HOME

 

T�m theo mẫu tự

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

TH�NG T�M

 


Ng�y
01 Th�nh Anphons�, Lm, Ts

02 Th�nh Eusebi�, Gm

04 Th�nh Gioan M. Vianney, Lm

05 Đền thờ Đức B� Cả

07 Th�nh Gaetan� Lm

07 Th�nh Sixto II, Gh

08 Th�nh Đa Minh, Lm

10 Th�nh Laurens� Ph� tế

11 Th�nh Clara, Tn

13 Th�nh Pontian� v� Hypp�lit�, Tđ

15 Lễ Đức Mẹ M�ng Triệu

16 Th�nh St�phan� Hungary


Ng�y
19 Th�nh Gioan Eude, Lm

19 Th�nh Romualđ�

20 Th�nh Bernađ�, Ts

21 Th�nh Pi� X, Gh

22 Đức Mẹ Nữ Vương

23 Th�nh Rosa Lima, Tn

24 Th�nh Bartolome� T�ng đồ

25 Th�nh Lu-y IX

27 Th�nh Monica

28 Th�nh Augustin�

29 Th�nh Gioan bị trảm quyết

 

 


Ng�y 01-08

Th�nh ALPHONS� LIGUORI
G�am mục, Tiến Sĩ Hội Th�nh (1696 - 1787)

Th�nh Alphongs� Maria Liguori sinh ng�y 27 th�ng 9 năm 1696 tại Marinella gần Naples v� l� con trưởng trong 7 anh em. Ngay từ trong n�i, Ng�i l� giao điểm tập hợp �n huệ đ�ng mơ ước như tr� th�ng minh, danh gi�, t�i sản, thi�n khiếu nghệ thuật v� một tấm l�ng đại độ.

Trong khi đ� người mẹ rất đạo hạnh nghĩ rằng: - C�c �n huệ tốt đẹp nhất sẽ chẳng c� gi� trị g� nếu kh�ng hướng về Ch�a. Người l�nh nhiều phải trả nhiều.

Như vậy �n ph�c kỳ diệu nhất m� Alphongs� nhận được ch�nh l� gi�o huấn của người mẹ. Alphongs� học tiếng Hy lạp, tiếng Latinh, tiếng Ph�p v� to�n. Ng�i say m� �m nhạc v� hội họa. L� một con người c� ch�. Alphongs� g�y ảnh hưởng tốt đối với ch�ng bạn. Bằng sự trong trắng tế nhị v� l�ng đạo đức của m�nh. Một người bạn kể lại rằng: c� lần thua cuộc chơi v� giận dữ đến độ trở n�n sỗ s�ng. Alphongs� buồn phiền nghỉ chơi v� n�i: - "Ch�a kh�ng muốn t�i được ch�t tiền đ� khiến cho bạn l�m phiền l�ng Ng�i"

Thế rồi Alphongs� biến mất v�o vườn. C�c bạn đổ x� đi t�m Ng�i v� gặp Ng�i đang quỳ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ đặt tr�n c�nh c�y. Người bạn xấu x�c động n�i : - "T�i đ� l�m phiền một vị th�nh".

Alphongs� th�nh c�ng rất sớm tr�n c�ng đời. 17 tuổi Ng�i đậu bằng tiến sĩ luật khoa cả về gi�o luật lẫn d�n luật v� đ� bắt đầu h�nh nghề luật sư. Khả năng h�ng biện của Ng�i hứa hẹn một tương lai s�ng lạn. Nhưng tuổi trẻ cũng c� cớ dẫn Ng�i tới lỗi lầm với trong hậu quả bi thảm, năm 1723 trong một vụ kiện, Ng�i biện hộ với một giọng n�i h�ng hồn. L� lẽ vững chắc, l�m cho cả t�a �n phải ngỡ ng�ng t�n thưởng. Nhưng khi vừa dứt lời, đối thủ �n ho� vạch ra một lỗi nhỏ m� Ng�i kh�ng nhận thấy. Ch�nh lỗi nhỏ đ� đ� ti�u hủy luận chứng lẫn danh tiếng của Ng�i.

Thất bại Alphongs� rất đau buồn v� đ� đ�ng cửa ph�ng hai ng�y liền. Ng�i suy nghĩ v� tự hỏi rằng: "Đ�y kh�ng phải l� lời mời gọi của Ch�a hay sao ...? Bỏ nghề, Ng�i n�i : - "Oi thế gian, ta đ� biết ngươi. Hỡi ph�p đ�nh, ngươi sẽ kh�ng c�n gặp ta nữa".

Ng�i t�m đường sống v� dấn th�n cho c�ng cuộc b�c �i. Một ng�y kia, đang khi thăm viếng c�c bệnh nh�n trong một nh� thương, Ng�i nghe hỏi: - "Ngươi l�m g� ở thế gian n�y ?"

Nh�n chung quanh Ng�i kh�ng thấy ai, nhưng Ng�i vẫn nghe hỏi một lần nữa. V�o một nguyện đường d�ng k�nh Đức Mẹ từ bi gần đ�, Ng�i hứa sẽ gia nhập d�ng giảng thuyết v� l�m linh mục. Đặt thanh gươm tr�n b�n thờ Ng�i n�i:- "Lạy Ch�a n�y con đ�y, xin h�y l�m nơi con điều đẹp l�ng Ch�a. Con l� g� v� con c� chi, con xin hiến d�ng để phụng sự Ch�a".

Nghe tin n�y cha Ng�i giận dữ, Ng�i quyết bỏ nghề, bỏ cả vị h�n th� của Ng�i sao ? Ng�i đ� trả lời rằng: đối với Ch�a chẳng c� hy sinh n�o gọi l� qu� lớn lao cả. Ng�i cương quyết giữ � định v� cha Ng�i kh�ng th�m nh�n đến Ng�i nữa. Năm 1726, Ng�i thụ phong linh mục.

Th�nh nh�n rao giảng khắp vương quốc Naples. Cha Ng�i giận dữ quyết kh�ng chịu nghe. Ng�y kia �ng v�o một th�nh đường, đ�ng l�c con �ng đang thuyết giảng. Thoạt đầu �ng giận dữ, nhưng rồi dần dần �ng mềm l�ng. Ơn Ch�a đ� đến nhờ lời giảng dạy của con �ng. Kết th�c giờ phụng vụ ra về �ng n�i: "Con t�i đ� l�m cho t�i được biết Ch�a".

Suốt đời, th�nh Alphongs� kh�ng những chỉ nỗ lực trong c�ng việc tri thức m� c�n lo tiếp x�c với d�n ch�ng. Ng�i chỉ th�ch việc ngồi t�a hơn l� việc nghi�n cứu. Ng�i mang đặc điểm của một linh mục truyền gi�o. Th�nh quả của Ng�i thực hiện được ch�nh l� d�ng Ch�a Cứu Thế, th�nh lập tại Scala th�ng 11 năm 1732. Dầu cho từ đầu, hội d�ng đ� bị ph�n rẽ th�nh hai phe v� th�nh Alphongs� phải khởi đầu lại, với hai người bạn, nhưng hội d�ng cũng khởi sự lớn dần. D�ng được chuẩn nhận ng�y 21 th�ng 2 năm 1749.

Năm 1548 th�nh nh�n xuất bản bộ thần học lu�n l�, được đức gi�o ho�ng B�n�dict� XIV ph� chuẩn v� gặt trong nhiều th�nh quả tức thời.

Năm 1762 Đức Clement� XIV đặt Ng�i l�m gi�m mục cai quản địa phận Agata. Ng�i nỗ lực thăng tiến l�ng đạo đức trong điạ phận, khởi sự từ vi�c canh t�n h�ng gi�o sĩ. Năm 1775 Ng�i được đức gi�o ho�ng Pi� VI cho ph�p từ nhiệm để về sống trong d�ng tại Nocera.

Những năm cuối đời, th�nh Alphongs� đ� trải qua rất nhiều đau khổ cả thể x�c lẫn tinh thần. Dầu trong "đ�m tối của linh hồn" Ng�i vẫn kh�ng nao n�ng v� lu�n ki�n tr� cầu nguyện. Ng�i n�i: "Ai cầu nguyện sẽ được cứu tho�t, ai kh�ng cầu nguyện sẽ tự luận phạt". Cuối c�ng Ng�i t�m được b�nh an v� qua đời năm 1787.


Ng�y 02-08

Th�nh EUS�BI� VERCELL�SI
Gi�m Mục (+371)

Th�nh Eus�bi� sinh tại Sardinia trong một gia đ�nh qu� ph�i. Nhưng trổi vượt sự sao sang gi�u c� trần thế. Ng�i được vinh dự l� con của một người cha chịu chết v� đức tin dưới thời Di�cl�tian�. Mẹ Ng�i đ� đưa hai người con về sống tại Roma. Ng�i được Đức gi�o ho�ng Eus�bi� rửa tội v� lấy ch�nh t�n m�nh đặt cho con trẻ.

Eus�bi� được nu�i dưỡng trong bầu kh� đạo đức, Ng�i theo học văn chương v� nghệ thuật. Gia nhập h�ng gi�o sĩ, Ng�i được phong chức đọc s�ch.

Ng�i được sai đi Vercelli v� năm 345 được chọn l�m gi�m mục ti�n khởi của gi�o phận n�y. X�t rằng phương c�ch hữu hiệu nhất để th�nh h�a c�c linh hồn l� phải c� một h�ng gi�o sĩ được huấn luyện tử tế, Ng�i thiết lập một trường đ�o tạo linh mục. C�ng với nh�m m�n sinh, Ng�i sống đời ẩn tu ngay giữa th�nh phố. Nhưng lời khuy�n dạy đầy cảm k�ch đ� l�m cho Vercell�si thay đồi hẳn. C�c tội nh�n t�m về l�nh nhận c�c b� t�ch v� nhiệt th�nh phụng sự Ch�a.

Chịu b�ch hại v� đạo, cuộc đời Eus�bi� đ� đạt tới vinh quang cao cả. Khi ấy b� rối Ari� b�nh trướng mạnh mẽ, với sự bảo trợ của ho�ng đế Constantino. Eus�bi� m�nh liệt chống lại v� đức tin kh�ng thể lay chuyển của Ng�i mang lại niềm an ủi cho Đức gi�o ho�ng chỉ định dẫn dầu ph�i đo�n c�c gi�m mục đến gặp ho�ng đế để b�nh vực đức tin. Đầy nhiệt t�m Ng�i thuyết phục được ho�ng đế triệu tập một c�ng đồng.

Năm sau c�ng đồng khai diễn tại Milan. Tại c�ng đồng, ho�ng đế th�c b�ch c�c gi�m mục phải để cho Eus�bi� tham dự. Nhưng những người theo b� rối Ari� ngăn cản. Cuối c�ng Ng�i được tham dự. Thấy phần đ�ng theo lạc gi�o, Ng�i tr�nh biểu thức đức tin của c�ng đồng Nicea, đ�i mọi người k� nhận trước khi b�n đến điều g� kh�c nữa. Bọn lạc gi�o tức giận. Ngược lại, Ng�i cương quyết kh�ng chịu k� v�o văn bản l�n �n th�nh Athanasi�, vị gi�m mục ch�ng sợ nhất. Tức giận ch�ng vận động ho�ng đế đẩy Ng�i đi Palestina.

Nơi lưu đầy, Eus�bi� chịu kh�ng biết bao nhi�u l� điều cực khổ bởi c�ch đối xử d� man của c�c địch th�, Ng�i bị giam trong ph�ng tối, bị bỏ đ�i. Khi biết rằng kh�ng thể bắt phục được con người sắt đ� n�y, ch�ng c�n tr�i ch�n Ng�i lại v� l�i k�o Ng�i qua c�c bậc thang nhiều lần. Theo lời th�nh Hi�r�nim� kể lại, th�nh nh�n c�n bị gởi đi Cappadocia v� tới miền thượng Th�baide b�n Ai cập. Tại những nơi nầy th�nh nh�n c�n chịu mu�n v�n cực h�nh cho đến khi ho�ng đế Constanti� băng h� v� được hồi hương.

Dầu vậy tr�n đường về theo lệnh Đức gi�o ho�ng, th�nh Eus�bi� c�n phải gh� nhiều gi�o đo�n để an ủi kh�ch lệ c�c gi�o hữu bị đau khổ bởi những t�n ph� của ph�i Ari� để lại, d�n xếp những tranh chấp nội bộ của một số gi�o đo�n.

Trở về Vercelli, th�nh Eus�bi� được tiếp đ�n nồng nhiệt như một vị anh h�ng. Gi� cả v� yếu sức, Ng�i vẫn tận tụy phục vụ gi�o phận cho đến khi qua đời năm 371. Người ta t�n k�nh Ng�i như vị th�nh tử đạo, v� những đau khổ m� Ng�i đ� chịu suốt những ng�y lưu đ�y.


Ng�y 04-08

Th�nh GIOAN MARIA VIANEY
Linh Mục (1786 - 1859)

Gioan Maria Vianney sinh ng�y 8 th�ng 5 năm năm 1786 tại Dardilly. Cha mẹ Ng�i l� những n�ng d�n trung ki�n với đức tin. Suốt thời c�ch mạng Ph�p, họ thường b� mật tiếp rước c�c linh mục đến tr� ngụ. V� vậy Gioan l� một trẻ em c� mặt trong c�c buổi lễ cử h�nh l�n l�t tại lẫm l�a v� được chứng kiến rất nhiều mẫu gương anh h�ng với đức tin.

Năm l�n 11, Gioan được cha Greboz cho xưng tội lần đầu. Th�ng 5 năm 1798 Gioan được mẹ dẫn sang nh� b� d� ở Ecully để dọn m�nh rước lễ vỡ l�ng. M�a xu�n năm 1799 Gioan c�ng với 15 em kh�c được rước lễ vỡ l�ng trong một th�nh lễ được cử h�nh giữa đống rơm. Ng�i rước lễ rất sốt sắng v� đ� giữ cho đến chết tr�ng chuỗi M�n c�i kỷ niệm ng�y hạnh ph�c n�y.

Năm 1800 thanh b�nh trở lại với c�c t�n hữu, khi Napol�on nhận biết rằng kh�ng c� t�n gi�o th� kh�ng c� một tổ chức n�o c� thể tồn tại vững bền được. Từ nhỏ Gioan đ� muốn l�m linh mục. Khi b�y tỏ � định tốt đẹp n�y, Ng�i đ� 17 tuổi v� mới chỉ qua bậc tiểu học. Mẹ Ng�i t�n th�nh ch� nguyện, nhưng cha Ng�i với �c thực tế đ� băn khoăn rất nhiều v� kh�ng chấp nhận. M�i tới năm 1805, Gioan đến sống với cha Belley, họ Ecully. Theo học với c�c bạn tuổi c�n nhỏ, m� tr� kh�n Ng�i lại qu� tr� trệ. Đ� vậy v�o năm 1890, Ng�i lại c�n phải nhập ngũ. Năm sau Ng�i may mắn được trở về nh�.

Năm 1810, Gioan gia nhập tiểu chủng viện Verri�res. Hai năm tr�i qua, Ng�i l� một chủng sinh học h�nh rất k�m. Dầu vậy Ng�i cũng nhận v�o đại chủng viện. Tại đ�y chuyển ngữ l� tiếng Latinh, m� Gioan lại qu� dở về m�n n�y, khiến ban gi�m đốc khuy�n thầy hồi tục. Kh�ng thất vọng một lần nữa cha Balley đảm nhận việc dạy dỗ người chủng sinh gương mẫu nhưng chậm tr� n�y. Sau khi ho�n tất chương tr�nh học, ng�y 13 th�ng 8 năm 1815, Gioan Maria Vianney thụ phong linh mục tại nguyện đường đại chủng viện Gr�noble. Ng�i được gọi l�n chức linh mục ch�nh v� đời sống đạo đức.

Sau khi thụ phong, cha Gioan Maria Vianney được cử l�m ph� xứ Ecully. Th�ng 12 năm 1817, cha Balley qua đời, cha Vianney được cử về l�m ch�nh sở họ Ars. Khi bổ nhiệm, cha tổng đại diện nhắn nhủ : - "Đ�y l� một họ đạo nhỏ b� ngh�o n�n, thiếu vắng t�nh y�u Ch�a. Cha h�y mang t�nh y�u đến cho họ".

Ng�y 9 th�ng 2 năm 1818 cha đến xứ lần đầu với h�nh l� khi�m tốn chất tr�n một chiếc xe tay, gồm một chiếc giường cũ, một rương s�ch v� �t đồ vặt v�nh kh�c. Tới gần l�ng, Ng�i dừng ch�n hỏi đường. Bọn trẻ chăn chi�n kh�ng hiểu tiếng n�i kh�c với thổ ngữ ch�ng vẫn d�ng nhưng cũng đo�n biết v� chỉ lối cho cha. Khi biết được điạ sở, cha Gioan qu� gối cầu nguyện cho những người sẽ l� đo�n chi�n của m�nh. Tới nơi Ng�i v�o thẳng nh� thờ v� ch�m trong kinh nguyện.

Nh� xứ Ars thật ngh�o n�n với v�i đồ vật thật sơ s�i. Ch�nh cha sở trẻ họ đạo lại coi đời sống cầu nguyện h�m m�nh l� phương thế để th�nh c�ng. Trong khi mọi người c�n triền mi�n giấc điệp, Ng�i đ� x�ch đ�n từ nh� xứ sang nh� thờ để cầu nguyện. Trước nh� tạm, nhiều lần với nước mắt ướt cả s�n nh�, Ng�i tha thiết cầu nguyện : - Lạy Ch�a, con xin l�nh chịu tất cả, nhưng xin Ch�a cải h�a họ đạo của con... Con bằng l�ng chịu mọi đau khổ như Ch�a muốn, miễn sao họ biết hồi t�m hối cải.

Ch�m đắm trong kinh nguyện, cha Gioan kh�ng quan t�m tới nhu cầu thể x�c, m� Ng�i coi như c�i th�y ma. Ngủ đ� �t, Ng�i lại thường nằm tr�n s�n nh�. Đồ đạc người ta d�ng c�ng, Ng�i đem cho người ngh�o... Vui cười Ng�i n�i: - T�i kh�ng hề mất �o cho�ng bao giờ. Chuyện ăn uống Ng�i cũng chẳng quan t�m đến, tự m�nh nấu ăn, Ng�i chỉ nấu một nồi khoai rồi treo l�n tường.

Khi đ�i Ng�i ăn một hai củ v� củ thứ ba l� "để cho vui miệng". Nồi khoai thường để l�u cho đến nỗi những củ cuối c�ng thường bị mốc meo. Ng�i h�m m�nh như vậy cho tới năm 1827, khi c�c chị d�ng Ch�a quan ph�ng nấu ăn cho Ng�i.

Hơn nữa th�nh nh�n c�n tự � h�m m�nh. Mỗi đ�m Ng�i đều đ�nh tội trước khi ngủ. Tr�n tường ph�ng Ng�i c�n loang lổ nhiều vết m�u.

Với một đời sống cầu nguyện hy sinh như vậy, th�nh nh�n nỗ lực canh t�n họ đạo. Về xứ được �t l�u, Ng�i sớm nhận ra được ba tệ đoan trong họ đạo l� sự l�nh đạm với việc đạo đức, th�i quen l�m việc x�c ng�y Ch�a nhật v� tật ham khi�u vũ.

Để chấn hưng lại t�nh trạng suy dồi kia, dĩ nhi�n th�nh nh�n gia tăng lời cầu nguyện v� việc h�m m�nh. Trong hoạt động Ng�i đi thăm viếng c�c gia đ�nh. Sửa lại t�nh trạng thiếu hiểu biết về đạo, Ng�i lo dạy gi�o l� cho trẻ em. Suốt 27 năm, cha th�nh Gioan ng�y n�o cũng trung th�nh với vi�c dạy gi�o l�. Đối với người lớn cha dọn b�i giảng rất kỹ lưỡng. Ngồi trong ph�ng th�nh cạnh nh� tạm, cha viết b�i giảng, Đ�m thứ bảy cha học v� tập giảng - cho h�m sau lời giảng của cha rất đơn sơ, nhưng xo�y v�o l�ng người nghe.

Chẳng hạn Ng�i n�i: - Kh�ng c� g� vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi... danh gi� cũng sụp đổ, của cải rồi sẽ ti�u tan, sức khỏe cũng bị tấn c�ng, ch�ng ta ra đi như l�n gi�.

- C�ng cầu nguyện người ta c�ng ham th�ch, như một con c� trồi l�n mặt nước rồi ch�m m�nh trở lại v� lu�n bơi đi m�i. Linh hồn đắm ch�m trong lời cầu nguyện sẽ mất h�t trong sự �m dịu của cuộc đ�m thoại với Ch�a.

C�c c�u chuyện nhỏ cha kể nhiều khi c� gi� trị như một b�i giảng. Chẳng hạn cha n�i về một em nhỏ bị đau bịnh :- Con đau đớn lắm kh�ng ?

Cậu b� trả lời "H�m qua con kh�ng đau đớn g� v� ng�y mai con cũng hết khổ".

Cha hỏi lại : - Vậy con muốn được l�nh bệnh kh�ng ?

- Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con d�m như vậy lắm. Để như thế nầy l� tốt hơn cả.

Chống lại tật l�m việc x�c, cha n�i: - Ng�y chủ nhật l� của Ch�a. M� anh em ăn trộm cũng chẳng lợi �ch g� cho anh em. T�i biết c� hai phương thế chắc chắn để n�n ngh�o kh� l� l�m việc ng�y Ch�a nhật v� lấy của kẻ kh�c.

Để chống lại tật ham khi�u vũ, đ� c� lần cha đến giữa đ�m để giải t�n. Lần kh�c cha bỏ tiền trả cho nhạc c�ng để anh r�t lui. T�ch cực hơn, cha lập hội M�n C�i để tập họp c�c thiếu nữ v�o việc thực h�nh đạo đức n�y.

Hơn nữa, trong họ c� bảy qu�n rượu cha hết sức khuy�n nhủ v� cả ch�c dữ nữa để họ đổi nghề. Cuối c�ng cả 7 qu�n đều đ�ng cửa.

Thấy trọng tr�ch của một chủ chi�n qu� nặng nề. Đ� bốn lần cha Gioan t�m c�ch trốn khỏi họ đạo. Nhưng rồi cha đ� bị ph�t gi�c, tiếng chu�ng reo vang v� người ta đổ x� ra đường để giữ cha lại. Nỗ lực của cha kh�ng dễ d�ng được tiếp nhận. Người ta t�m nhiều c�ch để vu khống cho cha nhiều tội t�y trời. Th�nh c�ng của cha khiến cho nhiều người nghi ngờ v� ghen tị, đến nỗi t�a gi�m mục phải mở cuộc điều tra. Sau nữa ch�nh quỉ dữ cũng phải c�ng khai ph� cha dưới nhiều h�nh thức như x� dịch đồ đạc, la lối om s�m, hiện h�nh kỳ qu�i... đến độ đốt ch�y cả giường nằm.

Nhớ lại tất cả những g� đ� trải qua, cha n�i: - Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những g� t�i phải chịu chắc t�i chết liền.

Nhưng ơn th�nh Ch�a đ� n�ng đỡ Ng�i. Mỗi ng�y trong th�nh lễ, Ng�i được thấy ch�nh Ch�a Gi�su. Dần dần họ Ars đ� được biến đổi, hương thơm th�nh thiện c�n bay lan rộng ra khỏi ng�i l�ng b� nhỏ v� hẻo l�nh n�y. Kh�ch thập phương từ khắp nơi đổ x� đến, để được chi�m ngưỡng một cha sở th�nh thiện, để được nghe lời Ng�i, để xưng tội. Cha Gioan đ� l�m vui l�ng mọi người.

Suốt hai mươi năm trời, cha như ch�n m�nh trong t�a giải tội, từ sau lễ tới 11 giờ trưa, rồi từ 1 giờ chiều tới 8 giờ tối. Sau n�y khi được qua đời, cha được ch�n cất tại nh� nguyện th�nh Gioan tẩy giả, cạnh t�a giải tội m� người ta gọi l� ph�p lạ lớn nhất ở Ars.

Tận tụy với c�c linh hồn, cha Gioan cũng được ơn thấu tỏ l�ng người. Ng�y kia c� một du kh�ch tới Ars để đi săn. Nh�n �ng với con ch� b�n cạnh, Ng�i n�i : "Con ch� của �ng thật đẹp, nhưng linh hồn chẳng đẹp t� n�o". C�i mặt người du kh�ch v�o to� xưng tội.

Một người đ�n b� kh�c nghe cha n�i: "�ng ấy đ� được rỗi. Giữa th�nh cầu v� gi�ng nước, �ng đ� kịp ăn năn tội...". Thế l� cha đ� biết nỗi lo �u sầu của b�, v� c�i chết mới đ�y của chồng b�. Ng�i đ� mang lại cho b� niềm an ủi khi cho biết rằng: nhờ những b� hoa v� v�i lần cầu nguyện với vợ mỗi th�ng Đức Mẹ, m� người chồng xấu số kia đ� được cứu rỗi.

Đời sống của cha Gioan l� một mẫu gương tận tụy v� Ch�a v� v� c�c linh hồn, Ng�i thường n�i: "Hạnh ph�c cho một vị linh mục được hao m�n v� Ch�a v� c�c linh hồn".

Quả thực, cha Gioan đ� hao m�n v� phụng sự. Ng�y 2 th�ng 8 năm 1859 cha chịu c�c ph�p b� t�ch sau hết. Ng�y 4 th�ng 8 năm 1859 cha tr�t hơi thở cuối c�ng với sự m�n nguyện.
- Phải chết l�nh khi người ta sống tr�n th�nh gi�.

Ng�y th�ng 5 năm 1925, cha Gioan được suy t�n hiển th�nh v� năm 1925 được đặt l�m bổn mạng c�c cha sở tr�n to�n thế giới.


Ng�y 05-08

LỄ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ ĐỨC B� MARIA

Đền thờ đầu ti�n được cung hiến để k�nh đức Trinh Nữ ở Roma, ng�y nay gọi l� đền thờ Đức B� cả. Truyện kể lại rằng, c� hai vợ chồng kh�ng con nu�i nấng nuốn d�ng gia t�i của m�nh cho Đức Mẹ. Trong đ�m 4 hay 5 th�ng 8, Đức Trinh nữ đ� hiện ra với họ, c�ng một l�c với Đức Gi�o ho�ng Lib�ri�, b�y tỏ � muốn được thấy mọc l�n tr�n n�i Esquilin, một th�nh đường d�ng k�nh Ng�i.

H�m sau Đức gi�o ho�ng c�ng với h�ng gi�o sĩ ở Roma đi l�n n�i Esquilin. L�c ấy trời n�ng nực nhưng tuyết vẫn c�n phủ đầy một g�c n�i. Theo � Đức Trinh Nữ, Đức Gi�o ho�ng ph�c họa một th�nh đường, x�y cất bằng tiền của cặp vợ chồng kh�ng con d�ng c�ng, lấy t�n l� đền thờ Đức B� xuống tuyết để ghi nhớ ph�p lạ tr�n.

Truyện kể lại như vậy, nhưng t�nh chất ch�n thực của c�u chuyện vẫn c�n bị nghi ngờ, thực sự ở Roma đ� c� một đền thờ Đức B� cổ, c�n cổ k�nh hơn cả đền thờ Đức gi�o ho�ng Lib�ri� (352 - 366) cha x�y cất nữa. V� đền thờ n�y được Đức Sixt� Israel (436 - 440) t�i thiết. Ng�i đặt t�n l� đền thờ Đức Maria Mẹ Thi�n Ch�a, chắc chắn l� để ghi nhớ cộng đồng Eph�s� (431) biến cố dẫn tới t�n điều Đức B� Maria Mẹ Thi�n Ch�a.

Ngo�i danh xưng l� đền thờ Đức B� xuống tuyết v� đền thờ Đức B� Maria Mẹ Thi�n Ch�a, ng�i đền n�y c�n mang t�n đền thờ Đức B� M�ng cỏ, v� đ�y lưu giữ m�ng cỏ Ch�a Gi�su sinh ra. M�ng cỏ được đặt trong một c�i hộp bằng bạc. V�o ng�y lễ Gi�ng sinh, m�ng cỏ được đưa ra cho mọi người k�nh viếng.

Ng�y nay người ta thường gọi l� đền thờ Đức B� cả. Danh hiệu nầy nhắc nhớ thứ bậc của đền thờ n�y trong c�c c�c th�nh đường d�ng k�nh Đức Maria tại kinh th�nh mu�n thuở. Đối với Gi�m mục Roma, đ�y l� nh� thờ ch�nh t�a thứ hai.

Vậy h�m nay ch�ng ta k�nh nhớ việc d�ng hiến đền thờ ch�nh, nếu kh�ng phải l� đền thờ cổ nhất được x�y cất dở dang k�nh Đức Trinh Nữ. Ch�ng ta nghĩ ngay đến v� số đền thờ m� l�ng t�n k�nh của c�c t�n hữu đ� được dựng l�n để k�nh nhớ Mẹ Thi�n Ch�a.

Nhiều đền thờ trong số những đền thờ n�y đều ghi nhớ một giai thoại đạo đức như một ảnh lạ, v�i ơn ph�c đặc biệt m� t�nh y�u của Đức Trinh nữ đ� thực hiện. C�c t�n hữu đến đ�y cầu nguyện để b�y tỏ niềm cậy tr�ng ch�n th�nh.


Ng�y 07-08

Th�nh GAETAN�
(1480 - 1547)

Th�nh Gaetan� (Cajetan) l� một trong những khu�n mặt lớn đặt nền tảng cho cuộc canh t�n Gi�o hội tại � v�o thế kỷ 16. Ng�i sinh năm 1480 tại Vicenza, trong một gia đ�nh giầu c� v� qu� ph�i. Năm 1504, Ng�i đậu bằng tiến sĩ luật v� gi�o luật tại Padua v� năm 1508 tham phần v�o việc điều khiển Gi�o hội tại Roma. Đức Juli� rất qu� chuộng Ng�i v� c� lẽ Ng�i đ� được Đức Gi�o ho�ng n�y cử đi thương thuyết với vương quốc Venice, thời kỳ k� hiệp ước Cambray v� thời kỳ hậu chiến 1509 -1516.

C� thể những ho�n cảnh n�y đ� gợi l�n trong Gaetan� lần đầu ti�n ước muốn chấn hưng đạo đức thật sự. Năm 1516 Ng�i nhập d�ng t�nh y�u Thi�n Ch�a ở Roma, một tu hội t�m bảo đảm đời sống thi�ng li�ng của hội vi�n bằng kinh nguyện, việc năng l�nh nhận b� t�ch v� thực hiện c�c c�ng cuộc từ thiện tại c�c nh� thương, c� nhi viện, trại cải huấn... Ng�i thụ phong linh mục ng�y 30 th�ng 9 năm 1516. Ng�i d�ng lễ mở tay mấy th�ng sau đ� v� bắt dầu d�ng lễ h�ng ng�y, một thực h�nh bất thường v�o thời đ�. Do một người bạn từ Brescia t�n l� Bartol�me� Stella, Ng�i chịu ảnh hưởng của nữ tu Laura Mignani, trong d�ng Augustin�. Ng�i thường xuy�n li�n lạc thư từ với chị, nhưng c� lẽ kh�ng bao giờ gặp mặt chị.

Năm 1517, Ng�i trở về Vicenza, nu�i bệnh mẹ lần cuối. Tại đ�y Ng�i chọn cha Fra Batttista Carieni da Grema, một cha d�ng Daminh nổi tiếng l�m cha giải tội, từ đ�y Ng�i hiến trọn đời phục vụ Thi�n Ch�a. Sau khi d�n xếp xong c�u chuyện v� từ bỏ sự tiến cử trong Gi�o hội, Ng�i hiến 6 năm tiếp l�m việc thi�ng li�ng v� b�c �i trong c�c cộng đo�n ở Vicenza, Verona v� Venice. Nơi đ�y, Ng�i truyền b� việc rước lễ thường xuy�n, l�ng t�n s�ng Th�nh thể, đời sống cầu nguyện h�m m�nh. Ng�i trở th�nh người hướng dẫn tinh thần v� gương mẫu th�c đẩy th�nh Hi�r�nim� Emilim� lập d�ng Somaco.

Dầu vậy năm 1523, khi trở về Roma v� dưới sự hứơng dẫn của cha Fra Battista, cha Gaeta gặp c�c bạn v� lập một d�ng mới v�o năm 1524. Nh�n vật ch�nh trong số c�c bạn của Ng�i l� Pietro Carafa, sau n�y sẽ l� Đức Phaol� IV. Hai người t�nh tự nhi�n kh�c hẳn nhau, nhưng lại hợp nhất trong một nhiệt t�nh muốn canh t�n Gi�o hội, nhất l� ở Roma. Bề tr�n ti�n khởi của d�ng l� Pietro Crafa, l�c ấy đang l�m Tổng gi�m mục Chicti. Bởi đấy d�ng được gọi l� Theatinus. Dầu l� c�c linh mục triều, sống th�nh cộng đo�n v� dấn th�n l�m việc mục vụ. C�c hội vi�n vẫn giữ lời khấn ngh�o kh�, v�ng lời v� trong sạch. Từ chối sở hữu mọi của cải, họ kh�ng đi ăn xin v� chỉ sống nhờ l�ng b�c �i của c�c t�n hữu. Đ�y l� một cuộc mạo hiểm chống lại những lạm dụng của h�ng gi�o sĩ thời đ� v� t�m t�i lập n�t đẹp tinh thần của chức linh mục.

Cộng đo�n ở R�ma nhỏ b� nhưng đ� trở n�n trung t�m đạo đức, b�c �i v� nghi�n cứu Phụng vụ. (Năm 1527 bị x�m chiếm. Nh� d�ng phải trốn về Venice. C�c hội vi�n nhất l� ch�nh cha Gaetan� bị người T�y Ban Nha h�nh hạ d� man. M�i tới năm 1555, khi đức Hồng y Carafa l�n l�m gi�o ho�ng v� cha Gaetan� đ� chết nh� d�ng mới trở lại Roma)

Cha Gaetan� l� bề tr�n thứ hai của nh� d�ng. Linh đạo của cha đ� in n�t tối hậu tạo th�nh nếp sống của d�ng. Linh đạo n�y ho� hợp đời mục vụ với đời sống chi�m niệm. Trong khi Đức cha c�ng ng�y c�ng t�ch cực với c�c hoạt động c�ng khai th� cha Gaetan� kh�ng ngừng lui v�o đời sống ẩn dật. Sự khi�m nhường rất mực của cha Gaetan� trở n�n như huyền thoại. Ng�i để lại một �t thư từ v� kh�ng c� một t�c phẩm n�o.

Dầu vậy, Ng�i đ� đạt tới đỉnh cao th�nh thiện v� được k�nh nể nnhư một bậc th�nh nh�n ngay khi c�n sống. Cầu nguyện v� rao giảng kh�ng biết mệt, t�n s�ng Th�nh Thể v� sống đời nhiệm nhặt, kh�ng ngừng l�m việc b�c �i t�ng đồ, tất cả những đặc điểm ấy của Ng�i ghi dấu v�o cuộc canh t�n tinh thần của Gi�o hội. Ngo�i ra, Ng�i rất tinh tế trong việc phụng vụ. Nhiều chuyện c�n kể c�c ph�p lạ Ng�i l�m khi c�n sống. Trong một l� thứ gởi cho chị Mignami, ch�nh Ng�i đ� kể lại việc Đức Mẹ trao cho Ng�i săn s�c Ch�a H�i Đồng.

Tr�n giường bệnh Ng�i n�i rằng m�nh phải chịu mọi cực h�nh th�nh gi�. Th�nh Gaetan� qua đời tại Naples năm 1547, được phong ch�n phước năm 1629 v� năm 1691 Đức Innocent� XII suy t�n hiển th�nh.


Ng�y 07-08

Th�nh XIST� II
Gi�o Ho�ng v� C�c Bạn Tử Đạo

Ng�y 30 th�ng 8 năm 257, Đức Xyst� l�n ng�i Gi�o ho�ng, kế vị Đức Stephan� I giữa l�c Gi�o hội đang ch�m trong con người b�ch hại thời Valerian�. Ponti�, một ph� tế của Th�nh Cyprian� gọi Ng�i l� "Linh mục nh�n hậu h�a nh�". Ng�i đ� tr�nh được một cuộc ly khai khi để cho c�c Gi�o hội địa phương tự do theo th�i quen rửa tội lại cho c�c người theo lạc gi�o.

Một năm sau th�nh Cyprian� loan tin: Đức gi�o ho�ng Syst� đ� bị xử tử đ�m 6 th�ng 8 c�ng với 4 vị trợ t� (ph� tế) của Ng�i. C�c Kit� hữu Roma đ� bị cảnh s�t đột k�ch trong khi đang cử h�nh th�nh lễ tại hang toại đạo Callist�. Để khỏi bị bắt giam tất cả, Đức Xyst� đ� hiến m�nh chịu chết. Ng�i bị chặt đầu ngay tại ngai t�a gi�m mục c�ng với 4 vị trong số 7 vị trợ t� (ph� tế) của Ng�i l� Gianuari�. Mahn�, Vicent� v� St�phan�. Hai vị kh�c l� F�licissim� v� Agapit� đ� bị bắt v� bị chặt đầu c�ng ng�y tại hang toại đạo Praetextato.

C�i chết v� đo�n chi�n trong những cảnh thương t�m như vậy đ� khiến cho Đức Xyst� được d�n ch�ng t�n k�nh rộng r�i. Ng�i được mai t�ng trong hầm mộ gi�o ho�ng tại ch�nh nơi Ng�i chịu chết. Tuy nhi�n di h�i của Ng�i c� lẽ đ� được Đức L�� IV (847 - 855) dời về th�nh đường Xyst� vẫn c�n được t�n k�nh cho đến ng�y nay.


Ng�y 08-08

Th�nh ĐAMINH
Linh mục (1170 - 1221)

Th�nh Đaminh sinh tại Castille, T�y Ban Nha, năm 1170.

Truyện về tuổi trẻ của Ng�i n�i tới nhiều điềm b�o lạ l�ng. Mẹ Ng�i, b� Aza mơ thấy con m�nh như một con ch� ngậm đuốc chạy khắp cả thế gian. E ngại v� giấc mơ n�y b� l�m tuần cửu nhật xin cho được sinh nở vu�ng tr�n đến ng�y thứ bảy, vị ch�nh sở n�i với b� : - Đừng sợ g� v� đứa trẻ sinh ra sẽ trở th�nh �nh s�ng thế gian v� niềm an ủi cho Gi�o hội, nhờ sự th�nh thiện v� gi�o thuyết của n�.

Khi trẻ Đaminh c�n nằm trong n�i, một bầy ong mật lượn quanh rồi �m �i đậu xuống nơi n�i Ng�i. Điều n�y b�o trước rằng lời lẽ miệng Ng�i sẽ �m dịu như mật ngọt. Ng�y chịu ph�p rửa tội, v� nu�i Ng�i thấy một v� sao ch�i s�ng tr�n tr�n Ng�i. Đ� l� dấu ơn th�nh Ng�i sẽ tỏa chiếu để thu h�t c�c linh hồn.

Được cưng chiều, th�nh Đaminh sớm sống đời khổ hạnh. Ng�i học h�m m�nh cầu nguyện khi vừa th�i n�i. Người v� nu�i nhiều lần thấy Ng�i �m thầm thức dậy trong đ�m tối để cầu nguyện. Ng�i chọn một nơi thanh vắng ở cuối vườn l�m nơi t�m sự với Ch�a. Đức Trinh nữ thường hiện ra với Ng�i, dạy Ng�i lần chuỗi. Việc đạo đức n�y về sau trở th�nh phương thế hữu hiệu để cải h�a những người theo lạc gi�o.

Đến tuổi đi học, Đaminh được gởi tới thụ gi�o với �ng cậu l� tổng linh mục ở Gumiel. Năm 14 tuổi, Ng�i theo học tại đại học ở Palencia v� đ� tiến triển rất nhanh về hiểu biết lẫn nh�n đức. Nạn đ�i lan tr�n nước T�y Ban Nha, một người bạn đến thăm Đaminh kh�ng thấy đồ d�ng lẫn những pho s�ch qu� đ�u nữa. Ng�i đ� b�n để gi�p người ngh�o kh� rồi. Gương s�ng n�y đ� l�i k�o được nhiều sinh vi�n lẫn c�c gi�o sư bắt chước.

Sau khi ho�n tất việc học, Đaminh được đức Chadieg�, gi�m mục Osma truyền chức linh mục. Vị gi�m mục đạo đức n�y đang muốn canh t�n l�ng đạo đức trong gi�o phận, đ� đặt cha Đaminh l�m kinh sĩ. Khi lo chuyện nh� nước qua Ch�u Au, đức cha Dieg� dẫn cha Đaminh đi theo. Tại Languedoc, c�c Ng�i được chứng kiến được t�n ph� m� b� rối Albigeois g�y ra. Họ chủ trương rằng: mọi vật chất đều xấu v� do ma quỉ. Sự ho�n thiện theo họ, hệ tại sự từ bỏ phi nh�n bản để sống khắc khổ. Chủ trương n�y dẫn tới sự l�nh cảm. Chẳng hạn đối với việc h�n nh�n v� ch�n v�i mọi cơ cấu x� hội gia đ�nh. Họ c�n c� lễ nghi, v� phẩm trật ri�ng. Người ta bị ph�n th�nh hai loại: một b�n gồm những người ho�n thiện v� những nh� l�nh đạo sống rất khắc khổ; b�n kia l� quần ch�ng t�m thấy nơi gi�o thuyết mới l� do b�o chữa cho sự tự do lu�n l� kh�ng bị kiềm chế của m�nh.

Tr�n đường về, đức cha Dieg� v� cha Đaminh đến Roma xin từ nhiệm để dấn th�n v�o cuộc truyền gi�o quanh v�ng Dniepen. Đức gi�o ho�ng Innocent� III từ l�u đ� mong c� người ra đi rao giảng tại miền nam nước Ph�p, chống lại ảnh hưởng của b� rối Albigeois, thay v� chấp nhận lời thỉnh cầu, Đức gi�o ho�ng sai c�c Ng�i tới miền nam nước Ph�p. Hai người đ� tới phụ lực với c�c sứ giả đ� được sai tới trước kia. Tại Montpellier, đức cha Dieg� đ� nhận thấy sự kh�c biệt giữa c�c nh� giảng thuyết c�ng gi�o đầy xa hoa với c�c nh� giảng thuyết ph�i Albigeois đầy khi�m tốn giản dị. C�c Ng�i chọn đường lối kh�c, lấy kh� ngh�o v� cầu nguyện l�m gương s�ng thu h�t mọi người.

Th�ng 4 năm 1207, nhiều tu sĩ Xit� đến trợ lực. Trong v�ng một năm trời, c� đến 40 vị dấn th�n v�o hoạt động. Những th�nh c�ng sơ khởi bắt đầu tới, nhưng kh�ng k�o d�i được l�u. C�c tu sĩ Xit� nản l�ng. Đức cha Dieg� trở về T�y Ban Nha kiếm th�m người trợ lực v� qua đời tại đ�y. Một vị sự thần cũng từ trần. Tệ hại hơn cả l� Ph�r� Castelman, vị sự thần kh�c, bị bọn lạc gi�o �m s�t.

C�n lại m�nh cha Đaminh. Ng�i vẫn tiếp tục nhiệt t�nh hoạt động trong đường lối khổ hạnh v� cầu nguyện. Kh�ng chấp nhận kiểu rao giảng khua trống gi�ng chi�ng, Ng�i n�i : - Kh�ng thể đến với kẻ th� như vậy được. H�y trang bị bằng kinh nguyện v� ch�n kh�ng m� đến với t�n khổng lồ Goliath.

Trong s�u năm, cha Đaminh trải qua nhiều s�ng gi�, ngay khi mới tới, đức cha Dieg� v� Ng�i đ� thiết lập một cộng đo�n nữ tu tại Prouille. B�y giờ Ng�i chỉ c�n l� trợ lực duy nhất, một ng�y kia trong khi nhiệt t�nh cầu nguyện, th�nh nh�n than thở tại sao số người lạc gi�o qu� nhiều m� trở lại th� qu� �t. Đức Trinh nữ đ� hiện ra v� dạy Ng�i h�y rao giảng ph�p lần hạt M�n C�i. V�ng lời Mẹ, th�nh nh�n dồn nỗ lực v�o việc truyền b� sự s�ng k�nh kỳ diệu n�y, thay v� tranh luận như trước, Ng�i dạy d�n ch�ng hiểu phương ph�p v� tinh thần khi lần chuỗi. Ng�i dẫn giải cho họ c�c mầu nhiệm th�nh. Kết quả thật lạ l�ng. Sau một thời gian ngắn, th�nh Đaminh đ� được an ủi khi thấy hơn một trăm ng�n người tội lỗi v� những kẻ lạc gi�o được đưa trở về với Gi�o hội.

Ho�n th�nh sứ mệnh, th�nh Đaminh c� � định th�nh lập một d�ng tu l�m vườn ươm c�c t�ng đồ. Ng�i tr�nh b�y dự t�nh với Đức gi�o ho�ng Innocent� III. Nhưng đức gi�o ho�ng ngần ngại. Đ�m sau Ng�i mơ thấy đại gi�o đường Lateran� bị rung chuyển v� th�nh Đaminh đưa vai chống đỡ bức tường cho khỏi sụp đổ. Biết � Ch�a Ng�i cho gọi th�nh nh�n đến v� chấp thuận cho lập d�ng mới. Đ�y l� d�ng giảng thuyết.

Khi c�n ở Roma, một đ�m kia, trong l�c cầu nguyện, th�nh Đaminh thấy Ch�a Gi�su giận dữ muốn ph�ng ba ngọn đuốc xuống thi�u hủy thế gian: - Lo�i người lao m�nh v�o nết xấu ki�u căng nhục dục v� biển lận, n�n Ta muốn hủy diệt ch�ng bằng 3 ngọn lửa n�y.

Nhưng đức Trinh Nữ cản lại: - Con ơi, h�y thương x�t thế gian. N�y đ�y c� hai người sẽ l�m sống dậy c�c nh�n đức.

Đaminh biết m�nh l� một, nhưng người kia l� ai th� chưa r�. H�m sau khi đến nh� thờ Ng�i gặp một tu sĩ, mặc đồ người ăn xin ngồi ngay cửa. Đ� l� th�nh Phanxic�. Hai người chưa gặp nhau, nhưng đ� �m cho�ng lấy nhau v� gọi t�n nhau. C�c Ng�i hợp nhất với nhau trong c�ng cuộc của Ch�a.

Th�nh Đaminh đề cao việc học, Ng�i gởi c�c tu sĩ đến c�c đại học, Ng�i truyền : - Chớ g� c�c tu sĩ chuy�n cần học tập ng�y đ�m. L�c ở nh� cũng như khi đi ngo�i đường, họ phải kh�ng ngừng đọc s�ch v� suy gẫm.

Th�nh Đaminh rảo qua khắp nẻo tr�n đường giảng dạy, một thanh ni�n ng�y ngất hỏi Ng�i đ� học c�ch n�o, Ng�i n�i : - Hỡi con trong s�ch đức �i đ�, s�ch n�y hơn mọi s�ch dạy bảo tất cả.

Một năm trước khi qua đời, c�c tu sĩ Đaminh đ� được sai tới Oxford, Hungaria, Đan Mạch v� Hy lạp. Th�nh Đaminh qua đời tại Bologna ng�y 6 th�ng 8 năm 1221.


Ng�y 10-08

Th�nh LAURENS�
Ph� Tế Tử Đạo (+258)

Th�nh Laurens� l� vị th�nh tử đạo Roma được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một m�nh Ng�i ngo�i c�c th�nh t�ng đồ, được k�nh nhớ với th�nh lễ vọng. S�ch nghi thức Đức gi�o ho�ng L�� thế kỷ VI c� kh�ng dưới 14 lễ k�nh Ng�i. Trời Trung Cổ đ� c� �t l� 34 th�nh đường ở Roma d�ng k�nh th�nh nh�n. Ng�i l� vị th�nh bổn mạng thứ ba của th�nh Roma.

Tại sao th�nh Laurens� được t�n k�nh c�ch đặc biệt như vậy ? Thật kh� m� trả lời được. Người nếu bản tường thuật về cuộc tử đạo của Ng�i l� đ�ng sự thật, c�u trả lời ấy sẽ r� rệt. Sau đ�y l� t�m lược bản tường thuật ấy :

L� tổng ph� tế của th�nh Xyst�, Laurens� gặp Đức gi�o ho�ng đang bị bắt giữ v� tr�ch Ng�i đ� kh�ng cho m�nh được chia sẻ triều thi�n tử đạo với Ng�i. Đức gi�o ho�ng hứa rằng trong v�i ng�y nữa, Laurens� sẽ được l�nh ph�c tử đạo, đau đớn hơn nhiều. Ng�i c�n truyền cho vị tổng ph� tế của m�nh h�y ph�n ph�t t�i sản Gi�o hội cho người ngh�o. Khi những lời n�y tới tai ho�ng đế Đ�ci�, �ng truyền bắt giam Laurens�. Th�nh nh�n cải h�a được vi�n g�c ngục Hippolyt�. Bị điệu tới trước vi�n tổng trấn Valrian�, Ng�i được lệnh phải nhượng lại c�c t�i sản của Gi�o hội. Được d�nh cho ba ng�y để th�u thập của cải, Ng�i đ� mang tất cả t�i sản ph�n ph�t cho kẻ ngh�o. Hết hạn Ng�i dẫn họ tới tr�nh với tổng trấn Val�rian�, như l� t�i sản của Gi�o hội. Vi�n tổng trấn nổi giận, buộc th�nh nh�n phải d�ng lễ tiến c�c thần minh.

Từ khước, th�nh nh�n phải chịu mọi cực h�nh, bị nướng tr�n sắt nung đỏ. Tr�n giường chết lạ l�ng n�y, Ng�i c�n chế nhạo D�ci�, người đ�ch th�n ngồi ghế ch�nh �n rằng :  - Một b�n đ� ch�n rồi h�y chi�n b�n kia nữa m� ăn.

Bản tường thuật kh� tin nổi. T�c giả đ� lẫn lộn hai vị ho�ng đế D�ci� v� Val�rian� khi coi �ng n�y l� tổng trấn dưới quyền �ng kia. Hơn nữa, Đức Xyst� kh�ng bị xử m� bị chặt đầu khi bị giam.

Một c�ch tổng qu�t, người ta c�ng nhận rằng: th�nh Laurens� l� một trong bảy vị ph� tế của Đức Xyst� v� chịu tử đạo v�o năm 158. Nhưng nếu Ng�i chỉ bị chặt đầu như c�c bạn th� chắc kh�ng đủ l� do để được t�n k�nh đặc biệt như vậy.


Ng�y 11-08

Th�nh CLARA
Đồng Trinh (1193 - 1253)

Th�nh Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria. Thuộc d�ng họ danh g�i Offreducci�. Người ta n�i th�nh nữ sinh ra với nụ cười tr�n m�i v� kh�ng bao giờ thấy Ng�i kh�c. Ng�i d�nh nước mắt để tưới ch�n Ch�a Gi�su chịu đ�ng dinh. Nghe biết một thanh ni�n gi�u c� đ� trở n�n người ngh�o th�nh Assisi, người thiếu nữ danh gi� cảm k�ch trước mẫu gương của th�nh nh�n. Trong khi gia đ�nh nhắm cưới gả cho n�ng, th� n�ng chỉ nhắm đến cuộc sống s�m hối khi�m hạ. Sau khi nghe b�i giảng của th�nh nh�n, Ng�i đ� đi tới quyết định.

Khi ấy th�nh Clara 18 tuổi. V�o ng�y Lễ L�, 18 th�ng 3 năm 1212, th�nh nữ ăn mặc sang trọng tới nh� thờ ch�nh t�a dự lễ. Theo th�i quen, c�c b� tiến l�n nhận l� từ tay Đức gi�m mục. H�m ấy Clara qu� x�c động, khiến ch�nh đức gi�m mục phải rồi ghế đưa l� đến cho Ng�i. Chiều về, Ng�i đ� c�ng với một người bạn l�n bỏ nh� theo lối cửa hậu rồi theo �nh đuốc tới gặp th�nh Phanxic� tại Porsiuncola...

Giai thoại thật cảm động, một c� g�i 18 sang trọng đ� bỏ tất cả những g� l� quen thuộc v� an to�n để đi theo Đấng v� h�nh, c�n Phaxic� 30 tuổi kh�ng c� lấy một xu d�nh t�i đ� nhận lấy tr�ch nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với c�. Giữa đ�m xu�n trong rừng c�y v� dưới �nh đuốc của đo�n anh em. Clara bu�ng x�a m�i t�c huyền tr�n b�n thờ cho Phanxic� cắt bỏ. H�nh động ho�n to�n ngoại lệ v� kh�ng với một ch�t quyền hạn theo gi�o luật. Phanxic� đ� l�nh bản ly dị của Clara đối với thế gian, rồi gởi đi v�o một nữ tu viện Benedicto gần đ�.

Biến cố nổ lớn l�m cả th�nh phố x�c động. Thế gian kết �n Clara. Ong Monaldo, cậu th�nh nữ đến nh� d�ng bắt th�nh nữ về, nhưng Ng�i �m cứng ch�n b�n thờ quyết chọn Ch�a m� th�i. Phanxic� dẫn th�nh nữ tới một nữ tu tu viện B�n�dict� kh�c, c�ng với em của m�nh l� An�. Sau c�ng Phanxic� thiết lập cho Clara v� cộng đo�n đ� tăng số một tu viện tại San Damian�, nơi đ�y b� Ortolanta, mẹ của th�nh nữ cũng nhập d�ng. Trong một thời gian cộng đo�n độc lập như những người h�nh khất đầu ti�n. Phanxic� viết cho cộng đo�n một bản luật sống vắn gọn, đ�i kỷ luật gắt gao v� chay tịnh khắc khổ.

Dầu vậy, Clara con người đi xa hơn cả ước muốn của th�nh Phanxic�. Năm 1215 Phanxic� đặt Clara l�m tu viện trưởng v� c� lẽ đ� trao cho Ng�i một bản luật d�ng th�nh B�n�dict�. Nhưng một mục chương n�i rằng sự đơn sơ v� nhiệt t�nh của chị em khiến cộng đo�n tăng số rất nhanh.

V�o những năm cuối đời th�nh Phanxic�, mọi li�n hệ với San Đ�mian� bị gi�n đoạn. C�u chuyện hay về bữa ăn tối với Clara kh�ng được ch�nh x�c lắm. Nhưng cơn đau cuối c�ng Phanxic� đ� được Clara cho tr� ngụ trong một m�i ch�i bằng l� c�y ở cổng tu viện Damian�, nơi Phaxic� trước t�c b�i ca mặt trời. Ng�i ban ph�p l�nh cuối cho Clara rồi về Porziuncola v� qua đời tại đ�. Ng�i cũng xin anh em đưa x�c về Assisi qua ng� San Đamian�. Th�nh Clara v� chị em tiếp rước v� c� dịp chi�m ngưỡng c�c vết thương ở tay v� ch�n Ng�i.

Clara thực hiện đ�ng l� tưởng của người ngh�o th�nh Assisi. Đức Inn�cent� III đ� đ�ch th�n ban ph�p cho Ng�i được giữ đức ngh�o kh� tuyệt đối. Nhưng Đức Gr�g�ri� IX nguy�n l� hồng y Ug�lin� đ� muốn cải sửa luật cho ph�p nh� d�ng c� đất đai nh� cửa. Clara cưỡng lại v� năm 1228 đ� được hưởng đặc �n như sở nguyện. Ng�i đ� thưa với Đức Gr�g�ri�: - Thưa Đức Cha, xin tha tội cho ch�ng con, nhưng đừng tha cho con khỏi theo lời Ch�a.

Năm 1247, một lần nữa đức Innocent� IV kiểm so�t lại luật th�nh Phanxic�, muốn sống đời kh� ngh�o truyệt đối. Luật n�y được Đức Innocente chấp thuận vội v�, hai ng�y trước khi th�nh nữ qua đời. Năm 1893 người ta t�m thấy sắc chỉ nguy�n thủy trong mộ th�nh nữ.

Cuộc sống c�n được ghi nhớ bởi cuộc t�n ph� năm 1241 của vua Fr�d�rico II, nhờ lời cầu nguyện đắc lực của Ng�i. Trong cơn bệnh của Ng�i, Đức hồng y Rainalđ�, tức l� đức gi�o ho�ng Alexandr� sau n�y, đ� đến trao m�nh Ch�a v� khuyy�n nhủ th�nh nữ, th�nh nữ trả lời: - Từ khi nếm thử ch�n đắng v� cuộc tử nạn của Ch�a, con thấy kh�ng c�n g� l�m con đau đớn nữa.

Sau khi ch�c l�nh cho c�c nữ tu đến thăm, Ng�i n�i với m�nh: - H�y an t�m, ngươi đ� theo đ�ng đường, cứ tin tưởng v� Ch�a tạo th�nh đ� th�nh hiến v� kh�ng ngừng g�n giữ ngươi, đ� y�u ngươi với t�nh mẹ thương con, �i lạy Ch�a xin ch�c tụng Ch�a v� đ� dựng n�n con.

Th�nh nữ qua đời ng�y 11 th�ng năm 1253 v� năm 1255 được suy t�n hiển th�nh.


Ng�y 13-08

Th�nh PONTIAN�, Gi�o Ho�ng Tử Đạo
Th�nh HIPP�LIT� Linh Mục, Tử Đạo (thế kỷ III)


Th�nh PONTIAN�

Kế vị Th�nh Urban� I l�m gi�o ho�ng khoảng năm 230 Ng�i bị bắt đi lưu đ�y c�ng với vị phản gi�o ho�ng l� Hipp�lit�, tới miền Sardinia trong thời kỳ b�ch hại của ho�ng đế Maximin�. Ng�i nổi danh v� được k�nh nhớ v� đ� tử đạo tại đ�.

Th�nh HIPP�LIT� : �t ra c� ba vị th�nh mang t�n n�y.

Một huyền thoại kể rằng th�nh Hipp�lit� l� vi�n cai ngục canh giữ th�nh Lorens� khi được th�nh nh�n cải h�a. Hipp�lit� đ� trở th�nh m�n đệ v� đ� dự v�o đ�m đ�ng v� đ� dự v�o đ�m t�ng th�nh nh�n. Tin n�y tới tai ho�ng đế, �ng ta truyền đ�nh đ�n Ng�i. V� nu�i Ng�i, th�nh nữ Concordia c�ng với 18 gia nh�n bị đ�nh đ�n cho tới chết, c�n th�nh nh�n được tha để cho ngựa x�. C�u chuyện n�y c�n đ�ng nghi ngờ, v� "Hipp�lit�" c� nghĩa l� "ngựa th�o cương" v� v� c�u chuyện rất giống với huyền sử Hy lạp về Hipp�lit� con của Ther��, cũng đ� chịu một h�nh phạt như vậy. Điều thật dễ hiểu khi th�nh nh�n trở th�nh vị bảo trợ của c�c kỵ sĩ.

Đ�ng hơn, th�nh Hipp�lit� được k�nh nhớ h�m nay l� một linh mục v� l� một thần học gia sống v�o đầu thế kỷ thứ ba. Ng�i đ� trước t�c một số t�c phẩm bằng tiếng Hy lạp, nay chỉ c�n lại qu� �t. Trong số c�c t�c phẩm n�y, cuốn Philosophoumena đả k�ch những học thuyết đương thời.

K�nh Ng�i, c�c đồ đệ đ� dựng được một bức tượng m� thế kỷ XVI người ta t�m thấy. Tr�n ghế bức tượng của Ng�i c� bảng ghi c�c s�ch của Ng�i. Ng�i lập bảng t�nh về lễ phục sinh kh�ng được ch�nh x�c lắm. Trong số c�c s�ch ch� giải kinh th�nh của Ng�i c�n lại cuốn ch� giải s�ch Daniel, trong đ� Ng�i trấn an người đương thời về biến cố Ch�a lại đến bằng c�ch chứng minh rằng thế giới c�n tồn tại 600 năm. Dầu kh�ng kết �n, Đức Callist� nghi ngờ thần học của th�nh Hipp�lit� về lời Ch�a.

Khi đức Callist� được chọn l�m gi�o ho�ng năm 217, Hipp�lit� chống lại v� tự đặt m�nh l�m phản gi�o ho�ng, Ng�i c�n tố gi�c điều m� Ng�i coi như sự dung thứ của đức Callist� cũng như kh�ng r�t lại lời d�m pha. Ng�i được coi như l� người đ� viết cuốn chỉ nam ch�nh yếu về phụng vụ gọi l� cuốn "truyền thống t�ng đồ". Sớm bị Gi�o hội T�y Phương qu�n l�ng, Ng�i lại sống c�n l�u d�i trong c�c Gi�o hội đ�ng phương, thế gi� của Ng�i đối với ch�ng ta l� bản lễ qui Roma của Ng�i, dầu kh�ng cố định từng lời.

Năm 235, ho�ng đế Maximin� khơi lại cuộc b�ch hại c�c Kit� hữu. Cả Đức Potian� lẫn vị phản gi�o ho�ng Hipp�lit� đều bị đầy tới miền hầm mỏ Sardinia. Hipp�lit� kh�ng đ�i l�m gi�o ho�ng nữa v� khuy�n những ai theo m�nh h�y v�ng phục Đức gi�o h�ang hợp thức. Cả hai đấng đều từ trần như l� nạn nh�n của trại tập trung. Khi cuộc b�ch hại chấm dứt, x�c c�c Ng�i được mang về mai t�ng tại Roma (ng�y 13 th�ng 8).

Dầu th�i độ cư xử của th�nh Hipp�lit� chẳng th�nh thiện g�, nhưng Ng�i được k�nh nhớ v� đời sống ri�ng rất khắc khổ nhiệm nhặt v� v� đ� chết v� đạo. Mộ Ng�i ở tại nguyện đường Tiburtine được k�nh như mồ th�nh tử đạo, nhưng chuyện thật của Ng�i lại sớm bị qu�n l�ng. Người ta c�n coi Ng�i như một vị th�nh gi�m mục của Port� "con người lừng danh về học thức". Nhưng c� lẽ th�nh Hipp�lit� ch�nh l� đấng m� ch�ng ta đ� n�i đến ở tr�n.


Ng�y 15-08

ĐỨC MARIA HỒN X�C L�N TRỜI

Kinh th�nh im lặng về những ng�y sau hết của cuộc đời mẹ Ch�a. Sau lời trối Ch�a Gi�su trao Mẹ cho Gioan th� "từ giờ đ�, m�n đệ n�y đ� l�nh nhận Mẹ Ch�a về nh� m�nh (Ga 19,27). S�ch C�ng vụ n�i đến việc "Maria, Mẹ Ch�a Gi�su c�ng với c�c m�n đệ đồng t�m nhất tr� cầu nguyện" (Cv 1,11) để nhận l�nh Ch�a Th�nh Thần.

Ch�a Gi�su về trời, Mẹ cũng r�t v�o �m thầm cầu nguyện v� suy niệm những kỷ niệm đ� ghi trong l�ng" (Lc 2,51). Mẹ kh�ng c�n xuất hiện, để c�c t�ng đồ l�nh nhận sứ mệnh của m�nh trước mặt thế gian như Ch�a đ� truyền: "c�c con sẽ chịu lấy quyền năng của Ch�a Th�nh Thần rồi sẽ đi l�m chứng cho Thầy" (Cv 1,8). Nhưng Mẹ vẫn hiện diện giữa cộng đo�n t�ng đồ để kh�ch lệ tinh thần v� đồng thời cũng gi�p lời cầu nguyện cho c�c Ng�i, v� Mẹ bao giờ cũng coi m�nh như l� "nữ tỳ Thi�n Ch�a".

Mẹ về sống ở Ephes� với th�nh Gioan, sau khi th�nh Giac�b� bị vua H�r�d� giết v�o năm 42 v� Gi�rusalem kh�ng c�n l� nơi an to�n nữa. Theo lời truyền khẩu, Ng�i đ� qua đời v�o khoảng năm 54, hưởng thọ 72 tuổi. C�i chết của Mẹ Ch�a l� cuộc vuợt qua để về với Ch�a. "Đức Trinh Nữ Maria được đưa l�n hưởng vinh quang tr�n trời cả hồn lẫn x�c v� được Thi�n Ch�a t�n l�m nữ vương vũ trụ để n�n giống Con Ng�i trọn vẹn hơn" (GH 59).

Niềm tin Đức Trinh Nữ Maria hồn x�c l�n trời đ� c� từ l�u đời. Từ thế kỷ VI, người ta đ� mừng lễ n�y với danh hiệu lễ Đức Mẹ ngủ. Đến ng�y 1 th�ng 11 năm 1950 Đức Pi� XII đ� long trọng tuy�n bố t�n điều Đức Maria Đồng Trinh hồn x�c về trời. Diễn biến sự kiện n�y như sau:

Khoảng từ năm 1849 đến năm 1940, t�a th�nh đ� nhận được 1505 thỉnh nguyện tự ph�t xin định t�n việc Mẹ hồn x�c l�n trời. Ngay trong c�ng đồng Vatican� I, gần 200 nghị phụ cũng xin định t�n. Sau thế chiến thứ hai, từ năm 1945 đến năm 1950, do lần nữa 852 thỉnh nguyện được gởi tới Đức Th�nh cha do c�c gi�m mục, c�c bề tr�n d�ng, c�c đại học c�ng gi�o. C�c nh� thần học của 30 quốc gia cũng đ� gởi c�c thỉnh nguyện tập thể.

Ng�y 1 th�ng 5 năm 1946 Đức Pi� XV đ� gởi cho mọi gi�m mục một l� thư, xin c�c Ng�i trả lời cho c�u hỏi sau đ�y: - "Theo sự kh�n ngoan ch�n chắn của Đức Cha, Đức Cha c� � kiến g� cho việc Đức Maria hồn x�c l�n trời được đề ra v� x�c quyết như một t�n điều hay kh�ng ? Đức Cha với h�ng gi�o sĩ v� d�n ch�ng c� muốn điều đ� hay kh�ng ?"

Đ� c� 1191 thư trả lời, trong đ� 1169 thư ưng thuận, 16 thư nghi ngại về t�nh c�ch hợp thời của việc tuy�n bố t�n điều, 6 thư đưa những vấn nạn ngược lại. Tất cả gi�m mục của 17 Gi�o hội Đ�ng Phương hợp nhất với t�a th�nh Roma trả lời ưng thuận. Ng�y 30 th�ng 10 năm 1950 đ� c� một hội nghị c�ng khai với 700 vị trong h�ng gi�o phẩm tham dự. Đức Th�nh Cha Pi� XII lại hỏi � kiến. Tất cả mọi vị đều trả lời ưng thuận. Như thế l� đ� c� một sư đồng � theo luận l� của mọi gi�m mục. Sự đồng � n�y l� một b�y tỏ r� r�ng của gi�o huấn th�ng thường. Do sự đồng � n�y của quyền gi�o huấn hợp với t�n điều c�ng gi�o.

Ng�y 1 th�ng 11 năm 1950, Đức Pi� XII trong sắc lệnh c�ng bố t�n điều, đ� nhắc lại những sự kiện tr�n. Ch�ng ta chung một niềm tin với Gi�o hội v�:

  • Đ� c� một li�n hệ mật thiết giữa hồn x�c l�n trời với sự thụ thai v� nhiễm v� mu�n đời đồng trinh của Đức Maria. Vậy Mẹ đ� to�n thắng tội lỗi v� đ�ng được l�n trời hồn x�c.

  • Việc l�n trời hồn x�c của Mẹ cũng li�n hệ với chức vụ l�m Mẹ Thi�n Ch�a. Mẹ đ� kh�ng bao giờ l�m hư hại sự to�n vẹn x�c thể n�n x�c th�n mẹ kh�ng thề hư hoại.

  • Sau nữa, Mẹ đ� được cứu chuộc ho�n to�n, n�n hiệu qủa của ơn cứu rỗi l� sự t�n vinh của con Mẹ cũng được hưởng (Rm 8,29-30; IICor 5,2-5) .

"Lễ M�ng Triệu, ng�y 15 th�ng, ng�y Maria đầy ơn Ch�a, đầy hạnh ph�c, hồn v� nhiễm v� x�c trinh trong của Mẹ được vinh hiển, ng�y Mẹ được giống Ch�a phục sinh c�ch ho�n to�n nhất. Lễ n�y l�m cho Gi�o hội v� nh�n loại thấy được h�nh ảnh của hy vọng cuối c�ng của ch�ng ta, l� tất cả những ai được Ch�a Kit�, một anh em Người th�ng phần m�u thịt với Người sẽ được ho�n to�n vinh quang" (Dt 2,14) (Marialis Cultus)


Ng�y 16-08

Th�nh ST�PHAN�,
Người Hungary (977 - 1038)

Người Hung, gốc từ � Ch�u, đ� tiến v�o lập cư tr�n bờ s�ng Danuble. Họ sống bằng chiến tranh cướp b�c, v� dữ tợn như th� hoang. V�o đầu thi�n ni�n kỷ n�y, Geysa, con ch�u d�ng Attila cai trị họ.

Hầu tước Geysa cưới Sarolta, một thiếu nữ c�ng gi�o v� dưới ảnh hưởng của n�ng, �ng đ� trở lại đạo c�ng gi�o. Nữ hầu tước rất nhiệt th�nh với đạo. Tương truyền rằng th�nh T�phan� đ� b�o cho b� biết rằng người con b� tr�ng đợi sẽ được Thi�n Ch�a ch�c ph�c v� sẽ ti�u diệt ngẫu tượng trong xứ.

V� l�ng s�ng k�nh th�nh tử đạo, b� th�m t�n T�phan� v�o sau t�n Vaik của con trẻ. Mười năm sau, Geysa xin th�nh Ađalbert rửa tội cho con trẻ v� mời c�c nh� truyền gi�o đến. T�phan� được trao cho c�c nh� th�ng th�i v� th�nh thiện gi�o dục. 15 tuổi Ng�i đ� chia sẻ với cha tr�ch nhiệm trị nước v� 22 tuổi Ng�i kế nghiệp cha sau khi �ng qua đời.

L�n cầm quyền ch�nh, th�nh T�phan� t�m thỏa hiệp với c�c l�n bang v� hiến th�n cải h�a to�n d�n. Nhưng c�c l�nh Ch�a theo ngẫu tượng bất m�n v� việc ph�ng th�ch n� lệ đ� coi d�n Hungari l� d�n phản loạn. T�phan� chuẩn bị chiến tranh bằng lời cầu nguyện v� s�m hối c�ng thi h�nh việc bố th�. Tr�n kỳ hiệu dẫn đầu binh đội, Ng�i trưng h�nh th�nh gi� Martin� v� Gr�ri�. Thắng trận Ng�i cho x�y tại chỗ l� Vesprem một tu viện k�nh th�nh Martin�.

Để chinh phục c�c thần d�n cứng cỏi Ng�i chạy đến c�c tu sĩ Cluny. Từ c�c tu viện, ch�nh c�c tu sĩ mở mang văn h�a cho xứ sở do c�c trường học cạnh tu viện. Th�nh T�phan� c�n đề ra một chương tr�nh ngoạn mục, Ng�i sai sứ giả sang triều yết Đức gi�o ho�ng Sylvester III, xin nhận Hungari v�o số c�c quốc gia Kit� gi�o v� phong vương cho Ng�i. Đức gi�o ho�ng gởi cho Ng�i một triều thi�n v� một th�nh gi� v�ng, ban cho Ng�i đặc �n d�nh cho c�c t�ng đồ. Th�nh T�phan� được c�ng nhận l� vua v� t�ng đồ. Th�nh Astrik đ� phong vương cho vua năm 1001.

Một thời gian sau Ng�i đ� ho�n th�nh được 10 gi�o phận với một t�a tổng gi�m mục tại Esztergem. Rất c� l�ng t�n s�ng Đức Mẹ, Ng�i x�y một th�nh đường nguy nga k�nh Mẹ tại Sz�kes-F�h�waz.

L�ng b�c �i của th�nh T�phan� c�n vượt ra ngo�i bi�n giới Hungari. Ng�i thiết lập nhiều nh� thương v� tu viện ở Roma, Constantinople v� Gi�rusalem, cũng như c�c nh� cho kh�ch h�nh hương Hungary. Trong l�nh thổ m�nh,

Ng�i ra c�c sắc luật chống lại tội �c v� lộng ng�n. Rất nghi�m khắc với những người lỗi luật Ch�a, Ng�i lại rất nh�n hậu đối với những bất c�ng Ng�i l�nh chịu. Ng�i �n cần săn s�c c�c người ngh�o khổ, để hiểu r� thực trạng, Ng�i hay t�ng h�nh đi t�m kiếm họ. Một lần bọn ăn xin x� tới h�nh hạ Ng�i v� cướp của. Tiếng đồn vang xa. C�c l�nh ch�a cười nhạo Ng�i, nhưng Ng�i c�ng hiến th�n cho người c�ng khốn nhiều hơn nữa. Người ta n�i rằng: Ng�i được ơn chữa bệnh v� n�i ti�n tri. Đ�m kia c� tiếng b�n trong giục Ng�i sai người tới tin cho d�n v�ng bi�n giới r�t lui khỏi l�ng mạc của họ để khỏi bị tấn c�ng. Sự việc xảy tới, v� được b�o trước kịp thời, d�n ch�ng được cứu tho�t.

Conrad, tấn vương Germany muốn x�m chiếm Hungary với một đội qu�n h�ng hậu. T�phan� truyền cho binh l�nh ăn chay cầu nguyện. Binh đo�n của Conrad bị lạc giữa rừng c�y, đầm lầy s�ng lạch, kh�ng thể tiếp tế được m� phải lui binh. T�phan� to�n thắng m� kh�ng phải chiến đấu. Th�nh vương ao ước thanh b�nh, đ� phải chiến đấu nhiều để bảo vệ thần d�n. Ng�i chiến đấu ở Balan, c�ng Balkan. Dầu chiến thắng Ng�i kh�ng ngừng cầu nguyện cho d�n khỏi thảm hoạ chiến tranh. Thắng được ho�ng tử Transyvania, Ng�i thả tự do cho �ng v� chỉ đ�i điều kiện l� �ng cho ph�p c�c nh� truyền gi�o đến xứ �ng. Sự Th�nh thiện của T�phan� đ� khuất phục được tất cả thủ địch lẫn những người th�n phục Ng�i.

C�c thử th�ch lớn lao ho�n tất việc th�nh h�a nh� vua. Ng�i đ� lập gia đ�nh với nữ c�ng tước Gis�le, con g�i vua Henry II, b� tước miền Bavi�re. Ho�ng hậu Gis�le l� người đạo đức đ� gi�p vua T�phan� rất nhiều. Nhưng chẳng may con c�i họ đều qua đời l�c tuổi c�n xanh. C�n một m�nh ho�ng tử Emeric sẽ kế nghiệp cha nhưng lại tử nạn trong một tai nạn l�c đi săn. Th�nh T�phan� vượt c�ng mọi đau đớn bằng c�ch nhiệt t�m với bổn phận. Ng�i đ� chịu bệnh trong một thời gian d�i, lại c�n bị ghen tương �m hại. Theo một tường thuật, c�c l�nh Ch�a giận dữ v� sự c�ng thẳng của Ng�i đ� t�m c�ch s�t hại Ng�i. Kẻ s�t nh�n lận dao trong �o lẻn v�o ph�ng Ng�i. Nhưng khi vừa thấy Ng�i hắn bỗng hối hận v� tự th� � định tội �c của m�nh. Vua chỉ n�i: h�y giải h�a với Ch�a v� đừng sợ bị t�i trả th�.

Ng�y lễ M�ng Triệu 15 th�ng 8, th�nh T�phan� qua đời v� được mai t�ng trong đền thờ Đức B� ở Sz�kes-F�h�waz.


Ng�y 19-08

Th�nh GIOAN EUD�
Linh Mục (1601 - 1680)

Th�nh Gioan Euđ� l� một trong số những người chấn hưng t�n gi�o tại Ph�p thời vua Luy XVI. Isaac Euđ�, cha Ng�i l� nh� n�ng ki�m nghề giải phẫu tại th�nh Ri gần Argentan, đ� c� � định trở th�nh linh mục, nhưng rồi lại bỏ � định để lập gia đ�nh. Mẹ Ng�i l� b� Mattha Corbin tưởng sẽ phải son sẻ. Nhưng rồi sau nhờ cầu nguyện, họ sinh được Gioan với bốn em g�i v� hai em trai nữa.

Gioan c� t�nh n�ng nảy, nhưng hiến m�nh cho Đức Trinh Nữ Maria, Ng�i quyết sửa m�nh bằng c�ch ng�y c�ng mến Mẹ hơn. Hồi 9 tuổi, c� lần Ng�i bị một thằng bạn vả mặt, nhớ lời Ch�a Ng�i đưa m� kia ra: c�n m� n�y nữa, nếu muốn anh cứ vả tiếp đi. Thằng bạn ngượng ng�ng v� sau n�y đ� kể lại sự kiện đ� với niềm th�n phục s�u xa.

15 tuổi Gioan theo học c�c cha d�ng T�n tại Caen. Từ trong huyết quản Gioan đoan hứa d�ng m�nh cho mẹ Thi�n Ch�a. Nhưng khi trở về nh�, cha mẹ n�i với Ng�i về việc h�n nh�n. Ng�i b�y tỏ ước vọng với cha mẹ v� phải kh� khăn lắm mới được cha mẹ ưng thuận. Ng�i nhập d�ng giảng thuyết v� năm 1625 thụ phong linh mục.

Sau ng�y thụ phong, Gioan phục vụ gi�o xứ ở Aubervilliers. Hai năm sau, một cơn dịch xảy tới t�n ph� gi�o phận Sees. C�c bệnh nh�n bị những người kh�c bỏ mặc v� trốn chạy. Gioan chỉ muốn bay tới để gi�p đỡ họ. Trong suốt hai th�ng trời, Ng�i hết m�nh phục vụ. Khi cơn dịch hạ giảm, Ng�i thực hiện sứ vụ tại Caen. Nhưng cơn dịch chưa dứt m� chỉ dời chỗ. Lần n�y cơn dịch tr�n tới Caen. Gioan lại tận t�m qu�n m�nh phục vụ. Kh�ng c� g� l�m cho Ng�i sợ h�i cả. Nhưng d�n ch�ng lại sợ Ng�i truyền bệnh. Bởi đ� Ng�i bị giam m�nh trong một c�i th�ng để ở ngo�i đồng ruộng, khiến l�c đ� c�nh đồng được gọi l� "c�nh đồng của th�nh nh�n". C�c nữ tu thương hại Ng�i ng�y ng�y mang của ăn đến cho Ng�i. Ng�i trở về d�ng hiến m�nh phục vụ hai tu sĩ v� bề tr�n sắp chết v� bệnh dịch. Cuối c�ng, cơn dịch tan biến, nhưng Gioan l�n cơn sốt, d�n ch�ng khẩn cầu tha thiết cho Ng�i được chữa l�nh v� niềm vui thật lớn lao khi người "Samaritan� nh�n hậu" t�i xuất hiện.

B�y giờ bắt đầu c�ng tr�nh rao giảng v� truyền gi�o của Ng�i. Ng�i chống lại lạc thuyết Calvin�, những kinh ho�ng của cuộc nội chiến, sự dốt n�t của h�ng gi�o sĩ, những tật xấu của c�c t�n hữu. Ch�ng ta c� thể đo lường hoạt động của một vị th�nh như thế n�o: 15 ng�n người chen lấn nghe th�nh nh�n giảng, c�c tội nh�n s�m hối v� để được xưng tội, họ phải chờ 4 hay 5 ng�y mới đến lượt. Trong khi để tiết kiệm th� giờ của họ. Ng�i chỉ d�ng v�i miếng b�nh để dưỡng sức. C�c th�i tục ngoại gi�o biến dạng. Ở Autun, cuộc rước Trinh nữ thay thế cho những gương m� ng�y Mi-Careme (thứ 5 tuần III m�a chay). Ở Meaux d�n ch�ng mang c�c s�ch đồi trụy đến c�ng trường để đốt bỏ.

Cha Gioan Euđ� đ� giảng thuyết khắp v�ng Normandie Bretagne, tới tận Saint Etienne. Tại Paris, cha sở th�nh thiện của Saint - Sulpice, M.Olier, đ� tổ chức cho Ng�i 5 kỳ giảng thuyết. Ng�i danh tiếng đến nỗi c� 10 gi�m mục hiện diện. Ở Saint Germain-Laye, vua v� ho�ng hậu đến ngồi v�o ghế th�nh giả. Cha Gioan Euđ� thuyết giảng lần cuối c�ng tại Sain-L�.

Suốt 40 năm, cha Gioan đi rao giảng đ� đ�y. Nhưng việc rao giảng chỉ l� một phần hoạt động của Ng�i. Nhận thấy h�ng gi�o sĩ kh�ng được đ�o tạo đầy đủ, Ng�i từ gi� d�ng giảng thuyết năm 1643, để lập hội d�ng Ch�a Gi�su v� Đức Maria lo việc tổ chức c�c chủng viện. Theo lời đề nghị của Đức Hồng Y Richelieu, Ng�i lập đại chủng viện ở Caen rồi sau n�y ở Lisieux, Rouen, Eureux v� Renner. Đ�ng kh�c Ng�i rất thương cảm c�c thiếu nữ bất hạnh ho�n lương, năm 641 Ng�i đ� lập d�ng Ch�a chi�n l�nh để săn s�c họ.

Giữa bao nhi�u c�ng chuyện, ước mơ lớn nhất của th�nh Gioan Eus� l� phổ biến l�ng t�n s�ng Th�nh T�m, Ng�i l� người khởi xướng, viết s�ch v� c�c th�nh thi ca tụng Th�nh T�m. Đ�y l� nỗ lực chống lại chủ trương sai lầm của thuyết Gians�ni�.

Ng�y 19 th�ng năm 1680, th�nh Gioan Euđ� từ trần, Ng�i được phong ch�n phước năm 1925 được suy t�n hiển th�nh.


Ng�y 19-08

Th�nh R�MUAL�
Tu Viện Trưởng (956 - 1027)

Th�nh R�muald� sinh tại Ravenna năm 956, trong một gia đ�nh danh gi� nước �. B� tước Sergi�, cha Ng�i đ� phụng dưỡng Ng�i trong một nếp sống xa hoa. R�muald� đ� chỉ t�m vui chơi m� kh�ng nghĩ g� tới bổn phận phải n�n th�nh. Dầu vậy đ�i lần đi săn th�, Ng�i thấy m�nh đơn độc giữa rừng vắng v� phải suy nghĩ... Ng�i đặt m�nh v�o một ng�y n�o đ� phải chết v� bỗng thấy lo �u. Ng�i cũng thấy rằng c�c ẩn sĩ chọn đời sống c� tịch, h�m m�nh để hiến th�n phụng sự Ch�a thật l� đ�ng đắn. Những giấc mơ như vậy thanh luyện hồn Ng�i v� cảm k�ch bởi ơn th�nh Ng�i tự hứa với m�nh l� sẽ cải thiện đời sống nhưng rồi trở lại với những th� vui ng�y thường Ng�i lại l�i bước trước nỗ lực v� lao m�nh theo c�c thị hiếu.

Một biến cố đau thương đ� th�nh phương tiện Thi�n Ch�a d�ng để gỡ R�mualđ� khỏi những r�ng buộc với thế gian. Sergi� cha Ng�i g�y lộn với một người b� con về việc sở hữu một c�nh đồng đ� th�ch đấu kiếm, �ng c�n bắt con m�nh dự v�o cuộc đấu. Sergi� giết chết đối thủ, coi m�nh l� đồng l�a với tội phạm n�y v� thấy phải đền trả. R�muad� đ� v�o tu viện để thống hối suốt 40 ng�y. Bị đ�nh động bởi thực tế tr�i ngược hẳn với lối sống ph�n t�n của thế gian, Ng�i chỉ c�n nghĩ tới việc bắt chước những khắc khổ m� Ng�i được chứng kiến.

B� tước Sergi� cảm k�ch v� mẫu gương của con m�nh đ� v�o d�ng. Khi bị c�m dỗ trở về đường xưa, �ng lại dẫn con m�nh kịp thời can thiệp v� tiếp tục trung th�nh với đời sống đền bồi cầu nguyện.

Sau 7 năm sống trong d�ng, R�muado dấn m�nh v�o sa mạc, sống gần vị ẩn sĩ gi� l� Marin�. Đ�y l� bậc thầy nghi�m ngặt m� Ng�i đ� chọn, Marin� thường lấy roi đ�nh tr�n đầu m�n đệ của m�nh để xua đuổi sự chia tr� lo ra hay để phạt một lầm lỗi khi đọc th�nh vịnh, hay hơn nữa để gi�p họ quen chịu khổ. �ng lại hay đ�nh c� một ph�a. R�muado kh�ng hề ph�n n�n k�u tr�ch.

Một ng�y kia Ng�i n�i với thầy: - Thưa th�y, từ nay xin thầy đ�nh về ph�a mặt v� tai tr�i con hầu như điếc rồi.

R�muado thầm cảm phục v� k�nh trọng m�n đệ m�nh.

R�muado nu�i ch� hứơng canh t�n d�ng B�n�dict� đang thời sa s�t, Ng�i thiết lập một tu viện. Ng�i l�m cho c�c m�n đệ nhiệt t�nh n�n ho�n hảo trong việc h�m m�nh, khi phải chống lại sự dữ v� phạt tội lỗi, th�nh nh�n đ� tỏ ra cương nghị, chẳng hạn khi vua Othen III đến tu viện để đền b� tội lường gạt v� s�t hại một thủ l�nh loạn lu�n, �ng được truyền dạy phải đi ch�n kh�ng tới nh� thờ th�nh Micae v� suốt m�a chay, phải ở trong đồng m� ăn chay, ngủ tr�n rơm cỏ.

R�muado chống gậy rảo khắp nước � sang cả Ph�p v� Đức. Ng�i x�y nhiều nh� thờ, thiết lập nhiều tu viện, v� c�c trung t�m ẩn tu trong sa mạc. Ng�y kia, Ng�i t�m được một nơi thanh vắng trong d�y Apennins. Ng�i mơ thấy một c�i thang bắc l�n trời, c� c�c tu sĩ l�n xuống. Vị l�nh ch�a miền n�y cho Ng�i c�nh đồng Malđ�li. Th�nh nh�n lập d�ng Camaldules sống đời li�n lỉ.

V�o tuổi 120, th�nh R�muado từ trần, ng�y 19 th�ng 6 năm 1076.
Sau 439 năm x�c Ng�i c�n nguy�n vẹn v� được đặt trong nh� thờ của d�ng ở Fabrian�.


Ng�y 20-08

Th�nh BERNAD�
Tu Viện Trưởng, Tiến Sĩ Hội Th�nh (1090 - 1153)

Bernađ� sinh năm 1090, tại l�u đ�i Phontaine gần Dijon. Cha Ng�i l� hiệp sĩ Tescelin kh�n ngoan v� đạo đức. Mẹ Ng�i l� b� Aleth Th�nh thiện. Một đ�m kia b� mơ thấy Bernađ� đang n� đ�a bỗng ho� th�nh con ch� sủa vang. Giấc mơ n�y ti�n b�o Bernađ� sẽ trở th�nh t�ng đồ, th�nh nh� giảng thuyết đại t�i. Bernađ� lu�n lu�n khẩn cầu Thi�n Ch�a cho l�ng m�nh khỏi vướng tội nhơ. Một lần lỡ nh�n người phụ nữ, Ng�i đ� d�m m�nh xuống hồ gi� lạnh cho tới tận cổ.

Năm 22 tuổi, cả một tương lai s�ng mở ra rước mắt, tại triều đ�nh, nơi qu�n ngũ, trong to� �n, mỗi nơi c� thể ao ước, Ng�i đều c� thể th�nh c�ng. Nhưng một đ�m Gi�ng sinh, Ng�i được thị kiến thấy Ch�a Gi�su �u yếm ẵm lấy Ng�i, kỷ niệm n�y in dấu s�u đậm suốt đời Ng�i. Một ng�y kh�c v�o th�nh đường, tha thiết cầu xin Ch�a cho Ng�i biết th�nh � Ch�a, cũng như xin Ch�a ban ơn can đảm thi h�nh th�nh � ấy. Chỗi dậy, Ng�i quyết định gia nhập d�ng Citeax, một d�ng tu nổi tiếng khắc khổ. Thế l� gi� từ danh vọng thế gian v� c�c niềm vui giả tạo.

Một hiệp sĩ trẻ trung sắp ch�n v�i đời m�nh trong tu viện. Sẽ hiến m�nh cầu nguyện li�n lỉ, l�m việc cực nhọc v� h�m m�nh hết mực. Điều đặc biệt l� Ng�i đ� chọn một tu viện xa nh� v� ngh�o khổ thay v� những tu viện B�n�dict� m� tặng vật v� ảnh hưởng của gia đ�nh c� thể bảo đảm cho Ng�i những chức vụ s�ng gi�.

Bernađ� tr�nh b�y � định với cha, Ng�i đ� bị phản đối, anh em trong gia đ�nh cũng kh�ng chấp nhận được � kiến n�y. Ng�i n�i: - N�y h�y tin t�i đi, cuộc chinh phục linh hồn kh�ng được đ�ng gi� sao ?

Cương quyết v� nhiệt t�nh, Bernađ� kh�ng những đ� l�m cho cha mẹ v� anh em nhượng bộ, lại c�n l�i cuốn họ v�o d�ng theo ch�n m�nh nữa. Lần kia em �t Nivard đang ngồi chơi, Guy người anh cả n�i: - Gi� từ em nh�. Tất cả sản nghiệp thuộc về em, bằng l�ng chứ ?

Người em �t n�i lớn: - Sao ? Trời cho c�c anh, c�n đất cho em, ph�n chia chẳng đồng đều t� n�o.

Rồi người em �t cũng theo cha v� c�c anh v�o d�ng. Ngo�i ra �ng cậu v� c�c bạn của Bernađ�, cả thẩy tr�n 30 người đ� theo ch�n Ng�i v�o d�ng.

Sự gia nhập đ�ng đảo n�y đ� ti�m một nhiệt huyết mới v�o d�ng Citeaux. Th�i độ của Bernađ� v� của c�c bạn c�n được một số đ�ng c�c bạn trẻ noi theo. Đức viện phụ của d�ng l�c ấy l� th�nh T�phan� Harding, một người gốc Anh, th�nh hiện, kh�n ngoan v� uy�n b�c. Ng�i sai từng nh�m nhỏ đi lập c�c tu viện mới rập theo khu�n mẫu của nh� mẹ. Ba năm sau, tới phi�n Bernađ�, Ng�i dẫn đầu một nh�m tu sĩ 12 người đến một thung lũng gần Langres. Họ dựng ch�i một nh� nguyện, nh� ăn, l�m những c�i h�m giống như quan t�i để ngủ. Sự th�nh thiện của c�c tu sĩ cũng như v�ng thung lũng trở th�nh thung lũng �nh s�ng hay l� Claivaux.

Th�nh Bernađ� sẽ l� đan viện phụ của tu viện n�y cho đến hết đời. L�c đầu Ng�i tỏ ra đ�i hỏi gắt gao. Nhưng rồi về sau, Ng�i đ� hiểu v� nh�n hậu hơn. Danh tiếng Ng�i lan rộng. Nhiều người từ xa đến xin Ng�i gi�p đỡ, hay xin Ng�i ph�n xử cho những vụ tranh chấp. Việc n�y kh�ng được mọi người bằng l�ng, v� Ng�i kh�ng biết sợ ai cả. Ng�y kia người nhận được một l� thư ngắn ngủi từ Roma, dạy đừng xen m�nh v�o chuyện đời. Kh�ng g� l�m Ng�i vui mừng bằng được ở y�n trong tu viện. Nhưng v� cảm thấy m�nh c� li�n hệ tới lợi �ch của Gi�o hội n�n đ� kh�ng ngại viết một l� thư hồi �m rất can đảm nhiệt t�nh.

Ng�i l� người ủng hộ nhiệt liệt cho những cải c�ch Hildebrand, nhưng Ng�i nghĩ rằng: sự tập quyền trong Gi�o hội đ� đi qu� xa. Khi n�ng đỡ cho những đ�i hỏi của to� th�nh, Ng�i kh�ng tin l� phải phỉnh nịnh Đức gi�o ho�ng. Nhưng khi sự ph�n rẽ đe dọa l�m rạn nứt Gi�o hội, Ng�i được triệu vời đến. Một c�ch rạng rỡ, Ng�i đ� đ�nh bại vị phản gi�o ho�ng. L�c n�y danh tiếng Ng�i lan rộng khắp Ch�u Au. Cả thế giới đều như muốn quay về Ng�i để t�m � kiến gi�p đỡ. Kh�ng đến với Ng�i được người ta viết thư v� Ng�i đ� quyết hồi �m cho tất cả mọi người. Một phần nhỏ trong số thư t�n khổng lồ n�y con s�t lại, nhưng cũng l� một trong những nguồn t�i liệu lịch sử ch�nh yếu về thời đ�.

Như nh� dẫn đầu trong cuộc cải tổ d�ng Citeaux, Ng�i tranh luận với c�c tu sĩ d�ng B�n�dict� thuộc cộng đo�n chung. Rất t�n trọng c�ch sống của họ, Ng�i kh�ng thể tha thứ cho những lạm dụng đang thịnh h�nh trong một v�i nh� d�ng. Dầu vậy đối với Đan viện phụ Cluny, cha đ�ng k�nh Ph�r�, Ng�i vẫn giữ được một t�nh bạn nghĩa thiết. Nhưng sự chống đối của th�nh Bernađ� với Ph�r� Abelard� mới thật nổi bật. Kh�ng những chống lại c�c chủ trương của �ng, Ng�i c�n chống lại cả c�ch thức �ng ki�u h�nh tranh luận về c�c vấn đề th�nh nơi chợ b�a. Th�nh Bernađ� lu�n nghĩ tới đức tin của những người d�n đơn sơ v� đứng về ph�i bảo thủ, nhưng vẫn l� bạn của người học thức đỡ đầu cho c�c học giả như Robert� Pullen v� Gioan miền Sabisbury.

Đối với Đức Maria, th�nh Bernađ� c� một l�ng s�ng k�nh đặc biệt. Một ng�y kia tại nh� thờ ch�nh t�a Sprine, khi nghe h�t Kinh Lạy Vữ Vương, Ng�i đ� nhiệt t�nh th�m v�o:
- �i khoan thay, nh�n thay, dịu thay, Th�nh Maria trọn đời đồng trinh.

Ch�nh Ng�i cũng Ng�i viết th�nh thư cảm động: Ave Maria Stella. Dường như Ng�i cũng l� t�c giả kinh "H�y nhớ" nữa.

Suốt thời gian l�m đan viện phụ của th�nh Bernađ� d�ng Clairvaux ph�t triển mạnh v� sinh ra 60 nh� kh�c nữa rải r�c khắp �u Ch�u. Rất bận rộn c�ng việc, Ng�i kh�ng sao l�ng việc chăm s�c cho c�c tu sĩ của m�nh. Suốt đời, Ng�i l� một tu sĩ v� l� một nh� thần b�. Ng�i trước t�c những b�i ch� giải s�ch Nh� Ca v� nhiều t�c phẩm thần học v� thần b� kh�c nữa.
Những năm cuối c�ng đời Ng�i bị phủ mờ v� sự thất bại của đạo binh th�nh gi� thứ nh�. Đức gi�o ho�ng cậy Ng�i cổ động cho đạo binh n�y. Nghe lời Ng�i to�n Au Ch�u cầm kh� giới l�n đường. Nhưng khi xa khỏi ảnh hưởng của Ng�i, c�c nghĩa binh th�nh gi� đ� qu�n hẳn l� tưởng cao cả của m�nh m� l�m vỡ cuộc viễn chinh v� đ�nh phạt nhau v� v� c�c việc l�mbất xứng với danh hiệu Kit� hữu.

Dầu kh�ng thể quy tr�ch được cho th�nh Bernađ�, nhưng như c�c th�nh nh�n kh�c v� như ch�nh Ch�a Kit�, Ng�i đ� qua đời ng�y 20 th�ng năm 1153, dưới b�ng m�y m� v� thất bại đ� qu� r� r�ng. Ng�i n�i với con c�i Ng�i : - Cha kh�ng phải giải quyết thế n�o. T�nh thương y�u con c�i đời cha ở lại nhưng t�nh y�u Thi�n Ch�a k�o cha l�n cao.

Cả �u Ch�u thương tiếc Ng�i. 21 năm sau, Đức Alexander III phong Ng�i l�n bậc hiển th�nh. Năm 1830, Ng�i được đặt l�m tiến sĩ Hội Th�nh. Ng�i đ� sống trước khi h�nh th�nh thuyết kinh viện v� bởi v� gi�o huấn của Ng�i c�n nằm trong truyền thống c�c gi�o phụ, người ta thường coi Ng�i l� th�nh gi�o phụ cuối c�ng.


Ng�y 21-08

Th�nh PI� X
GI�O HO�NG (1835 - 1914)

Th�nh Pi� X gi�o ho�ng t�n thật l� Giuseppe Melchierre Sart�, sinh tại l�ng Riese miền Venetia, ng�y 02 th�ng 6 năm 1835. Cha Ng�i �ng Giovanni Battista Sart� th�nh h�n với mẹ Ng�i l� b� Margherita Samon, nhỏ hơn �ng tới một nửa số tuổi. V� vậy l�n 17 tuổi, Ng�i đ� mồ c�i cha. L�m nghề chạy giấy của x�, �ng Giovanni Battista l�m cha một gia đ�nh ngh�o t�ng. Chết đi �ng cũng lại một gia đ�nh c�ng t�ng quẫn hơn nữa. Tuy nhi�n nhờ l�ng đạo đức của cả hai �ng b� m� gia đ�nh n�y đ� g�p phần đ�o tạo n�n một vị th�nh lớn cho Gi�o hội.

Ngay từ nhỏ, học tại trường l�ng, Giuseppe đ� tỏ ra c� nhiều triển vọng, Ng�i lu�n l� một học sinh giỏi đứng đầu lớp học. Theo phong tục thời đ�, d� đ� v�o ban gi�p lễ từ hồi 7 tuổi, m�i tới năm 11 tuổi, Giuseppe mới được rước lễ lần đầu. Những ng�y th�ng mong đợi c� lẽ đ� khiến Ng�i khi l�n gi�o ho�ng sau n�y, đ� cho ph�p trẻ em được rước lễ vỡ l�ng khi vừa tới tuổi kh�n v� nhiệt t�nh cổ v� l�ng t�n s�ng b� t�ch Th�nh Thể. Trước b�n thờ Đức Mẹ, dịp rước lễ lần đầu, Giuseppe đ� khấn d�ng m�nh cho Ch�a.

Từ l�u rồi Ng�i đ� nu�i � định n�y nhưng kh�ng d�m tỏ b�y với cha mẹ. Nhưng khi biết được � định của con, mẹ Ng�i đ� hết sức t�n th�nh, cha Ng�i ngập ngừng v� thấy gia đ�nh ngh�o t�ng, nhưng rồi cũng quảng đại v�ng theo � Ch�a. Mọi người đều vui mừng v� quyết định của Giuseppe, nhất l� cha sở Riese. Cha ph� dạy tiếng Latinh cho Ng�i. Khi đ� đủ lực theo bậc trung học ở Castelfranc� c�ch Riese 7 c�y số ng�n. Suốt 4 năm trời Ng�i thường v�c giầy tr�n vai, để tiết kiệm, v� đi bộ tới trường rồi lại đi bộ về nh�. Ch�nh l� tưởng l�m linh mục l� sức mạnh gi�p Ng�i ki�n tr� như vậy.

Hết 4 năm tại Castelfranc�, năm 1850, Giuseppe l�n đại chủng viện Padua. Gia đ�nh Giuseppe ngh�o, cha sở xin được cho Ng�i một học bổng, gi�o d�n trong họ hằng năm quy�n tiền gi�p đỡ Ng�i. Thật l� những nghĩa cử cao đẹp đối với một ơn gọi. Năm 17 tuổi, �ng th�n sinh qua đời, Giuseppe muốn bỏ về gi�p mẹ v� săn s�c cho 7 đứa em. Lại một nghĩa cử cao đẹp kh�c vun trồng cho ơn gọi Giuseppe ch�n m�i: mẹ Ng�i kh�ng chấp nhận � kiến, m� quyết t�m d�ng con cho Ch�a. Trong nếp sống ngh�o kh� nhưng lại gi�u l�ng quảng đại ấy, Giuseppe đ� tiến tới chức linh mục ng�y 28 th�ng 9 năm1858, l�c 23 tuổi.

Sau ng�y mở tay tại qu�n nh�, cha Giuseppe đi nhận ph� xứ Tombolo, ch�n năm sau Ng�i được bổ nhiệm l�m ch�nh xứ Salzano. 17 năm l�m ph� xứ rồi ch�nh xứ, cha Giuseppe sống đời hy sinh tận tụy với gi�o d�n, nhất l� với những người ngh�o kh�. Kh�ng hề ao ước danh vọng, Ng�i lại được chiếu cố, được t�n nhiệm v�o chức vụ cao hơn. Đức Gi�m mục Trevise mời Ng�i về l�m chưởng ấn to� gi�m mục, ki�m nhiệm chức vụ gi�m đốc chủng viện.

Lu�n lu�n Ng�i thi h�nh c�c chức vụ bề tr�n giao ph� một c�ch chu đ�o.

Năm 1884, đức L�� XIII, Đấng m� Ng�i sẽ kế vị đặt Ng�i l�m gi�m mục cai quản điạ phận Mantua, Ng�i muốn từ khước nhưng đ� v�ng lời v� quyết n�n mọi sự cho mọi người. - D�n ch�ng sẽ thấy t�i lu�n ki�n tr� trong chức vụ, lu�n hiền từ v� đầy b�c �i.

�m h�n mẹ hiền, Ng�i cho mẹ em chiếc nhẫn gi�m mục của m�nh. Mẹ Ng�i cũng sung sướng cho Ng�i xem chiếc nhẫn cưới của m�nh v� n�i : - Kh�ng c� chiếc nhẫn của mẹ th� chẳng c� chiếc nhẫn của con.

Phải thật nh�n đức mới c� thể đường dầu với t�nh trạng đ�ng thương của gi�o phận: chủng viện gần như trống rỗng, d�n ch�ng chịu ảnh hưởng của t�m điểm, thệ phản thuyết ph�ng t�ng n�n l�ng đạo đức sa s�t, chẳng c�n nhiệt t�m g� với việc t�ng đồ, với đời sống nội t�m. Sợ h�i, nhưng đức cha Sart� bắt tay ngay v�o việc canh t�n. Ng�i đi kinh l� khắp điạ phận rộng lớn.

Những cuộc tiếp x�c thường xuy�n v� th�n mật n�y đ� tạo n�n những bước tiến cụ thể. Khi m�a gặt đ� tới, Ng�i l�n tiếng k�u gọi cho ng�n quỹ vơi cạn của chủng viện v� được đ�p ứng quảng đại. Ng�i triệu tập một hội nghị để trao đổi v� để đ�n nhận c�c � kiến. Ng�i lu�n lo bảo vệ sự to�n vẹn đức tin v� kh�ng muốn chấp nhận sự sống nhượng bộ khi kh�ng được ph�p : - Người ta phải tranh đấu nơi thanh thi�n bạch nhật.

C�ng việc ng�y một nhiều, nhưng Ng�i vẫn thường xuy�n thăm viếng c�c gi�o xứ. Buổi s�ng kia tới nh� thờ một họ đạo, Ng�i thấy gi�o d�n đứng chờ trước to� giải tội, Ng�i v�o ngồi t�a, khiến cha sở tới nơi phải bối rối. Trợ gi�p h�ng gi�o sĩ về lu�n l� lẫn t�i ch�nh đ� l� n�t đặc trưng trong chức vụ của Ng�i.

Mỗi hoạt động của vị gi�m mục th�nh thiện đều tạo th�nh tiếng vang. Năm 1893, Đức Leo XIII đặt Ng�i l�m hồng y gi�o chủ Vevetia. Lần n�y Ng�i mau mắn v�ng lời.

- Khi vị đại diện Ch�a Kit� mở lời, kh�ng phải l� l�c để nghiệm x�t, m� l� v�ng phục. Kh�ng được ph�p c�n nhắc lệnh truyền để t�m giảm thiểu mức độ v�ng phục...

Đức Hồng y tiếp tục c�ng một chương tr�nh canh t�n. Ng�i x�y dựng nhiều th�nh đường, c� nhi viện, chủng viện v� một ph�n khoa gi�o luật. Ng�i can đảm thiết lập th�ng tấn x� c�ng gi�o. Ng�i đến nh� thờ v� tranh đấu cho việc t�ng trọng luật Ch�a.

Ng�y 08 th�ng 7 năm 1903, đức L�� XIII từ trần. Đức Hồng y gi�o chủ Sart� phải đi vay tiền mua v� về họp mật nghị bầu gi�o ho�ng. Trong mật nghị, Đức Hồng y Puzyna cai quản Krakow cho biết ho�ng đế nước �o phủ quyết Đức Hồng y Rampella quốc vụ khanh của Đức L�� XIII mới từ trần. Cuộc bỏ phiếu đầu 1 th�ng 8, Đức Sarto chỉ được 5 phiếu. Đức Hồng y Gibbons người Mỹ xin Ng�i đừng phủ quyết cuộc bầu cử v� đến cuộc đầu phiếu thứ 7 ng�y 4 th�ng 10, Ng�i được 50/62 (v� sự kiện tr�n, sau n�y người ra hiến chế Comomissum Nobis để ngăn chận mọi mưu toan ch�nh trị t�m khuynh đảo c�c cuộc bầu cử gi�o ho�ng).

Sau kết quả cuộc bầu cử, Đức hồng y ni�n trưởng đến hỏi: - Ch�ng t�i đ� nh�n danh Thi�n Ch�a tiến cử Ng�i l�m gi�o ho�ng, Ng�i c� ưng thuận kh�ng ?

Sau gi�y ph�t y�n lặng trong nước mắt gi�n dụa, Ng�i nghẹn ng�o trả lời ?
- Ước g� t�i kh�ng phải uống ch�n n�y, nhưng mong sao � Ch�a được n�n trọn.

Thấy c�u trả lời chưa r�, Đức hồng y ni�n trưởng hỏi lại lần nữa v� Ng�i trả lời : - T�i xin nhận như nhận một th�nh gi�.

- Vậy Ng�i muốn nhận t�n g� ?

- V� t�i phải chịu khổ n�n t�i nhận t�n của những vị đ� phải đau khổ. T�i nhận t�n l� Pi�.

Thế l� cuộc bầu cử gi�o ho�ng đ� xong. Lễ đăng quang được cử h�nh ng�y 09 th�ng 8 năm 1903. Trong th�ng điệp đầu ti�n, E Supreni Apostolatus ng�y 04 th�ng 10 năm 1903 Ng�i c�ng bố: "Nếu người ta muốn hỏi ch�ng t�i một ch�m ng�n ph�t xuất tự đ�y l�ng, t�i sẽ lu�n n�i rằng: canh t�n mọi sự trong đức Kit�".

Suốt triều đại gi�o ho�ng, Đức Pi� X đ� thực hiện ch�m ng�n ấy. Ng�i cho ph�p c�c trẻ em nhỏ rước lễ sớm khi vừa tới tuổi kh�n v� khuyến kh�ch việc rước lễ h�ng ng�y. Với th�ng điệp Pascendi ng�y 08 th�ng 9 năm 1908 kết �n thuyết duy t�m. Ng�i sửa lịch v� s�ch nguyện, canh t�n th�nh nhạc v� truyền d�ng trong cả Gi�o hội, Ng�i thiết lập c�c viện nghi�n cứu �m nhạc v� kinh th�nh tại Roma. Ng�i khởi đầu c�ng cuộc hệ thống h�a gi�o luật...

Về phương diện chinh trị, Ng�i tạo ra sự dễ d�ng trong việc li�n lạc giữa Gi�o hội v� vương quốc �. Khi tổ chức lại c�c bộ v� c�c to� �n, c�ng gi�o triều Roma, t�ng hiến Sapienti Consili� năm 1908 cho thấy dấu hiệu sẫn s�ng chấp nhận việc để mất c�c quốc gia của Gi�o hội, cũng kh�ng cần đến cơ cấu cai trị d�n sự l�m khu�n mẫu. Ngay từ năm 1905 Ng�i đ� cương quyết từ khước ho� ước Napol�on v� chấp nhận sự ph�n biệt Gi�o hội với quốc gia v� biết rằng sự ngh�o kh� của Gi�o hội Ph�p l� c� lợi hơn.

Giữa những c�ng chuyện h�c b�a n�y, Đức Pi� X kh�ng bao giờ thực sự cảm thấy m�nh được ở nh�. Ng�i l� "t� nh�n ở Vatican�". Một lần tiếp x�c với c�c bạn cũ, Ng�i bật kh�c : - Xem người ta đưa t�i l�n ghế n�y đ�y.

T�m lại nếp sống cũ, Ng�i đưa c�c em về Roma để giặt ủi v� may v� đồ. Khi đau bệnh, Ng�i xin linh mục l� ch�u cho rước lễ. Ng�i c�n đưa cả cha tuy�n �y v� người nấu ăn từ Venetia về. Th�ch sống thanh đạm, Ng�i bỏ c�c nghi thức nhỏ nhặt v� nhiều truyền thống nặng h�nh thức kh�c. Khi Ng�i qua đời người ta c�n thấy trong t�i �o Ng�i những vật của một học sinh: con dao nhỏ v� mẫu b�t ch�.

Năm 1914 v�o năm thứ 11 sau khi Đức pi� được bầu l�m gi�o ho�ng, Au Ch�u l�m v�o cảnh chiến tranh. Ng�i ng� bệnh, Ng�i d�ng lễ cuối c�ng, ng�y lễ M�ng Triệu v� qua đời ng�y 20 th�ng t�m, người ta n�i rằng: Ng�i bị vỡ tim v� lo buồn cho nh�n loại, 9 năm sau đ� bắt đầu hồ sơ phong th�nh v� ng�y 03 th�ng 6 năm 1951 Ng�i được phong ch�n phước, ng�y 29 th�ng 5 năm 1954, sau 40 năm qua đời Ng�i được suy t�n hiển th�nh.


Ng�y 22-08

ĐỨC MARIA TRINH NỮ VƯƠNG

Ng�y 1 th�ng 11 năm 1954, bốn năm sau khi tuy�n bố t�n điều Đức Maria hồn x�c về trời, Đức th�nh cha Pi� XII đ� long trọng đội triều thi�n l�n tượng Đức trinh Nữ l� "sự cứu rỗi của d�n Roma". Đ�y l� cử chỉ tượng trưng biểu thị sự c�ng bố về vương quyền phổ qu�t của Đức Maria.

Đo�n người đ�ng đảo đứng chật quảng đường đền thờ th�nh Ph�r�, nh�n danh cả ho�n cầu, d�ng cao niềm hoan hỉ.

Đức Th�nh cha cầm những v�ng v�ng d�t đ� qu� từ khắp thế giới gởi về, để đặt tr�n đầu tượng Ch�a Gi�su v� Mẹ Maria. Ng�i n�i: - Xin Mẹ cai quản tr�n Gi�o hội, tr�n mọi tr� kh�n, mọi c�i l�ng, mọi c� nh�n, mọi gia đ�nh cũng như mọi x� hội v� mọi quốc gia, tr�n mọi cộng đo�n, những người quyền thế. Xin mẹ h�y cai trị tr�n mọi nẻo đường v� mọi quảng trường, trong th�nh thị v� chốn th�n qu�, tr�n nền trời, tr�n mặt đất v� cả biển khơi.

Ng�i c�n n�i : - "Vương quyền của Đức Maria l� một thực tại si�u vượt thế trần, đồng thời lại thấm nhập mọi c�i l�ng v� chạm tới phần cốt yếu s�u thẳm nhất c� t�nh c�ch si�u nhi�n v� bất tử.

Đức Maria l� Mẹ th�nh, tước hiệu n�y khiến cho Mẹ được đặc �n kh�ng bị thương tổn v� tội lỗi. V� nhiễm nguy�n tội, Mẹ cũng kh�ng bị thương tổn v� sự chết. Khi kết th�c cuộc đời trần gian cũng như từ những lời đầu ti�n buổi truyền tin, mẹ l� tuyệt đỉnh của nh�n t�nh bất khả x�m phạm lu�n hiệp nhất với Ng�i Lời để ho�n tất c�ng cuộc cứu rỗi thế gian. Kh�ng một � tưởng, h�nh vi n�o của Mẹ lại rời khỏi con Mẹ trong việc chinh phục bản t�nh nh�n loại v� việc chinh phục vũ trụ.

"Lễ M�ng triệu k�o d�i một tuần đến lễ Đức Trinh Nữ Vương, lễ n�y cho thấy Đức Maria s�ng ch�i như Nữ ho�ng v� như b� Mẹ, Ng�i cầu bầu cho ch�ng ta cạnh vua mu�n thuở" (Marialis cultus, 6)


Ng�y 23-8

Th�nh ROSA LIMA
Đồng Trinh (1586 - 1617)

C� những vị th�nh chỉ đ�ng cho ch�ng ta th�n phục hơn l� bắt chước. Th�nh Rosa thuộc loại n�y. Ch�ng ta t�n k�nh v� th�n phục sự th�nh thiện của Ng�i nhưng kh�ng phải t�m c�ch bắt chước theo đường lối Ng�i đ� theo để n�n th�nh. Th�nh Rosa ch�nh l� người đầu ti�n ở t�n thế giới được phong th�nh. Ng�i trở n�n quan trọng v� chứng tỏ rằng giữa sự bất c�ng v� phi nh�n d�nh liền với cuộc chinh phục Mỹ Ch�u của người T�y Ban Nha. Men Kit� gi�o vẫn hoạt động.

Rosa sinh tại Lima nước Peru năm 1568. Cha mẹ Ng�i, �ng Caspar del Flores v� Maria del Oliva đặt t�n cho Ng�i l� Isabelle. Nhưng v� sắc đẹp của Ng�i, người ta gọi Ng�i bằng t�n một lo�i hoa Rosa. Khi đến tuổi c� tr� kh�n th�nh nữ đ� muốn được gọi l� Rosa Maria, để tỏ l�ng t�n s�ng Đức Trinh Nữ. Ng�i c�n c� l�ng y�u mến đặc biệt th�nh nữ Catarina Siena v� can đảm bắt chước vị th�nh n�y v� l�ng y�u mến sống thinh lặng, h�m m�nh cũng như chuy�n chăm cầu nguyện. Dường như được ơn Ch�a g�n giữ đặc biệt, n�n ngay v�o buổi m� c�c trẻ em kh�c chưa c� tr� kh�n, th�nh nữ đ� c� những n�t th�nh thiện, đ�ng ghi nhớ. Năm tuổi, Ng�i đ� hứa giữ m�nh trinh khiết. S�u tuổi Ng�i đ� ăn chay 3 lần trong tuần, chỉ ăn b�nh v� uống nước th�i.

Gia đ�nh ngh�o t�ng, Rosa mất ngủ lại thiếu ăn lại c�n tự � h�m m�nh để giảm đi sức hấp dẫn tự nhi�n. Khi kh�ch đến thăm khen ngợi sắc đẹp của m�nh, th�nh nữ thoa hồ ti�u l�n m� cho sưng phồng l�n. Cẩn thận ng�m tay vao v�i khiến cả th�ng kh�ng một việc được. Khi người mẹ kết một v�ng hoa l�n đầu cho Ng�i, th�nh nữ k�n đ�o kết gai v�o trong cho đau đớn để cảnh gi�c t�nh xa hoa.

Gia đ�nh gặp bước kh� khăn, th�nh Rosa đ� tận tụy l�m vườn suốt ng�y, đ�m về lại thức giấc v� may. Th�nh nữ lu�n lu�n v�ng lời cha mẹ. Dầu vậy tr�n mười năm rời, Ng�i đ� dốc quyết từ khuốc bước v�o h�n nh�n. Ng�i c�n cắt ngắn m�i t�c đẹp hiếm hoi của m�nh. Sự từ khước đ� g�y n�n nhiều phản ứng khốc liệt. Người ta bắt dầu vu oan gi� hoạ cho Ng�i đủ điều, nhưng Ng�i đ� nhẫn nại chịu đựng tất cả. Năm 1606, Ng�i gia nhập d�ng ba Đaminh v� nhận th�nh Catarina như gương mẫu đời m�nh.

Ngo�i những hy sinh h�m m�nh tự �. Th�nh Rosa c�n phải trải qua những năm bị hiểu lầm, m� tối trong ch�nh nội t�m. Dầu vậy Ng�i vẫn nhẫn nại, khi�m tốn chịu dựng v� kh�ng bao giờ mất niềm t�n th�c v�o l�ng từ bi v� bờ của Ch�a. Ng�i t�m săn s�c những trường hợp gh� tởm nhất.

15 năm khủng khiếp tr�i qua. T�m hồn trung t�n anh h�ng đ� được �n thưởng. Th�nh Rosa gặp lại được �nh s�ng. Ng�i mời gọi mọi tạo vật hợp � ca ngợi v� y�u mến Thi�n Ch�a. Ng�i n�i: - Nếu mọi người biết ơn th�nh l� g�, họ sẽ muốn được chịu đau khổ, sẽ đ�n t�m cực khổ, bắt bớ để chiếm hữu cho được, bởi v� ơn th�nh l� c�i gi� kh�n s�nh đ�p đền cho l�ng nhẫn nại.

Đối với ph�p Th�nh Thể Ng�i n�i : - Điều m� mặt trời thực hiện trong thế giới hữu h�nh, sự th�ng hiệp Th�nh Thể sẽ ph�t sinh trong t�i.

Quả quyết t�nh Ch�a quan ph�ng c�n lớn gấp bội những khốn khổ v� yếu đuối của con người, Ng�i n�i: - T�i c� một h�n phu c� thể l�m điều lớn lao nhất, sở hữu điều họa hiếm nhất. T�i thấy m�nh mới chỉ biết tr�ng đợi nơi Người c� một ch�t đỉnh th�i.

Từ đ�y, Ng�i lu�n được an b�nh, Ng�i sống trong một c�i ch�i như một nh� ẩn tu. Năm 1614, Ng�i ở dưới sự bảo trợ của �ng Don Gonzalo de Massa v� vợ �ng. Họ cho Ng�i trọ v� săn s�c Ng�i trong cơn bệnh d�i trước khi chết.

V�o đầu th�ng t�m cuối đời, cơn bệnh đau đớn dữ dội. Ng�i th� nhận: - T�i kh�ng hiểu được tại sao bao nhi�u đau đớn như vậy lại đổ tr�n đầu một tạo vật.

Nhưng đầy can đảm Ng�i n�i : - Lạy Ch�a xin tăng th�m những đau đớn, miễn l� Ch�a cũng th�m l�ng y�u mến cho con.

Ng�y 24 th�ng 8 năm 1617 th�nh nữ qua đời với lời cuối c�ng tr�n m�i : - Ch�a Gi�su, Ch�a Gi�su, Ch�a ở với t�i .


Ng�y 24-08

Th�nh BART�L�M�� T�NG ĐỒ.

C�c s�ch Tin Mừng nhất l�m v� s�ch c�ng vụ t�ng đồ ghi nhận th�nh Bart�l�m�� l� một trong nh�m 12, nhưng lại kh�ng biết th�m g� về Ng�i, ngo�i việc li�n kết t�n Ng�i với Philipph�.

Tin Mừng tứ tư kh�ng c� danh s�ch c�c t�ng đồ, nhưng c� nhắc phần lớn t�n c�c t�ng đồ thuộc nh�m 12, s�ch Tin Mừng n�y kh�ng n�i g� tới Bart�l�m��, nhưng lại chỉ ghi nhận t�n Nathanael, li�n hệ với Philipph� (Ga 43-51), cũng như kết nh�m với c�c t�ng đồ kh�c sau phục sinh (Ga 21,1-14). Từ thế kỷ 16, nhiều học giả đ� đồng h�a Nathanael với Bart�l�m�� v� gọi t�n Bart�l�m�� l� t�n của Nathanael. Như vậy ch�nh Narthanael l� con (bar) của �ng Tolmai hay c� thể Ptoleemy (Tl�m��), sinh tại Cana (Ga 21,2).

Nếu sự đồng ho� l� đ�ng, ch�ng ta biết được nhiều chi tiết về ơn gọi của th�nh t�ng đồ hơn l� của c�c t�ng đồ kh�c (Lc 5,4-10 dường như l� ph� bản của Ga 21,4-17). Trước khi được ch�nh thức k�u gọi, đ� c� một cuộc gặp gỡ th� vi: Philipph� giới thiệu với Bart�l�m��: - Đấng m� M�s� trong lề luật c�ng c�c ti�n tri ch�p đến, ch�ng t�i đ� gặp rồi, Người l� đức Gi�su con �ng Giuse người Nazareth.

Bart�l�m�� đ�p lại, với �c khinh miệt của những d�n l�ng l�n cận : - Từ Nazareth th� c� thể xảy ra điều g� tốt được.

Tuy nhi�n đ�p lại lời mời "th� h�y đến m� xem", vị t�ng đồ đ� gặp một Ch�a Gi�su thấu suốt l�ng mọi người: - N�y đ�y đ�ch thực l� một người Israel, trong m�nh kh�ng c� g� gian dối.

Bart�l�m�� đ� nhận ra nguồn gốc thi�n sai của Ch�a Gi�su nhờ cuộc gặp gỡ ấy. Rồi đ�y Ng�i c�n kh�m ph� ra sư thật cao cả hơn nữa về con người Ch�a Gi�su. Ng�i lu�n chen vai s�t c�nh với c�c bạn t�ng đồ (Ga 21,1-14).

Sau khi đ�n nhận Ch�a Th�nh Thần trong ng�y lễ Ngũ tuần, th�nh Bart�l�m�� ra đi truyền gi�o. C� nhiều truyền thống t�m cung ứng c�c chi tiết kh�c nhau về đời truyền gi�o của Ng�i tại Tiểu �, Armennia, Mosopotamia, Persia, Ấn Độ v� Ai cập. Tuy nhi�n giai thoại ở Armenia được chấp nhận nhiều hơn cả. Th�nh nh�n được t�n k�nh như th�nh t�ng đồ của miền n�y.

Người ta kể rằng: khi th�nh t�ng đồ đến Armenia, tại ch�nh nơi vua Polimio v� triều đ�nh cư ngụ, quỷ thần Atarốt ở đấy c�mhọng. Ng�i khua trừ ma quỉ. Giải tho�t cho nhiều người khỏi bị quỉ �m. Trong số n�y c� cả n�ng c�ng ch�a. Ng�i liền được tri�u vời đến triều đ�nh. Trước mặt vua Ng�i truyền quỉ thần phải n�i sự thật bỉ ổivề số phận đời đời của n�. Nh� vua cảm động ban tặng tiền bạc cho t�ng đồ, nhưng Ng�i từ khước v� chỉ mong mọi người nhận biết v� thờ phượng Ch�a.

Dĩ nhi�n c�c tư tế thờ ma quỉ tức giận, họ x�i giục d�n ch�ng nổi dậy chống lại th�nh t�ng đồ. Attiges em vua Polimi� bắt Ng�i tống ngục. Ong nổi giận ra lệnh lột da rồi thi�u sống th�nh nh�n. Nhưng nhờ quyền năng Ch�a, Ng�i vẫn được cứu sống. Người ta dựa v�o sự kiện n�y để vẽ h�nh th�nh nh�n nằm cạnh con dao v� miếng da như biểu tượng đời Ng�i. Cuối c�ng Ng�i bị trảm quyết.

Tương truyền rằng: x�c Ng�i được chuyển về Benevent�. V�o thế kỷ X, kh�ng r� c�c di t�ch của Ng�i c� được vua Ott� III đưa về v� c�n được lưu giữ tại th�nh đường th�nh Bart�l�m�� ở Tiber kh�ng ?


Ng�y 25-8

Th�nh LUY
(1214 - 1270)

Th�nh Luy sinh ng�y 25 th�ng 4 năm 1214. Cha Ng�i l� vua Luy VIII v� mẹ Ng�i l� b� Blanche de Castille. Ng�i được rửa tội tại Poissy. Để ghi nhớ ơn ph�c rửa tội, Ng�i thường k� t�n l� Luy de Poissy.

Ngay từ tuổi ấu thơ, Luy đ� được hấp thụ từ nơi người mẹ th�nh thiện v� đầy nghị lực một nền gi�o dục ho�n hảo. Ch�ng ta sẽ c�n nhớ m�i lời khuy�n m� người mẹ đạo đức đ� n�i với con m�nh: - Con ơi, mẹ y�u con tr�n hết mọi sự, nhưng mẹ th� thấy con chết ngay b�y giờ trước mặt mẹ, c�n hơn thấy con phạm một tội trọng mất l�ng Ch�a.

Năm Luy l�n 12 tuổi vua cha từ trần, sau 3 năm trị v�. Ng�i l�n nối ng�i cha. V� từ nhỏ tuổi mẹ Ng�i nắm quyền nhiếp ch�nh. Để bảo đảm, vị th�i hậu tinh tế n�y đ� đưa con tới Reims để được phong vương ng�y 01 th�ng 12 năm 1226. Nhưng điều b� ti�n đo�n đ� xảy ra. Nhiều l�nh Ch�a đ� chống lại quyền cai quản của th�i hậu. Họ kh�ng tới dự lễ phong vương. Trong ho�n cảnh n�y, th�i hậu Blanche đ� tỏ ra c� t�m hồn cương nghị, quyết đương đầu với mọi thử th�ch. Cũng trong thời gian đầy s�ng gi� n�y, ưu tư lớn lao nhất của b� l� huấn luyện l�ng đạo đức cho người con y�u qu� của m�nh.

Năm l�n 20 tuổi, Luy v�ng lời mẹ kết h�n với quận c�ng Marguerite miền Provence. Quận c�ng cũng l� người nổi tiếng về l�ng đạo đức, tinh thần v� sắc đẹp. Ch�m ng�n của n�ng l�: - Ho�ng hậu của trần gian nhưng l� tớ nữ của trời cao.

Năm sau, khi tới tuổi trưởng th�nh, Luy l�nh lấy quyền cai quản quốc gia. Những người nặng tinh thần thế tục, nghĩ rằng một khi tho�t �ch của th�i hậu, Luy sẽ th�ng minh theo nếp sống lạc th� xa hoa. Họ lầm. Vua th�nh Luy lại c�ng tỏ ra đạo đức hơn. H�ng ng�y Ng�i trung th�nh đọc kinh nhật tụng, tham dự th�nh lễ v� thăm viếng c�c nh� thương. Ngo�i những ng�y giữ chay theo luật buộc, Ng�i ăn chay suốt m�a vọng, mọi thứ s�u trong năm v� mọi ng�y vọng mừng Đức Mẹ.

C� người k�u tr�ch nếp sống đạo đức của Ng�i, lấy lẽ rằng n� l�m hại cho việc nước. Th�nh nh�n trả lời: - Nhiều người kỳ cục qu�, họ cho việc si�ng năng cầu nguyện của ta l� một trọng tội v� rồi họ sẽ chẳng n�i năng g� nếu ta để giờ đi săn bắn vui chơi.

Đi đ�i với l�ng đạo đức, vua th�nh Luy c�n b�y tỏ l�ng thương người một c�ch đặc biệt. Mỗi chiều thứ bảy, Ng�i c� th�i quen rửa ch�n cho một số người ngh�o khổ tật bệnh v� mời họ ăn cơm do ch�nh Ng�i thủ tiếp. Vị đại thần bực bội v� th�i quen n�y. Một lần kia Ng�i hỏi �ng: - Một l� bị phong c�i, hai l� phạm một tội trọng ngươi chọn đ�ng n�o ?

Vi�n quan trả lời : - Hạ thần th�ch 30 tội trọng hơn l� bị c�i

V� vua trả lời : - Ngươi dại dột qu�, nh� ngươi kh�ng biết rằng: c�n c� một bệnh n�o gh� tởm bằng tội trọng, v� phạm tội trọng th� giống hệt như quỉ sứ.

L�ng quảng đại của Vua Luy c�n lan rộng tra ngo�i bi�n giới quốc gia. Vua Baudoin II, ho�ng đế Contantin�ple xin vua Luy trợ gi�p v� để đền ơn, �ng đ� biếu cho th�nh Luy những b�u vật li�n quan đến cứu thế, như m�o gai m� qu�n l�nh đ� đội đầu Ch�a Gi�su.

Thần d�n dưới quyền vua th�nh thiện được hưởng an b�nh thịnh vượng. Dầu vậy ngay v�o năm 1242, Hugues de Lusingan nổi loạn, chống lại nh� vua, với sự trợ gi�p của đứa con ghẻ l� Henry III, vua nước Anh Vua Luy tỏ ra l� một người c� khả năng l�nh đạo, Ng�i đ� dẹp tan cuộc nổi loạn với chiến thắng ở Taillebourg.

C�ng với ch� can trường, vua Luy c�n triệu tập đo�n binh th�nh gi� hai năm sau đ�. Cuộc xuất chinh mang lại th�nh quả ban đầu với chiến thắng tại Damietta, miền Ch�u thổ s�ng Nil. Nhưng v�o th�ng 4 năm 1250 Ng�i trở th�nh kẻ chiến bại v� bị bắt l�m t� binh. Được thả, th�nh nh�n qua Palestina cho đến khi mẹ Ng�i qua đời ng�y 26 th�ng 11 năm 1252, Ng�i mới trở về tiếp tục c�ng cuộc trị nước.

10 năm sau, vua Luy xuất chinh lần thứ hai. Th�ng 7 năm 1270 Ng�i c�ng binh sĩ từ Aigues Mortes tới Africa. Nhưng �t tuần sau đ�, Ng�i mắc bệnh đậu l�o v� qua đời tại Tunis ng�y 15 th�ng năm 1270. Một đời sống với Ch�a, th�nh Luy đ� chết trong b�nh an với lời nguyện d�ng m�nh: - Con tiến v�o nh� Ch�a, con sẽ t�n thờ Ch�a trong th�nh điện Ng�i v� con sẽ t�n vinh danh Ch�a.


Ng�y 27-08

Th�nh MONICA
(331 - 387)

Th�nh Monica, mẹ của Th�nh Augustin�, c� lẽ sinh tại Thagaste miền Numidia, l� nơi Ng�i lập gia đ�nh v� sống phần lớn cuộc đời m�nh. Thuộc d�ng d�i Berber n�n t�n Ng�i l� Berber. Những g� ch�ng ta biết được về th�nh nữ đều nhờ c�c b�t t�ch của con Ng�i, nhất l� cuốn IX bộ "tự thuật" (confessions)

Monica l� một người tốt, nhưng được một v� nu�i gi� của gia đ�nh dạy dỗ những c�c khắt khe. Chẳng hạn, b� kh�ng cho ph�p c� uống nước ngo�i những bữa ăn. C� lẽ v� vậy Ng�i c� th�i quen d�ng những thứ kh�ng được ph�p. Th�i xấu lớn dần cho đến khi cha mẹ Ng�i sai đi �p rượu, người đầy tớ gi�p việc chế nhạo Ng�i như một tay nghiền. Th�nh nữ mắc cỡ v� bỏ hẳn th�i xấu ấy.

C�n nhỏ tuổi, Monica đ� được gả cho Pareici�, một người c� t�nh hẹp h�i, nhưng kh�ng phải l� xấu nết kh� thương. Tuy nhi�n th�nh nữ đ� đối xử tốt đẹp với cả chồng lẫn mẹ chồng khiến sau một thời gian n�ng đ� ho�n to�n chinh phục được b�. Kh�c với c�c phụ nữ l�ng giềng, kh�ng hề c� dấu n�o chứng tỏ rằng: th�nh nữ đ� bị chồng ngược đ�i. L� do khiến �ng kh�ng mạnh tay với th�nh nữ v� Ng�i đ� giữ kh�ng mạnh miệng với chồng.

Mối gi�y li�n kết th�nh nữ với người con th�ng th�i l� cả một ph�p mầu của l�ng nhẫn nại v� t�nh thương kh�ng biết mệt mỏi. C� lẽ th�nh nữ đ� kh�ng ho�n to�n hiểu nổi đời sống kh� khăn v� những thay đổi trong tr� kh�n con m�nh m� chỉ biết đau buồn v� ch�ng đ� đi theo thuyết Manich��. Về phần Augustin� khi ấy chỉ thấy mẹ m�nh g�y phiền to�i m� th�i. Khi b� quyết theo con tới Roma (v� Patric� đ� qua đời) Augustin� đ� trốn b� v� đi một m�nh. Dẫu vậy, b� vẫn đuổi theo v� gặp lại ch�ng ở Milan�. Tại đ�y b� gặp th�nh Abrosi�. Hai người rất mực k�nh trọng lẫn nhau.

Cuối c�ng v�o năm 386, th�nh nữ vui mừng thấy con hối cải. Đ� l� phần thưởng đền b� kh�ng biết bao nhi�u l� nước mắt v� kinh nguyện của Ng�i. Th�nh nữ c�ng tĩnh t�m với Augustin� ở Cassicicum v� c� mặt trong lễ rửa tội của con do th�nh Ambrosi� cử h�nh.

Năm 387, th�nh nữ l�n đường về Phi ch�u với con v� c�c bạn hữu của Ng�i. Tại Ostia, th�nh nữ chia sẻ với con m�nh sự hoan lạc trong t�m hồn m� th�nh Augustin� ghi lại trong cuốn IX "bộ tự thuật".

Sau đ� th�nh Monica n�i: - Con ơi, phần mẹ, mẹ kh�ng c�n thấy vui sướng v� bất cứ điều g� ở đời n�y nữa. Mẹ kh�ng hiểu sẽ phải l�m g� v� tại sao lại c�n sống ở đ�y. Niềm hy vọng của mẹ tr�n thế gian n�y đ� được ho�n th�nh. Chỉ c� một điều mẹ ao ước l� được thấy con trở th�nh người c�ng gi�o trước khi mẹ l�a đời. Thi�n Ch�a cho mẹ được toại nguyện v� hơn nữa đ� cho mẹ thấy con ch�n gh�t hạnh ph�c trần gian v� hiến th�n phụng sự Ng�i. Mẹ c�n l�m g� nữa đ�y ?

Chẳng bao l�u sau đ�, th�nh nữ mang bệnh v� từ trần tại Ostia v�o tuổi 56 .

Trước kia th�nh nữ thường ao ước được ch�n cất b�n chồng. B�y giờ, th�nh nữ được hỏi xem c� buồn khi phải gởi x�c ở xa qu� hương kh�ng ? Ng�i trả lời : - Kh�ng c� g� c�ch xa Thi�n Ch�a cả. Đừng sợ rằng: Ng�i sẽ kh�ng biết mẹ ở đ�u để phục sinh mẹ dậy .

V� những lời cuối c�ng n�i cho con m�nh:
- H�y ch�n cất mẹ ở đ�u cũng được. Đừng lo lắng chi về điều đ� cả. Mẹ chỉ xin con h�y nhớ đến mẹ tại b�n thờ Ch�a khi n�o con c� thể.

Chắc chắn Augustin� kh�ng bao giờ qu�n Ng�i v� cả được ai đọc về Ng�i trong bộ "tự thuật". Ng�i được mai t�ng tại Ostia. Dường như năm 1430 x�c Ng�i được cải t�ng về Roma ch�n tại th�nh đường th�nh Augustin� .


Ng�y 28-08

Th�nh AUGUSTIN�
Gi�m mục Tiến Sĩ Hội Th�nh (354 - 430)

Th�nh Augustin� sinh ng�y 13 th�ng 11 năm 354 tại Thagaste miền Numidia nay l� Souk-Akras nước Algeria. �ng Patric�, cha ng�i l� một tiểu n�ng v� l� nghị vi�n th�nh phố. Ong l� lương d�n v� chỉ theo đạo v�o l�c cuối đời. Mẹ Ng�i l� th�nh Monica đ� nhờ kinh nguyện, l�ng nhẫn nại v� t�nh y�u kh�ng biết mệt mỏi đ� cải ho� con. Theo th�i quen thời đ�, Augustin� thuộc v�o số những ứng vi�n l�nh ph�p rửa tội, nhưng lại tr� ho�n để tr�nh nguy cơ phạm tội, Ng�i chỉ được th�nh Ambrosi� rửa tội cho sau khi trở lại v�o tuổi 32.

Augustin� đ� theo học những lớp về văn chương tại Thagaste v� Madaura, cuối c�ng Ng�i theo học khoa tu từ tại Carthage. Đời sống lu�n l� của Ng�i v�o thời kỳ n�y kh�ng đến nỗi tồi tệ m� c� lẽ kh� hơn nhiều những thanh ni�n c�ng thời v� ch�ng ta kh�ng n�n gắt gao kết �n lối cư xử của Ng�i theo s�t chữ viết trong cuốn "tự thuật", chắc chắn Ng�i c� một t�nh nh�n v� trung t�n với n�ng cho tới năm 385. Ng�i đ� c� với n�ng một người con t�n l� Adcodatus cũng v�o thời n�y Ng�i trở th�nh người theo ph�i Manich��.

Năm 383, Augustin� đến Roma dạy tu từ v� năm 384 c� được một địa sở tại Milan. L�c n�y Ng�i đ� thấu suốt được thuyết Manich�� v� rơi v�o t�nh trạng nghi nan bất định. Tại Milan Ng�i c� dịp tiếp x�c với vị gi�m mục thời danh của gi�o phận nầy l� th�nh Ambrosi�. C�c b�i giảng của th�nh nh�n cho Ng�i thấy lần đầu ti�n rằng Ng�i c� thể tin v�o Th�nh Kinh như sự giải th�ch của Gi�o hội m� kh�ng phải hy sinh sự hiểu biết của m�nh. Ng�i c�n đọc s�ch của những nh� t�n học ph�i Plat�n như Plotin� v� Per phyry, Những s�ch đ� chữa cho Ng�i khỏi thuyết duy vật của Manich�� v� đưa Ng�i v�o triết học linh thi�ng hơn, ph� hợp với mạc khải Kit� gi�o.

Augustin� đ� x�c t�n về sự ch�n thật của Kit� gi�o vẫn chưa đi đến bước quyết định, cho tới th�ng 9 năm 386 khi Ng�i trải qua một kinh nghiệm bất ngờ nhưng được chuẩn bị từ trước. Ng�i đ� tr�nh b�y kinh nghiệm ấy trong cuốn VIII bộ "tự thuật". Đ�y l� cuộc trở lại Kit� gi�o lẫn cuộc sống khổ hạnh đ� theo đuổi bậc trọn l�nh. Bỏ nghề, Ng�i lui về Cassiciacum, gần Milan, c�ng th�nh nữ Monica mẹ Ng�i v� Adeodatus con Ng�i, với một số bạn b�. Tại đ�y, Ng�i bắt đầu viết v� xuất bản một số t�c phẩm v� trau dồi về triết học, những t�c phẩm đầu ti�n của Ng�i.

Ng�i được th�nh Ambrosi� rửa tội v�o lễ phục sinh năm 387 rồi c�ng mẹ v� c�c bạn trở về Phi Ch�u. Th�nh nữ Monica qua đời tr�n đường về tại Ostia. Tại Phi Ch�u theo lời khuy�n của Đức Cha Val�ri� địa phận Kipp�, Ng�i xin l�m linh mục v� được thụ phong năm 391. Năm 395, Ng�i được tấn phong l�m gi�m mục phụ t� v� chẳng bao l�u sau l�n kế vị đức cha Val�ri� l�m gi�m mục Hipp�. 35 năm c�n lại, Ng�i bận rộn với c�ng việc mệt nhọc của một gi�m mục địa phận, đồng thời vẫn d�nh giờ để trước t�c. Ngo�i t�c phẩm được biết nhiều l� bộ "tự thuật" c�n nhiều t�c phẩm thần học của Ng�i (gồm 96 cuốn kh�ng kể c�c b�i giảng v� thư t�n) đ� mang lại sức sống m�nh liệt cho Gi�o hội thời đ� lẫn ng�y nay.

Th�nh Augustin� sống đời tu viện với h�ng gi�o sĩ v� l�m mọi sự để kh�ch lệ việc canh t�n c�c cộng đo�n tu sĩ. Hai b�i giảng về đời sống khổ hạnh trong cộng đo�n v� một bức thư d�i về c�c nguy�n tắc m� Ng�i viết cho c�c cộng đo�n nữ tu do Ng�i th�nh lập v� em Ng�i l� bề tr�n ti�n khởi, l�m th�nh "luật th�nh Augustin�".

Th�nh Possidi� bạn Ng�i đ� viết một bản tường thuật rất hay về đời gi�m mục của th�nh Augustin�. Bản tường thuật n�y cho thấy Ng�i l� một người rất nh�n bản, dễ thương v� gi�u l�ng b�c �i, tận tụy phục vụ cộng đo�n, th�ch sống ngh�o kh� nhưng lại hiếu kh�ch. Chỉ c� một điều Ng�i kh�ng thể tha thứ được l� gương m� tại b�n ăn. Ng�i lu�n dấn th�n v�o việc bệnh vực Gi�o hội chống lại c�c người theo lạc gi�o như những người theo ph�i Manich��, Ph�mat�, P�lagi�. Cuộc tranh luận với P�lagi� đ� để lại những b�t t�ch của th�nh Augustin� về ơn th�nh. Với ảnh hưởng lớn lao trong Gi�o hội sau n�y. Dầu nhiệt t�m chống lại lạc thuyết, th�nh Augustin� vẫn lu�n lịch sự v� th�n �i khi đối thoại với c�c người theo lạc gi�o.

Th�nh Augustin� đ� sống để chứng kiến cuộc x�m lược man rợ của người Vandal v�o Phi Ch�u bắt đầu từ năm429. Ng�y 28 th�ng 8 năm 430 Ng�i từ trần, hưởng thọ 76 tuổi, Ng�i kh�ng để lại ch�c thư v� kh�ng c� t�i sản g�. Nhưng kể từ khi qua đời tới nay, di sản tư tưởng của Ng�i được ghi nhận l� phong ph� nhất sau th�nh Phaol�.


Ng�y 29-08

K�NH NHỚ CUỘC KHỔ NẠN
TH�NH GIOAN TẨY GIẢ

Ng�y 29 th�ng 8, Gi�o hội k�nh nhớ việc th�nh Gioan tẩy giả bị chặt đầu, nghĩa l� cuộc tử nạn của Ng�i. Vị tiền h� lừng danh n�y từ thiếu thời, đ� lui v�o sa mạc để sống khoảng 25 năm khổ hạnh. V�o tuổi 29, Ng�i được lệnh từ trời cao sai đến b�n bờ s�ng Jordan� giảng ph�p thống hối v� loan b�o việc Đấng Thi�n sai sắp tới. Khắp nơi, người ta đến với Ng�i.

Khi ấy, Ch�a Gi�su từ Galil� tới xin Ng�i rửa cho. Danh tiếng Ng�i lẫy lừng khiến người Do th�i sai sứ giả đến chất vấn Ng�i, Ng�i khi�m tốn trả lời: - T�i kh�ng phải l� đức Kit�.
Họ hỏi lại : - Vậy th� l� ai ?
�ng đ�p : - T�i l� tiếng k�u trong sa mạc: h�y bạt lối Ch�a đi.
Họ lại hỏi th�m: vậy tại sao �ng d�m thanh tẩy ?
�ng trả lời: phần t�i, t�i thanh tẩy bằng nước. Đấng ấy đến sau t�i, v� t�i kh�ng đ�ng cởi quai d�p Ng�i (Ga 1,19-27).

Rất mực khi�m tốn, nhưng tiếng tăm Ng�i đ� thấu tai H�r�d�. Ong vua n�y biết Gioan "l� người c�ng ch�nh v� l�nh th�nh n�n vẫn che chở. Nghe �ng th� H�r�đ� đ�m ph�n v�n nhiều nỗi nhưng lại cứ th�ch nghe" (Mc 6,20). H�r�d� bị Gioan bắt lỗi về việc �ng ta cưới H�r�dia vợ của anh �ng l�m vợ m�nh. - �ng kh�ng được ph�p lấy vợ của anh (Mc 1,8).

Lời n�i ấy phải trả gi� bằng sự tự do. Gioan bị bắt t�. Nhưng việc t� tội của Gioan kh�ng l�m giảm cơn giận của người đ�n b� tội lỗi. B� ta quyết t�m c�ch giết Gioan. Nh�n một bữa tiệc H�r�d� thết đ�i tại ho�ng cung, con g�i mụ H�r�diađ� v�o nhảy m�a gi�p vui, nh� vua vui th�ch lắm, v� hứa cho bất cứ g� n� muốn, ra hỏi người mẹ, n� trở lại ho�ng cung v� thưa: - Thần muốn Ng�i ngự ban cho ngay tr�n chiếc đĩa c�i đầu của Gioan Tẩy giả ( Mc 6,25)

Buồn phiền, nhưng v� đ� lỡ thề hứa trước mặt quan kh�ch, H�r�đ� đ� sai thị vệ đi chặt đầu th�nh nh�n. C�i chết của th�nh Gioan tẩy giả xảy ra khoảng một năm trước cuộc tử nạn của Ch�a Gi�su.