Video: Người Say Yêu Thánh Thể

Người Say Yêu Thánh Thể

Tác giả : Thánh Pierre-Julien Eymard
31 Bài suy niệm về Đức Mẹ Thánh Thể

https://youtu.be/weGV4r0lmOg

Bài 1: Đức Maria, Mẹ của những người Tôn Thờ Thánh Thể

I. Nếu chúng ta không ở dưới sự che chở của Mẹ, chúng ta có thể nghi ngờ sự bền đỗ và ơn cứu rỗi của chúng ta. Ơn gọi của chúng ta gắn liền cách đặc biệt với việc phục vụ Vua các vua, càng khiến chúng ta có bổn phận phải cậy nhờ Mẹ hơn. Chúa Giêsu là vua Thánh Thể và Ngài chỉ muốn đào tạo những người phục dịch trong triều đình của Ngài, cho nên chính những người ấy phải qua thời gian thực tập. Người ta cần phải trải qua thời gian học phục vụ trước khi ra mắt nhà Vua! Do đó Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta Mẹ Ngài để làm Mẹ và làm mô phạm cho những người tôn thờ. Theo ý kiến chung, Ngài đã để Mẹ Ngài lại trên trần gian thêm khoảng hai mươi năm, để chúng ta có thể học được từ nơi Mẹ việc tôn thờ Ngài cách hoàn hảo. Cuộc sống ấy đẹp biết bao! – Hai mươi năm trôi đi trong việc tôn thờ! Khi suy nghĩ về tình yêu của Chúa Giêsu đối với Mẹ Ngài, chúng ta hết sức ngạc nhiên không hiểu sao Ngài lại đồng ý chia tay với Mẹ. Có phải vì Đức Thánh Trinh Nữ chưa hoàn hảo đủ không? Có phải vì Mẹ chưa chịu đau khổ đủ, trong khi Mẹ là người đã chịu đựng đau khổ trên đồi Canvê hơn tất cả các thụ tạo hợp một? A! Phải rồi, Mẹ thực sự đã chịu biết bao đau khổ! Nhưng ích lợi của phép Thánh Thể cần đến sự hiện diện của Mẹ. Chúa Giêsu đã không muốn ở lại một mình trong phép Thánh Thể, mà không có sự hiện diện của Mẹ Ngài. Ngài không muốn những giờ phút đầu tiên cho việc tôn thờ Thánh Thể lại được uỷ thác cho những người tôn thờ tầm thường, những người không biết thế nào là tôn thờ cho xứng đáng. Các Tông đồ buộc phải lo việc cứu rỗi các linh hồn, không thể có đủ thời giờ tôn thờ Thánh Thể. Mặc dù tình yêu muốn gắn bó họ với Đền Tạm, nhưng các bổn phận tông đồ của họ lại khiến họ đi khắp nơi. Đối với các Kitô hữu sơ khai giống như con trẻ vẫn còn nằm trong nôi, cần có một người mẹ để dưỡng dục, một mẫu gương để họ bắt chước, Chúa Giêsu đã để lại cho họ chính người Mẹ Thánh của Ngài.

II. Tất cả cuộc Đức Maria – được coi như một tổng thể – có thể tóm gọn lại trong một lời này: tôn thờ; vì việc tôn thờ là việc phụng sự Thiên Chúa cách hoàn hảo, và nó bao gồm tất cả mọi bổn phận của thụ tạo đối với Đấng sáng tạo.

Chính Đức Maria là người đầu tiên tôn thờ Ngôi Lời Nhập Thể. Ngôi Lời ở trong dạ Mẹ và không một ai trên trái đất này biết tới. Ôi Chúa chúng ta được phụng sự trong Trinh Dạ của Mẹ kỹ lưỡng chừng nào! Không bao giờ Ngài tìm thấy một chén thánh vàng nào quí giá hơn hoặc tinh tuyền hơn Cung Lòng Mẹ Maria! Sự tôn thờ của Mẹ làm vui lòng Ngài hơn sự tôn thờ của tất cả các thiên thần. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa đã đặt Nhà Tạm của Ngài ở trong mặt trời.” Mặt trời đó chính là Trái Tim Mẹ Maria.

Ở Belem, Đức Maria là người đầu tiên thờ lạy Người Con Thần Linh của mình nằm trong máng cỏ. Mẹ tôn thờ Ngài với tình yêu hoàn hảo của người Mẹ Đồng Trinh, tình yêu trinh khiết, như Thánh Thần nói. Sau Đức Maria, Thánh Giuse, các mục đồng, rồi đến các Đạo sỹ đã đến thờ lạy: nhưng chính Đức Maria là người châm ngòi cho ngọn lửa đã lan ra khắp thế giới. Và biết bao điều tốt đẹp, biết bao điều thần thiêng Đức Maria phải nói! Vì lời của Mẹ là một tình yêu nóng bỏng mà chúng ta không thể nào dò tới chiều sâu của nó.

Đức Maria đã tiếp tục tôn thờ Chúa Giêsu: trước hết trong cuộc sống mai ẩn tại Nazareth; sau đó là trong cuộc đời tông đồ của Ngài; và cuối cùng trên đồi Canvê, nơi mà sự tôn thờ của Mẹ đã biến thành nỗi khổ đau. Chúng ta hãy chú ý đến bản tính việc tôn thờ của Đức Maria. Mẹ đã tôn thờ Chúa theo những trạng thái khác nhau của cuộc đời Ngài; mỗi trạng thái của Chúa Giêsu đã xác định tính chất của việc tôn thờ của Mẹ – việc tôn thờ của Mẹ không ở yên trong một thói quen cố định. Khi thì Mẹ thờ lạy Thiên Chúa như Đấng đã huỷ mình ra không trong dạ Mẹ; khi thì như Đấng khó nghèo và thấp kém ở Belem; khi khác như Đấng đang làm lụng vất vả ở Nazareth; và sau hết như Đấng đang truyền giảng Tin Mừng khắp nước và đang cải hoá các tội nhân. Mẹ thờ lạy Ngài trong những nỗi đau khổ của Ngài trên đồi Canvê bằng cách chịu đau khổ với Ngài. Sự tôn thờ của Mẹ luôn luôn ngang với những tình cảm của người Con thần linh của Mẹ. Những tình cảm ấy rõ ràng đã được mạc khải cho Mẹ. Tình yêu của Mẹ đã đưa Mẹ đến sự thuận hợp tư tưởng và đời sống với Ngài.

III. Đối với anh em, những người tôn thờ, chúng tôi nói: hãy thờ lạy Chúa Giêsu Thánh Thể luôn, nhưng hãy thay đổi cách tôn thờ của anh em như Đức Thánh Trinh Nữ đã làm. Hãy gợi lại trong trí khôn anh em tất cả các mầu nhiệm của đạo trong mối liên kết với Thánh Thể, cho đỡ nhàm chán. Nếu tình yêu của anh em không được nuôi dưỡng bằng một hình thức tôn sùng mới, một tư tưởng mới, anh em sẽ trở nên chán cầu nguyện. Vì lý do đó chúng ta nên tưởng nhớ tất cả các mầu nhiệm trong Thánh Thể. Đó chính là cách Đức Maria đã cầu nguyện trong nhà Tiệc Ly.

Khi đã đến ngày mừng những kỷ niệm đã từng diễn ra trước mắt Mẹ, chúng ta không thể nào không nghĩ rằng Mẹ nhớ lại các hoàn cảnh của chúng – những lòi nói, vẻ yêu kiều. Chẳng hạn khi đến ngày Giáng Sinh, chúng ta lại có thể tưởng tượng Đức Mẹ không nhắc lại cho Con Mẹ, bây giờ đang ẩn náu dưới tấm màn Thánh Thể, về tình yêu mà Mẹ đã đón chào Ngài khi sinh ra Ngài, về những nụ cười, việc thờ lạy của Mẹ cũng như của Thánh Giuse, các mục đồng và các Đạo sỹ, hay sao? Do đó Mẹ ước mong làm cho Trái Tim Chúa được vui bằng cách nhắc lại cho Ngài về tình yêu của Mẹ, và đối với tất cả các mầu nhiệm khác cũng như vậy.

Vậy chúng ta sẽ hành động thế nào với một người bạn? Chúng ta có luôn luôn nói với bạn về chuyện hiện tại không? Chắc chắn là không! Chúng ta gợi lại những kỷ niệm quá khứ, chúng ta cùng nhau sống lại những kỷ niệm ấy. Khi chúng ta muốn tán tụng cha hoặc mẹ, chúng ta gợi lại tình yêu của họ, lòng tận tuỵ không biết mệt mỏi của họ đã tỏ ra với chúng ta khi chúng ta còn thơ ấu. Tương tự, Mẹ Maria, trong khi tôn thờ ở nhà Tiệc Ly, cũng đã nhắc lại cho Chúa Giêsu tất cả những gì Ngài đã làm cho vinh quang Cha Ngài, tất cả những hy sinh vĩ đại Ngài đã thực hiện, và bằng cách đó, Mẹ tham dự vào ân sủng Thánh Thể.

Thánh Thể là kỷ niệm của tất cả các mầu nhiệm trong đạo; Thánh Thể canh tân tình yêu và ân sủng của các mầu nhiệm đó. Và như Đức Maria, chúng ta phải thích ứng với ân sủng này, bằng cách quan chiêm Chúa Giêsu trong tất cả các hành động của Ngài, bằng việc thờ lạy và kết hợp với Ngài trong tất cả các trạng thái khác nhau của đời sống Ngài.

Thánh Thể có năng lực hấp dẫn đối với Đức Thánh Trinh Nữ đến nỗi Mẹ không thể sống tách lìa khỏi Thánh Thể. Mẹ sống trong Thánh Thể và bởi Thánh Thể. Mẹ đã sống qua ngày cũng như đêm dưới chân người Con thần linh của Mẹ. Thật vậy, Mẹ đã ban thưởng cho lòng sùng kính thơ thảo của các Tông đồ và tín hữu nào ước muốn chiêm ngắm và trò truyện với Mẹ, nhưng tình yêu đối với vị Thiên Chúa ẩn thân của Mẹ đã chiếu sáng trên gương mặt Mẹ và thông chuyển mãnh lực của nó tới toàn thể con người Mẹ.

Ôi Maria! Xin dạy chúng con biết sự sống tôn thờ! Hãy dạy chúng con biết chiêm ngắm, như Mẹ đã làm, tất cả các mầu nhiệm và tất cả các ân sủng của phép Thánh Thể; để làm sống lại câu chuyện Tin Mừng và đọc lại nó dưới ánh sáng sự sống Chúa Giêsu Thánh Thể. Lạy Đức Mẹ Thánh Thể, xin hãy nhớ Mẹ là Mẹ của tất cả những người tôn thờ phép Thánh Thể.

NHỮNG MẪU GƯƠNG

Trong số những nhân vật Thánh thiện sáng chói thuộc thế kỷ XVIII, chúng ta thấy có nhiều vị dạy chúng ta cách thể liên kết việc tôn thờ Thánh Thể với việc tôn sùng Đức Maria và việc này hỗ trợ cho việc kia.

Đức Hồng Y đáng kính Bérulle, người có danh hiệu “Tông đồ của Ngôi Lời Nhập Thể” do Đức Thánh Cha Urbano VIII đặt cho, mà các quan điểm của ngài về Đức Thánh Trinh Nữ xem ra có vẻ thiên thần hơn là loài người; và cũng có cha Condren, người mà theo như các bậc đại tiến sỹ đồng thời, đã nhận được những ánh sáng siêu việt về những mầu nhiệm này, có thói quen dâng lễ kính Đức Mẹ vào mỗi Thứ Bảy. Cha Olier, Đấng sáng lập tu hội Xuân Bích, đồng thời là nhà cải cách hàng giáo sỹ, cũng đã học các vị ấy thói quen đạo đức này. Mỗi ngày ngài cử hành ba Thánh lễ, dâng ý chỉ mỗi Thánh lễ trong tay Đức Mẹ, để Mẹ có thể, khi dâng lên Con Mẹ cầu cho Giáo Hội, xin được những kho tàng ân sủng bất tận.

Cũng có một nhà thừa sai Dòng Tên ở Québec, người đã đề nghị với Thánh Gioan Euđê, nhà sáng lập hội dòng mang tên ngài, một dự án cho hiệp hội các linh mục, những người mà ngài gọi là các vị Tuyên uý của Đức Mẹ, và ngài là người đã nhất trí trong việc dâng Thánh lễ theo ý Đức Nữ Vương Thiên Đàng oai nghiêm, để Con Thiên Chúa khi nhận được sẽ chuyển lên Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần, qua bàn tay của Đấng mà Ngài đã dùng để đến với chúng ta trong thân phận con người (Vie de M. Olier, t. II Passim).

Thực hành – Dâng việc tôn thờ của chúng ta lên Chúa Giêsu qua bàn tay Mẹ Maria.

Hoa thiêng – Ôi Maria, Mẹ được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Chúa Giêsu Thánh Thể, quả phúc của lòng Mẹ đầy phúc đức!

 

Bài 2: Hoài Thai Vô Nhiễm Và Hiệp Lễ

Sự hoài thai Vô Nhiễm của Đức Maria đã được tiên báo ngay trong vườn địa đàng. Đức Thánh Trinh Nữ là người nữ đã dùng gót chân đạp dập đầu con rắn hoả ngục. Thiên Chúa khi tạo dựng vĩ đại trên thần dữ; Ngài đã tái lập chủ quyền Ngài trên trái đất, Ngài trở lại với cuộc sáng tạo như chủ tể!

Chủ yếu vì vinh quang Ngài mà Thiên Chúa giữ gìn Đức Maria khỏi vết nhơ nguyên tội, vì trong tất cả mọi việc Thiên Chúa làm, Ngài đều nhằm tìm lợi ích cho vinh quang Ngài trước hết. Mỗi một người đều sinh ra với tội lỗi và vết nhơ của tội, nên Thiên Chúa không hoàn toàn làm chủ được, Ngài không thể cai trị nó trọn vẹn. Satan cầm buộc linh hồn ngay từ khi nó được sáng tạo. Thiên Chúa đã tạo dựng và Satan chiếm lấy tác phẩm của Ngài. Vinh quang Thiên Chúa bị hạ nhục trong các thụ tạo Ngài. Và khi Thiên Chúa đuổi Ađam và Evà ra khỏi vừng Địa đàng, Satan đã chiến thắng trên Thiên Chúa: đó là chiến thắng của nó.

Nhưng kìa Đức Maria! Mẹ được Thiên Chúa che chở, gìn giữ bằng một đặc ân hết sức đặc biệt. Mẹ được thụ thai một cách tự nhiên, giống như toàn thể nhân loại từ sau Ađam, nhưng Thiên Chúa buộc lòng phải giữ Mẹ không tì ố. Evà, người mẹ đầu tiên, đã bị nhơ ố; Đức Maria, người Mẹ đích thực của sự sống, sẽ được Vô Nhiễm. Thiên Chúa phủ bóng trên Mẹ; Mẹ là khu vườn khép kín, là mạch suối niêm phong của Ngài, mà nước ở đó chỉ duy mình Đức Vua mới được uống. Satan không dám đến gần Mẹ, Mẹ được sinh ra dưới những cánh tay của tình yêu Thiên Chúa: Dominus possedit me in initio viarum suarum – Nữ Tử đích thực của Thiên Chúa! Primogenita ante omnem creaturam. Ngôi Lời không thể nào phải chịu xấu hổ vì Mẹ mình.

Thiên Chúa ban cho Mẹ mọi sự: khi nhìn vào Đức Maria, Thiên Chúa thấy danh dự và vinh quang Ngài. Cả Ba Ngôi cực thánh đều góp phần vào ơn Vô Nhiễm của Đức Maria; vinh quang của cả Ba Ngôi Thần Linh đòi hỏi điều đó: vì Satan đã có thể chặn trước Thiên Chúa, Satan muốn là kẻ chiến thắng, vì con người có tu sửa đến đâu cũng không thành vấn đề gì, sinh ra đã là nô lệ thì luôn luôn mang dấu vết.

Nhưng bằng cách này thì vinh quang Thiên Chúa đã được tái lập trong nhân loại hình ảnh Thiên Chúa được đúc nặn lại và được phục hồi. Bây giờ Thiên Chúa có thể không có gì phải ngại xuống cư ngụ nơi Đức Maria, vì Mẹ là Nhà Tạm tinh tuyền hơn mặt trời. Nhờ lòng tinh tuyền, Đức Maria là vườn địa đàng của Thiên Chúa: với Mẹ, Ngài sẽ canh tân thế giới.

Hãy nhìn vào cái mà sự Hoài Thai Vô Nhiễm đem lại cho chúng ta: trước hết là Chúa Giêsu Kitô; Đức Maria là rạng đông của mặt trời công chính xinh đẹp. Rồi đến các thánh, họ là những vì sao rực sáng trên bầu trời Giáo Hội. Tất cả đã được đào tạo nhờ Đức Maria; mọi sự đều đến với chúng ta thông qua vườn địa đàng của Thiên Chúa này. Sự Hoài Thai Vô Nhiễm là nguồn mạch của tất cả mọi ân sủng mà chúng ta đã lãnh nhận. Về phần Mẹ, Mẹ Maria mới chỉ là một vết chấm nhỏ ở chân trời, giống như đám mây nhỏ mà tiên tri Elia đã nhìn thấy; nhưng Mẹ cứ lớn dần, lan rộng ra, cho tới khi ảnh hưởng thần linh của Mẹ tràn ngập khắp thế giới.

II. Nhưng đối với chúng ta, những người tôn thờ, thì còn có một cái gì đó hơn thế nữa trong sự Hoài Thai Vô Nhiễm. Nếu Thiên Chúa đã gìn giữ Đức Maria như vậy, thì đó là vì Ngài muốn cư ngụ trong Mẹ; Ngài đã muốn đến thăm trái đất và ở trong nơi cư ngụ Thánh thiện, tinh tuyền và không vết nhơ. Ngôi Cha hằng hữu và Ngôi Thánh Thần đã thánh hoá Đức Maria để làm cho Mẹ trở nên Đền Tạm xứng đáng cho Ngôi Lời thần linh: vì đây là điều cần thiết để tạo nên một Ngôi Lời vào trong con người Mẹ. Sự Hoài Thai Vô Nhiễm là sự chuẩn bị xa cho việc Hiệp Lễ. Ôi Ngôi Lời lại không lấy làm mãn nguyện chiêm ngắm nơi ở mà Ngài đã dọn cho chính mình ư?! Ngài sẽ vội vã đến đó ngay thôi: Exultavit ut gigas.

Chúa Giêsu cũng phải được cảm nếm niềm vui như thế khi Ngài đến với chúng ta lúc Hiệp Lễ. Ngài nóng lòng mong mỏi đến giờ phút chúng ta đem Ngài ra khỏi Nhà Tạm; Ngài muốn có thể đến với chúng ta với nỗi khoái vui như thể đến với Đức Maria. Ngài sẽ được như thế nếu chúng ta trong trắng. Ngài không mong điều gì khác nơi chúng ta trừ ra việc dọn lòng cho sạch sẽ. Vậy, đối với chúng ta, sự tinh sạch thuần khiết để rước lễ phải là hoa trái của sự Hoài Thai Vô Nhiễm. Không có nó tất cả các nhân đức khác đều không giá trị gì; thiếu vắng nó, Chúa sẽ đến với chúng ta với một cảm giác ghê tởm, linh hồn chúng ta với một cảm giác ghê tởm, linh hồn chúng ta sẽ chỉ là nơi đày đoạ Ngài. Ngài sẽ nói với vị linh mục của Ngài: “A! Con sẽ đem Cha đi đâu đấy? Đi vào trái tim không thuộc về Cha ư, trái tim mà kẻ thù của Cha đã chiếm giữ ư? Hãy để Cha đi vào Nhà Tạm?”

Ôi Maria, hãy cho con mượn tà áo tinh tuyền của Mẹ; hãy mặc cho con trong cái trắng ngần, trong vinh quang của ơn Vô Nhiễm Thai của Mẹ! Bà mẹ vốn có bổn phận trang điểm cho con cái bà để đi dự yến tiệc. Ôi Maria, hãy mặc cho con bằng chính Mẹ, Chúa Giêsu sẽ đón nhận con; Ngài sẽ hài lòng đến với con, vì Ngài sẽ nhìn thấy Mẹ trong con, và Ngài sẽ tìm thấy niềm vui sướng của Ngài trong nơi lưu ngụ trái tim con.

ĐỨC THÁNH TRINH NỮ XIN NGƯỜI TA TÔN KÍNH THÁNH THỂ

Tại  một đan viện Benedictine ở Florence, vào tháng mười hai năm 1230, một linh mục đáng kính già cả, mắt kém nên đã để sót lại trong chén thánh một giọt rượu đã hiến thánh, đột nhiên vào lúc tráng chén, giọt rượu đó biến đổi thành máu đỏ thẫm.

Ba ngày sau đó một phép lạ khác đã xảy ra: giọt rượu đã biến thành máu được đổ vào trong một chiếc bình thuỷ tinh để rửa, lại mang dáng vẻ bề ngoài một miếng thịt người và, bằng năng lực riêng, treo lơ lửng bên trong mà không hề chạm vào thành của bình; đồng thời rượu nho chưa hiến thánh dùng để rửa, đã đổ vào tới nửa bình, lại trở thành một thứ nước màu hồng nhạt và ngay sau đó bốc hơi hết không để lại dấu vết ẩm ướt nào.

Trời cao hai lần lên tiếng yêu cầu tôn kính Mẩu Thịt lạ lùng này. Lần thứ nhất xảy ra cho chính Đức Giám Mục thành Florence. Trong khi ngài đang ngủ, có một tiếng lạ lùng nói với ngài ba lần khác nhau: “Hỡi Giám Mục, người đã tiếp nhận Ta trần trụi và đã để Ta ra đi trần trụi”; sở dĩ có lời khiển trách như thế là vì vị Giám Mục này đã tỏ ra cứng lòng tin đối với di tích thánh tạm thời đang trong quyền ngài, và vì ngài đã gửi trả lại cho đan viện đã công bố thánh tích ấy, mà không có lòng tôn kính. Để sửa chữa lỗi lầm này, ngài đã ra lệnh cho làm một Nhà Tạm bằng ngà dát vàng và phủ vải điều, để dùng như một nơi lưu ngụ cho Thân Xác Đấng Cứu Chuộc.

Một lời cảnh cáo khác từ trời đã đến ngay sau đó, để đòi phải có sự tôn sùng mới cho phép lạ Thánh Thể. Đức Thánh Trinh Nữ, Người vẫn canh giữ Nhà Tạm chứa Thánh Thể, như đã canh giữ chỗ còn tồn tại của nơi Chúa Giêsu sinh ở Belem, đã hiện ra trong giấc mơ với một em bé tại nữ đan viện nơi xảy ra phép lạ, và nói với em: “Hãy đi nói với chị Margarita (chị giữ đồ thánh và sau này trở thành Mẹ Bề trên ở Ripoli) và cho chị ấy biết rằng Thánh Thể của Chúa Giêsu Con Mẹ đang bị vứt bừa bãi dưới đất ở gần nhà thờ này”, Ildebandesca đã vâng lời Đức Thánh Trinh Nữ và đã làm tròn sứ mạng Mẹ trao ngay sáng hôm đó: được ơn trên soi sáng, Chị Margarita đã hiểu ngay sứ điệp nhiệm mầu. Các nghệ nhân khéo tay lập tức được lệnh làm ngay một Bình Thánh quí giá, và Đức Giám Mục đích thân đến đặt Nhiệm Tích Cực Thánh và lạ lùng ấy vào trong đó với tất cả lòng cung kính phải có. (Les Miracles historiques du Saint Sacrement, par le P. Eugène Couet).

Thực hành – Tôi sẽ dọn mình hết sức cẩn thận để hiệp lễ với Mẹ Maria.

Hoa thiêng – Chúa Giêsu Bánh Thánh yêu quí nơi lưu ngụ thánh thiêng là Cung Lòng Mẹ Maria hơn tất cả Nhà Tạm Giacop.

 

Bài 3: Của Hồi Môn Của Đức Maria Vô Nhiễm

I. Vào ngày Thụ Thai Vô Nhiễm, Đức Maria đã lãnh nhận một của hồi môn lộng lẫy qua việc giữ những bổn phận trác việt và phẩm chức khôn sánh: chức Mẹ Thiên Chúa. rồi Mẹ đã lãnh nhận ho tàng ân sủng, nó làm cho Mẹ nên Đấng Đồng Công Cứu Chuộc nhân loại, nên người góp phần vào công cuộc cứu chuộc chúng ta.

Không thể hoài nghi được ơn Vô Nhiễm Thai vượt trên tất cả mọi ơn khác đã được ban cho Mẹ, ngay cả ơn làm Mẹ Thiên Chúa. Cho dù có kém hơn theo phẩm chức, thì nó cũng quan trọng hơn trước mặt Chúa và cũng quan trọng hơn đối với Đức Maria; hơn nữa, nó còn là nền tảng và là nguồn mạch của tất cả mọi đặc ân sẽ được ban cho Mẹ về sau. Thật là chẳng hợp lý chút nào nếu vừa là Mẹ Thiên Chúa vừa là tội nhân. Điều làm nên sự cao trọng trước mắt Thiên Chúa, không phải là chức tước Ngài ban tặng, nhưng là sự thánh thiện và tinh tuyền mà nhờ đó phát sinh phẩm tước ấy. Bởi vì người ăn mày ăn xin có được cho mặc áo cẩm bào, thì vẫn là người ăn mày ăn xin. Sự Hoài Thai Vô Nhiễm vì bảo đảm sự trong trắng thánh thiện của Đức Maria nên đó là ơn vĩ đại nhất trong các ơn của Mẹ. Từ phút giây đầu tiên được sáng tạo, Đức Maria đã làm hài lòng Thiên Chúa hơn tất cả các thụ tạo khác. Từng cử chỉ yêu mến từ thụ tạo yếu ớt còn ẩn trong dạ thân mẫu đó cũng đem lại vinh quang cho Thiên Chúa hơn tình yêu của tất cả các thiên thần và các thánh hợp lại. Lợi nhuận thì luôn luôn cân xứng với vốn đầu tư; và Đức Maria đã sở hữu một kho ân sủng khôn lường phát sinh hoa lợi gấp trăm.

II. Sự Hoài Thai Vô Nhiễm là khởi điểm của tất cả mọi nhân đức của Mẹ Maria. Đó là nhân đức trổi vượt của Mẹ theo ý nghĩa là Mẹ đã luôn luôn nỗ lực làm phát sinh phong phú các ân sủng.

Chúng ta có thể nói như một nguyên tắc rằng Mẹ chưa bao giờ thất trung với ơn soi sáng nhỏ nhẹ nhất của Thánh Thần, và đã hợp tác hết sức trọn vẹn với tất cả những ân sủng được ban cho Mẹ. không một vị thánh nào đã trung tín được như thế. Chúng ta luôn luôn thất bại trước điều mà ân sủng mong đợi nơi chúng ta. Vì lý do đó, Sứ Thần mới gọi Đức Maria là “Đầy ân sủng”; ngài nói với Mẹ: “Chúa ở cùng Bà”, – ở cùng bà luôn luôn và trong hết mọi sự. Không có chỗ trống nào mà ân sủng không đổ đầy. A! Đức Maria đã trung thành với hết mọi bổn phận, với hết mọi ước muốn của Thiên Chúa! Mẹ chưa bao giờ bỏ lỡ mất cơ hội nào để thực hành nhân đức. Mẹ tiếp nhận hết mọi tia sáng của sự thánh thiện Thiên Chúa, thu hút chúng vào trong hữu thể Mẹ mà không để mất đi chút nào.

Sự trung tín với ân sủng đó đã làm cho Mẹ không ngừng tiến lên trên đường nhân đức. Mẹ luôn luôn canh chừng gìn giữ kho tàng ân sủng của Mẹ như thể sợ chúng mất đi. Thật là một bài học cho chúng ta! Dù chúng ta có ân sủng gì đi chăng nữa, chúng ta cũng hãy canh giữ chúng cẩn thận! Đức Maria, người không thể phạm tội, không do bản tính, nhưng do kết hợp với Thiên Chúa; Mẹ là người mà cơn cám dỗ không bao giờ bén mảng tới, thế mà Mẹ đã giữ mình rất gắt gao và không ngừng làm việc để thánh hoá mình. Sự thánh hoá của Mẹ là một tiến trình liên tục trên đường nhân đức. Mẹ đã rút vào Đền Thờ từ thuở lên ba để xa tránh những gương mù của trần thế. Mẹ đã run rẩy trước vị thiên thần thuần thiêng, người chỉ nói về Thiên Chúa. Mẹ Maria không bao giờ cho rằng Mẹ đã làm đủ. Đoạn đời sau này của Mẹ là một cuộc đời tử đạo kéo dài mà không giảm nhẹ chút nào. Mẹ Maria đã thêu lên tấm áo choàng Vô Nhiễm, làm cho nó phong phú thêm và trang điểm bằng những hoa nhân đức; đó vẫn luôn luôn chính là ân sủng ban đầu mà Mẹ đã phát triển lên và điểm tô bằng những hy sinh của Mẹ.

III. Sự Hoài Thai Vô Nhiễm còn là mức đo quyền năng và vinh quang Mẹ. chúng ta có được ưu thế với Thiên Chúa chính là nhờ sự trong trắng và thánh thiện của chúng ta. Thiên Chúa chỉ có thể hoàn tất những điều vĩ đại trong những linh hồn trong trắng; Ngài chỉ nghe người vô tội hoặc đã được xoá tội. Đức thanh khiết của Mẹ Maria chưa bao giờ bị một dấu vết nhỏ nhất làm cho lu mờ; vậy Con của Đức Maria có thể từ chối Mẹ mình điều gì! Mọi ân sủng đều phải qua tay Mẹ; Mẹ là kho chứa muôn ơn. Chúa Giêsu đã đặt vào tay Mẹ quyền toàn năng của Ngài trong trật tự cứu độ.

Còn vinh quang của Đức Maria thì sao? Sự trong trắng của Mẹ đã khiến Mẹ đoạt được đặc ân trở nên Mẹ của Đức Vua, và ngày nay Mẹ được tôn lên ngai bên hữu Con Mẹ trên Thiên đàng. Mẹ đã nhận được hết mọi vinh dự và sự kính tôn có thể có, chỉ thiếu có sự tôn thờ. Mẹ xinh đẹp và vinh hiển đến nỗi Mẹ có thể tự mình làm nên hạnh phúc Thiên Đường!

IV. Như vậy tất cả mọi ân sủng và nhân đức, tất cả mọi quyền năng và vinh quang của Đức Maria đều phát xuất từ ơn Hoài Thai Vô Nhiễm. Có thể nói chúng là của hồi môn lộng lẫy của ơn đó. Phép Rửa Tội thanh tẩy chúng ta, làm chúng ta hết vết nhơ. Ngay sau khi đứa trẻ được lãnh nhận bí tích này, nó liền trở nên đền thờ của Thiên Chúa, nên một vườn địa đàng. Chúng ta phải hết sức giữ gìn tình trạng vô tội do phép Rửa Tội đem lại! Nếu lỡ đánh mất, chúng ta hãy thanh tẩy bằng sự sám hối. Chúng ta phải trong trắng. Tôi không chỉ nói về sự trong trắng của giác quan; chúng ta phải chú ý giữ sự trong trắng lớn lao trong tất cả các hành động của chúng ta; hãy có sự trong trắng lớn lao của ý chí, của chủ ý; hãy chiếm hữu sự trong trắng suốt cả cuộc đời – mọi sự đều nằm trong đó. Thiếu sự trong trắng, chúng ta không thể làm vui lòng Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Ngài là chính sự trong trắng. Chỉ có con tim trong trắng mới có thể nhìn thấy Ngài, mới có thể xuyên qua bức màn đang che dấu Ngài. Ngài chỉ tỏ mình ra cho con tim trong trắng, vì sự trong trắng là tình yêu, tình yêu tinh tế đó không bao giờ muốn có một sự xúc phạm nhỏ nhất. Công việc Chúa Giêsu đến thăm linh hồn cũng là để thanh tẩy chúng ta dần dần: trong việc thanh tẩy chúng ta, Ngài làm cho chúng ta nên thánh; khi làm cho chúng ta nên thánh, Ngài kết hợp chúng ta với Ngài cách mật thiết hơn. Khi chúng ta đã đủ trong trắng, Ngài sẽ đem chúng ta về với Ngài trên Thiên đàng và ở đó Ngài sẽ trao cho chúng ta triều thiên vinh quang bất diệt.

ĐỨC MẸ CANH GIỮ BÁNH THÁNH

Vào ngày 29/01/1772, ngôi làng Saint Pierre de Paterno, toạ lạc cách Naples khoảng hai dặm, xảy ra một vụ phạm thánh kinh khủng. Bọn cướp đã đánh cắp trong Nhà Tạm hai bình chứa đựng hàng trăm Bánh Thánh đã truyền phép. Nhờ một sự can thiệp rất lạ lùng người ta mới tìm thấy những Bánh Thánh này. Trên cả hai địa điểm chôn vùi Bánh Thánh xuất hiện những tia sáng. Trước hết, vào sáng ngày 26 tháng hai tiếp đó, một linh mục ở Naples đang đào đất dưới gốc cây bạch dương, bỗng thấy một luồng sáng chói loà phát ra và ngài vui sướng tìm được bốn mươi Bánh Thánh. Mặc dù đang là mùa đông khắc nghiệt và mưa gió, các Bánh Thánh vẫn còn trắng tinh, không tì vết và như trong tình trạng được bảo quản tốt, chỉ có ở ngoài rìa hơi bị vấy bùn. Hơn nữa đất dính vào Mình Chúa Giêsu Kitô, hoàn toàn khô ráo, được gom lại trong tấm vải sạch, đã bắt đầu chảy ra nước trong vắt. Chiều thứ năm sau đó phần còn lại của số Bánh Thánh đã bị lấy cắp được tìm thấy cũng một cách lạ lùng tương tự; chúng cũng được bảo quản tốt y như số bánh được tìm thấy trước đó.

Điều được kể trên đây cũng phù hợp với bằng chứng sau đây mà chúng tôi có được do linh mục Matthia Anna chánh xứ Paterno, và bằng chứng đó cũng là tiếng vang của truyền thống không thay đổi trong phần đất quốc gia đó. Trong khoảng thời gian giữa vụ trộm phạm thánh và lúc ánh sáng xuất hiện, có một người đánh xe lừa tên là Francis Jodice, 27 tuổi, vốn có thói quen trở về Naples vào lúc chập tối, anh ta đã thấy trong cánh đồng, nơi Bánh Thánh được chôn vùi, một người đàn bà hướng về phía gốc cây. Một hôm anh ta đánh bạo đến hỏi bà ta làm gì một mình trong cánh đồng như thế. Bà trả lời: “Tôi ở đây để canh giữ con tôi”. Khi đã tìm thấy những bấm tấm Bánh Thánh người ta mới hiểu rõ người đàn bà ấy chính là Đức Thánh Trinh Nữ Maria.

Đối với những Bánh Thánh mà quyền phép Chúa đã làm biết bao điều lạ lùng này, vị tổng đại diện ở Naples đã tra xét theo giáo luật, và đã đặt vào trong hai bình thuỷ tinh được cột lại bằng những dải lụa, để sau này có thể trưng bày cho các tín hữu tôn kính. (Les Miracles historiques du Saint Sacrement, par le P. Eugène Couet).

Thực hành – Trong tất cả các lần Hiệp lễ chúng ta nên xin Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta được ơn sống đời trọn lành trong trắng.

Than thở – Ôi Maria, chúng con hát ca tán tạ Mẹ, Mẹ là thành thánh vinh quang của Thiên Chúa trong Thánh Thể!

 

Bài 4:  Đức Thánh Trinh Nữ Sinh Ra

Chúng ta hãy hoan hỷ mừng ngày sinh của Đức Nữ Vương và Mẹ chúng ta, ngày đó làm cho Thiên Đàng chan chứa niềm vui, trái đất tràn đầy hy vọng và hoả ngục run giùng khiếp sợ. Cuối cùng, chúng ta hãy nhìn xem “người nữ uy hùng”, người được tiền định làm Mẹ Đấng Messia!

Không thấy ở đâu nói đến nơi chốn hoặc hoàn cảnh Đức Mẹ sinh ra, nhưng chúng ta có thể dễ dàng đoán được rằng Mẹ sinh ra trong cảnh nghèo khó giống như Con Chí Thánh của Mẹ. Thánh Gioankim và Anna là những người nghèo. Các ngài thuộc dòng tộc Lêvi, và sống nhờ vào tiền thuế thập phân của Đền Thờ. Tuy nhiên, Đức Maria được sinh ra trong ánh quang ngời sáng vượt xa trên tất cả các nữ nhi sang giầu trên thế giới này.

I. Đức Maria cũng có sự cao trọng tự nhiên. Mẹ được sinh ra là con gái, là nữ nhi, và là người thừa kế các vua Giuđa. Ngôi Lời muốn được sinh ra bởi người mẹ vương giả. Ngài đã muốn, theo xác thịt, là hoàng thân quốc thích, để tỏ cho thế giới biết rằng mọi hoàng tộc đều phát xuất từ Ngài, và các vua chúa nên nhận Ngài làm Tôn sư và là người cầm quyền cai trị. Do đó, Mẹ Ngài phải là Nữ Vương. Cũng như Con của Mẹ là Vua mà không có vương quốc trên trần gian, không có của cải giầu sang hoặc quân đội, thì Mẹ cũng nghèo nàn và không được biết đến. Vẻ xa hoa trần thế không tạo nên vương tính, đó chỉ là hào nhoáng bên ngoài; nhưng dù khi vương quyền không được biết đến, thì quyền bính ấy vẫn hiện hữu. Tuy nhiên, sẽ đến ngày vương tính của Mẹ Maria cũng như của Con Mẹ được công bố, và nhận được sự tôn kính xứng đáng. Giáo Hội đã chào Mẹ là Nữ Vương – Nữ Vương trời đất: “Salve Regina!” Sứ Thần đã loan báo điều đó: “Dabit illi Dominus Deus sedem David patris ejus” – “Hỡi Maria, Chúa sẽ ban cho Con Bà ngai vàng David, tổ phụ Ngài”. Nhưng trước khi ngày đó đến, Ngài phải chịu một cuộc sống khiêm nhường, khó nghèo và đau khổ.

II. Đức Maria có tất cả sự cao trọng siêu nhiên. Sự cao trọng siêu nhiên chỉ là sự phản ánh của Thiên Chúa trên thụ tạo mà Ngài đã liên kết với Ngài trong quyền năng và vinh quang. Vậy Thiên Chúa đã làm điều gì cho Đức Maria? Ngài đã liên kết Mẹ với những mầu nhiệm vĩ đại của Ngài. Chúa Cha gọi Mẹ là nữ tử, Chúa Con yêu Mẹ như Mẹ mình, trong khi Chúa Thánh Thần canh giữ Mẹ như Hiền Thê mình. Mẹ đã được tiền định để tham phần vào công cuộc vĩ đại của quyền năng Thiên Chúa. Mẹ được liên kết với vương quyền của chính Thiên Chúa. Do đó chúng ta hãy chiêm ngưỡng Mẹ như thế vào ngày tuyệt vời Mẹ sinh ra. Cùng với thánh Gioan, chúng ta hãy nhìn ngắm Mẹ mặc mặt trời, amicta sole, từ Tay Thiên Chúa mà đến, toả ánh sáng thần linh Ngài. Mẹ được thấu nhập với những tia sáng Thần tính, giống như trong một bầu thuỷ tinh được ánh sáng mặt trời chiếu vào. Mẹ đạp chân lên mặt trăng, tượng trưng quyền lực kiên quyết vững bền, vì Mẹ đã chiến thắng, một lần và mãi mãi, con rồng hoả ngục. Trên đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao, – là các ân sủng và nhân đức của người được kén chọn, Mẹ Maria là trung tâm điểm của cuộc sáng tạo. Chúa Giêsu đã trao phó cho Mẹ tất cả các phương thế cứu độ, và Mẹ được tôn vinh bởi tất cả các thánh, những người là công trình yêu thương và che chở của Mẹ.

III. Mẹ Maria được sinh ra với tất cả những cao trọng cá nhân. Mẹ được giầu có với những tặng ân chọn lọc nhất của Thiên Chúa. Nhưng vào ngày Mẹ sinh ra, Mẹ đã là giầu sang trong chính con người Mẹ; Mẹ đã kiếm được những kho tàng công trạng thờ lạy không dứt suốt chín tháng im lặng trong dạ thân mẫu. Ngay cả trước khi sinh, Mẹ đã được thấu nhập với ánh sáng thần linh, Mẹ đã tự hiến mình hoàn toàn cho Thiên Chúa. Mẹ đã yêu Ngài với một tình yêu mà chúng ta không thể nào tưởng tượng cho đúng được; và Mẹ đã chào đời với những kho tàng Mẹ đã sắm được, với những giầu sang Mẹ tạo ra. Ôi! Giá mà chúng ta có thể nhìn thấy bằng tinh thần, cuộc sinh hạ của Mẹ Maria, có thể nhìn thấy mặt trời đó mọc lên trên đại dương của tình yêu Thiên Chúa! Trí khôn Mẹ chứa đựng ánh sáng tinh tuyền nhất; Trái Tim Mẹ mang tình yêu nồng nàn nhất; và ý chí Mẹ có một lòng sùng kính tuyệt đối nhất. Không bao giờ có một thụ tạo nào có cuộc sinh hạ như vậy!

Ngay còn trong nôi, Đức Maria đã là niềm hoan hỉ của Ba Ngôi Thiên Chúa, là sự kinh ngạc của các thiên thần. Họ hỏi nhau: “Ai mà được đặc ân dường ấy, ai mà ngay phút giây đầu đời, đã được giầu có nhân đức và được trang điểm vinh quang dường ấy?” – Quae est ista?

Và các ma quỉ cũng run giùng; chúng trông thấy Mẹ như Đấng tiến lên chống lại chúng, “mạnh như đạo binh đang dàn trận”: chúng cảm thấy sự thất bại nhục nhã của tên thủ lãnh chúng và chúng đã thấy trước cuộc chiến khủng khiếp mà con trẻ này một ngày kia sẽ tuyên chiến chống lại chúng: Sicut acies ordinata.

Nhưng trần thế hân hoan, vì nó thấy sự giải thoát đang đến. Cuộc sinh hạ của Mẹ báo trước cuộc sinh ra của Đấng Cứu Chuộc. Ô vâng, chúng ta hãy thật sự hân hoan! Nativitas tua gaudium annuntiavit universo mundo.

Một cách tương tự, chúng ta cũng hãy hân hoan, vì Đức Maria đang mang cho chúng ta Bánh Sự Sống. Từ ngày Mẹ sinh ra, chúng ta kính chào Mẹ như bình minh của phép Thánh Thể, vì chúng ta biết rằng Đấng Cứu Chuộc nhân loại sẽ lấy từ Mẹ bản thể Mình và Máu mà Ngài sẽ ban cho chúng ta trong phép bí tích đáng tôn thờ của tình yêu Ngài.

THÁNH PHÊRÔ VERONA VÀ BÈ MANIKÊ

Một người Công Giáo thành Milan đã có thói quen tiếp đón nồng hậu thánh Phêrô Verona, khi ngài ngược xuôi lo việc tông đồ. Một chiều kia thánh Phêrô đến đó, hoàn toàn kiệt quệ vì mệt nhọc. Vị chủ nhà mọi khi vẫn hiếu khách và đầy lòng tôn kính, nay lại hầu như muốn đóng sầm cửa lại trước mặt ngài. Tại sao lại có sự thay đổi này? Cuối cùng trong khi đàm đạo, vị chủ nhà mới thổ lộ nỗi bất an của mình. Có một người lạc giáo Manikê đã đến gặp ông ta và trách cứ ông vì ông đã dành cho “kẻ thù của chân lý” sự tiếp đón nồng hậu, và sau hết, người ấy nói: “Hãy đi với tôi; tôi sẽ cho anh thấy Đức Thánh Trinh Nữ, Người sẽ nói cho anh nhiều điều hơn thế nữa.” Bị tính tò mò thúc đẩy, ông ta đã đi theo gã đàn ông đến chỗ hội họp của giáo phái. Một bà lạ hiện ra tay bồng đứa con, bà nói: “Hỡi con, con lầm lạc mất rồi, con có thể tìm chân lý ở nơi chúng ta chứ không thể tìm thấy nơi người Công Giáo. Ta là Mẹ Chúa Giêsu, ta bảo cho con biết điều đó.” Bị thuyết phục, con người bất hạnh đó đã trở nên một người Manikê.

Thánh Phêrô nói: “ông hãy đi bảo người đàn ông đã nói chuyện với ông rằng tôi cũng sẽ theo phái Manikê nếu ông ta cho tôi xem Đức Thánh Trinh Nữ.” Ông chủ nhà liền vội vã thông báo cho ông bạn mới của mình, ông này hồ hởi chấp nhận ngay. Thánh Phêrô đã cầu nguyện suốt đêm, sáng hôm sau lúc dâng Thánh Lễ, ngài đã giữ lại một Bánh Thánh, để trong hộp nhỏ rồi cung kính dấu trên ngực mình. Được võ trang như thế, ngài bắt đầu đi gặp người Manikê, người dự phần làm trung gian để bà lạ hiện ra trên bàn thờ. Bà ta trách cứ người mới đến là mù tối về chân lý. Bấy giờ thánh Phêrô giơ cao Bánh Thánh lên, nói với kẻ hiện ra: “Nếu bà thật là mẹ của Thiên Chúa, hãy thờ lạy con bà!” Nghe lời ấy, con ma biến mất trong một đám khói đen, để lại căn phòng đầy mùi hôi thối. Ma quỉ đã trốn chạy trước chủ của nó. (Les Miracles historiques du Saint Sacrement).

Thực hành – Chúng ta hãy nhờ tay Mẹ Maria dâng lên Thiên Chúa các hoa trái của lễ Hy tế Misa.

Hoa thiêng – Kính chào Mẹ Maria, Đấng từ xa đem lại cho chúng con Bánh Sự Sống, Của Lễ thần linh!

Bài 5: Đức Maria Dâng Mình Trong Đền Thờ

I. Đức Maria không có tuổi thơ theo nghĩa thông thường của từ ngữ. Mẹ không chơi đùa, không có những thú vị trẻ nít, không mắc phải tính nhất thời và thiếu kinh nghiệm của trẻ con. Ngay từ mới thụ thai, Mẹ đã có kiến thức hoàn hảo về Thiên Chúa và đã lập được công trạng. Tất cả các tài năng của Mẹ đều trực tiếp hướng về Thiên Chúa, vì Ngài là chính sự sống của Mẹ. Chỉ có thân xác Mẹ là còn yếu ớt và ở trong tình trạng ấu nhi. Ngay khi Mẹ có thể đi đứng một mình Mẹ đã xin phép song thân rút lui vào Đền Thờ. Mới chỉ có 3 tuổi, Mẹ đã được nhận vào đó, ở giữa những bé gái con nhà đạo đức được thánh hiến cho Thiên Chúa, và Mẹ đã ở lại đó cho tới khi lên 12 tuổi. Chúng ta không biết gì về cuộc sống của Mẹ trong Đền Thờ trừ điều này là Mẹ đã sống một cuộc sống ẩn khuất và thực hành rất nhiều nhân đức. Một số thánh tiến sỹ của Giáo Hội trong có thánh Đamasô, quả quyết rằng Mẹ thích làm bạn với những trẻ em phải đau khổ, chăm sóc chúng trong lúc chúng bệnh nạn, an ủi chúng khi chúng gặp những xao xuyến. Nếu có cuộc cãi vã nào xảy ra, thì bé Maria luôn luôn được gọi tới để giàn hoà đôi bên, vì Mẹ ở đâu thì có sự bình an ở đó. Mẹ sống một cuộc sống rất đơn sơ, không tìm cách gây sự chú ý đến mình. Mẹ là tôi tớ của mọi người, không bao giờ thất đảm, và luôn luôn đoán trước ý muốn của các bạn đồng song. Mẹ được các thiên thần che chở và được thần khí Thiên đàng bao bọc. Ma quỉ không dám đến gần Mẹ, như thể Mẹ được che chở bởi các đoàn vệ binh trung thành. Mẹ là “Vườn khép kín”, không ai, chỉ trừ Bạn Tình dấu ái của Mẹ mới có thể vào.

II. Chính trong cuộc đời mai ẩn nơi Đền Thờ Mẹ, đã nêu gương mẫu cho chúng ta. Thiên Chúa đã chuẩn bị Mẹ trong bí mật, trong thinh lặng, không để ngay cả Mẹ hay biết gì sứ mạng trọng đại mà Mẹ phải thực hiện. Sau này, Chúa Giêsu cũng một cách như vậy đã chuẩn bị mình cho sứ mạng truyền giảng Tin Mừng bằng 30 năm ẩn dật cầu nguyện ở Nazareth. Ngài đã dành ra 3 năm để chuẩn bị các Tông Đồ và các môn đệ cho mầu nhiệm Thánh Thể, và chỉ trong buổi chiều áp ngày chịu chết, Ngài mới bộc lộ tất cả tình yêu của Ngài cho họ.

Thinh lặng và ẩn dật là linh hồn của những điều trọng đại. Chúa Giêsu dấu không cho Satan biết Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu Satan biết rõ điều này, nó không bao giờ thúc giục người Do Thái lên án tử cho Ngài. Nó cũng không biết rằng cô gái nhỏ này một ngày kia sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Bao lâu một việc còn được giữ kín, người đời chưa hay biết, thì sẽ tiến triển an toàn; nhưng hễ khi thần dữ khám phá ra và tiết lộ cho người đời biết, thì nó sẽ đả phá và đánh vào đó với tất cả khả năng của nó. Nếu hạt giống được gieo xuống đất cứ thường xuyên bị khuấy động thì nó sẽ không thể mọc lên được: nó cần phải được ẩn thân dưới đất. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta muốn tiến bộ, chúng ta cũng phải ẩn mình đi, đừng để người đời hay biết, nếu không, ma quỉ sẽ gây nên nhiều mâu thuẫn và hơi thở lòng tự ái sẽ triệt phá chúng ta.

III. Chúa Giêsu đã chuẩn bị chúng ta một thời gian lâu dài. Ngài đã rào chắn chúng ta bằng những ân sủng ngay từ khi chúng ta còn trong trứng nước, để dẫn đưa chúng ta vào Nhà Tiệc Ly Thánh Thể của Ngài. Chúng ta hãy cám ơn Ngài hết lòng. Mặc dù chúng ta không thể dâng mình cho Ngài sớm như Đức Maria, tuy nhiên chúng ta vẫn trong bước khởi đầu của sự sống Thánh Thể. Sự biểu lộ Thánh Thể chỉ mới bắt đầu, Chúa Giêsu gọi chúng ta trong số những người đầu tiên đến làm việc để phát triển lên.

Đức Maria đã tôn thờ Thiên Chúa trong Đền Thờ bằng tinh thần và chân lý. Nhờ lời cầu nguyện và những ước ao nồng nhiệt của Mẹ, Mẹ đã làm cho Đấng Messia mau đến. Nhưng chúng ta tôn thờ Ngài thực sự hiện diện trên các bàn thờ của chúng ta; chúng ta không gọi Ngài từ xa như Đức Maria đã làm. Ngài ở ngay giữa chúng ta; Ngài luôn luôn ở với chúng ta. Chúng ta hãy noi gương đời sống ẩn khuất cô tịch lặng thinh của Mẹ Thánh chúng ta.

Đời nay chúng ta chỉ muốn có một cái gì cụ thể; chúng ta muốn đạt được niềm vui ngay lập tức; chúng ta không biết chờ đợi. Chúng ta ép buộc cái cây; ban đầu nó mọc lên rất nhanh, nhưng chỉ một ít lâu tự nó sẽ kiệt sức và chết đi.

Do đó chúng ta hãy yêu thích cuộc sống ẩn khuất đơn sơ, với những chức vụ tăm tối của bậc sống mình; hãy tìm vui trong sự bị lãng quên; hãy giấu đốm lửa ngọn đèn của chúng ta dưới đáy thùng kẻo một hơi gió thoảng có thể làm tắt mất.

Đức Maria đã dâng mình cho Thiên Chúa một cách dứt khoát, không trừ lại, và dâng mãi mãi. Mẹ đã dâng cho Ngài trí khôn, trái tim, sự tự do của Mẹ – Mẹ không giữ lại sự gì. Ôi chúng ta hãy dâng tất cả cho Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng hoàn toàn hiến mình vì chúng ta. Nói: “Lạy Chúa, con xin dâng trót mình con cho Chúa!” thì dễ, nhưng thực hành điều đó mới khó. Chúng ta hãy cậy nhờ ân sủng của Ngài và sự cầu bầu của Mẹ chúng ta, và khi cơ hội dâng hiến đến, chúng ta hãy nhớ đến việc Mẹ dâng mình trọn hảo cho Thiên Chúa. Gương sáng của Mẹ sẽ củng cố và khích lệ chúng ta.

ĐỪNG BAO GIỜ TÁCH LÌA ĐỨC MARIA RA KHỎI CHÚA GIÊSU

Thánh  Giaxintô Dòng Đa Minh, khi nghe tin bọn Tartar sắp tấn công thành phố Kiew, nơi ngài đang ở, ngài đã chạy vào nhà nguyện tu viện để đem Bình Bánh Thánh đi dấu cho khỏi rơi vào tay những tên man di vô đạo. Khi ngài vừa đem Báu Tàng ấy ra khỏi nhà nguyện, pho tượng Đức Mẹ rất lớn và nặng đang đặt ở gần cửa, lên tiếng gọi ngài ba lần. Giaxintô hết sức ngạc nhiên hỏi lại Mẹ muốn ngài làm gì; Đức Mẹ trả lời: “Giaxintô yêu dấu, con muốn cứu Người Con khỏi sự lăng nhục của bọn man di, và bỏ mặc Người Mẹ lại cho chúng xỉ nhục ư?”. Nghe Thánh nhân bào chữa là mình yếu đuối, và xin lỗi vì không mang nổi pho tượng, Đức Mẹ trả lời: “Ô, nếu con có một chút tình yêu, con sẽ mang Mẹ đi được một cách nhẹ nhàng như mang một bông hoa nhỏ bé.”

Bánh Thánh dấu trong ngực, hai tay ôm tượng Đức Mẹ, ngài vượt qua chiến tuyến của quân thù không hề hấn gì, và thẳng bước đến Cracovia an toàn.

Thực hành – Chúng ta hãy lặp lại không ngừng: “Maria và Giêsu! Giêsu và Maria!”

Hoa thiêng – “Họ thấy Hài Nhi và Maria Mẹ Ngài, và sấp mình thờ lạy.”

Bài 6: Truyền Tin

Khi chúng ta suy niệm về những hoàn cảnh liên quan đến mầu nhiệm Truyền tin, chúng ta thấy rõ vinh quang khôn sánh dành cho Đức Maria là được chọn để cộng tác vào công cuộc nhập thể của Ngôi Lời – công cuộc vĩ đại nhất trong các công việc của Thiên Chúa, và gương sáng của Mẹ dạy ta biết bao nhân đức!

1. Một vị Tổng lãnh Thiên thần được Thiên Chúa ủy nhiệm đến dàn xếp với một thụ tạo khiêm nhường. Đó là một sứ vụ quan trọng nhất mà một trong các thần trời đã thi hành. Vị thiên sứ xinh đẹp như một vì sao, rạng rỡ trong ánh quang thiên đàng, đến viếng thăm địa cầu.

Ngài đến với ai vậy? A! nếu thế gian mà biết được cuộc viếng thăm trái đất của sứ giả nhà trời, hẳn nó sẽ tìm kiếm trong số những người giàu có, quyền thế, một con người đầy sung sướng để đến lãnh nhận bức thông điệp tuyệt vời của sứ thần. Thế gian chỉ biết nghĩ rằng sự hoàn thiện nằm ở nơi những bậc vị vọng. Nhưng sứ thần lại tìm đến một cô trinh nữ tuổi trăng non, thấp kém vô danh, đã đính hôn với một chàng thợ mộc nghèo nàn, ở một chốn tầm thường trong ngôi làng hẻo lánh. Ngài đến với cô Maria! Cái gì thế! Chuyện quan trọng như thế mà lại dành cho một cô gái vô danh ư! Đúng vậy. – Sau hết, ở đời thanh thế lại chẳng phải là điều rất quan trọng sao? Đây thật là một thách thức cho các tiêu chuẩn đánh giá của nhân loại chúng ta! Chúng ta chỉ nhìn thấy những sự vật bắt mắt; chúng ta chỉ cho là quí những sự vật như vàng, bạc, kim cương… Nhưng những cái đó có là gì? Trong cõi vĩnh hằng chúng ta chỉ đáng chà đạp dưới chân như thứ sỏi đá vô giá trị – đáy hoả ngục được lát toàn những thứ giống như thế.

Vậy thiên thần đã đến với một trinh nữ. Thiên Chúa chỉ nhận những linh hồn trong trắng làm bạn hữu với Ngài. Ngài tha thứ cho kẻ tội lỗi, nhưng Ngài chỉ kết hợp với người trong sạch.

Thiên thần mở lời chào trước. Thực ra, so phẩm chức hai người, thì thiên thần kém hơn. Ở đây, Đức Maria có toàn quyền, và vì cả Ba Ngôi Thiên Chúa đang chờ đợi câu trả lời của Mẹ, nên Mẹ cũng nắm trong tay vận mệnh của thế giới. A! biết bao quyền lực thuộc về cô Trinh Nữ thấp hèn đó!

“Kính chào Người đầy ân sủng!” Trong số tất cả các con cái Evà, chỉ duy Đức Maria là đầy ân sủng. Còn chúng ta thì đầy những khốn nạn do hậu quả tội nguyên tổ. Nhưng Đức Maria tinh tuyền như mặt trời; Thiên Chúa dựng nên Mẹ bằng một chất liệu đặc biệt, và tạo thành Mẹ với sự ân cần cá biệt.

“Chúa ở cùng Bà!” Vâng, thưa Mẹ, vì Ngài cư ngụ nơi cái trắng ngần của trái tim Mẹ, như trong vườn địa đàng hoan lạc, và các nhân đức của Mẹ tựa như vô số bông hoa toả ngát hương thơm ngọt ngào trước nhan Ngài. Thiên thần đã hiện ra lúc mấy giờ? Tin mừng không nói đến, nhưng nhiều nhà bình luận nghĩ rằgng đó là lúc nửa đêm, lúc giao thừa giữa hai ngày, vì Đức Maria là bình minh phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Lúc đó, Đức Maria đang cầu nguyện nài xin Đấng Messia mau đến – ít ra chúng ta có thể giả sử như vậy mà không sợ dối mình, vì Thiên Chúa thường ban cho các linh hồn một năng lực cầu nguyện để duy trì ân sủng mà Ngài muốn ban cho họ, để chuẩn bị họ cho việc nàh. Vậy trong giờ phút long trọng của cuộc hoài thai, cũng như sau này vào giờ sinh Con Thiên Chúa, chúng ta hãy cầu nguyện với Mẹ Maria, Mẹ chúng ta, và trong niềm kết hợp với việc Mẹ tôn thờ Thiên Chúa, Đấng đã nhập thể vì chúng ta.

2. Đức Maria xao xuyến. Thánh Ambrôsiô bảo: bản tính của các trinh nữ là bối rối xao xuyến khi một nam nhân đến gần, và e lệ trước những lời của người ấy. Đức Maria xao xuyến trước những lời tán dương Mẹ, mặc dù Mẹ rất xứng đáng với những lời ấy. Nhưng nhân đức thực không bao giờ tự công nhận mình.

Thiên thần trấn an Đức Maria. Nét đặc trưng của các cuộc thị kiến thuộc về Chúa bao giờ cũng khởi đầu bằng những xao xuyến rồi tiếp đến là được bằng an; trái lại, những thị kiến bởi ma quỉ thì bắt đầu là an bình và kết thúc trong rối loạn.

“Bà sẽ thụ thai một con trai và bà sẽ gọi tên là Giêsu.” Tên thiên đàng! Tên thần linh mà không người nào có thể cho; tên đó đã được thiên thần đem xuống từ trời! Người Con này sẽ nắm trong tay quyền lực. Ngài sẽ được gọi là Thiên thần của Đại hội (Angel oư the Great Council), Đấng quyền năng, Đấng đáng ca ngợi. Nhưng Đức Thánh Trinh Nữ vẫn do dự. Mẹ lo gìn vàng giữ ngọc là lời khấn khiết trinh đã khấn với Thiên Chúa. Mẹ nói: “Mầu nhiệm này có thể thực hiện như thế nào? Tôi là trinh nữ và tôi muốn duy trì đức đồng trinh.” Ôi giây phút hồi hộp! Cả trời lẫn đất như nín thở chờ đợi Mẹ; Thiên Chúa đang chờ đợi lời đồng ý của cô gái bé mọn! Thiên Chúa không thể tiến hành mà không có Mẹ: trong phút giây ấy, Đức Maria còn có quyền thế hơn cả chính Thiên Chúa. Làm thế nào Thiên Chúa đã có thể hạ cố chấp nhận thân phận thấp kém này trước Đức Maria? A! chính là vì Ngài đánh g iá đức đồng trinh của Đức Maria hơn mọi sự khác.

Do đó, trước uy danh Thiên Chúa, thiên thần cũng phải chào thua Đức Maria. Đức Maria đã chiến thắng! Mẹ nghe những lời sứ thần: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ phủ bóng trên Bà; cho nên dù đã làm mẹ, Bà vẫn còn đồng trinh.”

3. Và Đức Maria trả lời: “Ecce ancilla Domini” – “Này tôi là nữ tì Chúa! Hãy làm cho tôi theo như lời ngài truyền!” Ôi lời chứa đựng bao ý nghĩa thâm trầm! Lời đầy khiêm nhu đáng thán phục! Biết bao điều được chứa đựng trong lời “Ecce!” khi vị linh mục giơ cao Bánh Thánh cho chúng ta trước lúc hiệp lễ, ngài nói: “Ecce Agnus Dei!” khi thánh Gioan Tẩy giả muốn chỉ cho các môn đệ ông thấy Chúa Giêsu, ông kêu lên: “Ecce!” trong lời đó chứa đựng sự toàn hiến của bản thân con người: Này tôi đây, tất cả đã sẵn sàng; hoàn toàn để phụng sự Thiên Chúa! Đó là hành vi hoàn hảo của đức tin.

Đức Maria đã không nói: Này tôi là Mẹ Thiên Chúa! Mặc dù lúc đó Mẹ đã thực sự là Mẹ Ngài. Thiên Chúa càng nâng cao các thánh, các ngài càng tự hạ trong việc đánh giá chính mình. Do đó, thánh Bernarđô có lý để nói về Đức Maria: “Virginitate placuit, humilitate concepit” – “Mẹ làm Chúa vui lòng bởi đức đồng trinh, Mẹ cưu mang Ngài bởi đức khiêm nhường.”

Chúng ta hãy để ý đến việc Mẹ dè giữ lời nói như thế nào. Mẹ chỉ nói điều gì hết sức cần thiết, không nói gì thêm. Thinh lặng và khiêm tốn là những vệ binh của đức khiết trinh.

Thánh Thần đã thực hiện công việc thần linh của Ngài nơi Đức Maria. Sự ưng thuận của người thiếu nữ trẻ trung này đã thay đổi bộ mặt thế giới. Thiên Chúa đã trở lại được lãnh địa của Ngài. Ngài đã lấy lại được mối giao hảo với con người, nhưng trong một cách hoàn hảo hơn và bền bỉ hơn hồi ở trong vườn địa đàng.

Mầu nhiệm Truyền tin này làm cho chúng ta nên cao quí, vì nó đem Thiên Chúa trở lại địa cầu. Đồng thời, đó là mầu nhiệm hoàn toàn bên trong, một mầu nhiệm của sự thông hiệp. Khi hiệp lễ, Chúa Giêsu Thánh Thể, một cách nào đó, nhập thể trong chúng ta, và việc hiệp lễ là đối tượng của việc Nhập Thể. Nhờ hiệp lễ cho xứng đáng, chúng ta được đi vào trong kế hoạch Thiên Chúa, và hoàn tất kế hoạch đó. Việc nhập thể dọn đường cho và báo trước việc biến thể. Đức Maria không tiếp nhận Ngôi Lời cho riêng mình Mẹ. Mẹ đã hân hoan vì chúng ta có thể được tham phần vào niềm hạnh phúc của Mẹ. Do đó, chúng ta hãy kết hợp với Mẹ khi lên rước Chúa. Chúng ta hãy ca bài Magnificat của Mẹ. Chúa Giêsu, trong mầu nhiệm này, đã làm biết bao điều trọng đại nơi Đức Maria; và Ngài cũng sẽ làm những điều trọng đại nơi chúng ta khi Ngài đến với chúng ta. Chúng ta hãy phấn đấu noi theo gương nhân đức của Mẹ để Chúa Giêsu Kitô có thể tìm thấy nơi chúng ta, cũng như nơi Mẹ Thánh của Ngài, một chốn cư ngụ xứng với Ngài.

ĐỨC MẸ THƯỞNG CÔNG LÒNG SÙNG KÍNH CỦA THÁNH ANRÊ CORSINÔ ĐỐI VỚI PHÉP THÁNH THỂ

Thánh Anrê Corsinô vốn nổi tiếng về nhân đức và sự thánh thiện, sau nhiều lần dân chúng yêu cầu, ngài đã được tiến cử làm linh mục, mặc dù lòng khiêm nhường, ngài không muốn. Vào ngày dâng thánh lễ đầu tiên, cha mẹ ngài muốn ngài cử hành cách long trọng hết sức có thể ngay trong nhà thờ của thành phố. Nhưng thánh nhân, được phép của bề trên, đã bí mật rút vào một tu viện cô tịch trong rừng sâu. Ở đó, ngài đã dâng thánh lễ đầu tiên, ngây ngất trong tình yêu của hiến vật chí thánh. Hành trình can đảm của thánh nhân đã làm hài lòng Đức Maria, Mẹ đã hiện ra với ngài ngay sau lúc hiệp lễ, và nói với ngài: “Anrê, con là tôi tớ của Mẹ, Mẹ đã chọn con, và sẽ tìm thấy vinh hiển nơi con.”

Đức Mẹ nhân lành đã tỏ cho thấy rằng không gì làm Mẹ vui lòng bằng việc chúng ta chứng tỏ lòng tôn kính và yêu mến đối với Người Con thần linh của Mẹ đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể vì yêu chúng ta. (Bolland. 5 February.)

Thực hành: Chúng ta nên tránh nói năng ồn ào, chia trí, trước sự hiện diện của Thánh Thể.

Hoa thiêng: Chúa Giêsu trong Bánh Thánh, hoa trái của lòng Mẹ, quí giá hơn vàng tinh ròng nhất, hoặc đá ngọc đắt giá nhất.

Bài 7: Người Tôn Thờ Đầu Tiên Của Ngôi Lời Nhập Thể

Hãy nhìn ngắm gương sáng Mẹ Maria, người đầu tiên tôn thờ Ngôi Lời Nhập Thể trong lòng Mẹ! Ôi sự tôn thờ ấy của Mẹ Đồng Trinh phải là hoàn hảo biết bao; làm vui lòng Chúa biết bao, và phong phú ân sủng chừng nào!

Vào giây phút đầu tiên của cuộc nhập thể đó, sự tôn thờ hoàn hảo của Đức Maria cốt tại điều gì?

1. Đó là sự tôn thờ của lòng khiêm nhường, tự hủy mình trước quyền phép oai phong của Thiên Chúa, Đấng do lòng yêu thương nhân từ đối với Mẹ và toàn thể nhân loại thúc bách, đã chọn Mẹ, người trinh nữ khiêm nhu, làm Mẹ Đấng Messia. Cử chỉ tôn thờ đầu tiên của chúng ta sau khi rước lễ cũng phải giống như thế; đó cũng là những tâm tình của bà Elizabeth khi đón tiếp Mẹ Thiên Chúa, người đang cưu mang Đấng Cứu Chuộc trong lòng: “Unde hoc mihi?” – “Bởi đâu tôi được hạnh phúc này; tôi bất xứng biết bao?” Khi Chúa Giêsu muốn đến nhà ông bách quân trưởng, ông ta cũng nói những lời tương tự như thế: “Lạy Chúa tôi không xứng đáng!”

2. Hành vi tôn thờ thứ hai của Đức Maria tự nhiên sẽ là một hành vi hân hoan tạ ơn lòng nhân lành vô cùng, khôn tả của Thiên Chúa đối với con người; một hành vi khiêm tốn biết ơn vì đã chọn Mẹ, nữ tỳ bất xứng của Ngài, để làm tín hiệu gia ân. Lòng biết ơn của Mẹ được vang lên trong những hành vi tán tạ yêu thương nồng nhiệt. Lòng biết ơn là một sự bộc lộ của linh hồn, sự bành trướng yêu thương của một linh hồn cao quí – đó là tâm điểm của tình yêu.

3. Hành vi thứ ba của việc tôn thờ của Đức Thánh Trinh Nữ sẽ là một hành vi hiến dâng, hành vi sát tế mình: sự hiến dâng hoàn toàn bản thân Mẹ, đời sống Mẹ để phụng sự Thiên Chúa: Ecce ancilla Domini; một hành vi hối tiếc vì mình nhỏ bé quá không thể phụng vụ Ngài cho xứng đáng được. Mẹ đã dâng mình cho Thiên Chúa để phục vụ Ngài trong bất cứ cách nào Ngài muốn: bằng tất cả những hy sinh mà Ngài có thể lấy làm thích thú đòi hỏi Mẹ, cũng như niềm vui sướng vì có thể làm Ngài vui lòng mọi giá và do vậy đáp ứng tình yêu Ngài dành cho con người trong cuộc nhập thể của Ngài.

4. Hành vi sau cùng của việc tôn thờ của Đức Maria chắc chắn là một hành vi dịu dàng xót thương đối với các tội nhân khốn nạn mà Ngôi Lời Nhập Thể đã cứu vớt. Mẹ biết phải dùng lòng thương xót đó thế nào để đem lại lợi ích cho họ; Mẹ dấn thân làm việc hãm mình đền tội cho họ, chịu đau khổ cho họ, để họ được ơn tha thứ và quay trở về cùng Chúa. Mẹ cầu xin cho họ ơn phúc nhận biết Đấng sáng tạo và cứu chuộc họ; ơn yêu mến và phục vụ Ngài, và do đó trả lại cho Ba Ngôi cực thánh danh dự với vinh quanh vốn thuộc về Ngài. Ôi trong khi hiệp lễ, tôi đã có thể thờ lạy Chúa như Mẹ Maria đã thờ lạy, chiếm hữu Chúa như Mẹ đã chiếm hữu!

Lạy Chúa, xin cho con ơn trọng này: là cho con được lòng tôn kính Đức Thánh Trinh Nữ như Mẹ của con; hãy cho con được chia sẻ ân sủng của Mẹ, trong trạng thái tôn thờ không dứt mà Mẹ đã sống suốt thời gian Mẹ cưu mang Chúa trong trinh dạ Mẹ, thiên đàng của tình yêu và nhân đức.

Chúa ôi! con cảm thấy đây sẽ là một trong những ân sủng trọng đại nhất của đời con. Con muốn từ nay về sau sẽ tôn thờ Chúa trong sự kết hợp với Mẹ của những người tôn thờ, Nữ Vương nhà Tiệc ly.

Chiếc áo lễ của Đức Maria

Thánh Bonnet, Giám mục địa phận Clermont, một tôi tớ rất đạo đức của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, trong đêm áp lễ Mẹ lên trời, ngài đã rút lui vào trong nhà thờ thánh Micae, để canh thức cầu nguyện dọn mình mừng đại lễ của Đức Nữ Vương dấu yêu của ngài. Khi ngài thốt ra những tiếng thở than và những ước muốn nồng nàn, ngài nghe thấy một âm thanh êm ái du dương, như thể từ trời cao vang vọng xuống. Lập tức tất cả nhà thờ được thắp sáng lên và các mái vòm vang âm như trong ngày đại lễ khi quần chúng kéo đến đông đ ảo. Kinh ngạc và hoảng sợ, thánh nhân đợi chờ và đã thấy Đức Thánh Trinh Nữ, có một tốp thiên thần và các trinh nữ bao quanh, đang dự cuộc rước đến chân bàn thờ. Các trinh nữ và các thiên thần đang hát những bài ca tán tụng Đức Nữ Vương của họ và những bài ngợi khen Con của Mẹ. Rồi các thiên thần hỏi xem ai sẽ cử hành các mầu nhiệm thánh, và Đức Maria đáp: “Đó chính là Bonnet tôi tớ của Ta, người đang âm thầm cầu nguyện trong nhà thờ này.” Các thiên thần liền đi đến chỗ thánh nhân đang khiếp sợ ẩn mình trong góc xó nhà thờ. Các ngài liền khoác cho thánh nhân những y phục lộng lẫy và mời thánh nhân cử hành lễ Misa ngay trước mặt Đức Maria.

Khi thánh lễ vừa xong, Đức Trinh Nữ chúc lành cho tôi tớ của Mẹ, và như để kỷ niệm cuộc viếng thăm đầy yêu thương ,Mẹ đã để lại cho thánh nhân chiếc áo lễ tuyệt đẹp mà Mẹ đã mang xuống từ trời. Chiếc áo kỳ diệu này đã được lưu trữ tại Clermont cho tới khi có cuộc cách mạng. Nó rất mịn màng và trông thật thích mắt đến nỗi không bao giờ có thể xác định được nó được làm bằng chất liệu gì; nó được thêu một cách tinh vi đến nỗi chỉ có ngón tay thiên thần, hoặc đúng hơn, ngón tay của Đức Nữ Vương các thiên thần mới có thể hoàn thành được một tác phẩm như thế. (Bolland., 15 tháng Giêng).

Thực hành: Chúng ta hãy cám ơn sau khi hiệp lễ một cách hết sức thành tín trong sự kết hợp với Mẹ Maria.

Hoa thiêng: Ôi Maria, con đã được rước người Con rất yêu dấu của Mẹ, và con sẽ không bao giờ để Người ra đi!

 

Bài 8:  Phẩm Chức Mẹ Thiên Chúa

Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, Maria de qua natus est Jesus! Hãy xem lời ngợi khen trác tuyệt mà Tin mừng tặng cho Đức Maria! Thánh Thần không ca ngợi các lễ vật hay nhân đức của Mẹ. Ngài tự hài lòng với việc tỏ bày nguyên ủy thần linh của chúng, tức việc làm cho Mẹ xứng đáng với mẫu tính thần linh của Mẹ. B ởi vì khi được làm Mẹ Thiên Chúa là Mẹ đã được ban cho tất cả ơn thánh sủng và mọi niềm vinh dự. Khi người ta gọi Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa”, là người ta đã nói lên mọi sự.

1. Đức Maria đã đến để vực dòng giống nhân loại dậy, để phục hồi tư cách làm Mẹ đầy vinh dự và tôn quí mà Evà đã đánh mất do tội lỗi của bà. Satan đã hạ bệ người mẹ đầu tiên của chúng ta: Đức Maria đã gỡ lại cho bà. Được tiên trưng bởi tất cả các phụ nữ cao quí trong Cựu luật như Judith, Esther, Debora, Mẹ đến như Nữ Vương, như nhà giải phóng. Khi Đức Tổng thần hiện ra với Đức Maria, ngài đã chào Mẹ với niềm tôn kính sâu xa, không dám gọi tên Mẹ: “Ave, gratia plena!” Hãy lưu ý sự khác biệt giữa ngôn ngữ của Đức Tổng thần nói với người Mẹ đích thực của sự sống, và ngôn ngữ của vị thần sa ngã nói với Evà vô phúc!

Đức Maria cưu mang Thiên Chúa; Mẹ mang trong trinh dạ Mẹ Đấng Cứu Chuộc thế gian, là suối nguồn tình yêu; mang Đấng đem lại bình an cho loài người; trong khi con đầu lòng của Evà, Cain, là một kẻ tội lỗi, kẻ giết em.

Đức Maria được cả người chăn chiên và vua chúa, người nghèo khổ và người giàu có tôn vinh. Trong khả năng của Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được đặt lên như Nữ Vương của toàn thế giới. Con Thiên Chúa đã tôn vinh Đức Maria như người Mẹ đích thực của mình và đã chu toàn mọi bổn phận của người con đối với Mẹ, để lại cho chúng ta tấm gương trọn hảo của việc thi hành giới răn thứ bốn: “Hãy thảo kính cha mẹ”.

2. Evà, do lỗi phạm, đã đánh mất tự do và quyền thế, sub potestate viri eris: “Ngươi sẽ phải ở dưới quyền đàn ông”, Thiên Chúa phán với Evà như thế; rồi từ đó người đàn bà phải làm nô lệ cho đàn ông hoặc ở dưới quyền bảo hộ của đàn ông.

Hãy xem người đàn bà mạnh mẽ, “người mẹ” par excellence. Một người mẹ có toàn quyền trên con mình, dù con bà có là vua hay là Thiên Chúa; Đức Maria cũng truyền khiến Chúa Giêsu như vậy, và Chúa Giêsu, Đấng mà trước nhan Ngài các quyền lực trên trời còn phải run giùng, cũng phải vâng phục Đức Maria! Chỉ duy mình Mẹ có thể công khai truyền lệnh cho Ngài, đòi hỏi quyền làm Mẹ của mình: Fili, quid, fecisti nobis sic? Như thế đủ thấy quyền bính của Đức Maria. Tại Cana, chính Mẹ là người khai mở quyền năng của Chúa Giêsu, gần như là cho Ngài quyền hành vậy.

Do đó, tôn vương quyền bính là đặc ân thứ hai của mẫu tính thần linh!

3. Việc tôn vương vinh quang cũng được ban cho Đức Maria. Evà vì tham vọng tội lỗi nên đã bị tước lột hết vinh quang. Bà đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng cách xấu hổ và phải sinh đẻ trong đau đớn nhục nhã.

Đức Maria sinh Đấng Cứu Chuộc trong hân hoan. Mẹ không hề biết cơn đau của tính chất làm mẹ. Đấng Cứu Chuộc khi đi qua lòng Mẹ đã để lại vinh quang của Ngài, và Đức Maria sẽ là Nữ Vương bởi vì Mẹ đã ban cho trần thế Đức Vua Giêsu Kitô. Mẹ là Nữ Vương các thiên thần, Nữ Vương Giáo hội. Các vua sẽ đặt quyền hành của mình dưới chân Mẹ; các nước sẽ trao phó cho Mẹ sự an ninh của mình, và bất cứ nơi nào chúng ta thấy một triều thiên được cung hiến cho Đức Mẹ; bàn thờ của Đức Mẹ luôn luôn được đặt cạnh bàn thờ của Chúa Giêsu.

Do đó, đây là danh dự, phẩm giá và vinh quang của Mẫu tính thần linh: Đức Maria đầy danh giá, quyền lực và vinh quang trong và bởi Chúa Giêsu. Mẹ là người Mẹ thần linh của Ngài!

Công đồng Êphêsô (431)

Ngày xưa có một giám mục thành Constantinople tên là Nestoriô, ông ta đã dám nói rằng Đức Thánh Trinh Nữ không phải là Mẹ Thiên Chúa. Ông nói: “Mẹ là Mẹ Chúa Kitô; có nghĩa là Mẹ của một con người mà Con Thiên Chúa đã kết hợp với.” Ông ta đã dám rao truyền điều đó trên toà giảng, trước mặt các tín hữu thành Constantinople; nhưng họ đã đứng dậy phản đối, tuyên bố rằng Chúa Giêsu Kitô không phải là một con người, Ngài là Thiên Chúa, và Đức Thánh Trinh Nữ Mẹ thật của Ngài cũng là Mẹ Thiên Chúa. Họ đã kêu lên Đức Thánh Cha, thủ lãnh các giám mục, và là Đấng phán đoán không thể sai lầm trong những vấn đề đức tin.

Thánh Celestin, giáo hoàng đương thời, đã triệu tập một công đồng gồm tất cả các giám mục họp tại thành Êphêsô, ở Tiểu á, để lên án lạc giáo Nestoriô.

Công đồng Êphêsô đã khai mạc cách long trọng năm 431. Ngay từ sáng sớm, dân chúng đã tụ tập đầy nhà thờ Đức Maria, nơi các Nghị phụ Công đồng đang nhóm họp. Tất cả mọi người đều van xin cho danh dự Đức Thánh Trinh Nữ được hiển thắng. Nestoriô, mặc dù đã ba lần được triệu mời trước Công đồng, nhưng đều từ chối xuất hiện. Căn nhà ông tự giam mình được canh giữ bởi một tốt lính, được sai đến do vài bá tước Canđê, đại sứ của hoàng đế.

Cuối cùng, buổi chiều, cửa Công đồng mở ra, thánh Cyrillô, thượng phụ Alexandria, đại diện của Đức Thánh Cha, tuyên bố sắc lệnh Công đồng, rằng Đức Thánh Trinh Nữ thật là Mẹ Thiên Chúa; và Nestoriô đã phạm tội lộng ngôn vì dám nói ngược lại; và từ nay ông không còn là giám mục và thượng phụ Constantinople nữa. Lập tức toàn thể thành phố Êphêsô lại vang lên những bài ca hoan hỉ, chỗ nào cũng nghe vang: “Đức Maria Mẹ Thiên Chúa muôn năm.” Khi các giám mục rời nhà thờ, các ngài được tháp tùng khải hoàn về nhà bằng hàng ngàn ánh đuốc. Không khí đầy mùi thuốc thơm do các phụ nữ đốt lên để tôn kính các Nghị phụ Công đồng. Thành phố sáng rực, và niềm vui con cái Thiên Chúa cảm thấy đã lan truyền ra toàn thế giới.

Về phần Nestori, ban đầu cố gắng kháng cự Đức Thánh Cha và Công đồng, nhưng hoàng đế, đã nắm được tình hình đức tin, nên đã bỏ ông ta và kết án ông ta phải lưu đày. Ông không bao giờ đồng ý thần phục.

Ông ta còn sống được 8 năm nữa, với lòng đầy ắp căm hờn, và đôi môi không thiếu lời phỉ báng. Cuối cùng, ông đã chết một cách khốn nạn, thân xác thối rữa, và lưỡi ông, cái lưỡi phạm thượng đến Đức Thánh Trinh Nữ, cái lưỡi đã từng nói đi nói lại rằng: “Kẻ nào nói Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa sẽ bị tuyệt thông,” cái lưỡi đó đã bị sâu bọ rúc rỉa ngay trước khi ông trút hơi thở cuối cùng. (Msgr, de Ségur.)

Thực hành: Chúng ta phải năng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể như phương dược chống lại dục vọng, và như cách bảo vệ sự trinh trắng.

Hoa thiêng: Kính chào Mẹ Maria! vườn địa đàng thiêng liêng của Thiên Chúa, nơi đoá Huệ thơm tho và trắng ngần là Chúa Giêsu Thánh Thể tươi nở!

 

Bài 9:  Đời Sống Nội Tâm Của Đức Maria

1. Đức Maria đã được trang điểm bằng mọi tặng ân, được nên phong phú bằng mọi nhân đức, được những công trạng khôn sánh, nhưng Mẹ đã xuất hiện trước mặt thế gian dưới một dáng vẻ bên ngoài hết sức bình thường. Không có gì là nổi nang trong các hoạt động của Mẹ; các nhân đức của Mẹ dường như chỉ dưới trung bình. Đời sống của Mẹ đã trải qua trong thinh lặng và bóng tối, và trình thuật Tin mừng không nói gì nhiều đến đó. Sở dĩ như thế là vì Đức Maria phải là gương mẫu của đời sống ẩn dật – một đời sống ẩn dật trong Thiên Chúa với Chúa Giêsu Kitô – một đời sống mà chúng ta nên phấn đấu để đề cao và trung hoạ lại trong nếp s ống của chúng ta. Tôi có ý nói rằng luật thánh thiện mà Thiên Chúa áp dụng cho linh hồn chúng ta cũng chính là luật mà Ngài đã áp dụng nơi Mẹ Maria.

Giáo hội hát mừng Đức Maria: “Tất cả vinh hiển của nàng công chúa là ở trong cung nội.” Đây là đặc nét của sự thánh thiện nơi Đức Maria. Không có gì hiện lộ ra bên ngoài, không có gì đáng chú ý, tất cả chỉ cho duy mình Thiên Chúa và chỉ mình Ngài biết. Tuy nhiên, Đức Maria vẫn là thánh thiện nhất, trọn hảo nhất trong các thụ tạo. Được Thiên Chúa cưng yêu hơn bất cứ thụ tạo nào, Đức Thánh Trinh Nữ đã lãnh nhận từ lòng quảng đại Ngài những ân sủng phong phú nhất, những tặng ân tuyệt hảo nhất. Cha Hằng Hữu đã ban cho Mẹ tất cả các nhân đức thuộc về người mẹ. Chúa Con, ban cho Mẹ tất cả kho tàng ơn cứu chuộc. Chúa Thánh Thần ban ân sủng tình yêu. Thế mà Đức Maria đã sống một cuộc sống hết sức thông thường, hoàn toàn ẩn khuất và vô danh. Như thế, chúng ta chẳng phải kết luận rằng đời sống nội tâm, rút về ẩn dật là đời sống trọn lành nhất ư? đời sống hoạt động bên ngoài, ngay cả hoạt đ ộng vì Chúa, cũng kém trọn lành hơn. Vì thế, cuộc đời của Chúa Giêsu ẩn khuất khỏi mắt người đời nhiều hơn là lộ diện. Các thánh cũng đã được đào tạo theo gương Ngài. Là người bạn thân của Thiên Chúa, chúng ta phải chịu nghiền nát, trở nên như không có gì, hư vô hoá như Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

2. Do đó, nếu muốn trở nên một vị thánh, chúng ta phải trở thành những linh hồn nội tâm. Ngoài ra chúng ta còn bị bắt buộc như thế bởi ơn gọi của chúng ta là những người tôn thờ. Nếu không có tinh thần nội tâm này, chúng ta sẽ cầu nguyện thế nào được? Nếu chúng ta không ở thể ở trước mặt Chúa được một lát mà không dùng đến sách, nếu chúng ta không biết nói gì với Chúa từ đáy lòng mình, thì chúng ta sẽ làm việc tôn thờ thế nào được. Sao! Chúng ta không bao giờ có những lời trào tràn từ chính đáy lòng để thưa với Chúa sao? Chúng ta cứ phải vay mượn những tư tưởng và ngôn từ của người khác để thưa với Chúa sao? Không, không! chúng ta hãy phấn đấu để trở nên những linh hồn nội tâm, tĩnh niệm. Không ai có thể có nội tâm y như Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Nhưng mỗi người có thể trở nên tĩnh niệm trong chừng mực ân sủng ban cho. Nếu không có đời sống nội tâm, chúng ta sẽ không bao giờ lãnh nhận được bất cứ an ủi nào, sự khích lệ nào khi cầu nguyện; chúng ta sẽ mãi chỉ là kẻ bất hạnh dưới chân Chúa. Nếu chúng ta muốn trở nên người tôn thờ đích thực, chúng ta phải có tinh thần nội tâm này. Chúng ta phải biết thưa chuyện với Chúa khi quì gối trước nhan Ngài, biết hỏi và chờ đợi Ngài trả lời: chúng ta phải biết hoan hưởng sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta phải biết sung sướng làm bạn đồng hành với Ngài, sung sướng trong sự phục vụ Ngài; phải khoái thú trong tình thân mật rất ngọt ngào, rất khích lệ của Ngài. Nhưng để khám phá được Trái Tim Chúa Giêsu, chúng ta phải là người nội tâm. Sau hết, là người nội tâm có nghĩa là gì? Có nghĩa là yêu mến, tâm sự và sống với Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta không thể nghe tiếng Chúa Giêsu với đôi tai thể lý, không thể nhìn ngắm Ngài với cặp mắt bằng thịt; vì Ngài chỉ nói với linh hồn tĩnh niệm. Ngài hoàn toàn nội tại trong phép Thánh Thể: Ngài không đi vào trong tâm hồn qua hình sắc như khi Ngài còn tại thế; bây giờ Ngài đi trực tiếp vào linh hồn, và nói chuyện với mình nó. Khi linh hồn không lớn lên dưới sự hiện diện của Ngài thì đó là vì Ngài không hành động trên nó – có một cái gì đó cản bước chân Ngài.

A! chúng ta đừng làm cho lời Chúa phán xưa trở thành không đúng! Ngài đã phán ách Ngài êm ái, gánh Ngài nhẹ nhàng. Nhưng chỉ đúng như thế đối với kẻ nào mang gánh và ách ấy với tinh thần tĩnh niệm và cầu nguyện; nếu khác đi, chúng sẽ trở nên nặng nề và gây mệt mỏi. Ôi chúng ta ước muốn biết bao được thấy hoàn thành nơi chúng ta điều đã được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Thánh Trinh Nữ: “Vương quốc Thiên Chúa ở cùng Bà” – Vương quốc của tình yêu, của nhân đức, và của những ân sủng nội tâm! Vậy chúng ta nên bắt đầu trở nên những người tôn thờ và những vị thánh. Cỏ trong cánh đồng hằng năm vẫn chết đi, bởi vì rễ của chúng không đâm sâu dưới đất; nhưng cây sến, cây tùng, cây ôliu vẫn đứng vững năm này qua năm khác, bởi vì các rễ của chúng cắm xuống rất sâu dưới lòng đất. Để tiến tới mạnh mẽ và bền bỉ, chúng ta cũng phải hạ mình xuống thật sâu, thậm chí tới mức hủy mình ra hư không. Ở đó chúng ta sẽ tìm thấy Chúa Giêsu. Ngài ở đó, hoàn toàn hủy mình: exinanivit. Chính ở chỗ đó mà Đức Maria đã tìm thấy Ngài. Ôi, ước chi người Mẹ thánh phúc, mẫu gương trọn lành của đời sống nội tâm của chúng ta, làm cho chúng ta sống trong Chúa Giêsu như Mẹ đã sống! Ước chi, cũng như Mẹ, chúng ta luôn luôn lưu lại với Ngài và đừng bao giờ lìa bỏ Ngài!

Thánh Phêrô Giulianô Eymard

Thánh Phêrô Giulianô Eymard đã được Chúa Quan Phòng chọn để sáng lập hai dòng tu cho Giáo hội: một dòng cho các linh mục, một dòng cho các nữ tu, cả hai đều hoàn toàn hiến mình để tôn thờ phép Thánh Thể được trưng bày ra ngoài. Nhưng chính nhờ Đức Maria mà Thiên Chúa đã ban cho ý muốn Ngài được tôi tớ Ngài biết đến; điều đó cũng được tuyên bố trong bản tóm tắt án phong chân phước: “Vào ngày lễ Mình Thánh Chúa Kitô năm 1845, được thúc đẩy bởi một ơn soi sáng mà chúng ta có thể coi như bởi Chúa, ngài đã hiểu rõ bản tính công việc mà Ngài đã sớm thực hiện để đề xướng việc thờ lạy phép Bí tích Cực thánh. Tuy nhiên, chỉ tới khi Đức Thánh Trinh Nữ (Đấng mà ngài đã cầu khẩn trước ở đền thánh Fourvière để xin ơn soi sáng và trợ giúp) ban cho ngài hai lời tiên báo, và trong niềm khiêm tốn tuân theo ý Chúa, ngài mới bắt đầu đặt nền móng cho hội dòng mới của ngài.”

Lời tiên báo thứ nhất xảy ra vào ngày 21 tháng Giêng năm 1851. Cha Eymard, trong khi ở Đền Thánh Mẫu, đã có một ấn tượng rất mạnh trong tư tưởng về vấn đề có quá ít người sùng kính đối với phép Thánh Thể, và rất nhiều người phạm thánh phạm đến Thánh Thể Chúa. Vài ngày sau, ngày mồng 2 tháng Hai, ý tưởng này trở nên rõ rệt hơn. Cha Eymard là chủ tịch cuộc họp của dòng ba Marist; ngài sắp phải đi Fourvière bằng “bước tiến của các thiên thần”. Ngài kể lại: “Tôi nhớ rằng tôi đã không muốn đi vào thánh đài, do cảm giác khiêm nhường, và tôi đã ở chỗ của mình sau bục giảng. Ở đó tôi đã hỏi Đức Maria tôi có thể làm được gì để người ta yêu mến Bí tích Cực thánh. Tôi đã thưa với Mẹ: ‘Mỗi hội dòng đều tôn vinh một mầu nhiệm nào đó, còn mầu nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm vĩ đại hơn tất cả, lại là mầu nhiệm duy nhất chưa có hội dòng nào!’ Sau đó Mẹ đã bảo tôi là Mẹ muốn tôi hiến thân để làm cho người ta tôn kính Con thần linh Mẹ trong phép Thánh Thể. Chính lúc đó Mẹ Maria đã tỏ ra rất nhân từ với tôi. Tôi đã thấy rõ điều Mẹ yêu cầu tôi.”

Vâng, chính qua Mẹ Maria mà thánh Eymard đã được dẫn tới Chúa Giêsu. Ngài đã viết lên vấn đề này trong tập ghi chú những ngày tĩnh tâm ở Rôma năm 1865. “Chính Đức Thánh Trinh Nữ đã dẫn tôi lại với Chúa Giêsu: dịp rước lễ Chúa nhật (ở nhà thờ Đức Bà Laus) hồi lên 12 tuổi; từ dòng Marist đến dòng Thánh Thể.”

Thực hành: Chúng ta hãy phấn đấu để sống trong sự tĩnh niệm và kết hợp với Chúa Giêsu hiện diện trong chúng ta, noi gương Mẹ chúng ta.

Hoa thiêng: Ôi Maria, Nữ Tử đích thực của đức Vua, mọi vinh quang của Mẹ đều ở trong nội tâm Mẹ, bởi vì Chúa Giêsu cư ngụ trong đó.

Bài 10: Khiêm Tốn, Một Đặc Nét Của Đức Maria

Cuộc đời ẩn dật của Đức Maria có một đặc nét phân biệt hẳn với cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúng ta không tìm thấy nơi Đức Maria sự khiêm nhượng quá lạ lùng kinh ngạc, sự khiêm nhường pha trộn vừa mạnh mẽ vừa yếu đuối, vừa quyền chức vừa thuần phục, sự khiêm nhường rất đáng thán phục trong cuộc đời Chúa Giêsu. Đời sống của Mẹ Maria luôn luôn bình bình, đơn sơ và khuất lấp, khiêm tốn và nhu hạ sâu xa. Sự khiêm tốn là đặc nét của lòng đạo đức, nhân đức và mọi hành động của Mẹ.

1. Đức Maria khiêm nhu trong sinh hoạt bên ngoài. Mẹ không sống lập dị bởi nếp sống khổ hạnh cũng không bởi lối sống buông thả. Từ tốn và ngọt ngào, giống như người Con thần linh của Mẹ, toàn thể sinh hoạt bên ngoài của Mẹ nói lên địa vị thấp kém của Mẹ làm cho Mẹ nên giống như bao người phụ nữ trong dân chúng. Chúng ta cũng nên cố gắng cư xử khiêm tốn để tránh kéo chú ý về mình, nếu chúng ta muốn nên giống Mẹ Thánh chúng ta trong cuộc đời Mẹ.

2. Đức Maria khiêm hạ trước mặt người đời, Mẹ đã hăng hái hy sinh đời sống tư và những ngọt ngào của sự chiêm niệm thiên đường để đi viếng bà chị họ Elizabeth, chúc mừng bà và giúp đỡ bà. Suốt ba tháng, Mẹ đã là người bạn đồng hành kiên trì của bà, khiêm tốn hầu hạ bà; và Mẹ đã lấy làm vui thú về mái gia đình đặc tuyển này. Khi vinh quang Con Mẹ đòi hỏi, Mẹ đã xuất hiện trước công chúng. Mẹ đã có mặt tại đám cưới Cana. Mẹ không hề nói một lời nhằm tán dương mình, cũng không đem danh hiệu Mẹ Thiên Chúa, hay quyền lực và vinh quang Con mình ra để cho người ta quí chuộng mình. Mẹ luôn luôn lưu tâm đến tiếng gọi của đức bác ái, và rút lui ngay khi không còn nhu cầu đến Mẹ.

3. Đức Maria khiêm nhường trong các bổn phận. Mẹ chu toàn mọi bổn phận cách êm ái, không sôi nổi háo hức, luôn luôn mãn nguyện, luôn luôn sẵn sàng đón nhận những bổn phận mới. Mẹ chu toàn bổn phận với tư chất điềm tĩnh, không tỏ ra khó khăn gì và cũng không bao giờ xin an ủi, không bao giờ gây chú ý, vì mọi sự được thi hành như là việc tất nhiên phải thế. Do đó, Mẹ là mẫu gương tuyệt vời cho tất cả những ai muốn sống đời sống của Chúa Giêsu Thánh Thể. Đời sống của người tôn thờ, được thánh hiến để phục vụ Vua Thánh Thể, gồm có một ít hy sinh mà duy mình Thiên Chúa nhìn thấy và ban thưởng. Những công việc phục vụ thấp kém của họ tạo nên tất cả vinh dự, tất cả niềm vui của lòng sùng hiếu, và tham vọng độc nhất của họ là làm vui lòng Thầy chí thánh bằng việc bền bỉ hy sinh thân mình.

4. Đức Maria khiêm tốn trong việc đạo đức. Đức Maria, đã được nâng lên tới tột độ của đời sống cầu nguyện mà một thụ tạo có thể đạt tới, đã sống thường xuyên trong sự rèn luyện tình yêu trọn hảo, đã được tôn lên trên tất cả các thiên thần, và nhờ phẩm chức Mẹ Thiên Chúa, làm nên một trật tự tách biệt trong những kỳ quan của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Mẹ phục vụ Chúa của Mẹ trong đường lối đạo đức thông thường bình dị. Mẹ đi theo những huấn chỉ của lề luật, tham dự các ngày lễ theo luật, cầu nguyện với dân chúng. Không có gì để phân biệt Mẹ, không cả đức khiêm tốn mà Mẹ đã dấu kín. Không gì, kể cả lòng sốt sắng phi thường, tỏ ra nơi nếp sống bề ngoài lòng đạo đức trọn hảo của Mẹ.

Lòng đạo đức của chúng ta cũng nên như thế; không gì được gây chú ý trong những việc thực hành của chúng ta, đơn sơ và khiêm tốn trong hành động, cẩn thận loại bỏ hết mọi lập dị (hoa quả tinh vi của lòng tự ái) và mọi cái bất thường, khi chúng có thể đưa đến sự phù phiếm và ảo tưởng.

5. Đức Maria khiêm tốn trong các nhân đức. Đức Maria có tất cả các nhân đức ở mức độ tối cao, và thực hành tất cả các nhân đức ấy một cách trọn hảo thần hiệu, nhưng không phải trong cách lạ thường. Sự khiêm nhường của Mẹ đã chỉ nhìn thấy lòng nhân lành Thiên Chúa, và đối với tất cả những ân huệ Mẹ đã lãnh nhận, Mẹ chỉ tỏ ra một lòng biết ơn khiêm tốn, lòng biết ơn của người nghèo – lặng lẽ và kín đáo, không bị người đời chú ý. “Nazareth nào có cái gì hay chứ?” Kết quả là chẳng ai để ý đến Mẹ Maria. Hãy xem cái bí mật vĩ đại của sự trọn lành: để biết thế nào là tìm kiếm nó trong cái đơn sơ nhất; thế nào là dưỡng nuôi nó trong những cái thông thường nhất; thế nào là bảo quản nó giữa sự bị coi thường và quên lãng. Nhân đức mà được phô trương nơi công cộng thì nguy mất; nhân đức mà được ca tụng khen lao thì sắp gãy đổ. Đoá hoa mà mọi người ngắm nghía thì rất mau tàn.

Do đó, chúng ta hãy yêu quí những nhân đức nhỏ bé của Nazareth, những nhân đức kín ẩn được phát sinh dưới chân thánh giá, dưới bóng Chúa Giêsu và Mẹ Maria; để rồi chúng ta khỏi phải sợ bão táp quật ngã cây tuyết tùng, cũng không sợ sấm sét đánh trên đỉnh núi cao.

6. Đức Maria khêim tốn trong những hy sinh. Đức Maria chấp nhận cuộc lưu đầy cách lặng lẽ và dịu dàng mà không thốt ra một lời phàn nàn. Mẹ đã không cho mình là hơn vì thấy mình được tiền định chịu những hy sinh lớn lao, cũng không phàn nàn hoặc xin giảm bớt tính chất gay gắt của những hy sinh ấy.

Mẹ đã nhu hạ trong suốt thời gian người bạn đời thánh thiện của Mẹ phải chịu bối rối cay cực. Thay vì nói với người về mầu nhiệm vĩ đại đã được thực hiện trong Mẹ, điều đó sẽ làm Mẹ được đề cao dưới mắt người, thì Mẹ lại đã chịu đựng sự hoài nghi của người trong thinh lặng và chờ đợi trời cao biện minh cho nhân đức của mình, Mẹ lặng lẽ phó mình cho sự quan phòng Thiên Chúa.

Với con tim bị sầu thương đâm thâu, Mẹ Maria đi theo Con Mẹ đang vác thánh giá; nhưng trên quãng đường Giêrusalem ấy, Mẹ không hề kêu than khóc lóc. Trên đồi Canvê, bị chìm đắm trong nỗi sầu thương khôn lường, một nỗi đau thương sâu thẳm như tình yêu của Mẹ, Mẹ Maria đã chịu đau khổ trong im lặng; và sau khi đã im lặng từ biệt Con Mẹ, Mẹ đã rút lui – tâm hồn tan vỡ, nhưng vẫn nhẫn nại.

7. Sau hết, Đức Maria nhu hạ trong những vinh quang của Mẹ, và đây là cuộc khải thắng tuyệt vời nhất của đức khiêm nhường của Mẹ Maria.

Đức Maria vì phẩm chức độc đáo Mẹ Thiên Chúa nên có quyền được cả vũ trụ tôn kính; tuy nhiên, Mẹ chỉ giữ lại những đau khổ và hy sinh của thiên chức làm Mẹ. Khi Con Mẹ được tôn vinh ca tụng, thì không bao giờ công chúng thấy Mẹ xuất hiện. Trái lại, khi nào có những đau đớn nhục nhã cần phải chia sẻ với Ngài thì Mẹ luôn luôn có mặt bên cạnh Ngài.

Do đó, nếu chúng ta muốn là những người con đích thực của người Mẹ đáng yêu này, chúng ta phải mặc lấy đức khiêm nhường của Mẹ. Chúng ta hãy năng lấy nhân đức này làm đề tài nguyện ngắm, vì đó là gia sản Mẹ Maria để lại cho chúng ta. Hãy để đức khiêm nhường của Mẹ trở nên mực thước cho cách xử sự của chúng ta. Hãy để cho sự đơn sơ, quên mình chỉ nhìn lên Chúa, luôn lo đến bổn phận hơn là tìm dễ chịu, lo tìm Chúa hơn là tìm những an ủi của Chúa, lo yêu vì tình yêu – sau cùng hãy để niềm vui thích độc nhất này trở nên phần chén, nên mục đích của tất cả mọi nỗ lực và đặc nét của đời sống chúng ta.

Đức khiêm nhường là nhân đức tối thượng của người tôn thờ, vì đó là nhân đức của các tôi tớ Đức Vua, và là nhân đức của các thiên thần trước sự hiện diện của chúa tể thần linh.

Do đó, đức khiêm nhường điều chỉnh cách ăn ở của chúng ta trước mặt Chúa, khi chúng ta tỏ bày cho Ngài niềm kính tôn của các giác quan và tài năng của chúng ta. Đó là lễ nghi phụ vụ hoàng triều. Chúng ta phải nhu hạ y như Mẹ Maria trong việc phục vụ Chúa Giêsu!

Thiên thần phép Thánh Thể

Maria Eustelle, một cô gái lao công khó nghèo, đã đáng được mệnh danh là “Thiên thần phép Thánh Thể”, vì cô nổi tiếng là có tình yêu sùng hiếu và lòng trung tín hiền dịu đối với Thánh Thể.

Được vị chủ chăn trao cho việc trông coi phòng thánh, không thể nào kể cho hết cô đã thi hành chức vụ thánh này với lòng tôn kính và sùng mộ như thế nào. Than ôi, trong nhiều giáo xứ, chức vụ đó được những người làm thuê thi hành một cách rất ít kính cẩn!

Lần đầu tiên được làm một lô những chuẩn bị cần thiết cho việc dâng thánh lễ, niềm vui của linh hồn cô chỉ tương đương với cái cảm thức về nỗi bất xứng của mình. Cô đã viết về vấn đề này: “Tôi thích nghĩ giống như Đức Thánh Trinh Nữ rằng tôi sẽ phục vụ đền thờ Chúa bao lâu còn được phục vụ. Tư tưởng này khêu gợi lòng biết ơn của tôi. Nhưng để xứng đáng với vị trí thánh này, tôi cần đến sự trong sạch của Thánh Nữ Đồng Trinh, sự trong sạch mà tôi còn lâu mới có được. Ôi lạy Chúa! Con không nghĩ đủ về những món nợ mà con phải trả vì tất cả những phương thế cứu rỗi này. Con chỉ biết sung sướng đón nhận điều mà công việc thánh này đem đến cho con. Xin Chúa rủ lòng thương trang điểm linh hồn con bằng sự trong trắng của các thiên thần, để con được kéo đến gần Chúa của các thêin thần, và tiếp nhận Ngài t hường xuyên!” (Tiểu sử Maria Eustelle).

Thực hành: Chúng ta hãy cố gắng tỏ ra trong đời sống sự khiêm nhường của Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Ngài.

Hoa thiêng: Ôi Bồ câu Trinh khiết, con chúc tụng Mẹ, người đã đem lại cho chúng con cành Ôliu, và loan báo trước Chúa Giêsu Bánh Thánh, Đấng sẽ cứu chúng con khỏi cơn đại hồng thủy thiêng liêng.

Bài 11: Đức Maria Tại Bêlem
Mầu nhiệm Bêlem tràn ngập yêu thương êm ái. Có thể nói, ở đây Chúa Giêsu có vẻ dễ chịu hơn ở trên núi Canvê. Chúng ta hãy đi sâu vào trong thái độ tư duy của Đức Thánh Trinh Nữ.

1. Chúng ta hãy kết hợp với Đức Maria trong nỗi chờ mong của Mẹ, suốt những giờ dài trước giây phút thánh thiêng Mẹ sinh Chúa Con. Giống như Mẹ, chúng ta hãy tăng bội tình yêu, lòng sốt sắng và sự kết hợp với cuộc tĩnh niệm của Mẹ. Và hãy để cho nếp sống của Mẹ dạy chúng ta bài học này: phục vụ Chúa như Ngài muốn, và đừng tìm vui thú gì trong việc phục vụ Ngài.

Từ các lời tiên tri, Mẹ đã hiểu biết tất cả sự đau khổ đang chờ đợi Con Mẹ, và Mẹ đã sẵn sàng phục vụ Ngài trên nẻo đường Ngài đi và sẵn lòng theo Ngài bất cứ nơi đâu Ngài đến. Chúng ta hãy noi gương tinh thần sát tế này, tình yêu đích thực này.

Cứ theo tự nhiên, đáng lẽ Mẹ Maria phải sinh Chúa Giêsu trong nơi đền đài sang trọng, hoặc ít là ở một nơi thuận tiện nào đó. Nhưng không, Ngài đã được sinh ra nơi chuồng bò, trong một hốc đá, nơi mà sau khi bị xua đuổi khắp nơi, Đức Maria và thánh Giuse đã phải tìm đến. Nỗi đau khổ của thánh Giuse thật là lớn lao! Là người đầu gia đình, ngài có bổn phận phải tìm cho ra một mái che cho người bạn thánh của mình, và chúng ta có thể tưởng tượng ngài lo lắng căng thẳng chừng nào khi bị chối từ khắp nơi, ngài phải đành lòng dẫn Đức Maria sắp sinh con vào trong một hang đá tồi tàn. Nhưng Đức Maria thì sung sướng ngay cả ở giữa những chối từ phủ phàng này. Mẹ có Chúa G iêsu hất hủi và khinh chê, Ngài là Đấng đã dẫn Mẹ và Thánh Cả đến chuồng bò nơi Ngài muốn được sinh ra.

Như thế, chính Thiên Chúa hoàn tất mục tiêu Ngài. Khi con người xao xuyến; nó tìm kiếm những trợ giúp nhân loại, và khi nó đã dùng mọi phương thế mà chẳng được gì, Thiên Chúa sẽ dẫn nó đến nơi Ngài muốn. Thiên Chúa cho phép chúng ta uổng công tìm kiếm những giúp đỡ nhân loại, để chúng ta có thể phó thác mình cho Ngài cách trọn vẹn hơn và để dẫn dắt chúng ta như Đức Maria và thánh Giuse. Chính trong trạng thái phó thác này mà chúng ta cảm được cách bén nhạy nhất lòng nhân lành của Thiên Chúa. Ngài chăm sóc chúng ta và chúng ta tín cẩn xích lại gần Ngài như con cái chung quanh cha mình. Khi những nỗ lực của chúng ta thành công, khi sự quan phòng của Thiên Chúa tỏ mình rõ hơn trước chúng ta, thì tình yêu của chúng ta không còn như nhất nữa, vì có lẽ chúng ta cậy vào những nỗ lực của mình nhiều hơn vào Chúa. Dân Israel đã lãnh nhận nhiều ân huệ trong sa mạc hơn là ở Đất Hứa, và ở đó Thiên Chúa gần gũi họ hơn; Chúa Giêsu ở trong máng cỏ Bêlem hoặc trong căn nhà thấp hèn Nazareth, thì dễ đến gần hơn khi Ngài sống đời công khai, giữa tất cả những kỳ công Ngài đã thực hiện.

2. Và khi Chúa Giêsu sinh ra. Ôi! nếu có thể được chúng ta hãy thể hiện niềm kính thờ chăm chú của Đức Maria. Chúng ta hãy thờ lạy Chúa Giêsu trên tay Mẹ, hoặc đang ngủ trên lòng Mẹ. Ôi chiếc Bình Thánh xinh đẹp chừng nào! Tất cả kỹ năng của Thánh Linh mới chế tạo được như vậy. Thật vậy, ai có thể xinh đẹp hơn Đức Maria được, ngay cả theo bề ngoài? Mẹ là đóa huệ tinh tuyền mọc trong thung lũng dưới ánh dương vô nhiễm. Đức Maria là vườn địa đàng của Thiên Chúa! Và kìa một bông hoa khác đã mọc lên ở đó – Chúa Giêsu, Hoa của gốc Jesse! Hãy xem cái mà mùa gặt đem lại – Chúa Giêsu, Bông lúa mì ưu tuyển! Bây giờ chúng ta hãy đi sâu vào trong linh hồn Đức Maria và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó. Ở đó có đủ vẻ xinh đẹp để đem lại cho chúng ta niềm vui sướng bất tận khi chúng ta thâm hiểu. Thiên Chúa toàn năng có thể nói là đã dốc hết năng lực để tô điểm cho Đức Maria. Mẹ đã trở nên bình thánh chứa đựng Ngôi Lời Nhập Thể. Mẹ là kênh dẫn Chúa Giêsu đến với chúng ta!

A, vâng! Thánh Thể đã bắt đầu ở Bêlem trong vòng tay Đức Maria. Chính Mẹ là người đã đem đến cho nhân loại thứ Bánh mà nó đang đói khát, và chỉ duy Bánh ấy mới có thể nuôi sống nó. Chính Mẹ là người đã đem đến cho nâhn loại thứ Bánh mà nó đang đói khát, và chỉ duy Bánh ấy mới có thể nuôi sống nó. Chính Mẹ là người chăm lo Bánh ấy cho chúng ta. Chính Mẹ nuôi dưỡng Con Chiên mà chúng ta được ăn thỏa thuê Thịt ban sự sống của nó. Mẹ nuôi Ngài bằng dòng sữa trinh nguyên của Mẹ; Mẹ nuôi Ngài để làm của lễ sát tế, vì Mẹ đã biết trước số phận của Ngài. Vâng, Mẹ biết ngay từ đầu, và mỗi ngày Mẹ nhận thức rõ hơn rằng con Chiên chỉ là để sát tế. Mẹ chấp nhận thánh ý Chúa, và, khi ẵm Ngài trên tay, chính Mẹ đã sửa soạn cho chúng ta Lễ Vật đồi Canvê – Lễ Vật Bàn Thờ của chúng ta. Vào ngày tế lễ, chính Mẹ đã dẫn con Chiên thần linh lên Giêrusalem, giao nộp cho phép công thẳng Thiên Chúa để cứu độ thế giới. A! Bêlem đã nói về Canvê! Thực sự Đức Maria đã nghe thấy lời đầu tiên của Con Mẹ: “Cha ơi, của lễ hy sinh và lễ toàn thiêu Cha đã chẳng ưng… thì này Con xin đến!” và Mẹ đã kết hợp bản thân Mẹ với hiến lễ thấy trước của Ngài.

3. Nhưng Bêlem cũng có niềm vui riêng, niềm vui hết sức an ủi ngọt ngào. Các mục đồng – những linh hồn đơn sơ – đã đến thờ lạy Hài Nhi Cứu Chuộc. Mẹ Maria vui mừng vì thấy lòng tôn kính và những lễ vật tự nguyện của họ dâng lên Chúa Giêsu.

Vài ngày sau, các đạo sĩ đem những lễ vật vương giả đến dâng cúng và thờ lạy. Đức Maria đưa Hài Nhi ra đón nhận tình yêu của họ; chính trong tay Mẹ mà họ tìm thấy Ngài.

Ôi chúng ta lại không thường xuyên chia sẻ niềm hạnh phúc của các đạo sĩ đấy ư! Hạnh phúc biết bao cho linh hồn yêu mến khi nó tìm được Chúa Giêsu với Mẹ Maria, Mẹ Ngài! Những ai từng biết Nhà Tạm nơi Ngài lưu ngụ, những ai từng đón rước Ngài vào linh hồn, đều biết rằng cuộc trò chuyện với Ngài đầy những ngọt ngào thần thiêng, niềm an ủi của Ngài làm hân hoan, sự bình an Ngài ban tràn trề, và tình thân mật yêu thương của Trái Tim Ngài thật khôn tả.

Tìm thấy Chúa Giêsu trong tay Mẹ Ngài, kết hợp với những tâm tình của Mẹ Maria khi Mẹ xiết chặt Ngài trên Trái Tim Mẹ – Ôi giây phút hoan hỉ biết bao! Giống như niềm vui núi Tabor, nó trôi qua rất nhanh! Ôi, giây phút tuyệt vời, mọi sự khác đều hoá ra không và chúng ta cũng không còn mơ ước gì khác, kể cả thiên đàng – vì chúng ta đã có thiên đàng rồi, chúng ta đã có Giêsu Maria.

Nhờ sự ân cần của Đức Maria, các nhà thờ kính Thánh Thể gia tăng

Nếu Đức Thánh Trinh Nữ đã linh hứng cho rất nhiều tôi tớ đạo đức của Mẹ thực hiện những cuộc hành hương và xây dựng đền thờ tôn kính Mẹ, thì chúng ta cũng đừng quên rằng Mẹ cũng soi cho họ làm nhiều Nhà Tạm cho Con Mẹ, vị Thiên Chúa ngự trong Thánh Thể. Về điều này, chúng ta có những bằng chứng rất quí giá trong dịp xây dựng nhà nguyện Đức Bà ở Laus, toạ lạc trên dãy núi Alps. Khi ngỏ lời với một người chăn cừu đạo đức, người mà Mẹ muốn dùng làm dụng cụ cho các ân sủng của Mẹ, Mẹ nói: “Ta muốn một nhà thờ được xây lên ở đây để tôn kính người Con rất yêu dấu của Ta; nơi đây nhiều tội nhân sẽ được cải hồi.”

Nhà thờ đã được xây cất với phần góp nhỏ bé của người nghèo, và Mẹ Maria một lần kia lại ngỏ lời với cũng người ấy, Mẹ nói: “Con Ta đã cho Ta địa điểm này để qui hồi các tội nhân.” Và lịch sử Laus đã để lại nhiều bằng chứng, không bao giờ một kẻ có tội ra khỏi đền thánh này mà không được giao hoà với người Con thần linh của người Mẹ rất dịu dàng, người vẫn chờ đợi họ nơi Nhà Tạm của Ngài, ngai ân sủng và thương xót. (Histoire des merveilles de Notre Dam du Laus.)

Thực hành: Chúng ta hãy kiên trì xin Mẹ Maria ban Chúa Giêsu cho chúng ta.

Hoa thiêng: Kính chào Mẹ Maria là núi thánh nơi Con Chiên Thánh Thể tìm được đồng cỏ màu mỡ xanh tươi!

Bài 12: Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thánh

1. Chúa Giêsu không muốn trì hoãn việc dâng mình công khai cho Chúa Cha. Sau khi sinh ra được 40 ngày, Ngài đã soi sáng cho Đức Maria đem Ngài vào đền thờ. Đức Maria ẵm Hài Nhi trên tay; Mẹ đi dâng Ngài cho Chúa Cha và rồi chuộc lại với đôi chim cu gáy, vì Chúa Giêsu muốn được mua lại với những thụ tạo nhỏ bé này tượng trưng sự trong trắng và đơn sơ của Ngài. Một mầu nhiệm vĩ đại đã xảy ra ở đó.

Niềm vui sướng hạnh phúc của Đức Trinh Nữ đã chấm dứt từ ngày đó. Chúng ta hãy lắng nghe lời của cụ già, một người được Thiên Chúa tuyển chọn: “Trẻ này được đặt lên khiến cho nhiều người Israel phải hư mất và nhiều người được chỗi dậy… và phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu.”

Làm sao Ba Ngôi Thiên Chúa rất tốt lành, rất hiền dịu, lại có thể mặc khải một mầu nhiệm đau thương dường ấy cho một người mẹ trẻ mới 15 tuổi, người đang được tràn ngập niềm vui vì mới sinh con? Đó là lần đầu tiên Mẹ đến viếng đền thờ kể từ ngày sinh con, và Mẹ được báo cho biết cái chết cực dữ đang chờ đợi người con dấu yêu của Mẹ. A! Mẹ quá hiểu rồi! Từ ngày đó, núi Canvê không rời Chúa Giêsu; ở Nazareth hay ở bên Ai cập – nơi nào Mẹ cũng thấy Giêsu của Mẹ bị đóng đinh. Khi linh hồn chúng ta còn yếu ớt trên đường nhân đức, Thiên Chúa để chúng ta sống một đời sống ít nhiều bị che đậy: nhưng khi Ngài thấy một linh hồn yêu mến thực sự, Ngài vội vã đóng đanh nó để bày tỏ vinh quang Ngài trong đó. Tình yêu đòi phải có đau khổ. Đức Maria chấp nhận mọi sự. Từ đó về sau, khi đàm đạo với Con Mẹ, Mẹ chỉ nói về núi Canvê, về những đau khổ và cái chết của Người. Thực sự Mẹ có một sức chịu đựng ngoan cường để chịu đựng thảm cảnh Canvê sẽ xảy ra 33 năm sau: “Tâm hồn bà sẽ bị gươm sắc đâm thâu.” Chúng ta có hiểu được cuộc tử giá hàm chứa trong những lời này không? Rồi từ đó, Mẹ Maria nhìn thấy những nỗi đau khổ của Con Mẹ trong từng chi tiết. Mẹ không ngừng nghĩ đến đó. Từ giây phút đó Mẹ trở nên Nữ Vương tử đạo.

2. Chúng ta phải thu lượm được gì từ mầu nhiệm Mẹ Dâng Con? Đây là bài học: chúng ta đừng dâng mình phục vụ Thiên Chúa để tìm kiếm an ủi khoái vui, để chiếm hữu niềm bình an yên tĩnh bất biến. Chúa Giêsu quả có nói: “Ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng.” Nhưng Ngài cũng đã nói: “Ai không vác thánh giá mỗi ngày mà theo Ta thì không đáng với Ta.”

Vậy chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải kết hợp với Mẹ Maria dâng trót mình cho Thiên Chúa, chấp nhận đau đớn khổ cực và những thánh giá Ngài sẽ gởi đến cho chúng ta. Lúc khởi đầu khi linh hồn mới dâng mình cho Chúa, nó thường cảm nghiệm những an ủi lớn lao; việc phục vụ Chúa xem ra đầy những cảm giác ngọt ngào. Có nhiều linh hồn chán ghét trần thế và những giả dối của nó, họ quay trở về đời sống đạo đức để tìm kiếm bình an và an ủi. Họ chỉ tìm duy điều đó; họ chỉ ước muốn duy điều đó trong việc phục vụ Chúa. Họ phục vụ Ngài bao lâu Ngài còn trào đổ trên họ những ân huệ thần linh của Ngài; nhưng khi Ngài ẩn mình đi và muốn thay đổi cho họ thức ăn cứng hơn thức ăn của trẻ nhỏ, họ liền trở nên chán ngán, thất đảm và bối rối. Họ vắt óc tưởng tượng để tìm xem họ đã làm gì để bị phạt như thế này. Họ tưởng tại những lần xưng tội chưa thành thực, những lần rước lễ bất xứng. Họ tìm mọi cách để thấy trong họ nguyên nhân của sự thay đổi. Khi không tìm được, họ trở nên chán nản và thường kết thúc bằng sự bỏ bê các việc đạo đức.

Dĩ nhiên chúng ta không được coi thường những an ủi của Chúa, chúng ta phải hân hoan lãnh nhận khi Ngài gửi đến; nhưng chúng ta cũng đừng chỉ tìm kiếm những an ủi ấy. Những an ủi ngọt ngào, những ân huệ ấy sẽ qua đi trong khi Chúa Giêsu vẫn tồn tại mãi mãi. Có những vị thánh được Chúa ban cho những ân huệ vĩ đại, với những cơn xuất thần – nhưng các ngài cũng phải chịu đau khổ biết bao! Thiên Chúa chỉ ban cho các ngài những ân huệ từng lúc hiếm hoi, như là bù đắp cho những đau khổ các ngài đã phải chịu và để khích lệ các ngài chịu đau khổ thêm nữa vì tình yêu. Chính nhờ chịu đau khổ mà chúng ta được thánh hoá, nhờ thánh giá và thử thách mà linh hồn được củng cố, được giải phóng khỏi bản ngã, để nó có thể tìm được niềm vui thoả của nó trong Thiên Chúa và duy mình Thiên Chúa.

Đây là bài học của mầu nhiệm Mẹ Dâng Con trong đền thờ. Chúng ta hãy đem ra thực hành nếu chúng ta muốn xứng đáng với của lễ đích thực, của lễ mà chúng ta không ngừng chiêm ngưỡng trong phép Thánh Thể, và xứng đáng với Mẹ thánh Ngài, Đấng đã quảng đại dâng hiến Ngài vì chúng ta.

Sự cung hiến lạ lùng Đền thánh Đức Bà của các đan sĩ

Vào tháng 9 năm 948, Đan viện phụ Eberhard of Einsiedeln, thuộc quyền thánh Conrad, Giám mục giáo phận Constance, đến xin thánh nhân làm phép nhà thờ. Thánh nhân đã đến vào ngày 13 tháng 9, có Giám mục Ulric, một giám mục thánh thiện địa phận Augsburg, và một số nhà quí tộc. Ngày 14 là ngày ấn định cử hành nghi lễ. Nửa đêm, thánh Giám mục Conrad cùng vài tu sĩ vào nhà thờ để cầu nguyện. Bỗng nhiên, nhà thờ rực rỡ ánh sáng thiên đàng, và các ngài thấy chính Chúa Giêsu Kitô đứng ở bàn thờ cử hành lễ cung hiến, có bốn thánh sử tham dự. Các thiên thần đổ dầu thơm khắp nơi trên vị Giáo chủ thần linh. Thánh tông đồ Phêrô và thánh giáo hoàng Gregoriô cầm huy hiệu giáo hoàng. Mẹ Thiên Chúa đứng trước bàn thờ giữa vầng hào quang. Các mái vòm nhà thờ vang lên những bài thánh ca thiên đường do đội hợp xướng thiên thần có Đức Tổng thần điều khiển hát, thánh Stefanô và thánh Laurensô, những vị phó tế tử đạo rất danh tiếng, đã chu toàn phận sự bậc mình. Chính thánh Conrad trong một số bài viết của ngài đã nói đến những thay đổi khác nhau do cung giọng các thiên thần tạo nên khi họ hát bài Sanctus, bài Agnus Dei, và cuối cùng là Dominus vobiscum. Bằng một trong số những cung giọng này họ đã hát: “Xin thương xót chúng con, lạy Chúa, sự thánh thiện của Ngài toả sáng khắp đền thánh của Đức Trinh Nữ vinh hiển. Đền thánh được chúc phúc bởi Con Đức Maria, Đấng đến nơi đây để cai trị mãi mãi.” Thánh giám mục, mặc dù kinh ngạc với cuộc hiện ra như thế, vẫn tiếp tục cầu nguyện cho mãi tới một giờ sáng. Người ta chờ đợi ngài, mà không dám hỏi han xem vì cớ gì mà ngài trì hoãn lâu như vậy.

Cuối cùng, một số thầy yêu cầu ngài bắt đầu cử hành lễ. Thánh Conrad, vẫn quì yên tại chỗ, kể lại cách đơn sơ điều ngài đã mắt thấy tai nghe. Tuy nhiên, họ nghĩ có lẽ ngài vẫn còn bị ảnh hưởng giấc mơ. Sau đó vị giám mục tháh thiện này cũng nhượng bộ theo lời khẩn khoản của mọi người, bắt đầu lễ thánh hiến. Chính lúc đó có một tiếng lạ vang lên tràn ngập khu nội cấm, đập vào tai những người chứng kiến, lặp đi lặp lại bằng ngôn ngữ của Giáo hội: “Cessa. C essa, frater! Capella divinitus consecrata est.” (ngưng lại, ngưng lại, hỡi người anh em, nhà thờ đã được thánh hiến cách thần diệu rồi!)

Mười sáu năm sau, thánh Conrad, thánh Ulric, và những nhân chứng tận mắt khác đã tụ tập lại cả bên Rôma để làm chứng về điều đó. Sau khi đã thực hiện tất cả những tra hỏi cần thiết theo luật, Đức Leo VIII ban một sắc lệnh liên quan đến vấn đề này, để cho công bố rộng rãi. Sắc lệnh này đã được tái phê chuẩn bởi các Đức Thánh Cha về sau: Đức Innôcentê IV, Martinô V, Nicôla IV, Eugêniô IV, Nicôla V, Piô II, Juliô II, Leô X, Piô IV, Gregôriô XIII, Clêmentê VII, và Urbanô VIII.

Sau hết, vào ngày 15 tháng 5 năm 1793, Đức Thánh Cha Piô VI đã tái chuẩn nhận các việc làm của các Đấng tiền nhiệm, bất chấp những người theo chủ thuyết hoài nghi luôn luôn sẵn sàng nghi ngờ những gì họ không cần chấp nhận, và sẵn sàng xếp đức tin vào số những niềm tin mù quáng, mà họ thích. (Description du couvent et de l’abbaye d’Einsiedeld.)

Thực hành: Chúng ta nên dâng mình cho Chúa Giêsu, của lễ tình yêu trên bàn thờ chúng ta, và chấp nhận tất cả những gì Ngài muốn gửi đến cho chúng ta, trong sự kết hợp với Đức Maria.

Hoa thiêng: Ôi Maria, rượu phong phú, đã ban cho chúng con rượu nho Thánh Thể, Mẹ đáng chúc tụng muôn đời!

Bài 13: Đời Sống Của Gia Đình Thánh Gia

Chúng ta hãy suy ngắm về đời sống của gia đình Thánh Gia, đời sống của Mẹ Maria và thánh Giuse trong Chúa Giêsu.

1. Chúa Giêsu là trung tâm tình yêu của Đức Maria và thánh Giuse… “Của cải ngươi ở đâu thì lòng ngươi ở đó.” Cũng thế, chiếm hữu được Giêsu là niềm vui độc nhất của đôi cha mẹ này. Ngài là tất cả của họ. Họ không ở Bêlem, Aicập hay Nazareth, vì nhà của tâm hồn họ chính là Chúa Giêsu.
Hạnh phúc biết bao được ở cùng nhà với Giêsu, Hài Nhi thần linh! Thế nên nếu có việc bắt buộc phải đi đâu ra khỏi nhà, thánh Giuse vội vã chừng nào để trở về! Thánh nhân không để phí mất chút thời giờ nào xa cách Chúa, ngài biết Giêsu là chính tình yêu thần linh nhập thể.

Cũng thế, nhà tôi, gia đình tôi, trung tâm cuộc đời tôi là chính Thánh Thể, là Nhà Tạm mà tôi đang được ở gần. Giống như Đức Maria và thánh Giuse, chỉ ở đó tôi mới được cảm thấy đang ở nhà.

2. Chúa Giêsu là cùng đích của cuộc đời Đức Maria và thánh Giuse; hai đấng chỉ sống cho Ngài, chỉ làm việc cho duy mình Ngài. Thánh Giuse sung sướng chừng nào khi lao động vất vả để kiếm miếng cơm manh áo cho Ngài và Mẹ Thánh của Ngài hằng ngày! Thật là sung sướng mãn nguyện chừng nào mỗi khi đem về nhà đồng lương ít ỏi từ công việc của mình! Và khi công việc phục dịch càng khó nhọc, ngài càng cảm thấy nỗi nhọc nhằn ngọt ngào, vì mọi sự đều cho Giêsu!

Và chúng ta cũng thế, Chúa Giêsu Thánh Thể phải là đối tượng của đời sống, của niềm vui chúng ta – là hứng khởi của các công việc chúng ta làm. Còn đời sống nào tốt đẹp hơn đời sống qua đi trong tình thân hữu với Chúa Giêsu Thánh Thể!

3. Chúa Giêsu là lương thực đời sống kết hợp yêu thương của Đức Maria và thánh Giuse. Hai đấng tìm thấy niềm khoái vui của mình trong việc nhìn ngắm, lắng nghe Ngài, trong việc ngưỡng mộ đức vâng phục Ngài, quan sát Ngài khi Ngài làm việc cũng như lúc Ngài cầu nguyện, vì “Ngài làm mọi sự cách tốt đẹp.”

Nhưng, trên tất cả, các Đấng lấy làm hạnh phúc trong việc học biết các ý định Ngài, làm quen với những tâm tình Ngài, với động cơ của các nhân đức Ngài. Các đấng thấy Ngài không ngừng tìm kiếm và chọn những dịp để sống khó nghèo, vâng phục và hãm mình. Các đấng đã chiêm ngưỡng đức khiêm nhường và sự hủy mình của Ngài, trong khi ngưỡng mộ lòng Ngài trung thành qui mọi vinh quang về Chúa Cha, không bao giờ muốn là đối tượng của bất cứ lời tán tụng chúc vinh nào theo kiểu nhân loại.

Giêsu Maria Giuse chỉ có một mục tiêu trong cuộc đời, các Ngài chỉ muốn một điều, là danh dự và vinh quang của Cha trên trời.

Đây cũng phải là tham vọng của chúng ta; nhưng để thực hiện được điều này, tôi phải kết hợp với Đức Maria và Chúa Giêsu. Tôi phải chia sẻ đời sống các Ngài, đời sống gia đình các Ngài, đời sống tiềm mật mà duy mình Thiên Chúa cầm nắm các bí mật của nó.

Ôi! Hạnh phúc thay linh hồn chiêm ngắm đời sống ẩn dật của Thánh Gia, chiêm ngắm tất cả những gì xảy ra trong đó – một cuốn Phúc âm của Gia đình Chúa Giêsu! Ôi những buổi chiều tuyệt vời diễn ra giữa các vị ở Nazareth! Ôi những cuộc đàm đạo đầy tính chất thiên đàng, những buổi cầu nguyện ngây ngất! Chắc chắn Chúa Giêsu hẳn đã cắt nghĩa cho Đức Maria và thánh Giuse tất cả ý nghĩa Thánh kinh liên quan đến Ngài. Chúng ta hãy lắng nghe, kìa Ngài đang mặc khải cho các đấng biến cố núi Canvê, đang nói cho các đấng xem vị trí mà một ngày kia đinh sắt sẽ thâu qua; và đây cũng là để cho biến cố Canvê ngay từ bây giờ có thể sinh hoa trái trong linh hồn Mẹ Ngài và Đấng bảo trợ thánh thiện của Ngài. Ngài đã nói cho các đấng về Giáo hội, về các Tông đồ, các dòng tu sẽ thánh hiến cho Ngài và cho các đấng để tôn kính. Ngài cũng nói cho các đấng về chúng ta, những nỗi khốn nạn của chúng ta và tình yêu mênh mông mà Ngài mang đến cho chúng ta.

Nazareth đã trở nên thiên đàng của tình yêu, nên vườn địa đàng của Ađam mới và Evà mới; một thiên đàng của các nhân đức tinh tuyền nhất, của tình yêu thánh thiện nhất. Ôi biết bao hương thơm êm dịu xông lên trước nhan Thiên Chúa từ ngôi vườn tuyệt thú trong đó nở ra những bông hoa: Ngôi Lời Nhập Thể, Đức Maria và thánh Giuse người công chính! Ngôi vườn mà Cha trên trời tìm thấy khoái vui, các thiên thần thấy kinh ngạc thán phục. Phần tôi, tôi muốn lượm lặt được từ đó tình yêu để sống đời sống tĩnh niệm và đạo đức trong Giêsu Maria Giuse.

Hai người bảo vệ Đức Trinh Nữ

Từ đời đời Thiên Chúa sắp đặt dòng đời Đức Trinh Nữ Maria, đã tuyển chọn hai nhân vật được tiền định NỐI TIẾP NHAU TRỞ NÊN NHỮNG NGƯỜI BẢO VỆ CHO Đức Nữ Trinh khôn sánh; và sứ mạng Chúa đã dành cho họ là một sứ mạng trác tuyệt, Ngài đã mời gọi cả hai người tiến tới một trình độ lỗi lạc, phi thường của sự thánh thiện. Điểm giống nhau giữa hai người là gì? Vì được gọi sống thân mật tình thiết với một trinh nữ, nên điều hợp lý là cả hai đều phải sáng láng: đây là lẽ tại sao cả hai đều được điểm tô bằng nhân đức trinh khiết.

Một người tổng kết trong mình những vinh quang rực rỡ nhất của Cựu ước, thừa kế phẩm cách của các tổ phụ, chiếm hữu tất cả các sự tốt lành mà các tiên tri đã hứa. Người kia chiếm được những phẩm chức trọng vọng nhất của Tân ước, ngài phải là một Tông đồ, một vị Giáo hoàng, một Thánh sử, một Tiên tri và Tử đạo.

Nơi một vị chúng ta tôn kính như phu quân đích thực của Đức Trinh Nữ; nơi vị kia như người con của Mẹ nhờ ân sủng.

Một vị là đấng bảo vệ Đức Maria khi Mẹ còn có Chúa Giêsu ở bên; còn vị kia là người bảo vệ Mẹ khi Chúa Giêsu đã ra đi.

Một vị được ghì xiết Con Người trên trái tim mình; vị kia được dựa đầu vào Trái Tim Con Người.

Một vị nuôi dưỡng Chúa Giêsu bằng kết quả lao công của mình; vị kia được Chúa Giêsu nuôi tại bàn Tiệc ly, nơi đó ngài đã uống tình yêu từ đầu suối nguồn.

Một vị trung thành tháp tùng Chúa Giêsu và Đức Maria khi các mầu nhiệm bắt đầu; đứng trong đền thờ, bên cạnh vị Thượng tế và Đức Trinh Nữ suốt thời gian dâng hiến Của Lễ vĩ đại; vị kia cũng không kém trung thành tháp tùng Chúa Giêsu và Mẹ Maria khi các mầu nhiệm gần đến hồi kết thúc, đứng trước Bàn thờ Thập giá, gần bên cũng vị Thượng tế ấy và Đức Trinh Nữ ấy suốt thời gian hoàn tất Lễ Hy sinh.

Thật là những nhân vật độc đáo mà Thiên Chúa đã ủy thác kho tàng quí giá nhất của Người. Đôi tay họ thật xứng đáng được chạm vào Ngôi Lời Hằng Sống và phục vụ Mẹ Thánh Ngài; đó là lý do tại sao mọi thời đều ngưỡng mộ tôn vinh nhân đức và ca mừng hạnh phúc các ngài. (Msgr. Van den Berghe, Marie et le Sacerdoce.)

Thực hành: Chúng ta hãy ăn ở với hết niềm tôn kính khi ở trước bí tích Thánh Thể.

Hoa thiêng: Ôi Maria, Mẹ là người phục vụ Chúa Giêsu hoàn hảo nhất, xin đoái thương làm tôn sư dạy chúng con trong nghệ thuật thần linh này.

Bài 14: Lòng Thương Cảm Của Đức Maria
1. Đức Maria không có tội nguyên tổ cũng không có tội riêng phải chuộc đền. Thiên Chúa không chất trên Mẹ gánh nặng tội lỗi bất chính của chúng ta như đã chất trên Chúa Giêsu. Vậy tại sao Mẹ, một người vô tội lại phải chịu quá nhiều đau khổ suốt cả đời, vì trong suốt cuộc đời, thị kiến về cái chết của Con Mẹ không ngừng ám ảnh Mẹ cho tới khi thành hiện thực trên đồi Canvê?

Lý do thứ nhất là vì đau khổ là định luật của tình yêu; chính tình yêu của Đức Maria tạo nên cuộc tử đạo của Mẹ, và vì Mẹ yêu nhiều hơn bất cứ thụ tạo nào, nên Mẹ phải chịu một cuộc tử đạo khôn sánh. Lý do thứ hai là vì đau khổ là sự tôn vinh thực tế của Chúa Giêsu Kitô trong chúng ta. Nhờ đau khổ, chúng ta tiếp tục và hoàn tất hy lễ của Ngài. Sau cùng, bởi vì mẫu tính được mua bằng đau khổ. Trong khi sinh ra Người Con vô tì vết, Mẹ Maria đã thoát được định luật này; nhưng khi Mẹ trở nên Mẹ chúng ta, sinh chúng ta ra trong ân sủng, Mẹ phải chịu tất cả những gay gắt của đau khổ. Chúa Giêsu đã không phải chịu đau khổ để tái tạo chúng ta trong Ngài đó sao? Đức Maria cũng thế, khi đứng dưới chân thánh giá, Mẹ đã trải qua tất cả những hình khổ của cuộc khổ nạn, để trở nên Mẹ chúng ta do việc chấp nhận.

Thế nên chúng ta hãy suy tư về việc Mẹ Maria tham phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và hãy cố gắng hiểu phần mà Mẹ đã dự vào đó.

2. Nhờ ánh sáng siêu nhiên, Đức Maria đã nhìn thấy Chúa Giêsu trong vườn Cây dầu; Mẹ đã tham dự vào lời cầu nguyện, nỗi sầu thương, cơn hấp hối của Ngài, vì giữa hai Trái Tim này có một mối đồng cảm và tình yêu hoàn hảo.

Sau đó, Mẹ đã nhìn thấy Chúa Giêsu bị Giuđa phản bội, bị mọi người bỏ rơi, bị Phêrô chối bỏ; một mình Ngài đứng trước toà, không người bào chữa, bị tạt vả cách nhục nhã, bị đối xử như một người điên. Than ôi người Mẹ đáng thương! Mẹ phải chịu cảnh cực kỳ bơ vơ tàn nhẫn chừng nào! Không một ai, kể cả trong số các bạn hữu, bênh đỡ cho Ngài! Thậm chí không ai dám nhìn nhận Ngài!

Và khi thánh Gioan đến nói với Mẹ về quang cảnh phòng xử án của Philatô, về bản án tử hình bất công, thì Trái Tim Hiền Mẫu của Mẹ phải tan nát vì đau thương. Mẹ đi đến pháp trường: kìa, Mẹ nghe thấy tiếng roi vọt; Mẹ nhìn thấy Chúa Giêsu được đặt bên Baraba và được giới thiệu cho công chúng như kẻ ngang hàng với tên gian ác công khai; Mẹ nghe thấy tiếng Ecce Homo, và những tiếng kêu man rợ của đám quần chúng vô đạo đức: “Tolle, tolle, crucifige.” “Đem đi, đem đi đóng đanh nó vào thập giá.” A! người Mẹ đáng thương, Mẹ muốn có thể cướp lấy Con Mẹ khỏi những kẻ tố cáo tàn bạo này! Than ôi! Mẹ chỉ biết khóc!

3. Mẹ theo Chúa Giêsu lên đồi Canvê. Mẹ gặp Ngài trên con đường đau thương đó, con đường mà Ngài đã tưới đẫm máu đào. Bốn con mắt giao nhau, hai Trái Tim khổ sầu kết hợp trong một hành vi sát tế, một hành vi nhẫn nại trọn hảo.

Hãy xem Chúa Giêsu trên đồi Canvê! Mẹ Maria nhìn Ngài bị lột hết y phục một cách tàn nhẫn vô nhân đạo. Mẹ thấy Ngài giang tay trên thánh giá; Mẹ nghe thấy tiếng búa đang đóng chân tay Ngài vào giá gỗ. Còn cảnh nào ghê gớm hơn cho một người mẹ! Mẹ cũng bị đóng đanh – tiếng búa dội ngược lại gây cho Mẹ những dấu tích thương đau.

Mẹ nhìn ngắm Ngài khi người ta dựng Ngài lên khỏi mặt đất; Mẹ dõi mắt theo Ngài. Khi người ta đang hì hục dựng thánh giá lên, thì người Mẹ can đảm đó đã gạt phăng mọi chướng ngại, tiến đến sát bên. Ở đó, chìm ngập trong đại dương sầu đắng, Mẹ chiêm ngắm Ngài. Mẹ cảm nếm mỗi một trong các nỗi đau của Ngài; Trái Tim Mẹ như bị nghẹn vít bởi những tiếng kêu của Chúa Giêsu. Mẹ lắng nghe từng lời Con Mẹ phán ra; ghi nhớ những lời ấy trong ký ức Mẹ để sau này kể lại cho chúng ta. Mẹ nhìn dòng Máu Thánh chảy xuống lai láng; Mẹ nhìn thấy Ngài đang dốc cạn hết sự sống Ngài ra. Mẹ nghe thấy tiếng Ngài kêu khát mà Mẹ không biết làm sao cho Ngài giãn khát! Và sau cùng Mẹ nghe thấy Ngài kêu Ngài bị Chúa Cha ruồng bỏ! – rồi người Con chí ái của Mẹ đã trút hơi thở cuối cùng.

Bây giờ Đức Maria làm gì? Mẹ đang trong cơn hấp hối dằn vặt yêu thương, nhưng rồi Mẹ đã tiếp nhận trong vòng tay hiền mẫu Thân Xác Cực Thánh Ngài. Mẹ ôm ấp với tình mẫu ái dịu dàng, thờ lạy với đức tin Kitô hữu, và chuẩn bị mai táng như một quả phụ sầu thảm mai táng đứa con độc nhất – và rồi Mẹ khóc.

Đời sống của Mẹ Maria bây giờ sẽ trôi qua trong nỗi gợi nhớ những niềm đau của cuộc Tử nạn, để làm mới lại cuộc tử đạo riêng của Mẹ và đem lại vinh quang về cho Thiên Chúa nhờ những đau khổ Mẹ chịu. Mẹ sẽ suy đi gẫm lại đoạn đường đau thương đó, và cũng là để trước hết dạy chúng ta biết sùng mộ Đường Thánh Giá, để được đẹp lòng Chúa Giêsu và sinh ích cho các linh hồn.

Canvê vĩnh cửu

Mẹ Maria đã đau đớn khóc lóc dưới chân thánh giá. Mẹ sẽ cảm thấy đớn đau biết bao khi thấy Con Mẹ vẫn phải chịu nhục mạ, ngược đãi, khinh thường trên các bàn thờ của chúng ta còn hơn cả ở núi Canvê xưa!

Chị Maria Thánh giá ở Sicily, đã nghe thấy một tiếng kèn vang lên tựa tiếng sấm vào lúc có một vị linh mục phạm thánh dâng thánh lễ, và có một tiếng nói vang lên: “Ultio, poena, dolor! – Báo oán, trừng phạt, hành khổ!” và chị ta thấy một thiên thần cầm gươm trong tay sẵn sàng bổ vào vị linh mục quái gở. Khi vị đó đọc lời truyền phép, chị ta thấy dường như Chúa Giêsu hiền như con chiên, để Mình bị xâu xé ra từng mảnh bởi con sói dữ đó. Nhưng khi vị linh mục đó hiệp lễ thì thiên đàng trở nên tối đen, các thiên thần chung quanh bàn thờ khóc lóc; và Đức Mẹ đứng gần Con mình cũng vừa khóc, vừa chìm trong nỗi đau khổ khôn lường phát sinh do cái chết của Chúa Giêsu rất trong trắng, cũng như do sự hư mất của đứa con bội bạc này đã dám sát tế Ngài một cách cực dữ. (Thánh Alphonsô Ligouri, selva.)

Thực hành: Kết hợp với Đức Maria, chúng ta hãy dùng mọi phương thế đền tạ những sự phạm thánh người ta phạm đến Thánh Thể.

Hoa thiêng: Ôi Mẹ của tình yêu! Xin ban cho chúng con có thể cảm được nỗi khổ sầu mênh mông trước quang cảnh Chúa Giêsu bị vũ nhục trong phép Thánh Thể.

 

Bài 15: Đức Maria Sau Ngày Phục Sinh

1. Đức Maria đã chịu đau khổ trong sự kết hợp với Con Mẹ chịu chết trên thánh giá thể nào, thì Mẹ cũng tham phần vào niềm vui và hạnh phúc của Ngài sau khi Ngài phục sinh cũng như vậy; đời sống của Đức Maria luôn luôn đồng dạng với đời sống của Chúa Giêsu và phản ánh trung thực đời sống đó.

Ai là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh viếng thăm? Chắc chắn đó phải là Mẹ Ngài! Chỉ nguyên sự kiện rằng Mẹ đã tham phần vào cuộc hy tế tử nạn của Ngài cách trọn vẹn hơn bất cứ ai khác, nên những tin tức, ân sủng, và niềm vui đầu tiên của cuộc Ngài Phục sinh hẳn phải dành cho Mẹ! Do đó, khi ra khỏi mồ khải hoàn vinh hiển, Ngài đã đi trực tiếp đến với Mẹ. Trước Ngài đã bỏ Mẹ mà đi trong nước mắt, nay trở về với Mẹ trong hân hoan! Thật là giây phút tuyệt vời cho Đức Maria, khi Chúa Phục Sinh ôm lấy Mẹ với tất cả tình yêu tôn kính mà Mẹ đáng được!

Điều gì đã xảy ra giữa Chúa và Mẹ trong cuộc hạnh ngộ ấy? Thánh kinh không nói rõ, nhưng chúng ta có thể tưởng tượng nó rất tuyệt diệu. Trong căn phòng nhỏ bé của Mẹ, Chúa Giêsu đã được tiếp đón vinh hiển chừng nào! Chỉ có cái nhìn xuyên suốt của tình yêu mới có thể giúp ta tái tạo quang cảnh đó. Chắc chắn Chúa Giêsu đã hiện ra với mẹ trong tất cả vẻ huy hoàng phục sinh của Ngài. Không ai trong các Tông đồ đã được chiêm ngưỡng vẻ xinh đẹp của Chúa Giêsu như Đức Maria đã được; thị kiến thiêng liêng luôn luôn cân xứng với mức thánh thiện của linh hồn, cho nên Đức Maria đã thấu nhập vào tận vinh quang nội tại của Chúa Giêsu. Mẹ hẳn phải nhìn thấy Ngài trong tất cả ánh quang rạng ngời của thần tính Ngài trong giây phút hạnh phúc đó, vì theo các nhà thần học, thì vào lúc đó, Mẹ được nâng lên để chiêm ngưỡng Thiên Chúa diện đối diện. Chúa Giêsu đã đàm đạo với Mẹ, tỏ cho Mẹ xem thấy những dấu đinh, những vết thương mà Mẹ đã âu yếm hôn kính khi đưa Chúa từ trên thánh giá xuống. Nhưng bây giờ những thương tích ấy đẹp rạng rỡ; từng luồng ánh sáng phát ra từ những vết đinh trên tay chân cực thánh của Ngài. Cả các phần thân thể của Ngài đã chịu đau khổ, bây giờ cũng được rạng rỡ! Chắc hẳn Đức Maria đã hôn kính các thương tích thánh trong triều sóng hân hoan và cảm thấy thác nguồn ân sủng đang tràn ra từ các thương tích ấy! Hẳn Mẹ đã nhìn thấy Trái Tim Cực Thánh của Con Mẹ qua vết thương cạnh sườn Ngài. Bấy giờ Ngài cho Mẹ xem Trái Tim Ngài đang phập phồng chuyển lưu sự sống và phóng ra những ngọn lửa yêu thương. A! chúng ta dễ dàng tưởng tượng ra Đức Maria đã kề môi thắm trên thương tích thánh ở cạnh sườn Chúa một cách âu yếm yêu thương chừng nào. Và nếu thánh Gioan, khi được ngả đầu vào Trái Tim thần linh trong thân xác trần gian của Chúa Giêsu mà còn kéo được nhiều ân sủng dường ấy, thì còn có ơn gì mà Mẹ không lãnh được khi ôm ấp, hôn yêu Trái Tim ấy, Trái Tim đang mở toang và phập phồng dưới đôi môi Mẹ! Từ đó Mẹ đã hiểu một cách hoàn hảo hơn nữa rằng đau khổ và vinh quang, sự chết và sự sống được nối kết một cách mật thiết trong chương trình Thiên Chúa.

2. Nhưng Chúa không đến viếng thăm Mẹ Maria một mình: có cả một đoàn tùy tùng gồm tất cả các thánh đã được sống lại với Ngài tháp tùng – từ các đấng thánh tổ phụ cho đến thánh Giuse và kẻ trộm lành. Tất cả đều theo chân Đức Vua Vinh Thắng đến bái chào Hoàng Thái Hậu. Ađam và Evà, những người mà Thiên Chúa đã hứa ban cho người con gái, người Mẹ của Đấng Messia này, giờ đây hai ngài đang sấp mình xuống dưới chân Mẹ. Sau Chúa Giêsu, Mẹ cũng được hai ngài mang ơn, vì chính Mẹ đã đem lại ơn giải phóng cho họ. Và với tất cả những lời ca tụng của các thánh trong Cựu luật đang tạ ơn Mẹ vì Mẹ đã ban cho họ Đấng Cứu Chuộc, chắc chắn Mẹ Maria đã đáp lại bằng bài ca “Magnificat” – “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa… vì Ngài đã đoái nhìn đến phận hèn tôi tớ Ngài.” Còn thánh Giuse, thánh Gioakim và thánh Anna lại không đến dự cuộc viếng thăm đầy tôn kính và yêu thương này sao? Quả thực, ánh nhìn của Đức Thánh Trinh Nữ làm cho các thánh đầy tràn hân hoan, một cái nhìn tinh tuyền phản chiếu ánh sáng của Chúa Giêsu.

Khi phải lìa Mẹ để đi tỏ mình ra cho Maria Mađalena và cho các Tông đồ, Chúa không chỉ để Mẹ lại trong an ủi, mà còn trong cơn xuất thần vui sướng. Chắc chắn Chúa năng đến thăm Mẹ trong thời gian trước khi thăng thiên, để cùng Mẹ ôn lại những biến cố vui buồn sướng khổ mà Ngài đã trải qua trong cuộc đời trần thế.

3. Từ sự im lặng của các thánh ký liên quan đến việc hiện ra này, cũng như liên quan đến những sự kiện khác trong cuộc đời Mẹ, chúng ta có thể rút ra những bài học quí giá. Sau khi đã ban tặng Chúa Giêsu cho thế giới, nhất định Mẹ phải mờ xoá đi, phải rút lui vào bóng tối để trở nên mẫu gương cho những linh hồn nội tâm, nên vị quan thầy của những người sống đời ẩn dật, thấp hèn. Sứ mạng của Mẹ Maria sau khi Con Mẹ phục sinh là một sứ mạng yêu thương và cầu nguyện. Dường như Chúa đã giữ cho riêng mình bí mật đời sống Mẹ Ngài. Ngài muốn đời sống đó phải là hoàn toàn dành cho mình Ngài.

Cũng còn có lý do khác nữa. Bây giờ Chúa Giêsu ẩn mình trong phép Thánh Thể, ở đó Ngài còn dấu mình đi hơn cả trong cuộc đời dương thế của Ngài. Cho nên Đức Maria cũng phải bắt chước trạng thái đó, phải chia sẻ sự hủy mình đó. Đời sống ẩn dật là đời sống trọn lành hơn cả. Khi Chúa Giêsu tự khước từ khả năng nói năng, chuyển động và hoạt động khả giác, thì Đức Maria cũng không nói, không xuất hiện trước mắt thế gian nữa. Vì Chúa Giêsu đã phải trở nên Người Tù câm lặng, cho nên Đức Maria cũng phải tự hiến để bảo vệ Ngài trong sự kín đáo của cuộc sống hoàn toàn chuyên tâm cầu nguyện. Nếu Đức Maria không hiến mình vào bậc sống này, thì chúng ta, những người tôn thờ phép Thánh Thể có thể chẳng bao giờ tìm thấy nơi Mẹ một tấm gương soi. Nhưng Đức Maria, một nữ tì vô danh, một người canh coi phép Thánh Thể, là Mẹ chúng ta và đời sống Mẹ là ân sủng của chúng ta.

Như ánh sáng và sức nóng gia tăng dần dần cho tới đúng ngọ, cũng thế, Đức Maria mỗi ngày mỗi trở nên hoàn thiện hơn. Những năm tháng cuối đời của Mẹ đầy ắp tình yêu đến nỗi chúng ta không thể nào hình dung ra được chiều rộng, dài, cao, sâu của tình yêu ấy.

Sự phục sinh của Con Mẹ làm phát sinh ra trong Mẹ điều kỳ diệu này: nó thu hút sự sống của Mẹ, biến đổi sự sống ấy trong sự sống phục sinh của Chúa Giêsu – một sự sống hoàn toàn nội tâm, vô hình, tách biệt khỏi mọi vật thụ tạo và không ngừng kết hợp với Thiên Chúa. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ về điểm này. Chúng ta hãy nhớ rằng đời sống càng hướng nội càng hoàn hảo. Một ngọn lửa càng được che đậy càng cháy lâu nhưng khi mở toang ra sẽ rất mau tàn. Rất ít người thực sự muốn sống sự sống hủy mình này, bởi vì đó là sự sát tế tận tuyệt lòng tự ái. Nhưng đó là những linh hồn, giống như Đức Maria, muốn yêu duy mình Chúa và muốn được duy mình Ngài biết đến.

Ơn gọi của cha Hermann

Trong tiểu sử cha Hermann có kể rằng sau khi được ơn hoán cải, vị tu sĩ thánh thiện này đã nghe thấy Mẹ Maria mời vào dòng Carmel. Ngài đã ghi lại cho chúng ta những lời Ngài nghĩ rằng Mẹ đã nói với Ngài. Những lời đó rất đáng để làm bài học.

“Con hãy vào dòng Carmel! Ở đó Mẹ sẽ ban cho con bánh nhiệm mầu tạo nên giấc mơ thiên đàng: ở đó Mẹ sẽ ban cho con rượu nho sinh ra những kẻ đồng trinh; chính ở đó Mẹ sẽ sát tế một của lễ đầy hương thơm ngọt ngào khoái thú toả lên trước ngai Giavê. Con hãy đến ăn bánh mà Mẹ đã nào với sữa Đồng Trinh của Máu thánh khiết Mẹ; hãy đến uống rượu nho mà Mẹ đã rút ra từ Máu cực tinh tuyền Mẹ. Nếu muốn biết, con hãy chọn đi theo; hãy chú ý đến hoa trái, đến chất dinh dưỡng nó đem lại; hãy nhìn vào hoa trái của lòng Mẹ!”

“Và đồng thời, Mẹ Maria cho tôi xem mặt nhật đựng Bánh Thánh. Mẹ nói: ‘Đây là hoa trái của lòng Mẹ, và trái này là phép Thánh Thể.'” Cha Hermann kêu lên: “Ôi Thiên Chúa vĩ đại! Ôi Thánh Thể. Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ của Thánh Thể. Mẹ đang ban cho con Thánh Thể! Mẹ đang nuôi dưỡng con hàng ngày bằng Manna từ trời! Mẹ sẽ cho môi con nhấp c hén châu báu chứa đầy Máu của Thiên Chúa con! Con sẽ giữ tim con để yêu mến Chúa Giêsu trong Thánh Thể; để yêu mến Mẹ Maria, người đã ban Thánh Thể cho con.” (Tiểu sử, do Sylvain, trang 381).

Thực hành: Trong niềm kết hợp với Đức Maria, chúng ta hãy sống sự sống phục sinh mà Chúa Giêsu đã đem lại trong Thánh Thể.

Hoa thiêng: Kính chào Mẹ Maria, chén vàng rất tinh tuyền, chứa đựng chính sự ngọt ngào là Chúa Giêsu Thánh Thể, Manna của linh hồn chúng con!

 

Bài 16: Đức Maria, Mẹ Chúng Ta Trong Nhà Tiệc Ly

1. Mối bận tâm hàng đầu của chúng ta phải là hết sức cung kính tôn vinh đời sống của Đức Maria trong nhà Tiệc ly, hầu say mê phục vụ và làm vinh danh Thánh Thể. Chúng ta phải cố gắng nắm bắt một cái gì đó thuộc về tinh thần và tình yêu của Mẹ, để trả lại cho Đấng Cứu Chuộc thần linh đang hiện diện giữa chúng ta, một sự tôn thờ phụng hiến ngày càng đẹp lòng Ngài và trọn hảo hơn, hiệp với niềm thờ kính mà Mẹ thánh dâng lên Ngài. Để trở nên một tôi tớ tốt lành của phép Thánh Thể, chúng ta phải là những người con ngoan thảo dễ dạy của Đức Maria. Lời thỉnh cầu trên trái tim Mẹ Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta trên thánh giá chẳng phải là một lời trống rỗng. Qua lời đầy tình yêu đó, chúng ta được thế chỗ Ngài trong Trái Tim Mẹ. Từ bấy giờ người Mẹ nhân lành đó yêu chúng ta như đứa con đích thực của Mẹ.

Do đó, chúng ta hãy hít thở trong thần khí của Đức Maria; nó cũng chính là thần khí của Chúa Giêsu, vì Mẹ đã tiếp nhận nó từ chính nguồn mạch thần linh. Mẹ được đầy ân sủng của Ngài, để thông ban cho chúng ta. Mẹ là bản sao hoàn hảo và trung thực duy nhất các nhân đức của Ngài; suốt 33 năm Mẹ làm việc với cội nguồn thần linh luôn ở trước mắt Mẹ. Mẹ biết tất cả những bí mật tình yêu của Đấng Cứu Chuộc dành cho nhân loại; Mẹ chia sẻ tình yêu không giới hạn Ngài dành cho chúng ta. Ôi Đức Maria yêu chúng ta với lòng tận tụy dấu ái biết bao! Mẹ yêu chúng ta như chỉ có người Mẹ tốt lành và quyền phép dường ấy mới có thể yêu như vậy.

2. Sứ mạng của Mẹ là nặn đúc nên hình tượng Chúa Giêsu trong ta. Đây là sứ mạng mà Chúa Giêsu đã trao cho Mẹ trên núi Canvê. Khi mà Mẹ Maria muốn chết theo Chúa Giêsu dưới chân thánh giá, khi mà ngọn lửa tình yêu trinh khiết đang bừng bừng cháy trước Con thần linh Mẹ, thì dường như Chúa đã nói để ủy thác thánh Gioan cho Mẹ: “Qua cuộc sát tế của Con, Con đã trở nên Đấng Cứu Chuộc và Cha của gia đình nhân loại vĩ đại; nhưng những người con đáng thương này cần phải có một người mẹ. Mẹ hãy là mẹ của họ, Mẹ hãy yêu họ như đã yêu Con, và như Con đã yêu họ. Chính vì tình yêu đối với họ mà Cha trên trời đã làm cho Mẹ trở nên Mẹ của Con. Con đã trao ban Máu và sự sống Con cho họ. Con đã yêu họ hơn yêu chính mình Con, và Con đã nhường lại cho họ tất cả những quyền lợi mà Con có trước tình yêu từ mẫu của Mẹ. Bất cứ điều gì Mẹ làm cho họ cũng sẽ là làm cho chính Con. Con trao phó cho Mẹ hoa trái cứu độ Con, việc giải thoát của nhân loại, việc chăm sóc cho Giáo hội của Con, việc phụng sự Nhiệm tích Tình yêu của Con. Mẹ hãy đào tạo cho Con những người tôn thờ đích thực trong tinh thần và chân lý, để họ có thể tôn thờ Con y như Mẹ đã tôn thờ; để họ có thể yêu Con như Mẹ đã yêu!”

Đây là di chúc cuối cùng được ký bằng Máu Ngài và được chuẩn nhận qua Trái Tim Mẹ Maria, Mẹ cực thánh Ngài.

Mẹ đã trèo lên núi Canvê với Chúa Giêsu, để chịu chết với Ngài; Mẹ đã xuống khỏi đó với Người môn đệ dấu yêu, nghĩa tử của Mẹ, với những phụ thánh thiện, những đứa con gái của Mẹ. Sau đó Mẹ đã dẫn họ vào nhà Tiệc ly Thánh Thể, ở đó để bắt đầu thi hành mẫu quyền Kitô giáo của Mẹ dưới chân Bí tích Thần linh.

Chính Mẹ là người đào tạo nên đội vệ binh danh dự cho Chúa Giêsu trong Thánh Thể; Mẹ là người sẽ huấn luyện các tôi tớ Ngài. Ôi điều đó không thể hồ nghi được; nếu bạn được hạnh phúc hiểu biết, yêu mến, và phụng sự Nhiệm tích Cự thánh, thì đó chính là Maria đã xin cho bạn được hạnh phúc ấy. Chính Mẹ là người đã xin Cha trên trời ban tặng bạn cho Mẹ để làm vệ binh tình yêu của Đức Vua Thánh Thể. Chính Mẹ là người đã gìn giữ bạn được trong sạch giữa trần thế, là người cầm tay dẫn dắt bạn đến dưới chân ngai Thánh Thể.

Ôi! bạn hãy hết lòng cám ơn người Mẹ nhân lành này! Bạn chịu ơn Mẹ về tất cả mọi ơn trong cuộc đời bạn, và ơn cao cả nhất trong tất cả các ơn đó là ơn yêu mến và phục vụ Vua các vua trên ngai vàn tình yêu, nhờ việc thánh hiến toàn thể cuộc đời cho Ngài.

Mẹ là mẹ tôi

Ai cũng biết thánh Stalislao Kastka đã thề hứa yêu mến Đức Thánh Trinh Nữ với tình yêu dấu ái chừng nào. Khi có ai hỏi thánh nhân lý do của tình cảm mãnh liệt này, thánh nhân sẽ trả lời với cung giọng và dáng vẻ bộc lộ mối xúc động sâu xa: “Vì Mẹ là mẹ tôi!”

Trước khi nhập dòng Tên, ngài ngã bệnh trầm trọng; và vì đang sống với người lạc giáo nên ngài không thể rước lễ. Đối với một con tim đầy tràn tình yêu mến phép Thánh Thể thì đây quả là một nỗi đau khổ dữ dằn còn hơn cả cơn bệnh đang tàn phá cơ thể ngài. Ngài đã chạy đến với thánh Barnaba, quan thầy kẻ hấp hối, và lời cầu nguyện của ngài đã sớm được chấp nhận. Thánh Barnaba đã hiện ra giữa các thiên thần, đem đến cho ngài Đối Tượng ngài đang mong ước: Thánh Thể. Nhưng chính Mẹ Maria đã trông coi đứa con ưu tuyển của Trái Tim Mẹ: Mẹ muốn cho thánh nhân được tận mắt thấy Đấng mà thánh nhân vừa tiếp nhận dưới bức màn nhiệm tích. Vậy Mẹ đã đích thân hiện ra tay bồng Chúa Giêsu rất đáng mến; rồi Mẹ đặt báu tàng khôn tả ấy trên giường của thánh nhân. Người ta không thể nào hiểu được vị thánh trẻ này đã cảm nghiệm thấy lòng sốt sắng, lòng tôn kính, niềm an ủi dịu dàng như thế nào khi nhìn thấy giường của mình được trang hoàng bằng bông hoa quí giá dường ấy. Từ giây phút đó, sức khoẻ ngài bắt đầu phục hồi, và trong một thời gian ngắn, căn bệnh biến mất và ngài hoàn toàn được chữa lành, vì không thể kháng cự lại cuộc tiếp xúc chữa trị của Tác giả Sự sống. (Tiểu sử các thánh, 15 tháng 8).

Thực hành: Chúng ta hãy dâng lại cho Đức Mẹ Thánh Thể sự tôn kính, vâng phục và tình yêu của một đứa con đích thực.

Hoa thiêng: Ôi Maria rất đáng yêu mến, chính Mẹ là người đã nuôi dưỡng các con cái Mẹ bằng Bánh Hằng Sống.

 

Bài 17: Đức Maria, Bà Giáo Nơi Nhà Tiệc Ly

1. “Hỡi người môn đệ, này là mẹ con!” Khi Đức Maria nghe những lời này từ đôi môi người Con đang hấp hối của Mẹ, những lời mang rất nhiều ý nghĩa đối với chúng ta, thì linh hồn Mẹ phải chịu nỗi đau khổ trầm thống khôn tả. Chuyện gì vậy! Môn đệ thay chỗ thầy; Gioan thay chỗ Chúa Giêsu; thụ tạo thay chỗ Thiên Chúa! Nhưng Mẹ chúng ta đã yêu thương chấp nhận sự thay thế này. Mẹ bao bọc chúng ta bằng Máu và công nghiệp của Con Thần linh Mẹ, và bắt đầu yêu chúng ta với một tình yêu không bến bờ, tình yêu ấy đã khiến Mẹ tìm thấy hạnh phúc trong việc lưu lại dưới thế này thêm 20 năm nữa, để nuôi dưỡng chúng ta bằng tình yêu và những ân sủng khôn sánh của Mẹ, mặc dù Mẹ ước ao mãnh liệt được kết hợp ngay tức khắc với người Con của Mẹ trong vinh quang.

Sứ mạng của Đức Maria sẽ là chăm lo việc giáo dục Kitô giáo. Chúa Giêsu đã chiếm được tất cả mọi kho tàng ân sủng: Đức Maria sẽ chỉ rút ra từ đó để phân phát cho chúng ta Bánh mà Chúa Giêsu đã để lại, để giúp chúng ta đi theo lề luật mà Ngài đã ban cho chúng ta. Chúa Giêsu không thể lưu lại giữa chúng ta trong trạng thái vinh quang, vì như thế sẽ làm chúng ta khiếp hãi. Quả thật, Ngài lưu lại trong phép Thánh Thể nhưng tình yêu đã tước đi của Ngài mọi hành động bên ngoài, và xiềng xích Ngài ở đó để Ngài trở nên quyến rũ hơn, dễ gần gũi hơn.

Nhưng ở đây có Mẹ chúng ta và cũng là Mẹ Ngài; Mẹ nắm được các bí mật của Trái Tim và của đời sống Ngài. Mẹ sẽ làm cho các nhân đức của Chúa Giêsu nên phù hợp với khả năng của chúng ta; Mẹ dạy chúng ta các nhân đức ấy theo cách giản dị và hấp dẫn như một người mẹ biết dạy con, để chúng ta có thể dễ dàng học theo. Giá mà tôi dám nói, như một người mẹ bên đứa con nhỏ, Đức Maria sẽ uốn nắn Chúa Giêsu cho chúng ta, làm cho Ngài nên dễ thương, dễ gần gũi, dễ bắt chước.

Ôi đẹp biết bao, cảm động chừng nào những lời của Chúa Giêsu được lặp lại trên môi Đức Maria! Dễ dàng bắt chước biết bao các nhân đức của Ngài – mặc dù chúng rất anh hùng – khi chúng được Đức Maria diễn tả cho chúng ta! Dưới nét vẽ của Đức Maria, Chúa Giêsu sẽ hiện lên trước mắt chúng ta đẹp biết bao! Dưới ảnh hưởng của một Bà Giáo như thế, việc học tập của chúng ta sẽ dễ dàng chừng nào!
`
2. Mẹ sẽ cưu mang, sẽ đào tạo, và hoàn thiện hoá Chúa Giêsu trong chúng ta – và sẽ ban Ngài cho chúng ta. Chúa Cha đã trao phó Con mình cho Mẹ, để Mẹ có thể ban Ngài cho chúng ta. Nhân loại không đáng đón nhận trực tiếp từ Thiên Chúa, cho nên Đức Maria đã là Đấng Trung Gian trong việc Nhập Thể, và Mẹ vẫn tiếp tục thi hành chức vụ đó. Không qua Mẹ Maria, không ai có thể đạt tới ơn đức tin cứu độ. Sứ mạng của Mẹ, sứ mạng mà Mẹ đã luôn trung thành, đó là ban Chúa Giêsu cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận Ngài từ tay Mẹ, và nếu chúng ta tìm Ngài ở nơi đâu khác thì chỉ uổng công vô ích. Hơn nữa, chỉ nhờ Đức Maria Chúa Giêsu mới tăng trưởng trong chúng ta; tất cả mọi ân sủng nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta sẽ chỉ đến qua Mẹ Maria. Chính dưới quyền điều khiển từ mẫu của Mẹ mà Ngài đã lớn lên ở Nazareth, và Ngài cũng muốn chúng ta đi theo luật ấy. Trong Phúc âm, chúng ta cũng thấy rằng tất cả mọi ân huệ chủ chốt đã được ban ra qua và với Mẹ. Nhờ Mẹ, Ngài đã thánh hoá thánh Gioan Tẩy giả; Ngài đã tôn vinh Cha Ngài và đặt mình như mẫu mực ở Nazareth dưới đôi mắt Mẹ; Ngài đã củng cố đức tin cho các môn đệ qua phép lạ ở Cana theo yêu cầu của Mẹ; sau này, trên thánh giá, Ngài đã long trọng trao phó trách nhiệm đào tạo chúng ta cho Mẹ. Nói tóm lại, chính bởi Đức Maria mà Ngài sẽ được nên hoàn hảo trong chúng ta. Nói cho đúng ra, sự hoàn hảo hoá Chúa Giêsu trong chúng ta là công việc của Thánh Linh; nhưng vì Thánh Linh Tình Ái đã muốn làm nên kiệt tác của mình là nhân tính tích cực của Chúa Giêsu, trong sự kết hợp với Đức Maria, thì khi Ngài muốn thiết lập trong chúng ta hình ảnh hoàn hảo của Đấng Cứu Chuộc, để biến đổi chúng ta thành những “Kitô khác,” Ngài cũng yêu cầu sự hợp tác của Đức Maria. Ngài càng thấy linh hồn nào giống Đức Maria thì Ngài càng làm việc cách mạnh mẽ ở đó. Bạn hãy hỏi bất cứ linh hồn nào trong số những linh hồn thánh thiện mà tình yêu Chúa Giêsu đang ngự trị xem do bởi đâu mà họ có được tình yêu đó, và họ sẽ nói cho bạn hay đó là do từ Đức Maria. Mẹ lại chẳng nắm giữ bí mật của thần khí Đức Kitô trong tất cả vẻ sung mãn của nó đấy ư? Mẹ phản chiếu Chúa Giêsu như Ngôi Lời chiếu ra từ Chúa Cha. Chính là để Mẹ ban cho chúng ta thần khí gia đình, có thể nói như vậy, Mẹ tiếp thu vào trong Trái Tim hiền mẫu Mẹ tất cả mọi phẩm tính, tất cả các nhân đức của Chúa Giêsu, và rồi trình bày chúng cho chúng ta cách nào để khích lệ chúng ta bắt chước các nhân đức và phẩm tính ấy. Nhờ tình yêu của Đức Maria, chúng ta tiến dần tới sự thánh thiện của Chúa Giêsu; khi sống bằng sự thánh thiện của Đức Maria, chúng ta sống trong sự thánh thiện của Chúa Giêsu.

3. Học theo Đức Maria gieo rắc vào tâm trí đứa trẻ những kiến thức đầu tiên của nó về Chúa Giêsu; rồi khi đến tuổi niên thiếu, khơi dậy trnog nó lòng quảng đại phụng sự Chúa Giêsu; chuẩn bị cho nó hiệp lễ lần đầu; dìu dắt nó chọn lựa một bậc sống thích hợp và thánh thiện, đó là những việc tốt đẹp biết bao! Người thiếu niên được Đức Maria giáo dục như thế sẽ có một ảnh hưởng lâu dài trong suốt cuộc đời; được dìu dắt một cách êm ái dịu dàng như thế, được tình yêu và lòng đạo đức của Mẹ lôi cuốn như thế, nó sẽ để lại một ấn tượng mà không có sự sao lãng nào có thể làm mờ xoá đi được, để lại một thói quen tôn kính yêu mến Mẹ, thói quen đó sẽ tồn tại, đôi khi, ngay cả lúc nó lãng quên Thiên Chúa. Hình ảnh cao cả và dịu dàng của Đức Maria sẽ theo nó suốt cả cuộc đời. Phúc thay cho kẻ nào tiếp thu được từ nơi Mẹ bài học đầu tiên trên đường thánh thiện; Đức Maria sẽ mãi là chiếc đòn bẩy nâng nó lên khỏi tội lỗi; Danh thánh Mẹ sẽ luôn luôn là nhịp đập yêu thương rộn rã trong trái tim nó.

Đức Maria cũng là nhà giáo dục người trinh nữ Kitô giáo. Ngay từ khi nàng còn ấu thơ, Mẹ đã gợi hứng cho nàng lòng sùng mộ, yêu mến Chúa Giêsu. Mẹ nhen nhúm lên trong trái tim nàng một ngọn lửa cao quí của những hoài bão thần linh. Mẹ tỏ cho nàng thấy đoá huệ trinh khiết vô nhiễm đã tạo nên triều thiên của Mẹ, rồi thì Mẹ ôm chặt nàng vào lòng thanh khiết mẫu ái của Mẹ và nói: “Ôi con gái của Mẹ, con hãy là một bông huệ, hãy là hôn thê của Con thần linh Mẹ! Hãy dâng cho Ngài trái tim con và nhận lấy chiếc nhẫn cưới trinh khiết của Ngài. Hãy nhìn vào triều thiên của Mẹ, là phần thưởng cho tình yêu của Mẹ đối với đức trinh khiết, và hãy là con gái của Mẹ gấp hai lần!”

Chính như thế mà Đức Maria đã đào tạo, canh giữ và bảo vệ các người đồng trinh. “Adducentur virgines post eam.” Đức Maria là Nữ Vương của họ.

Đó là nền giáo dục Đức Maria ban tặng; Mẹ làm cho việc đạo đức nên ngọt ngào và dễ dàng. Điều mà Mẹ đã làm trong buổi sơ khai của Giáo hội, nay Mẹ vẫn còn làm. Cũng như chúng ta, các tông đồ đã có Chúa Giêsu Thánh Thể. Nhưng nền giáo dục đầu tiên trong nhà không do người cha ban cho; một nền giáo dục thiếu vắng tình mẫu ái dịu dàng của Mẹ luôn luôn cho thấy có những dị chứng. Sự thánh thiện mà chỉ duy mình Chúa Giêsu tạo nên thì luôn có vẻ khắc khổ; sự thánh thiện mà có cả Chúa Giêsu và Mẹ Maria cùng cộng tác tạo nên thì hấp dẫn hơn nhiều – bằng chứng là thánh Gioan và thánh Phaolô. V ậy chúng ta hãy để Mẹ Maria dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu; hãy để Mẹ dạy chúng ta hiểu biết và yêu mến Ngài như Mẹ đã hiểu biết và mến yêu. Chỉ duy như thế mới tạo nên sự thánh thiện đích thực và hạnh phúc trọn hảo.

Đức Maria yêu mến Chúa Giêsu trong chúng ta

Chính khi chúng ta chiếm hữu được Chúa Giêsu trong lòng thì lúc đó Đức Maria sẽ ấp ủ chúng ta với tình yêu mẫu ái dịu dàng nhất, bởi vì khi ấy Mẹ nhìn thấy trong ta có người mà Mẹ yêu dấu.

Thánh Opportune, đan viện mẫu, vào lúc sắp qua đời, đã xin được rước Chúa Giêsu Thánh Thể, và vì bà có lòng sùng kính rước Chúa như thế nên Chúa Giêsu chẳng những tỏ cho bà những dấu chỉ vĩ đại của tình yêu, nhưng còn cho bà ta thấy Đức Maria cũng hiện xuống gần giường của bà để an ủi và đỡ nâng bà trong cơn chiến đấu sau cùng. Bà đan viện mẫu tốt lành đã tha thiết khẩn khoản nài xin Đức Mẹ chăm sóc các con cái mình, và những lợi ích của đan viện. Rồi bà giơ hai tay về phía Đức Maria như thể ôm lấy Mẹ, ký thác linh hồn và trút hơi thở cuối cùng trong tay Mẹ. (Nicolao Laghi, trat. II, c.xivii.)

Thực hành: Chúng ta hãy cầu xin Đức Maria ban cho tất cả những người hấp hối có thể nhận lãnh của Ăn Đàng cách xứng đáng.

Hoa thiêng: Kính chào Mẹ Maria, làn mây thiên đường làm lan toả Thánh Thể trên thế gian, như sương mát dịu tình thương!

Bài 18: Đức Mẹ Nhà Tiệc Ly

Chúng ta hãy theo Mẹ đến nhà Tiệc ly, và lắng nghe những bài học mà Mẹ sẽ dạy chúng ta ở đó, những bài học mà Mẹ đã tiếp thu từ người Con thần linh của Mẹ, người mà Mẹ đã đàm đạo đêm ngày. Mẹ là tiếng vang trung thành của Trái Tim và tình yêu Ngài. Chúng ta hãy trìu mến Mẹ; hãy làm việc dưới đôi mắt từ mẫu Mẹ, và hãy cầu nguyện bên cạnh Mẹ. Chúng ta hãy là những người con tận hiến đích thực của Mẹ. Làm thế, chúng ta sẽ tôn vinh Chúa Giêsu, Đấng đã ban tặng Mẹ để làm Mẹ chúng ta, và Mẹ sẽ dạy chúng ta biết yêu Ngài thế nào qua gương mẫu của chính cuộc đời Mẹ.
Rồi hãy đặt mình dưới sự hướng dẫn của Mẹ; suy nghĩ bằng những tư tưởng của Mẹ, nói bằng những lời của tình yêu Mẹ, noi theo cách hành xử của Mẹ, thực hiện những hành động của Mẹ, chia sẻ những niềm đau của Mẹ, và mọi cái trong Mẹ sẽ nói với bạn về Chúa Giêsu, về công việc phục vụ cao cả của Ngài, về vinh quang vĩ đại của Thiên Chúa.

Trong Đức Maria, dưới chân nhà tạm, bạn hãy tôn vinh tất cả các mầu nhiệm trong cuộc đời Đức Maria, vì tất cả các mầu nhiệm đó có thể nói là những trạm dẫn đến nhà Tiệc ly. Trong đời sống Đức Maria, bạn sẽ tìm thấy gương mẫu và niềm an ủi cho đời sống riêng bạn. Trong nhà Tiệc ly, Đức Nữ Vương đích thực đó đang quì gối như người tôn thờ và người tôi tớ của phép Bí tích Cực thánh: bạn hãy quì bên cạnh Mẹ và cầu nguyện với Mẹ, và làm thế, bạn sẽ nối dài sự sống Thánh Thể của Mẹ trên trần gian.

Khi bạn hiệp lễ, hãy mặc cho mình những nhân đức và công nghiệp của Mẹ Maria, Mẹ bạn, và như thế bạn sẽ thông hiệp với đức tin và với lòng sùng kính của Mẹ. Ôi hạnh phúc biết bao, Chúa Giêsu sẽ thấy trong bạn hình ảnh của người Mẹ thánh thiện và đáng yêu của Ngài!

Khi bạn vất vả để phát triển vương quốc Thánh Thể của Chúa, bạn hãy kết hợp với chủ ý và niềm vui của Mẹ khi Mẹ làm việc cho Chúa Giêsu trong Thánh Thể, và bạn sẽ được hạnh phúc.

Ôi Đức Maria sẽ yêu thương bạn biết bao nếu bạn phục vụ Chúa Giêsu của Mẹ cho chu đáo! Mẹ sẽ che chở bạn biết bao nếu bạn làm việc chỉ cho vinh quang của Chúa Giêsu! Mẹ sẽ làm giàu cho bạn chừng nào nếu bạn chỉ sống cho tình yêu Chúa Giêsu! Bạn sẽ làm cho Mẹ trở nên mẹ hơn, vì bạn làm cho Mẹ có thể hoàn thành cách hoàn hảo hơn sứ mạng của Mẹ như Mẹ của những người tôn thờ Chúa Giêsu Con Mẹ.

Nhưng bạn phải nhu mì như Mẹ. Hãy nhớ sự nhu mì của Mẹ trước mặt vị thiên sứ và hãy suy gẫm về sự nhu mì mà Mẹ đã dùng để phục vụ Con Mẹ trong Thánh Thể.

Hãy trong sạch như Đức Maria. Hãy nhớ rằng để bảo trì đoá hoa trinh khiết, Mẹ đã sẵn sàng hy sinh ngay cả vinh quang của chức Thần Mẫu.

Hãy khiêm nhường như Mẹ Maria – hoàn toàn biến mất trong cái hư vô của Mẹ, hoàn toàn phó thác cho ân sủng Thiên Chúa.

Hãy dịu dàng dễ thương như Mẹ Maria. Mẹ là hiện thân của sự dịu ngọt của Trái Tim Chúa Giêsu.

Hãy sốt sắng nhiệt tình như Mẹ Maria. Mẹ Maria đã yêu bối cảnh đồi Canvê – Mẹ đã yêu thậm chí cho đến chết. Chính trên đồi Canvê mà Mẹ đã trở nên Mẹ của tình yêu. Chỉ ở đó bạn sẽ trở nên một người tôn thờ đích thực, xứng đáng với nhà Tiệc ly, xứng đáng với Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

Hình ảnh và thực tại

Việc chúng ta tỏ ra tôn kính và trang hoàng cho những bức ảnh của Chúa Giêsu chắc chắn phải là việc rất đẹp lòng Mẹ Maria, và việc sùng kính này thường thường được thưởng bằng những cuộc hiện ra phi thường. Tuy nhiên, bởi vì chúng ta chỉ nhìn thấy những ảnh tượng nên đừng để cho chúng làm ta quên đi cái thực tại đáng tôn thờ chỉ tỏ mình ra với duy con tim yêu đương.

Chị Têrêxa Mexia, một tôi tớ đáng kính của Thiên Chúa thuộc dòng Đaminh, vốn có một lòng sùng kính lớn lao đối với bức tượng Chúa Hài Đồng trên tay Đức Mẹ: chị thường kết hoa trang hoàng cho bức tượng, mặc cho những loại vải quí hiếm và dồn hết trí lòng, tình yêu âu yếm vào đó. Và đây là một bài học tuyệt vời mà Đức Thánh Trinh Nữ đã dạy chị; một hôm chị đem chiếc áo thêu thùa tỉ mỉ đến khoe với tượng Chúa Hài Nhi, chị nói: “Hỡi người yêu dấu, hãy đến, hãy nhận lấy chiếc áo này do nữ tì bất xứng của Người dâng lên.” Chúa Hài Đồng liền rời khỏi tay Đức Mẹ, bước xuống trên bàn thờ để ước muốn của chị ấy được thoả mãn. Chị đã mặc cho tượng Chúa chiếc áo dài xinh đẹp, trong khi đó hoàn toàn không chú ý gì đến bàn thờ và Nhà Tạm nơi chính Chúa Giêsu đang thật sự ẩn ngự. Và rồi chị lại nghe thấy có tiếng nói: “Hỡi Têrêsa, con chỉ chú tâm đến ảnh tượng này. Con quên mất thực tại sống động rồi sao?” Cô gái thánh thiện đã hiểu ngay bài học, và vừa trang hoàng cho bức tượng, vừa để ý trang hoàng bàn thờ và Nhà Tạm Thánh Thể: với cố gắng lớn lao, cô đã thành công thu góp đủ số vàng và bạc để chế tạo nên một trong những Nhà Tạm sang trọng nhất và xinh đẹp nhất ở Tây ban nha.

Thực hành: Chúng ta hãy nhiệt tâm làm việc để trang hoàng cho những Nhà Tạm Thánh Thể, đặc biệt cho những Nhà Tạm của những nhà thờ nghèo.

Hoa thiêng: Ôi Maria, Chúa đã trang hoàng cho Mẹ nên như Nhà Tạm ưu tuyển của Ngài, và Chúa Giêsu Bánh Thánh đã làm cho Nhà Tạm ấy nên niềm khoái vui của Ngài để cư ngụ trong Mẹ!

Bài 19: Đời Sống Tôn Thờ Kết Hợp Với Đức Maria

1. Khi chú ý cân nhắc những lý do xui khiến Chúa Giêsu để Mẹ Ngài lại cho chúng ta và chịu chia ly với Mẹ, tôi thấy dường như Ngài hành động như thế chỉ vì Ngài không tin tưởng vào sự yếu đuối và bất nhất của chúng ta. Chúa Giêsu sợ rằng con người, vì không biết cách nào tìm kiếm và tôn thờ Ngài trong phép Thánh Thể, nên sẽ trở nên thất đảm và quên mất Ngài. Như chúng ta đã biết, trẻ con thường không kiên trì tìm kiếm điều nó muốn; nếu không tìm được ngay, nó liền bỏ cuộc và đi tìm cái khác. Đây là điều Chúa Giêsu lo sợ cho chúng ta; cho nên Ngài đã để Mẹ Ngài lại cho chúng ta. Sứ mạng của Mẹ là cầm tay dẫn dắt chúng ta đến với Nhà Tạm. Do đó, Đức Thánh Trinh Nữ trở nên Mẹ chúng ta do phép Thánh Thể, để Mẹ được ủy thác bổn phận tỏ cho chúng ta biết phải tìm kiếm bánh hằng sống như thế nào, giúp chúng ta biết thẩm giá và khát khao lương thực bởi trời đó; sứ mạng của Mẹ chính là đào tạo chúng ta cho việc tôn thờ. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Mẹ đã qui tụ chung quanh Mẹ những phụ nữ đạo đức thành một cộng đoàn tại Giêrusalem; Mẹ ở với họ, chia sẻ với họ kho tàng ân sủng và tình yêu của Mẹ. Ảnh hưởng của Mẹ lan rộng ra tới các môn đệ và các Kitô hữu tiên khởi. Giống như một bà mẹ đích thực, Mẹ huấn luyện cho các con cái Mẹ biết trung thành với các bổn phận bậc mình và thực hành các nhân đức. Điều mà Mẹ Maria đã làm lúc bấy giờ thì bây giờ Mẹ cũng sẽ làm cho chúng ta. Mẹ sẽ dạy dỗ, tỏ cho chúng ta xem thấy Chúa Giêsu trong Thánh Thể, làm cho chúng ta được dự phần vào lòng sùng mộ của Mẹ đối với việc phụng sự Thánh Thể – hệt như một bà mẹ có toàn quyền trên các con cái bà. Đức Maria vì là Mẹ chúng ta nên Mẹ sẽ dạy dỗ chúng ta. Khi đứa con chia lòng chia trí không nhớ đến công việc bổn phận, người mẹ ở đó để nhắc nó nhớ đến phận sự của nó; nếu nó ngã bệnh bà sẽ chăm sóc cho nó. Bà không bỏ mặc đứa trẻ, bà luôn luôn chu toàn bổn phận giáo dục của bà. Cũng một cách như vậy, Đức Maria sẽ huấn luyện bạn; Mẹ sẽ làm cho bạn thấm nhuần phương pháp tôn thờ của Mẹ; Mẹ sẽ ngay cả vấn đề làm nên việc tôn thờ của bạn trong và cho bạn, vì chỉ duy có Mẹ mới có thể gợi hứng bạn với tinh thần tôn thờ sốt sắng và chân thực. Chỉ có trái tim bà mẹ mới có thể làm cho chính nó được con bà hiểu hoàn toàn. Đức Thánh Trinh Nữ sẽ nói với bạn: “Hãy đến, hãy thờ lạy với Mẹ.” Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta Mẹ Maria để làm mối dây liên kết giữa Ngài với chúng ta. Đức Maria tặng ban cho chúng ta cái thiên duyên hấp dẫn Chúa Giêsu. Theo bản năng, con trẻ đi đến với Mẹ nó trước hết, rồi mẹ sẽ dẫn nó đến với cha nó; nó không tự ý đến với cha, bản năng nó là đi theo mẹ. Do đó, Chúa Giêsu đã ban tặng cho chúng ta Đức Maria để làm mẹ chúng ta, để Mẹ trở nên trung tâm thu hút dễ dàng. Trước khi chúng ta biết Thánh Thể, chúng ta đã biết danh thánh Mẹ – chúng ta đã yêu mến Mẹ. Đức Maria thu hút chúng ta lại với Mẹ: Mẹ tập luyện cho chúng ta những nhân đức cần thiết cho đời sống Thánh Thể. Đúng là phải như vậy, và tôi thấy rõ ràng là sẽ chẳng có ơn gọi Thánh Thể đích thực, chẳng có sự tôn sùng Thánh Thể thực sự, trừ ra nơi những người đã được Đức Maria đào tạo. Không, vì trẻ thơ chỉ có têhh nằm trên cánh tay, trong cung lòng Mẹ nó. Để Chúa Giêsu được vui lòng thì mọi ơn gọi phải qua tay Mẹ Maria.

2. Bạn hãy để một vài phút hồi tưởng lại quá khứ của bạn. Bạn đã có một lòng tôn sùng lớn lao đối với Đức Thánh Trinh Nữ trước khi hiến mình cho phép Thánh Thể chưa? Bạn đã ước ao mong mỏi có được đức trinh khiết, và tình yêu của Mẹ. Bạn đã nói mà không biết đời sống Thánh Thể của Đức Maria: “Ôi giá mà tôi có được các nhân đức của Mẹ để phụng sự Chúa Giêsu!” đó là sự thu hút đầu tiên dành cho bạn. Bạn đã hành xử giống như một đứa trẻ, khi không thể cầm tay mẹ, nó bám chặt lấy gấu áo mẹ; nếu có phải lìa xa mẹ dù chỉ một chốc lát, nó cũng tưởng mình bị lạc lối. Mẹ là trung tâm – Mẹ luôn là trung tâm – chúng ta cần phải luôn luôn ở với Mẹ, vì lúc nào chúng ta cũng cần có Mẹ.

Đức Thánh Trinh Nữ không giống như các thánh, các ngài chỉ thỉnh thoảng xin cho chúng ta được một số ân sủng đặc biệt nào đó. Còn Đức Maria xin cho chúng ta được mọi ơn; chúng ta luôn luôn cần đến Mẹ. Lại nữa, chính bà mẹ là người mớm cho đứa trẻ những lời tán tụng nó phải dâng lên người cha, vì bà biết rất rõ sở thích của ông. Bạn có thấy giống như thế không? Tôi muốn nói với từng người các bạn: hãy thờ lạy Chúa chung với Mẹ Thánh của chúng ta. Tôi không nói ở trong Đức Maria. Không. Chúa Giêsu đã ở đó trước các bạn để các bạn có têhh nói trực tiếp với Ngài; nhưng là nói ở với Đức Maria; cùng sống chung với Mẹ. Vì Chúa Giêsu đã ban Mẹ cho bạn như người hướng dẫn viên, đừng bao giờ làm việc thờ phượng mà không làm với Mẹ.

Hãy thưa với Mẹ: “Ôi Mẹ rất ngọt ngào, hãy đến với con, vì một bà mẹ luôn luôn đồng hành với con mình, và nếu không có Mẹ con sẽ không biết phải nói gì!”

Bạn hãy hình dung Mẹ Maria đang quì ở nhà Tiệc ly; hãy nhìn Mẹ đang thờ lạy Con Mẹ ẩn thân trong Thánh Thể. Ôi, những lời của Mẹ làm vui lòng Ngài biết bao! Mẹ biết cách khéo léo làm động lòng Con Mẹ chừng nào! Bạn hãy quì ở đó bên cạnh Đức Maria; hãy ở lại với Mẹ. Bạn hãy hiệp làm một với việc thờ lạy kính tôn của Mẹ. Hãy thỏ thẻ: “Ôi Giêsu, con không biết cách nào để tôn thờ, nhưng con xin dâng lên Chúa những lời, những cơn sốt mến của Trái Tim Mẹ Thánh Chúa, cũng là của trái tim con. Con không biết làm sao để tôn thờ, nhưng con lặp lại với Chúa sự tôn thờ của Mẹ: để cứu các tội nhân, cải tạo thế giới, và cho tất cả các nhu cầu của Giáo hội!” Nhờ làm như thế, bạn sẽ làm cho Trái Tim Mẹ được hân hoan. Mẹ sẽ đem bạn giới thiệu cho Chúa Giêsu và nói: “Này, hỡi Con của Mẹ, Mẹ lại được sống trong linh hồn này, trong nó và nhờ nó Mẹ lại được thờ lạy Con!”

Ôi! nếu bất cứ ai tôn vinh, yêu mến và phụng sự Mẹ Maria, thì việc sống cho phép Thánh Thể sẽ là nghề nghiệp của họ. Họ cần có Đức Maria để tôn thờ cho đúng cách; họ phải là người tôn thờ cùng với Mẹ.

A! vậy bạn hãy để cho Đức Thánh Trinh Nữ điều khiển cuộc đời bạn; hãy để Mẹ dẫn bạn đến với Chúa Giêsu! Mẹ chỉ muốn duy một điều là vinh quang người Con thần linh của Mẹ và hạnh phúc của bạn!

Thành lập thành phố Montreal

Không thể nào đọc lịch sử những bước khởi đầu thành phố Montreal ở Canada mà không xúc động sâu xa.

Vào ngày 18.05.1642, ông de Maisonneurve và các người bạn đồng hành dũng cảm của ông đã cập vào hòn đảo nơi mà sau này thành phố được xây cất. Sau khi đã cất tiếng hát những bài Thánh vịnh và thánh ca trong niềm biết ơn tột độ, thì việc đầu tiên họ lo trước mọi việc khác là cử hành thánh lễ cách long trọng và đặt Mình Thánh suốt ngày hôm đó, một ngày được dành riêng để làm các việc đạo đức và tạ ơn Ngôi Vị đáng tôn thờ của Đấng Cứu Chuộc trong Thánh Thể, và là Đấng đã chiếm hữu lãnh thổ này.

Nhưng nhờ đâu mà có được sự thể như thế? Đó chẳng phải là nhờ Đức Maria, Đấng mà sáu năm về trước, vào một ngày lễ Thanh T hy, đã soi sáng cho ông Olivier và cùng một lúc cho ông de la Danversìere cái ý tưởng là phải gửi một số linh mục và tu sĩ đi Phúc âm hoá Canada đấy ư?

Đúng vậy, chắc chắn là Mẹ Thiên Chúa là người đã ép buộc những nhà khai khẩn đầu tiên phải dương buồm đến Montreal, để họ có thể dựng ở đó một ngai toà cho Con của Mẹ. Nhưng Chúa Giêsu bao giờ cũng vượt xa về lòng quảng đại. Thành phố mà ngay sau đó đã được dựng lên trên bờ sông Lawrence sẽ được vang danh là thành phố Maria, Kinh thành Đức Mẹ, và vị giám mục của thành phố ấy sẽ được mang danh hiệu là vị “Trợ tá của Đức Maria.” Mẹ Maria đã dựng cho Chúa Giêsu một ngai toà ở Montreal; Chúa Giêsu cũng muốn cho Mẹ Ngài có một ngai toà bên cạnh Ngài. Ôi các ngai toà của Đức Mẹ Thánh Thể đã gia tăng nhiều lên trên khắp thế giới. (From Lépicier, The Most Holy Virgin in Relation to the Most Blessed Sacrament.)

Thực hành: Hãy dọn mình chu đáo hết sức có thể khi tham dự thánh lễ.

Hoa thiêng: Hỡi Đức Thánh Trinh Nữ, kìa Chim Sẻ thần linh của Nhà Tạm đã tìm được tổ ấm nơi Mẹ và Ngài rất vui lòng cư ngụ trong đó.

Bài 20: Sự Tôn Thờ Đầy Đức Tin Và Cung Kính Của Đức Maria

1. Biết bao điều có thể nói về đời sống tôn thờ của Đức Maria trong nhà Tiệc ly! Hai mươi năm trôi qua trong nơi thánh mà Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể, nơi mà Ngài đã đặt Nhà Tạm đầu tiên của Ngài! Đức Maria đã được sử dụng hoàn toàn vào việc thờ lạy và tôn vinh Ngài trong đời sống Thánh Thể của Ngài. Mẹ đã trải qua phần lớn ngày đêm ở dưới chân Nhà Tạm thần linh, vì ở đó có Chúa Giêsu Con Mẹ và là Chúa của Mẹ.

Sự tôn thờ của Mẹ đã bắt đầu ngay từ khi Mẹ rời khỏi căn phòng nhỏ bé của Mẹ để đến nhà Tiệc ly. Mẹ vừa đi với những bước chân trang nghiêm khiêm tốn, đôi mắt luôn nhìn xuống đất, vừa chìm đắm trong suy tư trầm mặc để dọn mình ra mắt vị Thiên Chúa của phép Thánh Thể.

Ngay khi Mẹ đến trước Nhà Tạm, Mẹ đã sấp mình xuống với lòng cung kính thẳm sâu, rồi chế ngự tất cả các cảm quan của Mẹ trong một hành vi tĩnh niệm đơn sơ. Mẹ đã giữ thân hình thẳng thắn, đôi tay chắp ngang ngực hoặc, khi ở một mình, Mẹ quen giơ hai tay van nài hướng về Nhà Tạm, nơi mà mắt Mẹ không ngừng dán chặt vào.

2. Mẹ Maria đã thờ lạy với đức tin hết sức ngoan ngoãn. Mẹ đã thờ lạy người Con ẩn khuất của Mẹ, đang bị che dấu dưới hình dáng lạ lùng. Nhưng tình yêu của Mẹ đã tìm thấy cách để xuyên qua bức màn che, để đi tới chính đôi chân thánh của Chúa Giêsu, đôi chân mà Mẹ tôn thờ với hết lòng cung kính dịu dàng; rồi đến đôi bàn tay khả kính và thánh thiện của Ngài, đôi tay đã thánh hiến và phân phát Bánh hằng sống; Mẹ chúc tụng miệng thánh của Chúa, miệng đã phát ra những lời đáng tôn thờ này: “Đây là Mình Ta!… Đây là Máu Ta!” Mẹ đã thờ lạy trái tim đang bừng cháy lửa yêu thương mà từ đó đã phát sinh ra Bí tích Thánh Thể. Mẹ Maria đã muốn hoàn toàn hủy mình ra không trước vị Chúa đã hủy mình trong nhiệm tích Thánh Thể, để nhờ đó Mẹ có thể trả lại cho Ngài niềm tôn kính và mến yêu.

3. Sự tôn thờ của Mẹ Maria thật là thâm thúy, nội tại và tiềm mật. Đó là tặng ân của chính Mẹ. Mẹ đã hiến mình hoàn toàn để phụng sự Thiên Chúa tình yêu trong Thánh Thể; vì tình yêu không biết giữ lại, chỉ biết hy sinh vô điều kiện; nó không nghĩ đến mình, không sống cho mình nữa; nó như xa lạ với chính nó; nó chỉ sống cho Thiên Chúa, Đấng nó mến yêu. Nơi Đức Maria, tất cả đều hướng đến Bí tích Thánh Thể như hướng về trung tâm điểm và cùng đích của mình. Một dòng ân sủng và tình yêu được thiết lập giữa Trái Tim đáng tôn thờ của Chúa Giêsu và Trái Tim đang thờ lạy của Đức Maria; hai Trái Tim đó là hai ngọn lửa đã bùng cháy như một. Thiên Chúa được tôn thờ cách hoàn hảo bởi thụ tạo của Ngài.

4. Với gương sáng của Đức Maria trước Thánh Thể, người tôn thờ hãy quì gối trước Bí tích Cực thánh với lòng cung kính thẳm sâu; giống như Đức Maria, họ hãy hồi tâm lại, và, bằng tinh thần, hãy ở bên cạnh Mẹ Maria trong khi làm việc thờ phượng. Họ hãy đến trước Chúa Giêsu với lòng khiêm tốn đó, với sự tĩnh niệm bề trong và bề ngoài đó, để sửa soạn cho linh hồn xứng đáng với chức vụ thiên thần thờ lạy.

Dưới những bức màn Thánh Thể đang che dấu nhân tính cực thánh, chúng ta hãy thờ lạy Chúa Giêsu bằng đức tin của Mẹ Maria và đức tin của Hội thánh – đây là hai người Mẹ mà Đấng Cứu Chuộc đã ban tặng cho chúng ta trong tình yêu. Chúng ta hãy thờ lạy Thiên Chúa của chúng ta như thể chúng ta đang nhìn thấy Ngài, đang lắng nghe Ngài; vì đức tin nhiệt thành thì nhìn thấy, nghe thấy, và rờ thấy còn chắc chắn hơn cả chính các giác quan.

Đức Maria giúp kẻ liệt chịu của ăn đàng

Một cô gái đạo đức rất nghèo nàn của cải trần thế, nhưng giàu có đức tin, và rất sùng kính Mẹ Maria, cô ta đang rất buồn vì đã tới giờ chết mà không được rước Mình Thánh Đấng Cứu Chuộc yêu dấu của cô. Đức Mẹ nhân lành đã đến giúp đỡ cô. Mẹ đã cùng với đông đảo các thiên thần vây quanh hiện đến với chân phước Oderic thành Port-Mahon, đang một mình băng ngang khu rừng. Mẹ bảo ngài: “Có một nữ tì trung tín thân cận của Mẹ đang hấp hối, và cô ta đang nồng nàn khao khát được chịu của ăn đàng. Linh mục chánh xứ của cô đi vắng; nên Mẹ muốn con thay thế ngài. Mẹ sẽ hướng dẫn con đến nhà thờ và rồi đến nhà người bệnh, vì Mẹ muốn có mặt ở lần rước lễ sau cùng của nàng.”

Vị chân phước vâng lời, và lấy Thánh Thể, cung kính đem đi, có Đức Maria tháp tùng. Mặt Mẹ rạng rỡ vẻ oai phong dịu dàng. Ôi, ai mà tả cho xiết Mẹ đã dâng lên người Con của Mẹ đang ẩn náu dưới hình Bánh Thánh niềm tôn kính và mến thương chừng nào!

Cô bệnh nhân đã rước Mình Thánh Chúa Giêsu trước sự hiện diện của Đức Thánh Trinh Nữ. Tôi để cho bạn tưởng tượng linh hồn cô chảy tràn niềm an ủi như thế nào, và phải chăng cô đã không được thưởng công đích đáng vì đã xin người Mẹ nhân lành cho mình Chúa Giêsu Đấng mình thiết tha yêu mến, Đấng không bao giờ từ chối những kẻ hướng về Mẹ. (Rossignoli.)

Thực hành: Trong niềm kết hợp với Đức Maria, chúng ta hãy tháp tùng Bí tích Cực thánh khi bí tích ấy được đem đến cho bệnh nhân.

Hoa thiêng: Ôi Nữ Vương nhân lành, chúng con chiêm ngưỡng Mẹ ở bên Chúa Giêsu Thánh Thể, Vua các vua!

Bài 21: Sự Tôn Thờ Tạ Ơn Của Đức Maria

1. Đức Maria đã thêm tâm tình tạ ơn vào hành vi đức tin khiêm nhường, và vào việc tôn thờ của niềm tự hủy thẳm sâu. Sau khi trí khôn không còn nghĩ gì đến tất cả phẩm tước và vẻ oai phong thần linh đã bị che dấu dưới bức màn nhiệm tích, Mẹ muốn nhìn lên núi Tabor tình yêu để chiêm ngưỡng vẻ xinh đẹp và vui hưởng sự tốt lành khôn tả của nó. Đức Maria đã tạ ơn Chúa Giêsu về tình yêu của Ngài trong tặng ân Thánh Thể, về hành vi cao cả của lòng quảng đại vô biên Ngài. Việc tạ ơn của Mẹ rất hoàn hảo vì Mẹ hiểu rõ tầm mức vĩ đại của tặng ân này.

Ô! Đức Maria được hạnh phúc biết bao khi mà trước bữa tối sau hết Chúa Giêsu đã mạc khải cho Mẹ biết rằng sắp đến giờ Ngài thiết lập nhiệm tích đáng tôn thờ của Ngài, mà nhờ đó mỗi tín hữu có thể chia sẻ hạnh phúc của Mẹ và, giống như Mẹ, họ cũng được đón nhận Ngài vào lòng, nhìn ngắm Ngài, tạm gọi như vậy, và trong trạng thái nhiệm tích của Ngài, vui hưởng tất cả mọi ân sủng và cảm nghiệm những mầu nhiệm của cuộc sống trần thế của Ngài: “Sau tặng ân này, mà trong đó Con đã dốc cạn hết năng lực của Con, Con không còn gì để cho loài người nữa trừ ra nước thiên đàng!”
Nghe những tin tức vinh hiển này, Đức Maria đã sấp mình xuống dưới chân Chúa Giêsu, linh hồn Mẹ tuôn trào ra lòng biết ơn dạt dào trước tình yêu vĩ đại mà Ngài đã thực hiện cho các thụ tạo bất xứng của Ngài. Mẹ đã hiến mình để phục vụ Ngài trong nhiệm tích đáng tôn thờ của Ngài; Mẹ đã đồng ý hoãn lại giờ khắc lên lãnh thưởng, để có thể vẫn được là người tôn thờ trên trần gian, được ủy thác cho việc canh giữ, phục vụ Thánh Thể, lấy làm hạnh phúc vì được chết dưới chân Nhà Tạm thần linh.

2. Trong việc tôn thờ của Mẹ ở nhà Tiệc ly, Mẹ Maria mỗi ngày mỗi đổi mới việc tạ ơn của Mẹ, Mẹ đã thốt lên: “Ôi Đấng Cứu Chuộc, Chúa tốt lành dường nào, Chúa tốt lành biết bao, hỡi Đấng Cứu Chuộc của Mẹ và Cono của Mẹ! Con đã yêu loài người biết bao tới mức độ ban tặng cho họ nhiều hơn họ có thể nhận, yêu thương họ nhiều hơn họ có thể thẩm giá được, phát minh ra cái mà trái tim họ không bao giờ hiểu nổi! Vì yêu họ, Con đã dốc cạn hết mọi năng lực Con và mọi kho tàng của Trái Tim Con!”
Rồi Đức Maria đã tạ ơn mỗi một trong các năng lực của linh hồn Chúa Giêsu, mỗi một trong các chi thể Đấng Cứu Chuộc đã góp phần lập nên Bí tích Thánh Thể, bằng cách dâng lên những ngọn lửa tình yêu đang thiêu cháy Trái Tim Mẹ.

Ôi! Chúa Giêsu hẳn được thoả mãn, sung sướng biết bao, khi nhận được sự tôn kính đầu tiên của Mẹ Thánh Ngài, sự tôn kính đầu tiên dâng trả về cho Nhiệm tích Thánh Thể Ngài! Ôi! Trái Tim Ngài hẳn đã mừng vui vì để lại sự hiện diện nhiệm tích Ngài cho Đức Maria để an ủi Mẹ! Vì Chúa Giêsu đã muốn lập phép Thánh Thể cho duy mình Mẹ. Chúng ta không cần phải ngạc nhiên về điều đó, vì dưới mắt Chúa Giêsu thì sự tôn thờ và tạ ơn của Đức Maria có giá trị hơn sự tôn kính của tất cả các thánh hiệp lại.

Hơn nữa, sự tạ ơn của Đức Maria đã làm cho Chúa Giêsu thích thú vô cùng bởi vì sự nhận biết những ơn ích đã lãnh nhận và lòng biết ơn đối với những ơn ích ấy làm vui lòng Ngài hơn tất cả những cái khác. Đó là tất cả những gì Ngài mong đợi nơi chúng ta. Việc tôn thờ bằng sự tạ ơn là việc tôn thờ hoàn hảo. Đó là nhận biết thuộc tính đầu tiên và cao hơn hết trong các thuộc tính của Ngài, thuộc tính mà Ngài đã đến trần gian để tỏ lộ: lòng nhân lành. Chúng ta hãy lưu lại trên thuộc tính đó lâu giờ mỗi khi chúng ta được ở dưới chân Ngài.

Do đó, chúng ta hãy dâng lời cám tạ thông qua Đức Maria. Con trẻ tiếp nhận quà, nhưng chính Mẹ nó là người cám ơn người cho thay cho nó. Thế nên, lời tạ ơn của chúng ta, được kết hợp với lời tạ ơn của Mẹ Maria, sẽ trở nên hoàn hảo và rất xứng đáng được Trái Tim Chúa Giêsu chấp nhận.

Giữ gìn một trẻ em khỏi lửa cháy

Vào thời Giáo hội sơ khai có thói quen cho các trẻ em, những kẻ còn giữ được sự trong trắng của phép rửa tội, những mẫu Bánh Thánh còn dư sau khi các tín hữu đã hiệp lễ.

Một hôm có đứa trẻ con trai của một người Do thái làm thợ rèn ở Constaninople, nó đi học chung với các trẻ em Công giáo, nên cũng phải đến nhà thờ với chúng, và nó ngây thơ cùng với các trẻ khác đến lãnh những mẫu vụn Bánh Thánh.

Khi về nhà, nó kể lại cho cha nó điều nó đã làm. Người cha là một người tàn bạo thuộc lớp người Do thái đầy lòng căm thù đạo Kitô nên đã căm giận một cách khủng khiếp. Ông ta bắt đứa trẻ bất hạnh và ném nó vào lò lửa đang cháy. Một lát sau, bà mẹ đi vắng đã trở về, không biết sự gì đã xảy ra, bà đã hỏi khắp nơi để tìm kiếm con mình. Vì không ai có thể cho bà được tin tức gì về con bà nên bà đã chạy vào mọi xó góc của thị trấn để tìm con, nhưng tất cả đều vô ích. Ba ngày đã trôi qua. Buồn bã, bất an và than khóc vì mất c on, bà bắt đầu gọi tên nó cứ như thể nó vẫn còn ở đâu đó.

Bất thình lình, thật lạ lùng, bà nghe thấy một tiếng dịu dàng gọi tên người mẹ. Hết sức kinh hãi, bà chạy vội đến lò rèn nơi dường như phát ra tiếng gọi. Thoạt tiên, bà không thể tin được rằng con bà lại có thể ở giữa những ngọn lửa cháy bừng; nhưng lúc đó tiếng gọi đã lặp lại rõ hơn; bà không còn nghi ngờ gì nữa. Bà mở cửa ra và nhìn. Lạ lùng quá! bà thấy đứa con bà đang ở giữa lò lửa cháy bừng mà vẫn sống.

Bà liền chạy đi kêu gọi láng giềng đến cứu con bà; mọi người đã chạy vội vàng đến chứng kiến sự kỳ diệu.

Đứa trẻ được đưa ra khỏi lò lửa. Người ta đến chất vấn và hỏi nó làm sao nó vẫn sống được trong một lò lửa bừng cháy như thế. Nó kể lại nó bị cha nó bắt ném vào đó chỉ vì nó tham dự vào các lễ nghi của người Kitô hữu; nhưng có một bà cao lớn chói lọi hào quang, đã lấy tà áo che chở nó khỏi ngọn lửa và đã cho nó ăn khi nó đói; người đàn bà đó trông giống hệt như bức hình Đức Thánh Trinh Nữ nó đã nhìn thấy ở nhà thờ Kitô giáo.

Bấy giờ mọi người đã hiểu là chính Đức Maria cứu thoát và bảo toàn mạng sống của nó, che chở nó thoát khỏi ngọn lửa. Hoàng đế nghe biết người cha bất bình thường này đã hành xử như vậy nên cho đòi tới và ra hình phạt tra tấn. Thay vì ăn năn trở lại, kẻ khốn nạn cứng đầu ấy vẫn ngoan cố trong sự lầm lạc của mình. Về phần người mẹ và đứa trẻ, đã xin được học đạo Công giáo, và đã lãnh bí tích rửa tội, trở nên những Kitô hữu nhiệt thành.

Thực hành: Chúng ta hãy cầu nguyện không ngừng cho các chủng sinh, các lễ sinh thuộc các xứ đạo chúng ta, và cho hết những ai phục vụ bàn thánh, để họ có thể tự mình chu toàn phận sự với lòng đạo đức kính tôn.

Hoa thiêng: Ôi Maria! nữ tì hoàn hảo của Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con chúc tụng Mẹ!

Bài 22: Đức Maria Chiêm Ngưỡng Thánh Thể

1. Tự nhiên là việc chiêm ngưỡng đi theo sau việc tôn thờ và tạ ơn, trong khi, nó cũng đồng thời nuôi dưỡng và hoàn hảo hoá hai việc kia. Chiêm ngưỡng Thánh Thể là nghiền ngẫm về Chúa Giêsu trong Bí tích Cực thánh, trong đó linh hồn xem xét từng chi tiết lòng nhân lành vĩ đại của Ngài trong việc lập ra nhiệm tích này, nghiên cứu những lý do, khảo sát các hy sinh, cân nhắc tặng ân và thẩm giá tình yêu của nhiệm tích ấy.

Hoa trái đầu tiên của việc chiêm ngưỡng Thánh Thể là sự tĩnh niệm của linh hồn trong Chúa Giêsu, trong đó nó khám phá mầu nhiệm sự trọn lành của Ngài và tình yêu của tặng ân Thánh Thể khôn tả này. Sự suy gẫm về tình yêu thái quá của Chúa Giêsu trong việc chuẩn bị, thiết lập và bảo tồn Bí tích Cực thánh này, làm phát sinh trong chúng ta việc tôn thờ đầu tiên, rồi đến sự ca tụng và sau cùng là sự bành trướng của tình yêu. Linh hồn thoát ra khỏi chính mình để kết hợp với Chúa Giêsu, để cố kết với đối tượng thần linh mà nó chiêm ngưỡng. Do đó, việc chiêm ngưỡng bao giờ cũng xảy ra như một thành phần căn bản của việc tôn thờ.

2. Việc Đức Maria chiêm ngưỡng Thánh Thể thuộc về bản tính mà không một lời nào có thể diễn tả cho thích đáng được. Chỉ duy mình Chúa Giêsu, Đấng là đối tượng của việc chiêm ngưỡng đó mới biết được giá trị của nó. Đức Maria hiểu biết rất rõ tình yêu mà Chúa Giêsu đã tỏ ra khi lập phép Thánh Thể. Mẹ biết Chúa Giêsu đã phải chịu biết bao cơn chiến đấu, biết bao hy sinh để lập nên nhiệm tích này: những cơn chiến đấu của tình yêu Ngài nổi dậy trước sự vô tín và lãnh đạm của phần đông nhân loại; những cơn chiến đấu của sự thánh thiện Ngài trước sự vô đạo, lộng ngôn và phạm thánh sẽ nhắm vào nhiệm tích của Ngài, không chỉ về phía kẻ ngoại đạo nhưng cả về phía các bạn thân của Ngài; những cơn chiến đấu của lòng nhân lành Ngài trước sự vô ơn của các Kitô hữu là những người lơ là với việc rước Ngài trong lúc hiệp lễ, do đó từ chối những ân sủng phong phú nhất, lời mời mọc dịu dàng nhất của Ngài. Nhưng tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng trên tất cả những ngãng trở này: “Con sẽ yêu loài gnười bất chấp mọi sự; và lòng độc ác của họ không thể làm nản lòng cũng không thể thắng được lòng nhân lành của Con!”

Đức Maria đã theo dõi những cuộc chiến đấu này. Mẹ đã chia sẻ những hy sinh mà bây giờ Mẹ đang được chứng kiến sự khải thắng của chúng; và Mẹ đang sống lại những hy sinh ấy trong việc tôn thờ của Mẹ. Mẹ gợi lại chúng cho Đấng Cứu Chuộc, và tán dương tình yêu đã dẫn Ngài đến chiến thắng.

3. Để thẩm giá được tặng ân Thánh Thể theo đúng giá trị của nó, người tôn thờ nên đi, như Mẹ và cùng với Mẹ, tới tận nguồn mạch của nó, tới những hy sinh nó đã đòi hỏi tình yêu của Chúa Giêsu. Nếu tình yêu đó tuyệt đẹp trên đồi Canvê, thì nó còn đẹp hơn nữa trong Nhà Tạm và trên bàn thờ, vì ở đó nó là tình yêu sát tế trường cửu. Việc chiêm ngưỡng những chiến đấu và chiến thắng này sẽ gợi lên cho người tôn thờ điều mà họ báo đáp lại cho một vì Thiên Chúa quá nhân lành. Từ đó, cùng với Đức Maria, Mẹ Thánh Ngài, họ sẽ dâng mình cho Chúa Giêsu Thánh Thể với trót cả tâm hồn, để chúc tụng Ngài, cám ơn Ngài vì tình yêu bao la dường ấy. Họ sẽ hiến thân để tôn vinh những trạng thái khác nhau của Chúa Giêsu trong nhiệm tích, bằng việc thực hành trong đời sống các nhân đức mà Chúa Giêsu vẫn đang tiếp tục và tôn vinh một cách lạ lùng trong đó. Họ sẽ tôn vinh sự khiêm nhường sâu thẳm của Đấng Cứu Chuộc, sự khiêm nhường đi đến chỗ hoàn toàn hủy mình ra không dưới hình bánh. Họ sẽ tôn vinh việc Ngài từ bỏ quyền năng và vinh quang đến nỗi trở nên một Người Tù của nhân loại. Họ sẽ tôn vinh đức tuân phục của Ngài, đã làm cho Ngài thành người tôi tớ của mọi người. Họ sẽ lấy Đức Maria làm chuẩn mực đời sống Thánh Thể của họ, để giúp họ học tập. Họ sẽ yêu mến và phó mình cho Mẹ như cho Mẹ của những người tôn thờ, đây là tước hiệu dễ thương nhất đối với Trái Tim Mẹ, và vinh hiển nhất đối với Chúa Giêsu.

Tình Mẹ dịu dàng chở che

Cách đây nhiều năm, suốt một trong những cuộc nội chiến nổ ra thường kỳ ở Trung hoa, các băng đảng nổi loạn đi hành quân vào ngôi làng Kitô giáo nhỏ bé ở Ton-nien-fang, ở phía bắc Cheusi, và bắt đầu bao vây làng đó.

Với tường lũy bằng đất thô sơ và vài cây súng trong tay, những người Kitô hữu, rõ ràng là không tạo nên những yếu tố hiệu quả cho việc phòng thủ chống lại bọn người xâm lăng tàn bạo.

Tình hình rất nghiêm trọng, và vị trợ tế tông đồ xét thấy, theo lẽ khôn ngoan là phải tiêu thụ hết số Bánh Thánh, để tránh bị xúc phạm. Tuy nhiên, để chiều theo những van nài khẩn khoản của các nữ tu thừa sai Phan Sinh của Mẹ Maria đang ở trong ngôi làng đó, thay vì dùng hết số Bánh Thánh, ngài đã tổ chức tại viện tế bần một buổi chầu Thánh Thể suốt đêm. Người ta dễ dàng hiểu được lời cầu đầy đức tin và sốt sáng trong việc sùng kính cao độ này.

Lúc tảng sáng, các Kitô hữu hết sức ngạc nhiên thấy quân thù của mình đã nhổ trại và rút lui. Sau này, khi được hỏi về lý do của sự thay đổi đột xuất đó, các người lính đã kể lại rằng đang lúc họ dừng chân trước thành lũy của ngôi làng thì bỗng nhiên xuất hiện một “Bà trắng toát” cầm trong tay một vật gì đó sáng loáng như mặt trời. Thế là nhóm người nhỏ bé các Kitô hữu đã được cứu thoát! (From Serafiche, Missione delle Franciscane Missonaie di Maria – 1928).

Thực hành: Chúng ta hãy không ngừng cầu xin Đức Maria cho những lợi ích của phép Thánh Thể.

Hoa thiêng: Ôi Maria, không ai có thể đến gần Chúa Giêsu như Mẹ!

Bài 23: Đức Maria Tôn Thờ Phạt Tạ

1. Đức Maria đã tôn thờ Con rất yêu dấu của Mẹ trong tính chất của Ngài là của lễ sát tế liên lỉ trên bàn thờ, không ngừng nài xin ân sủng và lòng thương xót cho các tội nhân, qua các công nghiệp cuộc tử nạn Ngài. Đức Maria đã tôn thờ Đấng Cứu Chuộc trên đồi Canvê mới này, trên đó tình yêu đã đóng đinh Ngài. Mẹ dâng Ngài lên Thiên Chúa để cứu rỗi gia đình mới của Mẹ, và cảnh tượng Chúa Giêsu trên thánh giá với những vết thương mở rộng, đã tái diễn trong tâm hồn Mẹ cuộc tử đạo của lòng từ bi xót thương Mẹ. Nơi thánh lễ Misa, Mẹ lại trông thấy Chúa Giêsu bị đóng đinh của Mẹ đang đổ máu tràn trề, giữa những đau khổ và nhục nhã, bị nhân loại bỏ rơi, thậm chí bị cả Thiên Chúa ruồng bỏ – đang hấp hối trong hành vi yêu thương. Đức Maria vừa thờ lạy Thiên Chúa của Mẹ hiện diện trên bàn thờ lúc hiến thánh, vừa tuôn trào suối lệ vì nhìn thấy những kẻ không đếm xỉa gì đến lễ hy sinh đích thực này, và do vậy, không đem lại hoa trái gì cho mầu nhiệm cứu độ của họ; vì nhìn thấy những kẻ dám phạm tội phản nghịch, mặc dù của lễ đáng tôn thờ này đã được dâng lên dưới chính mắt họ để cứu độ họ.

Đức Maria mún hiến dâng hàng ngàn cái chết để đền bù lại quá nhiều xúc phạm; vì những thụ tạo bất hạnh, những người đang mắc tội, là những con cái của Mẹ, những người con mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho Mẹ khi Ngài hấp hối. Thật là người Mẹ đáng thương! Một đồi Canvê không đủ cho Mẹ sao? Tại sao bạn lại tái tạo những niềm đau hàng ngày cho Mẹ và lại đâm vào Trái Tim Mẹ bằng những lời vô đạo?

Tuy nhiên, Đức Maria, vì là người Mẹ tốt nhất trong các người mẹ, nên thay vì loại bỏ và nguyền rủa những tội nhân này, đã nhận về trên chính Mẹ hình phạt các tội ác của họ; Mẹ đã chịu đau khổ để đền bồi; Mẹ đã tự trở nên một lễ vật ở dưới chân bàn thờ, van nài ân sủng và lòng thương xót cho các con cái tội lỗi của Mẹ.

2. Đức Maria đã thờ lạy Chúa Giêsu trong trạng thái tù nhân, trạng thái mà Chúa Giêsu đã mượn bằng cách kết hợp bất khả phân ly bản thân mình với bánh rượu hiến thánh. Mẹ chiêm ngưỡng thân xác vinh hiển Ngài, đôi chân, đôi tay Ngài bắt buộc trở nên vật bất động; lưỡi không thể nói, linh hồn không còn biểu hiện gì ra bên ngoài, tình yêu không còn năng lực, không còn chắp cánh bay – tất cả bị trói buộc, không thể tỏ cho con người chút gì trừ ra những xiềng xích của tình yêu.

Đức Maria nói: “Ôi những xiềng xích có phước đã giữ Chúa Giêsu ở lại giữa chúng tôi, phúc cho ngươi! Ngươi là sợi xích thằng thúc tôi với đền tạm thần linh! Ôi sự im lặng của Chúa tôi, ngươi hùng hồn chừng nào đối với trái tim tôi! Ôi các chi thể của Đấng Cứu Chuộc tôi, các ngươi vẫn còn dễ thương đối với tôi khi những chiếc đinh đóng chặt các ngươi vào thánh giá, hoặc khi các ngươi bị cuốn chặt trong khăn liệm! Chính tình yêu giữ các ngươi lại đây, và mãi mãi, để tôi có thể lấy Chúa Giêsu làm kho báu của tôi, làm tù nhân tình yêu của tôi, làm người bạn đồng hành trong chuyến lưu tù dưới thế này của tôi, làm Thiên Chúa của trái tim tôi!”

3. Đức Maria đã tôn thờ tình trạng ẩn dấu thần tính và nhân tính Chúa Giêsu trong nhiệm tích Thánh Thể, bị che dấu để cho loài người khỏi bị dính bén vào vẻ xinh đẹp và vinh quang của bản thân Ngài, để họ được tự do đi đến thần tính của Ngôi Lời. Vậy, Chúa Giêsu đã chỉ che dấu mình đi để thiêng liêng hoá đức tin nơi loài người, thanh tẩy trái tim họ, kích thích tình yêu họ, và thu hút họ đến với Đấng Vô biên, đến với vẻ xinh đẹp luôn tăng triển và mới mẻ.

Do đó, Đức Maria đã tờ lạy Chúa Giêsu bị che dấu trong Thánh Thể, nhưng lại rất hiển nhiên đối với tình yêu Mẹ. Mẹ đã nhìn thấy bên kia tầng mây u ám là mặt trời xinh đẹp rực rỡ những tia nắng vàng sưởi ấm linh hồn chúng ta, bộc lộ cho ta thấy sự hiện diện rất ngọt ngào của Ngài.

Mẹ Maria đã tôn vinh đời sống ẩn dật của Chúa Giêsu bằng cách sống đời mai ẩn và cô tịch. Mẹ đã dành phần lớn thời giờ để phạt tạ vì những vong ân bội bạc của nhân loại. Trước cảnh Chúa Giêsu hủy mình trong Thánh Thể, Mẹ cũng muốn được hủy mình đi, hoá thành tấm bánh thánh, để không còn sự sống riêng mình nữa. Thực ra, Mẹ đã biến sự sống tự nhiên của Mẹ nên sự sống của Chúa Giêsu, như tấm bánh biến thành bản thể Chúa Giêsu Kitô.

Và cũng vậy, trước cảnh người Mẹ thần linh ở dưới chân mình, Đấng Cứu Chuộc đã được an ủi bù cho sự bỏ rơi của nhân loại. Ngài đã yêu quí những hy sinh mà Ngài đã thực hiện một cách rất quảng đại, và Ngài ưa thích tình trạng hủy mình này hơn trạng thái vinh quang. Đức Maria, Mẹ Ngài và là Mẹ của những người tôn thờ, đã sửa chữa lại mọi sự cho Ngài, và tình yêu của Chúa Giêsu đã tìm thấy niềm thoả mãn khôn tả khi nhận được những lời cầu và suối lệ Mẹ tuôn ra vì phần rỗi gian trần.

Lời Mẹ huấn dụ về việc hiệp lễ

Chúng tôi sẽ thuật lại dưới đây một số lời Đức Thánh Trinh Nữ ngỏ với Bà Mẹ Maria Giêsu về việc hiệp lễ. Đây là những lời Mẹ mạc khải cho bà: “Nếu tình yêu của Mẹ đối với tha nhân mạnh mẽ dường ấy, thì hỡi con gái của Mẹ, con thử đoán xem tình yêu mà Mẹ cảm nghiệm được đối với Chúa Giêsu khi đón nhận Ngài nơi bàn thánh còn mãnh liệt biết chừng nào! Bây giờ Mẹ sẽ tiết lộ cho con điều bí mật đã xảy ra với Mẹ khi Mẹ được rước Chúa Giêsu lần đầu từ tay thánh Phêrô. Đó là: Đấng Tối Cao đã để cho tình yêu của Mẹ hoạt động mạnh mẽ trong Mẹ đến nỗi Trái Tim Mẹ thực sự mở ra như lòng Mẹ mong muốn, và đã để người Con thánh hiến của Mẹ vào cư ngụ trong đó như Đức Vua trên ngai vàng. Hỡi con gái rất dấu yêu của Mẹ, nhờ đó con sẽ hiểu được Mẹ đã phải chịu bất cứ loại đau khổ nào trong vinh quang mà Mẹ hưởng, điều gây cho Mẹ nỗi đau khổ rất lớn lao là nhìn thấy sự liều lĩnh khủng khiếp của loài người, họ dám lên rước Mình Thánh của Con cực thánh Mẹ – người thì nhơ nhớp bởi những tội ác ghê tởm, người khác thì thiếu lòng đạo đức cung kính, và hầu hết mọi người đều không hiểu được tầm quan trọng, không lượng được giá trị của Bánh Thánh, Bánh Thánh đó chẳng kém gì chính Thiên Chúa, la nguyên nhân cho sự sống vĩnh cửu và cái chết đời đời. Hỡi con, con hãy lo sợ mối nguy này; hãy than khóc về điều đó cho quá nhiều con cái của Giáo hội; hãy nài xin ơn cứu rỗi cho họ và hãy sinh lợi nhờ lời Mẹ huấn dụ, phấn đấu trở nên xứng đáng thấu nhập sâu hơn vào mầu nhiệm tình yêu.

“Và khi con thông phần vào mầu nhiệm đó, con hãy xua đuổi hết mọi tư tưởng về những sự vật trần thế khỏi trí khôn con; hãy chỉ nhớ rằng con sẽ đón tiếp chính Thiên Chúa; hãy làm mọi cố gắng để chứng tỏ cho Ngài tình yêu, sự khiêm nhường và lòng biết ơn của con. Và, dù con đã làm như thế, thì con vẫn phải tin chắc rằng con vẫn chưa làm đủ cho mầu nhiệm rất đáng kính này.” (Cité Mystique, P. III, I.VII, c.vii).

Thực hành: Chúng ta hãy năng tham dự thánh lễ, để hợp với Mẹ Maria, đền tạ tội lỗi những người không chu toàn lề luật Hội thánh.

Hoa thiêng: Ôi Maria, Mẹ là bàn tiệc mầu nhiệm đích thực, nơi mà chúng con tìm thấy lương thực, ngon ngọt cho linh hồn chúng con, là Chúa Giêsu Thánh Thể!

Bài 24: Việc Cầu Nguyện Tôn Thờ Của Đức Maria

1. Đức Maria đã hiến mình tuyệt đối cho vinh quang Chúa Giêsu Thánh Thể. Mẹ biết rằng ý muốn của Cha hằng hữu là làm cho mọi người nhận biết, yêu mến và phục vụ Thánh Thể; rằng Thánh Tâm Chúa Giêsu cần thông ban cho hết mọi người ân sủng và vinh quang của Ngài. Mẹ cũng biết rằng sứ mạng của Thánh Thần là bành trướng và hoàn thiện hoá vương quốc Chúa Giêsu Kitô trong tâm hồn con người, và Giáo hội được lập nên là để tặng trao Chúa Giêsu cho thế giới. Do đó, tất cả ước muốn của Đức Maria là làm cho người ta nhận biết Ngài trong phép Thánh Thể. Tình yêu mãnh liệt của Mẹ đối với Chúa Giêsu đã cảm thấy nhu cầu cần phải bành trướng theo phương cách này, nhu cầu cần phải tự thánh hiến – như một thứ đền bù, có thể nói như vậy – bởi vì chính Mẹ không có khả năng làm vinh danh Ngài như Mẹ muốn.

Suốt từ khi có biến cố đồi Canvê, tất cả mọi người đều là những người con của Mẹ. Mẹ đã yêu họ với tình từ mẫu dịu dàng và mong mỏi cho họ được những sự lành tối cao như cho chính Mẹ; do đó, Mẹ luôn luôn bị nung nấu với ước muốn làm cho Chúa Giêsu trong Thánh Thể được mọi người biết đến, để thiêu đốt tất cả các trái tim với tình yêu Ngài, để thấy họ được lôi kéo vào đường phụng sự tình yêu Ngài.

Để xin được ân huệ này, Mẹ Maria đã tiêu hao thời giờ của Mẹ dưới chân bí tích cực thánh đáng tôn thờ, trong hy sinh và cầu nguyện. Ở đó, Mẹ nghiên cứu việc cứu độ thế giới. Với lòng nhiệt thành vô bờ bến, Mẹ theo dõi những nhu cầu của các tín hữu mọi nơi và mọi thời đại, những người sẽ thừa hưởng phép Thánh Thể và là những người tôn thờ nhiệm tích ấy.

Nhưng sứ mạng thiết thân nhất của Trái Tim Mẹ Maria là không ngừng lo cho việc rao giảng và công tác truyền giáo của các Tông đồ và của các phần tử mang chức linh mục của Chúa Giêsu Kitô được thành công. Cho nên không có gì phải ngạc nhiên khi thấy những người làm công tác tông đồ này đã quá dễ dàng qui hồi toàn thể các vương quốc, vì Mẹ Maria đã kiên trì ở lại dưới chân ngai tình thương, thay mặt cho họ van nài tình xót thương của Đấng Cứu Chuộc. Lời cầu nguyện của Mẹ đã cải tạo vô số linh hồn, và vì mỗi cuộc trở lại đều là hoa trái của lời cầu, và vì lời cầu của Mẹ Maria không thể bị từ chối, nên các Tông đồ đã có được nơi Mẹ nhân lành sự trợ giúp quyền phép nhất. “Phúc cho ai được Đức Maria cầu nguyện cho!”

2. Những người tôn thờ chia sẻ đời sống và sứ mạng cầu nguyện của Đức Maria dưới chân phép bí tích cực thánh. Đó là sứ mạng đẹp nhất trong tất cả các sứ mạng, và sứ mạng đó không gặp nguy hiểm. Đó là sứ mạng thánh thiện nhất, vì mọi nhân đức đều được thực hành trong đó. Hơn nữa, đó là sứ mạng cần thiết nhất cho Giáo hội, Giáo hội cần những linh hồn cầu nguyện hơn là cần những nhà giảng thuyết mạnh mẽ; cần những người hãm mình hơn những người hùng biện. Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta cần có những người biết hy sinh hãm mình để làm nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đang bị khiêu khích bởi những tội ác ngày càng gia tăng trong các quốc gia. Chúng ta cần có những linh hồn biết nài nỉ van xin để tái mở những kho tàng ân sủng đã bị đóng lại do đám quần chúng thờ ơ nguội lạnh. Chúng ta phải là những người tôn thờ đích thựcl; tức là những người sốt sắng và hy sinh. Khi có nhiều linh hồn như thế chung quanh vị thủ lãnh thần linh, thì Thiên Chúa sẽ được vinh hiển, Chúa Giêsu sẽ được mến yêu, và xã hội sẽ lại một lần nữa được Kitô hoá, đem chiến thắng lại cho Chúa Giêsu nhờ việc tông đồ của lời cầu nguyện Thánh Thể.

3. Hơn nữa, việc tông đồ của Đức Maria cốt tại chính việc rao giảng có sức thuyết phục bằng gương sáng. Những bài giảng như thế thích hợp với từng người và với mọi người, và một linh hồn nhiệt tâm làm cho Thánh Thể được biết đến và được mến yêu, thì trong sự kết hợp với Đức Maria, nó sẽ tự hiến thân thêm vào đó với lòng tha thiết hết sức lớn lao. Còn có thái độ khiêm tốn và cung kính nào mà người tôn thờ hoàn hảo lại không tỏ ra trước Thánh Thể! Nó sẽ xử sự như các thêin thần đã làm trước ngai toà Thiên Chúa. Hoàn toàn thấu nhập trong đức tin và bị thu hút vào trong sự hiện diện thần linh, nó không còn chú ý đến bất cứ điều gì chung quanh nó nữa.

Và nó sẽ không bao giờ ra trước mặt Chúa mà không trang phục cách khiêm tốn và thích hợp, y như đi dự buổi tiếp tân long trọng. Kẻ nào trang phục lôi thôi hoặc cung cách cẩu thả là dấu kém đức tin, và nội tâm bê bối.

Đức Maria vẫn quì lại dưới chân Thiên Chúa của Mẹ lâu như Mẹ có thể. Đây là tư thế được Hội thánh nhận là thích hợp nhất đối với việc tôn thờ – nói lên sự tôn kính của thân xác, sự khiêm nhường của đức tin. Quì dưới chân Chúa Giêsu là tư thế được tình yêu ưa chuộng.

Ở trong nơi thánh, trước bí tích cực thánh, trên tất cả, sự cung kính phải là nhân đức bên ngoài tiêu biểu của những người tôn thờ. Sự cung kính này là sự tuyên xưng long trọng đức tin của họ, và đồng thời, đó là ân sủng đạo đức sốt sắng của họ; vì Thiên Chúa luôn luôn trừng phạt sự bất kính trong thánh đài bằng cách để đức tin yếu dần và rút bớt ơn sùng hiếu. Kẻ nào bất kính hoặc khiếm nhã trước nhan Chúa thì sẽ cảm thấy khô khan lạnh lẽo khi cầu nguyện đâu có gì lạ. Đây mới chỉ là một phần nhỏ hình phạt mà nó đáng chịu, nó đáng bị trục xúât ra khỏi nhan thánh Chúa như một kẻ xấc xược thô lỗ, hoặc kẻ điên rồ ngu dại.

Vậy chúng ta hãy cố gắng tỏ ra cung kính. Chúng ta hãy giữ thái độ đoan trang và thành kính; hãy tuyệt đối giữ thinh lặng và cẩn phòng giác quan. Khi ở trong nhà thờ, chúng ta chỉ nên nhìn vào Chúa Giêsu Kitô mà thôi; bạn bè và những người quen biết cũng nên quên đi. Chúa Giêsu là tất cả của chúng ta. Đôi mắt của các cận thần chỉ được nhìn lên đức vua, chỉ tôn vinh duy mình đức vua mà thôi. Trước cảnh cung kính đạo đức sâu xa của những người tôn thờ, thế gian sẽ phải thốt lên: “Có một cái gì đó rất thực ở đây!” Người yếu đuối, khô khan sẽ xấu hổ cho sự nguội lạnh của họ, và một lần nữa nhận ra Chúa Giêsu Kitô – vì gương sáng là bài học khôn ngoan vương giả và là việc tông đồ hữu hiệu nhất.

Đức Mẹ của các em rước lễ lần đầu

Dạy dỗ các em làm công việc vĩ đại này trong cuộc đời các em, giúp các em dọn lòng đón Chúa Giêsu đến viếng thăm lần đầu – ôi! chắc chắn đây là sứ mạng ngọt ngào nhất của Mẹ nhân ái.

Ngày xưa, có một bà mẹ, một hôm bà được một thị kiến ngọt ngào. Đức Trinh Nữ Maria đứng bên nôi con bà; Mẹ mỉm cười với đứa bé và phủ trên chiếc giường người nhỏ xíu của em những bông hoa… Khi Alexander Bertius biết nói, những tiếng đầu tiên của em chính là tiếng Giêsu Maria. Em đã lớn lên dưới bóng thánh giá. Nhờ ánh sáng đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội, em đã thoáng thấy những ẩn áo trong con tim bé nhỏ tí tẹo của em, coi bộ những sự ô uế do hạt giống xấu có thể đã nảy sinh. Em bé lên năm này đã nhớ những lời hứa và những vuốt ve mơn trớn của Mẹ Maria, nên em đã khép mình vào kỷ luật, trừng phạt các chi thể mỏng manh, vì em cảm thấy trong em có những bản năng hướng về điều xấu. Mẹ Maria đã hướng dẫn em và sự sửa soạn cho em chịu lễ lần đầu. Khi giờ phút long trọng và quí báu này đến, Alexander đã tưởng trái tim em đang mở ra và Chúa Giêsu đang chiếm hữu nó một cách khả giác. Kỷ niệm về thị kiến này đã buộc chặt em vào nhà tạm mạnh mẽ đến nỗi khó lòng mà khiến em rời khỏi đó, và mọi người trong thị trấn đều gọi em là “em bé của bàn thờ”. Mẹ Maria đã ban cho em những ân huệ của tình từ mẫu thực sự. Chính Mẹ đã lậ từng trang sách cho em học, khi em lâm cơn sốt, chính Mẹ rải hoa chung quanh em làm cho em giảm sốt. Được sự hiện diện yêu thương của Mẹ Maria như thế, cậu học sinh đạo đức này không bao giờ tham gia vào bất cứ trò phóng đãng nào của thế gian, cũng không can dự vào bất cứ cuộc giao du nào hoặc bất cứ trò giải trí chơi bời nào.

Như thế, cả tuổi thiếu nhi lẫn thanh niên, khi đã được đặt dưới sự chăm sóc của Đức Nữ Trinh Thánh Thể, và trung thành với những điều Mẹ sùng bái, thì sẽ trải qua được một cách trong sạch và sẽ chuẩn bị trở nên những trẻ em trung thành cho Giáo hội, và những công dân cho nước trời, được trang hoàng bằng mọi nhân đức. (Parterre de Notre-Dame de la Premìere Communion).

Thực hành: Chúng ta hãy cầu nguyện cho chiếu chỉ của Đức Thánh Cha về việc rước lễ lần đầu cho các trẻ em được thi hành cách chính xác, và cầu cho các giáo lý viên đang chuẩn bị cho các em ấy.

Hoa thiêng: Ôi Maria, con kính chào Mẹ là người đã chiến thắng tất cả các lạc giáo chống đối Thánh Thể, qua việc tông đồ bằng lời cầu nguyện của Mẹ!

Bài 25: Việc Tông Đồ Của Đức Maria

1. Linh hồn sống bằng Thánh Thể, trước bất cứ việc gì khác, phải miệt mài quan tâm đến những lợi ích của bí tích đáng tôn thờ này. Mà điều trước hết và thân thương nhất trong tất cả những lợi ích của Chúa Giêsu là chức linh mục của Ngài. Chính qua chức linh mục mà bí tích cực thánh được ban cho chúng ta. Nhờ các linh mục, Chúa Giêsu nhận được sự sống nhiệm tích này, sự sống mà Ngài đã thánh hiến cho vinh quang Chúa Cha; nhờ họ, Ngài được vinh hiển còn hơn cả các tín hữu ngoan đạo nhất. Ngài đã ban cho họ tất cả mọi quyền lợi và mọi quyền năng Ngài.

Do đó, hãy cầu nguyện cho các linh mục; hãy nài xin cho các ơn gọi được gia tăng thêm đông số; hãy nỗ lực để có được những linh mục nhiệt thành thánh thiện cho dân Chúa. Đây là điều Đức Maria cầu nguyện, là việc tông đồ Mẹ ưa thích. Và bây giờ, Mẹ không chỉ xin Con Mẹ cho có những ơn gọi thánh thiện, nhưng Mẹ còn canh giữ che chở họ. Linh mục là người con ưu tuyển của Mẹ Maria.

Chính Mẹ là người huấn luyện cho họ có lòng đạo đức từ thuở thiếu thời và bảo vệ các nhân đức của họ. Chính Mẹ nuôi dưỡng lòng sốt sắng của họ, cầm tay dẫn dắt họ đến chân bàn thờ và giới thiệu họ với vị giám mục, như xưa Mẹ đã dâng Chúa Giêsu trong đền thờ. Mẹ khích lệ họ trong muôn ngàn hy sinh của việc học hành, trong những trận chiến đấu trước cơn sợ hãi về trách nhiệm linh mục. Đức Maria đã đào tạo các linh mục! – Ôi linh mục tốt lành và thánh thiện, Chúa Giêsu sẽ đón nhận người cách tốt đẹp chừng nào!

2. Đức Maria lại sống trong các linh mục và qua các ngài, Mẹ tiếp tục sứ mạng của Mẹ cho các linh hồn và cho vinh quang của Con thần linh Mẹ. Việc nhập thể lần đầu được thực hiện trong Đức Maria và bởi Đức Maria. Trong Mẹ, Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Trong bàn tay các linh mục, và nhờ lời các ngài, Chúa Giêsu Kitô hoá nên bánh cho chúng ta.

Phẩm tước Mẹ Thiên Chúa là khôn sánh. Mẹ là Mẹ của Đức Vua, do đó là Mẹ của các thiên thần và loài người. Linh mục là cha của Chúa Giêsu Thánh Thể, vua thiêng liêng của các linh hồn: các ngài là chúa trên thế gian, terrmus Deus, các ngài đã tiếp nhận tất cả mọi giàu sang của Thiên Chúa – các ngài đóng và mở cửa thiên đàng.

Đức Maria đã nuôi Chúa Giêsu, đã chăm sóc cho Ngài ở mọi độ tuổi. Vị linh mục làm cho Chúa Giêsu tăng trưởng trong các linh hồn, chăm sóc cho Ngài ở đó, bảo trì Ngài, cho tới khi, có thể nói như vậy, Ngài tới tuổi trưởng thành trong linh hồn và biết đổi nó nên Ngài.

Đức Maria, như một người mẹ, có tất cả mọi quyền hành trên Con thần linh mà mẫu tính ban tặng. Vị linh mục cũng có quyền trực tiếp trên Ngôi Vị Chúa Giêsu Kitô. Đức Maria chỉ có quyền thế thông qua Chúa Giêsu. Vị linh mục cũng chỉ có quyền hành thông qua những ân sủng mà Chúa Giêsu đặt vào tay người. Chúa Giêsu tự đặt mình tùy ý linh mục sử dụng để tặng ban cho các ngài năng quyền hành động lớn hơn.

Nhưng Đức Maria, về một phương diện nào đó, có thể thèm muốn đặc ân của vị linh mục. Mẹ chỉ cưu mang Ngôi Lời hóa thành xác phàm trong dạ Mẹ có chín tháng, và rồi việc đó cũng đã chấm dứt. Quyền năng của vị linh mục không bao giờ cạn; các ngài làm cho Chúa Giêsu nhập thể mỗi ngày, vì quyền năng hiến thánh của các ngài cố kết với chức linh mục. Các ngài có quyền năng này giống Chúa Cha, Đấng sinh Chúa Con mà không hao kiệt chính mình; giống như mặt trời, ngày nào cũng có ánh sáng và nhiệt lực mới.

Đức Maria sinh Đấng Cứu Chuộc trong trạng thái hay chết, yếu đuối và được dành cho thập giá. Vị linh mục sinh Ngài xuống trên bàn thờ trong trạng thái phục sinh vinh hiển. Thực sự, vinh quang này không xuất hiện trước con mắt xác thịt chúng ta, nhưng các thiên thần nhìn thấy; đó là Mặt trời rạng rỡ trong cảnh thiên đàng, nhưng bị che khuất trước con mắt trần gian.

3. Sứ mạng và bổn phận của vị linh mục đối với Thánh Thể và đối với các linh hồn thì cũng y như của Đức Maria.

Trước hết, vị linh mục là người tôn thờ và bảo vệ bí tích cực thánh. Trên hết, các ngài là người cầu nguyện, các thánh Tông đồ đã nói: “Nos autem, orationi et ministerio verbi instantes erimus – Chúng ta hãy hiến thân lo việc cầu nguyện và rao giảng.” Các ngài phải kết hợp với lời cầu của hiến vật mà các ngài chuẩn bị và dâng lên Cha hằng hữu. Các ngài phải bắt đầu dưới chân bàn thờ việc tông đồ bên ngoài của các ngài.

Đức Maria nơi nhà Tiệc ly! Hãy xem người Mẹ thần linh trong bổn phận đầu tiên này. Chức vục của Mẹ ở đó là chức vụ của một người tôn thờ. Mẹ tôn thờ bằng cách chăm lo cho việc thờ phượng. Mẹ sửa chữa lại vinh quang Thiên Chúa đã bị các tội nhân hạ nhục. Mẹ an ủi Chúa Giêsu vì tình yêu Ngài không được đền đáp. Đối với Chúa Cha, Mẹ dâng Chúa Giêsu lên; đối với Chúa Giêsu, Mẹ bàh tỏ trái tim hiền mẫu Mẹ; trong khi đối với Chúa Thánh Thần, Mẹ trình lên Ngài các linh hồn, gia nghiệp và đền thờ của Ngài, để Ngài có thể đổi mới và truyền sinh khí tình yêu Ngài cho họ.

Hãy xem vị linh mục trung tín – người hiểu biết ân huệ tình yêu Đấng Cứu Chuộc đối với mình – mang ơn Chúa Giêsu chừng nào!

Phận vụ thứ hai của linh mục là loan báo Chúa Giêsu Kitô cho dân chúng. Ở đây, Đức Maria lại là chỗ dựa êm ngọt của các ngài. Mẹ đã dưỡng dục Chúa Giêsu và Mẹ đã mặc khải những mầu nhiệm của đời sống Ngài cho các tông đồ và các thánh sử. Mẹ không ngừng nói về Ngài và làm cho những người chung quanh yêu mến Ngài. Mẹ là người sốt mến đầu tiên của Chúa Giêsu.

Này đây là những điều vị linh mục phải làm: rao giảng, làm cho Chúa Giêsu trong bí tích cực thánh được mọi người biết đến; làm lan truyền việc phụng thờ và triều đại của Ngài với lòng nhiệt thành không biết mệt. Để làm được điều này, họ hãy ký thác bản thân cho Đức Maria, Đấng yêu thương các linh mục với tình yêu ưu ái. Mẹ yêu họ trong Chúa Giêsu, Con Mẹ, Đấng mà họ đang làm thừa tác viên của Ngài; Mẹ yêu họ vì vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn, những người họ đang làm tông đồ cho.

Sau cùng, linh mục có bổn phận làm trọn nhiệm vụ đối với người Mẹ dịu dàng này. Họ phải không được thua kém ai về lòng tôn kính phải có đối với Mẹ, về tình yêu dịu dàng Mẹ đáng được hưởng. Họ phải hết sức nhiệt thành làm cho Mẹ được biết đến và được mến yêu.

Đối với chúng ta, nếu chúng ta yêu mến Thánh Thể, nếu chúng ta muốn cho Thánh Thể được phụng sự, được rao truyền, được mọi người mến yêu, chúng ta hãy không ngừng cầu xin Chúa Giêsu, qua Đức Maria, ban cho chúng ta những linh mục thánh thiện, những người làm công tác tông đồ, những người tôn thờ trung tín. Vinh quang của bí tích cực thánh và phần rỗi thế gian đang bị đe doạ.

Tình Mẹ dịu dàng chở che linh mục

Có hai vị linh mục một hôm đi ngang qua nước thuộc bè Albigenses, đến một nhà thờ; và dù thời gian đó là thời gian đang có cuộc bách hại, và mọi sự phải rất dè chừng những người lạc giáo độc ác, hai ngài đã muốn dâng thánh lễ; vì là ngày thứ Bảy nên các ngài có ý nghĩ là sẽ dâng lễ kính Đức Mẹ. Một trong hai ngài đang bắt đầu dâng lễ thì những người Albigenses xuất hiện. Họ lôi ngài ra khỏi bàn thờ sau hàng ngàn lời xỉ nhục, họ đã cắt lưỡi và để ngài dở sống dở chết ở đó. Người bạn đồng hành của ngài đã mang ngài đi và ngài đã đến được đan viện gần đó, nơi các ngài được đón tiếp rất chu táo. Vào một buổi chiều áp lễ Hiển linh, vị linh mục câm đáng thương, khi nghe thấy những bài thánh ca vang lên, đã hết sức mong ước sao cũng được cùng hát; và ngài rất muốn cử hành thánh lễ Misa. Trong niềm khát khao sốt sắng, ngài đã ký thác mình cho Đức Maria, và người Mẹ dịu ngọt này, tay phần chi thể bị cắt mất của Ngài, xuất hiện trước mặt Ngài và nói: “Con dấu yêu, vì con đã bị mất chiếc lưỡi và chịu quá nhiều đau khổ chỉ vì con muốn dâng thánh lễ tôn kính Chúa Giêsu và làm vinh danh Mẹ, bây giờ Mẹ trả nó lại cho con.” Ngay tức khắc vi linh mục tốt lành đã được chữa lành, và với cung giọng giòn giã Ngài đã ngân nga khúc hát tạ ơn để tán dương Chúa Giêsu và Mẹ nhân lành của Ngài. (Nicolao Laghi, trat. Vi, c.xxiv).

Thực hành: Ta hãy kiên trì cầu nguyện cho các ơn gọi linh mục, và hãy hết sức tỏ lòng kính tôn yêu mến các linh mục của Chúa.

Hoa thiêng: Ôi Nữ Vương các linh mục! Xin hãy sai cac thợ gặt đến làm vườn nho cho Con thần linh của Mẹ.

Bài 26: Lang Quân Thần Linh Và Vua Các Tâm Hồn

1. Trong việc tôn thờ của Mẹ, Mẹ Maria nhắm đến việc tôn vinh tất cả những trạng thái khác nhau của Chúa Giêsu, đến việc tán tụng Ngài dưới những tước hiệu mến thương nhất, những tước hiệu thiết lập cách trọn hảo nhất vương quyền của Ngài trên các trái tim nhân loại.

Mẹ tôn thờ Chúa Giêsu trong khả năng Ngài làm Lang Quân của các linh hồn. Sự kết hợp là cùng đích của tình yêu. Chúa Giêsu khi ban mình theo bản thể cho chúng ta trong phép Thánh Thể, là kết hợp với chúng ta như với hiền thê dấu ái của Ngài. Như thế là Ngài tặng cho chúng ta tất cả sự giàu có của Ngài; Ngài ban cho chúng ta Thánh Danh, Thánh Tâm, và toàn thể Bản Thân Ngài, nhưng Ngài cũng mong sao được đáp lại. Chúa Giêsu là Thiên Chúa hay ghen tương. Linh hồn, hiền thê Ngài, phải sống cho duy mình Ngài. Khốn cho kẻ nào cướp khỏi Chúa Giêsu hiền thê của Thánh Tâm Ngài!

Bây giờ, giống như một người Mẹ, Đức Maria muốn cho đám cưới của Con yêu dấu Mẹ được tổ chức một cách xứng đáng. Như xưa Mẹ đã can thiệp cho đôi tân hôn khỏi bị xấu hổ, thì nay Mẹ cũng trang điểm cho linh hồn tín hữu bằng những nhân đức của Mẹ, để Chúa Giêsu có thể thấy nó đỡ bất xứng với Ngài, , đúng vậy! sự dọn mình hiệp lễ tốt nhà là sự dọn mình do Đức Maria thực hiện. Người Mẹ lại chẳng có bổn phận phải lo y phục cho con gái mình trong ngày cưới của nó ư? Bà sẵn sàng bóc lột cả bản thân để lo cho dịp này. Ai có thể diễn tả được Mẹ nhân lành chăm sóc cho các hiền thê của Người Con Thánh Thể của Mẹ như thế nào, trên tất cả các quan ngại là sự trong sạch của trái tim họ, sao cho họ có thể làm vui lòng Lang Quân rất dấu yêu của họ?

Nhưng Chúa Giêsu cũng là Lang Quân của Giáo hội, sự trinh khiết phong phú của Giáo hội làm cho Ngài thành Cha của một thế hệ mới các con cái Thiên Chúa. Do đó, Đức Maria cũng thờ lạy Ngài như Lang Quân của Giáo hội, và Mẹ đã yêu Giao hội như con gái của Mẹ, đã được kết hợp bất khả phân ly với Con rất yêu dấu của Mẹ. Đức Maria đã sẵn lòng hiến sự sống mình cho Giáo hội. Mẹ che chở bênh vực Giáo hội bằng lời cầu liên lỉ; Mẹ vui mừng dõi theo những bước tiến, chia sẻ những hiểm nguy, cùng chịu đau khổ với và cho Giáo hội. Và mặc dù là Mẹ Giáo hội, Mẹ cũng đồng thời là nữ tử của Giáo hội, và như đứa con ngoan ngoãn nhất của Giáo hội, Mẹ vâng phục thánh Phêrô và thánh Gioan và tất cả các linh mục. Mẹ tôn kính các nghi lễ thánh; Mẹ thờ lạy Chúa Giêsu qua Giáo hội: qua việc phượng tự, qua các kinh nguyên phụng vụ, qua chức linh mục, cùng với con cái Giáo hội. Ôi đẹp biết bao việc tôn thờ hiệp nhất giữa Đức Maria và các tín hữu dưới chân bí tích cực thánh! Chính thiên đàng cũng phải ghen tương, vì Đức Maria ở trong Giáo hội như mặt trời ở giữa các vì sao! Thiên Chúa có lý do tốt lành để yêu thương trái đất, và Chúa Giêsu yêu Nhà Tạm của Ngài, vì đó là thiên đàng của tình yêu!

2. Lại nữa, Đức Maria thờ lạy Chúa Giêsu như vị Đế Vương, vì Thánh Thể là vương triều của Đấng Cứu Chuộc. Nhờ Thánh Thể, Ngài cai trị các tâm hồn và trên xã hội. Chân lý chiến thắng trên nhân loại phải thông qua Thánh Thể, để nắm bắt được một số tính chất ngọt ngào của Thánh Thể và trở nên có tính thuyết phục và hấp dẫn hơn. Bao lâu một người không được hiệp lễ, nó chỉ có đức tin vào chân lý, chứ chưa có đức tin thực sự của tình yêu, chưa có niềm vui và sự ngọt ngào của đức tin. Nó đã gặp Chúa Giêsu trên đường, nó đã đàm đạo với Ngài mà chưa biết rõ Ngài. Chỉ duy Thánh Thể sẽ mặc khải cho nó tất cả những bí mật của đức tin và chính Chúa Giêsu trong tất cả quyền năng và ánh sáng của Ngài. Do đó, Chúa Giêsu là vua của chân lý thông qua phép Thánh Thể.

Về các nhân đức khác cũng như vậy. Thánh Thể là cần thiết để các nhân đức bừng nở trong tâm hồn. Hiệp lễ là cần thiết để các nhân đức trở nên tinh vi, mềm mỏng và xinh đẹp trong tình yêu Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phải ban mình cho tôi trong khi hiệp lễ để chinh phục tôi bằng tình yêu Ngài và để có thể nói với tôi: “Con Cha, hãy dâng lòng con cho Cha.” Chỉ trong Thánh Thể, tình yêu của Chúa Giêsu Kitô được phụng sự một cách vương giả, vì Thánh Thể đem lại cho Ngài một cung điện, một triều đình và những người tôn thờ.

Bởi vậy, Đức Maria đã tôn thờ Chúa Giêsu như Vua của Mẹ; nhưng Mẹ đã không còn thờ lạy Ngài trong cảnh khó nghèo của Ngài, cuộc lánh nạn vương giả ở Bêlem hay ở Ai cập, cũng không như Đức Vua bị đóng đanh của Mẹ trên đồi Canvê. Mẹ đã thờ lạy Ngài trong cái vương giả vĩnh hằng, trên ngai vinh hiển Ngài, mọi sự đều bị che khuất dù Ngài vẫn là thế. Ở đó, Ngài không thể bị thương tổn trước những mũi tên của quân thù, Ngài đã trở thành vô địch trong chiến thắng của tình yêu Ngài. Đức Maria đã nhìn thấy lời tiên tri của sứ thần được hoàn tất: “Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp. Và Nước Ngài sẽ vô cùng tận.” Mẹ đã nhìn thấy ngai vàng Thánh Thể ngày một tăng thêm nhiều; mỗi thành phố, mỗi làng mạc đã trở nên triều đình của Ngài và dâng cho Ngài một cung điện. Mẹ trông thấy tất cả các nhân đức đang phát triển trên thế giới nhờ phương pháp Thánh Thể, các nhân đức chính là triều thiên vương đế của Thiên Chúa, Đấng gợi hứng và nuôi dưỡng chúng.

Ôi, tiếng thở yêu thương, lời cầu thắm thiết chừng nào, dâng lên ngai vương Thánh Thể phát ra từ Trái Tim Mẹ Maria trong nhà Tiệc ly! Ngay khi Mẹ cầu nguyện cho ngai vương đó, Mẹ đã nhìn thấy, xuyên qua các thời đại, Thánh Thể lan rộng và tình yêu Chúa Giêsu chiến thắng khắp nơi. Cuối cùng Chúa Giêsu sẽ được yêu mến, Thánh Thể Ngài sẽ tìm thấy mọi nơi những con tim thương cảm; ngọn lửa của nó sẽ bao bọc thế giới và nhờ đó thế giới sẽ được hoàn toàn đổi mới.

Ôi Vua thần linh! vâng, xin Ngài hãy ngự trị như Chúa tể trên trái tim con và đời sống con, như Chúa đã ngự trị trên Mẹ cực thánh Chúa. Chân lý Chúa hãy là huy hiệu danh dự của con; các nhân đức Chúa hãy là khiên mộc bảo vệ con; tình yêu Chúa là lời và mệnh lệnh cho con; vinh quang Thánh Thể cao cả Chúa hãy là hoa trái của chiến thắng con!

Đây là lời cầu nồng nhiệt của trái tim con, con dâng nó lên cùng Chúa qua Đức Maria, Nữ Vương nhà Tiệc ly, và là Mẹ của những người tôn thờ.

Nữ Vương thương xót các linh hồn luyện ngục

Phương pháp tốt nhất để giúp đỡ các linh hồn đáng thương đang đau khổ trong luyện ngục là dâng thánh lễ cầu cho họ. Nhưng khi người ta đặt những hoa trái vô hạn của Máu Thánh Chúa Giêsu trong tay Mẹ Maria để Mẹ áp dụng giảm bớt hình khổ cho những người thân thương này, thì sự giải thoát của họ rất bảo đảm.

Có một người anh em, và cũng là tu sĩ rất đạo đức, khi chết hiện về với người bạn cố tri của mình và cho biết rằng mình đang phải chịu đau khổ trong luyện ngục; tuy nhiên, đau khổ về phần cảm giác thì ít, nhưng đau vì thiếu vắng Thiên Chúa thì nhiều. Người ấy xin bạn mình trình bề trên để xin gia tăng thêm lời cầu nguyện và lễ Misa theo ý mình. Người ta đã vội vã làm ngay những yêu cầu này, và bề trên đã nhìn thấy linh hồn người anh em đầy tràn hân hoan đang ngây ngất bên tà áo Đức Maria, khi Mẹ xuống đưa người con chiến thắng vinh hiển của Mẹ khải hoàn về thiên quốc. (Nicolao Laghi, t. III).

Thực hành: Chúng ta hãy kiên trì cầu xin Đức Maria mở rộng vương quốc Thánh Thể của Chúa Giêsu Kitô trên toàn thế giới.

Hoa thiêng: Ôi Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, Mẹ là khuê phòng, trong đó Đức Lang Quân thấy hân hoan khoái trá, xin thiêu đốt chúng con bằng ngọn lửa đang thiêu cháy Mẹ!

Bài 27: Thánh Thể, Trung Tâm Đời Sống Đức Maria

1. Đức Maria chia sẻ đời sống Thánh Thể của Chúa Giêsu. Tình yêu ước muốn chung sống với người yêu. Ở Bêlem và ở Nazareth, Đức Maria đã sống đời sống ẩn dật khó nghèo của Chúa Giêsu; ở Ai cập, Mẹ chia sẻ đời sống bị bách hại của Ngài; qua khắp các làng mạc xứ Giuđê, Mẹ đã sống cuộc đời tông đồ của Ngài. Mẹ đã luôn luôn chia sẻ cuộc đời đau thương của Ngài, kết cuộc với lý do tốt lành, Mẹ đã muốn sống đời sống Thánh Thể của Con thần linh Mẹ, đời sống này là triều thiên của tất cả các đời sống khác.

Bằng nếp sống Thánh Thể, Mẹ Maria đã sống một cuộc đời hoàn toàn nội tâm và ẩn khuất, lặng lẽ, tách biệt hẳn với trần đời, cùng với Chúa Giêsu, để Ngài làm người tri âm và nâhn chứng duy nhất của Mẹ. Đời sống Mẹ trôi qua trong việc chiêm ngưỡng Thánh Thể và trong việc tạ ơn vị chúa tể của Mẹ đã ban nhiệm tích đó. Mẹ bị thu hút vào đó đến nỗi Trái Tim Mẹ đầy tràn tình ngọt, và Mẹ chỉ còn có một ước muốn là yêu mến Ngài hơn lên mãi, là hiến mình cho Ngài nhiều hơn và trọn hảo hơn. Cả thân xác Mẹ cũng được chia sẻ niềm vui và bình an thiên đàng của đời sống đó; nó trở nên thiêng liêng hoá hoàn toàn: “Cor meum et caro mea exultaverunt in Deum virum – Tâm hồn và thể xác con mừng vui trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc con.”

2. Sự chiêm ngưỡng Thánh Thể này là chủ động hơn thụ động. Đó là việc linh hồn tự hiến không ngừng cho Thiên Chúa, dưới ấn tượng luôn luôn mới và luôn luôn sống động hơn mãi của lòng nhân lành Ngài, dưới hoạt động luôn luôn gia tăng của ngọn lửa tình yêu Ngài, nó thanh tẩy linh hồn, tách linh hồn ra khỏi mọi sự vật trần thế, và kết hợp linh hgôn cách tiềm mật hơn với Đấng rất dấu yêu.

Sự tĩnh niệm là điều kiện đầu tiên cần thiết cho sự chiêm ngưỡng thiên đàng này. Linh hồn, được thoát khỏi mọi ấn tượng ngoại giới, được giải phóng khỏi tất cả những cảm tình lăng loàn, nó sẽ tiến thẳng tới Thiên Chúa, như kim la bàn hướng về cực bắc. Linh hồn, khi đã tĩnh niệm, gắn bó với Chúa Giêsu, thì sẽ tự nuôi dưỡng mình bằng chân lý Ngài, bằng tình yêu và lòng nhân lành Ngài. Nối dài việc cầu nguyện, linh hồn chỉ mất mát chút ít hoặc chẳng mất gì, bởi vì linh hồn khi đã được giải thoát khỏi mọi sự, nó có thể theo Đấng Cứu Chuộc của nó bất cứ nơi đâu Ngài đi qua; không gì thúc bách hoặc gọi nó đến nơi khác được, do đó nó có thể học biết những mầu nhiệm sâu xa mà nó đang suy gẫm. Trong Chúa Giêsu Kitô, nó xem thấy các vật y như chúng là; việc tĩnh niệm và chiêm ngưỡng củng cố ánh nhìn của nó và làm cho nó nên thấu suốt và rực rỡ.

3. Với đức tin ngời sáng, đời sống tinh tuyền, và trái tim yêu mến trọn hảo, thì sự chiêm niệm của Đức Maria hẳn phải hoàn hảo biết bao! Chắc chắn với lòng trí sốt mến đó, chẳng có sự chia trí nào có thể đến làm xáo trộn giấc vàng của hồn Mẹ trong Đấng Chí Ái. Linh hồn Mẹ kết hợp với Chúa Giêsu còn hơn là kết hợp với thân xác đang bao bọc nó, nó đã uống say mê nước hằng sống của ân sủng và tình yêu. Mẹ đã quên hết thế giới chung quanh Mẹ để ở một mình với Chúa Giêsu; vì chính nét đặc trưng của tình yêu là biệt lập mình, là tập trung chính mình trong mối duy nhất, để kết hợp khăng khít hơn với người yêu.

Kết hợp với Đấng tôn thờ là Đức Maria, người tôn thờ hãy kiên trì nhẫn nại thực tập nhân đức tĩnh niệm, tập chiêm ngưỡng Chúa Giêsu Kitô; trước hết, hãy học cho biết Ngài hơn là hoan hưởng Ngài; vì tình yêu là kết quả của sự nhận biết chân lý, và ơn soi sáng thì có giá trị hơn là ơn được những ngọt ngào an ủi. Chân lý vẫn tồn tại mãi nhưng tình cảm sẽ qua đi.

Ôi, hạnh phúc thay linh hồn nào, như Đức Maria, đi sâu vào sự kỳ vỹ của mầu nhiệm tình yêu, linh hồn nào ao ước tình yêu, linh hồn nào không ngừng đòi hỏi tình yêu, linh hồn nào không ngớt thao luyện mình trong tình yêu! Vương quốc của Thiên Chúa ở nơi linh hồn đó!

Cuộc rước kiệu Thánh Thể lần đầu tiên tại Lộ Đức năm 1888

Từ cuộc hành hương mang tầm cỡ quốc gia năm 1888, những cuộc hành hương vĩ đại ở Lộ Đức đã mang một sắc thái đặc biệt: đó là một cuộc biểu dương Thánh Thể mà trong đó chính nhiệm tích chí thánh tạo nên vinh quang và quyền lực của mình một cách rạng rỡ hơn. Dĩ nhiên Chúa Giêsu Cứu Thế vẫn không bao giờ bị quên lãng giữa những việc tôn kính sùng mộ của đám quần chúng đông đảo dành cho Mẹ chí thánh của Ngài. Cũng nên nhớ rằng nếu Đức Maria có làm những phép lạ để cứu chữa phần hồn hay phần xác ai, thì đó vẫn luôn luôn là nhờ năng lực toàn năng của Con Mẹ, Đấng vẫn thực sự hiện diện ngự trị ở Hang thánh – Đấng là Thiên Chúa, là tác giả duy nhất của tất cả những việc lạ lùng ở đó. Nhưng năm ấy, theo như báo Journal de Lourdes ghi nhận: “Đức Mẹ nhân lành đã vui lòng tự mờ xoá để Con thần linh Mẹ có thể được hiển sáng trong phép Thánh Thể.”

Ngày 21/08/1888 là một ngày thử thách đối với cuộc hành hương quốc gia: có một số vụ chữa bệnh, và vào buổi chiều, một cơn giông khủng khiếp cản trở cuộc rước đèn từ nơi tổ chức. Trước cảnh các khách hành hương buồn rầu, mặc dù không đến nỗi thất đảm, một tia soi sáng từ trời đột nhiên loé lên trong tâm hồn một vị linh mục đạo đức: Tại sao không để người ta dâng lên bí tích cực thánh những lời hoan hô khải thắng? Và khi Chúa Giêsu Thánh Thể được kiệu tới giữa các bệnh nhân, tại sao không để dân chúng dâng lên Ngài những lời tán dương, những lời cầu xin như thuở xưa trong cuộc đời Đấng Cứu Thế ở trần gian, khi dân chúng nhận được những phép lạ? Dĩ nhiên, kế hoạch này dễ dàng được chấp nhận.

Ngày tiếp đo, vào lúc 4g00 chiều, Thánh Thể Chúa Giêsu đã rời Đền Thánh, có một đám rất đông các tín hữu đi trước và theo sau, tay cầm nến cháy sáng. Sau phép lành Thánh Thể ở Hang đá, những lời cầu xin đã bắt đầu vang lên một cách sinh động, tự phát, hứng khởi không thhê tả được. Một luồng sinh khí ngây ngất từ trời chuyền vào đám dân chúng. Từ tất cả các giường chõng, các phương tiện di chuyển mà những người tàn tật đang nằm quằn quại đau đớn, đã vang lên những tiếng kêu van não nuột; và như có một sự thúc đẩy nhất loạt, đám đông lớn tiếng gọi Con Đấng Vô Nhiễm, y như xưa người bất toại và người mù thành Giêricô kêu xin: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi lành bệnh!”

Và kìa! trước cửa hang có tám người bệnh đã đứng dậy. Ôi thật là những sự việc khôn tả! Khi bài ca Magnificat được hát lên trong niềm hân hoan diệu kỳ, không ai có thể cầm nổi nước mắt. Và từ đó mỗi năm trong những cuộc rước đông vô kể trải dài gần Hang thánh, lại bùng lên cùng một lòng tin say mê ấy, cùng những lời cầu nguyện sốt sắng ấy nơi các tín hữu; và cùng những kỳ diệu của quyền năng thương xót ấy về phía Chúa Giêsu Kitô hiện diện nơi cử hành bí tích cực thánh. Chính Đức Maria ở Lộ Đức là người đã thực sự chuẩn bị cuộc khải thắng Thánh Thể cho Con Mẹ. (Les Miracles historiques du Saint Sacrement, par le P. Eug. Couet).

Thực hành: Hãy năng cầu xin Thiên Chúa bảo vệ những người thánh hiến cho Chúa Giêsu trong tu viện và ngoài thế gian.

Hoa thiêng: Ôi Mẹ Maria, như hài nhi mới sinh, chúng con xin Mẹ ban cho chúng con sữa thiêng liêng là Chúa Giêsu Thánh Thể!

Bài 28: Đời Sống Kết Hợp Của Đức Maria Với Chúa Giêsu

1. Đức Maria sống trong phép Thánh Thể. Ai yêu thật thì nghĩ tưởng, ước muốn, hành động, vui sướng hoặc buồn đau trong người mình yêu; người yêu là trung tâm tự nhiên của mình. Chúa Giêsu nói: “Của cải ngươi ở đâu, lòng ngươi cũng ở đó.” Và với các Tông đồ, Ngài cũng nói: “Hãy ở lại trong Cha… hãy lưu lại trong tình yêu của Cha… như Cha ở lại trong tình yêu của Chúa Cha.”

Do đó, Đức Maria đã sống trong Bí tích Thánh Thể thần linh, trung tâm tình yêu của Mẹ. Mọi tư tưởng, lời nói và hành động của Mẹ đều phát xuất từ bí tích đó như những tia sáng mặt trời phát ra từ mặt trời vậy. Thánh Thể là sấm ngôn để Mẹ tham khải, là ân sủng để Mẹ dõi theo.

2. Chúa Giêsu trong nhiệm tích đang sống bằng cùng một sự sống tình yêu đã từng thiêu đốt Ngài trong những ngày Ngài còn lưu lại trên cõi thế. Trong trạng thái nhiệm tích, Ngài tiếp tục tôn thờ Cha Ngài bằng sự hủy mình sâu xa của Ngài. Ngài vẫn làm Đấng Trung Gian và can thiệp vào việc cứu độ nhân loại trước lògn nhân lành Thiên Chúa.

Đức Maria đã kết hợp với Chúa Giêsu bằng cầu nguyện, thêm vào đó là việc luyện tập và công trạng của các nhân đức mà Chúa Giêsu trong trạng thái vinh quang của Ngài, Ngài không còn có thể thực hành được nữa. Mẹ ứng đáp trạng thái khiêm nhường của Chúa Giêsu trong nhiệm tích, nhờ nhân đức và những hành vi khiêm nhường; ứng đáp thân phận làm của lễ của Ngài, nhờ khả năng chịu đau khổ thực tế của Mẹ; ứng đáp trạng thái đền tạ của Ngài, bằng những hành vi tự nguyện hãm mình. Để tôn kính đời sống ẩn dật của Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã tự mờ xoá mình đi, có thể nói, bằng cách hướng tới chỗ không là cái gì hơn là cái dáng vẻ nhân loại, vì toàn thể hữu thể, bản thể của cái dáng vẻ ấy đã được thay đổi, được biến hoá trong Chúa Giêsu Kitô. Mẹ nghèo như Chúa Giêsu trong nhiệm tích, thậm chí Mẹ còn nghèo hơn vì Mẹ có thể cảm nghiệm sự thiếu thốn thực tế của cái nghèo. Giống như Chúa Giêsu, Mẹ vâng phục và tôn kính sự vâng phục nhiệm tích của Ngài bằng cách tùng phục vị nhỏ nhất trong các thừa tác viên của Giáo hội. Để bắt chước sự vâng phục vui tươi, đơn sơ, mau lẹ của Ngài, Mẹ sung sướng vâng lời, hăng hái tùng phục ngay khi có dấu hiệu nhỏ nhất. Tóm lại, Mẹ Maria thực hành trong Mẹ sự sống Thánh Thể của Chúa Giêsu Kitô.

Hơn nữa, Đức Maria đã làm mới lại trong phép Thánh Thể tất cả những mầu nhiệm của cuộc sống trần gian của Đấng Cứu Chuộc, làm cho lòng biết ơn của Mẹ nên mới mẻ và trường tồn với nhiệt tâm luôn tăng tiến mãi.

3. Sự sống của người tôn thờ cũng phải như thế, nếu họ muốn sống trong Thánh Thể. Nhưng để đạt được sự sống kết hợp này, họ phải giải thoát mình khỏi nô lệ tính ích kỷ chỉ biết mình – ngay cả trong việc phụng sự Thiên Chúa; có nói chuyện với Chúa Giêsu nó cũng chỉ nói về mình, về những chuyện riêng tư của nó; nó không biết cách đàm thoại với Chúa Giêsu bằng cách nói với Chúa về chính Chúa, về những lợi ích cho vinh quang Chúa, về những ước muốn của Thánh Tâm Ngài; nó không biết cách ở lại lặng lẽ trầm mặc dưới chân Ngài, thoả mãn với Ngài, không ước muốn gì trừ ra chính Ngài. Người ấy cần phải tự giải phóng mình ra khỏi tình trạng đó, tình trạng không biết nhẫn nại lắng nghe Chúa Giêsu, và nó làm cho chúng ta nên giống như kẻ làm thuê sốt ruột chờ lãnh tiền công, như người thừa ủy nóng vội ra đi.

Chúa Giêsu có rất ít những người tôn thờ biết tự cân nhắc để phạt tạ cho đủ và lấy làm sung sướng được ở lại với Ngài, bận tâm phục vụ Ngài như các thiên thần vẫn làm trên thiên đàng, như Mẹ Maria đã làm nơi nhà Tiệc ly. Ngài chỉ thấy ở dưới chân Ngài những kẻ ăn xin, hoặc những kẻ thao thức, những kẻ tìm kiếm sự giúp đỡ. Tuy nhiên, nếu là trong một hoàng cung, họ cũng biết bổn phận mình là các cận thần, biết cách chờ đợi phục dịch đức vua, biết tìm cách hiện diện để tôn kính oai quyền nhà vua. Than ôi! đó chỉ là vương triều của những cảm giác, và những quan tước vô dụng. Ở nơi triều đình Thánh Thể của Chúa Giêsu, đó là vương triều nội tâm của tình yêu, vậy mà chúng ta lại sợ, chúng ta lại muốn trốn tránh khỏi đó, chúng ta muốn hành động. Một mình Chúa Giêsu không đủ cho chúng ta; chúng ta phải có một cái gì đó bên cạnh Ngài.

Đức Maria mặc dù không bao giờ có thể đánh mất sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể, Mẹ cũng chỉ hoạt động khi Ngài muốn, Mẹ xét mình rất kỹ khi ở dưới chân Ngài, nên đã được thưởng đầy đủ trong sự chiếm hữu Ngài.

Rất nhiều phép lạ tại Lộ Đức xảy ra trong lúc kiệu Thánh Thể

Khoa học đương thời đã dành một thời gian dài để tìm ra bí mật của các cuộc chữa bệnh trong nước hồ. Nhiệt độ của nước, các hợp chất của nó, tất cả đều được nêu ra. Một nhà tiểu thuyết nói: “Chúng ta hiểu làm sao đây, vì dù trường hợp nào đi nữa, việc tắm nước lạnh không thể chữa trị bệnh lao?” và cũng hay xảy ra rằng, qua một trong những sở thích có vẻ là bất ngờ của Đấng quan phòng, kế hoạch nguyên thủy ở Lộ Đức dường như cũng đột ngột thay đổi; chỉ cần một lời cầu nguyện mới cũng đủ làm cho người ta cảm thấy điều đó.

Chẳng phải chỉ trong Hồ tắm, nơi vốn đầy những kỳ bí bao trùm trên các bệnh nhân – mà còn ngay chính trong khi đi rước, giữa thanh thiên bạch nhật, dưới hàng ngàn cặp mắt chứng kiến, đã xảy ra những vụ chữa bệnh.

Họ muốn bắt Chúa Giêsu làm Người Tù câm lặng, bị nhốt trong Nhà Tạm. Nhưng kìa! Ngài đang đến, Ngài đang đi qua đám đông, những tia sáng thần tính Ngài còn lấp lánh hơn vàng bạc đá quí, khiến cặp mắt chúng ta phải ngỡ ngàng. Ngài đang hồi sinh những người hấp hối trên giường, dẫn họ đi theo cuộc khải hoàn và biến hình của Ngài, chiếu sáng vào đám đông và sưởi ấm những tâm hồn đã nhiều năm khô khan nguội lạnh. Biết bao cuộc chữa bệnh lạ lùng! Biết bao cuộc hoán cải kỳ diệu! Ai có thể kể cho hết?

Điều thú vị là nghiên cứu những cuộc biểu hiện này, những cuộc biểu hiện đã lan rộng từ năm 1888. Với những cuộc biểu hiện đó, tất cả đã tạo nên sự sống đích thực của các cuộc hành hương, đã phát triển; đám đông cứ lớn dần lên; các cuộc hiệp lễ thường xuyên hơn, vì đó là lò lửa mà từ đó đời sống siêu nhiên rút lấy lương thực.

Chính trong năm 1888 mà lần đầu tiên chúng tôi đã làm những thống kê các vụ chữa bệnh xảy ra nơi có phép Thánh Thể đi ngang qua. Năm đó các vụ được khỏi bệnh đạt tới tỉ lệ 16 phần trăm – vào khoảng một phần sáu; cứ bảy vụ được chữa lúc đi rước kiệu thì 40 vụ ở bể tắm. Một số lớn vụ vẫn chưa báo cáo về nơi chốn và cách thức. Thường thường, một vụ chữa được bắt đầu tại hồ tắm và kết thúc tại cuộc rước; những vụ bắt đầu nơi cuộc rước và kết thúc ở bể tắm thì hiếm hơn. Rất nhiều trường hợp không có kết quả gì ở hồ tắm, nhưng đã được chữa khỏi ngay tức khắc trước bí tích cực thánh.

Vụ chữa đầu tiên đáng lưu ý đó là vụ cô Nina Klin, một cô thiếu nữ 22 tuổi, vừa mới từ bệnh viện Paris ra. Một bình Acid gần 13 lít đổ vào người cô ta và gây bỏng rất nặng. Các sợi gân ở chân đã bị teo lại thành sẹo, va hơn mười tháng trời cô không thể nhúc nhích được tí nào. Mọi phương thức chữa trị đều ra vô ích – nào là xoa bóp, chạy điện – tất cả đều không kết quả. Nina Klin đã đi dự cuộc hành hương quốc gia. Cô đã dìm mình xuống hồ hai lần nhưng không cảm thấy kiến hiệu, vào ngày 22 tháng 8, cô đang nằm trên chiếc nệm ở trước Hang đá thì bí tích cực thánh đi ngang qua chỗ cô. Đột nhiên, cô được nâng dậy bằng một sức đẩy mạnh mẽ. Cô hất tung những chăn nệm đang chèn chung quanh người cô, nhảy ra khỏi cáng và đi theo đoàn rước với những bước đi chắc chắn. (Trích trong bản báo cáo của bác sĩ Boissairie đọc tại Hội nghị Thánh Thể ở Luân đôn năm 1898. Xem Nouveau Recueil de Miracles Eucharistique, par le Eug. Couet).

Thực hành: Kết hợp với Đức Maria, chúng ta hãy sống sự hiệp lễ và tạ ơn bằng sự tĩnh niệm bên trong.

Hoa thiêng: Ôi Trái Tim Mẹ Maria, ngai toà kỳ vĩ của Thiên Chúa ẩn thân, Mẹ đã được nâng lên tới đỉnh cao Thiên Cung!

Bài 29: Nữ Tì Hoàn Hảo Của Bí Tích Cực Thánh

1. “Ecce ancilla Domini! – Này tôi là nữ tì Chúa!” Câu đó được Đức Maria thốt lên; và toàn thể cuộc đời Mẹ đã trôi qua trong việc phục vụ Chúa một cách hoàn hảo nhất. Mẹ là mẫu gương hoàn hảo của việc phụng sự Thánh Thể của chúng ta. Việc phục vụ của Mẹ trong nhà Tiệc ly đã tóm gọn toàn bộ đời sống Mẹ. Ở đó, Mẹ làm mới lại tất cả các giai đoạn, tất cả các ân sủng của cuộc đời Mẹ; ở đó các nhân đức của Mẹ đạt tới đỉnh hoàn hảo cực cao làm cho chúng trở nên đáng giá với thiên đàng và với vinh quang bao la đang chờ đợi Mẹ. Chạm tới được vòng xích cuối cùng của cuộc đời Đức Maria là ân sủng của người tôi tớ phép Thánh Thể; sức mạnh và qui luật của người ấy chính là những linh hứng từ các nhân đức và sự tận tâm của Mẹ. Tinh thần của người tôi tớ của Chúa Giêsu đã được định nghĩa như thế đó; tình yêu tận tụy với bí tích cực thánh trong tinh thần và nhân đức của Đức Thánh Trinh Nữ.

Đó là người tận tâm vô vị lợi. Họ không tận hiến bản thân để được hoàn thiện hoặc được sung sướng, để thu góp cho mình một gia tài thiêng liêng, hoặc để chiếm được thiên đàng xinh đẹp. Không, họ hiến mình vì tình yêu tinh ròng. Người tận tâm đích thực nóng lòng mong mỏi chỉ một điều, đó là trao ban niềm vui và chu toàn bổn phận. Nay Chúa chúng ta không đòi hỏi chúng ta phục vụ Ngài ở ngoài thế gian, cũng không ngay cả trong các linh hồn; nhưng Ngài bảo chúng ta: “Để bước lên ngai vàng tình yêu, Cha cần phải có những người tôn thờ. Nếu không, Cha không thể được trưng bày cách trọng thể. Các con sẽ ở lại với Cha, các con sẽ là những người tôn thờ Cha; các con sẽ gắn bó với Ngôi Vị Cha; các con sẽ hiện hữu cho Cha, như Cha sẽ sống cho các con. Các con sẽ đi đến chỗ từ bỏ tận tuyệt ý riêng các con, vì Cha muốn nó cho mình Cha. Hãy từ bỏ mọi tư lợi, Cha sẽ nhận lấy chúng.” Một vị vua muốn thu góp các tài sản của thần dân mình lại, mặc dù ông ta không nói cho họ biết ông sẽ làm gì. Cũng vậy, cánh đồng mà chúng ta phải canh tác là chính Chúa, một mình Ngài. Ngài giữ chúng ta lại cho Ngài và giao phó bản thân Ngài cho chúng ta chăm sóc. Và đâu là phần thưởng cho lòng tận tâm này? Đó là được sống gần Đức Vua, là làm vui lòng Ngài, là trở nên sở thích của Ngài. A! chúng ta hãy phục vụ Ngài vì vinh quang riêng Ngài và hãy tự mờ xoá bản thân trong mọi sự!

Do đó, lòng tận tụy này phải là lòng tận tụy của tình yêu tinh ròng, tình yêu Thánh Thể tinh tuyền cho Chúa Giêsu trong bí tích cực thánh. Tình yêu này thu hút tất cả những cái khác. Chúa Giêsu đã trao ban mình hoàn toàn cho chúng ta, đáp lại, Ngài cũng muốn chúng ta hoàn toàn phó mình cho Ngài. Nhưng Ngài đem theo Ngài một cảm tình vui tươi và sung sướng, nó sẽ lan rộng ra trên toàn thể cuộc đời chúng ta. Sao! được liên kết với Thánh Thể, trở nên một cán bộ của Chúa Giêsu Kitô, trên trời dưới đất còn gì cao trọng hơn? Vậy bạn hãy đi, hãy thực hiện việc phục vụ này cách hân hoan vui sướng. Tình yêu chắp cánh bay cao; nó yêu thích việc phục vụ Chúa Giêsu hơn sự nghỉ ngơi riêng mình, hơn sự vừa lòng mình. Khi chúng ta không yêu mến, chúng ta không muốn đi quá nhanh, chúng ta bước những bước rùi rắng. Nhưng giống như Đức Maria, chúng ta hãy bay trên đường phục vụ tôn thờ Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể, Người đang chờ đợi chúng ta.

2. Do đó, việc phục vụ Chúa Giêsu là bổn phận đối với chúng ta cũng như đối với Đức Maria. Các bạn được gọi để phục vụ Ngài chứ không phải để phục vụ mình. Các bạn phải ý tứ đừng có hiểu sai ý nghĩa của việc phục vụ cao quí này. Chẳng hạn các bạn đừng có nói: “Tôi sẽ thi hành việc phục vụ tôi.” Không, tất cả mọi người làm công đều nói kiểu ấy. Đúng hơn, các bạn nên nói: “Tôi sẽ thi hành việc phục vụ Chúa tôi.” Có một sự rất khác nhau giữa hai lối diễn tả và ngay cả giữa hai ý tưởng đó, có một ý tưởng lớn lao hơn. Một kẻ cận thần biết rằng, nói “Tôi đang phục vụ đức vua” là đúng, là tốt, thì chúng ta cũng hãy nói: “Tôi đang phục vụ Thiên Chúa.” Qua những từ ngữ này, chúng ta tự mờ xoá, chúng ta đánh mất cái nhìn về toàn bộ bản thân, và chúng ta đặt Chúa lên trước hết.

Việc phục vụ này bao gồm nhiều chức vụ. Có chức vụ trực tiếp liên hệ đến Ngôi Vị Ngài, như Thánh lễ, việc tôn thờ, kinh thần vụ. Có những việc khác qui về nhà của Ngài và thiện ích của các tôi tớ Ngài. Nhưng tất cả đều là những phận sự gắn liền với việc phục vụ hoàng gia của vị chúa tể. Nhà Chúa đòi hỏi những chú ý khác nhau, những phận vụ cụ thể khác nhau. Chúng ta không phải là loài thuần thần, nhưng trong tất cả những lao lực này, chúng ta tìm kiếm chính vinh quang Thiên Chúa, chúng ta làm việc cho duy mình Ngài.

Sự tận tâm với vinh quang của bí tích cực thánh – vinh quang mà chúng ta mắc nợ Ngài là gì? Đó là qui về cho Ngài tất cả mọi sự lành mà chúng ta làm được, không giữ gì cho mình; có thể nói không giữ lại một chút khả năng nào để làm ăn riêng. Chúng ta hãy là những tôi tớ đích thực của bí tích cực thánh, như Đức Maria đã là; những tôi tớ không còn mối bận tâm nào khác, không còn bất cứ cái gì riêng tư nữa, những tôi tớ hoàn toàn tiêu hao mình vào việc phục vụ Chúa Giêsu.

Danh hiệu “người nữ tì, người tôi tớ của Thiên Chúa, danh hiệu xinh đẹp chừng nào. Đó là danh hiệu mà Đức Maria ưa thích hơn mọi danh hiệu khác. Đó là danh hiệu duy nhất mà mẹ luôn luôn nhận cho mình. Khi nhận lấy danh hiệu của Mẹ chúng ta đó, chúng ta phải chấp nhận cùng với nó tất cả những bổn phận và các nhân đức mà danh hiệu ấy bao hàm. Tất cả được chứa đựng trong bài Magnificat: “Chúa đã ghé mắt nhìn đến sự khiêm nhường” – sự thấp kém – “của tớ nữ Ngài.” A! nếu có ai đó khiêm nhường và tận tâm thì đó chính là tôi tớ của Chúa! Đối với một tôi tớ, làm sao lại có chuyện chọn lựa công việc phục vụ chủ mình theo ý mình muốn; làm sao lại có chuyện sẻn so thời gian phục vụ, để giữ lại phần nào đó cho chính mình?

Và tất cả các nhân đức của Mẹ Maria – xét chúng trong tính chất tối hậu của chúng trong nhà Tiệc ly thì chúng không là gì hơn là những hành vi tôn thờ của Mẹ. Mẹ Maria tôn thờ bằng mỗi một trong các nhân đức của Mẹ. Việc tôn thờ là tổng kết toàn bộ cuộc đời Mẹ.

Do đó, phục vụ Chúa Giêsu trong bí tích cực thánh theo gương Đức Mẹ của nhà Tiệc ly, và như Mẹ đã làm – đó là đời sống của người tôi tớ đích thực. Khẩu hiệu của họ sẽ là: “Tất cả là để phục vụ Chúa Giêsu Thánh Thể trong sự kết hợp với Đức Maria!”

Rất nhiều phép lạ xảy ra tại cuộc rước kiệu Thánh Thể ở Lộ Đức

Ở Lộ Đức từ năm 1888, tỉ lệ các vụ chữa lành xảy ra tại nơi có bí tích cực thánh đi ngang qua đã liên tục gia tăng nhanh chóng, từ một phần sáu đến một phần năm, một phần tư, một phần ba, rồi sau cùng lên đến một phần hai trong năm 1894 và 1898. Trong năm sau cùng này, chúng tôi thấy có 40 vụ được chữa lành xảy ra đang hi đi rước kiệu, trong khi có 75 vụ ở hồ tắm. Trong những năm 91, 92, và 95, con số lên xuống bất thường một chút, nhưng tính trung bình trong suốt 10 năm này, các vụ được chữa lành xảy ra lúc rước kiệu Thánh Thể là 60 phần trăm.

Tuy nhiên, bệnh nhân không chờ đợi chúng tôi thống kê. Họ vội vã đến tụ tập nhau ở Esplanade of Rosary. Trong thời gian hành hương, họ thích đến đó để tham dự cuộc trưng bày Thánh Thể vĩ đại, vì họ biết rằng nhiều vụ chữa lành không thể chối cãi sẽ xảy ra trong khi cử hành các nghi thức này.

Vào năm 1889, chúng tôi thấy một số vụ được chữa lành rất đáng chú ý. Đây là một thiếu nữ mùa loà, cô Mary Louise Horeau, 19 tuổi. Cô không thể phân biệt được ngày với đêm. Từ việc ăn uống đến việc đi đứng đều phải có người giúp. Cô ta đã mắc chứng viêm màng sừng xảy ra định kỳ, khiến mắt cô hết sức đau đớn, và mất hết thị lực. Cô không thể đến gần hang đá, nên cô chờ đợi ở ven hồ, và xin một người bạn nhắc cho cô biết khi Thánh Thể Chúa đi ngang qua chỗ cô. Chúa Giêsu Thánh Thể đang đến giữa những tiếng hoan hô long trời dậy đất. Người bạn nói với cô gái mùa loà đáng thương: “Kìa Chúa đang ngự đến!” Cô ta liền quì gối xuống và kêu lên: “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể chữa con! Chúa ơi hãy cho con được xem thấy.” Lập tứ, có một luồng ánh sáng chói lọi chiếu vào mắt cô và cô cảm thấy một cái đau nhói, rồi mắt cô được mở ra. Cô nhìn thấy hang đá và đám đông đang quỳ gối – và Chúa Giêsu rạng rỡ trong vinh quang đã chúc lành cho cô. Thị lực của con đã được phục hồi; cô có thể nhìn thấy những vật tinh vi nhỏ bé. Chúng tôi đã khám mắt cô và thấy chúng hoàn toàn trong trẻo và sáng sủa. (dr Boissarie).

Thực hành: Chúng ta hãy hiến thân lo sùng kính Thánh Thể theo gương Đức Maria, người nữ tì của Chúa Giêsu trong nhà Tiệc ly.

Hoa thiêng: Ôi Maria, Mẹ của tình yêu xinh đẹp, xin hãy làm cho chúng con yêu mến Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể như Mẹ đã yêu!
Bài 30: Cuộc Khải Thắng Của Đức Maria

1. Vào ngày về trời vinh hiển, Đức Maria đã nhận lãnh triều thiên của tất cả mọi ân sủng. Thực sự, chúng ta phải nên vui mừng, vì dù Mẹ đã được cất đi khỏi chúng ta, chúng ta cũng không mất Mẹ. Chẳng qua chúng ta chỉ để Mẹ ra đi trước để chuẩn bị chỗ cho chúng ta trên thiên đàng và để thủ đắc cho chúng ta những quyền lợi trên Trái Tim Thiên Chúa. Bây giờ chúng ta có thể thưa cùng Chúa với đầy lòn tin tưởng: “Sự khốn cùng của chúng con thật là rất lớn lao, vì trái đất này chỉ là thung lũng nước mắt, nhưng nay nó đã gửi đến Chúa một báu tàng cực kỳ hoàn hảo – một báu tàng vĩ đại có một không hai – là Đức Maria, Mẹ của Chúa! Vì thế, xin Chúa hãy ghé mắt nhân từ xuống trên chúng con, vì đoá hoa thánh phúc của khu vườn chúng con đây đã được dâng lên Chúa; đó là bông hoa xinh đẹp nhất, tinh tuyền nhất mà trái đất này sản ra.”

Cuộc khải thắng của Đức Maria cũng là cuộc khải thắng của Chúa Giêsu. Ngài sẽ lại tìm thấy Mẹ Ngài; Ngài sẽ lại một lần nữa được là Con của Mẹ, bởi sự hiện diện của Mẹ. Chúa Giêsu rất yêu mến Mẹ Maria, cho nên làm sao Ngài có thể chịu cảnh chia ly với Mẹ? Nhưng chỉ vì yêu chúng ta Ngài đã chịu cảnh chia ly đó, để tặng ban Mẹ làm Mẹ chúng ta, việc Ngài để chúng ta được hưởng tặng ân khôn tả này là rất đúng. Nhưng bây giờ đã đến lsc lấy lại tặng ân đó, và Chúa Giêsu đã đích thân đến tìm Mẹ Ngài: Innixa super dilectum suum. Đức Maria đã chết vì tình yêu; sự mong mỏi được gặp Con Mẹ và được kết hợp với Ngài đã cắt đứt dòng đời của Mẹ. Bây giờ Chúa Giêsu ban cho Mẹ một cuộc khải thắng vĩ đại. Điều gì đã xảy ra giữa Chúa Giêsu và Mẹ Ngài trong cuộc trùng phùng ấy? Chúng ta biết niềm vui của một bà mẹ và người con yêu dấu khi được gặp nhau sau một thời gian dài xa cách. Và Chúa Giêsu, lại một lần nữa cũng ước ao gặp Mẹ Ngài – Ôi Chúa đã chào đón Mẹ bằng những nụ hôn nồng nàn yêu mến chừng nào!

2. Chúa Giêsu đích thân dẫn đưa Mẹ Ngài đến trạng thái vinh quang; Ngài mang ơn Mẹ vì việc đền tạ của Mẹ. Trọn cuộc đời Đức Maria rất nghèo khó và bị coi khinh, nhưng bây giờ đã đến giờ Mẹ được đội triều thiên vinh quang và danh dự. Mẹ tiến vào thành Giêrusalem trên trời trong ánh quang huy hoàng chưa từng bao giờ thấy: Mẹ tiến vào qua chiếc cổng đặc biệt chỉ mở ra cho duy mình Mẹ; vì nếu để Mẹ đi qua công của các tuyển nhân bình thường thì không xứng hợp. Nếu 12 Tông đồ là 12 cổng trên thiên đàng, thì Đức Maria là đường vương giả dẫn đến thiên quốc, là cổng par excellence – tuyệt hảo. Ôi cổng thánh thiện và oai nghi! Phúc đức biết bao vì được đi qua Mẹ! Chắc chắn việc thực hành đức tin sẽ cho chúng ta một lối bảo đảm vào thiên đàng, nhưng sẽ đảm bảo gấp đôi nếu chúng ta trao phó mình cho lòng nhân từ Mẹ Maria, lòng nhân từ chỉ muốn cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy tìm cách vào thiên đàng qua cổng này, và đừng quá cậy vào các việc chúng ta làm và vào việc chúng ta chu toà lề luật, bởi vì khi xét kỹ những điều ấy, chúng ta buộc lòng phải thú nhận rằng chúng quá là bất toàn.

Chúa Giêsu đưa tay dẫn Mẹ Ngài lên đến chính ngai Thiên Chúa: “Cha ơi, này là Người mà Cha đã liên kết bằng việc chọn Người làm Mẹ Con – để ban cho Con nhân tính.” Và Chúa Cha đã đội triều thiên cho Mẹ với ba tước hiệu đẹp nhất: Nữ Vương, Mẹ, Đấng Trung Gian. Nhưng vương miện của Mẹ Maria có ba viên ngọc toả sáng kỳ ảo hơn nữa – những viên ngọc của đức khiêm nhường, đức khó nghèo và của những đau khổ của Mẹ.

3. Đức Maria đã sống khiêm nhường hơn hết mọi thụ tạo, cho nên bây giờ trên thiên đàng Mẹ được cực kỳ vinh hiển. Nếu Mẹ được ngồi trên ngai báu gần ngai Con thần linh Mẹ thì đó là vì Mẹ đã tiến gần đến sự trọn lành của đức khiêm nhường hơn bất cứ ai khác. Trong cuộc đời trần thế, Mẹ, Đấng không hề bao giờ lây nhiễm tội nguyên tổ, đã bị cio như một trong những đứa con gái tội lỗi của Evà! Mẹ, Đấng không bao giờ nói một lời để biện minh cho mình, đã bị coi như một người tham vọng.

Không ai nghèo như Đức Maria, và cũng không có cái nghèo nào đáng công như vậy, vì Mẹ là Mẹ của Vua trời đất. Để noi gương khó nghèo của Chúa Giêsu, Mẹ đã lao động ở Nazareth, đi ăn xin ở Ai cập. Còn có cảnh nghèo nào có thể gây ấn tượng hơn căn nhà Đức Mẹ ở Loretto? Mẹ đã đền bồi cho đức công bằng Thiên Chúa. Thế nên, Mẹ cũng thừa hưởng tất cả những công nghiệp, tất cả những ân sủng của Con Mẹ; Mẹ được tự do tùy ý sử dụng những công trạng và ân sủng đó. Tất cả mọi ân sủng cứu độ, cả tự nhiên lẫn siêu nhiên, sẽ được ban cho chúng ta bởi Đức Maria; Mẹ giàu có bằng chính sự giàu có của Thiên Chúa.

Và nếu đức công bình Thiên Chúa không đối lập với những xu hướng của trái tim từ mẫu Mẹ, thì chính các cửa hoả ngục đã bị đóng lại từ lâu rồi. Ma quỉ bắt buộc phải nhận ra rằng nó không bao giờ nắm chắc được chiến thắng bao lâu người ta được Đức Maria che chở giữ được một điều cần thiết. Mẹ khẩn khoản van xin, và có thể nói là dành giật từ nơi Thiên Chúa những ân sủng xót thương và ơn tha thứ cho những tội nhân cứng lòng nhất.

Sau cùng, nếu hạnh phúc tương xứng với đau khổ, thì không ai là người được hạnh phúc như Đức Maria, bởi vì không bao giờ có ai yêu mến nhiều như Mẹ Maria nên không ai đã có thể chịu đau khổ nhiều như Mẹ. Thánh ý Chúa là Đức Maria phải chịu một cuộc tử đạo liên lỉ. Lời tiên tri của ông Simêon đã phá hoại mọi niềm vui của Mẹ. Từ lúc lời đó được phát ra, Đức Maria đã thay thế cho Chúa Giêsu lúc bấy giờ còn quá bé nhỏ chưa thể chịu đau khổ cách công khai.

Và ở dưới chân thánh giá, Mẹ đứng sát bên Chúa Giêsu để có thể chịu đau khổ nhiều hơn. Bởi vì Chúa Giêsu muốn Mẹ được ở sát cạnh Ngài trên thiên đàng, nên khi còn ở dưới thế Ngài đã kết hợp Mẹ vào những niềm đau đớn nhục nhã của Ngài hơn bất cứ thụ tạo nào khác.

Tóm lại, Thiên Chúa đã đội cho Đức Maria mão triều thiên bằng vinh quang và danh dự như một kiệt tác của tình yêu Ngài. Chỉ có Ngài mới vĩ đại hơn Mẹ: “Solo tonante minor!” nhưng khi sống giữa vinh quang, Mẹ cũng không bao giờ quên Mẹ là Mẹ chúng ta. Mẹ lên thiên đàng trước chúng ta để làm cho chúng ta dễ dàng lên đó và để dẫn dắt chúng ta tới đó. Mẹ sẽ đến giúp chúng ta vào giờ phút tối quan trọng của cuộc đời, giờ phút chúng ta phải từ giã cõi thế – nếu chúng ta chỉ kêu cầu Mẹ cứu giúp.

Rất nhiều phép lạ xảy ra lúc kiệu Mình Thánh Chúa ở Lộ Đức

Những cuộc chữa bệnh rất ly kỳ xảy ra tại Lộ Đức trong năm 1889. Bà Facq, 44 tuổi, quê ở Pont-à-Mousson, và là mẹ của 10 đứa con. Bà bị bất toại đã 5 năm và đã được đem đến hồ nước trong tình trạng lên cơn hấp hối đớn đau. Người chị của bà đã nói: “Có nên tắm cho bà trong tình trạng như thế không? Nhưng nếu Đức Mẹ không chữa bệnh cho bà thì đâu còn hy vọng gì!” Tám bà trợ tá bắt tay vào việc. Họ cởi quần áo bệnh nhân đáng thương và dìm vào trong nước. Bệnh nhân bắt đầu thở hắt ra, đôi môi trở nên xám ngắt. Đó là cơn hấp hối, thế là hết. Người ta bắt đầu đọc kinh dọn mình chết lành. Lúc đó tiếng chuông báo hiệu kiệu Thánh Thể đi ngang qua vang lên. Lập tức người ta đem bệnh nhân đặt bên đường kiệu dưới trận mưa như trút. Các bà trợ tá quì gối chung quanh bệnh nhân và cố gắng nâng đầu bệnh nhân lên. Nhưng vô ích, bệnh nhân lại rũ đầu xuống và nhắm nghiền mắt lại. Vừa lúc ấy, Thánh Thể Chúa đến. Bất thình lình bệnh nhân tự đứng dậy, mở mắt ra và nhìn chăm chú vào Mặt Nhật. Bà ta chỗi dậy, đứng thẳng lên và bước tới gặp bí tích cực thánh. Bà quì xuống dưới chân Thánh Thể. Mặt Nhật được đặt ngay trên phía đầu bà. Rồi lập tức bà chỗi dậy, khuôn mặt rạng rỡ niềm vui, bà đi chân không trên đất bùn, tiến lại đàng sau bệ đài và người ta đã phải rất lo lắng ngăn cản bà khỏi trèo lên đến tận đền thánh, và chỉ ở trước phòng trọ của khách hành hương người ta mới có thể bắt bà dừng lại.

Chúng tôi cũng nhớ lại vụ chữa bệnh của chàng trai trẻ quê ở Montpellier. Chàng đã được đưa đi nhà thương điều trị một thời gian dài mà không kết quả. Chàng bị một cánh tay teo cơ, tê liệt, miếng biểu bì biến sắc bong ra khỏi chỗ vá. Với cánh tay còn lành, chàng đã nâng cánh tay tê liệt lên chạm vào Mặt Nhật. Lập tức chàng cảm thấy một sự đột biến mãnh liệt và nhiệt lực cùng sự sống trong chốc lát đã trở lại trên cánh tay tê liệt. Chàng đã di chuyển những dụng cụ để thấy mình đã hoàn toàn được chữa lành.

Bên cạnh chàng là một em bé 12 tuổi mà chưa biết đi. Bị mắc chứng bệnh lao mưng mủ lở bên hông, nên em phải nằm nghiêng. Khi bí tích cực thánh đi ngang qua, em đã giơ cả hai tay nắm chặt lấy khăn vai của vị linh mục đang cầm Mặt Nhật. Người ta cố gắng vô ích để gỡ tay em ra. Em nói: “Không, tôi sẽ không buông ra tới khi nào tôi được chữa khỏi!” Và sau vài phút giằng co, em đã đứng dậy cách chắc chắn trước sự ngạc nhiên của đám đông đang xô lấn đàng sau em và họ đã công kênh em lên một cách hân hoan.

Tôi đã nói rằng chúng tôi đã tính được có đến 60 phần trăm các cuộc chữa lành xảy ra khi kiệu Thánh Thể đi ngang qua; tỉ lệ này đã tăng lên. Năm nay (1898), người ta thấy trong cuộc hành hương đến từ Arras, tất cả những bệnh nhân đều được chữa trong cuộc rước kiệu. Suốt 10 hoặc 12 năm, điểm hẹn hò tốt nhất, nơi người ta tôn kính Thánh Thể nhất, chính là Lộ Đức.

Những cuộc rước Thánh Thể này mà trước hết được giới hạn ở những cuộc hành hương quốc gia, đã được tất cả những người hành hương thừa nhận. Được mọi người yêu mến và đã tạo nên một phần trong số những nghi lễ tôn giáo trọng đại. Những cuộc rước như thế đã vươn tới và thâm nhập vào những nơi rất xa xôi, theo bước chân các nhà truyền giáo.

Câu chuyện về những vụ được chữa lành có kết quả từ năm 1888, dọc theo đường kiệu, đã làm nên những trang tuyệt bút về những kỳ diệu của phép Thánh Thể. (Dr. Boissairie).

Thực hành: Chúng ta hãy giúp cho những người hấp hối dọn mình rước Thánh Thể. Chúng ta nên báo cho các linh mục biết kịp thời, và sắp xếp việc rước Chúa cho xứng đáng tại nhà những người nghèo.

Thực hành: Ôi Maria, hãy ban Chúa Giêsu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử.

Bài 31: Tận Hiến Cho Đức Mẹ Thánh Thể

 

1. Lạy Mẹ của bí tích cực thánh, vào lúc kết thúc tháng xinh đẹp mà chúng con dâng kính Mẹ đây, sau khi đã suy ngắm về hành vi thờ phượng và phục vụ rất trọn hảo cao cả đáng thán phục của Mẹ tại nhà Tiệc ly, chúng con thấy phải hiến toàn thân cho Mẹ. Để Mẹ có thể chăm sóc và hướng dẫn chúng con trong ơn gọi làm những người tôn thờ.

Do đó, chúng con trao phó cho sự chăm sóc từ mãu Mẹ việc hướng dẫn chúng con trong ơn gọi, và những ân sủng của những bổn phận cao quí mà ơn gọi đó đặt ra cho chúng con. Ơn gọi làm người tôn thờ của chúng con là một ơn gọi xinh đẹp, đẹp hơn mọi ơn gọi, vì nó giữ chúng con vĩnh viễn trong việc phục vụ Ngôi Vị đáng tôn thờ của Chúa Giêsu Kitô trong nhiệm tích thần linh của Ngài. Đó là một đặc ân, vì nó cho chúng con quyền được đi trực tiếp đến Ngôi Vị thánh thiêng của Ngài mà không qua trung gian.

Ơn gọi của chúng con cao quí vì chúng con chia sẻ chức vụ của các thiên thần, và – con dám nói – cả đến chức vụ của chính Đức Thánh Trinh Nữ, trong việc phục vụ Chúa Giêsu Kitô. Vì thế cho nên, đối với một ơn gọi thần thiêng như thế, đòi hỏi phải có một số phẩm tính nào đó, một số nhân đức nào đó, và một lòng đạo đức thông thường tối thiểu. Nhưng than ôi! mỗi người trong chúng con buộc lòng phải nói ra rằng: “Con chẳng có gì hết; trái lại, con có biết bao khuyết điểm, lắm thói xấu; và con đã dung dưỡng cho lòng tự ái. Con chẳng khiêm nhường chút nào, chẳng hiền lành và chẳng có tinh thần hãm mình. Con chẳng biết cầu nguyện ra sao, cũng không biết nguyện ngắm thế nào. Con chẳng có gì cả trừ ra một lề thói đạo đức nhàm chán, một vài ý tưởng tầm thường về nhân đức, nhỏ nhen và bất toàn. Ôi lạy Chúa! Chúa đáng được phục vụ bởi những người cao cả nhất, hoàn hảo nhất và thánh thiện nhất, thế sao Chúa lại chọn con, một thụ tạo nghèo nàn, khiếm khuyết, đầy những nỗi khốn nạn, những tàn tích của tội lỗi, những ghẻ lở chốc lếch của con người cũ vẫn còn sống trong con?

Làm sao con dám đón nhận ân sủng này, là cư ngụ cùng các thiên thần, là được ở cùng nhà với Mẹ Thánh Chúa – ở lại trước nhan thánh Chúa?

Ôi Maria, Nữ Vương thiên đàng của con, và là Mẹ chí thánh của con, con không thể nhận trở nên người tôi tớ diễm phúc của Chúa Giêsu Thánh Thể, nếu Mẹ không vui lòng đào tạo con nên xứng đáng với công việc phục vụ này, mặc cho con những nhân đức và công nghiệp của Mẹ; nếu Mẹ không giữ con cho Con chí ái của Mẹ. Ôi Nữ Vương và là Mẹ của các tôi tớ Chúa Giêsu, Mẹ là Đấng chỉ sống cho Chúa Giêsu, Đấng chỉ yêu chúng con trong Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu.

Thế nên, con tin tưởng vào sự giữ gìn của Mẹ, ôi Mẹ nhân lành. Mẹ chính là ân sủng và là sự phát triển của ơn gọi của con. Con xin hiến dâng mình con cho Mẹ. Mẹ hãy dâng con cho Chúa Giêsu. Ôi Mẹ diễm phúc, được Mẹ huấn luyện và trình lên, Chúa Giêsu vị Thầy nhân lành sẽ sẵn lòng đón nhận con và yêu thương con trong Mẹ.

2. Nếu ơn gọi của con là một ơn gọi cao đẹp, thì các bổn phận của nó hẳn là rất vĩ đại và thánh thiêng. Con phải tiêu hao cuộc đời trong việc thờ kính dưới bệ ngai vàng của tình yêu nhập thể, để mình bị cầm buộc lại ở trước ngai Thánh Thể đó, y như các thiên thần và các thánh đã và sẽ muôn đời buộc mình ở đó, để tán dương lòng quảng đại vô biên của Chúa, chúc tụng lòng thương xót vô bờ bến của Ngài, cảm ơn vì tình yêu Ngài, hiến thân lo cho vinh quang Ngài, sát tế cho các tội nhân, và tiêu hao thân mình cho việc mở mang nước Chúa trên trần gian.

Con phải luôn sống với Chúa Giêsu Bánh Thánh như Đức Thánh Trinh Nữ ở Nazareth và trong nhà Tiệc ly, như các thánh trên cõi vinh quang. Con không bao giờ được lìa xa Ngài, cả khi để phục vụ tha nhân. Sứ mạng của con là sứ mạng của Magdalena, là chiêm niệm, với Nữ Vương các thánh Tông đồ, trong nhà Tiệc ly, cầu nguyện trước Nhà Tạm, cải hoán thế giới bằng lời cầu của Mẹ dưới chân bàn thờ; sứ mạng của Têrêsa, của Catarina thành Sienna, và của những linh hồn thánh thiện đang mang vác trách nhiệm tông đồ liên lỉ bằng việc cầu nguyện và hy sinh hãm mình.

Con phải đặc biệt tôn kính đời sống nội tâm và ẩn khuất của Chúa Giêsu trong bí tích cực thánh. Con phải sống xa tránh người đời, bị thế gian coi khinh, thậm chí bị chính người thân yêu quên lãng – chết cho tất cả để sống kết hợp mật thiết hơn với Chúa Giêsu trong Thiên Chúa.

Nhưng làm thế nào tự mình con có thể hoàn thành những bổn phận quá cao cả này? Làm sao con dám đến gần Chúa Giêsu để phục vụ Ngài? Than ôi! tự con, con thấy xấu hổ khi đến gần Ngài.

Nhưng, lạy Mẹ nhân lành, vì Mẹ đã đoái thương trở nên tôn sư của con, xin Mẹ cho phép con thờ lạy Chúa Giêsu với Mẹ, chúc tụng Ngài với những lời tán dương của Mẹ, van nài Ngài với những lời cầu nguyện của Mẹ, và làm vinh danh Ngài với sự thánh thiện của Mẹ. Rồi thì con sẽ là môn đệ của Mẹ, là con nhỏ của Mẹ, và, con dám nói, làm một Maria khác để phục vụ Chúa Giêsu.

Con sẽ nói với Mẹ cách đơn sơ và không cầu kỳ những lỗi lầm của con. Ôi Mẹ nhân lành! con sẽ tỏ cho Mẹ biết những dốt nát của con, những kiến thức nghèo nàn của con, những thành công ít ỏi của con. Con sẽ dâng lên Mẹ những bông hoa nhân đức tí teo mà con hái lượm được và Mẹ sẽ dâng chúng lên Chúa Giêsu. Chỉ với điều kiện đó con hy vọng trở nên một tôi tớ đích thực của bí tích cực thánh.

Lạy Chúa, xin hãy đoái xem tôi tớ khiêm hèn của Chúa! Xin Chúa hãy thực hiện cho con theo như lòng nhân lành thương xót Chúa và tình yêu hết sức lạ lùng của Chúa!

Lạy Đức Mẹ Thánh Thể, là Mẹ và kiểu mẫu của những người tôn thờ, xin cầu cho chúng con đang chạy đến cùng Mẹ!
Thánh Phêrô Giulianô Eymard
(Người say yêu Thánh Thể – 31 Bài giảng về Đức Mẹ Thánh Thể, Bản dịch Việt ngữ của Đức Phương & Đức Nguyên SSS)

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *