Vào ngày 18.09, dòng Đa Minh mừng kính thánh Gioan Masias. Nhân dịp này, Ban Truyền Thông Giáo Xứ xin giới thiệu tập truyện “Thánh Gioan Masias” của tác giả Mary Fabyan Windeatt do Sr. Teresa Thơm Nguyễn chuyển ngữ đã được Nhà Xuất Bản “TAN PUBLISHER” cho phép dịch sang tiếng Việt Nam ngày 02 tháng 07 năm 1998.
Bản dịch do Hội Dòng Đa Minh Tam Hiệp giữ bản quyền.
*.*
Nội dung
Chương IV: Hành trình về hướng Tây
Chương V: Thành phố của các vua chúa
Chương VI: Người con của Thánh Đa Minh
Chương VII: Người giữ cửa tu viện
Chương VIII: Các vị thánh của Mỹ Châu
Chương IX: Người bạn cần được giúp đỡ
Chương X: Các bạn mới của Thầy Gioan
Chương XI: Cánh cửa mở đón niềm vui
Chương XII: Thầy Gioan an nghỉ
Chương XIII: Từ biệt tu viện Madalêna
Chương XIV: Vị anh hùng Mỹ Châu
s-V6PTByTv4
*.*
Clip: vài kỷ vật
Lời mở
Chúa Giêsu dạy : “Ai bỏ cửa nhà, cha mẹ, anh chị em, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Mt 19,29) Thánh Gioan Masias đã tuân giữ cách nghiêm chỉnh. Vâng, Gioan đã bỏ tất cả vì yêu Chúa, và cũng chỉ vì yêu Chúa tuyệt đối mà Ngài làm được điều đó.
Thánh Gioan Masias đã nói lên lời thơ diệu cảm của thi sĩ Tagore: Chỉ mong sao tôi chẳng còn chi, cho tôi gọi Người (Thượng Đế) là tất cả của tôi, bằng chính cuộc đời mình.
Gioan đã cho tất cả và thuộc về Chúa hoàn toàn, nên Ngài được Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối quyền năng, Đấng yêu thương vô biên, Đấng nhân ái khôn cùng, yêu thương Gioan, và ban cho Gioan những quyền năng cao cả để thực hiện những phép lạ vĩ đại khi còn sống cũng như khi đã qua đời, và ban cho Gioan hạnh phúc vô biên trên Thiên đường.
Là con người rất đơn sơ và khiêm tốn, Gioan lại có tâm hồn rất nhiệt thành và tình yêu nồng thắm, trung kiên đối với Thiên Chúa và tha nhân. Do đó, đọc chuyện Thánh Gioan Masias, các bạn tìm được một mẫu gương tuyệt vời trên con đường tìm Chúa và thực thi ý Chúa. Con người ấy say mê tìm kiếm Chúa, cho dù gặp bao thử thách, đau thương. Đồng thời Gioan cũng khuyến khích chúng ta trung kiên và dũng cảm thực hiện ý Chúa như chính Ngài đã trung kiên trong cuộc đời mình, vì có qua Thập giá mới bước tới vinh quang.
Chương I: Cậu bé chăn chiên
Nắng chiều vẫn còn nóng rát. Nắng hừng hực đổ xuống thung lũng bụi đất đến nỗi một du khách đang trên đường tới làng nhỏ Rivera phải ngưng lại lau mồ hôi trán. Ông thầm nghĩ mình phải ngừng lại nghỉ ngơi tại gốc cây cổ thụ trên đồi, chứ không thể chịu nổi sức nóng như thiêu như đốt này.
Một cây cổ thụ lớn, cành lá xum xuê che rợp cả khoảng đất rộng và là cây duy nhất ở khu vực này. Người du khách thở dài nhẹ nhõm khi ngồi bệt xuống trên thân cỏ xanh dưới bóng râm. Đôi mắt ông chợt loé lên vì nhận ra con đường đi tới làng Rivera như một giải băng trắng xoá trước mặt. Nhưng vì quá mệt, đôi mắt ông lim dim, tuy nhiên trí ông vẫn còn đăm chiêu về châu Mỹ xa thẳm nơi nào đó. Đó là miền đất ông mơ ước đi tới. Thật chỉ như một giấc mơ. Dù sao tâm hồn ông cũng thấy hứng thú vì Madrid và Cordoba hai thành phố quê hương ông đã khuất hẳn sau lưng rồi. Thành phố sẽ tới là Seville và Cadiz. Nếu may mắn, tại đó sẽ có những chiếc tàu đưa ông tới Cartagena, vùng đất của tân thế giới.
Người khách mơ màng: “Vàng, vàng và vàng ở Peru! Nếu may mắn, một người sẽ kiếm được hàng cân vàng hay cả tấn vàng nữa kia.” Ông cảm thấy thoải mái. Biết mình cần phải nghỉ ngơi, ông nằm dài trên bãi cỏ, gối đầu lên gói hành trang và từ từ rơi vào giấc ngủ.
Hai giờ sau, ông xoay mình, kéo chiếc áo phủ lên hai vai. Mặt trời đã đổi sang hướng Tây và một cơn gió mát phe phẩy đâu đây. Trời đã dịu lại, người du khách không thấy chi phải vội vã nên lại muốn ngủ tiếp. Chợt ông nghe thấy một âm thanh lạ như có người nào đó đang nói chuyện rất gần nơi ông. Đúng ra, có ai đó đang cầu nguyện, những lời kinh thật quen thuộc : “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà… Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ…”
Người du khách vội mở hé một con mắt lim dim nhìn xuống thung lũng bên dưới. Một bầy chiên đang ăn cỏ rải rác dọc theo bờ sông. Nhưng rồi ông phải giật mình nhỏm dậy ngạc nhiên, vì chỉ cách bên bờ sông vài thước là một cậu bé khoảng 10 tuổi đang quỳ cầu nguyện. Tia nắng mặt trời chiếu lên khuôn mặt cậu, cậu đang có chuỗi hạt gỗ trên tay và bên cạnh là chiếc gậy chăn chiên.
Lời cầu vẫn vang lên: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…”
Giọng cậu bé trong trẻo, rõ ràng chắc chắn như tiếng chuông. Hiển nhiên là cậu bé không biết gì về việc người du khách đang quan sát cậu. Chuỗi hạt cứ đều đều lướt đi trên đôi tay mềm mại, mịn màng cách nhịp nhàng. Lúc này người du khách không còn buồn ngủ nữa, ông mê mẩn ngắm nhìn cậu bé trước mặt. Trong cuộc hành trình khởi đầu từ Bắc Tây Ban Nha, ông đã gặp nhiều người chăn chiên, nhưng chẳng ai giống cậu bé này, đầy lòng thành tín và sốt sắng như đang cầu nguyện ở một nhà thờ lớn vậy.
Cậu bé đã lần hạt xong và cẩn thận cất chuỗi hạt gỗ vào trong cái bị da đeo trên vai. Rồi cậu nhặt cây gậy lên, nhẹ nhàng vừa đi vừa nhảy tới bờ sông. Lúc đó, một con chó trắng có đốm từ đâu chạy tới đuổi theo cậu. Người du khách gọi: “Đợi chút! Cậu bé chăn chiên ơi! Đợi chút!” Âm thanh vang dội vào không trung. Cậu bé không hướng về phía bờ sông nữa. Với con chó đứng bên cạnh cậu, ông thấy rõ một khuôn mặt thông minh, hơi sạm đi vì gió và nắng mặt trời, đôi mắt đen láy rất thân thiện, cậu nói: “Chào ông ! Ông đang đi tới tỉnh chứ ?”
Người đàn ông lắc đầu: “Không, cậu bé ơi ! Tôi biết đường tới Rivera, nhưng cậu làm gì khi nãy mà quỳ gối như vậy ?
Cậu bé mỉm cười nhẹ nhàng, ngón tay vuốt nhẹ trên mình con chó: cháu đọc kinh Mân Côi cầu cho các linh hồn nơi luyện tội !
“Cháu nói cái gì ?”
“Cháu cầu cho các linh hồn nơi luyện tội.”
Người đàn ông cười to: “Đó là công việc thích hợp với đàn bà mà thôi, chứ đâu có hợp với cậu bé như cháu !”
– Nhưng thưa ông, đàn ông và con trai cũng phải xuống luyện tội nữa. Rất ích lợi nếu mình cầu cho họ, để họ sớm được lên Thiên đàng !
Có điều gì trong giọng nói của cậu bé chăn chiên khiến người du khách không dám nói đùa thêm. Ông nói: “Cậu bé ơi, cậu đã giảng thuyết một bài rất hay. Vậy tên cậu là gì ?”
“Thưa ông tên cháu là John Masias, nhưng tên thực là John d’Arcos. Vì ba cháu đã chết, nên cháu nhận tên của ông cậu cháu.”
Người du khách gật đầu lần tay vào trong túi áo, ông lấy ra một đồng bạc nhỏ: “Này cậu bé, cầm lấy cái này và cầu nguyện cho tôi nữa nhé. Tôi không phải là một linh hồn trong luyện ngục, nhưng tôi có nhiều rắc rối !”
Cậu bé lắc đầu: “Cháu nghĩ ông cần dùng tiền. Ông còn phải đi xa mà không có nhà và không có ai để săn sóc ông cả.” Ông năn nỉ: “Cầm lấy đi cậu bé, và cầu nguyện cho tôi.” Cậu bé đáp : “Nhưng cháu cầu nguyện mà không cần ai trả tiền!” Người đàn ông tỏ vẻ ngạc nhiên: “Đúng là con nít, nhìn đây – đồng tiền bạc, có gì sai với cái này không ?”
“Thưa ông, không.” Người du khách năn nỉ : “Vậy thì vì danh Chúa, hãy làm như tôi nói ! Cầm lấy đồng tiền và dùng làm điều tốt.”
Cậu bé duỗi đôi tay ra cách chậm rãi, nói cách đơn sơ: “Thưa ông, được. Cháu sẽ cầu nguyện thật sốt sắng, xin Chúa cho ông tìm được hạnh phúc ở Mỹ Châu.”
Du khách ngạc nhiên: “Mỹ Châu hả ? Ai cho cháu biết là tôi đang đi tới đó ?”
Cậu bé cười: “Đa số các du khách đều tìm sang Mỹ Châu trong những ngày này. Vài năm sau cháu cũng đi nữa.”
Người du khách gật đầu ra vẻ thông hiểu: “Vậy ra cháu cũng là người tham vọng, mặc dù cháu có tinh thần cầu nguyện. Tốt thôi! Mỹ Châu có đủ vàng cho cả hai chúng ta. Tôi chắc chắn thế.”
Sau khi người du khách lên đường, cậu bé chăn chiên nhìn theo ông, dáng suy tư. Có lẽ cậu phải giải thích cho ông biết về mục tiêu sang Mỹ Châu của mình rõ hơn. Cậu chỉ là một đứa bé mồ côi nghèo nàn, không ước mơ được may mắn kiếm vàng bạc. Cậu chỉ đi tân thế giới vì cậu cảm thấy đó là Thánh Ý Chúa.”
Cậu tự hỏi : “Tại sao mình lại không nói cho ông ấy biết nhỉ ? Đa số người ta sang Mỹ Châu để kiếm những lợi lộc cho chính mình, khó lòng kiếm được một người dùng những của kiếm được để rồi giúp người nghèo, và người mê muội.”
Trong khi cậu còn đang chìm đắm trong những tư tưởng đó, thì thình lình tai cậu nhận ra âm thanh giống như giọng nói của một ai đó đang từ thung lũng đi lên đồi. Cậu nghĩ: “Chắc là em Maria rồi. Nhưng tại sao nó đến trễ quá!”
Lúc này con chó trắng canh đàn chiên sủa lên giọng vui mừng, nó nhảy từ bụi rậm rồi chạy theo con đường tới gốc cây già. Gioan vội nắm lấy cây gậy chăn chiên và đi xuống đồi. Có gì xảy ra chăng ? Con chó chẳng bao giờ sủa như thế mỗi khi cô em của cậu đến giúp cậu coi đàn chiên. Cậu la lớn: “Anh đang ở đây, ở lối này Maria ạ !”
Tiếng la lớn của cậu làm ra tiếng vọng lan rộng cả thung lũng, nhưng không có tiếng trả lời. Lập tức cậu vội chạy băng qua những bụi nho, bụi cây và tới con đường đất nhỏ, thấy cô em gái 7 tuổi, mặc bộ đồ nông thôn nghèo nàn, đang cầm trong tay một viên đá, đang nức nở khóc. Cậu bé ngạc nhiên: “Maria, em làm sao vậy ? Có gì xảy ra thế ?” Cô bé ngước nhìn anh cách chậm chạp, bộ mặt xanh tái và căng thẳng dưới bộ tóc đen được bện hai bên, cô bé nức nở: “Anh Gioan ơi, em tưởng anh đã đi xa mất rồi. Em tưởng em sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa. Em tưởng em không có thể tới đây được, nhưng rồi cũng tới, và bị trễ. Chúng ta không thể tập họp đàn chiên lại trước khi trời tối.”
Cô bé lại tức tưởi khóc. Cậu an ủi : “Anh đã nói với em cả chục lần rồi, là anh sẽ không đi Mỹ Châu. Tại sao em không tin anh ?”
Cô bé thì thầm và bưng mặt khóc: “Em chẳng thấy có lý gì mà anh phải đi Mỹ Châu cả.”
Cậu bé thở dài. Cậu chỉ còn cô em là người thân yêu duy nhất của cậu mà thôi. Từ khi cha mẹ qua đời, 5 năm về trước, thì hai anh em sống với một nông dân ở thung lũng. Chúng làm việc vặt ở nhà, và thỉnh thoảng đi tới làng Rivera để gặp ông cậu. Ông là người rất tốt nhưng tiếc rằng nhà ông không có đủ phòng cho chúng ở chung. Thực vậy, chẳng có ai cho Maria tình yêu và sự săn sóc mà cô bé cần. Lúc này, Gioan ngồi xuống trên một tảng đá và kéo cô em ngồi kề bên, cậu thầm thì: “Nghe đây, một người khách lạ đi qua đây và cho em cái này. Thử đoán xem nó là cái gì ?” Maria im lặng một lát, rồi cô mở đôi tay còn ướt nước mắt hỏi: “Cái gì ?” Cậu bé mở bàn tay. Vệt nắng còn lại chiếu qua bụi nho, lóng lánh trên đồng tiền bạc, cậu nói: “Đây, đây là của em.”
Bất chợt nước mắt ngưng chảy. Cô bé cầm lấy đồng bạc, lật qua lật lại để chắc chắn là đồng bạc thật. Lần đầu tiên cô có một đồng bạc trong tay: “Anh Gioan, chắc người khách lạ là người tốt nhỉ! Ông ấy là ai ?” Cậu bé lắc đầu. “Anh không biết, ông ta đã xin anh cầu nguyện để ông ấy được sung sướng ở nơi ông sẽ tới !”
– “Vậy không phải là thị kiến nữa chứ ? Thánh Gioan tông đồ không cho anh đồng bạc này chứ ?”
Cậu bé cười “Không! Lúc này không phải là Thánh Gioan. Chỉ là một người nghèo đi Mỹ Châu để tìm may mắn.”
Maria thở dài cách nhẹ nhàng: “Em thích vậy, anh không biết là em rất buồn khi Thánh Gioan hiện đến và bảo anh rằng Chúa muốn anh rời bỏ em.”
– “Maria ơi, Thánh Gioan không nói như vậy ?”
– “Vậy Ngài nói cái gì ?”
Cậu bé xoay người lại cách bồn chồn. Thật khó giải thích được thị kiến mà cậu đã thấy. Khi cậu đang canh đàn chiên, và có lẽ đang đọc Kinh Mân Côi, thì thình lình thánh bổn mạng của cậu, Thánh Gioan Tông Đồ xuất hiện bên cạnh cậu. Thị kiến đầu tiên xảy ra 5 năm trước khi cậu còn nhỏ xíu. Rồi sau đó, cậu được thị kiến thêm vài lần. Lần nào thì vị thánh cũng nói cùng một sứ điệp.
Cô bé hỏi lại : “Vậy ngài nói gì với anh?”
“Ngài nói anh bỏ Tây Ban Nha, rồi một ngày nào đó, vài nhà thờ sẽ được xây lên để tôn kính Ngài.”
– “Vậy Ngài không thực sự nói là anh phải đi Mỹ Châu chứ ?”
– “Không, nhưng anh nghĩ việc đi Mỹ Châu cũng là sứ điệp đó.”
– “Ngài nói gì nữa?”
Gioan mỉm cười : “Nhiều lần thánh bổn mạng cho anh thấy một miền đất rất đẹp. Mọi sự sạch sẽ và chiếu sáng, và người ta rất sung sướng. Anh chắc chắn đó là Thiên Đàng, Maria ơi, ước gì em cũng được xem thấy như thế.” Cô bé nhìn vào đồng bạc trong tay. Nỗi buồn lại đến. Cô chẳng bao giờ có thị kiến. Và một ngày nào đó, Thánh Gioan Tông Đồ sẽ đem anh cô đi xa vĩnh viễn. Rồi lúc đó cô sẽ ra sao ?