c th�nh.

Th�nh nh�n trở lại n�i với hai m�n sinh. Trong căn ph�ng ngh�o n�n của m�nh, Ng�i đ� ph� linh hồn trong tay Ch�a l�c 105 tuổi. Ch�ng ta biết được �n sủng giai thoại qu� b�u của đời th�nh An t�n l� nhờ th�nh Athanasi� kể lại.


Ng�y 20-01

Th�nh FABIANO
Gi�o Ho�ng Tử Đạo (+ 250)

Th�nh Fabian� l�n ng�i th�nh Ph�r� kh�ng phải do người ta bầu ra, cho bằng ch�nh sự chọn lựa của Thi�n Ch�a. V�o l�c d�n ch�ng v� h�ng gi�o sĩ Roma họp nhau để chọn vị mục tử, th� một c�nh chim c�u từ tr�n trời xuống đậu tr�n đầu Fabiano. Ng�i kế vị th�nh Anth�r� l�m gi�o ho�ng năm 236.

Do đ�, dầu trước kia kh�ng ai ng� tới Ng�i v� Ng�i c�n l� một gi�o d�n ngoại quốc, b�y giờ mọi người đều lớn tiếng gọi Ng�i l� người được Ch�a chọn. Một cuộc tuyển lựa đặc biệt như vậy v�o Gi�o hội h�ng đầu trong c�c Gi�o hội, chắc chắn phải c� những biến cố đ�ng kể tiếp theo. Nhưng lịch sử lại kh�ng lưu giữ kỷ niện n�o.

Ng�i được cai quản Gi�o hội trong 14 năm, với l�ng nhiệt th�nh lẫn sự kh�n ngoan. Ng�i đ� gửi nhiều nh� truyền gi�o sang xứ G�n (Gaute) v� đ� kết �n nhiều lầm lạc bị g�n gh�p c�ch sai tr�i cho Origen�. Th�nh Cyprian� đ� tặng cho Ng�i danh hiệu "một con người kh�n s�nh".

Ng�i đ� chịu chết v� đạo trong thời b�ch hại của Đeci� khoảng năm 250.


Ng�y 20-01

Th�nh S�BASTIAN�
Tử Đạo (Thế kỷ III)

Th�nh S�bastian� l� c�ng d�n của hai th�nh phố v� cha Ng�i qu� qu�n tại Nac-bon (Narbonne) v� mẹ Ng�i qu� qu�n tại Milan�. Năm 283 Ng�i gia nhập qu�n đội. Th�nh S�bastian� n�i rằng : sự hiền l�nh, kh�n ngoan, t�i kh�o, quảng đại, ngay thẳng v� cả trăm đức t�nh kh�c khiến triều đ�nh sớm biết tới th�nh nh�n. Ho�ng đế Đi�cl�tiano qu� mến v� đặt Ng�i l�m đại �y ph�ng vệ của �ng. Vai tr� n�y gi�p cho th�nh nh�n dễ d�ng đến với c�c nh� tu để an ủi kh�ch lệ đức tin của c�c Kit� hữu bị b�ch hại.

Dịp may đ� đến cho Ng�i thi thố l�ng nhi�t h�nh của m�nh khi Marc� v� Marcelin�, hai hiệp sị bị kết �n tử h�nh v� danh Ch�a. L�c ấy họ su�t bị lung lay đức tin v� những d�ng nước mắt của cha mẹ gi� yếu lẫn vợ con. Th�nh nh�n đ� c� mặt kịp thời để khuyến kh�ch họ,

Ng�i n�i : - Hỡi c�c chiến sĩ Ch�a Kit�, c�c bạn hy sinh linh hồn bất tử cho th�n x�c b�n đất sao ? C�c bạn chối bỏ đức tin, phản bội Thi�n Ch�a, hiến th�n cho ma quỉ v� từ khước triều thi�n sắp s�ng ch�i tr�n đầu c�c bạn sao ?

Đang khi n�i những lời n�y, một �nh s�ng ch�i l�a tr�n ngập ng�i nh� của người giữ ngục. Vợ của người giữ ngục t�n l� Zo� được khỏi bệnh c�m. Lời n�i của th�nh S�bastian� với v�i ph�p lạ k�m theo đ� khơi dậy l�ng can đảm nơi c�c vị tử đạo, cải h�a cha mẹ họ v� khoảng s�u mươi lương d�n kh�c.

Nhưng cuộc trở lại cảm k�ch nhất l� cuộc trở lại của Cr�-mat (Cromace), vi�n tổng trấn Roma. Ong ta bị bệnh lậu v� nghe biết rằng th�nh S�bastian�, nhờ sức mạnh thầm k�n n�o đ�, c� thể chữa l�nh nhiều bệnh tật. �ng đến xin th�nh nh�n cầu khẩn trời cao cho m�nh được l�nh bệnh, th�nh nh�n nhận lời : - T�i rất muốn, nhưng với điều kiện l� �ng phải thi�u hủy c�c ngẫu tượng v� theo đạo đ�.

Đầu ti�n �ng kh�ng chịu nhưng rồi cũng ưng theo. �ng ph� hủy một số lớn c�c ngẫu tượng. Nhưng bệnh lại trầm trọng hơn. �ng than thở với th�nh nh�n : - Nghe lời �ng t�i đ� pah� hủy c�c tựơng thần. �ng đ� hứa cho t�i hết bệnh. B�y giờ t�i lại khổ cực hơn bao giờ hết .

Th�nh S�bastian� trả lời: - Thưa ho�ng c�ng, việc Ng�i ph� hủy c�c tượng chẳng nhằm g� nếu Ng�i c�n cố giữ lại một tượng th�i. H�y ti�u hủy n� đi hết v� Ng�i sẽ được toại nguyện.

Cr�-mat tu�n theo v� �ng đ� hết bịnh. Ong v� cả gia đ�nh đ� theo đạo. Từ chức, �ng về miền qu� v� nh� �ng đ� trở th�nh nơi nương n�u cho c�c Kit� hữu bị đ�nh hại.

Năm 286, ngọn lửa b�ch hại b�ng l�n dữ dội. Phần đ�ng c�c Kit� hữu trốn về miền qu�. Th�nh S�bastian� xin đức gi�o ho�ng cho ph�p ở lại R�ma để hướng dẫn v� n�ng đỡ những người c�n lại. Đức gi�o ho�ng đ� trả lời ngay: - Hỡi con h�y ở lại chiến trường để gi�p đỡ c�c chiến sĩ v� h�y tỏ ra l� một chiến sĩ gan dạ bảo vệ đức tin.

Một kẻ bội gi�o đ� tố gi�c Ng�i với ho�ng đế, giận dữ, Đi�cletian� triệu vời Ng�i tới ngay. Th�nh nh�n vừa tới, ho�ng đế n�i liền : - S�bastian�, ta đ� qu� mến ngươi, ta cho ngươi ở trong ho�ng cung v� coi ngươi như người nh� m� b�y giờ ngươi th� nghịch với ho�ng đế v� c�c thần linh sao ?

S�bastian� khi�m tốn trả lời rằng: m�nh chỉ c� thể phục vụ ho�ng đế v� tổ quốc khi thờ phượng một Thi�n Ch�a ch�n thật v� khinh bỏ c�c ngẫu tượng bằng gỗ đ�. Tức giận, ho�ng đế truyền lập tức tr�i th�nh nh�n lại v� bắn t�n cho đến chết. Khi th�n thể Ng�i đầy ngập thương t�ch, người ta tưởng Ng�i đ� chết v� bỏ mặc tại chỗ. Ban đ�m, một g�a phụ t�n l� Ir�n� đến lấy x�c Ng�i để mai t�ng. Nhưng thật lạ l�ng khi thấy Ng�i c�n sống. B� liền đưa về nh� săn s�c cho đến khi th�nh nh�n b�nh phục ho�n to�n.

L�c ấy c�c Kit� hữu khuy�n Ng�i n�n t�m đường lẩn trốn. Nhưng sau khi cầu nguyện, Ng�i quyết định đến trước Đi�cletian� tuy�n xưng đức tin một lần nữa. Trước mặt ho�ng đế, Ng�i n�i: - C�c th�y cả thờ ngẫu thần l�m cho nh� vua coi c�c Kit� hữu như l� kẻ th� của tổ quốc. Nhưng đ� chỉ l� vu khống. Tr�i lại phải coi như l� người x�y dựng tổ quốc mới đ�ng, bởi v� họ kh�ng ngừng cầu nguyện cho tổ quốc được cứu rỗi v� n�n phồn thịnh.

Ngạc nhi�n kh�ng biết c� phải l� S�bastian� �ng đ� ra lệnh giết kh�ng, �ng hỏi lại cho chắc. Khi đ� biết chắc, �ng truyền đem th�nh nh�n ra ph�p trường đ�nh đ�n cho chết rồi vất x�c xuống r�nh. Một mệnh phụ t�n l� Lucina đ� ch�n cất Ng�i v�o một nghĩa địa ở dưới hầm.

Từ đ� nơi n�y được mệnh danh l� hang toại đạo th�nh S�bastian� v� ng�y nay cũng tại nơi n�y c� x�y một đại th�nh đường lấy t�n l� vương cung th�nh đường th�nh S�bastian� .


Ng�y 21-01

Th�nh AN�
Đồng trinh Tử đạo (khoảng + 304)

Một cuộc đời được gặt bởi gươm đao. Đ� l� tất cả. Kh�ng c� nhiều việc, kh�ng c� nhiều chuyện, nhưng danh tiếng đ� n�n lẫy lừng.

Một sử gia đ� ch�n nhận như thế theo những lời truyền khẩu. Người ta biết rằng: An� qua đời khoảng năm 12 tuổi. Cuộc khảo s�t xương sọ cho biết như vậy. Người ta c�n biết được rằng, theo th�nh Ambrosi�, v�o năm 375 đ� cử h�nh c�c lễ k�nh th�nh nữ v� vị th�nh trẻ trung n�y được tr�nh b�y như vị th�nh tử đạo sau khi đ� chiến đấu để giữ m�nh đồng trinh.

Người ta y�u c�i t�n của Ng�i, An� theo tiếng la-tinh c� nghĩa l� con chi�n, theo tiếng Hy Lạp c� nghĩa l� trong trắng. Người ta muốn rằng Ng�i c� n�t đẹp duy�n d�ng quyến rũ v� thuộc gia đ�nh qu� ph�i. C�c c� g�i lập gia đ�nh sớm. Trong số những ch�ng trai ngưỡng mộ Ng�i, c� con trai một vị tổng trấn, nhưng An� tự cởi l�ng đ� chọn lựa vị h�n phu của m�nh.

Ng�i đ� nghe về Ch�a Gi�su, đ� trở th�nh Kit� hữu v� đ� tận hiến vĩnh viễn cho Ch�a Kit�. C�c trẻ em thời n�y hay c� tư tưởng anh h�ng v� đ� được thấy d�ng m�u của những vị tử đạo tu�n đổ. An� từ khước lời cầu h�n của người thanh ni�n lương d�n v� bị tố gi�c trước quan tổng trấn.

Theo một trong c�c cuộc đối chất tuyệt vời m� cả trăm ngh�n Kit� hữu cho l� ch�nh x�c, c�c lời hứa hẹn với những đe dọa chẳng c� nghĩa l� g� đối với đức tin v� l�ng can đảm của th�nh nữ. Người thiếu nữ từ chối kh�ng thờ lạy thần Minerva. Một � tưởng quỷ qu�i nảy ra trong đầu �c quan tổng trấn. �ng truyền dẫn thiếu nữ đến x�m bất lương mặc cho bọn say m� n�ng x�m phạm. Ng�i bị lột hết y phục. Nhưng t�c d�i phủ k�n người Ng�i. Hơn nữa nguồn s�ng bởi trời bao quanh Ng�i l�m th�nh một chiếc �o trắng diệu kỳ. Con của vị tổng trấn định cả gan x�m phạm tới Ng�i nhưng bị ng� chết như bị s�t đ�nh. An� đầy thương cảm đ� xin thi�n thần cứu sống anh v� anh sẽ trở lại đạo.

Điều kỳ diệu kh�ng c� giới hạn v� mọi sự đều c� thể cả. Bị đưa v�o l� lửa, nhưng người thiếu nữ bất khuất kh�ng bị thi�u sống. Th�nh Ambr�si� n�i : - Ng�i đi chịu khổ h�nh một c�ch vui vẻ c�n hơn một người đi v�o loan ph�ng của m�nh, v� Ng�i kh�ng đi đến c�i chết nhưng đi v�o bất tử, Ng�i được trang điểm kh�ng phải bằng những tr�n ch�u ngọc b�u, nhưng bằng �nh s�ng si�u nhi�n.

C�c ngọn lửa v�y k�n m� kh�ng thi�u đốt An�. Vậy Ng�i phải bị ch�m đầu mới được. V� người ta thấy một thiếu nữ yếu ớt khuyến kh�ch người l� h�nh tay ch�n run rẩy : - Chặt đi đừng sợ g�, để t�i sớm đến được với Đấng l�ng t�i y�u mến.

Tường thuật đ� được tiểu thuyết ho� v� l�m say m� l�ng đạo đức của c�c t�n hữu, nhưng sẽ kh�ng đủ để t�n Ng�i được qu� trọng như vậy, nếu kh�ng chắc chắn rằng An� l� th�nh trẻ tử đạo m� đức tin, đức mến v� l�ng �i mộ đức khiết trinh c�n mạnh mẽ hơn cả sự chết.

Lịch sử th�nh An� c�n được ph�p th�m bằng qua lời truyền khẩu về Em�rentiana, người chị em c�ng một v� nu�i với Ng�i. V�i ng�y sau khi An� tử đạo, d�n ngoại bắt gặp Em�rentiana với c�c t�n hữu kh�c cầu nguyện b�n mộ Ng�i.

C�c Kit� hữu chạy trốn nhưng Em�rentina ở lại v� bị n�m đ�. Cha mẹ An� ch�n cất n�ng b�n mộ con g�i m�nh. đ�m sau họ thức cầu nguyện v� thấy An� ở giữa c�c th�nh nữ đồng trinh, với con chi�n trắng hơn tuyết b�n phải.

Th�nh An� n�i với cha mẹ: - Đ�ng kh�c v� con phải chết, tr�i lại cha mẹ h�y vui mừng v� con được hiệp nhất ở tr�n trời với Đấng con đ� y�u mến hết l�ng khi ở dưới đất.

Để nhớ đoạn lịch sử n�y, ng�y 21 th�ng gi�ng, sau th�nh lễ cử h�nh tr�n mộ x�c th�nh An�, người ta dẫn tới hai con chi�n, l�ng kết sao v�ng v� đeo nải trắng một con, đỏ một con. Hai con chi�n được đặt tr�n b�n thờ trong một giỏ m�y, được ch�c l�nh v� d�ng cho Đức Th�nh Cha, sau đ� được gởi về tu viện th�nh C�cilia.

Nơi đ�y c�c nữ tu nu�i ch�ng lớn l�n, l�ng ch�ng d�ng để dệt c�c "Pallium", phẩm phục dệt bằng len trắng, c� th�u th�nh gi� đen, m� Đức gi�o ho�ng gửi cho c�c Đức Tổng gi�m mục mặc tr�n �o cho�ng ngo�i, như dấu hiệu tỏ sự k�nh trọng.


Ng�y 22-01

Th�nh VINHSƠN
Ph� Tế Tử Đạo (... 304)

Th�nh Vinhsơn sinh tại Huesca nước T�y Ban Nha. Từ nhỏ, th�nh nh�n đ� theo gi�p Th�nh gi�m mục Val�ri� v� được Ng�i dạy dỗ cho cả về gi�o l� lẫn văn h�a. Lớn l�n, Ng�i c�n được đức gi�m mục phong chức ph� tế để c� thể l�m việc đắc lực hơn.

Trong cuộc b�ch hại của Dacian�, đức gi�m mục gi�o phận Saragossa v� vị ph� tế của Ng�i bị bắt trước hết. Xiềng c�c Ng�i lại, Dacian� tống c�c Ng�i v�o ngục. Nhưng khi mở ngục ra, �ng đ� ngạc nhi�n khi thấy c�c Ng�i vẫn tươi tỉnh mạnh khỏe. Sau khi dụ dỗ lẫn đe dọa đủ c�ch m� kh�ng lay chuyển nổi đức tin của vị gi�m mục gi� nua với vị ph� tế của Ng�i. Daciano liền ph�n c�ch hai người ra. Cuộc tra tấn d� man ph� tế Vinhsơn bắt đầu. Người ta căng Ng�i ra tr�n giường rồi thi nhau đ�nh đ�n cho tới khi da thịt r�ch n�t v� m�u phun ra lai l�ng. Dầu vậy th�nh nh�n vẫn tươi tỉnh, thỉnh thoảng c�n kh�ch lệ l� h�nh nữa. Tức giận, Dacian� truyền lấy m�c sắt nung đỏ để x� thịt Ng�i. Ch�nh bọn l� h�nh cũng phải r�ng m�nh đối với h�nh phạt.

Cuối c�ng, để cho tội nh�n chết dần, �ng truyền n�m th�nh nh�n v�o ngục tối đầy miểng chai bể. Dầu vậy th�nh nh�n vẫn sống. Tương truyền rằng: khi Ng�i bị sa thải v�o ngục th� ngục thất bỗng s�ng trưng. Qu�n canh hoảng sợ chạy trốn, chỉ c� vi�n cai ngục t� m� ở lại coi v� được ơn đức tin. Th�n x�c đau đớn r� rời, nhưng từ trong ngục thất, Ng�i vẫn kh�ng ngớt h�t ca vịnh ch�c tụng Ch�a.

Cuối c�ng, bạn b� th�nh nh�n được ph�p tới thăm. Họ dọn cho Ng�i một c�i giường nệm. Nhưng khi vừa dặt th�nh nh�n l�n giường th� Ng�i tắt thở.

Người ta kể rằng, cho tới nỗi đ� m� Dacian� vẫn c�n giận dữ. Ong h�nh hạ x�c chết cho hả giận. Trước hết, �ng truyền vứt x�c th�nh nh�n v�o hoang địa cho chim trời x�u x�. Nhưng một con quạ khổng lồ đ� đến canh x�c kh�ng cho con vật n�o tới gần. Dacian� cố gắng lần ch�t bằng c�ch cột đ� để d�m x�c th�nh nh�n xuống biển cho c� rỉa. Nhưng s�ng biển lại đ�nh dạt t�i dựng x�c Ng�i v�o bờ v� tại nơi n�y người ta đ� x�y cất một th�nh đường d�ng k�nh th�nh nh�n.


Ng�y 24-01

Th�nh PHANXIC� SAL�
Gi�m Mục Tiến Sĩ (1567-1622)

Một đứa trẻ giận dữ nhất cũng phải n�i rằng: th�nh Phanxic� Sal�ci� l� vị th�nh hiền ho� nhất thế giới, Ng�i đ� biết c�ch để sửa m�nh v� do đ� đưa ra phương thức tốt đẹp để n�n th�nh: "T�i chỉ nghĩ tới sự dịu hiền, dĩ nhi�n, kh�ng phải chỉ c� điều đ� m� th�i. Sau n�y c�c bạn hữu Ng�i đ� ngạc nhi�n v� sự im lặng th�nh nh�n giữ được trước những lăng nhục.

Ng�i n�i: - "G� vậy, bạn muốn t�i bỏ mất trong gi�y l�t một ch�t dịu d�ng m� t�i đ� mất 20 năm để thu thập sao ?"

Sự dịu d�ng Ng�i đ� thực hiện với bao nghị lực, bắt nguồn từ t�nh y�u Thi�n Ch�a, Ng�i đ� c� thể n�i với bạn b� sau một cảnh th� tục m� một l�nh Ch�a đ� l�m cho Ng�i rằng : - T�i giận s�i người l�n, nhưng t�i th�ch chết đi c�n hơn l� n�i l�n một điều nhỏ n�o c� thể l�m buồn l�ng Thi�n Ch�a.

Thật kh� hiểu nổi c�ch thế m� trong Ng�i, một l�ng nh�n hậu dịu d�ng như vậy đ� thay thế cho bạo lực. Đối với người dọa nạt, Ng�i trả lời: - Thưa �ng, nếu �ng c� một con mắt, t�i sẽ nh�n �ng bằng con mắt kia với l�ng tr�u mến.

Cả th�nh Vincent� Phaol� cũng n�i : - Khi muốn chi�m ngưỡng sự dịu hiền của Thi�n Ch�a, t�i nh�n về gi�m mục th�nh Gh�n�va.

Ch�o đời ng�y 21 th�ng t�m năm 1567 ở l�u đ�i Sales, Phanxic� từ trong n�i đ� gặp được đức tin v� đức �i. Ng�i học được từ người mẹ đ� từng dẫn Ng�i đi thăm c�c người ngh�o kh�, để y�u thương v� gi�p đỡ họ. Năm 1582, Ng�i theo học khoa h�ng biện v� �n triết tại Paris. V�o tuổi 17 một cơn dằn vặt thi�ng li�ng kinh khủng �m ảnh Ng�i: người tưởng rằng: m�nh kh�ng c�n sống trong t�nh trạng ơn th�nh nữa, hoả ngục d�nh cho Ng�i v� nơi khủng khiếp n�y kh�ng c�n t�nh y�u Ch�a nữa.

Phanxic� cầu khần : - Lạy Ch�a �t ra cuộc sống vắn vỏi n�y con biết d�nh để y�u mến Ch�a.

Kiệt sức, Ng�i chạy đến xin đức Trinh nữ g�n giữ m�nh được trinh trong v� cứu tho�t cho khỏi cơn thử th�ch gay go n�y. Ng�i đọc kinh "h�y nhớ" v� sau c�ng t�m lại được b�nh an.

Từ năm 1586 -1591, Ng�i theo học luật tại Padua v� đậu bằng tiến sĩ. Trở lại gia đ�nh gia đ�nh, Ng�i được đ�n tiếp trong niềm h�n hoan phấn khởi. Cha mẹ Ng�i vui sướng về đ�m cưới của Ng�i. Nhưng Ng�i đ� từ khước mọi dự định của gia đ�nh. Hạnh ph�c v� danh vọng trần thế kh�ng đ�ng kể g� đối với Phanxic�, con người đ� được t�nh y�u tuyệt đối chiếm đoạt, Ng�i muốn trở th�nh linh mục. Được phong chức v�o ng�y 31 thắng 5 năm 1593, Ng�i trở th�nh linh mục ho�n hảo, lu�n c� Ch�a Gi�su ngự trong m�nh, Ng�i sống gần d�n l�ng như một người cha hiền, c� mặt trong mọi sự. Gặp cơn dịch hạch lan tr�n, ng�y đ�m người ta thấy Ng�i đi từ bệnh nh�n n�y tới bệnh nh�n kh�c, ch� � tới những thể x�c lẫn tinh thần đau khổ.

Một sứ mệnh lớn lao k�u gọi tới Phanxic�. Những người theo ph�i thệ phản th�m nhiều trong xứ sở, ph� hủy nhiều nh� thờ v� tu viện, l�ng nhiệt th�nh đ� đưa Ng�i tới với đức Cha Granier, gi�m mục Gh�n�va, Ng�i được ph�p hiến m�nh thực hị�n một nỗ lực dường như kh�ng thể được, l� đưa d�n ch�ng Chablais trở lại khỏi ảnh hưởng ph�i ở Calvinn�. Kh�ng c� đe dọa hay bạo lực n�o bắt Người ngừng giảng được. Nơi n�o kh�ng thể đến rao gảing, Ng�i ph�n ph�t truyền đơn. Suốt ba năm dưới ảnh hưởng của th�nh nh�n, 72 ng�n người theo thệ phản đ� ho�n cải.

Năm 1602, vua Henri IV đ� muốn th�nh Phanxic� l�m gi�m mục th�nh Paris nhưng Ng�i đ� từ khước danh dự n�y v� n�i : - Thưa Ng�i, t�i đ� đ�nh h�n với một b� Ch�a ngh�o, t�i kh�ng thể từ gi� b� để theo một b� kh�c gi�u c� hơn.

Nh� vua rất th�n phục sự độc lập của Ng�i v� tuy�n bố rằng: Phanxic� vĩ đại hơn �ng l� kẻ l�m vua nhiều. Dầu vậy th�ng 6 năm 1602, Ng�i Ng�i đ� phải nhận t�a gi�m mục Annecy - Gheneva.

C�c b�i giảng thuyết của Ng�i sớm lừng danh, đến độ những th�nh phố lớn đ�i được nghe tiếng Ng�i. Nhưng gi�m mục người Xa-voa (Savoie) th�ch giảng cho d�n ngh�o hơn. Ng�i c�n cho họ cả tới �o mặc của m�nh. Người ta thấy Ng�i kh�ng giữ lại g� cho m�nh. Ng�i chỉ th�nh gi� v� n�i: - Người ta c� thể từ chối điều g� được, đối với một Thi�n Ch�a đ� tự đặt m�nh v�o trạng huống n�y v� ch�ng ta ?

Đối với c�c tội nh�n, Ng�i th�n t�nh đ�n tiếp họ: - C�c con h�y đến đ�y để cha �m ẵm v� đặt c�c con v�o l�ng cha. Cha chỉ đ�i c�c con một điều l� kh�ng được thất vọng, phần c�n lại cha l�nh tất cả.

Đi t�m kiếm một linh hồn, nếu cần Ng�i vượt qua rừng trong đ�m tối, bất chấp bọn cướp giật hay th� rừng độc dữ, ch�n Ng�i thường rớm m�u v� băng gi�. Một lần bọn s�t nh�n nh�o tới, Ng�i �u yếm bảo họ : - C�c bạn kh�ng cần đ�i mạng t�i l�m chi, bởi v� t�i đ� hiến mạng sống t�i để bảo tồn sự sống của c�c bạn.

Người ta c� thể thấy r� l� Ng�i đ� n�i thực. Bao người s�t nh�n đ� l�m như bao người kh�c: họ trở th�nh bạn hữu của Phanxic�. V� l�m sao y�u Ng�i, m� lại kh�ng y�u t�n gi�o đ� l�m cho Ng�i hiến th�n trọn vẹn cho mỗi t�m hồn như vậy. Ng�i n�i : - Một linh hồn l� một gi�o phận rộng đủ cho một gi�m mục rồi.

Phanxic� kh�ng ngừng rao giảng, ngồi t�a, thăm viếng bệnh nh�n, gi�p đỡ người c�ng khổ. Giữa những c�ng việc bề bộn, Ng�i c�n viết nhiều t�c phẩm được nhiều Kit� hữu mến chuộng như quyển: "Đường trọn l�nh", quyển "Dẫn v�o đời sống nhiệt th�nh" (cuốn n�y đ� được chuyển sang Việt ngữ với tựa đề: sống th�nh giữa đời), chứng tỏ rằng: đời nhiệm hiệp v� c�c nh�n đức cao cả nhất, đều c� thể nảy nở, ngay trong cuộc sống từ cung điện, lẫn "trong binh đội v� trong c�c xưởng m�y", Ng�i truyền "dệt n�n những sợi d�y nh�n đức nhỏ b�". Cuốn "khảo luận về t�nh y�u Thi�n Ch�a" của Ng�i đ�ng cho Ng�i được vinh quang như ở giữa bầu lửa, trong khi chuẩn bị viết về t�nh y�u của Ng�i Lời vĩnh cửu.

Th�nh Phanxic� đ� lập nhiều tu viện v� tiếp tục hứơng dẫn c�c tu viện ấy. Hai ng�n bức thư của Ng�i vẫn c�n, Ng�i trao d�ng "Thăm viếng" cho th�nh nữ Chantal, Đấng m� Ng�i hiệp nhất bằng một t�nh y�u trắng hơn tuyết, trong s�ng hơn �nh mặt rời.

Th�nh nh�n kiệt sức khi Ng�i nhận giảng dạy tại Lyon dịp lễ Gi�ng sinh. Ng�i ng� bệnh l�c l�n đường. Vừa tới nơi Ng�i biết m�nh sắp chết. Người ta chỉ c�n nghe thấy Ng�i n�i : - Lạy Ch�a l� tất cả của con.

Với c�c bạn b� đang kh�c l�c Ng�i n�i : - C�c bạn lại kh�ng muốn � Ch�a được thực hiện sao ?

Trọn đời th�nh Phanxic� y�u mến ho�n th�nh th�nh � Ch�a. B� quyết đời th�nh thiện của Ng�i diễn tả như sau : - Với gi� vĩnh cửu, c�i g� chấm đứt với thời gian lại c� thể ảnh hưởng tr�n ch�ng ta được ? Phải ước muốn một m�nh Thi�n Ch�a th�i, một c�ch tuyệt đối kh�ng thay đổi v� bất khả x�m phạm.

Ng�i qua đời ng�y 28 th�ng 12 năm 1622 v� được Đức G�io ho�ng Alexandre VII t�n phong hiển th�nh năm 1665.


Ng�y 25-01

Th�nh PHAOL� T�NG ĐỒ TRỞ LẠI

Th�nh Phaol� t�ng đồ, vị t�ng đồ cột trụ của Gi�o hội sơ khai v� vẫn c�n l� t�ng đồ n�ng cốt của Gi�o hội cho đến c�ng. Tuy nhi�n, Ng�i l� vị t�ng đồ kh�ng thuộc nh�m mười hai. Tr�i lại, Ng�i c�n c� một qu� khứ b�ch hại đạo Ch�a nữa. Bởi đ� c�ng nhớ ơn Ng�i bao nhi�u, ch�ng ta c�ng thấy biến cố xoay đổi vị t�ng đồ cả quan trọng bấy nhi�u. Trước khi nghe ch�nh Ng�i kể lại cuộc trở lại của m�nh. Ch�ng ta t�m hiểu vắn tắt qu� khứ chống đạo của Ng�i.

Phaol� c� t�n Do th�i l� Saul�, sinh ra tại Tars� (Cv 22,3) cha mẹ gốc Do th�i thuộc chi họ Benjamin (Rm 11,1; Ph 3,5). Bởi đ� Ng�i n�i được cả hai thứ tiếng Hy lạp v� Aram (Cv 21,40.26,14) Ng�i l�n Gi�rusalem theo đuổi việc học h�nh với thầy Gamaliel (Cv 22,3) v� trở th�nh người biệt ph�i nghi�m nhặt (Cv 23,6. Lc 15,9. Gl 1,13. Ph 3,5). Do đ� khi thấy một nh�m t�n gi�o mới xuất hiện, Saul� đ� nhiệt th�nh t�m c�ch ngăn chận. Nhiệt t�m ấy đ� dẫn tới việc đổ m�u St�phan�, trong ấy Saul� kh�ng chỉ chứng kiến m� dường như giữ phần chủ chốt (Cv 1,58).

Nhiệt t�m c�n th�c đẩy Ng�i đi xa hơn nữa tr�n đường đi Damas t�m bắt người c�ng gi�o v� tr�n con đường n�y Ng�i đ� được cải h�a. C�u chuyện được Luca kể lại trong s�ch C�ng vụ 9,1-23 hoặc ch�nh vị t�ng đồ cũng đ� kể lại, để biện minh trước mặt người Do th�i (Cv 22,1-21) hay trước mặt Fest� v� Agrippa (Cv 26,1-23).

Ch�ng ta h�y nghe ch�nh vị t�ng đồ n�i về cuộc trở lại của m�nh : - "T�i l� người Do th�i, sinh tại Tars�, xứ Cilieia, đ� được nu�i nấng trong th�nh n�y (tức Gi�rusalem) đ� thụ gi�o dưới ch�n Gamaliel, rập theo khu�n ph�p nhiệm nhặt của lề luật cha �ng, nhiệt t�m thờ phượng Thi�n Ch�a cũng như c�c �ng hết ng�y h�m nay. T�i đ� bắt bớ đạo n�y, đến chết ch�c cũng kh�ng từ, xiềng x�ch đ� được c�c thượng tế cho cầm tr�t để th�ng tri cho đồng b�o m� l�n đường đi Damas, để bắt tr�i những người Kit� hữu ở đ� v� giải về Gi�rusalem để trừng trị.

Số l� dọc đường khi tới gần Đamas, th� v�o lối giữa trưa th�nh l�nh tự trời, một �nh s�ng ch�i l�a l�e rạng bao phủ lấy t�i, t�i ng� xuống nền đất, v� nghe c� tiếng n�i với t�i : - Saul�, Saul� tại sao ngươi bắt bớ ta ?

T�i hỏi : "Thưa Ng�i, Ng�i l� ai ?". V� Ng�i n�i c�ng t�i : "Ta l� Gi�su Nazareth, ngươi đang bắt bớ". Những người đi với t�i c� thấy �nh s�ng, nhưng họ kh�ng nghe tiếng người n�i với t�i. T�i n�i : "Lạy Ch�a t�i phải l�m g� ?"

V� Ch�a n�i c�ng t�i : - Chỗi dậy m� v�o Damas. Ơ đ� sẽ n�i cho ngươi mọi điều đ� định cho ngươi l�m. Bởi t�i kh�ng c�n thấy được, l�a v� �nh s�ng của sự s�ng kia, n�n t�i đ� được c�c người đi với t�i dắt tay v�o Damas.

C� Ananis, một người đạo đức chiếu theo lề luật. V� được chứng nhận nơi mọi người Do th�i sở tại, �ng đến gặp t�i v� đứng b�n t�i, �ng n�i : - Anh Saul�, anh được thấy lại.
V� ngay giờ ấy t�i đ� được thấy lại.

�ng lại n�i : - Thi�n Ch�a của cha �ng ch�ng ta đ� tiền định cho anh được biết th�nh � Ng�i, được thấy đấng c�ng ch�nh v� nghe tiếng ph�t xuất tự miệng Ng�i, v� anh sẽ l� chứng t� cho Ng�i trước mặt mọi người về điều anh đ� thấy đ� nghe. V� b�y giờ sao c�n lần lựa ? H�y chỗi dậy chịu thanh tẩy v� chịu rửa m�nh cho sạch c�c tội của anh, miệng k�u khấn danh Ng�i.

Xẩy ra l� khi t�i về Gi�rusalem, v� cầu nguyện trong đền thờ, t�i đ� được ngất tr�, v� được thấy Ng�i ph�n bảo t�i: - H�y mau ra khỏi Gi�rusalem, v� ch�ng sẽ kh�ng đ�n nhận chứng của người về ta.

T�i mới n�i: - Lạy Ch�a, họ biết lắm : ch�nh t�i đ� bỏ t� v� đ�nh đ�n khắp c�c hội đường những kẻ tin v�o Ch�a, v� khi người ta đổ m�u Stephan�, chứng t� của Người, th� ch�nh t�i đ� c� mặt v� t�n đồng, c�ng canh giữ �o cho�ng cho những kẻ giết anh ấy.

Nhưng Ng�i ph�n bảo : - H�y đi, v� Ta sai ngươi đi xa, đến với d�n ngoại (Cv 22-23)

Những tường thuật n�y cho thấy kinh nghiệm tr�n đường Damas kh�ng chỉ nơi cuộc trở lại của Phaol� m� c�n ấn định những tư chất c� nh�n trong đức tin v� Tin Mừng của vị t�ng đồ. Tất cả đều tập ch� v�o Ch�a Gi�su l� đấng đ� sống lại m� vẫn sống trong Gi�o hội Người. Kinh nghiệm Damas c�n bao h�m sứ mệnh trao cho Phaol� rao giảng Tin Mừng cho d�n ngoại, một sứ mệnh thiết định t�nh c�ch phổ qu�t của Tin Mừng m� c� lẽ Phaol� chưa nhận thấy ngay. Ngo�i ra cuộc trở lại của Phaol� c�n cho thấy ngay. Ngo�i ra cuộc trở lại của Phaol� c�n cho thấy quan niệm về sự k�u gọi v� sự chọn lựa do Thi�n Ch�a thực hiện.


Ng�y 26-01

Th�nh TIM�T�� V� TIT� GI�M MỤC

Th�nh TIM�T�� (thế kỷ I)

L� con của người cha Hilạp v� người mẹ Do th�i, th�nh TIM�T�� đ� được theo đạo v�o năm 47 khi th�nh Phaol� giảng đạo tại Lystra miền tiểu � trong cuộc b�ch hại dữ dội khiến th�nh Phaol� bị m�m đ� đến gần chết (Cv 14,6-19) Trong cuộc viếng thăm lần thứ hai v�o năm 50 th�nh Phaol� đ� chọn Ng�i như người bạn đồng h�nh thay thế cho Marc� (Cv 13,13.15,38) v� c�ng với Silas lo việc truyền gi�o tại Trung � (Cv 16,1).

Như thế, Timot�� đ� chứng kiến việc rao giảng Tin Mừng đầu ti�n cho �u ch�u. Từ đ� Ng�i thường được s�ch C�ng vụ c�c sứ đồ v� c�c th�nh thư nhắc đến như một trong c�c "t�ng đồ" hay thừa ph�i th�nh Phaol� giữ lại hoặc sai đi quan s�t c�c cộng đo�n Kit� hữu đ� được thiết lập. Khoảng năm 51 Ng�i cũng k� t�n với th�nh Phaol� trong c�c thư gửi t�n hữu Thessalonica v� ch�nh Ng�i đ� từ C�rint� mang thư đến cho cộng đo�n mới trở lại đạo.

Năm 57 Ng�i trở lại để mang thư thứ hai gửi c�c t�n hữu C�rint� v� năm sau, Ng�i lại c�ng với th�nh Phaol� gửi thư ch�o Gi�o hội R�ma. Cuối c�ng khi Phaol� bị điệu về Roma, Timoteo vẫn c�n ở b�n cạnh Ng�i, k� t�n v�o c�c thư gửi đi v�o khoảng năm 62 cho d�n Phil�mon, d�n C�los� v� Philippe (Ph 2,20)

Năm 65 h�nh như Phaol� được thả v� c� dịp thi h�nh dự định rao giảng Tin Mừng ở thế giới t�y phương. Vắng mặt ở miền Đ�ng. Th�nh Phaol� v�n li�n kết với c�c cộng đo�n Kit� hữu, dầu kh�ng l�n kết với một cộng đo�n n�o với tư c�ch gi�m mục cả. Timot�� th� ước hẹn với � Ch�u v� đặt địa điểm ở Ephes�. Ở đ�y Ng�i nhận được hai l� thư của Phaol�, một l� thư từ Mac�donia khoảng năm 65 v� l� thứ kh�c khoảng hai nămsau gửi từ Roma, l� nơi Phaol� bị giam lần thứ hai.

Ch�nh nhờ những l� thư n�y m� ch�ng ta biết được nhiều về Timot��. Ch�ng thường đề cập đến nguy hiểm m� c�c Gi�o hội ở � ch�u phải đương đầu, nhưng ch�ng cũng đưa ra �nh s�ng t�nh kh� m� con người Phaol� đ� để lại chống đỡ với nguy hiểm. R� r�ng l� c� t�nh nh�t nh�t, e d�, nhưng Ng�i cũng đủ nhiệt t�m trong c�ng việc, đến nỗi cần được nhắc nhở phải quan t�m tới sức khỏe của m�nh. Ng�i cũng biết r� những đau khổ phải chịu để bảo vệ đức tin (2Tm 3,12) v� những lời khuy�n th�nh Phaol� lặp lại kh�ng được gợi l�n, bởi rằng Timot�� yếu đuối, nhưng đ�ng hơn v� biết rằng ng�y c�ng của m�nh đ� gần, v� rồi những người trợ gi�p m�nh sẽ phải kề vai v�c lấy g�nh nặng một m�nh. Cuối c�ng Phaol� chỉ c�n biết nhắc đến ước nguyện của m�nh l� Timot�� h�y giữ "đạo l�", đức hạnh, dự định, l�ng tin, đại lượng, mến y�u, ki�n nhẫn" (Tm 3,10) như Ng�i đ� học được. Phaol� gọi Timot�� đến an ủi m�nh trong những giờ ph�t cuối c�ng, lời gọi chứng tỏ h�ng hồn rằng Timot�� l� con rất th�n y�u của th�nh Phaol�.

T�n ước c�n c� một ghi ch� nữa về Timot�� trong thư Philip.13,23 trong đ� c� ghi nhận rằng: Phaol� được thả ra khỏi cảnh t� tội lần 2 khoảng năm 67 v� t�c giả muốn c� Timot�� th�p t�ng về Gi�rusalem.

Một truyền thống cho rằng th�nh Timot�� đ� ở lại Eph�s� cho tới hết đời. S�ch "C�ng vụ th�nh Timot��" thế kỷ IV m� tả c�i chết của Ng�i như l� bị n�m đ� v� bị đ�nh đập cho đến chết, nhưng t�i liệu qu� �t n�n kh�ng r� được rằng điều đ� c� đ�ng nguồn hay kh�ng.

Constantinople cho rằng: m�nh giữ được c�c di t�ch của th�nh nh�n v� lễ kinh nhớ Ng�i được cử h�nh n�y 26 th�ng gi�ng, tiếp liền ng�y k�nh nhớ thầy m�nh.

Th�nh TIT� (thế kỷ I)

Sinh ra l� lương d�n, th�nh Tit� đ� được th�nh Phaol� cải h�a v� được gọi l� "người con ch�n th�nh của t�i trong sự th�ng hiệp với đức tin". Tit� nhận được những sứ mệnh kh� khăn. Ng�i được th�nh t�ng đồ gửi tới d�n C�rint� để tổ chức gi�o đo�n v� thu tiền quy�n c�ng ủng hộ Gi�o hội ở Gierusalem.

Th�nh Phaol� trong một bức thư đ� bộc lộ l�ng y�u qu� s�u xa đối với người bạn đời của m�nh: "T�m tr� t�i kh�ng thảnh thơi ch�t n�o v� xa c�ch bạn Tit� đi C�rint� một lần nữa để sửa chữa những bất ho� v� th�nh Tit� đ� mang lại cho Ng�i những tin tức tốt đẹp hơn.

Th�nh Tit� l�nh tr�ch nhiệm tổ chức gi�o đo�n ở đảo Cr�ta. Ơ đ� Ng�i nhận thư mang danh m�nh, th�nh t�ng đồ truyền: "H�y n�i với c�c vị cao ni�n phải tiết độ đ�ng ho�ng điềm đạm, l�nh mạnh về đức tin, đức mến v� ki�n nhẫn... hạng thiếu ni�n cũng vậy, h�y truyền dạy họ phải biết ở điềm đạm. Trong mọi sự anh em h�y tỏ ra l� gương mẫu về đức hạnh, tinh to�n v� đoan trang trong gi�o huấn (Tt 2,2-10).

Th�nh Tit� qua đời khoảng năm 105.


Ng�y 27-01

Th�nh ANG�LA M�RICI
Đồng trinh (1474-1540)

Ang�la M�rici sinh ng�y 21-3-1474 ở Dessenzan� b�n hồ Garda. Khi l�n mười, Ng�i đ� bị mồ c�i cha mẹ. Những t�n hữu đạo đức ước ao cho con c�i m�nh t�m được hạnh ph�c trong vinh quang Ch�a v� đưa cuộc đời c�c th�nh ra l�m gương mẫu. Cậu của Ng�i l�nh tr�ch nhiệm gi�o dục Ng�i, cũng theo một tinh thần tr�n. Khi c�c �ng cậu qua đời, Ng�i lại về sống với anh em. Ang�la l� một c� g�i đạo đức v� để bảo đảm sự th�nh thiện của m�nh, Ng�i đ� gia nhập hội d�ng ba th�nh Phanxic�, hiến m�nh l�m việc b�c �i, nhất l� việc gi�o dục trẻ em.

Một ng�y kia Ang�la được thị kiến thấy một chiếc thang nối liền đất với trời. Một đo�n trinh nữ leo l�n từng bậc thang ấy v� một người trong số đ� n� với Ng�i : - Chị sẽ l�m mẹ đ�m người ấy.

Theo l�ng đạo đức thời đ�, người thiếu nữ đ� đi h�nh hương nhiều nơi. Rồi với một nh�m người h�nh hương, Ng�i muốn đi h�nh hương Gi�rusalem. Nhưng Ng�i bị một cơn m� l�a nhiệm lạ tại Candie v� chỉ hết bệnh khi Ng�i trở lại đ�y. Ng�i đ� giải th�ch sự kiện nầy như biểu tượng sự từ bỏ, l�m nền tảng cho mọi dự định của m�nh. Ang�la đến yết kiến Đức Th�nh cha v� lo thực hiện c�ng tr�nh giữa những sự đau khổ của chiến tranh. Ng�i tận tụy nhiều cho người ngh�o v� d�n lao động. Những kỷ niệm cuộc thị kiến �m ảnh l�ng Ng�i m�i. Ng�i đ� tới Brescia l� nơi c� một ng�i nh� d�nh cho Ng�i xử dụng.

Một số thiếu nữ đến qui tụ b�n Ng�i. Đ�y l� hạt nh�n của một hội d�ng m� Ng�i sẽ th�nh lập với một h�nh thức tu tr� mới mẻ đối với thời đại, một cuộc sống nối kết sự chi�m niệm với việc dạy dỗ trẻ em. Ang�la đặt hội d�ng dưới sự bảo trợ của th�nh nữ Ursula, vị nữ đồng trinh th�nh C�l�gna, đ� được t�n vinh như l� một nữ anh h�ng chiến thắng man rợ về văn h�a.

Phương ph�p của th�nh Ang�la thật kh�c với � niệm t�n tiến về một trường d�ng Ng�i th�ch sai c�c nữ tu đến dạy c�c thiếu nữ tại ngay gia đ�nh họ. Ng�i thường n�i : - X�o trộn trong x� hội l� kết quả sự x�o trộn ngay tự trong gia đ�nh.

Kh�ng được học h�nh nhiều. Th�nh Ang�la c� những trực gi�c lạ l�ng. Ng�i nghĩ rằng : người ta chỉ c� thể canh t�n phong h�a tự gia đ�nh, v� gia đ�nh được canh t�n l� do việc gi�o dục phụ nữ.

Th�nh Ang�la M�rici được biết tới như vị s�ng lập d�ng của c�c nữ tu Ursula. Thực sự Ng�i l� vị s�ng lập, dầu kh�ng đ�ng với c�c � hướng của Ng�i. Bởi v� Ng�i xem ra c� hơi cấp tiến đối với thời đại của m�nh. Dự định của Ng�i về c�c nữ tu l� kh�ng c� y phục ri�ng, kh�ng c� lời khấn trọng, kh�ng c� lũy r�o để dễ đến với tuổi trẻ hứa hẹn của tương lai, v� để c� thể phục vụ tha nh�n hữu hiệu hơn. Nhưng dự định n�y đi ngược với những � niệm thịnh h�nh thời Ng�i v� dưới ảnh hửơng của th�nh Car�l� Berr�m�� v� của qui luật của đức Th�nh cha (Th�nh Pi� V) l� buộc c�c nữ tu Ursula phải nhận những bảo đảm theo gi�o luật đ�i buộc mọi nữ tu.

Những năm cuối đời, th�nh Ang�la M�rici thường hay xuất thần. Ng�i qua đời ở Brescia ng�y 27 th�ng gi�ng năm 1540.


Ng�y 28-01

Th�nh T�MA AQUIN�
Linh mục Tiến sĩ (1225-1274)

Tại vương quốc Naples, người vợ qu� ph�i của l�nh ch�a Aquin� được vị tu sĩ Th�nh thiện cho biết, l� b� sẽ rất đỗi vui mừng v� con trẻ b� mong đợi sẽ s�ng ch�i với sự hiểu biết kh�n s�nh, Người con ấy l� T�ma. Ng�i sẽ l� một vị th�nh trong h�ng ngũ c�c th�nh. Toma sinh tại l�u đ�i Roccasecca, gần Naples khoảng năm 1225.

Được s�u tuổi cha n�ng dẫn tới tu viện Mont� Cassin�. Con trẻ được d�ng hiến đ� hỏi: - Thi�n Ch�a l� g� ?

V� c�c tu sĩ ngạc nhi�n v� thấy ch�m đắm trong c�c suy ngắm (qu� sớm v� s�ng suốt) ấy.

L�c mười tuổi, Ng�i được gửi tới đại học Naples. C�c gi�o sự đ� kh�m ph� ra dưới d�ng vẻ nh�t nh�t của Ng�i, một tr� kh�n thượng thặng v� một đời sống si�u nhi�n s�ng ngời với c�c đức t�nh hiền h�a, trong trắng v� đức �i của Ng�i. Trong những kỳ nghỉ tại l�u đ�i c�ng cha mẹ, Ng�i gắng sức trợ gi�p người ngh�o. Điều n�y l�m cho chủ l�u đ�i phiền tr�ch Ng�i. T�nh y�u của Ng�i đối với người mẹ thật bao la v� đ� tạo n�n mối d�y v� suốt đời.

Khi chưa tốt nghiệp đại học, Ng�i đ� quyết định v�o d�ng Đa-minh. L�c ấy d�ng th�nh lập chưa được ba năm. Gia đ�nh Ng�i r�ng động với � tưởng một con người qu� ph�i như vậy lại trở th�nh một tu sĩ d�ng ăn xin. Ngo�i ra họ c�n mong mỏi rằng: một ng�y kia, Ng�i sẽ c�n l�m điều g� đ�, để phục hồi vận mệnh của họ bằng việc trở lại l�m tu viện trưởng Mont� Cassin�. Nghe được tin, c�c anh của Ng�i đang l� sĩ quan trong qu�n đội, đ� giận dữ. Họ bắt Ng�i tr�n đường đi Roma v� giam Ng�i dưới ch�n th�p của l�u đ�i. Gia đ�nh gắng c�ng v� �ch khi n�i nỉ, đe dọa v� quyến rũ T�ma đổi �.

C�c anh Ng�i c�n d�ng tới một c� g�i l�ng chơi để hại người nữa. Nhưng cương quyết, T�ma đ� d�ng c�y củi ch�y để xua đuổi n�ng, rồi d�ng than củi n�y vẽ l�n tường h�nh th�nh gi�. Quỳ xuống trước h�nh th�nh gi�, Toma với nhiệt t�m mạnh mẽ hơn bao giờ hết, lập lại lời hiến d�ng đời m�nh cho Thi�n Ch�a. Được hai năm, c�c chị Ng�i đ� cảm động trước sư cương nghị v� những khổ cực của Ng�i, đ� gi�p Ng�i trốn qua cửa sổ bằng một c�i th�ng. C�c tu sĩ Đaminh đợi Ng�i dưới ch�n th�p.

T�ma khấn d�ng ở Naples, rồi đi bộ từ Roma tới đại học Colonia.

Trong m�i trường học thức ưu việt n�y, Ng�i cố dấu k�n c�c bước tiến kh�c thường của m�nh như Ng�i đ� che k�n vinh dự gia đ�nh. Kh�ng khi n�o Ng�i đ� để cho người ta ngờ rằng m�nh l� ch�u của ho�ng đế Barberoussa v� l� b� con của vua Fr�d�ric II cả. Khi�m tốn l� b� ho�ng của l�ng Ng�i. Ng�y kia một bạn học giảng b�i cho Ng�i. Toma phải l� bậc thầy của anh, đ� tiếp nhận b�i học với l�ng biết ơn. Đ� l� th�i c�m lặng của Toma. V� b�nh dị n�n Ng�i bị coi l� đần độn. Người ta gọi ch�ng trai to con n�y l� con b� c�m.

Nhưng th�y Albert� đ� coi Ng�i như một thi�n t�i v� tuy�n bố: - Con b� nầy sẽ rống lớn, đến nỗi những tiếng rống của n� sẽ vang dội khắp thế giới.

Người sinh vi�n t�i ba n�y đ� tỏ ra dễ dạy như một trẻ em. Tại ph�ng ăn, vị chủ chăn lầm lẫn, đ� bắt Ng�i sửa lại c�ch ph�t �m đ� ch�nh x�c. Lập tức Toma sửa lại liền. Sau bữa ăn c�c bạn Ng�i b�y tỏ sự ngạc nhi�n, nhưng th�nh nh�n trả lời : - Điều quan trọng kh�ng phải l� c�ch ph�t �m của một từ ngữ, nhưng l� biết khi�m tốn v�ng phục hay kh�ng.

L�c hai mươi tuổi, T�ma đ� được gọi l�m gi�o sư tại C�l�nia, Ng�i xuất bản một t�c phẩm danh tiếng, rồi đi Paris mở trường dạy triết học ở đường th�nh Giac�b� v� thụ phong linh mục. C�c nh� tr� thức tới hỏi � Ng�i. Vua Lu-y IX xin � kiến Ng�i trong những việc hệ trọng v� mời Ng�i đồng ban dự tiệc.

Nhưng kh�ng ho�n cảnh n�o đ� l�m cho T�ma chia tr� khỏi những suy tư s�u xa. Chẳng hạn tại b�n ăn của nh� vua, người ta thấy Ng�i bất chợt ra khỏi sự y�n lặng của m�nh, đập mạnh l�n b�n v� k�u l�n:- Đ�y rồi, một luận chứng quyết liệt chống lại những người theo ph�i Maniche�.

Bối rối v� qu�n rằng m�nh đang ở trước mặt vua, Ng�i muốn xin lỗi, nhưng vua th�nh đ� truyền cho Ng�i đọc ngay cho thơ k� ch�p lại những suy tư c� gi� trị si�u việt đ�.

Kinh nguyện, l�m việc v� � ch� l� những yếu tố tạo n�n sức mạnh của T�ma, Ng�i n�i: - Ai kh�ng cầu nguyện th� cũng giống như người l�nh chiến đấu m� kh�ng c� kh� giới.

Ng�i định nghĩa sự nh�n rỗi như l�: - C�i b�a m� qu�n th� bửa xuống.

Ng�i trả lời cho b� chị hỏi l�m sao để được cứu rỗi : - Phải muốn.

Dầu bận việc rao giảng, dạy học v� đi tới những nơi Đức Th�nh Cha sai tới Th�nh Toma vẫn viết nhiều t�c phẩm th�nh c�ng rực rỡ. Trong một lần hiện ra, Ng�i nghe thấy thầy ch� th�nh n�i với m�nh: - Hỡi con, con đ� viết c�ch xứng đ�ng về ta, con muốn được thưởng g� ?

T�ma trả lời: - Oi lạy Ch�a, con kh�ng muốn g� ngo�i Ch�a cả.

Người ta quả quyết rằng: Ng�i đ� n�i chuyện với Đức Trinh Nữ, c�c thi�n thần v� c�c th�nh. V� khi cầu nguyện t�m hồn Ng�i như l�a khỏi x�c. Ng�i c�n được mệnh danh m�i l� "Tiến sĩ thi�n thần" Ng�i c� một t�m hồn vui tươi, nh� nhặn với anh em, đến nỗi c� người n�i : - Mỗi lần thấy v� n�i chuyện với Ng�i, t�i thấy như tr�n ngập niềm vui thi�ng li�ng.

Th�nh nh�n đ� qua mười năm tại Italia. Một phần trong thời gian nầy ở trong gi�o triều, Đức Th�nh cha Urban� đ� trao ph� cho Ng�i nhiều trọng tr�ch, r� r�ng nhất l� lo cải h�a người Do th�i. Đức th�nh cha c�n muốn gọi Ng�i l�n chức gi�m mục nhưng Ng�i đ� từ chối. Năm 1269 Ng�i trở lại Paris để dạy thần học. Năm 1272 Ng�i được gọi về Naples để lo việc cho nh� mẹ d�ng Daminh. Được năm cuối đời Ng�i cống hiến để ho�n tất một t�c phẩm vĩ đại, bộ "Tổng luận thần học".

Nhưng cuối năm 1273 đột nhi�n Ng�i ngừng viết. Khi d�ng th�nh lễ, Ng�i bỗng c� linh nghiệm rằng m�nh kh�ng thể viết th�m được nữa. R�ginald, thơ k� của Ng�i th�c giục viết th�m, th�nh nh�n đ� trả lời rằng: theo điều đ� hiển hiện cho Ng�i th� tất cả chẳng ra g�: - "V� mọi điều t�i đ� viết đối với t�i chỉ l� rơm r�c so với điều đ� được mạc khải cho t�i thấy".

Đức Gr�g�ri� cho mời th�y d�ng danh tiếng đến dự c�ng đồng Lyon. Dầu bệnh hoạn, th�nh Toma đ� tu�n phục v� đi bộ với hai anh em để tới dự c�ng đồng. Đi đường l�n cơn sốt. Sức khỏe đ� chận Người lại tu viện Fossa Nova.

Cảm thấy sắp chết, Ng�i tuy�n xưng đức tin v� khi rước lễ, Ng�i n�i: - T�i tin vững rằng: Ch�a Gi�su Kit� l� Thi�n Ch�a thật v� l� người thật trong b� t�ch n�y, con thờ lạy Ch�a, �i Thi�n Ch�a, đấng cứu chuộc con".

Ng�i qua đời đơn sơ v� dịu hiền của một trẻ em kh�ng ngừng chi�m ngưỡng Thi�n Ch�a.

Năm 1323 Ng�i được phong th�nh v� được tuy�n bố l�m tiến sĩ Hội Th�nh năm 1567, Đức L�o XIII đ� đặt Ng�i l�m Đấng bảo trợ c�c nh� thần học v� c�c trường c�ng gi�o.


Ng�y 31-01

Th�nh GIOAN BOSC�
Linh mục (1815-1888)

Ng�y 16 th�ng 8 năm 1815, Gioan ch�o đời trong một t�p lều tranh thuộc tỉnh Turin�. Cha Ng�i qua đời l�c Ng�i được hai tuổi. Mẹ Ng�i l� b� Magarita một m�nh nu�i nấng ba người con trai. B� tập cho con quen với c�ng việc nặng nhọc, với đời cầu nguyện. B� thường lập lại với c�c con b� : - Ch�a thấy hết, Ch�a thấy hết.

V� con c�i b� biết rằng ch�nh nhờ t�nh y�u m� Người ta l�m đẹp l�ng Ch�a, Gioan sau n�y sẽ n�i : - Nếu t�i trở th�nh linh mục đ� l� nhờ mẹ t�i.

Cậu b� đ� tỏ ra c� ơn gọi l�m t�ng đồ. Ngo�i đồng cỏ, Ng�i đ� đổi phần b�nh ngon miệng của m�nh lấy mẩu b�nh đen của một mục đồng ngh�o. Mẹ Ng�i tr�ch cứ Ng�i v� đ� l�m bạn với những người xấu. Gioan đ�p lại : - Khi con chơi với ch�ng n�, ch�ng n� bớt kh�ng hơn.

L�c ch�n tuổi, Gioan đ� c� một giấc mơ lạ l�ng: một đ�m đ�ng trẻ con tinh nghịch v�y quanh Ng�i, ch�ng n� n�i phạm thượng. Bất chợt ch�ng hiện h�nh th�nh bọn lang s�i. Nhưng đức Trinh Nữ đ� n�i với Gioan : - Đừng d�ng bạo lực, nhưng h�y ngọt ng�o nếu con muốn chiếm được t�nh nghĩa với ch�ng.

Ng�i c�n n�i : - Đ� l� m�i trường l�m việc c�ng con. Sau n�y con sẽ l�m cho con c�i mẹ, điều Mẹ sắp l�m cho những con th� n�y.

V� rồi những con vật dữ tợn tr�n biến th�nh chi�n ngoan Gioan đ� kẻ lại giấc mơ tr�n. Một người anh đ� n�i với Ng�i : - Mầy sẽ l� thằng chăn chi�n. V� người anh kh�c n�i tiếp : - Hay l� tướng cướp.

V� t�nh y�u Ch�a, cậu b� tưởng tượng ra m�nh l� một thằng m�a rối. Ng�y Ch�a nhật bọn trẻ xếp v�ng t�n thưởng nh� nh�o lộn v� leo gi�y đại t�i, cha mẹ ch�ng, cũng tới nữa, những l�c đổi tr�, mọi người phải lần chuỗi. Nh� nh�o lộn trở th�nh nh� giảng thuyết, lập lại b�i giảng của cha sở.

Một linh mục gi� cho Gioan cuốn s�ch văn phạm latinh v� dạy Gioan học. Một trong c�c anh ghen tỵ. Gioan �m s�ch đi t�m việc l�m trong một n�ng rại. Hai năm sau trở về nh�, Gioan phải ch�n kh�ng cuốc bộ hai mươi c�y số ng�n để tới trường học mỗi ng�y. Sau n�y ở trường Chieri, Ng�i l�m gia nh�n khi c� giờ rảnh để khỏi tốn tiền mẹ. Ng�i th�nh lập một hội vui để l�i k�o bạn b� v�o đường thiện hảo, l�nh mạnh.

Gioan được thụ phong linh mục. Theo phong tục Italia, người ta gọi Ng�i l� Don Bosc�. Mẹ Ng�i đ� nhắn nhủ : - Đ�ng lo nghĩ tới mẹ nữa m� chỉ cầu nguyện cho mẹ th�i. Lo lắng duy nhất của con l� phần rỗi c�c linh hồn.

Ng�i theo học ở Turin�, viếng thăm c�c t� nh�n v� đ� kinh ngạc khi thấy bao nhi�u l� thanh thiếu ni�n ở đ�, thấy trong c�c đường phố những đứa trẻ n�y bị bỏ mặc cho sự c�ng khổ v� tật xấu của ch�ng. Phương ph�p cứu vớt tuổi trẻ n�y. Trong th�nh đường, một �ng quản xua đuổi đứa trẻ l�u lổng. Gioan nhắc nhở �ng ta rằng: n� lại kh�ng muốn nhận biết Thi�n Ch�a tốt l�nh sao ?

Ch�nh Don Bosc� sẽ dạy n� đọc chữ v� giải th�ch gi�o l� cho n�. H�m sau đứa trẻ trở lại với bạn b� của m�nh. Hội bảo trợ đầu ti�n được th�nh lập. Trong hai th�ng số trẻ l�n tới cả trăm. Nhưng tụ họp ch�ng ở đ�u ? Khắp nơi người ta đều xua đuổi ch�ng, v� người ta lại kh�ng cho rằng Don Bosc� đi�n rồi sao ? Ng�i thu� một căn nh� trong khu phố ngh�o đ�i nhất v� phải trả tiển nửa th�ng một lần, Mẹ Ng�i lo lắng : - Con kh�ng c� lấy một xu.

Th�nh nh�n trả lời : - Nếu mẹ c� tiền lại chẳng cho con sao ? Mẹ c� tin l� Ch�a quan ph�ng giầu c� v� c�ng lại kh�ng tốt bằng mẹ sao ?

Ng�i tập họp những trẻ xấu nết lại v� dọn cho ch�ng ruớc lễ vỡ l�ng, khu vực đốn mạt sắp trở th�nh nơi c� tinh thần Kit� gi�o nhất th�nh phố. Ng�i kh�ng hề mất tin tưởng. Kh�ng c� g� l�m Ng�i nản ch� được. Ng�i dẫn về cho mẹ m�nh những đứa v� lại chi�u tập trong một h�ng qu�n. Đ�m về những đứa v� lại n�y biến mất, mang theo cả chăn nệm, Ng�i đưa về một th�ng nh�i bị trui đến tận xương tủy. Chẳng mấy chốc căn ph�ng đ� c� tới bảy đứa như vậy.

Don Bosc� mua một căn nh�. Trẻ nội tr� đ�ng nhung nh�c. Một ng�y sống bắt đầu với th�nh lễ, sau đ� l� đi học hay tập nghề. Ch�nh l�c n�y m� th�nh nh�n muốn gi�p đỡ từ những người ngh�o tới c�c c�ng tử. C�c nh� sắp được x�y dựng khắp nơi, cả đến Mỹ Ch�u.

Đối với c�c trẻ em nam, Gioan đ� thiết lập một d�ng gồm c�c linh mục mang danh l� Sal�sien, để k�nh th�nh Phanxic� Sal� m� Ng�i đ� lấy ch�m ng�n của th�nh nh�n l�m của m�nh.

- Lạy Ch�a xin cho c�c linh hồn v� phần c�n lại c� đang gi� g� cho con đ�u ?
V� th�nh nh�n khuy�n nhủ h�y l�m điều đ� : - Trong vui tươi hoan hỉ kh�ng ngừng.

C�ng với chị th�nh Maria Mazzarello, Ng�i cũng thiết lập một d�ng tu mang danh hiệu c�c nữ tu Đức Mẹ ph� hộ. C�ng cuộc c�c chị cũng sẽ lan rộng tr�n khắp thế giới. Mệnh lệnh của Ng�i l�: - H�y tin tưởng cầu nguyện v� can đảm tiến tới kh�ng ngừng.

Don Bosc� đi thực hiện c�c c�ng tr�nh tại Ph�p. C�c sự lạ xảy ra v� số tr�n đường Ng�i đi qua. Ơ Marseille Ng�i gặp một đứa trẻ bệnh hoạn, Ng�i bảo n� đọc một kinh k�nh Mừng v� chữa l�nh cho n�. Cả đứa trẻ lẫn mẹ n� kh�c nức nở v� biết ơn. Dọc đường xe Ng�i bị v�y chặt đến độ người đ�nh xe đ� phải k�u l�n : - K�o theo một con quỉ, c�n hơn chở một vị th�nh.

Ở Paris Ng�i được tiếp đ�n tưng bừng. Đức Hồng y xin Ng�i ch�c l�nh. Thi sĩ Victor Hug� hai lần muốn gặp Ng�i. Người ta ngạc nhi�n khi thấy Ng�i rất đơn sơ vui vẻ v� hiền hậu. Ng�i giảng dạy nhiều. C�c viện mồ c�i, trường huấn nghệ, hội bảo trợ mọc l�n khắp nước Ph�p. Người ta n�i Ng�i dừng lại một ch�t, Người trả lời rằng: l�n thi�n đ�ng ta sẽ ngừng, hoặc, ma quỉ kh�ng c� ngừng. Don Bosc� muốn đưa cả thế giới về với Ch�a Kit�. C�c giấc mơ cho Ng�i biết rằng: ước muốn của Ng�i sẽ được thực hiện. Trong một giấc mơ Ng�i thấy những người hoang dại quỳ gối trước mặt c�c tu sĩ Sal�siens. Suốt đời Ng�i kh�ng dứt c�c giấc mơ, c�c lời ti� đo�n v� c�c thị kiến.

Gioan phải trả cho định mệnh si�u nhi�n của Ng�i bằng những dằn vặt m� chỉ m�nh Ng�i biết được. Một vị Hồng y đ� phải lo lắng thấy mặt Ng�i xanh m�t kiệt sức. Th�nh nh�n cho Ng�i biết l� ma quỉ quấy ph� m�nh cả đ�m. Nhưng những người th�n cận kh�ng hề biết g� những đau khổ của Ng�i. Ng�i n�i : - V� hồn t�i đ� uống những ch�n đắng, t�i c� quyền th�m v�o những lo �u của con c�i t�i bằng một gợn s�ng đau khổ kh�ng ?

Bọn �c nh�n giận dữ v� việc l�nh Ng�i đ� l�m, đ� t�m c�ch s�t hại Ng�i. Nhưng sức mạnh của sự dữ kh�ng nghĩa l� g�. Vượt qua mọi trở ngại tưởng như kh�ng thể lướt thắng nổi, Don Bosc� c�n hoạt động nhiều hơn nữa. Y sĩ tuy�n bố rằng: ph�p lạ lớn lao nhất l� Don Bosc� c�n sống được.

Cuối c�ng Gioan cảm thấy rằng: th�n x�c Ng�i kh�ng c�n chiến đấu nổi nữa. Ng�i sắp qua đời. Ng�i n�i với c�c linh mục của m�nh khi họ tới thăm : - H�y n�i với c�c con c�i của t�i rằng: t�i đợi ch�ng tất cả tr�n thi�n đ�ng.

Ng�i c�n n�i như lời dặn d� th�n thiết nhất : - H�y cổ v� việc si�ng năng rước lễ v� l�ng t�n s�ng Đức Trinh Nữ:

Người ta c�n nghe thấy Ng�i n�i trong cơn m� sảng : - Mẹ, mẹ ơi, ng�y mai... Mẹ h�y mở cửa thi�n đ�ng cho con.

Th�nh Don Bosc� qua đời, đo�n con c�i xếp h�ng h�n b�n tay đ� tận t�nh cứu gi�p họ. Ng�y 30 th�ng gi�ng năm 1888.