Sáng ngày 18-1-2018, trong thánh lễ cuối cùng tại Chile, trước sự tham dự của 200 ngàn tín hữu, ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu noi gương Mẹ Maria, quan tâm đến tha nhân, nhất là những người di dân.
Thứ năm (18-1-2017) là ngày chót trong 3 ngày ĐTC viếng thăm Chile. Lúc 7 giờ rưỡi sáng ngài đã ra phi trường căn cứ quân sự ở Santiago để đáp máy bay tới thành phố Iquique cách đó 1.450 cây số về hướng bắc. Trước khi bước lên máy bay, ngài còn chào thăm riêng 20 người thuộc ban tổ chức cuộc viếng thăm của ngài ở Chile.
Iquique có gần 200 ngàn dân cư, bên bờ Thái Bình dương, tọa lạc tại nơi mà biển và sa mạc gặp nhau. Thực vậy, phía trên thành phố này là một đụn cát không lồ gọi là Cerro Dragón. Khí hậu nóng như sa mạc và ít mưa. Cảng Iquique là một trong những hải cảng sầm suất nhất của Thái Bình dương và là điểm tham chiếu cho nền thương mại nội địa Chile.
Về phương diện tôn giáo, giáo phận Iquique được thành lập cách đây 90 năm và hiện có gần 180 ngàn tín hữu trên tổng số gần 337 ngàn dân cư, với 21 giáo xứ, nhưng chỉ có 12 LM giáo phận và 23 nữ tu.
Đến Phi trường Iquique lúc 10 giờ 45, sau hơn 2 giờ bay từ Santiago, ĐTC đã tiến về khu vực Lobito rộng 20 hecta bên bờ biển để chủ sự thánh lễ cho các tín hữu tại đây, trước sự hiện diện của gần hàng trăm ngàn người. Nhiều người đã đến khu vực này từ hôm trước và lúc 8 giờ tối, cổng vào được mở ra, để các tín hữu vào, qua đêm tại đây để chờ sẵn dự lễ.
Thánh lễ
Thánh lễ ĐTC cử hành bắt đầu lúc 11 giờ rưỡi giờ địa phương, kính Đức Mẹ Camêlô Bổn mạng Chile. Hiện diện trên lễ đài đặc biệt có tượng Đức Mẹ Tirana, rất được các tín hữu miền bắc Chile tôn kính, được đưa từ Đền thánh tới đây.
Trong số các tín hữu hiện diện cũng có bà Tổng thống Michelle Bachelet của Chile. Ngoài các tín hữu Chile thuộc một số giáo phận lân cận, còn có đông đảo các tín hữu đến từ các nước láng giềng như Peru, Bolivia và đặc biệt là Argentina. Đồng tế với ĐTC có hơn 50 GM và hàng trăm LM ngồi trên lễ đài.
Bài giảng của ĐTC
“Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê” (Ga 2:11).
Đây là những lời cuối cùng trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, mô tả sự xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên của Chúa Giêsu: đó là tại một bữa tiệc, không hơn không kém. Không thể khác được, vì Phúc Âm là lời mời gọi vui lên. Ngay từ đầu thiên sứ đã nói với Đức Maria: “Mừng vui lên!” (Lc 1:28). Thiên sứ cũng nói với các mục đồng “hãy vui lên”; và cũng nói với Elizabeth, một người đàn bà già nua và son sẻ “vui lên”, Chúa Giêsu đã phán cùng kẻ trộm hãy vui lên, vì hôm nay anh sẽ ở với ta trên nước thiên đàng (xem Lc 23:43).
Thông điệp Tin Mừng là một suối nguồn hạnh phúc: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.” (Ga 15:11). Đó là một niềm vui lây lan, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, một niềm vui mà chúng ta đã được thừa hưởng.
Anh chị em biết rõ điều này biết bao, hỡi anh chị em thân mến của miền bắc Chí Lợi! Anh chị em biết rất rõ về cách sống đức tin và cuộc sống mình trong một tinh thần lễ hội! Tôi đã đến như một người hành hương để tham gia cùng anh chị em trong việc cử mừng cách sống đức tin thật đẹp này. Các ngày lễ bổn mạng, các điệu múa tôn giáo của anh chị em – đôi khi kéo dài cả một tuần – âm nhạc của anh chị em, quần áo của anh chị em, tất cả đều làm cho khu vực này trở thành một đền thờ của lòng đạo đức bình dân. Bởi vì bữa tiệc không chỉ giới hạn trong bốn bức tường nhà thờ, nhưng anh chị em biến toàn bộ thành phố này thành một bữa tiệc. Anh chị em biết cách cử hành qua những lời ca và điệu múa về “tình phụ tử, sự quan phòng, và sự hiện diện liên tục và từ ái” của Thiên Chúa, và điều đó tạo ra những “thái độ nội tâm hiếm khi thấy được như thế ở nơi khác như sự kiên nhẫn, dấu thánh giá trong cuộc sống hàng ngày, không bo thiết của cải, sự cởi mở với những người khác, và lòng mộ đạo”. [1] Những lời của tiên tri Isaia thành hiện thực: “Sa mạc sẽ trở nên vườn cây ăn trái, và vườn cây ăn trái sẽ được coi như một cánh rừng.” (Is 32:15). Miền đất này dù bao quanh bởi sa mạc khô cằn nhất thế giới vẫn có thể diện được trang phục hội hè.
Trong bầu không khí lễ hội này, Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Maria hành động như thế nào để làm cho niềm vui đó tiếp tục. Mẹ chú ý tới mọi thứ đang diễn ra xung quanh Mẹ; giống như một hiền mẫu, Mẹ không ngồi yên. Vì thế, Mẹ để ý, giữa bữa tiệc hân hoan vui vầy, có một chuyện sắp xảy ra có thể “làm hỏng” nó. Mẹ đến bên Con mình và nói với Người một cách đơn sơ rằng: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2: 3).
Cũng thế, Đức Maria đi qua các thị trấn, đường phố, quảng trường, nhà cửa và bệnh viện của chúng ta. Đức Maria là Trinh Nữ của La Tirana; Trinh Nữ Ayquina ở Calama; Dức Nữ Đồng Trinh của rặng núi Arica. Mẹ để ý tất cả những vấn đề đang đè nặng trong lòng chúng ta, rồi thủ thỉ bên tai Chúa Giêsu: Hãy nhìn xem “họ hết rượu rồi”.
Đức Maria không đứng yên. Mẹ đến bên các đầy tớ và nói với họ: “Hãy làm bất cứ điều gì Người nói cùng anh em” (Ga 2,5). Đức Maria, một phụ nữ kín tiếng nhưng có những lời rất sâu sắc, cũng đến với mỗi người chúng ta và nói một cách đơn sơ rằng: “Hãy làm bất cứ điều gì Người nói cùng bạn”. Như thế, Mẹ gợi lên phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu: đó là làm cho những bạn bè của Con Mẹ cảm thấy rằng họ cũng là một phần của phép lạ. Bởi vì Chúa Kitô “đã đến thế gian này không phải để chính Ngài thực hiện một sứ mạng, nhưng là cùng với tất cả chúng ta, để Ngài trở thành đầu của một thân thể vĩ đại, trong đó chúng ta là những tế bào sống động, tự do và tích cực” [2].
Phép lạ bắt đầu ngay khi các đầy tớ đến bên những chiếc chum nước dùng để thanh tẩy. Cũng vậy, mỗi người chúng ta đều có thể khởi đầu phép lạ; hơn nữa, mỗi người trong chúng ta đều được mời gọi trở nên một phần trong phép lạ cho những người khác.
Anh chị em, Iquique là một vùng đất của những giấc mơ (đó là ý nghĩa của danh xưng này trong ngôn ngữ Aymara). Đó là một vùng đất đã cung cấp chỗ nương thân cho những người nam nữ của các dân tộc và nền văn hoá khác, là những người bị buộc phải để lại sau lưng mọi thứ và ra đi. Cất bước ra đi luôn luôn kèm theo hy vọng có được một cuộc sống tốt hơn, nhưng, như chúng ta biết, bước chân ra đi cũng luôn luôn đi kèm với những bao bị chất đầy những sợ hãi và sự bất định về tương lai. Iquique, là một miền đất của những người nhập cư, nhắc nhở chúng ta về sự vĩ đại của những người nam nữ, và toàn thể các gia đình, khi đối diện với nghịch cảnh, đã không cam chịu và ra đi tìm kiếm cuộc sống. Để tìm kiếm cuộc sống, họ – đặc biệt là những người phải rời quê hương vì thiếu những thứ cần thiết cho cuộc sống – là một hình ảnh về Thánh Gia đã phải vượt qua những sa mạc để sống còn.
Miền đất này là miền mơ ước, nhưng chúng ta cũng phải làm sao để bảo đảm rằng nó tiếp tục là một miền đất hiếu khách. Một lòng hiếu khách hân hoan tưng bừng lễ hội, vì chúng ta biết rõ rằng không có niềm vui Kitô khi các cánh cửa đóng kín; không có niềm vui Kitô khi ta làm cho người khác thấy rằng họ không được mong muốn, hoặc không có chỗ cho họ nơi chúng ta (x. Lc 16:19-31).
Như Mẹ Maria ở tiệc cưới Cana, chúng ta hãy cố gắng để biết quan tâm hơn nơi các quảng trường, và trong các làng mạc chúng ta, và để ý đến những ai cuộc đời đã bị “nhạt phai”, lạc lối, hay bị cướp mất những lý do để hân hoan. Và chúng ta đừng sợ lên tiếng nói rằng “Họ hết rượu rồi”. Tiếng kêu của dân Chúa, tiếng kêu của người nghèo, là một hình thức cầu nguyện; nó mở rộng con tim chúng ta, và dạy chúng ta biết quan tâm nhiều hơn. Chúng ta hãy chú ý tới mọi tình huống bất công và những hình thức bóc lột mới có nguy cơ làm cho bao nhiêu anh chị em chúng ta bị cướp mất niềm vui lễ hội. Chúng ta hãy quan tâm trước những tình trạng công ăn việc làm bấp bênh, phá hủy những cuộc đời và các gia đình. Chúng ta hãy chú ý đến những kẻ lợi dụng tình trạng bất hợp lệ của nhiều người di dân, là những người không biết ngôn ngữ, hoặc không có giấy tờ hợp pháp. Chúng ta hãy quan tâm tới tình trạng thiếu nhà ở, đất đai, công ăn việc làm của bao nhiêu gia đình. Và như Mẹ Maria, với đức tin, chúng ta hãy lên tiếng: “Họ hết rượu rồi”.
Giống như những người hầu tại bữa tiệc Cana, chúng ta hãy dâng những gì chúng ta có, cho dù có vẻ ít ỏi. Giống như họ, chúng ta đừng e ngại “chìa ra một bàn tay”. Xin cho tình liên đới của chúng ta trong việc dấn thân cho công lý là một phần của điệu múa hoặc bài hát mà chúng ta có thể dâng lên Chúa chúng ta. Chúng ta hãy tận dụng cơ hội để học hỏi và biến những giá trị, sự khôn ngoan và đức tin mà người di dân đem theo với họ thành những thứ của chúng ta. Đừng đóng kín trước những “cái chum” đầy trí tuệ và lịch sử của những người di dân đang tiếp tục đổ xô đến vùng đất này. Chúng ta đừng để mất đi mọi thứ tốt lành mà họ có thể cống hiến.
Và chúng ta hãy để Chúa Giêsu có thể thực hiện phép lạ bằng cách biến các cộng đoàn và tâm hồn chúng ta thành những dấu chỉ sinh động về sự hiện diện của Ngài, một sự hiện diện hân hoan và tưng bừng, vì chúng ta cảm nghiệm rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta, vì chúng ta có chỗ cho Ngài giữa chúng ta. Đó là một niềm hân hoan lây lan khiến chúng ta không miễn trừ một ai khỏi sứ mệnh loan báo Tin Mừng này.
Xin Đức Maria, dưới những tước hiệu khác nhau ở vùng đất miền bắc được chúc phúc này, tiếp tục thì thầm bên tai Chúa Giêsu, là Con Mẹ: “Họ hết rượu rồi”, và xin cho lời Mẹ vẫn tiếp tục tìm được một chỗ nơi chúng ta: “Hãy làm bất cứ điều gì Người nói với bạn”.
[1] Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (Phúc Âm Hóa trong Thế Giới Hiện Đại), 48.[2] Thánh Alberto Hurtado, Meditación Semana Santa para jóvenes (Suy niệm Phục sinh cho người trẻ)(1946).