1. Giới thiệu Giáo Hội và đất nước Bangladesh
Cộng hoà nhân dân Bangladesh rộng 147.570 cây số vuông, có hơn 170 triệu dân, giáp giới với Myanmar và quay ra vịnh Bengala. Trong tiếng Bengale Bangladesh có nghĩa là Quê huơng của Bengala. Ranh giới hiện nay của Bangladesh bắt nguồn từ việc phân chia năm 1947 khi vùng này trở thành phần phía đông của nưuớc Pakistan mới thành lập, bị chia cách với phần còn lại bởi 1.600 cây số ngang qua Ấn Độ. Các kỳ thị ngôn ngữ, chính trị và kinh tế khiến cho Bangladesh luôn ở trong tình trạng dân chúng giao động chống lại Tây Pakistan dẫn đưa tới chiến tranh giành độc lập năm 1971 và việc thành lập nước Bangladesh. Tuy nhiên, quốc gia mới này đã phải gánh chịu các thiên tai và hạn hán mất mùa đói kém và cảnh nghèo túng triền miên, cũng như các giao động chính trị và các cuộc đảo chánh của quân đội. Việc tái lập nền dân chủ năm 1991 đã là kết quả của một sự ổn định tương đối và tiến bộ kinh tế.
Bangladesh là một trong các quốc gia có mật độ dân số đông nhất thế giới và có cũng là nước có nhiều người nghèo nhất. Trên bình diện địa lý Bangladesh nằm trong vùng đồng bằng lưu vực sông Gange và sông Brahmaputra, nhưng hằng năm cũng là nạn nhân của lụt lội và bão táp. Là thành viên của tổ chức Khối Thịnh Vượng Chung từ năm 2005 Bangladesh đã đạt được các tiến triển đáng kể trên bình diện phát triển nhân bản, xóa bỏ nạn mù chữ, thăng tiến giáo dục và giảm nạn gia tăng dân số.
Các dấu tích của các nền văn minh cổ xưa cho biết lịch sử vùng Bengala đã có từ 4.000 năm trước, khi vùng này do các dân tộc Dravidic, Tibeto-birmane và Austro-asiatico sinh sống. Gốc gác tên gọi Bangla hay Bengala có lẽ phát xuất từ chữ “Bang” là bộ lạc nói tiếng Dravidic đến định cư trong vùng này vào năm 1.000 trước công nguyên.
Sau khi người indo ariani đến Bangladesh vương quốc Gangaridai được thành hình vào thế kỷ thứ VII trước công nguyên. Tiếp đến nó bị sát nhập vào vương quốc Magadha, rồi vào đế quốc Maurya, và từ thế kỷ thứ III tới thứ VI sau công nguyên trở thành phần của đế quốc Gupta. Sau khi đế quốc Gupta sụp đổ, ông Shashanka thành lập vương quốc mới và được coi là cha đẻ của nền độc lập Bangladesh. Sau một thời gian vô chính phủ triều đại Pala cai trị vùng này trong 4 thế kỷ liên tiếp. Sau đó là triều đại Ấn Sena. Vào thế kỷ XII Hồi giáo được du nhập vào Bangladesh và lan tràn trong toàn vùng. Tướng Thổ Nhĩ Kỳ là Bakhtiar Khiji chiến thắng Lakshman Sen của triều đại Sena và chiếm cứ phần lớn Bangladesh. Vùng này bị các Sultan Hồi và các quan phong kiến cai trị trong 100 năm. Vào thế kỷ XVI đế quốc Moghul thống trị Bengala và Dakhca trở thành trung tâm thương mại quan trọng của đế quốc.
** Các thương gia âu châu đặt chân lên Bangladesh vào cuối thế kỷ XV và gia tăng thanh thế, khi Công ty Anh đông Ấn Độ kiểm soát Bengala sau trận chiến năm 1757. Cuộc nổi loạn đẫm máu năm 1857 khiến cho quyền bính được giao cho phó vương người Anh. Dưới thời thuộc địa của Anh quốc đã xảy ra nhiều thiên tai hạn hán mất mùa, bao gồm cả nạn hạn hán năm 1943 khiến cho hơn 3 triệu người phải đói khát.
Giữa các năm 1905-1911 nỗ lực tách rời Bengala thành 2 vùng bị thất bại. Khi Ấn Độ bị chia cắt năm 1947 vùng Bengala bị chia đôi bởi một ranh giới tôn giáo với phía tây có dân theo Ấn giáo nằm dưới quyền cai trị của Ấn Độ, và phiá đông có dân theo Hồi giáo bị sát nhập vào Pakistan như là một tỉnh và được gọi là Đông Bengala. Việc tách rời này đã làm nảy sinh ra các cuộc xuất hành đông đảo và quan trọng nhất trong lịch sử. Hàng triệu người theo Ấn giáo rời bỏ vùng Đông Pakistan, trong khi hàng triệu người theo Hồi giáo lại tìm về sinh sống tại đây. Cuộc di cư vĩ đại này đã là lý do của cuộc khủng hoảng nhà ở và lương thực kéo dài 30 năm trời. Các chính quyền sau đó đã cố gắng giải quyết vấn đề, nhưng đã không bao giờ thành công, và trong vài trường hợp nó đã làm nảy sinh ra các phong trào chính trị, xã hội kinh tế và chủng tộc.
Năm 1950 đã có cuộc cải cách huỷ bỏ chế độ phong kiến Zamidari. Mặc dù sức nặng kinh tế và dân số ở phiá Đông nhưng quyền bính chính trị và quân sự lại nằm trong tay các tầng lớp sống ở phiá Tây. Năm 1952 phong trào tiếng nói Bengale ghi dấu một khúc quanh mới, và khai sinh ra Liên minh nhân dân Bengale. Trong thập niên 1960 phong trào nay đòi độc lập và năm 1966 tổng thống Sheik Mujibur Rahman bị cầm tù và rời bỏ quyền bính sau vụ nổi loạn của dân chúng năm 1969. Năm 1970 một trận bão lớn tàn phá vùng duyên hải Đông Pakistan, nhưng chính quyền trung ương phản ứng rất kém khiến cho dân chúng giận dữ, và Sheikh Mujibur Rahman tuy đã thắng cử năm 1970 nhưng không thể lên nắm quyền. Tháng 3 năm 1971 tổng thống Yahya Khan bắt giữ ông Mujibur và phát động cuộc hành quân Tìm ánh sáng xua quân đánh vùng Đông Pakistan. Chiến tranh bạo lực đã khiến cho rất nhiều thường dân bị thiệt mạng và làm cho 10 triệu người phải đi lánh nạn bên Ấn Độ. Đã không có thống kê chính xác nhưng người ta ước tính có từ 300.000 tới 3 triệu người chết. Đa số hàng lãnh đạo đảng Liên minh nhân dân Bengale hay Awami trốn sang Ấn độ, và thành lập chính phủ lưu vong tại Calcutta. Chiến tranh giải phóng Bangladesh kéo dài 9 tháng, và cuối cùng nhận được sự trợ giúp của quân đội Ấn. Quân Ấn chiến thắng quân Pakistan vào tháng 12 năm 1971 và bắt giữ 90.000 tù binh chiến tranh. Sau khi được độc lập Bangladesh trở thành một nước dân chủ và đảng Liên minh Awami chiếm đa số tuyệt đối trong Quốc Hội với ông Mujib làm thủ tướng.
Trong các năm 1973-1974 và đầu năm 1975 Bangladesh bị hạn hán mất mùa trầm trọng. Ngày 15 tháng 8 năm 1975 thủ tướng Mujib và gia đình bị các tướng lãnh ám sát. Sau nhiều cuộc đảo chánh tướng Ziaur Rahman, người thành lập đảng Quốc gia Bangladesh, lên nắm quyền và cai trị cho tới khi ông bị ám sát năm 1981. Sau một cuộc đảo chánh đẫm máu tướng Hossein Mohammad Ershad lên nắm quyền từ năm 1982 tới 1990, và bị bó buộc từ chức sau khi chế độ cộng sản sụp đổ. Kể từ đó Bangladesh lại có chính quyền dân chủ. Bà Khaleda Zia, vợ của tướng Ziaur, đưa đảng của chồng tới chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1991, và trở thành nữ thủ tướng đầu tiên trong lịch sử Bangladesh. Nhưng đảng Quốc gia Bangladesh do Sheikh Hasina, một trong những con gái còn sống sót của tướng Mujib, lãnh đạo thắng cử năm 1996 nhưng mất quyền năm 2001.
Năm 2007 tiếp theo nạn bạo lực làn tràn một chính quyền mới được thành lập với mục đích nhổ tận gốc rễ nạn gian tham hối lộ và các hỗn loạn chính trị.
** Đa số dân Bangladesh nói tiếng Bengale là một ngôn ngữ Indoeuropeo thuộc gia đình Indoiraniano của nhóm Indoario nam Á châu, và đã tiến triển như là dòng dõi tiếng Phạn Sanscrito, tiếng Pali và các thứ tiếng Pracrite. Ngoài ra người dân còn nói nhiều thứ tiếng khác như: Chakma, Assamese, Tippera, Hajong, Atong, Rakhine, Mizo và Marma.
Trên bình diện tôn giáo 90,4% tổng số dân theo Hồi giáo, 8,2% theo Ấn giáo, 0,7% theo Phật giáo đa số là Tiểu Thừa, 0,6% theo Kitô giáo đa số theo Công Giáo, và 0,1% theo các tôn giáo khác, trong đó có đạo thờ vật linh.
Đa số tín hữu hồi theo hệ phái Sunnít, nhưng cũng có một nhóm theo hệ phái Sciít và một nhóm theo hệ phái Ahmadiyya. Đa số tín hữu Sciít sống trong các thành phố. Cả khi chính quyền Bangladesh chọn ý thức hệ quốc gia đời, Hiến pháp vẫn coi Hồi giáo là quốc giáo. Tuy Hiến pháp khẳng định quyền tự do tôn giáo, mỗi công dân được tự do lựa chọn và thực hành niềm tin của mình, nhưng trên thực tế các cộng đoàn tôn giáo thiểu số khác như kitô, phật giáo và hồi giáo ahmadiyya vẫn bị ít nhiều kỳ thị. Giữa các năm 2001-2006 chính quyền liên hiệp bao gồm 4 đảng phái chính trị: đảng quốc gia Bangladesh, đảng Jamat-e-Islami Bangladesh, đảng Islami Oilya Jote và đảng Jatiyo Bangladesh, đã ra lệnh cấm phổ biến các tác phẩm văn chương Ahmadi. Các quyền gia đình liên quan tới ly dị, nhận con nuôi vv. thay đổi tuỳ theo tôn giáo. Nhưng không có luật cuỡng bách hôn nhân giữa các thành phần thuộc các tôn giáo khác nhau.
Kitô giáo đã đến Bangladesh giữa cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII qua các thương gia Bồ Đào Nha và các thừa sai. Các linh mục thừa sai thuộc Hội Truyền Giáo nước ngoài Milano đã đến rao giảng Tin Mừng tại Bangladesh năm 1855. Giáo Hội Công Giáo Bangladesh gồm hai cộng đoàn chính: một cộng đoàn gồm con cháu các kitô hữu đầu tiên, hoa trái công việc truyền giáo của các thừa sai Bồ Đào Nha trong hai thế kỷ XVI-XVII; một cộng đoàn khác chiếm đa số gồm các thổ dân từ đạo thờ vật linh theo Kitô giáo, bao gồm các chủng tộc Oraon, Garo và Santhal.
Hiện nay số tín hữu kitô chiếm 0,6% tổng số dân, đa số theo Công Giáo và có một số nhỏ theo tin lành. Giáo Hội Công Giáo có khoảng 300.000 giáo dân sống trong 2 tổng giáo phận và 6 giáo phận. Giáo tỉnh Dacca bao gồm tổng giáo phận Dacca và 4 giao phận Dinajpur, Mymensingh, Rajshahi và Sylhet, trong khi giáo tỉnh Chittagong bao gồm tổng giáo phận Chittagong và 2 giáo phận Barisal và Khulna. Ngoài các Giám Mục của 8 giáo phận nhân lực của Giáo Hội gồm khoảng 250 linh mục, hơn 1.000 nữ tu, hơn 400 chủng sinh và 1.500 giáo lý viên. Công tác rao truyền Tin Mừng được dễ dàng hơn sau khi HĐGM cho in bản dịch Thánh Kinh năm 1999 bằng tiếng Bengali là ngôn ngữ của 98% dân chúng. Năm 2000 các Giám Mục cũng cho in sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo bằng tiếng Bengali.
** Từ năm 2011 ĐHY Patrick D’ Rozario là chủ tịch HĐGM Bangladesh. Từ năm 1973 tới 1992 Bangladesh chỉ có Đức Khâm Sứ. Nhưng sau đó chính quyền Bangladeh và Toà Thánh đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao trên bình diện toà đại sứ và sứ thần Toà Thánh. Từ năm 2013 Đức Sứ Thần Toà Thánh là ĐTGM George Kochery.
Vì Bangladesh là một trong 49 nước nghèo nhất thế giới theo danh ách của Liên Hiệp Quốc, nên Giáo Hội tập trung mọi công tác mục vụ vào các lãnh vực thăng tiến giáo dục, y tế và an sinh cho dân. Hiện nay Giáo Hội điều khiển hơn 550 trường học: từ mẫu giáo cho tới trung học và đại học. Giáo Hội cũng điều hành 360 cơ sở y tế và bác ái xã hội, gồm các nhà thương, các bệnh xá, các trạm phát thuốc, các trung tâm mồ côi và nhà cho người tàn tật. Sự kiện 70% dân không được học hành và đa số dân là người trẻ khiến cho Giáo Hội tập trung nỗ lực vào công việc thăng tiến giáo dục và củng cố mục vụ cho giới trẻ và dấn thân rao truyền Tin Mừng. Các cơ sở giáo dục của Giáo Hội tiếp nhận tới 80% học sinh sinh viên không Công Giáo. Qua đó người trẻ hồi giáo, phật giáo và ấn giáo cũng học biết Chúa Kitô.
Tại Bangladesh các tương quan của Giáo Hội Công Giáo với Hồi giáo rất tốt. Cuộc đối thoại liên tôn không gặp khó khăn như tại nhiều quốc gia khác, vì các liên lạc giữa giới lãnh đạo các tôn giáo và các tín hữu với nhau rất hài hoà và khoan nhượng. Một đàng chính quyền Bangladesh là chính quyền đời, đàng khác Hồi giáo Bangladesh hoà hoãn và có tinh thần tu đức cao. Thách đố chính của Giáo Hội là việc hội nhập Tin Mừng vào nền văn hoá. Vì cho tới nay Kitô giáo vẫn bị coi là tôn giáo ngoại lai. Cộng đoàn Công Giáo trẻ tuổi, và đức tin và truyền thống kitô chưa được đâm rễ sâu trong cuộc sống tín hữu. Trong số các khó khăn Giáo Hội vẫn còn gặp phải có sự kiện các thừa sai không được cấp giấy phép vào Bangladesh dễ dàng vì vẫn bị nghi ngờ. Bên cạnh đó là sự lan tràn của các giáo phái giả kitô, khiến cho chính quyền có các thái độ thù nghịch với Kitô giáo. Sự kiện hàng giáo sĩ tu sĩ và giáo dân phải dấn thân nhiều trong các sinh hoạt thăng tiến cuộc sống cho dân nghèo cũng ngăn cản phần nào việc lôi cuốn họ vào các chương trình đào tạo thiêng liêng.
Trong số các nỗ lực Giáo Hội cần thực hiện có việc đào tạo tôn giáo cho anh chị em giáo dân và lôi cuốn họ dấn thân trong các công tác tông đồ, để họ nỗ lực rao giảng Tin Mừng, và có thể đảm trách nhiều nhiệm vụ hơn trong mọi sinh hoạt của Giáo Hội.
Linh Tiến Khải
Đó là bài viết của Cha Joseph Ruellen, thuộc Hội Thừa Sai Paris, 91 tuổi, một vị cựu truyền giáo ở Miến Điện. Bị đuổi ra khỏi Miến năm 1966, sau đó, ngài phục vụ tại Madagascar. Trở về Pháp, ngài dành thì giờ nghiên cứu về lịch sử Giáo Hội tại Miến Điện.
Những người Công Giáo đầu tiên của Miến Điện là người Bồ Đào Nha: từ năm 1510, những người này đến tiếp xúc với Miến Điện, thường trà trộn làm người làm thuê phục vụ cho các vương quốc và công quốc khác nhau rồi từ từ có cửa hàng riêng để lập nghiệp, đặc biệt tại vùng Syriam. Năm 1613, vì tham vọng tàn ác của người đứng đầu khu định cư gồm 5,000 nhân đinh này, tên là Felipe de Britto, họ đã bị tống xuất lên lãnh thổ của nhà vua Ava, tên của vương quốc Miến Điện phía bắc. Vị vua này đã sử dụng họ làm vệ binh hoàng gia, lính mang súng trường và súng thần công, nhưng được một điều là ông để họ tự do thực hành tôn giáo của họ.
Bắt đầu từ năm 1722, các cha dòng Barnabite người Ý được quyền chăm nom các cộng đồng Kitô hữu này, nhưng các cuộc chiến tranh liên tục trong đó các Kitô hữu phải tham gia đã giảm dần con số của họ một cách đáng kể. Một chủng viện được mở cửa năm 1772, một trường cao đẳng được thành lập ở Yangon và đào tạo được 3 linh mục đầu tiên. Hai trong số 3 vị này, Joseph Maung Gyi và Andrew Koo, được phong chức từ năm 1793 tại Amarapura. Tại nơi mà 100 năm trước, các Cha Jean Jorret và Jean Genoud, thuộc Hội Thừa Sai Paris, đã bị kết án bó trong bị liệng xuống sông vì làm tông đồ.
Vua Mindon, người che chở các vị truyền giáo
Các cuộc chiến tranh trong thời kỳ này chống lại Xiêm La, Trung Hoa, Arakan và Assam không ngăn cản đoàn chiên Kitô hữu nhỏ bé này tồn tại, cách này hay cách khác. Nhưng bắt đầu từ năm 1816, binh lính Miến Điện phải đối phó với người Anh thuộc Công Ty Ấn Độ ở Assam và Arakan; cứ mỗi lần người Anh tấn công, các làng Kitô Giáo ở phía bắc lại chịu nhiều sỉ nhục bởi các láng giềng Phật Giáo. Tuy nhiên, các vị vua đã giữ họ phục vụ mình và che chở họ. Sau này, sau năm 1830, nhiều linh mục người Ý khác, nhất là thuộc Dòng Oblat, đến trông coi các nhóm Kitô hữu khác nhau. Nhưng rồi trong đợt tấn công thứ hai của người Anh vào năm 1852, mọi linh mục đều bị bắt và bị tra tấn, và chính nhờ Mindon, tân vương của Ava, đã giải cứu họ. Các cuộc chiến tranh giữa người Anh và người Miến này đã làm con số các khu truyền giáo giảm đi khá nhiều.
Năm 1856, các nhà truyền giáo người Ý kêu gọi Hội Thừa Sai Paris. Đức Cha Paul Bigandet, truyền giáo tại tỉnh Tenasserim từ năm 1838, được sự sủng ái của Vua Mindon nhờ tài xử sự và kiến thức Phật Giáo của ngài. Điều này giúp các nhà truyền giáo đi truyền giảng Tin Mừng cho các dân tộc thiểu số nơi Phật Giáo chưa bén rễ: nhờ thế mà các cộng đồng Kitô hữu đầu tiên đã được thiết lập nơi người Karens ở phía nam Pathein và Mergui, nơi người Kachins ở đông bắc và nơi người Chins ở phía Tây. Từ năm 1866, các cha Dòng Truyền Giáo Milan trông coi Taungu và các tỉnh phía tây, mở nhiều khu Kitô giáo nơi người Karens. Nhiều người trẻ được gửi đi đào tạo tại chủng viện Penang và một hàng giáo sĩ địa phương được phát triển. Trong vòng 1 thế kỷ, 334 sinh viên đã được gửi qua Penang và 153 người đã trở thành linh mục. Khi Đức Cha Bigandet qua đời vào năm 1893, Giáo Hội đã được trồng vững chãi tại Miến Điện, và mọi giọng nói đều nhất tề ca ngợi ngài. Người Anh, người Miến, người Ấn Độ và nhiều người khác đặc biệt nhớ tới công trình giáo dục của ngài.
Năm 1934, các nhà truyền giáo của Thánh Colomban phụ trách các lãnh thổ của người Kachin sát biên giới Trung Hoa trong khi các nhà truyền giáo Hoa Kỳ La Salette phụ trách vùng phía đông Akyab, rồi vùng Prome ở miền trung. Trước cuộc tấn công của Nhật năm 1942, Giáo Hội Miến Điện phát triển mạnh về mọi mặt, với nhiều công trình xã hội, nhất là trong lãnh vực chống bệnh cùi. Lãnh tụ giành độc lập Aung San, từ năm 1941, vốn đã lập ra một quân đội Miến Điện để chống lại người Anh, nhưng một số nhóm vô kỷ luật đã tấn công các làng Kitô giáo, chủ yếu trong vùng châu thổ; nhiều vụ tàn sát đã diễn ra.
Người Công Giáo, tấm gương hợp nhất trong một đất nước bị xâu xé
Trong chiến tranh, Aung San vốn cảm nghiệm các chia rẽ của đất nước ông, nhất là về phía người Karens và người Shans. Sau khi Nhật đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, ông nghĩ tới việc tổ chức cuộc gặp gỡ liên sắc tộc tại Panglong để tạo nên một Liên Bang Miến Điện đích thực. Sáu tháng trước ngày độc lập 4 tháng Giêng năm 1948, ông bị ám sát ở Yangon bởi phe chính trị đối lập. Các rắc rối diễn ra sau đó là dịp để đủ loại băng đảng có vũ trang tính sổ các người láng giềng. Nếu khởi đầu chỉ người Karens theo phái Baptist bị nhắm, thì chẳng bao lâu sau, tất cả những ai không phải là Phật Giáo đều bị coi là đồng hóa với kẻ thù: nhiều trận đánh bọc hậu đã diễn ra, nhất là ở vùng châu thổ, nhiều căn làng bị tấn công và nhiều linh mục Âu Châu và địa phương bị giết. Các giám mục cố gắng hết sức để không đổ lỗi cho chính phủ nên họ đánh giá cao lòng trung thành của người Công Giáo hơn là người Baptist, là nhóm có mặt khá nhiều nơi người Karens và Kachins; những người này, trái lại, đã phản ứng một cách bạo động và ủng hộ các phong trào nổi loạn. Nhưng dần dần, yên ổ đã trở lại dưới một chính phủ dân sự và các cộng đồng Kitô giáo lại được phát triển. Các chia rẽ chính trị tiếp tục sâu xa và hoạt động của chính phủ trở nên yếu kém.
Năm 1954, một phái đoàn linh mục của Miến Điện qua Rôma, và hàng giáo phẩm được thiết lập: hai trong số các linh mục này được tấn phong giám mục, Đức Cha Joseph U Win, người Miến, ở Mandalay, và Đức Cha George U Kyaw, người Karen, ở Pathein. Đây là dịp để Thủ Tướng U Nu bầy tỏ với các vị cầm quyền Công Giáo lòng ngưỡng phục của ông đối với các hoạt động của Giáo Hội tại đây. Nhưng song song, ông đã khuyến khích hoạt động truyền bá Phật Giáo bằng cách gửi các nhà sư tới các nhóm thiểu số, thậm chí tới cả nhóm sơn cước Chin, sát biên giới Ấn Độ ở phía tây bắc, nơi phần đông dân cư theo Kitô Giáo nên đâu có cần các nhà “truyền giáo Phật Giáo” này: các linh mục Công Giáo người Miến rất được hoan nghinh tại đây, còn các viên chức Miến thì không được hoan nghinh bao nhiêu.
Năm 1956, tại Yangon, người ta cử hành lễ kỷ niệm 1 trăm năm việc Đức Cha Bigandet tới đây và việc thành lập một đại chủng viện bằng một Đại Hội Thánh Thể, trong đó, Giáo Hội Công Giáo qui tụ 50,000 tín hữu, đến từ khắp nơi trong nước. Dịp này, khâm sứ Tòa Thánh và Đức Hồng Y Gracias, đặc sứ của Đức Giáo Hoàng, đã được Thủ Tướng U Nu tiếp đón. Ông ca ngợi sự hợp nhất mà người Công Giáo đã nêu gương cho cả nước. Phần đông là người Karens, nhưng y phục nhận ra cả người Kachins, người Shans, người Labus, và nhiều sắc tộc khác nơi các Cha người Ý từng rao giảng Tin Mừng. 40 đại biểu đến từ sắc tộc sơn cước Chin đã đến góp vui trong dịp lễ này; quả thực Giáo Hội Công Giáo qui tụ mọi sắc tộc.
Sự tan vỡ năm 1966: “Chúng tôi trở nên trắng tay trong một đêm”
Sau cuộc biểu dương lực lượng năm 1962, quân đội đã nắm quyền vào năm 1966 và buộc mọi nhà truyền giáo đến đây từ ngày độc lập phải ra đi. Mọi cơ sở giáo dục và bác ái của Giáo Hội bị quốc hữu hóa. Chứng cớ được cung cấp bởi các cựu học sinh của “Trung Học Giáo Dục Căn Bản Số 6” tức trường trung học công lập, trước đây có tên là “Trung Học Thánh Phaolô”, nằm cạnh Nhà Thờ Chính Tòa Đức Bà ở Yangon.
Đức Tổng Giám Mục Yangon là Đức Cha Charles Bo, năm 2011, cho hay: “Chúng tôi trở thành trắng tay trong vòng một đêm. Thế nhưng, việc rao giảng Tin Mừng và công việc bác ái vẫn đã tiếp tục. Từ 8 giáo phận, chúng tôi đã vượt lên 16; từ 300,000, con số tín hữu đã tăng lên 750,000. Các linh mục lúc đó la 150 vị, nay các vị tăng lên 750; các tu sĩ lúc đó là 400, nay là 1,600. Về các giáo lý viên, phải kể hàng trăm. Mọi giáo phận đều lập một Caritas và tổ chức các hoạt động vừa có tính mục vụ vừa có tính bác ái”.
Các người Công Giáo tiếp tục sống và tự phát triển, về con số cũng như việc tự lập, không pha mình vào chính trị. Đây không luôn luôn là thái độ của người Karens và Kachins theo phái Baptist. Cho đến nay, các nhóm nổi loạn này vẫn chưa hoàn toàn được bình định.
Các giám mục Miến Điện luôn rao giảng hòa bình, không tỏ ra đối nghịch với hội đồng quân sự, và Giáo Hội nêu gương hợp nhất giữa các nhóm sắc tộc khác nhau. Nhờ thế, các linh mục Miến Điện, những vị từ đầu vốn tham gia vào việc phát triển truyền giáo nơi người Chin và người Kachins, dần dần thay thế các vị người Ấu Châu bị tống xuất và dần dần các vị giám mục được đề cử trong mọi giáo phận bất kể nguồn gốc. Nhờ thế, mà ngày nay, chúng ta có Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Yangon, Đức Cha Charles Bo, người gốc Monhla, một trong các làng Kitô Giáo cổ xưa nhất ở phía bắc Mandalay, sau khi là giám mục Lashio, sát biên giới Trung Quốc. Đức Tổng Giám Mục Mandalay, Đức Cha Nicholas Mang Thang, là một người Chin ở Mindat; trước đây, ngài vốn điều khiển giáo phận Haka-Kalemyo. Việc thuyên chuyển các trách nhiệm này trong Giáo Hội từ vùng này tới vùng nọ là dấu chỉ cho thấy trong Giáo Hội Công Giáo, việc hợp nhất quốc gia là một thực tại.
Sự hỗ trợ kín đáo của các giám mục Miến đối với Bà Aung San Su Kyi
Năm 1988, dân chúng nổi dậy chống nền độc tài quá nặng nề. Nhiều nhóm dân chúng đoàn kết trong cuộc đấu tranh và quả là nhẹ nhõm khi tất cả đều ủng hộ Aung Sang Suu Kyi, người từ năm 1988 đã trở thành hiện thân của quốc gia Miến Điện. Khi giam bà trong tù hay tại nhà, hội đồng quân sự chỉ gia tăng lòng ngưỡng mộ bình dân đối với bà và cuối cùng đã phải nhường chỗ cho một chính phủ trong đó, bà, chứ không phải uy quyền, có ưu thế tinh thần của một cố vấn quốc gia. Trong các biến cố này, Giáo Hội Công Giáo để các tín hữu tự do xử lý các chọn lựa chính trị của họ, chứng tỏ một sự thận trọng khôn ngoan.
Năm 2011, Đức Tổng Giám Mục Yangon, Đức Cha Charles Bo, tổ chức năm thánh kỷ niệm 100 năm nhà thờ chính tòa: 400 linh mục, 21 giám mục và 3 tổng giám mục, được vây quanh bởi một đám đông rất lớn ngồi chật ngôi thánh đường vừa được tân trang. Đây cũng là dịp để mời các đại diện của đoàn tăng sĩ Phật Giáo và nhất là Aung San Su Kyi, nhà nữ quán quân của tự do và dân chủ. Người ta hoan hô bà và điều này, một lần nữa, biểu lộ rõ sự hợp nhất của người Công Giáo thuộc đủ sắc tộc của quốc gia.
Năm 2016, bất chấp sự ngập ngừng của quân đội, Aung San Suu Kyi đã tái tục các cuộc thương thuyết tại Panglong, việc mà cha bà đã dự liệu trước đây nhằm thiết lập ra Liên Bang quốc gia dựa trên sự đồng thuận của các nhóm sắc tộc, chứ không dựa trên sự đàn áp. Kết quả chưa có chi hiển hiện, nhưng mọi người đều biết rằng chính sự hiện diện của bà đã thống nhất xứ sở. Ngày nay, một số người tự hỏi liệu bà có đủ quyền lực để buộc quân đội phải tuân theo hay không; hiện quân đội đang tự tô vẽ là lực lượng bảo vệ quốc gia và Phật Giáo. Bất chấp các biến cố gần đây ở Arakan, xem ra các giám mục Miến tiếp tục ủng hộ bà, thấy nơi bà quả cân cân bằng duy nhất trước sự ngạo nghễ của quân đội.
P. Joseph Ruellen (Tháng 10 năm 2017)
(Nguồn: Eglises d’Asie, 27 tháng 10, 2017)