FRATELLI TUTTI” (Tất cả là anh em)[1]. Với những lời này, Thánh Phanxicô Assisi đã ngỏ lời với anh chị em của ngài và đề nghị với họ một lối sống mang đậm hương vị Tin Mừng. Trong số những lời khuyên được Thánh Phanxicô đưa ra, tôi muốn chọn lời khuyên trong đó ngài kêu gọi phải có một tình yêu vượt qua các rào cản địa lý và khoảng cách, và tuyên bố là có phúc tất cả những ai yêu thương anh em mình “khi xa cách họ cũng nhiều như khi ở bên cạnh họ” [2]. Theo cách đơn giản và trực tiếp của ngài, Thánh Phanxicô đã diễn tả bản chất của tính cởi mở huynh đệ, một tính cởi mở giúp chúng ta nhìn nhận, đánh giá cao và yêu thương mỗi người, bất kể sự gần gũi thể lý, bất kể người đó sinh ra hay sống ở đâu.
2. Vị thánh của tình yêu huynh đệ, của sự giản dị và vui tươi này, người đã truyền cảm hứng cho tôi viết Thông điệp Laudato Si’, một lần nữa thúc giục tôi dành Thông điệp mới này cho tình huynh đệ và tình hữu nghị xã hội. Thánh Phanxicô cảm thấy mình là anh em với mặt trời, với biển cả và gió lộng, nhưng ngài biết ngài thậm chí còn gần gũi hơn với những người cùng xương cùng thịt với mình. Bất cứ đi đâu, ngài cũng gieo những hạt giống hòa bình và đi bên cạnh những người nghèo, những người bị bỏ rơi, những người ốm yếu và bị ruồng bỏ, những anh chị em nhỏ bé nhất của ngài.
KHÔNG BIÊN GIỚI
3. Có một tình tiết trong cuộc đời của Thánh Phanxicô cho thấy tính cởi mở trong tấm lòng của ngài, một tấm lòng không có biên giới và vượt quá những khác biệt về nguồn gốc, quốc tịch, màu da hay tôn giáo. Đó là chuyến ngài đến thăm Sultan Malik-el-Kamil, ở Ai Cập, một chuyến viếng thăm ngụ hàm nhiều gian khổ đáng kể, vì cảnh nghèo của Thánh Phanxicô, nguồn tài nguyên hiếm hoi của ngài, khoảng cách xa xôi phải đi và các khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo. Cuộc hành trình này, được thực hiện vào thời điểm diễn ra các cuộc Thập tự chinh, càng cho thấy rõ hơn chiều rộng và sự vĩ đại của tình yêu nơi ngài, luôn tìm cách bao trùm mọi người. Lòng trung thành của Thánh Phanxicô đối với Chúa của ngài đồng cân lượng với tình yêu của ngài dành cho anh chị em của mình. Không quan ngại đối với những gian khổ và nguy hiểm liên hệ, Thánh Phanxicô đến gặp Sultan với cùng một thái độ mà ngài vốn truyền thụ cho các môn đệ của ngài: nếu họ thấy mình “giữa những người Saracens và những người không tin khác”, thì, tuy không từ bỏ căn tính của mình nhưng họ không được “dấn thân vào những cuộc tranh luận hoặc tranh cãi, nhưng phải tùy theo mọi tạo vật nhân bản vì danh Chúa” [3]. Trong bối cảnh thời đại, đây quả là một khuyến cáo phi thường. Chúng ta rất có ấn tượng khi cách nay tám trăm năm, Thánh Phanxicô đã thúc giục phải tránh xa mọi hình thức thù địch hoặc xung đột và phải biểu lộ một “sự tuân phục” đầy khiêm tốn và huynh đệ với những người không cùng một đức tin với ngài.
4. Thánh Phanxicô không gây chiến bằng những lời lẽ nhằm áp đặt các học thuyết; ngài chỉ đơn giản truyền bá tình yêu của Thiên Chúa. Ngài hiểu rằng “Thiên Chúa là tình yêu và những ai ở trong tình yêu thì cũng ở trong Thiên Chúa” (1Ga 4:16). Bằng cách này, ngài đã trở thành một người cha của mọi người và truyền cảm hứng cho viễn kiến về một xã hội huynh đệ. Thật vậy, “chỉ người nào tiếp cận người khác, không vì mục đích lôi kéo họ vào cuộc sống của mình, nhưng để giúp họ trở nên hoàn toàn là chính họ hơn, mới thực sự được gọi là người cha” [4]. Trong thế giới thời đó, với đầy rẫy những tháp canh và tường phòng thủ, các thành phố là nơi diễn ra các cuộc chiến tàn khốc giữa các gia đình quyền thế, ngay khi nghèo đói đang lan tràn khắp vùng nông thôn. Tuy nhiên, lúc đó, Thánh Phanxicô đã có thể chào đón sự bình an đích thực trong lòng mình và tự giải phóng bản thân khỏi khao khát vận dụng quyền lực trên người khác. Ngài trở thành một trong những người nghèo và tìm cách sống hòa hợp với mọi người. Thánh Phanxicô đã truyền cảm hứng cho những trang của thông điệp này.
5. Các vấn đề về tình huynh đệ nhân bản và tình hữu nghị xã hội luôn là mối quan tâm của tôi. Trong những năm gần đây, tôi đã nói về chúng nhiều lần và trong các khung cảnh khác nhau. Trong Thông điệp này, tôi tìm cách tập hợp các tuyên bố đó lại với nhau và định vị chúng trong một bối cảnh suy tư rộng hơn. Trong quá trình chuẩn bị Laudato Si’, tôi đã lấy nguồn cảm hứng từ người anh em của tôi, Bartholomew, Thượng phụ Chính thống giáo, người đã mạnh mẽ lên tiếng về sự cần thiết của chúng ta phải chăm sóc sáng thế. Dịp này đây, tôi cảm thấy được sự khích lệ đặc biệt của Đại Imam Ahmad Al-Tayyeb, người mà tôi đã gặp ở Abu Dhabi, nơi chúng tôi tuyên bố rằng “Thiên Chúa đã tạo dựng mọi hửu thể nhân bản bình đẳng nhau về quyền lợi, nghĩa vụ và phẩm giá, và đã kêu gọi họ sống với nhau như anh chị em một nhà” [5]. Đây không phải là một cử chỉ chỉ có tính ngoại giao đơn thuần, nhưng là một suy tư phát sinh từ đối thoại và cam kết chung. Thông điệp này tiếp thu và khai triển một số chủ đề lớn được nêu ra trong Văn kiện mà cả hai chúng tôi đã ký kết. Tôi cũng đã kết hợp, cùng với những suy nghĩ của riêng mình, một số thư từ, tài liệu và những xem xét mà tôi đã nhận được từ nhiều cá nhân và nhóm trên khắp thế giới.
6. Các trang sau đây không cho là đã đưa ra một giáo huấn hoàn chỉnh về tình yêu thương huynh đệ, nhưng đúng hơn, là xem xét phạm vi phổ quát của nó, sự cởi mở của nó đối với mọi người nam và nữ. Tôi cung hiến Thông điệp xã hội này như một đóng góp khiêm tốn để tiếp tục suy tư, với hy vọng rằng trước những nỗ lực ngày nay nhằm loại bỏ hoặc làm ngơ người khác, chúng ta có thể chứng tỏ mình có khả năng đáp ứng bằng một viễn kiến mới mẻ về tình huynh đệ và tình hữu nghị xã hội không nằm mãi ở bình diện ngôn từ mà thôi. Mặc dù tôi đã viết nó từ các xác tín Kitô giáo, là các xác tín đã truyền cảm hứng và nâng đỡ tôi, nhưng tôi vẫn tìm cách làm cho sự suy tư này trở thành một lời mời đối thoại giữa tất cả những người có thiện chí.
7. Khi tôi đang viết thông điệp này, đại dịch Covid-19 bất ngờ bùng phát, phơi trần các an toàn giả mạo của chúng ta. Bỏ qua các cách khác nhau được các quốc gia khác nhau dùng để đáp ứng cuộc khủng hoảng, việc họ không có khả năng làm việc với nhau đã trở nên khá hiển nhiên. Bất chấp sự kiện các quốc gia vốn nối kết chặt chẽ với nhau, chúng ta chứng kiến một sự phân mảnh khiến việc giải quyết các vấn đề đang ảnh hưởng đến tất cả chúng ta trở nên khó khăn hơn. Bất cứ ai nghĩ rằng bài học duy nhất cần phải học là việc cần phải cải thiện những gì chúng ta đã làm, hoặc tinh chỉnh các hệ thống và quy định hiện có, thì điều này đang phủ nhận thực tại.
8. Tôi mong muốn rằng, trong thời đại hiện nay của chúng ta, nhờ thừa nhận phẩm giá của mỗi con người nhân bản, chúng ta có thể góp phần vào việc tái sinh khát vọng phổ quát về tình huynh đệ. Tình huynh đệ giữa mọi người nam và người nữ. “Ở đây chúng ta có một bí quyết tuyệt vời; nó chỉ cho chúng ta cách ước mơ và biến cuộc sống ta thành một cuộc phiêu lưu kỳ thú. Không ai có thể đối đầu với cuộc sống trong cô lập… Chúng ta cần một cộng đồng hỗ trợ và giúp đỡ chúng ta, trong đó, chúng ta có thể giúp đỡ lẫn nhau để tiếp tục nhìn về phía trước. Ước mơ cùng với nhau quan trọng biết bao… Tự chúng ta, chúng ta có nguy cơ chỉ nhìn thấy các ảo ảnh, những sự vật không có ở đó. Trái lại, những giấc mơ được xây dựng với nhau” [6]. Vậy, chúng ta hãy mơ ước như một gia đình nhân loại đơn nhất, như những người bạn cùng du hành, cùng có chung một xương thịt, như những người con của cùng một trái đất, vốn là ngôi nhà chung của chúng ta, mỗi người chúng ta mang theo sự phong phú trong các niềm tin và xác tín của mình, mỗi chúng ta với tiếng nói riêng của mình, tất cả đều là anh chị em.
CHƯƠNG MỘT: ĐÁM MÂY ĐEN TRÊN MỘT THẾ GIỚI ĐÓNG KÍN
9. Không tự cho sẽ thực hiện một phân tích toàn diện hoặc nghiên cứu mọi khía cạnh của kinh nghiệm ngày nay của chúng ta, tôi chỉ muốn xem xét một số xu hướng trong thế giới của chúng ta đang cản trở sự phát triển của tình huynh đệ phổ quát.
NHỮNG GIẤC MƠ TAN VỠ
10. Trong nhiều thập niên, dường như thế giới đã học được bài học từ nhiều cuộc chiến tranh và thảm họa của nó, và đang dần tiến tới nhiều hình thức hòa nhập khác nhau. Thí dụ, đã có ước mơ về một châu Âu thống nhất, có khả năng thừa nhận nguồn gốc chung của nó và hân hoan trước sự đa dạng phong phú của nó. Chúng ta nghĩ đến “niềm xác tín chắc chắn của những người sáng lập ra Liên hiệp Châu Âu, những người đã hình dung ra một tương lai dựa trên khả năng làm việc với nhau trong việc bắc cầu qua các chia rẽ và trong việc cổ vũ hòa bình và hiệp thông giữa mọi dân tộc của lục địa này” [7]. Cũng đã có mong ước hòa nhập ngày một tăng ở Châu Mỹ Latinh và một số biện pháp đã được thực hiện theo hướng này. Ở một số quốc gia và khu vực, các nỗ lực hòa giải và xích lại gần nhau đã tỏ ra có kết quả, trong khi các nỗ lực khác cho thấy nhiều hứa hẹn.
11. Tuy nhiên, thời của chúng ta dường như đang cho thấy nhiều dấu hiệu của một sự thoái trào nào đó. Các cuộc xung đột xưa mà người ta cho là đã bị chôn vùi từ lâu đang bùng phát trở lại, trong khi các điển hình của chủ nghĩa dân tộc thiển cận, cực đoan, phẫn uất và hiếu chiến đang trên đà gia tăng. Ở một số quốc gia, khái niệm đoàn kết dân tộc và quốc gia bị ảnh hưởng bởi nhiều ý thức hệ khác nhau đang tạo ra những hình thức ích kỷ mới và đánh mất ý thức xã hội dưới chiêu bài bảo vệ lợi ích quốc gia. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở rằng “mỗi thế hệ mới phải tiếp nhận những cuộc chiến đấu và thành tựu của các thế hệ trước, trong khi đặt tầm nhìn của mình lên cao hơn. Đó là đường đi. Lòng tốt, cùng với tình yêu, công lý và liên đới, không phải đạt được một lần là xong mãi mãi; chúng phải được thể hiện mỗi ngày. Không thể an phận với những gì đã đạt được trong quá khứ và tự mãn tận hưởng nó, như thể bằng cách nào đó, chúng ta có thể đã coi thường thực tại này: nhiều anh chị em của chúng ta vẫn còn đang phải chịu đựng những tình huống đòi chúng ta phải chú ý” [8].
12. “Mở ra với thế giới” là một kiểu nói đã được lãnh vực kinh tế và tài chính kết nạp và hiện được sử dụng độc quyền cho việc cởi mở đối với các lợi ích nước ngoài hoặc để các cường quốc kinh tế tự do đầu tư mà không gặp trở ngại hoặc biến chứng nào ở mọi quốc gia. Các xung đột địa phương và việc coi thường lợi ích chung bị nền kinh tế hoàn cầu lợi dụng để áp đặt một mô hình văn hóa đơn nhất. Nền văn hóa này thống nhất thế giới, nhưng chia rẽ các dân tộc và quốc gia, vì “khi xã hội ngày càng trở nên hoàn cầu hóa, nó khiến chúng ta trở thành láng giềng, nhưng không khiến chúng ta trở thành anh em” [9]. Chúng ta cô đơn hơn bao giờ hết trong một thế giới ngày càng đông đảo nhằm cổ vũ lợi ích cá nhân và làm suy yếu chiều kích cộng đồng của sự sống. Thật vậy, có những thị trường trong đó các cá nhân trở thành người tiêu dùng đơn thuần hoặc người bàng quan. Như một quy luật, sự tiến bộ của loại chủ nghĩa hoàn cầu này củng cố căn tính của những khu vực mạnh hơn, những người có thể tự bảo vệ mình, nhưng nó có xu hướng làm giảm căn tính của những khu vực yếu hơn và nghèo hơn, khiến họ dễ bị tổn thương và phụ thuộc hơn. Theo cách này, đời sống chính trị ngày càng trở nên mong manh trước các cường quốc kinh tế xuyên quốc gia hoạt động với nguyên tắc “chia để trị”.
Sự kết liễu của ý thức lịch sử
13. Kết quả là ngày càng mất đi cảm thức về lịch sử, dẫn đến sự chia rẽ thậm chí còn sâu xa hơn. Một loại “chủ nghĩa gỡ bỏ cấu trúc”, theo đó tự do của con người cho là mình có thể tạo ra mọi thứ từ con số không, đang tung hoành trong nền văn hóa ngày nay. Một điều được nó để lại phía sau là động lực tiêu dùng vô hạn và các biểu hiện của chủ nghĩa duy cá nhân trống rỗng. Quan tâm về điều này khiến tôi đưa ra một số lời khuyên cho người trẻ. “Nếu ai đó bảo những người trẻ làm ngơ lịch sử của họ, bác bỏ kinh nghiệm của những bậc cao niên của họ, coi thường quá khứ và hướng tới một tương lai mà chính họ đang nắm giữ, thì lúc đó há không dễ dàng lôi kéo họ theo để họ chỉ làm những gì người này nói với họ sao? Người này cần người trẻ nông nổi, mất gốc và thiếu tin cậy, để chỉ còn biết tin tưởng vào các hứa hẹn của người này và hành động theo kế hoạch của người này mà thôi. Đó là cách các ý thức hệ khác nhau đang vận hành: chúng phá hủy (hoặc tháo gỡ) mọi khác biệt để chúng có thể thống trị mà không bị phản đối. Tuy nhiên, để làm được như vậy, chúng cần những người trẻ tuổi không có ích lợi gì cho lịch sử, những người vứt bỏ kho tàng tinh thần và nhân bản thừa hưởng được từ các thế hệ đi trước, và không biết gì về mọi điều đã diễn ra trước họ” [10].
14. Đây là những hình thức thực dân hóa mới về văn hóa. Chúng ta đừng quên rằng “những dân tộc từ bỏ truyền thống của mình và, một là vì một sự cuồng nhiệt muốn bắt chước người khác hoặc xúi bẩy bạo lực, hai là vì sự lơ là hoặc thờ ơ không thể tha thứ, để người khác cướp đi chính linh hồn của họ, kết cục không những đánh mất bản sắc tinh thần của họ mà còn cả sự nhất quán về đạo đức của họ và, cuối cùng, là sự độc lập về trí tuệ, kinh tế và chính trị của họ ” [11]. Một cách hữu hiệu trong việc làm suy yếu ý thức lịch sử, tư duy phê phán, cuộc đấu tranh cho công lý và các diễn trình hòa nhập là làm trống rỗng ý nghĩa các hạn từ tuyệt vời hoặc thao túng chúng. Ngày nay, những han từ nhất định như dân chủ, tự do, công lý hay thống nhất thực sự có nghĩa gì? Chúng đã bị bẻ cong và định hình để phục vụ như các công cụ thống trị, như những cụm từ vô nghĩa có thể được sử dụng để biện minh cho bất cứ hành động nào.
THIẾU KẾ HOẠCH CHO MỌI NGƯỜI
15. Cách tốt nhất để thống trị và giành quyền kiểm soát người ta là gieo rắc sự tuyệt vọng và chán nản, ngay cả dưới chiêu bài bảo vệ những giá trị nào đó. Ngày nay, ở nhiều quốc gia, chủ nghĩa cường điệu, cực đoan và phân cực đã trở thành công cụ chính trị. Sử dụng chiến lược chế giễu, nghi ngờ và không ngừng chỉ trích, theo nhiều cách khác nhau, người ta phủ nhận quyền hiện hữu hoặc có ý kiến của người khác. Sự chia sẻ của họ về sự thật và các giá trị bị bác bỏ và kết quả là đời sống của xã hội bị làm nghèo đi và chịu sự giễu cợt của kẻ quyền thế. Đời sống chính trị không còn liên quan chi đến các cuộc tranh luận lành mạnh về các kế hoạch dài hạn nhằm cải thiện cuộc sống của người ta và thúc đẩy lợi ích chung, mà chỉ liên quan tới các kỹ thuật tiếp thị khéo léo chủ yếu nhằm làm mất uy tín của người khác. Trong việc trao đổi điên cuồng các cáo buộc và phản tố, cuộc tranh luận biến thành trạng thái bất đồng và đối đầu thường trực.
16. Giữa cuộc xung đột lợi ích mâu thuẫn này, trong đó chiến thắng bao gồm việc loại trừ đối thủ của mình, làm thế nào chúng ta có thể nâng tầm nhìn để nhận ra những người hàng xóm của chúng ta hoặc để giúp đỡ những người đã vấp ngã dọc đường? Một kế hoạch đặt ra những mục tiêu to lớn cho sự phát triển của cả gia đình nhân loại chúng ta ngày nay nghe có vẻ điên rồ. Chúng ta đang ngày càng xa nhau hơn, trong khi cuộc hành trình từ từ và nhiều đòi hỏi hướng tới một thế giới ngày càng thống nhất và công bằng hơn đang phải chịu một bước lùi mới và đầy bi đát.
17. Quan tâm đến thế giới chúng ta đang sống có nghĩa là quan tâm đến chính chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta ngày càng cần nghĩ về bản thân mình như một gia đình đơn nhất sống trong một ngôi nhà chung. Sự quan tâm như vậy không gây hứng thú gì cho những cường quốc kinh tế đang đòi hỏi lợi nhuận nhanh chóng. Thông thường, những tiếng nói cất lên để bênh vực môi trường sẽ bị làm cho câm lặng hoặc bị chế giễu, sử dụng những lập luận bề ngoài hợp lý chỉ đơn thuần làm bình phong cho những tư lợi đặc biệt. Trong nền văn hóa nông cạn, thiển cận mà chúng ta đã tạo ra, thiếu hẳn viễn kiến chung này, “điều có thể thấy trước là, một khi một số nguồn lực nhất định đã cạn kiệt, khung cảnh sẽ được xếp sắp cho những cuộc chiến mới, mặc dù dưới chiêu bài các yêu sách cao thượng” [12].
Một thế giới “vứt bỏ”
18. Dường như một số thành phần trong gia đình nhân loại của chúng ta có thể sẵn sàng bị hy sinh cho lợi ích của những người khác được coi là đáng được hưởng một cuộc sống vô tư. Cuối cùng, “con người không còn được coi là có giá trị tối quan trọng cần được chăm sóc và tôn trọng nữa, đặc biệt là khi họ nghèo và tàn tật, ‘chưa có ích’- như người chưa sinh, hoặc ‘không còn cần thiết nữa’- như người già. Chúng ta đã trở nên thờ ơ với mọi loại lãng phí, bắt đầu với việc lãng phí thức ăn, một điều hết sức đáng trách ” [13].
19. Sự suy giảm sinh suất, một sự suy giảm đang dẫn đến việc lão hóa dân số, cùng với việc bỏ xó người già phải sống một cuộc sống buồn bã và cô đơn, là một cách tinh tế để nói rằng tất cả là vì chúng ta, rằng mối quan tâm của cá nhân chúng ta là điều duy nhất quan trọng. Theo cách này, “những gì bị vứt bỏ không phải chỉ là thức ăn và đồ vật có thể vứt bỏ, mà đôi khi là chính con người” [14]. Chúng ta đã thấy những gì đã xảy ra cho người già ở một số nơi trong thế giới của chúng ta do kết quả của coronavirus. Họ không phải chết theo cách đó. Tuy nhiên, một điều tương tự đã xảy ra từ lâu trong các đợt nóng bức và trong các tình huống khác: những người lớn tuổi thấy mình bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Chúng ta không nhận ra điều này, bằng cách cô lập người cao niên và để họ cho người khác chăm sóc mà không có sự gần gũi và quan tâm của các thành viên gia đình, chúng ta đã làm biến dạng và nghèo nàn chính gia đình. Kết cục, chúng ta cũng sẽ tước đoạt của người trẻ sự nối kết cần thiết với cội nguồn của họ và một sự khôn ngoan mà người trẻ không thể tự mình đạt được.
20. Cách loại bỏ người khác này có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, chẳng hạn như nỗi ám ảnh về việc giảm chi phí lao động mà không quan tâm chi đến hậu quả nghiêm trọng của nó, vì nạn thất nghiệp mà nó trực tiếp tạo ra dẫn đến sự gia tăng nghèo đói [15]. Ngoài ra, sự sẵn sàng loại bỏ người khác tìm được biểu thức trong những thái độ xấu xa mà chúng ta tưởng là đã khuất dạng từ lâu, chẳng hạn như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nhưng thực ra chúng chỉ rút xuống hầm trú để tiếp tục tái xuất hiện. Các điển hình phân biệt chủng tộc tiếp tục khiến chúng ta xấu hổ, vì chúng cho thấy những điều được coi như tiến bộ xã hội của chúng ta không có thực chất hoặc dứt khoát như chúng ta nghĩ.
21. Một số quy định kinh tế đã tỏ ra hữu hiệu đối với việc tăng trưởng, nhưng không hữu hiệu đối với việc phát triển toàn diện con người [16]. Sự giàu có gia tăng, nhưng cùng với nó là sự bất bình đẳng, với kết quả là “các hình thức nghèo đói mới đang xuất hiện” [17]. Chủ trương cho rằng thế giới hiện đại đã giảm được nghèo đói được đưa ra với cách đo lường sự nghèo đói bằng các tiêu chuẩn của quá khứ không còn tương ứng với các thực tại ngày nay. Thí dụ, vào những thời điểm khác, việc thiếu khả năng tiếp cận năng lượng điện không bị coi là dấu hiệu nghèo đói, cũng không phải là nguồn gây khổ cực. Nghèo đói phải luôn được hiểu và đánh giá trong bối cảnh các cơ hội hiện có sẵn trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Các nhân quyền không đủ phổ quát
22. Trên thực tế, điều đôi khi trở nên rõ ràng là các nhân quyền không bình đẳng cho mọi người. Tôn trọng những quyền này “là điều kiện sơ bộ để một quốc gia phát triển xã hội và kinh tế. Khi phẩm giá một con người nhân bản được tôn trọng, và các quyền lợi của họ được công nhận và bảo đảm, thì tính sáng tạo và sự liên lập sẽ phát triển mạnh, và tính sáng tạo của nhân cách con người được giải thoát qua các hành động hướng tới ích chung” [18]. Tuy nhiên, “khi quan sát kỹ các xã hội đương thời, chúng ta thấy vô số mâu thuẫn khiến chúng ta tự hỏi liệu phẩm giá bình đẳng của mọi hữu thể nhân bản, vốn được công bố long trọng cách đây bảy mươi năm, có thực sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và cổ vũ trong mọi tình huống hay không. Trong thế giới ngày nay, nhiều hình thức bất công vẫn tồn tại, được nuôi dưỡng bởi những viễn kiến nhân học có tính giản lược và mô hình kinh tế dựa trên lợi nhuận không ngần ngại bóc lột, vứt bỏ và thậm chí giết chết con người. Trong khi một bộ phận nhân loại sống trong sự giầu sang, thì một bộ phận khác lại thấy phẩm giá của mình bị bác bỏ, bị khinh miệt hoặc bị chà đạp, và các quyền căn bản của họ bị loại bỏ hoặc vi phạm ” [19]. Điều này cho chúng ta biết điều gì về quyền bình đẳng dựa trên phẩm giá bẩm sinh của con người?
23. Tương tự như vậy, việc tổ chức các xã hội trên toàn thế giới vẫn còn lâu mới phản ảnh rõ ràng điều này: phụ nữ có phẩm giá và các quyền giống hệt nam giới. Chúng ta nói một điều bằng lời nói, nhưng các quyết định và thực tại của chúng ta lại nói lên một câu chuyện khác. Thật vậy, “nghèo nàn gấp đôi là khi phụ nữ phải chịu đựng những hoàn cảnh bị loại trừ, bị ngược đãi và bạo lực, vì họ thường ít có khả năng bảo vệ các quyền lợi của mình” [20].
24. Chúng ta cũng nên công nhận rằng “mặc dù cộng đồng quốc tế đã tiếp nhận nhiều thỏa thuận nhằm kết liễu chế độ nô lệ dưới mọi hình thức và đã phát động nhiều chiến lược khác nhau để chống lại hiện tượng này, nhưng hàng triệu người ngày nay – trẻ em, phụ nữ và nam giới ở mọi lứa tuổi – bị tước đoạt tự do và bị buộc phải sống trong những điều kiện giống như chế độ nô lệ… Ngày nay, cũng như trong quá khứ, chế độ nô lệ bắt nguồn từ quan niệm về con người cho phép họ bị coi như một đồ vật… Bất kể do ép buộc, hay lừa dối, hoặc bằng sự cưỡng ép về thể lý hoặc tâm lý, các con người nhân bản, vốn được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa, đang bị tước đoạt tự do, bị bán và biến thành tài sản của người khác. Họ bị coi như các phương tiện cho một mục đích… [Các mạng lưới tội ác] có kỹ năng sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại như một cách để rù quyến nam nữ thanh niên ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới ” [21]. Một sự đồi bại vượt quá mọi giới hạn khi nó khuất phục phụ nữ và sau đó ép họ phá thai. Một sự ghê tởm quá sức đến độ bắt cóc người ta chỉ để bán nội tạng của họ. Việc buôn bán người và các hình thức nô dịch đương thời khác là một vấn đề hoàn cầu cần được toàn thể nhân loại xem xét một cách nghiêm túc: “vì các tổ chức tội ác sử dụng các mạng lưới hoàn cầu để đạt được mục tiêu của họ, nên những nỗ lực nhằm loại bỏ hiện tượng này cũng đòi một nỗ lực chung và thực sự có tính hoàn cầu từ các thành phần khác nhau của xã hội” [22].
Xung đột và sợ hãi
25. Chiến tranh, các cuộc tấn công khủng bố, bách hại chủng tộc hoặc tôn giáo, và nhiều lăng mạ khác liên quan đến phẩm giá con người được phán kết khác nhau, tùy thuộc vào mức độ thuận tiện của nó đối với các lợi ích nào đó, chủ yếu là kinh tế. Điều đúng miễn là nó thuận tiện cho người nắm quyền sẽ không còn đúng nữa một khi nó trở nên bất tiện. Điều buồn phải nói là những tình huống bạo lực này, “đã trở nên phổ biến đến mức tạo thành một ‘cuộc thế chiến thứ ba’ được đánh từng mảng” [23].
26. Điều trên không có gì đáng ngạc nhiên, nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta không còn những chân trời chung hợp nhất chúng ta nữa; thật vậy, nạn nhân đầu tiên của mọi cuộc chiến tranh là “ơn gọi bẩm sinh của gia đình nhân loại bước vào tình huynh đệ”. Kết quả là, “mọi tình huống đầy đe dọa đang nuôi dưỡng sự ngờ vực và dẫn người ta tới việc tự rút lui vào vùng an toàn của mình” [24]. Thế giới của chúng ta bị mắc kẹt trong một mâu thuẫn kỳ lạ: chúng ta tin rằng chúng ta có thể “bảo đảm sự ổn định và hòa bình qua cảm thức an toàn giả tạo được nâng đỡ bởi não trạng sợ hãi và ngờ vực” [25].
27. Nghịch lý thay, một số nỗi sợ hãi do tổ tiên để lại đã không vượt qua được bằng việc phát triển kỹ thuật; trái lại, chúng đã có thể ẩn nấp và củng cố phía sau các kỹ thuật mới. Ngày nay cũng thế, bên kia những bức tường thành cổ xưa là vực thẳm, lãnh thổ của những điều chưa biết, hoang địa. Bất cứ điều gì phát xuất từ đó đều không thể tin cậy, vì nó không được ai biết đến, không quen thuộc, không là một phần của thôn làng. Đó là lãnh thổ của “man rợ”, mà chúng ta phải tự vệ chống lại bằng mọi giá. Kết quả là, những bức tường mới được dựng lên để tự bảo toàn, thế giới bên ngoài ngưng hiện hữu và chỉ để lại thế giới “của tôi”, đến mức những người khác, không còn được coi là những hữu thể nhân bản có phẩm giá bất khả chuyển nhượng nữa, đã trở thành “bọn chúng” nguyên tuyền. Một lần nữa, chúng ta gặp phải “cơn cám dỗ muốn xây dựng một nền văn hóa của những bức tường, dựng lên những bức tường, những bức tường trong trái tim, những bức tường trong lãnh thổ, để ngăn cản cuộc gặp gỡ với các nền văn hóa khác, với những người khác. Và những người dựng các bức tường kết cục sẽ trở thành nô lệ trong chính các bức tường họ đã xây dựng. Họ bị bỏ rơi không còn chân trời nào, vì họ thiếu sự trao đổi qua lại kiểu này với những người khác” [26].
28. Sự cô đơn, sợ hãi và bất an của những người cảm thấy bị hệ thống bỏ rơi tạo ra một mảnh đất màu mỡ cho nhiều loại “mafias” khác nhau. Những loại mafias này phát triển mạnh mẽ bởi vì chúng tự cho mình là người bảo vệ những người bị lãng quên, thường bằng cách cung cấp cho họ một số hình thức trợ giúp khác nhau dù chúng theo đuổi các lợi ích tội ác của chúng. Cũng hiện hữu một phương pháp sư phạm có tính “mafia” một cách điển hình, bằng cách kêu gọi một nền huyền bí cộng đồng giả tạo, tạo ra những ràng buộc phụ thuộc và dạ trung thành rất khó mà thoát ra được.
HOÀN CẦU HÓA VÀ TIẾN BỘ MÀ KHÔNG CÓ BẢN ĐỒ CHỈ ĐƯỜNG CHUNG
29. Với Đại Imam Ahmad Al-Tayyeb, chúng ta không làm ngơ các tiến bộ tích cực đạt được trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, y học, kỹ nghệ và phúc lợi, nhất là ở các nước phát triển. Tuy nhiên, “chúng ta muốn nhấn mạnh rằng, cùng với các tiến bộ lịch sử này, các tiến bộ rất vĩ đại và có giá trị, đang có một sự suy thoái đạo đức ảnh hưởng đến hành động quốc tế và đang làm suy yếu các giá trị và trách nhiệm tinh thần. Điều này góp phần vào cảm giác thất vọng, cô lập và tuyệt vọng nói chung”. Chúng ta thấy “căng thẳng bùng phát và tích lũy vũ khí và đạn dược trong bối cảnh hoàn cầu bị chi phối bởi sự bất trắc, vỡ mộng, lo sợ cho tương lai, và bị kiểm soát bởi các lợi ích kinh tế hạn hẹp”. Chúng ta cũng có thể chỉ ra “những cuộc khủng hoảng chính trị lớn, những tình huống bất công và thiếu sự phân phối công bằng các nguồn tài nguyên thiên nhiên… Đứng trước những cuộc khủng hoảng như vậy, những cuộc khủng hoảng dẫn đến cái chết của hàng triệu trẻ em – hốc hác vì đói và nghèo – hiện có sự im lặng không thể nào chấp nhận được trên bình diện quốc tế ” [27]. Bức tranh toàn cảnh này, dù với những tiến bộ không thể phủ nhận của nó, dường như không dẫn đến một tương lai nhân đạo nào hơn.
30. Trong thế giới ngày nay, cảm thức thuộc về một gia đình nhân loại đơn nhất đang mờ dần, và ước mơ làm việc với nhau vì công lý và hòa bình dường như là một điều không tưởng lỗi thời. Thay vào đó, điều đang thống trị là sự thờ ơ lạnh lùng, thoải mái và có tính hoàn cầu, phát sinh từ sự vỡ mộng sâu xa được che giấu phía sau một ảo tưởng lừa dối: nghĩ rằng chúng ta là toàn năng, trong khi không nhận ra rằng tất cả chúng ta đều ở trên cùng một con thuyền. Ảo tưởng này, không quan tâm đến những giá trị huynh đệ cao cả, dẫn đến “một kiểu hoài nghi. Vì đó là cơn cám dỗ chúng ta phải đối đầu nếu chúng ta đi vào con đường chán nản và thất vọng… Cô lập và tự thu mình vào lợi ích của chính mình không bao giờ là cách để khôi phục hy vọng và mang lại sự đổi mới. Đúng hơn, phải là sự gần gũi; phải là nền văn hóa của sự gặp gỡ. Cô lập, không; sự gần gũi, đúng. Xung đột văn hóa, không; văn hóa gặp gỡ, đúng” [28].
31. Trong thế giới chạy đua phía trước nhưng lại thiếu bản đồ chỉ đường chung này, chúng ta ngày càng cảm thấy rằng “hố phân cách giữa sự quan tâm đối với phúc lợi bản thân của người ta và sự thịnh vượng của gia đình nhân loại lớn hơn dường như đang trải dài đến mức gây chia rẽ hoàn toàn giữa các cá nhân và cộng đồng con người… Cảm thấy buộc phải sống chung là một điều, nhưng biết trân quí sự phong phú và vẻ đẹp của các hạt giống sống chung đang cần được tìm kiếm và vun đắp lại là một điều hoàn toàn khác hẳn” [29]. Kỹ thuật không ngừng phát triển, tuy nhiên “sẽ tuyệt vời biết bao nếu sự phát triển của việc canh tân khoa học và kỹ thuật có thể xuất hiện cùng với việc có nhiều bình đẳng và hòa nhập xã hội hơn. Thật tuyệt vời biết bao, khi, cùng với việc khám phá ra những hành tinh xa xôi, chúng ta tái khám phá nhu cầu của những người anh chị em đang bao quanh chúng ta” [30].
CÁC ĐẠI DỊCH VÀ CÁC TAI HỌA KHÁC TRONG LỊCH SỬ
32. Quả thực, một thảm kịch toàn thế giới như đại dịch Covid-19 trong giây lát đã làm sống lại cảm thức chúng ta là một cộng đồng hoàn cầu, tất cả cùng chung một con thuyền, trong đó các vấn đề của một người là vấn đề của mọi người. Một lần nữa chúng ta hiểu ra rằng không ai một mình được cứu vớt; chúng ta chỉ có thể được cứu vớt cùng với nhau. Như tôi đã nói trong những ngày đó, “cơn bão đã bóc trần tính dễ bị tổn thương của chúng ta và để lộ ra những điều chắc chắn giả tạo và phù phiếm mà xung quanh chúng, chúng ta đang xây dựng lịch trình sinh hoạt hàng ngày, các dự án, các thói quen và ưu tiên của chúng ta… Giữa cơn bão táp này, mặt tiền của những khuôn mẫu mà chúng ta đã dùng để ngụy trang cho cái tôi của chúng ta, luôn lo lắng về vẻ bề ngoài, đã rớt xuống, để lộ một lần nữa ý thức không thể tránh được và đáng chúc phúc này: chúng ta là thành phần của nhau, chúng ta là anh chị em của nhau” [31].
33. Thế giới đang không ngừng tiến tới một nền kinh tế, nhờ tiến bộ kỹ thuật, tìm cách giảm “phí tổn nhân bản”; có những người làm chúng ta tin rằng tính tự do của thị trường đủ để giữ cho mọi sự được an toàn. Tuy nhiên, đòn tàn bạo và không lường trước được của cơn đại dịch không thể kiểm soát này đã buộc chúng ta hồi phục mối quan tâm của chúng ta đối với các hữu thể nhân bản, đối với mọi người, thay vì lợi ích của một số ít người. Ngày nay chúng ta có thể nhận ra rằng “chúng ta tự nuôi mình bằng những giấc mơ lộng lẫy và cao cả, và kết cục là việc mất tập trung, hẹp hòi đóng kín và cô độc đầy ám ảnh. Chúng ta ngấu nghiến liên mạng và đánh mất hương vị của tình huynh đệ. Chúng ta tìm kiếm các kết quả nhanh chóng và an toàn, chỉ để thấy mình bị áp đảo bởi sự thiếu kiên nhẫn và lo lắng. Trở thành tù nhân cho thực tại ảo, chúng ta đã đánh mất mùi và vị của điều thực sự có thực” [32]. Nỗi đau, sự không chắc chắn và nỗi sợ hãi, và việc nhận ra các giới hạn của bản thân, do đại dịch đem tới, chỉ khiến việc chúng ta phải suy nghĩ lại phong cách sống, các mối liên hệ của mình, cách tổ chức các xã hội và trên hết, ý nghĩa của việc chúng ta hiện hữu, càng trở nên cấp bách hơn.
34. Nếu mọi thứ được nối kết với nhau, thì thật khó mà tưởng tượng rằng thảm họa hoàn cầu này không liên quan gì đến cách tiếp cận thực tại của chúng ta, việc chúng ta cho rằng mình là người làm chủ tuyệt đối cuộc đời của chính mình và của tất cả những gì đang hiện hữu. Tôi không muốn nói đến việc thần thánh báo oán, cũng như không đủ lý lẽ để nói rằng tác hại chúng ta gây ra cho thiên nhiên chính là hình phạt cho các vi phạm của chúng ta. Thế giới đang kêu la nổi loạn. Chúng ta được nhắc nhớ câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Virgil vốn gợi lên “những giọt nước mắt của sự vật”, những bất hạnh của cuộc đời và của lịch sử [33].
35. Tuy nhiên, chúng ta quên mất những bài học của lịch sử, vốn là “người thầy của cuộc đời”, một cách quá nhanh chóng [34]. Một khi cuộc khủng hoảng sức khỏe này qua đi, phản ứng tồi tệ nhất của chúng ta sẽ là lao đầu sâu hơn nữa vào chủ nghĩa tiêu dùng điên loạn và các hình thức bảo toàn bản thân vị kỷ mới. Nhờ ơn Chúa, sau tất cả những điều này, chúng ta sẽ không còn nghĩ theo chiều “bọn chúng” và “những người ấy”, mà chỉ theo chiều “chúng ta”. Ước chi điều này có thể chứng minh không những một bi kịch khác của lịch sử mà từ đó chúng ta không học được gì. Ước chi chúng ta luôn ghi nhớ tất cả những người cao niên đã chết vì thiếu mặt nạ phòng độc, một phần là do việc phá bỏ, năm này qua năm khác, các hệ thống chăm sóc sức khỏe. Ước chi nỗi buồn mênh mông này có thể không trở nên vô ích, nhưng giúp chúng ta tiến thêm một bước nữa hướng tới một phong cách sống mới. Ước chi chúng ta có thể dứt khoát khám phá lại việc chúng ta cần đến nhau, và bằng cách này, gia đình nhân loại của chúng ta có thể trải qua một sự tái sinh, với mọi khuôn mặt, mọi bàn tay và mọi giọng nói của nó, vượt trên các bức tường mà chúng ta đã dựng lên.
36. Trừ khi chúng ta khôi phục được niềm đam mê chung trong việc tạo ra một cộng đồng thống thuộc và liên đới xứng đáng với thời đại, với năng lực và các nguồn lực của chúng ta, ảo tưởng hoàn cầu từng lừa dối chúng ta sẽ sụp đổ và để nhiều người ở lại trong sức kìm kẹp của xao xuyến lo lắng và trống rỗng. Chúng ta cũng không nên ngây thơ bác bỏ việc thừa nhận rằng “nỗi ám ảnh về lối sống duy tiêu thụ, nhất là khi ít người có khả năng duy trì nó, chỉ có thể dẫn đến bạo lực và hủy diệt lẫn nhau” [35]. Khái niệm “mỗi người vì chính mình” sẽ nhanh chóng biến chất thành một thứ tự do muốn làm gì thì làm, một điều còn tồi tệ hơn bất cứ đại dịch nào.
THIẾU NHÂN PHẨM TẠI CÁC BIÊN GIỚI
37. Một số chế độ chính trị theo chủ nghĩa dân túy, cũng như một số phương thức kinh tế tự do, chủ trương rằng phải ngăn chặn dòng người di cư bằng mọi giá. Các lập luận cũng được đưa ra bênh vực tính đứng đắn của việc hạn chế viện trợ cho các nước nghèo, để họ khánh kiệt và thấy mình buộc phải thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng. Người ta không nhận ra rằng đằng sau những tuyên bố như vậy, trừu tượng và khó hỗ trợ, rất nhiều mạng sống đang bị đe dọa. Nhiều di dân đã chạy trốn chiến tranh, bách hại và thảm họa thiên nhiên. Những người khác, rất đúng, “đang tìm kiếm cơ hội cho bản thân và gia đình họ. Họ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn và họ muốn tạo điều kiện để đạt được điều đó ” [36].
38. Đáng buồn thay, một số người trên “bị thu hút bởi văn hóa phương Tây, đôi khi với những kỳ vọng không thực tế khiến họ thất vọng nặng nề. Những kẻ buôn người vô lương tâm, thường có liên hệ với các băng đảng ma túy hoặc vũ khí, đang khai thác điểm yếu của di dân, những người thường xuyên phải trải qua bạo lực, buôn người, lạm dụng tâm lý và thể lý và những đau khổ không kể xiết trên hành trình của họ” [37]. Những người lên đường di cư đều “kinh qua sự xa cách với nơi xuất xứ của họ, và thường mất cả gốc rễ văn hóa và tôn giáo. Sự phân mảnh cũng được cảm nhận bởi các cộng đồng họ để lại, nơi mất đi các phần tử mạnh mẽ và dám nghĩ dám làm nhất của họ, và bởi các gia đình, nhất là khi một hoặc cả hai cha mẹ phải di cư, để lại con cái ở quê hương” [38]. Vì lý do này, “cũng cần phải khẳng định lại quyền không di cư, nghĩa là, quyền ở lại quê hương của người ta” [39].
39. Cũng thế, “ở một số quốc gia chủ nhà, di dân gây ra nỗi sợ hãi và báo động, thường được thúc đẩy và khai thác cho các mục đích chính trị. Điều này có thể dẫn đến não trạng bài ngoại, khi người ta tự khép mình vào chính mình, và điều này cần được giải quyết một cách dứt khoát” [40]. Các di dân không được coi là có quyền, như những người khác, được tham gia vào đời sống của xã hội, và người ta quên rằng họ có phẩm giá nội tại như bất cứ người nào khác. Do đó, họ phải là “các tác nhân trong việc tự cứu chính họ” [41]. Không ai có thể công khai phủ nhận rằng họ là những hữu thể nhân bản, nhưng trên thực tế, bằng quyết định của chúng ta và cách chúng ta đối xử với họ, chúng ta có thể chứng tỏ rằng chúng ta xem họ ít xứng đáng hơn, kém quan trọng hơn, kém nhân bản hơn. Đối với các Kitô hữu, lối suy nghĩ và hành động này là điều không thể chấp nhận được, vì nó đặt một số sở thích chính trị nhất định lên trên các niềm xác tín sâu xa về đức tin của chúng ta: phẩm giá bất khả chuyển nhượng của mỗi con người bất kể nguồn gốc, chủng tộc hay tôn giáo, và luật tối cao của tình yêu thương huynh đệ.
40. “Những cuộc di dân, hơn bao giờ hết, sẽ đóng một vai trò chủ chốt trong tương lai của thế giới chúng ta” [42]. Tuy nhiên, hiện nay, việc di dân bị ảnh hưởng bởi “việc mất cảm thức trách nhiệm đối với các anh chị em của chúng ta mà mọi xã hội dân sự vốn dựa vào” [43]. Châu Âu, chẳng hạn, đang có nguy cơ nghiêm trọng đi theo con đường này. Tuy nhiên, “được hỗ trợ bởi di sản văn hóa và tôn giáo vĩ đại của nó, nó có các phương thế để bảo vệ tính trung tâm của con người và tìm được sự cân bằng đúng đắn giữa trách nhiệm đạo đức kép của mình là bảo vệ quyền của công dân và bảo đảm việc hỗ trợ và chấp nhận di dân” [44].
41. Tôi nhận ra rằng một số người còn do dự và sợ hãi đối với di dân. Tôi coi điều này như một phần trong bản năng tự vệ tự nhiên của chúng ta. Tuy nhiên, điều cũng đúng là một cá nhân và một dân tộc chỉ sinh hoa kết trái và có hiệu năng nếu họ có khả năng khai triển tính cởi mở sáng tạo với người khác. Tôi yêu cầu mọi người vượt ra khỏi những phản ứng ban sơ đó vì “có vấn đề khi những nghi ngờ và sợ hãi điều khiển cách suy nghĩ và hành động của chúng ta đến mức khiến chúng ta trở nên bất khoan dung, khép kín và thậm chí phân biệt chủng tộc mà mình không biết. Theo cách này, nỗi sợ hãi lấy mất nơi chúng ta ước nguyện và khả năng gặp gỡ người khác” [45].
ẢO TƯỞNG TRUYỀN THÔNG
42. Thật kỳ lạ, trong khi thái độ khép kín và bất khoan dung đối với người khác đang gia tăng, thì các khoảng cách, đàng khác, lại đang thu hẹp hoặc biến mất đến mức quyền riêng tư ít còn hiện hữu. Mọi sự đã trở thành một loại cảnh tượng cần được khảo sát và thanh tra và cuộc sống của người ta hiện đang bị thám thính không ngừng. Truyền thông kỹ thuật số muốn đưa mọi sự ra thanh thiên bạch nhật; cuộc sống của người ta bị bới móc, lột trần và bàn tán, thường là nặc danh. Sự tôn trọng đối với người khác đang tan rã, và ngay cả khi chúng ta gạt bỏ, phớt lờ hoặc giữ khoảng cách với người khác, chúng ta vẫn có thể trân tráo soi mói từng chi tiết cuộc sống của họ.
42. Về phần mình, các chiến dịch kỹ thuật số nhằm thù hận và hủy diệt không phải – như một số người vẫn nghĩ – là một hình thức tích cực để hỗ trợ lẫn nhau, nhưng đơn giản chỉ là việc liên hiệp các cá nhân, hợp nhất nhau để chống lại những người bị tri nhận là kẻ thù chung. “Các phương tiện truyền thông kỹ thuật số cũng có thể khiến người ta gặp nguy cơ nghiện ngập, cô lập và dần dần mất liên lạc với thực tại cụ thể, ngăn cản sự phát triển các mối liên hệ liên ngã chân chính” [46]. Chúng thiếu các cử chỉ thể lý, nét mặt, khoảnh khắc im lặng, ngôn ngữ thân xác và thậm chí cả những điều như mùi vị, run run bàn tay, đỏ mặt và đổ mồ hôi vẫn ngỏ lời với chúng ta và là một phần của việc truyền thông nhân bản. Các mối liên hệ kỹ thuật số, vì không đòi việc vun xới chầm chậm và từ từ các tình hữu nghị, việc tương tác bền vững hoặc xây dựng một sự đồng thuận trưởng thành theo thời gian, nên bề ngoài có dáng thích thân thiện. Tuy nhiên, chúng không thực sự xây dựng cộng đồng; thay vào đó, chúng có xu hướng ngụy tạo và mở rộng chính chủ nghĩa duy cá nhân vốn tìm được biểu thức trong thái độ bài ngoại và khinh thường những người dễ bị tổn thương. Tính nối kết kỹ thuật số không đủ để xây dựng những cây cầu. Nó không có khả năng hợp nhất nhân loại.
Hung hăng vô liêm sỉ
44. Ngay cả khi các cá nhân duy trì sự cô lập duy tiêu thụ được cho là thoải mái, họ vẫn có thể chọn một hình thức liên kết thường xuyên và cuồng nhiệt nhằm khuyến khích sự thù nghịch cực độ, các lăng mạ, lạm dụng, phỉ báng và bạo lực ngôn từ đến mức tiêu diệt hình ảnh người khác, trong một diễn biến không thể có trong tiếp xúc thể lý mà kết cục lại không tiêu diệt chính mình hết thẩy. Tính hung hăng xã hội đã tìm được chỗ đứng vô song để phát triển quá các máy tính và thiết bị di động.
45. Điều này hiện đang cho phép các ý thức hệ được hoàn toàn tự do hành động. Những điều mà cho đến vài năm trước đây không ai có thể nói ra nếu không liều mình đánh mất lòng tôn trọng phổ quát thì giờ đây có thể nói mà không sợ bị trừng phạt và nói một cách thô lỗ nhất, ngay cả bởi một số nhân vật chính trị. Chúng ta cũng không nên quên rằng “có những lợi ích kinh tế khổng lồ hoạt động trong thế giới kỹ thuật số, có khả năng thực hiện các hình thức kiểm soát vừa tinh vi vừa xâm lấn, tạo ra các cơ chế để thao túng lương tâm và diễn trình dân chủ. Cách thức hoạt động của nhiều nguyên lý làm cơ sở cho các hệ điều hành (platform) thường kết cục tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ giữa những người có suy nghĩ giống nhau, bảo vệ họ khỏi cuộc tranh luận. Các mạch khép kín này tạo điều kiện cho việc loan truyền tin tức giả và thông tin sai lệch, xúi giục thành kiến và thù ghét” [47].
46. Chúng ta cũng nên nhìn nhận rằng các hình thức cuồng tín có tính phá hoại đôi khi được tìm thấy trong các tín đồ tôn giáo, kể cả các Kitô hữu; họ cũng “có thể bị cuốn vào các mạng lưới bạo lực bằng ngôn từ qua internet và các diễn đàn khác nhau của truyền thông kỹ thuật số. Ngay cả trong các phương tiện truyền thông Công Giáo, các giới hạn cũng có thể bị vượt qua, việc phỉ báng và vu khống có thể trở thành chuyện thông thường, và tất cả các tiêu chuẩn đạo đức và tôn trọng đối với tiếng tăm của người khác có thể bị bỏ qua” [48]. Làm thế nào điều này có thể góp phần vào tình huynh đệ mà Cha chung của chúng ta yêu cầu nơi chúng ta được?
Thông tin thiếu khôn ngoan
47. Sự khôn ngoan đích thực đòi hỏi một cuộc gặp gỡ với thực tại. Tuy nhiên, ngày nay, mọi sự đều có thể được chế tạo, ngụy trang và sửa đổi. Do đó, một cuộc gặp gỡ trực tiếp dù ở ven rìa thực tại vẫn bị coi là không thể dung thứ. Lúc đó, một cơ chế lựa chọn bắt đầu hoạt động, theo đó tôi có thể lập tức tách biệt người thích khỏi người không thích, thứ tôi cho là hấp dẫn khỏi thứ tôi cho là khó chịu. Cùng một cách như thế, chúng ta có thể chọn những người mà chúng ta muốn chia sẻ thế giới của mình. Những người hoặc tình huống chúng ta thấy khó chịu hoặc không đồng ý với chỉ đơn giản bị bôi xóa trong các mạng ảo ngày nay; một thế giới ảo sau đó được tạo ra, cô lập chúng ta với thế giới thực trong đó chúng ta đang sống.
48. Khả năng ngồi xuống và lắng nghe người khác, nét đặc trưng của những cuộc gặp gỡ liên ngã, là điển hình của thái độ chào đón được thể hiện bởi những người vượt qua lòng yêu mình thái quá và chấp nhận người khác, quan tâm đến họ và chào đón họ vào cuộc sống của mình. Tuy nhiên, “thế giới ngày nay phần lớn là một thế giới của người điếc… Đôi khi, nhịp độ điên cuồng của thế giới hiện đại ngăn cản chúng ta chăm chú lắng nghe điều người khác đang nói. Giữa chừng, chúng ta ngắt lời họ và muốn nói ngược lại điều họ còn chưa nói hết. Chúng ta không được đánh mất khả năng lắng nghe của mình”. Thánh Phanxicô “đã nghe tiếng Thiên Chúa, ngài đã nghe tiếng người nghèo, ngài đã nghe tiếng người ốm yếu và ngài đã nghe tiếng thiên nhiên. Ngài đã biến chúng thành một lối sống. Mong muốn của tôi là hạt giống mà Thánh Phanxicô đã gieo trồng có thể lớn lên trong trái tim nhiều người ” [49].
49. Khi sự im lặng và thận trọng lắng nghe khuất dạng, thay thế bằng sự điên cuồng nhắn tin, thì cấu trúc căn bản của việc truyền thông khôn ngoan nhân bản sẽ gặp nguy hiểm. Một lối sống mới đang xuất hiện, trong đó, chúng ta chỉ tạo ra những gì chúng ta muốn và loại bỏ tất cả những gì chúng ta không thể kiểm soát hoặc biết được ngay lập tức và hời hợt. Diễn trình này, theo luận lý học nội tại của nó, ngăn chặn kiểu suy tư thanh thản có thể dẫn chúng ta đến một sự ngôn khoan chung.
50. Cùng nhau, chúng ta có thể tìm kiếm sự thật trong đối thoại, trong cuộc trò chuyện thoải mái hoặc trong cuộc tranh luận sôi nổi. Làm như vậy đòi hỏi sự kiên trì; nó hàm nghĩa sẽ có những khoảnh khắc im lặng và đau khổ, nhưng nó có thể kiên nhẫn đón nhận kinh nghiệm rộng lớn hơn của các cá nhân và dân tộc. Việc tràn ngập thông tin trong tầm tay của chúng ta không tạo ra sự khôn ngoan nhiều hơn. Sự khôn ngoan không phát sinh từ những tìm kiếm nhanh chóng trên internet và cũng không phải là một khối dữ liệu chưa được kiểm chứng. Nó không chín mùi đủ để trở thành cuộc gặp gỡ với sự thật. Các cuộc trò chuyện chỉ xoay quanh các dữ kiện mới nhất, chỉ có tính ngang tầm và chồng đống đơn thuần. Chúng ta không dành sự tập trung chú ý vào đó, không đi sâu vào trọng tâm của vấn đề và nhận ra điều gì thiết yếu đem lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta. Do đó, tự do trở thành ảo tưởng người ta rao bán cho chúng ta, một ảo tưởng dễ bị nhầm lẫn với khả năng lục lọi trên màn ảnh. Diễn trình xây dựng tình huynh đệ, dù là địa phương hay phổ quát, chỉ có thể được thực hiện bởi những tinh thần tự do và cởi mở chào đón những cuộc gặp gỡ đích thực.
CÁC HÌNH THỨC LỆ THUỘC VÀ TỰ KHINH MÌNH
51. Một số quốc gia thịnh vượng về kinh tế có xu hướng tự đề cử mình làm mô hình văn hóa cho các quốc gia kém phát triển hơn; thay vào đó, mỗi quốc gia đó cần được giúp đỡ để phát triển theo cách riêng biệt của họ và phát triển các năng lực đổi mới trong khi vẫn tôn trọng các giá trị của nền văn hóa riêng của họ. Mong muốn bắt chước người khác một cách nông cạn và thảm bại dẫn đến việc sao chép và tiêu thụ thay vì sáng tạo, và cổ vũ một lòng tự trọng rất thấp đối với dân tộc. Trong các thành phần giàu có của nhiều nước nghèo, và đôi khi ở những nước mới thoát được cảnh nghèo, có sự phản kháng đối với cách suy nghĩ và hành động bản địa, và có xu hướng coi thường bản sắc văn hóa của mình, như thể nó là nguyên nhân duy nhất của mọi bệnh tật.
52. Tiêu diệt lòng tự trọng là một cách dễ dàng để thống trị người khác. Đằng sau những xu hướng có khuynh hướng san bằng thế giới của chúng ta này, ta thấy có những quyền lợi mạnh mẽ lợi dụng lòng tự trọng thấp như thế, trong khi, nhờ các phương tiện và mạng truyền thông, cố gắng tạo ra một nền văn hóa mới phục vụ giới thượng lưu. Điều này rập khuôn chủ nghĩa cơ hội của những kẻ đầu cơ và cướp bóc tài chính, và người nghèo luôn kết cục là những người thua cuộc. Rồi cũng thế, việc phớt lờ nền văn hóa của dân tộc mình đã dẫn nhiều nhà lãnh đạo chính trị đến chỗ hết khả năng sáng chế ra một kế hoạch phát triển hữu hiệu có thể được chấp nhận và duy trì một cách tự do theo thời gian.
53. Chúng ta quên rằng “không có hình thức tha hóa nào tồi tệ hơn là cảm thấy mình bị bứng rễ, không thuộc về ai cả. Một lãnh thổ sẽ đơm hoa kết trái, và người dân của nó cũng sẽ sinh hoa kết trái và đem lại tương lai, chỉ trong chừng mực họ có thể phát huy cảm thức thuộc về nơi các thành viên của họ, tạo ra các mối dây liên kết hòa nhập giữa các thế hệ và các cộng đồng khác nhau, và tránh tất cả những gì khiến chúng ta vô cảm đối với người khác và dẫn tới việc tha hóa hơn nữa” [50].
HY VỌNG
54. Bất chấp những đám mây đen trên, những đám mây ta không nên làm ngơ, tôi muốn, trong những trang tiếp theo, tiếp nhận và thảo luận nhiều nẻo đường hy vọng mới. Vì Thiên Chúa tiếp tục gieo nhiều hạt giống tốt lành trong gia đình nhân loại chúng ta. Đại dịch gần đây cho phép chúng ta nhận ra và đánh giá cao, một lần nữa, tất cả những người ở quanh chúng ta, giữa cơn sợ hãi, vẫn đã phản ứng bằng cách đặt mạng sống của họ lên tuyến đầu. Chúng ta bắt đầu nhận ra rằng cuộc sống của chúng ta được đan xen với và duy trì bởi những người bình thường nhưng đã anh dũng lên khuôn nhiều biến cố có tính quyết định trong lịch sử chung của chúng ta: các bác sĩ, y tá, dược sĩ, thủ kho và công nhân siêu thị, nhân viên dọn dẹp, người chăm sóc, công nhân chuyên chở, nam giới và nữ giới làm việc để cung cấp các dịch vụ thiết yếu và an toàn công cộng, các tình nguyện viên, các linh mục và tu sĩ… Họ hiểu rằng không ai được cứu vớt một mình [51].
55. Tôi thân mời mọi người bước vào niềm hy vọng đổi mới, vì hy vọng “nói với chúng ta về một điều gì bén rễ sâu trong trái tim mỗi con người, không phụ thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện lịch sử của chúng ta. Hy vọng nói với chúng ta về một cơn khát, một khát vọng, một mong mỏi có được một cuộc sống viên mãn, một khát vọng đạt được những điều to lớn, những điều lấp đầy trái tim và nâng cao tinh thần của chúng ta lên những thực tại cao cả như chân, thiện và mỹ, công bằng và yêu thương… Hy vọng luôn có tính mạnh bạo; nó có thể nhìn xa hơn thuận tiện bản thân, những an toàn và tưởng thưởng nhỏ mọn chuyên giới hạn chân trời của chúng ta, và nó có thể mở lòng chúng ta ra đón nhận các lý tưởng vĩ đại vốn làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp và đáng giá hơn ” [52]. Vậy chúng ta hãy tiếp tục tiến bước trên các nẻo đường hy vọng.
Kỳ tới: CHƯƠNG HAI: MỘT NGƯỜI XA LẠ DỌC ĐƯỜNG
[1] Admonitions, 6, 1. Bản tiếng Anh trong Francis of Assisi: Early Documents, vol 1., New York, London, Manila (1999), 131.
[2] Đã dẫn, 25: tài liệu đã dẫn, 136.
[3] Thánh Phanxicô thành ASSISI, Earlier Rule of the Friars Minor (Regula non bullata), 16: 3.6: tài liệu đã dẫn 74.
[4] ELOI LECLERC, O.F.M., Exil et tendresse, Éd. Franciscaines, Paris, 1962, 205.
[5] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[6] Diễn văn Tại Cuộc Gặp gỡ Đại kết và Liên tôn với Người Trẻ, Skopje, North Macedonia (7 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 9 Tháng 5 2019, p. 9.
[7] Diễn văn với Nghị viện Âu Châu, Strasbourg (25 Tháng 11 2014): AAS 106 (2014), 996.
[8] Gặp Các Nhà Cầm quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn, Santiago, Chile (16 Tháng 1 2018): AAS 110 (2018), 256.
[9] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 19: AAS 101 (2009), 655.
[10] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus vivit (25 Tháng 3 2019), 181.
[11] Đức Hồng Y RAÚL SILVA HENRÍQUEZ, Homily at the Te Deum, Santiago de Chile (18 Tháng 9 1974).
[12] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 57: AAS 107 (2015), 869.
[13] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (11 Tháng 1 2016): AAS 108 (2016), 120.
[14] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (13 Tháng 1 2014): AAS 106 (2014), 83-84.
[15] Xem Diễn văn với Qũy “Centesimus Annus pro Pontifice” (25 Tháng 5 2013): Insegnamenti I, 1 (2013), 238.
[16] Xem Thánh Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 Tháng 3 1967): AAS 59 (1967), 264.
[17] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 Tháng 6 2009), 22: AAS 101 (2009), 657.
[18] Diễn văn với nhà Cầm quyền Dân sự, Tirana, Albania (21 Tháng 9 2014): AAS 106 (2014), 773.
[19] Diễn văn với Các Tham dự viên Hội Nghị Quôc Tế “Nhân quyền trong Thế giơí Ngày nay: Các thành tựu, Bỏ sót, Bác bỏ” (10 Tháng 12 2018): L’Osservatore Romano, 10-11 Tháng 12 2018, p. 8.
[20] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11 2013), 212: AAS 105 (2013), 1108.
[21] Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015 (8 Tháng 12 2014), 3-4: AAS 107 (2015), 69-71.
[22] Đã dẫn, 5: AAS 107 (2015), 72.
[23] Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2016 (8 Tháng 12 2015), 2: AAS 108 (2016), 49.
[24] Thông điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2020 (8 Tháng 12 2019), 1: L’Osservatore Romano, 13 Tháng 12 2019, p. 8.
[25] Diễn văn về Vũ khí Nguyên tử, Nagasaki, Japan (24 Tháng 11 2019): L’Osservatore Romano, 25-26 Tháng 11 2019, p. 6.
[26] Đối thoại với các Học sinh và Giáo viên Trường San Carlo ở Milan (6 Tháng 4 2019): L’Osservatore Romano, 8-9 Tháng 4 2019, p. 6. [27] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Sống chung, Abu Dhabi (4 Tháng 2 2019): L’Osservatore Romano, 4-5 Tháng 2 2019, p. 6.
[28] Diễn văn với Thế giới văn hóa, Cagliari, Italy (22 Tháng 9 2013): L’Osservatore Romano, 23-24 Tháng 9 2013, p. 7.
[29] Humana Communitas. Thư gửi Chủ tịch Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Sư Sống dịp Kỷ niệm 25 thành lập (6 Tháng 1 2019), 2.6: L’Osservatore Romano, 16 Tháng 1 2019, pp. 6-7.
[30] Sứ điệp video gửi Hội nghị TED ở Vancouver (26 Tháng 4 2017): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 4 2017, p. 7.
[31] Buổi Cầu Nguyện ngoại thường Thời Đại dịch (27 Tháng 3 2020): L’Osservatore Romano, 29 Tháng 3 2020, p. 10.
[32] Bài giảng lễ, North Macedonia (7 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 8 Tháng 5 2019, p. 12.
[33] Xem Aeneid 1, 462: “Sunt lacrimae rerum et mentem mortalia tangunt”.
[34] “Historia… magistra vitae” (CICERO, De Oratore, 2, 6).
[35] Thông điệp Laudato Si’ (24 Tháng 5 2015), 204: AAS 107 (2015), 928.
[36] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25 Tháng 3 2019), 91.
[37]Đã dẫn, 92.
[38] Đã dẫn, 93.
[39] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Ngày Thế giới Di dân và Người tỵ nạn năm 2013, (12 Tháng 10 2012): AAS 104 (2012), 908.
[40] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25 Tháng 3 2019), 92.
[41] Thông điệp Ngày Thế giới Di dân và Người tỵ nạn năm 2020 (13 Tháng 5 2020): L’Osservatore Romano, 16 Tháng 5 2020, p. 8.
[42] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (11 Tháng 1 2016): AAS 108 (2016), 124.
[43] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (13 Tháng 1 2014): AAS 106 (2014), 84.
[44] Diễn văn với Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa Thánh (11 Tháng 1 2016): AAS 108 (2016), 123.
[45] Thông điệp Ngày Thế giới Di dân và Người tỵ nạn năm 2019 (27 Tháng 5 2019): L’Osservatore Romano, 27-28 Tháng 5 2019, p. 8.
[46] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christus Vivit (25 Tháng 3 2019), 88.
[47] Đã dẫn, 89.
[48] Tông huấn Gaudete et Exsultate (19 Tháng 3 2018), 115.
[49] Từ cuốn phim Pope Francis: A Man of His Word, by Wim Wenders (2018).
[50] Diễn văn với Các Nhà Cầm quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn Tallinn, Estonia (25 Tháng 9 2018): L’Osservatore Romano, 27 Tháng 9 2018, p. 7.
[51] Xem Buổi Cầu Nguyện ngoại thường Thời Đại dịch (27 Tháng 3 2020): L’Osservatore Romano, 29 Tháng 3 2020, p. 10; Thông điệp nhân Ngày Thế giới Người Nghèo (13 Tháng 6 2020), 6: L’Osservatore Romano, 14 Tháng 6 2020, p. 8.
[52] Chào mừng Người Trẻ tại Trung tâm văn hóa Padre Félix Varela, Havana, Cuba (20 Tháng 9 2015): L’Osservatore Romano, 21-22 Tháng 9 2015, p. 6.