Bài hát và suy niệm (03.11.2024 – Chúa Nhật Tuần XXXI Thường Niên năm B)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

Nghe giảng


NL: CA LÊN ĐI

ĐC: NGÀI LÀ DŨNG LỰC

DL: TIẾN DÂNG CHA

HL: CHO CON BIẾT YÊU THƯƠNG

KL: HOA MÂN CÔI

Lời Chúa: Đnl 6, 2-6;  Dt 7, 23-28;  Mc 12, 28b-34


Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (Mc 12, 28b-34)

Khi ấy, có một người trong các kinh sư đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng : “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu ?”  Đức Giê-su trả lời : “Điều răn đứng hàng đầu là : Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.  Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.  Điều răn thứ hai là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.”  Ông kinh sư nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác.  Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.”  Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo : “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu !” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.

Điều răn lớn nhất (03.11.2024)

 Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 31 năm B này, là xác định Giới răn căn bản và quan trọng nhất của Kitô giáo : giới răn yêu thương.

Bài đọc I trích trong sách Đệ nhị luật, là diễn từ thứ hai của ông Mô sê với dân Israel. Sau 40 năm đi trong sa mạc, lúc này dân Israel đã đến bờ phía Đông sông Giôđan, phía bên kia sông là miền đất hứa. Ông Môsê nhắc lại với dân những những kỳ công Thiên Chúa đã làm để cứu dân thoát khỏi ách nô lệ và đưa họ ra khỏi Ai cập, lập với họ Giao ước Sinai, một giao ước vĩnh cửu. Dân Israel nhận và chỉ tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, tuân giữ tất cả những giới răn Thiên Chúa truyền. Đây là điều quan trọng nhất và là yếu tố bảo đảm cho dân Israel hạnh phúc, vì Thiên Chúa đã nhận họ làm dân riêng.

Bối cảnh bài Tin Mừng là sau khi Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và đám đông rời khỏi Jerico lên Giêrusalem, Người tiến vào Thánh đô trong tư cách một Đấng Messia, có đám đông dân chúng đón rước và tung hô Người : “Hoan hô ! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa ! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời !” (Mc 11,9-10).

Khi ở Giêrusalem, Chúa Giêsu làm cho cây vả chỉ có lá không có trái (ám chỉ nền phụng tự của người Do Thái nhiều hình thức mà không có tấm lòng yêu mến Thiên Chúa) bị chết khô. Người xua đuổi những kẻ mua bán ra khỏi Đền thờ. Các thượng tế và các kinh sư nghe thấy Đức Giêsu quở trách những người mua bán trong Đền Thờ thì tìm cách giết Người vì “họ sợ Người, vì cả đám đông đều rất ngạc nhiên về lời giảng dạy của Người “ (Mc 11,18).

Chúa Giêsu thường vào giảng dạy trong Đền thờ. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến để hạch hỏi Chúa Giêsu đã lấy quyền gì mà xua đuổi những người mua bán ra khỏi Đền thờ (Mc 11,27-28). Người nói dụ ngôn “người làm vườn nho sát nhân” để hạch tội họ, khiến họ càng căm ghét và muốn bắt Người, nhưng họ chưa dám làm vì sợ dân chúng (Mc 12,1-12).

Các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị Do Thái liên tục đến chất vấn và tranh luận với Chúa Giêsu để thử và bắt bẻ Người.

Những người Pharisêu và phe Hêrôđê trước thường chống đối nhau, nay cùng nhau đến gài bẫy người; Họ hỏi Người bằng câu hỏi nộp hay không nộp thuế cho Xêdarê (12,13-17. Rồi phe Xa đốc đến tranh luận với người về vấn đề kẻ chết sống lại (12,18-27). Nhưng họ đều thất bại trước sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. Dân chúng càng kính phục Người hơn.

Có một kinh sư thấy Chúa Giêsu trả lời nhóm người Xa đốc về việc kẻ chết sống lại một cách chí lý, rành mạch, thì ông rất khâm phục. Ông đến gần Chúa Giêsu và hỏi Người về một vấn đề căn bản nhất, quan trọng nhất của lề luật. Có lẽ ông đã thắc mắc, suy nghĩ từ lâu về vấn đề này mà chưa giải đáp được. Ông là kinh sư, là người chuyên tâm nghiên cứu Thánh Kinh và lề luật để hướng dẫn cho dân chúng làm theo, mà ông lại đi hỏi Chúa Giêsu về lề luật, chứng tỏ ông là người có thiện chí học hỏi, khiêm tốn và rất tôn trọng Chúa Giêsu, tin tưởng Người có khả năng giúp ông giải đáp những ưu tư của ông.

Chắc chắn Chúa Giêsu cũng đã nhận ra thái độ chân thành của ông kinh sư. Vì vậy Chúa Giêsu đã rất trang trọng khi trả lời ông.

Cựu Ước mặc khải hai điều răn trong hai sách, “Mến Chúa” (Đnl 6,4-5) và “yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã liên kết cả hai lại. Điều này làm ông kinh sư và những người Do Thái dễ chấp nhận, dễ nắm bắt hơn vì họ đã quen thuộc Cựu ước.

Trước hết Chúa Giêsu trích sách Đệ nhị luật, nhắc lại lời ông Mô sê căn dặn dân Israel khi họ sắp vào Đất Hứa : “Điều răn đứng đầu là : Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.

Tiếp theo Chúa Giêsu dẫn đến sách Lê vi : Điều răn thứ hai là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” Người dùng hai điều luật đã có sẵn trong Cựu ước, gom lại thành một và kết luận đó là điều luật quan trọng nhất, lớn nhất.

Người kinh sư phải rất sung sướng khi nghe Chúa Giêsu trả lời, ông đã thốt lên khen ngợi Người. Ông so sánh điều Chúa Giêsu đưa ra còn quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.

Chúa Giêsu cũng ghi nhận sự khôn ngoan của ông kinh sư nên Người bảo : “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu !”

Người kinh sư này là ai ? Không thấy tác giả Máccô nêu tên, nhưng chắc chắn ông phải là người có uy tín và được tôn trọng, vì sau khi ông công nhận điều Chúa Giêsu nói là rất hay, rất đúng, thì : không ai dám chất vấn Người nữa”. Những người lãnh đạo Do Thái cũng chấm dứt việc đến tranh luận để thử và gài bẫy Chúa Giêsu.

Tình yêu là nền tảng của đời sống đạo. Lời của Chúa Giêsu khẳng định với ông kinh sư Israel xưa về giới răn quan trọng nhất : “Yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình”. Điều này phải là tâm niệm hàng đầu cho mọi Kitô hữu của mọi thời đại. Tình yêu bắt nguồn từ Tính yêu của Thiên Chúa nên sẽ vô tận, vì Thiên Chúa đã yêu loài người như thế.

Một người muốn yêu Chúa trước hết phải nhận ra thân phận mỏng dòn, yếu đuối và tội lỗi của mình. Khiêm nhường mở lòng ra đón nhận Lời Chúa và cảm tạ những hồng ân Ngài ban. Yêu Chúa là tuân giữ Lời Chúa và sẽ luôn được Thiên Chúa ở cùng : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy (Ga 14,23). Vì vậy Yêu Chúa luôn là yêu người. Yêu Chúa mà không yêu người thì chắc chắn chưa yêu Chúa, hoặc yêu Chúa chưa đủ như Chúa mong đợi.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đã bước vào tháng cầu cho các linh hồn. Chúa đã nhắc nhở chúng con phải luôn tỉnh thức, sẵn sàng đón thời điểm cuối cùng trong đời của chúng con. Xin Chúa giúp chúng con luôn yêu Chúa và yêu người bằng cách luôn phụng sự Chúa trong mọi người, để khi Chúa gọi, chúng con được về quê Trời ngay với Chúa. Amen.

Jos. NM Tưởng 

Đức Chúa duy nhất

Trong lịch sử nhân loại, các dân tộc qua biết bao thời kỳ có quá nhiều các tín ngưỡng, con người với sự thúc đẩy và giúp đỡ của Xa-tan xây dựng cho mình vô số các vị thần. Có những hình tượng thần linh đến nhảm nhí mà người ta vẫn tin tưởng và thờ cúng. Ví dụ: thờ ông táo (bếp lò để nấu), gốc đa, con bò, con cóc v.v… và vô tình hay hữu ý họ thờ cả chính mình.

Tôn thờ Đức Chúa độc nhất chỉ xuất hiện cách riêng trong lịch sử niềm tin của dân Ít-ra-en. Một dân tộc đã tôn thờ cách nổi trội Đức Chúa – một Đấng thiêng liêng và họ tin rằng đó là Thiên Chúa duy nhất – độc tôn, Thần trên tất cả các thần, Chúa trên tất cả các chúa. Sách Đệ Nhị Luật tường thuật sự kiện này, khẳng định lại một đức tin đang mờ dần trong tâm thức những người tin ở thời nay “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất.” Bây giờ, sau mạc khải Tân ước, cộng hưởng vào đức tin của dân Ít-ra-en, chúng ta có Đức Chúa duy nhất độc tôn ấy đã nhập thể làm Người, và nhập thế ở giữa con người. Mầu nhiệm này đã làm ngày sa-bát thăng hoa thành ngày Chúa Nhật.

Nhập thể và nhập thế là chặng đường mà Đức Giê-su Ki-tô đã đến với nhân loại. Với ba mươi ba năm sống ở nhân gian, Người đã dành ba năm rao giảng về Nước Thiên Chúa, làm vô số những dấu lạ điềm thiêng hầu chứng minh Người thật sự là Đấng Thần Nhân. Đấng duy nhất băng qua đau khổ, cái chết rồi phục sinh, xứng đáng “được nâng cao vượt các tầng trờiỞ bài đọc hai thánh Phao-lô khẳng định cách hùng hồn.

Vượt qua cuộc hiến tế trên đồi Can-vê, Chúa Giê-su trở thành một vị Thượng Tế thập toàn miên viễn toàn thắng và vinh quang ngự bên hữu Thiên Chúa. Người xứng đáng làm Chủ Tể muôn loài, cũng bởi Người là vị Thượng Tế duy nhất dám dâng chính mình làm của lễ hiến tế đền tội cho muôn dân. Bởi thế, Đức Chúa độc nhất, quyền uy và cao cả vượt thời gian đã, đang và mãi mãi ở nơi Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể mang tên gọi: Giê-su, và danh xưng của Người là Chúa. Giới răn “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” hướng trọn vẹn về Chúa Giê-su, vị Thượng Tế băng qua các tầng trời. Đấng là Thiên Chúa nhưng đã làm người nên thấu hiểu hết về con người, trải qua tất cả cảm xúc của phận người, sống trọn vẹn một kiếp người cho đến hơi thở tàn trên Thập Giá. Đấng ấy yêu dấu chúng ta, hy sinh tất cả vì chúng ta, cho dù sự sống hay máu thịt của Người, Người cũng không tiếc tặng ban cho chúng ta. Tình yêu thương xót cao cả ấy nối kết chúng ta với Người bằng giới răn thứ nhất “kính Chúa trên hết mọi sự”. Giới răn này trở thành mối dây huyền diệu kết nối sống động chúng ta với Thiên Chúa. Những ai sống tích cực giới răn thứ nhất sẽ được thánh hóa và biến đổi cách thần kỳ con người mình, được Chúa làm cho nên công chính và được sống thân mật với Người.

Một kẻ ngoại đạo mang quá khứ xấu xa, một tên du đãng tội lỗi nhưng sau khi trở lại với Người, vẫn được Thiên Chúa ở cùng mọi ngày đời mình. Đây là một thực tại vừa tự nhiên, vừa siêu nhiên, cho thấy Thiên Chúa Ba Ngôi thương xót chúng ta là ngần nào. Người luôn song hành và ở bên cạnh chúng ta, với những ai Người yêu dấu, mật thiết hơn còn ở nơi chính họ nữa. Sự thân mật này đưa chúng ta vào ân phúc vô cùng lớn, thật cao trọng, hạnh phúc ngập tràn và vinh sáng thiên thu. Để được như thế, hành trình thập giá thử luyện chúng ta được đưa lên tầng cao ân sủng, vượt lên nhịp sống đức tin bình thường. Vì vậy, thử thách càng khủng khiếp, thì hạnh phúc và vinh quang bù lại càng cao trọng và vinh dự khôn tả. Miễn là chúng ta trung tín giữ luật của Người, đừng có vừa thờ lạy Người, gọi người là Chúa, là Cha, rồi cứ vồ vập  quay lại cắn xé, giày đạp, tra tấn và sỉ nhục Người bằng tội lỗi của chúng ta. Nhất là chai lì trong việc phạm tội trọng, một lúc thỏa mãn dục vọng đê hèn lại đẩy chúng ta tới chỗ biến mình từ địa vị con Thiên Chúa, trở nên tệ hại hơn cả thú vật, phản bội và đánh giết Chúa và là Cha của chúng ta. Rồi còn biện minh duy trì cuộc sống dịp tội đó bằng nhiều lý lẽ phàm tục, cho mình lý do để được làm chúa của chính mình. Làm như vậy là tự giăng ra những sợi dây trói buộc linh hồn mình trong tội và trong cả dịp tội. Con trai, con gái của bố hãy quay về với Thiên Chúa và đừng phạm tội nữa!

Hãy tránh xa luôn cả dịp tội!

Tình Yêu Hoa Cỏ

Mục lục

1. .Mến Chúa yêu người (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Giới luật và Bí tích (Jorathe Nắng Tím)

3. Điều răn trọng nhất (Lm. Thái Nguyên)

4. Đừng đẩy Chúa vào một góc trong trái tim (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.TĐ)

5. Điều cốt lõi  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Mến Chúa yêu người- (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Tóm về hai điều này mà nhớ (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Chúa duy nhất, Luật bất biến  (Trầm Thiên Thu)

9. Yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa  (Giuse Hoàng Thanh Phong, SJ)

10. Hết cả trí khôn  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

11. Điều răn mới  (Lm. Vũ Đình Tường)

12. Yêu mến  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

13. Mùa nào cũng yêu (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

14. Điều răn đứng đầu (Én Nhỏ)

Bài hát và suy niệm (Chúa Nhật Tuần XXXI Thường Niên năm B – 31.10.2021)

MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Khi nói đến giới răn hay huấn lệnh là nói đến sự bó buộc. Quả vậy, một huấn lệnh thường mang nội dung yêu cầu phải làm hoặc cấm làm một điều gì đó. Như thế, phải chăng kính mến Chúa là một điều buộc? Nếu coi việc kính mến Chúa là một điều buộc, thì chẳng còn phải là một tình yêu tự nguyện, mà khi không xuất phát từ tự nguyện, thì chẳng còn phải là tình yêu, hay có chăng thì đó chỉ là tình yêu gượng ép.

Bài đọc thứ nhất (sách Đệ nhị Luật) và bài Tin Mừng theo thánh Máccô hôm nay nói với chúng ta về các huấn lệnh. Trong số các huấn lệnh của Thiên Chúa thời Cựu ước, ông Môisen đã nhấn mạnh tới một lệnh truyền căn bản: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái, cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài”. Những lời trên đây thực ra không phải là một điều áp đặt. Đây là những lời đề nghị hay một lời mời gọi, kèm theo lời hứa cho một tương lai tốt lành. Người tin Chúa không bị ép buộc, nhưng khôn ngoan suy nghĩ để lựa chọn và quyết định: nếu yêu mến Chúa và tôn kính Ngài, thì họ sẽ được Chúa chúc lành cho trong mọi ngày của đời sống dương thế, được trường thọ và hạnh phúc. Tác giả Thánh vịnh 17 (Phần Đáp ca) cũng diễn tả lý do yêu mến Chúa, là vì Ngài là sơn động cho ta trú ẩn. Ngài là đá tảng, là chiến luỹ và là vị cứu tinh đối với những ai cậy trông phó thác nơi Ngài.

Hỡi Israen, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy, anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em đã phán với anh em”. Qua những lời này, ông Môisen muốn khẳng định với những người Do Thái: những mệnh lệnh Chúa truyền dạy không thể chỉ được lắng nghe, nhưng phải được thực hành. Một số người Do Thái đạo đức quá chú trọng đến tuân giữ Lề luật một cách tỉ mỉ, mà lại lãng quên việc thực thi tinh thần của Lề luật. Vì vậy, Chúa đã khiển trách họ: “Dân này chỉ tôn kính Ta bằng môi bằng mép, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6). Thực hành lời Chúa dạy là bảo đảm cho chúng ta được hạnh phúc đời này và đời sau. Lời hứa miền đất tràn trề sữa và mật, trong truyền thống Do Thái, là niềm hy vọng nuôi dưỡng niềm tin của dân riêng Chúa đã chọn. Đối với người Kitô hữu, đó chính là hạnh phúc đời đời Thiên Chúa ban cho những ai thực thi lòng mến Chúa yêu người.

Thực ra mến Chúa yêu người không phải là hai giới răn tách biệt, nhưng là một giới răn duy nhất, như hai mặt của một tấm huy chương. Lòng mến Chúa phải được chứng minh bằng việc yêu người. Tình mến mọi người phải được dựa trên nền tảng lòng mến Chúa, vì đó là lòng mến vô vị lợi, không dựa trên những tiêu chuẩn trần gian, không phân biệt và không biên giới. Thánh Gioan đã khẳng định với chúng ta: ai nói mến Chúa mà không thực hành đức thương yêu với tha nhân thì là kẻ nói dối, vì tha nhân là những người nhìn thấy mà họ không thương yêu, thì làm sao họ mến Đấng mà họ không nhìn thấy?  (x. 1 Ga 4,20).

Người tín hữu có một mẫu gương về lòng mến hoàn hảo, đó là Đức Giêsu Kitô. Người là vị tư tế thánh thiện, vô tội tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời. Trên cây thập giá Đức Giêsu đã minh chứng tình mến đối với Chúa Cha và tình mến đối với nhân loại. Tác giả thư gửi tín hữu Hípri đã chứng minh Chúa Giêsu là vị tư tế tối cao. Ngày hôm nay, vị Tư tế đó vẫn đang chuyển cầu cho chúng ta (Bài đọc II).

Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng”. Đây là lời kinh mà những người Do Thái đạo đức phải tụng mỗi ngày, để rồi lời ấy vang lên trong mọi giây phút của cuộc sống. Lời ấy cũng là động lực chi phối mọi lời nói, hành vi và ý tưởng của những ai muốn tuân giữ lề luật. Đây cũng là câu Lời Chúa được chọn để đọc trong giờ Kinh Phụng vụ vào tối thứ Bảy hằng tuần. Xin cho lời kinh ấy luôn vang vọng trong tâm trí và cuộc đời chúng ta, để khởi đi từ lòng mến Chúa, chúng ta sẽ thực thi đức yêu người.

Hôm nay là ngày vọng lễ Các Thánh. Các thánh là những người mến Chúa yêu người. Các ngài đã trải qua nhiều gian nan thử thách, nhưng vẫn một lòng tín trung. Có nhiều vị thà hy sinh mạng sống còn hơn là bỏ Đạo. Có nhiều vị chấp nhận một cuộc sống trầm lặng trong suy tư cầu nguyện. Có nhiều vị thánh đã trải qua một cuộc sống rất đơn sơ bình dị, như một người cha, một người mẹ trong gia đình, một công dân của xã hội, một người phong lưu hoặc một người nghèo khó. Tất cả các thánh đều có một điểm chung: đó là lòng mến Chúa yêu người. Thánh Phaolô đã khẳng định: Ai yêu thương, thì đã chu toàn lề luật (Rm 13,8b). Nên thánh chính là thực thi giới răn mến Chúa yêu người.

Lạy Chúa là nguồn mạch sự thánh thiện, xin che chở nâng đỡ chúng con trong hành trình cuộc đời, cũng là hành trình nên thánh. Amen.

 

GIỚI LUẬT VÀ BÍ TÍCH

Jorathe Nắng Tím

Khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giêsu không chỉ ban một lệnh truyền mang tính luân lý khi phán: Dạy bảo họ  “tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền” nhưng còn ban chính mình như Bí Tích Tình Yêu khi dặn dò: “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…  Và Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19.20).

Lệnh truyền Đức Giêsu ban là “Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”, và “yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,29.30).

Thánh Gioan quảng diễn giới luật yêu thương này trong thư của Ngài: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa”, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”. Vậy “ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 20.21).

Nhưng nếu dừng lại ở phạm trù giới luật, thì Tình Yêu sẽ chỉ là đòi hỏi của luân lý, và thuần túy là nghĩa vụ của con người tự nhiên, như chúng ta thường nói: “làm người thì phải ăn ngay ở lành”. Và vì là đòi hỏi nền tảng của con người tự nhiên, nên các tôn giáo đều có chung đòi hỏi tín đồ, giáo hữu phải sống giới luật “làm người ngay lành, lương thiện”. Đây là lý do đã dẫn đến kết luận : đạo nào cũng như đạo nào, vì tất cả đều dậy ăn ngay ở lành.

Đức Giêsu đã truyền dạy giới luật tình yêu, nhưng giới luật Ngài ban không bắt nguồn từ bản tính con người, nhưng từ Ngài; không lớn lên nhờ có gắng sống tốt của con người, nhưng nhờ sức sống của chính Ngài. Và để thực hiện điều này, nghiã là “nâng tầm” giới luật lên hàng bí tích, nâng đòi hỏi luân lý lên hàng siêu nhiên, nâng việc làm tự nhiên lên hàng thánh thiêng, Đức Giêsu đã sai các môn đệ “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19).

Làm phép rửa cho muôn dân là làm cho muôn dân đi vào đời sống bí tích, nghĩa là làm cho mọi người đi vào hiệp thông, hiệp nhất với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, như Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân – Lumen Gentium của Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định về yếu tính của Giáo Hội: “Giáo Hội ở trong Đức Kitô như bí tích hoặc dấu chí và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể” (LG 1) – Bản dịch Việt ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X).

Tại sao Phép Rửa như bí tích của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và với nhân loại?

Thưa, vì Bí Tích Rửa Tội ban cho chúng ta ơn trở nên con Thiên Chúa. Được rửa tội trong Đức Giêsu, tức là “được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giêsu”. Và được dìm vào nước thanh tẩy chính là “được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đuợc sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6, 3-4). Đời sống mới ấy là  đời sống làm con Thiên Chúa, nên khi chịu phép rửa,  Chúa Cha cũng  nói với mỗi người chúng ta như đã nói với Đức Giêsu, khi Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22).

Bí tích Rửa Tội như thế đã làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa, mà đã là con thì yêu mến, hiếu thảo với Cha không còn là bổn phận nhưng là niềm hạnh phúc, nỗi khát khao.

Bí tích Rửa Tội không chỉ làm cho chúng ta được trở nên con Thiên Chúa, nhưng cùng lúc cho chúng ta trở nên anh em với mọi người. Đây là điểm chúng ta dễ lãng quên, vì không mấy quan tâm, trong khi lại là điều Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh và nhắc nhở trong Tin Mừng. Do đó, tình yêu dành cho Thiên Chúa sẽ chỉ có giá trị và ý nghĩa nếu chúng ta cũng yêu thương anh chị em mình, như hạnh phúc chúng ta khao khát tìm kiếm, mà không như một lề luật nặng nề, trói buộc.

Như kinh sư trong Tin Mừng hôm nay đã được Đức Giêsu  khuyến khích: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu” (Mc 12,34),  xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để yêu mến Chúa và yêu mến mọi người, mà hành động yêu mến cao quý, đẹp lòng Chúa hơn cả chính là “dâng lễ tế hy sinh, trước là đền tội của mình”, để tỏ lòng yêu mến Chúa, và “sau là để đền thay cho người khác” (Dt 7,27), để thực hiện ước muốn yêu thương, phục vụ tha nhân như Chúa dạy.

 

ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến. Trước tiên là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực, vì Ngài là căn cội và cùng đích của đời sống con người. Tình yêu không thể nài ép mà là nhận ra và đáp trả. Chính sự đáp trả này làm cho con người là người, là con cái của Thiên Chúa và là anh em với nhau. Vì vậy, điều răn đứng đầu gắn liền với điều răn thứ hai:“Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Chính trong Chúa, ta nhận ra phẩm giá đích thực của một con người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí. Chỉ trong Chúa, ta mới yêu thương đến cùng, vì nhận ra mỗi người là hình ảnh của Ðức Kitô đang sống.

Có một người kia sau khi ăn chay 70 tuần, thì xin Chúa cho mình hiểu ý nghĩa vài câu trong Kinh Thánh, nhưng Chúa không trả lời. Cuối cùng, người đó phải tìm đến với người anh em để xin giải thích. Khi người đó lên đường, Chúa gửi một thiên thần xuống nhắn nhủ rằng:“Bảy mươi tuần ăn chay của con cũng không làm cho con đến gần Chúa. Nhưng bây giờ con có lòng khiêm tốn đến với người anh em, nên ta được Chúa gởi đến để nói cho con ý nghĩa các lời thánh”.

Nhân danh lòng tin vào Chúa mà không mở lòng mình ra với tha nhân, phải chăng là một thứ kiêu ngạo thiêng liêng? Đó không phải là tin vào Chúa mà là tin vào sự thánh thiện của mình. Tiếng nói của Chúa trong ta không phải là tiếng nói duy nhất của Ngài, mà Ngài còn nói với ta qua sự khôn ngoan và nhãn quan thiêng liêng của người khác. Ta cần mở lòng ra để đón nhận những tư duy mới, các khả năng mới như một cách thức của Lời Chúa. Khép kín với bất cứ một cái gì, hay bất cứ ai, là khép kín khả năng có thể tái sinh chính mình.

Luật thánh Bênêđictô dạy, khi có ai gõ cửa thì phải nói: “Benedicite”, có nghĩa sâu xa rằng: cảm tạ Chúa vì có người đến làm phong phú lương tri của con, chỉ dẫn con cách suy nghĩ, cách sống, và làm cho con vượt ra khỏi thế giới chật hẹp của mình. Mỗi ngày ta cần mở lòng để đón tiếp một kinh nghiệm mới, một tư duy mới, một cái gì đó nơi người khác để khai sáng trí não mình.

Cũng có một giai thoại khác kể rằng, đêm nọ xuyên qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy thiên thần đang ngồi ghi tên những ai yêu mến Chúa vào cuốn sách vàng. Ông hỏi thử xem có tên mình không. Thiên thần giở ra nhưng không thấy. Ông nài nỉ thiên thần: “Xin Ngài ghi tên tôi là người lúc nào cũng yêu mến tha nhân”. Thiên thần cũng chiều ý ông, thế là tên ông được ghi vào sổ vàng. Tối hôm sau, giữa ánh trăng sáng, thiên thần lại hiện ra và mở cuốn sổ vàng cho vị tu sĩ xem. Lần này, ông thấy tên của mình dẫn đầu trong danh sách những người yêu mến Chúa. Sau khi vị tu sĩ già qua đời, các anh em trong tu viện xem lại nhật ký của ông, thấy câu đầu tiên là câu trích dẫn từ thư 1Ga 4, 20: “Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”. Tiếp theo, ông ghi chú như sau: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt khỏi tầm tay tôi. Tôi đi tìm người anh em tôi, tôi đã gặp Chúa và linh hồn tôi”.

Ta không thể gặp gỡ và yêu mến Thiên Chúa trong tâm tưởng hay trong ước muốn, mà là nơi chính tha nhân, nơi những hành động cụ thể trong những tương quan hằng ngày. Thiên Chúa và tha nhân hòa hợp làm một trong cõi lòng ta. Ta yêu tha nhân trong Chúa, và yêu Chúa nơi tha nhân. Cầu nguyện là đặt mình trong Chúa để có thể yêu tha nhân như chính mình. Tình yêu với Thiên Chúa đưa ta vào cuộc sống với anh em. Tình yêu thương anh em đòi ta chìm sâu trong Thiên Chúa, để kín múc nguồn sinh lực hầu tiếp tục hiến trao. Cuối cùng tình yêu ấy lại quay trở về với Thiên Chúa như cùng đích tối hậu của nó, và như vậy phát sinh sự “hợp nhất” toàn hảo, mà Đức Kitô đã ao ước thực hiện giữa Thiên Chúa với chính Ngài và các kẻ tin (Ga 17, 21). Đẹp biết bao vương quốc của Thiên Chúa, nơi chỉ có tình yêu chiếu rạng ngời, dành cho tất cả những ai đã một đời phấn đấu để hiến dâng.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Yêu Chúa lúc bình thường thì không khó,
nhưng yêu khi đời sóng gió thì không dễ,
nhất là khi gặp khốn khó ê chề,
khi sa cơ thất thế trở về tay không.

Nhưng con vẫn cứ cậy trông và hy vọng,
vì tin Chúa hằng khơi sâu mở rộng,
bằng ân ban và sự sống của Ngài.

Yêu mến Chúa xem ra là điều dễ,
vì dù sao Ngài cũng vẫn là tình yêu,
yêu tha nhân như chính mình mới khó,
nhất là khi bị phủ nhận khinh chê,
khi bị xử bất công, loại trừ và thay thế,
đó là những lúc con đau buồn vô kể,
nỗi thù hằn như khống chế tim con.

Nhưng khi bình tâm suy nghĩ lại,
con thấy những tổn thương cũng rất cần,
để con có kinh nghiệm sống tình thân,
vì nhiều lần con cũng xử vô nhân.

Tình yêu luôn mang tính hỗ tương,
cả trong đau thương và hạnh phúc,
nên yêu thương mà không chịu đau thương,
thì cuộc đời con quả là ảo tưởng.

Chúa đã sống tất cả mọi tình trường,
muốn cho con nhìn ngắm để noi gương,
trong an vui khiêm nhường mà tiến bước,
vì đời con là nhân chứng của tình thương.

Xin cho con sống con người mới,
bằng tình yêu mà Chúa đã gọi mời,
để bừng lên ánh sáng ở mọi nơi,
là tình yêu hợp nhất đến muôn đời. Amen.

 

ĐỪNG ĐẨY CHÚA VÀO MỘT GÓC TRONG TRÁI TIM

Bông hồng nhỏ

Để vào được Nước Thiên Chúa, chúng ta cần phải làm gì? Hôm nay, Thầy Giêsu dạy chúng ta cần phải sống hai điều cốt yếu, đó là sống hai điều răn đứng đầu: Mến Chúa và yêu người. Khi có một người kinh sư lên tiếng hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12, 29), Người đã dõng dạc tuyên bố: “Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12,30-31). Người kinh sư đã tấm tắc khen điều Thầy dạy thật hay và chí lý. Người bảo ông ta: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12, 34).

Trên một chuyến xe, một nhà thơ hỏi các anh chị em đi cùng: “Theo các bạn, để tốt nghiệp trường của Thầy Giêsu, chúng ta cần đạt mấy điểm? Mỗi người trả lời theo cách hiểu của mình. Bấy giờ, nhà thơ trả lời: “Chúng ta chỉ cần đạt hai điểm thôi, đó là mến Chúa và yêu người”. Cả xe bỗng rơi vào thinh lặng trước câu trả lời của nhà thơ. Có lẽ ai cũng đang trở về lòng mình, lắng nghe tiếng vọng của trái tim.

Từ tấm bé, ta đã được học kinh Mười Điều Răn, và Mười Điều Răn ấy tóm về hai điều này là mến Chúa và yêu người. Ta đọc lời kinh đọc trên môi miệng hằng ngày, tâm trí hiểu điều Chúa dạy nhưng nhìn thật sâu vào lòng, ta nhận ra mình chưa yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; chưa yêu người thân cận như chính mình. Sống lời Chúa là một thách đố, bởi Lời Chúa luôn đặt ta trong những chọn lựa: chọn chấp nhận bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa hay chọn chiều theo ý muốn của bản thân; nghĩa là chọn đi trên con đường hẹp dẫn đến sự sống hay chọn đi trên con đường thênh thang, đường đưa tới chỗ diệt vong. Mỗi lần chọn bước đi trên đường hẹp, ta thấy mình được lớn lên trong tình yêu, trái tim của ta được triển nở và mở rộng hơn để đến với người khác. Mỗi lần ta vượt qua được một chướng ngại, bỏ đi được một rào cản trong suy nghĩ, thay đổi cách hành xử với người khác, ta đã biết dùng tình yêu thương để đến với họ. Thế nhưng, cũng không ít lần, ta không yêu người khác như Chúa mời gọi, bởi vì ta chưa để Chúa làm chủ đời sống và con người mình. Thánh nữ Têrêsa Giêsu đã từng nói rằng, ta không thể chắc chắn việc mình yêu Chúa nhưng ta có thể biết chắc mình có yêu anh chị em hay không. Thánh Gioan Tông đồ cũng khẳng định rằng, ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu thương người anh chị em bên cạnh mình, đó là kẻ nói dối. Hiểu lời Chúa dạy là một hồng ân Chúa ban, ta hãy xin ơn biết sống lời Chúa dạy trong từng ngày. Bởi, việc sống lời kinh ấy cần phải được diễn tả từ trong suy nghĩ đến hành động. Nếu ta luôn để cho lời của Chúa vang lên trong lòng, ta sẽ nuôi dưỡng ước muốn sống lời của Chúa. Khi ta suy nghĩ tích cực về người khác, ta sẽ dễ yêu thương họ hơn. Khi tâm trí ta luôn quy hướng về Chúa, ta sẽ sống trong sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, Người sẽ ban ơn trợ lực giúp ta có đủ sức mạnh để sống yêu thương.

Mỗi lần tham dự thánh lễ, ta được đón Chúa Giêsu Thánh Thể ngự vào lòng, ta mang Chúa đến với những người khác, ta trở nên một món quà tuyệt vời cho người khác, vì món quà ấy là chính Chúa Giêsu đang sống trong ta. Hãy nhìn lại nhé, lần đầu được rước lễ, ta đã làm gì? Ta đã rất hạnh phúc và bằng sự đơn sơ, ta trở về nhà với ý nghĩ tôi đang mang theo Chúa Giêsu trong lòng. Gặp ai ta cũng thấy họ thật dễ thương, ta cố gắng sống thật hiếu thảo, thật dễ thương với tất cả mọi người. Nhìn ai, ta cũng thấy nụ cười của Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu đang ở cùng ta. Người làm cho ánh mắt ta nên trong sáng hơn, để ta sống với mọi người bằng cả trái tim. Thời gian dần trôi, tâm trí ta đã dành chỗ cho nhiều điều khác ngoài Chúa: học vấn, của cải, danh vọng, … Cái tôi của ta cũng được nuôi lớn tự bao giờ! Ta cũng đón rước Chúa nhưng dường như ta loay hoay bận tâm đến chính bản thân ta thật nhiều và quên mất Chúa đã ở trong ta. Đức Thánh cha Phanxicô đã từng nói trong một bài giảng của mình rằng: chúng ta đã đẩy Chúa vào một góc của trái tim. Thật đúng như thế, đã bao lần ta đã đẩy Chúa vào một góc của trái tim và chỉ sống điều mình muốn và rồi ta đau đớn. Cuộc sống của ta không phải để sống theo bản năng là làm điều mình muốn và muốn điều tốt nhất cho mình theo lẽ tự nhiên nhưng là dành điều tốt nhất cho Chúa, chỗ duy nhất cho Chúa: “Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Hãy quay lại con đường hẹp, trở về với Chúa để thấy mình cần Chúa biết bao. Sống Lời Chúa thật khó nếu như ta không đủ khiêm tốn bỏ mình để trở về bên Chúa, nhưng bằng sự khiêm tốn và với sức mạnh tình yêu của Chúa, mọi sự ta làm trong tình yêu lại trở nên thật đơn giản.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã yêu con và không ngừng dạy con biết sống mến Chúa và yêu người. Chúa đã chỉ cho con thấy tình trạng tội lỗi của mình. Chúa vẫn yêu con, dù con đã bao lần đẩy Chúa vào một góc của trái tim và quên lãng Chúa. Xin Chúa thứ tha và xót thương con, cùng khơi lên trong con ngọn lửa yêu mến Chúa và giúp con sống lời Chúa dạy. Amen.

 

ĐIỀU CỐT LÕI

Thiên San

“Điều răn đứng hàng đầu là: Nghe đây, hỡi Itraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 29-31). Đó là câu trả lời của Đức Giêsu dành cho ông kinh sư cũng như cho mỗi người chúng ta. Hai điều răn ấy làm nên điều cốt lõi của đạo Chúa – đạo yêu thương.

Muôn vàn lề luật được đặt ra nhằm phục vụ lợi ích, hạnh phúc cho con người. Có những lề luật giúp con người hướng đến Thiên Chúa, cũng có những lề luật giúp con người hướng đến tha nhân, đến chính mình và đến tạo vật, môi trường. Trong muôn vàn lề luật ấy, có một thứ luật được gọi là cốt lõi, là tâm điểm, là điều quan trọng nhất: mến Chúa yêu người. Thật vậy, luật được đặt ra là để cho con người, nhắm đến con người. Trong điều răn mến Chúa, con người được mời gọi dành cho Thiên Chúa một chỗ đứng quan trọng nhất, cao cả nhất trong cuộc đời mình đến độ ta phải yêu mến Người hết lòng, hết cả linh hồn, trí khôn, và sức lực của ta. Thực ra, Thiên Chúa không cần đến lời ca tụng của chúng ta nhưng chính việc yêu mến, tôn thờ, ca tụng của ta mang lại ích lớn lao cho chúng ta như lời kinh tiền tụng trong Thánh lễ có nói.

Đức Giêsu không dừng lại ở chính mình nhưng Ngài còn mời gọi chúng ta hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Đây là điều răn không kém phần quan trọng. Có thể nói, điều răn này là cửa ngõ giúp chúng ta tiến vào tương quan với Thiên Chúa cách cụ thể và sâu sắc hơn. Như thánh Gioan Tông đồ đã từng khẳng định: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4, 20). Lại nữa, vì mỗi người là hình ảnh sống động của Thiên Chúa. Khi yêu mến tha nhân là ta đang yêu mến Thiên Chúa. Đức Giêsu mời gọi chúng ta “yêu người thân cận như chính mình”. “Như chính mình” nghĩ là yêu mình thế nào thì yêu tha nhân làm vậy. Nhưng có một bài toán tương đối khó đó là chúng ta phải biết yêu thương mình đúng cách để có thể yêu thương tha nhân đúng cách.

Để giải quyết bài toán “yêu tha nhân như chính mình”, chúng ta hãy hướng tình yêu của mình về Thiên Chúa. Nghĩa là ta yêu mến Thiên Chúa như Thiên Chúa dạy và nhất là yêu thương nhau như chính Chúa đã yêu thương chúng ta. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34 ). Chỉ khi nào thực sự cảm nhận, đụng chạm đến tình yêu Thiên Chúa dành cho mình, thấy Ngài yêu ta như thế nào thì ta mới có thể họa lại cách yêu của Chúa. Khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta học được cách để yêu thương chính mình và yêu thương tha nhân. Bởi đó, không thể nói yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu mến tha nhân. Mến Chúa yêu người luôn đi đôi, không tách rời. Đó là hai bàn chân của ta trong cuộc đời. Để bước đi trọn vẹn trên đường đời, ta cần cả hai chân, nhấc từng chân một, chân này làm điểm tựa cho chân kia. “Chân mến Chúa” và “chân yêu người” giúp ta nên con cái Chúa. Nếu muốn bước đi, chúng ta hãy sống hai giới răn trọng nhất này. Đó là điều cốt lõi của đạo Chúa – đạo yêu thương.

 

MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI-

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Người Do thái có 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kể các điều luật phụ nữa. Vị tiến sĩ luật này đã biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm… thì bị tử hình. Vì là tiến sĩ luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất ?”

1. Hai Điều răn

Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi  là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bẫy của họ.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị tiến sĩ luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta có được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi” (Mc 12). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.

Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: “ Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mt 22, 39). Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.

2. Ba đối tượng yêu thương

Chúa Giêsu kết luận: “Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (Mt 22, 38). Điều răn thì có: thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương: Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.

Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” (Mt 22, 37-38).

Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi “yêu mến là chu toàn cả Lề luật” (Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác… Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; nhưng “yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy? Vì Thiên Chúa “là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta “ (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết, mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì: “Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất” (Mt 22, 38).

Đối tượng thứ hai là “kẻ khác” Chúa phán: “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Mt 22, 39).

Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì “tha nhân” là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18).  Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật “hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi“, Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào? “Yêu như chính mình ngươi”.

Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không? Thưa: Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình. Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.

3. Yêu kẻ khác như chính mình

Khi truyền dạy “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình”, Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu “kẻ khác” hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu ” kẻ khác ” như “mệnh lệnh của Người,” mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. “Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.

Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của sự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những “việc làm” như bác ái, hay “phải làm” cho kẻ khác như: cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là kết quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.

Thánh Phaolô nói rõ: Đức bác ái phải là “không giả vờ,” tức là, phải chân thật, nghĩa đen, “không giả hình,” (Rm 12, 9); người ta phải yêu “với một con tim trong sạch” (1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính líu gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.

“Như chính mình” Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.

 

TÓM VỀ HAI ĐIỀU NÀY MÀ NHỚ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Kinh Mười Điều Răn có câu kết: “Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự; Sau lại yêu người như mình ta vậy.Amen“.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc trao đổi giữa nhóm tiến sĩ luật và Chúa Giêsu về hai điều răn trong Cựu Ước như sau:

Khi một người thông luật hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”. Chúa Giêsu trả lời: “Giới răn quan trọng nhất chính là: Thiên Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn ấy”. Ông kinh sư hoàn toàn đồng ý với Người và còn thêm lời bình: “Đó là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Chúa Giêsu được một lần sảng khoái vì gặp một ông kinh sư thân thiện với mình, Người khích lệ: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”. Tại sao lại không còn xa? Bởi vì, Nước Thiên Chúa là chính Chúa Giêsu đang ở trước mặt ông!

Chúa Giêsu kết hợp hai điều răn trong Cựu Ước (Đnl 6,4-5 và Lv 19,18) thành một điều răn duy nhất là Yêu Thương. Chúa Giêsu đã nối kết giới răn mến Chúa trong kinh Shema ở sách Đệ nhị luật với giới răn yêu thương người thân cận trong sách Lêvi.Cái độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giêsu chính là sự liên kết chặt chẽ hai giới luật này với nhau.

“Mến Chúa, yêu người” là nét độc đáo nhất của Kitô giáo. Hai giới luật tạo thành một toàn thể bất khả phân ly và là hai nguyên lý nền tảng của tất cả đạo đức học. Tin Mừng của Chúa Giêsu muốn loan truyền đến mọi người là tình yêu thương. Khi công bố giới luật yêu thương, Chúa Giêsu cũng nêu gương thực hiện giới luật ấy để chúng ta thấy sáng lên tình yêu cứu độ và gặp được những điểm nhấn mà bắt chước thực hành.

  1. Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.

Thiên Chúa là chủ tể trời đất. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống và là cùng đích của muôn loài muôn vật.

Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái. Cho nên người tín hữu yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Thiên Chúa là quan trọng nhất của con người.

Thực tế ở đời có rất nhiều điều quan trọng, tuỳ ở hoàn cảnh và tuỳ ở từng người. Nhưng nếu điều gì cũng quan trọng nhất thì cuối cùng chẳng có gì là nhất cả, mọi sự đều tương đối. Mọi sự đều tương đối, nhưng mọi sự đều quan trọng, kể cả niềm tin tôn giáo, kể cả Chúa. Đó là não trạng của con người thời nay, là cám dỗ của thời đại.

Người tin Chúa và theo Chúa, cũng có người nghĩ như vậy: tiền quan trọng, mà Chúa cũng quan trọng. Có những người khá hơn, trên lý thuyết vẫn cho Chúa là quan trọng nhất, nhưng trong thực tế có những lúc tiền bạc, tình yêu và thành công ở đời cũng quan trọng như Chúa.

Nhiều người nghĩ rằng ở thế gian này không có gì là duy nhất, kể cả những điều loài người thường cho là cao quý như là chân thiện mỹ chẳng hạn. Có những điều đối với người này là chân lý, đối với người kia lại là sai lầm; đối với người này là tốt, đối người kia là không; đối với một số người là đẹp, đối với những người khác là xấu. Không có gì tuyệt đối ở trần gian. Cám dỗ tương đối hoá mọi sự là cám dỗ lớn nhất của thời đại chúng ta. Cám dỗ này rất nguy hiểm. Dễ sa ngã vì con người không muốn bị ràng buộc và hướng chiều về hưởng thụ.

Thế gian không có gì là duy nhất, không có gì là tuyệt đối.

Thiên Chúa là Siêu Việt, là Vĩnh Hằng. Mọi sự đều qua đi. Chỉ có Chúa mới là quan trọng nhất, chỉ có Chúa mới là Tuyệt Đối. Do đó chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực của mình.

Chúa Giêsu đã lập lại lời kêu gọi đó, khi trả lời cho người thông luật muốn hỏi trong các giới răn điều nào quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa là điều quan trọng nhất.

  1. Yêu tha nhân như chính mình.

Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Ðấng mà họ không thấy” (1Ga 4,20); “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối”(1Ga 2,9).

Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.

Lề luật của Chúa cô đọng trong một thái độ là yêu mến.Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Vì “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).

  1. Việc làm của Đức tinlà Đức ái.

Thánh Giacôbê nói một câu bất hủ: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Việc làm” mà Thánh Tông Đồ nói đến là thực hành bác ái. Thánh Phaolô ca ngợi đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).

Đức tin và Đức mến liên hệ mật thiết với nhau.

Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40) : những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ” (2 Pr 3,13 ; x. Kh 21,1). (x.Porta Fidei, Số 14).

Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN nói về mối liên hệ đức tin và đức mến: Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Số 7).

Dưới ánh sáng Lời Chúa Giêsu, tình yêu là mực thước đức tin, và đức tin là linh hồn của tình yêu. Chúng ta không còn có thể tách biệt đời sống tôn giáo ra khỏi việc phục vụ anh em, những người anh em cụ thể mà chúng ta gặp. Chúng ta không còn có thể tách biệt kinh nguyện, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong các bí tích, khỏi sự lắng nghe tha nhân, gần gũi cuộc sống của họ, nhất là những vết thương của họ.

Luật mới của Chúa Giêsu chính là mức độ hoàn hảo nhất của Mười Điều Răn. Đoạn cuối của kinh Mười Điều Răn: “Mười điều răn ấy tóm về hai nầy mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen.”

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con: mến Chúa yêu người là điều răn quan trọng nhất, xin cho con biết sống và liên lỉ thực hành giới răn này trong đời sống thường ngày của con.

 

CHÚA DUY NHẤT, LUẬT BẤT BIẾN

Trầm Thiên Thu

Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Đnl 6:4; Nkm 9:6; Xh 20:3; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10; Is 45:6; Is 46:9; Đn 3:28-29; Đn 14:41; Hs 13:4) và là Đấng Cứu Độ duy nhất: “Chính Ta, chính Ta đây là Đức Chúa, ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ.” (Is 43:11) Muôn đời Ngài vẫn là Ngài. (Is 43:13) Vì thế, luật yêu thương của Ngài cũng bất biến và vĩnh tồn.

Sau khi bất tuân và phạm tội, gây xáo trộn, con người bị đuổi ra khỏi Địa Đàng, thế nên bắt đầu cần có luật để duy trì trật tự trần gian. Chưa hết, gia đình cũng rắc rối khi Cain giết chính em ruột của mình là Abel vì ghen thét. Do đó, luật càng cần thiết hơn, cần thiết ngay từ trong gia đình nhỏ bé.

Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, tu viện có tu luật. Có nhiều loại luật – cả đạo và đời, ngay trong một nhóm nhỏ, thậm chí chỉ hai người, cũng vẫn có những quy ước nhất định để tránh lạm dụng vì tùy tiện hoặc tùy hứng. Trong mọi mối quan hệ, muốn hợp tác lâu dài với nhau, người ta phải tôn trọng hợp đồng với nhau – dù đó là thỏa thuận bằng miệng hoặc hợp đồng bằng văn bản.

Xét theo luật học, luật pháp được hiểu là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế. Thường thì luật pháp được thực thi thông qua hệ thống tòa án. Trong đó, quan tòa sẽ nghe tranh tụng từ các bên và áp dụng các quy định để đưa ra phán quyết công bằng và hợp lý. Cách thực thi luật pháp được coi là hệ thống pháp lý, thường phát triển trên cơ sở tập quán của mỗi quốc gia.

Luật có ở khắp nơi, mọi lĩnh vực, với nhiều mức độ: kinh tế, kinh doanh, chính trị, xã hội, môi trường, giao thông (đường thủy, đường bộ, đường hàng không) học tập, hôn nhân,… Nhưng tất cả các loại luật đều phải dựa trên Thiên Luật. Chỉ có Luật Chúa là Đệ Nhất Thánh Luật, là luật quan trọng nhất, dựa trên nền tảng yêu thương: mến Chúa và yêu người.

Thật ngán ngẩm với luật hội đường Do Thái ngày xưa. Có tới 613 điều khoản, bao gồm 365 điều CẤM làm và 248 điều PHẢI làm. Nếu chia đều một năm thì mỗi ngày có một khoản luật cấm. Điều cấm làm nhiều hơn điều phải làm, mà “cấm làm” với “phải làm” cũng đâu khác gì nhau. Mệt mỏi thật!

Ông Môsê nhận lệnh của Thiên Chúa và truyền cho dân chúng: “Đây là mệnh lệnh, là những thánh chỉ và quyết định mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền phải dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành trong đất anh em sắp sang chiếm hữu. Như vậy anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em MỌI NGÀY TRONG SUỐT CUỘC ĐỜI, tuân giữ tất cả những CHỈ THỊ và MỆNH LỆNH của Người mà tôi truyền cho anh em và anh em sẽ được sống lâu.” (Ðnl 6:1-2) Chỉ thị và mệnh lệnh là điều phải tuân giữ, xã hội trần gian còn như vậy, huống chi huấn lệnh của Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta phải ưu tiên số một, không sợ khi phải chọn lựa, chấp nhận bỏ luật đời.

Giữ Luật Chúa là điều tuyệt đối phải làm, không phải vì miễn cưỡng mà vì yêu mến, và có lợi cho chính chúng ta. Thánh Catarina Genoa (1447-1510) cho biết: “Thiên Chúa Toàn Năng tinh khiết đến nỗi nếu người ta ý thức được dấu vết của sự bất toàn và cũng hiểu rằng luyện ngục được ấn định để loại bỏ sự khiếm khuyết đó, thì linh hồn vào nơi thanh tẩy này vui mừng đón nhận Lòng Thương Xót cao cả của Thiên Chúa. Nỗi đau khổ tồi tệ nhất của các linh hồn nơi luyện ngục là đã phạm tội chống lại Sự Tốt Lành của Thiên Chúa và CHƯA HOÀN THIỆN ở đời này.” Tình trạng bất toàn vì “chưa hoàn thiện” là chưa giữ trọn Luật Chúa. Điều đó chứng tỏ rằng giữ trọn Luật Chúa là điều vô cùng cần thiết và thực sự hữu ích cho người giữ luật.

Chắc chắn rất khó giữ luật, khó thì khổ, nhưng khó mà giữ được mới đáng công. Thật vậy, Thiên Chúa không “đày đọa” ai, vì Ngài hứa ban những điều bất ngờ mà chúng ta không biết: “Hỡi Israel, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em đã phán với anh em Nghe đây, hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA DUY NHẤT. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em PHẢI ghi tạc vào lòng.” (Ðnl 6:3-6)

Chính lời hứa của Thiên Chúa nhắc nhở một điều quan trọng liên quan đức tin: Chỉ có MỘT Thiên Chúa duy nhất mà thôi. (Đnl 6:4; Mc 12:29) Ngoài Ngài, không có bất cứ một vị thần nào khác đáng để chúng ta tin kính và tôn thờ. Đó là điều chắc chắn.

Thiên Chúa duy nhất mà chúng ta tôn thờ chỉ là MỘT nhưng có BA NGÔI. Ngài là Đấng nhân hậu, vô thủy và vô chung, Ngài có nụ cười hiền hậu chứ không nhăn nhó khó chịu. Vì thế, Thánh Vịnh gia đã luôn tôn thờ và kính mến Ngài tuyệt đối: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.” (Tv 18:2-3) Không thể kiềm chế niềm hạnh phúc đó, Thánh Vịnh gia đã xác nhận và muốn chia sẻ với mỗi chúng ta: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù.” (Tv 18:4) Lời xác nhận này giúp củng cố đức tin của chúng ta, những kẻ hậu sinh hèn yếu.

Không thể im lặng, Thánh Vịnh gia tiếp tục tuyên xưng: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi, là Thượng Đế giúp tôi rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền tôi. Lạy Chúa, Ngài giải thoát con khỏi thù địch cho thắng cả đối phương, cứu khỏi người tàn bạo. Vì thế giữa muôn dân, con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa. Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Người đã lập.” (Tv 18:47-51ab) Thiên Chúa là “đèn trời soi xét,” (Tv 4:2) Ngài “biết thừa mọi bí ẩn tâm can,” (Tv 44:22) và Ngài biết ai chân thật hay lọc lừa. Ngài thấu suốt mọi sự.

Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4:4b) Ước gì mỗi chúng ta đều có thể thanh thản thân thưa: “Lạy Chúa, xin dò xét và thử thách con, tâm can này, xin đem thử lửa.” (Tv 26:2) Đó là điều không dễ thực hiện, cần phải thực sự can đảm và dứt khoát, cùng với tình mến chân thành. Luật Chúa là Lời Chúa, là Ý Chúa, là lương thực của các Kitô hữu.

Kinh Thánh cho biết rằng Thiên Chúa không thích tế phẩm và lễ vật, Ngài cũng chẳng đòi lễ toàn thiêu và lễ xá tội. (Tv 40:7) Ngài muốn chúng ta tuân giữ luật Ngài truyền, nghĩa là vâng lời Ngài. Ngài mở tai chúng ta để chúng ta lắng nghe Ngài, và Ngài muốn chúng ta mau mắn thân thưa: “Này con xin đến!” (Tv 40:8) Ước gì chúng ta luôn chân thành nói với Ngài: “Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con!” (Tv 40:9) Giữ Luật Chúa thì có lợi, không giữ thì thiệt thòi. Ngài không bắt ép, mà là sự công bằng.

Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta dù chúng ta bất xứng, Ngài yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân kia mà, nghĩa là chúng ta còn dơ bẩn chứ đâu phải đã “tắm rửa” cho bớt hôi thối. (x. Rm 5:8) Đó là bằng chứng minh nhiên về lòng thương xót của Thiên Chúa.

Thánh Phaolô cho biết: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.” (Dt 7:23-25) Nếu chúng ta yêu ai đó mà không được đáp lại, thậm chí bị phản bội và bị gièm pha, chắc chắn chúng ta nói họ là dại dột, ngu xuẩn, si tình hoặc lụy tình. Thế mà Thiên Chúa là người yêu cuồng si những kẻ phản bội Ngài. Quả thật, chúng ta quá đáng, có trái tim bằng sắt nung chứ không chỉ là gỗ hoặc đá.

Bởi vì chúng ta bất xứng đến nỗi không thể tự đền tội, mà phải nhờ đến Vị Thượng Tế Thập Toàn là Đức Kitô Giêsu, Con Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để ĐỀN TỘI CỦA MÌNH, sau là để ĐỀN THAY CHO DÂN; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.” (Dt 7:26-28)

Điều răn đứng hàng đầu là điều răn quan trọng nhất, được nói tới trong trình thuật Mc 12:28b-34 (≈ Mt 23:34-40; Lc 10:25-28) và cũng đề cập “MỘT Thiên Chúa duy nhất” như Cựu Ước đã nói.

Thánh sử Máccô cho biết rằng có một kinh sư đã nghe nhóm Sađốc tranh luận với Đức Giêsu. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông kinh sư đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Ông kinh sư này ra vẻ thế thôi chứ không hề tâm phục khẩu phục. Kinh sư là ai? Đó là chuyên gia nghiên cứu, khai triển, dạy dỗ và áp dụng luật Cựu Ước. Nhưng khi áp dụng luật thì giá trị của lời dạy được coi trọng hơn chính văn bản luật. Vì thế mà họ hống hách và gây nhiều rắc rối, nhất là khi họ gặp Chúa Giêsu.

Họ hỏi không do lòng thành mà chỉ muốn gài bẫy Chúa Giêsu mà thôi. Ngài không nói điều nào trọng nhất, mà Ngài điềm nhiên trả lời bằng một mệnh lệnh: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA DUY NHẤT. Ngươi PHẢI yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” Đó là luật hai-trong-một, một điều to và một điều lớn, điều nào cũng quan trọng. Thật kỳ diệu và độc đáo!

Sau khi nghe Đức Giêsu nói vậy, ông kinh sư thực sự tâm đắc, tâm phục và khẩu phục, và ông nói: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là ĐẤNG DUY NHẤT, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.”

Phục thiện là bắt đầu khôn ngoan. Biết mình sai là bắt đầu sáng mắt. Ngược lại, kẻ cố chấp sẽ mù vĩnh viễn. Còn hơn thế nữa, bởi vì “đứa ngu đần tuy sống mà tệ hơn là chết.” (Hc 22:11) Chúa Giêsu thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan nên Ngài nói: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Tất cả im lặng, không ai dám chất vấn Ngài hoặc nói ra nói vào lời nào nữa. Trứng không thể chọi với đá!

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan, thông minh, sáng suốt phân định vấn đề, và biết  ưu tiên việc tuân giữ luật Ngài. Xin thanh tẩy và đổi mới chúng con theo đúng Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 

YÊU MẾN VÀ PHỤNG THỜ THIÊN CHÚA

Giuse Hoàng Thanh Phong

Kính thưa quý ông bà và anh chị em, các bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay dường như nhắc nhớ mỗi người chúng ta về đời sống phụng thờ Thiên Chúa của mình. Lòng yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa là cách diễn tả rõ nét nhất lòng tin của mỗi người chúng ta.

Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất”

Đoạn trích trong sách Đệ Nhị Luật mà chúng ta nghe trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chứa đựng kho tàng quan trọng bậc nhất, mà bất cứ người tin theo đạo Do-thái nào, cũng không bao giờ được quên: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en ! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em.  (Đnl 6,4-5). Thật vậy, chân lý ‘Thiên Chúa duy nhất’ là nền tảng căn cốt nhất của đạo Do-thái. Lời nhắn nhủ này được gọi là Shema, là lời kinh mà tất cả những ai theo đạo Do-thái phải thuộc nằm lòng ngay từ thuở nhỏ. Họ thường lập lại lời kinh này nhiều lần trong ngày để nhắc nhớ bản thân về chân lý ‘Thiên Chúa duy nhất’, cũng như bổn phận phải yêu mến và phụng sự Thiên Chúa.

Để trả lời cho một người trong nhóm kinh sư về câu hỏi ‘điều răn nào quan trọng nhất’, Chúa Giê-su cũng đã dùng chính lời Kinh Thánh trên để trả lời. Thế nên, lời nhắc nhớ về ‘Thiên Chúa duy nhất’ không chỉ dành cho người theo đạo Do-thái, nhưng còn dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta. Điều này làm cho chúng ta xác tín rằng, không phải ai khác, hay thần nào khác, nhưng chính Thiên Chúa duy nhất đã vì yêu thương mà đã tác sinh muôn vật muôn loài. Cũng chính Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta biết về kế hoạch cứu độ, hầu mang lại niềm hy vọng cho chúng ta được tham dự vào đời sống vĩnh cửu. Cũng chính vì lòng yêu thương quảng đại của vị Thiên Chúa duy nhất ấy, mà chúng ta vẫn được sống, được hoạt động, được hạnh phúc trong cuộc sống này.

Lời nhắc nhớ chúng ta về ‘Thiên Chúa duy nhất’ đồng thời khơi dậy trong tâm hồn chúng ta tâm tình yêu mến Người: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5). Cần biết rằng, Thiên Chúa là Đấng toàn hảo tự tại, nên lòng yêu mến của chúng ta sẽ chẳng khiến cho Thiên Chúa thêm hoàn hảo thêm chút nào. Đúng hơn, chúng ta tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa trước hết vì những điều thiện hảo mà Thiên Chúa vẫn hằng ban cho chúng ta. Chúng ta diễn tả lòng yêu mến Thiên Chúa với hết cả tâm hồn vì tình yêu vô điều kiện mà Người đã tặng ban cho mỗi người trong chúng ta. Thiên Chúa mong ước chúng ta yêu mến Thiên Chúa không phải vì bản thân Người, nhưng vì chính mỗi người chúng ta. Đúng hơn, chúng ta sẽ chỉ được sống và hạnh phúc khi chúng ta ở với Thiên Chúa mà thôi, vì duy chỉ có Người là nguồn sống duy nhất cho muôn vật muôn loài.

Trong Linh Thao, Thánh Inhaxio Loyola đã cụ thể hóa lời nhắn nhủ này trong ‘Nguyên Lý Và Nền Tảng’:“Con người được dựng nên để ngợi khen, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình. Mọi loài khác dưới đất cũng được tạo dựng cho con người, để giúp họ đạt tới cùng đích Đấng Tạo Hóa đặt cho họ. Bởi thế người ta chỉ được sử dụng tạo vật theo mức độ chúng giúp đạt tới cứu cánh và phải gạt bỏ khi chúng làm cản trở….” (Linh Thao, số 23)

Nguyên lý và Nền Tảng trên đây giúp cho chúng ta thấy mục đích của đời sống con người là để “ngợi khen, tôn kính, và phụng sự Thiên Chúa”. Thế nên, việc sắp đặt trật tự trong đời sống chúng ta thật quan trọng biết bao: Thiên Chúa phải là trước hết và trên hết mọi loài thụ tạo. Khi chúng ta đảo lộn trật tự này, chẳng hạn khi đặt bản thân mình hay các thụ tạo khác lên hàng đầu, chúng ta đang đặt lòng tin của mình ở sai chỗ.

Trong cuộc sống hôm nay, có lẽ chúng ta ít đề cập đến các ngoại thần cho bằng những ‘vị thần’ do chính chúng ta tạo ra. Mỗi người trong chúng ta thử dành ra ít giây phút tĩnh lặng để xem Thiên Chúa đang có vị trí nào trong cuộc đời của mình. Thiên Chúa có phải là quan trọng nhất đối với tôi lúc này hay chăng? Nếu Thiên Chúa không còn ở vị trí số một trong tâm hồn tôi thì ‘vị thần’ nào đã được đặt vào vị trí ấy của Thiên Chúa?

Cần biết rằng, dù chúng ta đang chẳng ưu tiên vị trí quan trọng nhất cho Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, Thiên Chúa vẫn không ngừng yêu thương chúng ta cách vô điều kiện. Thiên Chúa vẫn mong ước chúng ta biết sắp đặt lại trật tự cuộc sống của mình, chẳng phải vì ích lợi gì cho Ngài, cho bằng vì phần rỗi của chính chúng ta. Đúng hơn, chỉ nơi Thiên Chúa duy nhất, chúng ta mới được hiện hữu và hạnh phúc viên mãn mà thôi.

Yêu mến và phụng  thờ Thiên Chúa

Kính thưa quý ông bà và anh chị em, niềm tin của chúng ta nơi Thiên Chúa duy nhất có thể được diễn tả bằng nhiều cách thế khác nhau, nhưng sống động nhất vẫn là trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Bài trích thư gửi tín hữu Híp-ri cho chúng ta biết về vai trò duy nhất của vị tư tế hằng hữu là Đức Kitô, trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Vị thượng tế hằng hữu có vai trò chuyển cầu cho chúng ta tới Thiên Chúa, vì tự bản thân mỗi người chúng ta chẳng thể trực tiếp đến với Người (Hr 7,25). Vì vậy, Đức Giêsu Kitô vẫn hằng hiện diện cách sống động trong mọi cử hành phụng vụ của Giáo Hội, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Khi chúng ta nghe công bố Tin Mừng thì chúng ta thực sự đang lắng nghe Lời của Chúa Giêsu đang nói với chúng ta. Khi vị linh mục truyền phép thì bánh và rượu nhờ quyền năng của Chúa Thần, đã trở nên Mình và Máu thánh Đức Giêsu Kitô, trở nên thần lương nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Đức Giêsu cũng chính là người sai chúng ta ra đi loan báo Tin mừng khi buổi cử hành phụng vụ kết thúc.

Thế nên, việc tham dự vào đời sống phụng vụ của Giáo Hội, đòi hỏi chúng ta tham dự với lòng sốt sáng kính tin của mình. Qua đời sống phụng vụ, chúng ta đang diễn tả đức tin của mình nơi Thiên Chúa, cụ thể qua việc: xám hối lỗi lầm, ca tụng Thiên Chúa, tuyên xưng đức tin, lãnh nhận ơn lành… Thế nên, chúng ta không phải đến ‘xem thánh lễ’ cho xong bổn phận mà Giáo Hội đòi buộc. Đúng hơn, chúng ta được mời gọi để tham dự thánh lễ và cùng hiệp dâng của lễ là đời sống của mình, kết hiệp với của lễ duy nhất của Đức Giêsu xưa kia trên thập giá, mà dâng lên Thiên Chúa Cha (Hr 7,27).

Thực ra, khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta đồng thời cũng đã được lãnh nhận chức vụ tư tế phổ quát. Điều này có nghĩa, cuộc đời mỗi người chúng ta đã được thánh hiến để trở nên của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa. Thế nên, chẳng có của lễ nào đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng của lễ sống động là đời sống của mỗi người. Qua vị tư tế hằng hữu là Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy mạnh dạn dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn của cuộc sống này. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương chúng ta vô điều kiện chắc chắn sẽ nhậm lời nguyện xin, cũng như đón nhận của lễ mà chúng ta dâng tiến lên Người. Ngoài việc yêu mến phụng thờ Thiên Chúa duy nhất, Chúa Giêsu đưa ra một điều răn khác không thể tách rời, đó là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,31). Chẳng có của lễ nào đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng việc chúng ta yêu mến và hiến dâng đời sống của mình cho Thiên Chúa và mở lòng đón nhận tha nhân.

Thế nên, cuộc đời của mỗi người chúng ta có thể được hiểu như một cử hành phụng vụ hay một thánh lễ kéo dài. Cuộc đời chúng ta vì vậy là một chuỗi những diễn tả lòng tin của chúng ta nơi Thiên Chúa duy nhất. Lòng tin ấy được diễn tả cách cụ thể bằng cả đời sống của mình, như của lễ toàn thiêu, được hiệp với lễ hy sinh của Đức Giêsu mà dâng lên Thiên Chúa. Amen!

 

HẾT CẢ TRÍ KHÔN

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Mến Chúa và yêu người là một điệp khúc quá quen thuộc với Kitô hữu. Từ em bé đã qua tuổi “xưng tội rước lễ lần đầu” đến các cụ già mà chưa lẩn trí thì đều nằm lòng câu kết trong kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời: “Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy – Amen”. Là người con cái Chúa trong Giáo Hội Công Giáo, có thể khẳng định rằng, hiếm có ai tự nhận mình không yêu mến Thiên Chúa. Dù minh nhiên hay mặc nhiên, chúng ta đều xác nhận rằng mình phải yêu mến Thiên Chúa. Tuy nhiên mức độ của lòng yêu mến ấy đến đâu cũng như cái cách thức yêu mến ấy có đúng hay không thì cần phải xem xét.

Trước câu hỏi của vị luật sĩ về giới răn trọng nhất, Chúa Giêsu đã lấy lại đoạn sách Đệ Nhị Luật đồng thời có thêm một chút để trả lời: “Nghe đây, hỡi Israel! Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất! Người phải yêu mến Đức Chúa, Chúa các ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi…” (x.Mc 12,28-34; x.Đnl 6,2-6). Xin mạn bàn về yếu tố Chúa Giêsu thêm đó là “hết trí khôn”, cụm từ không có trong sách Đệ Nhị Luật.

Trí khôn là một trong hai cơ năng của linh hồn mà Thiên Chúa tặng ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài thụ tạo hữu hình. Đã là người thì ai cũng chân nhận rằng nhờ trí khôn mà con người trỗi vượt các loài vật bậc thấp. Chuyện tích về bác nông phu mưu trí đánh thắng con hỗ là một ví dụ. Cũng là làm việc nhưng nhờ trí khôn, con người ý thức mình làm việc gì với động cơ và mục đích gì. Chính vì thế cung cách làm việc của con người mỗi ngày mỗi mới, phát triển và hoàn thiện không ngừng. Trong khi đó loài vật vì thiếu khả năng này nên cách hoạt động của chúng hầu như không đổi thay mà nếu có thì cũng rất nhỏ và qua một thời gian rất dài chịu điều kiện hóa bởi các yếu tố của giới tự nhiên mà thôi.

Khi thêm vào yếu tố “trí khôn” chắc hẳn Chúa Giêsu không chỉ đề cập đến một nét cao quý của con người mà còn lưu ý đến cung cách “giữ đạo”, “sống đức tin” của dân Chúa xưa và chúng ta mọi thời, mọi nơi. Chúa Giêsu đã từng nhiều lần hữu ý vi phạm luật sạch nhơ và luật ngày hưu lễ của Do Thái giáo thời bấy giờ. Người cố tình làm như vậy, vì người ta đã giữ luật cách máy móc, vụ hình thức mà quên mất mục đích và ý nghĩa của luật. Chẳng hạn luật sạch nhơ có ra là để dân Chúa biết giữ gìn tâm hồn trong sáng và làm thanh sạch cõi lòng khỏi các vết nhơ của tội lỗi, khỏi những tham lam và đam mê bất chính. Do đó cách thế giữ luật phải chú trọng đến tâm hồn hơn là quá tỉ mỉ, chi li với những nghi thức bên ngoài như rửa chén bát, rửa chân tay… Muốn tâm hồn được thanh sạch là phải loại khỏi tâm trí những ý định bất chính, xấu xa và Người đan cử một số điều như: “Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”(Mc 7,21). Bên cạnh đó để làm cho tâm hồn mình trinh trong thì Người dạy phải sống đức ái qua việc liên đới chia sẻ với tha nhân: “Hãy đem những cái bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho các ngươi (Lc 11,41).

Với trí khôn thì khi thực hiện các hành vi đạo đức của tôn giáo, chúng ta phải biết rõ hành vi ấy là gì (What?) Vì sao phải thực hiện điều ấy là làm việc ấy để nhằm mục đích gì (Why?). Và rồi chúng ta sẽ biết làm việc ấy như thế nào (How?), ở đâu và trong hoàn cảnh nào (Where? When?). Khi một số biệt phái trách cứ rằng các môn đệ mình không ăn chay thì Chúa Giêsu nhân đó đã dạy họ phải sống đạo với cả trí khôn. Trước hết hãy ý thức ăn chay nghĩa là gì và vì sao ăn chay để rồi biết cách ăn chay đúng đẹp thánh ý Thiên Chúa. Ăn chay là một hình thức sám hối, thú nhận tội lỗi, nhất là tội nghiêm trọng.

Xưa vua quan dân thành Ninivê đã dùng sự ăn chay để bày tỏ sự ăn năn sám hối về tội lỗi tày trời họ đã phạm khiến Chúa đe phạt hủy diệt cả thành. Trong khi đó nhiều lãnh đạo Do Thái giáo thời Chúa Giêsu không chỉ lầm mà còn giảng dạy sai lạc. Họ lầm tường rằng ăn chay là một trong những cách thế thu tích công đức trước mặt thiên hạ và cả trước mặt Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã từng kể câu chuyện có người biệt phái vào đền thờ ngửa mặt kể lễ công trạng ăn chay với cả Thiên Chúa. Để khẳng định điều này thì Người nói rõ: “Không lẽ thực khách hay các phù rể có thể ăn chay khi tân lang đang còn ở với họ. Khi nào tân lang bị đem đì thì bấy giờ họ mới ăn chay” (x.Lc 5,33-39). Khi đang còn ở với Thầy Giêsu thì cách nào đó các tông đồ đang còn ở trong ân sủng. Khi phạm trọng tội là lúc chúng ta xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mình và lúc đó mới thực sự cần phải ăn chay.

Không dám hồ đồ nhưng có vẻ đến hôm nay còn không ít Kitô hữu từ giáo dân đến tu sĩ, giáo sĩ vẫn sống đạo một cách máy móc, nếu không muốn nói là thiếu ý thức đúng và đủ những gì mình thực hành. Vừa qua Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ra lệnh Kitô Hữu Công Giáo ăn chay một ngày (22/10) và mời gọi đoàn tính hữu sống mùa dịch bệnh trong tinh thần chay tịnh. Nếu không được hướng dẫn thì đoàn tín hữu dễ lầm tưởng rằng vì nhân loại tội lỗi nên bị dịch bệnh, khiến cho một số người hiểu lầm như nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu. Và cũng có thể có nhiều người nghĩ rằng ăn chay hãm mình hy sinh như lễ vật dâng lên Thiên Chúa hầu mong Người đoái thương khử trừ dịch bệnh. Thế mà đã gần hai năm nay biết bao lễ vật hy sinh trên khắp thế giới cùng với lời cầu nguyện dâng lên mà như chưa thấu đến Đấng Toàn Năng. Tình cảnh này có thể làm cớ cho nhiều người hoài nghi và than thở như cố nhạc sĩ họ Trịnh là “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người…”.

Chuyện chay tịnh, hãm mình, hy sinh thì ai ai cũng mến phục. Tuy nhiên việc sống khắc khổ, kiêng khem trong tình cảnh mà người dân, nhất là người nghèo, người đang thiếu thốn lương thực cần phải có đủ sức đề kháng để chống dịch thì xem ra cần được giải thích và hướng dẫn cho thấu tình đạt lý dưới ánh sáng đức tin. Truyền thống là tốt. Thế nhưng nhiều khi nó cũng có thể kìm giữ chúng ta trong lối mòn của thứ rượu cũ. Rượu mới phải đổ vào bầu da mới, nhưng người ta lại thích rượu cũ và giữ mãi cái bầu cũ hơn. Đức Phanxicô đã từng cảnh giác về kiểu biện bạch để khỏi canh tân, đổi mới đó là: “xưa đã là như vậy rồi”. Với cả trí khôn thì việc sống đức tin đòi hỏi chúng ta phải trưởng thành mỗi ngày. Chắc hẳn có đó nhiều cơ chế, luật lệ và hình thức sống đạo trong Giáo hội cần đổi thay khi đoàn con cái Chúa biết sử dụng trí năng để sống đức tin cách ý thức trong tình liên đới và tinh thần trách nhiệm.

 

ĐIỀU RĂN MỚI

Lm Vũđình Tường

Một Kinh Sư hỏi Đức Kitô,
‘Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào quan trọng hơn cả’ Mc 12,28.

Ông ta hỏi Đức Kitô vì vấn đề này nhóm Kinh Sư từ lâu tranh luận với nhau, và không đồng nhất điều răn nào quan trọng hơn cả. Đức Kitô tóm gọn tất cả các điều răn dậy trong sách Dân Số 6:4-5 và sách Lêvi 19:18 trong một câu vắn gọn, đó là ‘Mến Chúa và yêu tha nhân’. Nhóm Kinh sư giải thích luật bằng cách theo sát từng câu, từng chữ; trong khi Đức Kitô chú trọng đến bản chất, tinh thần của luật lệ. Ngài nói với họ,

‘Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình’ Mc 12: 30-31

Quan hệ tình cảm con người dành cho nhau rất đơn giản và cũng rất phức tạp. Đơn giản, nhẹ nhàng khi tình cảm đầy tràn thân thiện. Phức tạp khi tình thân biến mất, cãi cọ, tranh biện, ăn thua đủ liên tục xảy ra. Trong trường hợp này, thay vì dùng tình cảm, cảm xúc của con tim, con người đối xử với nhau bằng lí trí, lí luận, tranh biện, hơn thiệt, phải trái. Đức Kitô dậy để giải quyết vấn đề cách nhẹ nhàng, cần đối xử với nhau như chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ai cũng có kinh nghiệm đuợc Thiên Chúa yêu thương, tha thứ. Hãy dùng kinh nghiệm trên để giải quyết mọi tranh chấp, bất hoà. Yêu Thiên Chúa, mến những gì Thiên Chúa tạo dựng là giữ trọn luật yêu thương. Yêu tha nhân như chính Thiên Chúa yêu chúng ta là điều luôn đúng trong mọi trường hợp. Đặt Thiên Chúa là trọng tâm trong đời; mọi lời nói, hành động phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa chính là làm Sáng Danh Chúa trong cuộc sống của ta.

Nhóm Kinh sư trước đây vẫn nghĩ sát tế lễ vật dâng Thiên Chúa là quan trọng hơn cả. Đức Kitô dậy dâng hiến toàn thể con người cho Thiên Chúa quan trọng hơn. Giáo huấn trên đưa cho anh cái nhìn mới. Anh rất thán phục điều Đức Kitô phán dậy. Đức Kitô nói với anh,

‘Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu’. Mc. 12: 35.
Phúc Âm thuật lại, sau đó không còn ai dám hỏi Ngài nữa. Người ta không dám hỏi nữa có lẽ họ sợ biết sự thật về chính mình. Bởi càng hỏi, càng để lộ ra cái thiếu sót, thiếu hiểu biết về tình yêu Thiên Chúa. Như thế họ sẽ bị mất uy tín trong việc giảng dậy. Đức Kitô nói vị Kinh Sư đến gần Nước Thiên Chúa, nhưng chưa thuộc về Đức Kitô. Ông đến gần Ngài hơn hết trong số bạn cùng ngành.

Kinh Sư là nhóm kịch liệt chống đối Đức Kitô. Họ chất vấn Ngài ai cho phép Ngài trừ quỉ. Họ đặt vấn đề Ngài ngồi cùng bàn ăn với kẻ tội lỗi. Họ trách môn đệ ngài ăn mà không rửa tay. Họ kết án Ngài chữa bệnh trong ngày hưu lễ. Vì thái độ chống đối đó mà hầu hết học giả Kinh Thánh cho là vị Kinh Sư khâm phục ơn khôn ngoan nơi Đức Kitô nhưng không thành tâm yêu mến, tin theo Ngài. Giải thích như trên có nghĩ là vị Kinh Sư này cũng như những vị khác. Trong khi những vị khác đến chất vấn, gài bãy, tìm cách bắt bẻ. Thực tế cho thấy, vị Kinh Sư này hành xử rất khác. Ông đến hỏi Đức Kitô, vừa thán phục vừa ca tụng Ngài. Ông thành tâm trong việc đến gần Đức Kitô. Rất có thể đây là bước đầu, đặt nền tảng cho bước tiếp theo.

Có kiến thức về Kinh Thánh và tin Kinh Thánh là hai sự việc hoàn toàn khác biệt. Dùng Kinh Thánh để biện hộ cho hành động, lời nói, mong thắng thế khi bàn thảo, lí luận, không sinh ích gì cho đức tin. Rất có thể người đó không có niềm tin, dùng Kinh Thánh cho lợi ích cá nhân. Tìm hiểu để hiểu biết thêm về Kinh Thánh với mục đích tăng niềm tin, thực thi đúng điều Kinh Thánh hướng dẫn là điều quan trọng. Như thế mới đúng là sống đời sống đức tin.

Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu dâng hiến trọn vẹn, toàn thể con người cho Thiên Chúa, không phải chỉ một phần mà toàn phần: Khối óc, con tim, linh hồn, trí khôn và toàn thể sức lực. Như thế mới là dâng hiến trọn vẹn.

 

YÊU MẾN

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Thiên Chúa là tình yêu: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4, 8). Yêu là cốt lõi của cuộc sống. Vì tình yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài. Tình yêu của Đấng Tạo Hóa được thông ban tới mọi loại thụ tạo. Mỗi loài thụ tạo đều có dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Con người có linh hồn, trí khôn, tự do và tình yêu. Mọi sinh vật đều chìm đắm trong biển tình liên đới với nhau. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Đấng Vô Hình, chúng ta có thể nhận biết Người qua muôn hình vạn trạng của vũ trụ vạn vật và con người. Người là Thiên Chúa hằng hiện hữu và là Chúa của kẻ sống.

Những chỉ thị và huấn lệnh được tóm kết trong Mười Điều Răn và mười điều này thu gọn thành hai điều quan trọng là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Như thế, tất cả luật lệ và các giới răn đều xoay quanh chữ ‘Yêu’. Yêu là ái, bác ái, đức ái, nhân ái và tâm ái. Yêu là nền tảng của mọi sinh hoạt. Yêu phát khởi từ tâm. Tâm thiện làm thăng hoa cuộc đời nên cao thượng và thành tựu.

Chúng ta có thể suy về trái tim yêu thương qua bốn điều: Từ, Bi, Hỉ và Xả. Tâm từ là lòng thương xót. Thương tất cả mọi loài. Thương yêu không chỉ những người trong gia đình mà tình yêu lan trải ra mọi người chung quanh. Yêu cả người ân, kẻ oán. Yêu cả người gây thù dù chuốc oán. Tâm bi là xót thương trước những khổ đau của người khác. Biết cảm thông và xoa dịu những nỗi đau và sầu khổ của tha nhân. Tâm hỉ là vui vẻ trước sự hạnh phúc và thành công của người khác. Biết chung vui và chúc mừng những thành đạt và sự may mắn của người. Người có tâm hỉ thì không ích kỷ, hạn hẹp, ghen tương và đố kỵ. Tâm xả là không luyến ái hay chấp nhất. Giữ thái độ thanh thản và an vui tự tại trong tâm hồn. Từ bi hỉ xả sẽ giúp cho tình yêu tha nhân được triển nở và hoan lạc.

Trong bài phúc âm, Chúa Giêsu lập lại hai giới răn nồng cốt của đạo: Yêu Chúa và yêu người. Thiên Chúa hiện diện nhưng con người không thể diện kiến và đụng chạm bằng giác quan trần tục. Để biểu hiện tình yêu, Chúa mở một cửa ngõ để chúng ta cùng cảm thông: Yêu tha nhân như chính mình. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại được gắn liền với nhau như đồng tiền hai mặt. Chúng ta không thể nói rằng chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà ghét đồng loại. Vì mỗi con người được tác tạo đều mang hình ảnh của Thiên Chúa. Yêu người cũng như yêu chính mình.

Thánh Marcô so sánh tình yêu cao quí hơn của lễ dâng. Đối với chúng ta, yêu người thân cận như chính mình là một đòi hỏi quá khó. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng thấy tình yêu có mức độ. Trong cuộc sống dân gian, trái tim yêu thương được diễn tả theo hình trôn ốc, từ trong cốt lõi ra ngoài. Yêu vợ chồng, con cái, gia đình, họ hàng thân tộc, đồng môn, bạn bè, người thân, kẻ nghĩa, yêu người cùng nhóm hội, cùng chí hướng, cùng tôn giáo, yêu đồng bào cùng quê hương xứ sở và yêu đồng loại… Chúng ta có thể cảm nhận thế nào là tình yêu khi chúng ta xa vắng, tam biệt, ly biệt hay vĩnh biệt người mình yêu. Càng yêu nhiều càng nhớ thương nhiều. Chỉ có những tâm hồn đại ái biết quên mình mới có thể yêu người thân cận như chính mình một cách vô điều kiện.

Trong thơ gởi tín hữu Do-thái, tác giả đã diễn tả hình ảnh hiến tế của Chúa Giêsu linh mục thượng phẩm. Ngài đã dâng hy lễ đền tội cho dân bằng chính sự sống của mình. Tình yêu dâng hiến trọn vẹn để đền tội thay cho dân. Các linh mục thay mặt Chúa dâng lễ tế hy sinh là một việc cử hành thánh thiện, nhưng có nhiều khi bị lợi dụng và lạm dụng. Có nhiều linh mục đã cử hành thánh lễ rất nghiêm trang sốt sáng, nhưng cũng có linh mục cử hành theo thói quen chỉ để chu toàn bổn phận hoặc vì thọ ơn trả nghĩa cho ai đó tại tư gia. Linh mục không chịu đau khổ và không đổ máu, vậy mà đôi khi còn nóng nảy và bực bội chỉ vì vài sơ xót nho nhỏ trong khi cử hành. Các linh mục hãy hòa trộn tình yêu trong việc cử hành thánh lễ để sinh ích lợi cho mình, cho mọi người và cho các linh hồn đang chờ mong ân phúc.

Đức mến là nòng cốt. Mọi sự trên trần gian sẽ qua đi, chỉ có tình yêu tồn tại mãi. Xin cho chúng con biết chia sẻ và sống dấn thân trong tình yêu. Để khi mãn cuộc đời dưới thế, chúng con sẽ được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa, vì Chúa là tình yêu.

 

MÙA NÀO CŨNG YÊU

Lm. Jos DĐH.

Dù có ăn khoẻ mấy, bạn cũng chỉ ăn tới mức no bụng. Khôn hay khờ, địa vị hay bần cùng, bạn vẫn tuân theo quy luật, sinh tử. Bốn mùa xuân hạ thu đông, tự bản chất đã phảng phất tính lãng mạn đầy yêu thương của tháng năm, dù điều kiện, phong cách, địa vị, mỗi người mỗi khác. Nói đến yêu và thương, thật dễ nghe, ngay cả lão gia đến trẻ nhỏ, gợi lên hai từ ghét và thù, đúng là chẳng ai hào hứng làm chi ! Đại đa số chúng ta rất chuẩn khi nói ăn để sống, có chăng hành động của ta mơ hồ đến độ không còn biết mình sống ở đời này để làm gì ? Không ai khôn tới mức bất cần đến thầy dạy, chẳng ai ngớ ngẩn để mặc thời gian trôi qua, rồi thở ngắn than dài tại sao mình phận bạc duyên đen ? Không ngừng học hỏi là hành vi giúp ta ngộ ra mình được yêu ngay từ thuở nhỏ, là nguồn gốc của đức hạnh thúc giục ta nói lời yêu thương.

Thời tiết bốn mùa nồng ấm đáng yêu khác nhau, được cao sang quyền quý hay vô duyên bất tài, có phải bạn vẫn muốn trải lòng cho mọi đối tượng, tôi luôn cần được mọi người mến yêu ? “Thưa Thầy, trong giới luật, đâu là điều quan trọng nhất” ? Điều muốn biết của người luật sĩ vô tình hay cố ý thử tài Đức Giêsu, đúng là có chút tự nhiên vương vấn nơi tâm tư mỗi người từ khi có trí khôn. Đức Giêsu không từ chối, không lòng vòng, trước thao thức của ông tiến sĩ luật, của tâm tư mỗi người, Ngài đã cho thấy hai từ mến – yêu không thể tách nhau. Thời khắc nào người ta cũng có nhu cầu ăn ngon ngủ yên, bình an hạnh phúc, được yêu để biết yêu, quan trọng ở chỗ yêu người và mến Chúa sao cho đúng, đẹp. Là đừng mến Chúa yêu người trên môi miệng, lý thuyết.

Mùa nào cũng yêu, mùa nào cũng say, là quá cường điệu trong tình yêu đôi lứa, nhưng sẽ không thừa, không dư, nếu ta hiểu và sống tinh thần người môn đệ Đức Giêsu: mến Chúa yêu người. Mùa nào cũng yêu, ngày nào cũng yêu, tuổi nào cũng yêu, sẽ không bao giờ là sai, là trệch, khi chúng ta tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, và tất cả mọi người có cùng Một Cha trên trời. Đức Phật dạy các học trò: hãy sống tốt, sống đẹp, đừng quan tâm đến người khác nghĩ về mình. Đức Giêsu trả lời cho những ai ưu tư đến cụm từ đâu là hạnh phúc: “hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn; hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Trọng tâm của đời người không phải chỉ là tiền, mà còn phải có tình. Hạnh phúc ở đời người, không phải là tình yêu đôi lứa, tình yêu gia đình, đúng, đủ, phải có mến Chúa yêu người.

Nhạc sĩ Phạm Duy đã thổi hồn vào nhạc phẩm “Phượng Yêu”, đã làm ngây ngất biết bao con tim đang rạo rực “vì yêu”. Yêu người, yêu Phượng, yêu hoa đầu mùa, yêu mầu rực rỡ, yêu em mù loà, yêu bằng tiếng nói đơn sơ. … Yêu người, yêu có một lần thôi, xin yêu dù gian dối, xin yêu tôi, dẫu nghi ngờ, trong bơ vơ còn nhiều, thì đâu chối bỏ tình yêu. Người tiến sĩ luật trong tin mừng hôm nay, quả đã “thấm đậm” khi được Đức Giêsu gói gọn giới luật bởi cụm từ “mến Chúa yêu người”. Kinh nghiệm của các bậc khôn ngoan, chỉ rằng: ăn có thể ăn nửa bữa, ngủ có thể lúc nửa đêm, nhưng không ai có thể đi nửa đường chân lý, yêu bằng nửa con tim. (Ngạn ngữ Anh). Người luật sĩ đã hiểu phần nào trong tình Chúa phải có tình người, mới trọn vẹn đúng, đủ, đẹp. Đức Giêsu vô cùng hạnh phúc, khi bộc lộ niềm vui: “anh không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.

Mùa nào cũng yêu, tình nào chẳng là tình đẹp, yêu mến tha nhân cũng là lời gọi mến yêu đồng loại, là điều quan trọng trước giới luật yêu thương mà Thiên Chúa đặt để vào tâm tư mỗi người nhân thế. Thiên hướng của người nghệ sĩ là đưa ánh sáng vào trái tim con người. Đức Giêsu là mặt trời công chính đã soi chiếu vào thế gian, song Ngài chính là Vị Thầy thuốc tài giỏi, chữa khỏi tật bệnh mọi tâm hồn, đủ khả năng định hướng cho từng người đạt tới đỉnh cao yêu thương. Mến Chúa yêu người là căn bản trong toàn thể lề luật, Đức Giêsu cô đọng lại giúp tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài, chỉ cần sống trọn vẹn với Chúa và tha nhân: mùa nào cũng yêu, người nào cũng dễ mến, dễ thương.

Dù nắng hay mưa, mùa đông hay mùa xuân, tình yêu vẫn cứ đong đầy kỷ niệm. Già hay trẻ, thông thái hay chậm hiểu, vẫn được yêu thương, nếu biết chọn sống theo nhịp đập rất linh thiêng của trái tim mình. Cả một quá trình dài, người tiến sĩ luật mới gặp được Vị Thầy mà anh hết sức nể phục, anh sung sướng nhận ra “đích đến thành công” của đời người trong bốn chữ: mến Chúa – yêu người. Thấy người luật sĩ khôn ngoan trước sự thông sáng của mình, Đức Giêsu tỏ cho anh biết: “anh không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Quả thực, điều tốt nhất, tuyệt vời nhất, trên thế giới này không thể nhìn hay nghe, mà phải cảm nhận bằng trái tim. (Helen Keller). Đức Giêsu ghi nhận thế nào là mến Chúa yêu người của người thông luật, của mỗi chúng ta, nhạy cảm hơn một chút, Ngài sẽ kiểm đếm hành vi yêu thương của nhân loại bằng lòng thương xót của Thiên Chúa nhân từ. Amen.

Điều Răn Đứng Đầu

Khi nghe tin Thầy Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc bị khóa miệng, một người trong nhóm kinh sư đến gần Người và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12,28b). Phải chăng đây là cơ hội để làm Thầy Giêsu mất mặt? Họ hỏi xem Thầy có hiểu biết gì về luật và có tôn trọng luật lệ không? Nhưng Thầy nhanh chóng “tóm tắt nội dung” rõ ràng: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12,29-31). Toàn bộ lề luật được tóm gọn lại trong hai giới răn quan trọng nhất: mến Chúa – yêu người. Hôm nay Thầy nối kết hai điều răn này là một, như một sự bất khả phân ly.

Giới răn thứ nhất: Kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là điều răn quan trọng đối với người Dothái. Để nhắc nhớ, họ dán trên cửa, đeo trên đầu như thẻ kinh và đeo trên cánh tay mỗi khi cầu nguyện sáng chiều. Điều răn phổ cập toàn dân như vậy mà họ còn đem ra hỏi Thầy Giêsu, chứng tỏ họ khinh thường muốn làm khó Thầy. Một điều răn đã “khắc ghi trên trán” như vậy, nhưng chỉ dễ nhớ mà không dễ thực hành. Người Do Thái vẫn đúc bê vàng để thờ hoặc chạy theo thần ngoại bang. Ngày nay chúng con cũng thuộc nằm lòng từ bé: “Thứ nhất thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự.” (Kinh Mười điều răn). Nhưng có lúc chúng con lại đặt các thứ khác lên trên Thiên Chúa như tiền, danh, lợi, thú…

Giới răn thứ hai: yêu người thân cận như chính mình. Ai mà không yêu chính mình? Tình yêu đối với tha nhân được đo lường bằng tình yêu đối với chính mình. Đó thực sự là “khuôn vàng thước ngọc”. “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Môsê và các sách ngôn sứ dạy như thế”(Mt 7, 12). “Chớ làm cho người điều chi mà con không chịu được”(Tb 4, 15). Lý thuyết thì hay và dễ nhưng khi đối diện với hoàn cảnh cuộc sống thực tế thì xem ra rất khó.

Khi người ta yêu Chúa với tất cả tâm hồn, bằng cả con tim với tình yêu đậm đà mật thiết với Chúa, Chúa sẽ chỉ cho biết phải yêu thương anh em như thế nào, “yêu như Chúa yêu”, hiến dâng cả mạng sống… Tình yêu Chúa như ánh mặt trời. Ta thu nhận sức nóng tình yêu của Chúa qua cầu nguyện, ở lại với Chúa và sống trong Lời Chúa. Để rồi trong Chúa ta được hâm nóng tình người bằng tình yêu Chúa qua những hành động cụ thể, những cử chỉ yêu thương nho nhỏ, một nụ cười, một lời ủi an khích lệ, một ý kiến xây dựng, hành động sẻ chia vật chất, một sự tha thứ bao dung…

Chúa ơi! nhìn lên Thánh giá, con thấy Chúa không còn cách nào để yêu con hơn được nữa. Xin cho con biết tìm về sống trong Tình Yêu Chúa. Nhờ Tình Yêu Chúa hun đúc, tim con cũng thấm đẫm tình yêu ấy, để con sống chan hòa với mọi người anh em của con.

Én Nhỏ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *