Linh Đạo Thánh Tôma
Giuse Phan Tấn Thành
Bài 2. Thiên Chúa và con người trong linh đạo Tôma. 15
Bài 3: Đức Kitô trong linh đạo thánh Tôma. 30
Bài 4: Thánh Linh trong linh đạo thánh Tôma. 44
Bài 5: Đường nên thánh theo linh đạo Tôma. 59
I. Bài 1: Dẫn Nhập
- Đường nên thánh của Tôma
- Tiến trình phong thánh
- Các nhân đức của Tôma
- Linh đạo thánh Tôma
- Cấu trúc bộ Tổng luận thần học
- Vài đặc trưng
Có hai kỷ niệm đáng kể trong năm nay: một là 250 năm tuẫn giáo của thánh Vinh-sơn Liêm (1773), hai là 700 năm tuyên thánh cho Tôma Aquino (1323). Chúng ta chỉ mới nhắc đến các ngài nhân lễ nghi khai mạc bách chu niên, chứ chưa có dịp đào sâu ý nghĩa biến cố. Xin để dành việc học hỏi thánh Vinh-sơn Liêm cho tỉnh dòng và tu viện nhận ngài làm tước hiệu; nhân dịp tĩnh tâm tu viện Mân Côi, gắn liền với Trung tâm Học vấn nhận thánh Tôma làm bổn mạng, tôi xin đề nghị anh em suy nghĩ về một khía cạnh ít được để ý của vị Tiến sĩ này, đó là đời sống thánh thiện của ngài cũng như con đường nên thánh mà ngài đã vạch ra không chỉ riêng cho Dòng mà còn cho toàn thể Giáo hội.
Thật vậy, Tôma đã được nhiều người biết đến như một tiến sĩ uyên thâm với nhiều tước hiệu lẫy lừng (Doctor communis; Doctor angelicus; Doctor humanitatis)[1] nhưng có lẽ ít khi được giới thiệu như một vị thánh. Ngài được Chúa ban trí thông minh tuyệt vời, suốt đời chăm chú vào việc nghiên cứu thánh khoa. Chắc chắn rằng ngài khác xa chúng ta. Thử hỏi: chúng ta có thể học được điều gì nơi cuộc đời của ngài không?
Xin thưa rằng khi đọc lại cuộc đời của ngài (được kể lại qua hồ sơ phong thánh, chứ không phải qua các hồi ký), chúng ta sẽ khám phá rằng trước khi là một giáo sư thần học, Tôma là một tu sĩ, một con người suốt đời tìm kiếm Thiên Chúa. Ngoài ra, các tác phẩm của ngài không chỉ là những suy tư trí tuệ mà còn diễn tả kinh nghiệm tâm linh của ngài. Vì thế, Tôma không chỉ là một vị thánh, nhưng còn là một vị thầy vạch ra cho các Kitô hữu biết con đường nên thánh. Nói cách khác, những tác phẩm của ngài không chỉ chứa đựng một nội dung đạo lý thần học, mà còn bao gồm một linh đạo, linh đạo không chỉ giá trị cho các ánh em thuộc Dòng giảng thuyết mà còn có giá trị đối với tất cả các Kitô hữu. Chúng ta cần tái khám phá khuôn mặt của thánh Tôma: ngài không chỉ là một triết gia, nhưng tiên vàn là một nhà thần học, một thứ thần học không dừng lại ở các chân lý trừu tượng nhưng còn đưa đến việc kết hiệp với Thiên Chúa. Thần học của Tôma khởi đầu với việc cầu nguyện và dẫn đến việc chiêm ngưỡng yêu mến Thiên Chúa.
Trong khuôn khổ của 5 bài thuyết trình, tôi xin lần lượt các đề tài sau đây:
1/ Những điểm nổi bật của đời sống thánh thiện của Thánh Tôma và của linh đạo do ngài vạch ra. Bài này muốn trình bày một cái nhìn tổng quan về linh đạo thánh Tôma. Ba bài tiếp theo bàn đến linh đạo nhìn trong tương quan với Thiên Chúa, Đức Kitô và Thánh Linh.
2/ Thiên Chúa và con người trong linh đạo Tôma
3/ Đức Kitô trong linh đạo Tôma
4/ Thánh Linh trong linh đạo Tôma
5/ Hành trình nên thánh theo thánh Tôma.
Trong bài dẫn nhập hôm nay, tôi xin trình bày hai điểm chính: 1/ Đường nên thánh của Tôma. 2/ Linh đạo Tôma.
I. Đường nên thánh của Tôma
Một khó khăn được đặt ra khi bàn về con đường nên thánh của Tôma là đương sự không hề kể lại kinh nghiệm của mình. Ngài không để lại hồi ký hay tự thuật tựa như các thánh Augustinô, Inhaxiô Loyola, Teresa Avila. Chúng ta chỉ còn biết dựa vào những người biên soạn tiểu sử của ngài, và các nhân chứng trong thủ tục điều tra phong thánh.
- Tiến trình phong thánh
Thánh Tôma qua đời ngày 7/3/1274 tại một đan viện Xito ở Fossavova, trên đường tham dự công đồng Lyon II. Tuy không ai chê trách gì về cuộc đời cá nhân của ngài, nhưng ngài đã bị nhiều người chống đối vì bị tố cáo là rơi vào lạc giáo. Đúng ba năm sau khi Tôma qua đời ngày 7/3/1277, đức cha Etienne Tempier, giám mục Paris, đã thảo ra danh mục 219 luận đề bị coi là nguy hiểm cho đức tin, trong đó có 11 luận đề phản ánh tư tưởng của Tôma. Không lâu sau, ngày 18/3/1277, đến lượt Tổng giám mục Canterbury là Robert Kilwarby OP, công bố danh sách kết án vài luận đề của Tôma (trong đó có unitas formae substantialis). Chưa hết, Guillaume de la Mare, thuộc dòng Phan-sinh, đã xuất bản một quyển Correctorium, khoảng năm 1279, vạch ra những sai lầm của Tôma, được tóm lại trong 118 điều. Thậm chí tổng hội của dòng Phan-sinh họp ở Strasbourg năm 1282 cấm các tu sĩ đọc sách Summa. (Những ai cần nghiên cứu thì phải được tẩy não trước bằng quyển Correctorium).
Dĩ nhiên là anh em Đaminh đã phản pháo chứ không thể khoanh tay ngồi yên, và kể từ tổng hội Milano năm 1278, Dòng đã truyền cho anh em phải trân trọng ý kiến của Tôma. Dần dần các tổng hội kế tiếp đã buộc anh em phải xếp hàng sau lưng Tôma, nghĩa là chấp nhận đạo lý Tôma như là của Dòng. Trong bối cảnh căng thẳng như vậy mà vụ án phong thánh diễn ra. Trên thực tế, điều may mắn là ĐTC Gioan XXII đích thân can thiệp vào vụ án. Thủ tục điều tra khởi sự từ năm 1318, với hai phiên toà thâu thập nhân chứng tại Napoli (từ 21/7 đến 18/9 năm 1319, với 42 nhân chứng) và Fossanova (từ 10 đến 20/11/1321, với 112 nhân chứng). Một người có công đôn đốc hồ sơ phong thánh là Guglielmo de Tocco, lo việc thu thập các chứng tích liên quan đến đời sống và phép lạ của Tôma. Cuộc phong thánh diễn ra tại Avignon vào hai buổi: ngày 14/7/1823 (tại dinh giáo hoàng) và ngày 18/7/1323 tại nhà thờ chánh tòa. Một điều kiện để được phong thánh là phải có phép lạ. Hồ sơ kể ra 300 phép lạ, và sắc chiếu phong thánh chỉ trích trích lại 9 phép lạ. Điều này sửa lại tục truyền cho rằng thánh Tôma không làm phép lạ nào, bởi vì mỗi articuli của sách Summa đã là một phép lạ rồi (quod tot fecerat miracula quot scripserat articulos). Nên biết câu nói này là của Jean Gerson.
- Các nhân đức của Tôma
Chúng ta sẽ không đi sâu vào các phép lạ của thánh Tôma. Một sự kiện tuy không phải là phép lạ nhưng đã gây ấn tượng sâu xa. Tục truyền, một tu sĩ Phansinh chống đối cuộc phong thánh và tuyên bố rằng thà chết còn hơn là thấy Tôma được đặt lên bàn thờ. Trên thực tế, ông đã từ trần vào ngày hôm sau khi diễn ra cuộc phong thánh[2].
Chúng ta hãy dừng lại ở các nhân đức nổi bật của ngài. Trong bản tóm lược tiểu sử để dùng vào hồ sơ phong thánh, Guiglelmo de Tocco tóm lại như sau: “Tôma nổi tiếng về đức khiêm nhường, khiết tịnh xác hồn, sốt sắng cầu nguyện và khôn ngoan khi khuyên răn, điềm đạm trong lời nói, bác ái với hết mọi người”[3]. Cách đây 100 năm, để kỷ niệm 600 năm lễ tuyên thánh cho Tôma, ĐTC Piô XI đã ban hành thông điệp Studiorum ducem (ngày 29/6/1923), trong đó ngài ca ngợi các nhân đức bác ái, khiết tịnh, khó nghèo, khiêm nhường, cầu nguyện, cao minh của vị thánh.
Bên cạnh các nhân đức hiểu theo nghĩa của thần học luân lý, các sử gia còn thêm những nhận xét liên quan đến tính tình của ngài. Ngài nổi tiếng là con người trầm ngâm, ít nói, đầu óc thường nghĩ đến các vấn đề thần học, thậm chí không để ý đến các món ăn dọn trên bàn. Một lần kia, ngài được vua thánh Louis mời đến dùng bữa trong dinh. Ngài bất đắc dĩ nhận lời, nhưng đầu óc vẫn bận rộn tìm câu trả lời cho vấn nạn của thuyết nhị nguyên. Bỗng dưng, ngài đập bàn và nói: “Tìm được giải đáp rồi!”, trước sự ngỡ ngàng của các quan khách[4].
Trong các “việc đạo đức” mà thánh nhân quen thực hành hơn cả, Guglielmo de Tocco nêu bật lòng yêu mến Thánh Thể, được diễn tả cách cụ thể qua việc sốt sắng cử hành Thánh lễ hàng ngày. Hồi ấy chưa có Thánh lễ đồng tế, mỗi ngày ngài dâng một thánh lễ rồi sau đó giúp một Thánh lễ nữa do một anh em cử hành. Không thiếu lần ngài đã chảy nước mắt dầm dề lúc cử hành. Ngài cũng năng cầu nguyện trước Thánh giá. Ngài thường đến cầu nguyện với thánh giá mỗi khi gặp phải một khó khăn trong việc nghiên cứu thần học. Chính trong khung cảnh ấy mà nhiều sử gia ghi lại rằng tại tu viện Napoli, một tu sĩ (Giacobe Caserta, phụ trách phòng áo) thấy Chúa Giesu trên thánh giá hiện ra và hỏi Tôma: “Này Tôma, con đã viết rất đúng về Ta. Con muốn được phần thưởng gì?” Tôma trả lời: “Con chỉ muốn được Chúa”. Guglielmo chú thích rằng lúc ấy Tôma đang viết phần thứ ba sách Summa, đang đến đoạn bàn về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Kitô[5].
Suốt cuộc đời của Tôma là một cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Người ta kể lại rằng khi còn thiếu nhi, Tôma đã cha mẹ gửi vào đan viện Biển đức ở Montecassino, và cậu bé thường đặt câu hỏi “Quid sit Deus?” (Thiên Chúa là gì?). Thoạt tiên, xem ra câu hỏi này mang tính siêu hình, và ngoài khả năng của một đầu óc còn ngây thơ. Nhưng chúng ta nên hiểu câu hỏi theo một nghĩa khác, câu hỏi mà các sư phụ xưa kia vẫn đặt cho các môn sinh đến xin thụ giáo: “Anh tìm gì ở đây?” Câu trả lời là: “Con đi tìm Chúa?”. Câu hỏi của cậu Tôma còn đi xa hơn nữa. Cậu đã ở trong một đan viện Biển Đức rồi, nơi được coi như là dành cho những người tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng Tôma chưa thỏa mãn, bởi vì sau đó, Tôma đã xin gia nhập Dòng anh em giảng thuyết, một dòng vừa mới ra đời, nhằm sống lý tưởng Tin mừng cách triệt để hơn. Tôma đã phải trả giá cho sự lựa chọn này, bởi vì đi ngược lại hoài bão của gia đình.
Sau này, Tôma sẽ còn vất vả bảo vệ sự lựa chọn ấy khi phải bênh vực các dòng hành khất chống lại các cuộc tấn công của các giáo sĩ triều ở Paris. Trong khung cảnh ấy, ngài đã có dịp đào sâu hơn lý tưởng của mình là đi tìm Chúa và giúp cho những người khác đi tìm Chúa. Việc tìm kiếm Chúa vốn đã là mục tiêu của đời đan tu; nhưng Tôma còn muốn rằng sau khi đã chiêm niệm, mình cần phải truyền thông cho tha nhân điều mà mình chiêm niệm (Contemplare, et contemplata aliis tradere). Như chúng ta đã biết, phương châm trở thành khẩu hiệu của Dòng Anh em giảng thuyết.
Trên thực tế, tác giả đã bộc lộ ý định này trong bài tựa của cuốn Tổng luận thứ nhất (Summa contra Gentiles). Khi ấy (năm 1259) tác giả mới có 25 tuổi và đã viết như sau: “Tôi nghĩ rằng nhiệm vụ chính yếu của đời tôi là diễn tả Thiên Chúa trong mỗi lời nói và tâm tư của tôi”[6]. Tôma duy trì lý tưởng đó suốt đời như phản ánh qua những lời thưa với Chúa Giêsu vừa trích dẫn.
- Linh đạo thánh Tôma
Các Dòng tu ở Việt Nam thường tổ chức những cuộc trao đổi với nhau về linh đạo. Trong các cuộc gặp gỡ ấy, anh em Đaminh thường lúng túng, bởi vì không biết cách diễn tả linh đạo của Dòng mình thế nào, vì thế tìm cách đánh trống lảng: : “Linh đạo Đaminh bàng bạc lắm”! Nếu linh đạo Đaminh đã mông lung như vậy, thì phải nói thế nào về linh đạo thánh Tôma?
Thiết tưởng một khuyết điểm lớn trong cuộc tranh luận này là không xác định rõ từ ngữ: Linh đạo là gì? “Linh” là gì? Phải chăng linh đạo, linh địa, linh dược cũng đồng nghĩa? “Linh đạo” của một dòng khác với “đặc sủng” của Dòng như thế nào? Xin được trả lời vắn tắt như sau: Linh đạo là một từ ngữ mới xuất hiện từ giữa thế kỷ XX để dịch từ spiritualité trong tiếng Pháp. Từ ngữ này tương đương với vie spirituelle, và có thể hiểu theo 3 nghĩa: 1/ sinh hoạt tinh thần (đối lại với sinh hoạt thể lý); 2/ đời sống đạo đức và tôn giáo; 3/ đời sống trong Thánh Linh, đời sống theo sự hướng dẫn của Thánh Linh[7]. Ở đây chúng ta chú ý đến nghĩa thứ ba: đời sống dưới sự dẫn dắt của Thánh Linh để càng ngày nên trọn lành như Cha trên trời, theo gương Đức Kitô. Từ “linh đạo” còn muốn thêm tư tưởng về một giáo huấn, một con đường (đạo).
Như vậy, linh đạo của thánh Tôma có thể hiểu theo hai khía cạnh: một là kinh nghiệm nên thánh của ngài; hai là giáo huấn của ngài về sự nên thánh. Khía cạnh thứ nhất vừa được phác họa trên đây. Khía cạnh thứ hai, thoạt tiên xem ra phức tạp, nhưng thực sự lại đơn giản đến độ không ngờ. Thật vậy, một đàng, thánh Tôma không viết một khảo luận về đường nên thánh, tựa như thánh Bonaventura đã biên soạn cuốn Itinerarium mentis in Deum (Hành trình của con người lên tới Thiên Chúa); nhưng đàng khác, chính bộ Summa Theologiae (Tổng luận thần học) là một kim chỉ nam cho con người muốn kết hiệp với Thiên Chúa. Muốn hiểu được điều này, chúng ta cần điều chỉnh hình ảnh về thánh Tôma cũng như về bộ sách nổi tiếng này. Trước hết, chúng ta hãy nhìn lại cấu trúc của bộ sách, và từ đó tìm hiểu vài chìa khóa để phân tích quan điểm của thánh nhân về con đường nên thánh.
- Cấu trúc của bộ Tổng luận thần học
Cho đến công đồng Vaticano II, bộ sách Summa Theologiae được dùng làm sách giáo khoa trong các học viện Dòng Đaminh; còn ngày nay nó chỉ là một cuốn sách tham chiếu. Dù sao đi nữa, người ta chỉ chú giải từng khảo luận (chẳng hạn về Thiên Chúa, về Đức Kitô, các bí tích, hoặc về luân lý tổng quát và luân lý chuyên biệt), chứ không trình bày cái nhìn tổng quát. Một cuộc cách mạng đáng kể, do cha Dominique Chenu O.P. khởi xướng từ năm 1939[8], đó là khám phá ra toàn bộ cấu trúc của tác phẩm. Trước đây, người ta thường coi ba phần của tác phẩm như là ba khía cạnh của Thiên Chúa xét như là nguyên nhân vạn vật: phần thứ nhất bàn về Thiên Chúa, như là nguyên nhân tác thành; phần thứ hai, bàn về Thiên Chúa như là nguyên nhân cứu cánh; phần thứ ba trình bày Đức Kitô như là nguyên nhân mẫu mực.
Cha Chenu đề nghị đọc tác phẩm như là một lộ trình: mọi sự đều phát xuất từ Thiên Chúa (exitus) và trở về với Thiên Chúa (reditus). Bộ sách Summa Theologiae không chỉ là một bộ “tổng hợp” các đạo lý, nhưng hơn thế nữa, nó còn mô tả một mối liên hệ năng động giữa Thiên Chúa và con người: vạn vật phát xuất từ Thiên Chúa và lại quay về với Thiên Chúa. Thánh Tôma đã xếp đặt các tiết mục thần học dựa theo kiến trúc đó, như chúng ta đọc thấy ngay từ lời mở đầu (I pars, q.2)[9].
– Phần I bàn về Thiên Chúa như là nguyên ủy vạn vật: tất cả mọi vật bắt nguồn từ Thiên Chúa. Có thể phát biểu cách khác: Thiên Chúa, nguồn sự thiện vô biên, đã ban sự sống cho vạn vật, đã thông đạt Tình yêu cho các vật thụ tạo, cách riêng là cho lòai người.
– Phần II bàn về Thiên Chúa như là cứu cánh của vạn vật: tất cả mọi vật, đặc biệt là con người, quay trở về với Thiên Chúa, bởi vì chỉ nơi Ngài con người mới tìm thấy hạnh phúc đích thực. Con người là hình ảnh Thiên Chúa và được mời gọi thông hiệp bản tính Thiên Chúa. Hơn thế nữa, không những là con người muốn vươn lên tới Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã thu hút chúng về với mình, qua các nhân đức phú bẩm, ân sủng, và các hồng ân Thánh Linh, cốt yếu của Luật mới (Lex nova).
– Phần III bàn về Đức Kitô như là Đường dẫn là về với Thiên Chúa. Đức Kitô là Đường, Sự thật, Sự sống: Người đã nhập thể, cứu chuộc chúng ta, và tiếp tục nâng đỡ chúng ta nhờ các bí tích, trên hành trình tiến về hạnh phúc vĩnh cửu.
Với lối nhìn này, quyển Summa Theologiae thật là một kim chỉ nam về tu đức. Thực ra, đối với thánh Tôma, thần học không thể nào tách rời khỏi “linh đạo”: vai trò của thần học là đào sâu thêm đức tin, mà đức tin là sự thông dự vào việc chiêm ngắm Thiên Chúa. Thần học được chín muồi nhờ cảm nghiệm sống động về Thiên Chúa nhờ đức tin. Thần học của thánh Tôma phản ánh sự chiêm niệm bản thân, và đồng thời cũng có khả năng hướng dẫn những người khác đến sự chiêm niệm.
- Vài đặc trưng
Để nắm bắt được trực giác của thánh Tôma, chúng ta cần phải gột rửa vài hình ảnh lệch lạc về ngài. Kể từ thông điệp Aeterni Patris của ĐTC Lêo XIII, người ta thường trình bày thánh Tôma như là một triết gia Kitô giáo đã rửa tội cho triết học Aristote. Hình ảnh này không sai, nhưng chưa đúng. Thánh Tôma tiên vàn là một nhà thần học, một nhà thần học được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và thấm nhuần lịch sử ơn cứu độ. Bộ Tổng luận thần học giúp cho ta có một cái nhìn toàn diện về lịch sử cứu độ, chứ không phải là hợp tuyển các khảo luận rời rạc: tín lý đi một bên, luân lý đi một nẻo, còn tâm linh thì gác ra bên rìa. Nói cách khác, bộ Tổng luận thần học vạch ra một lộ trình nên thánh, tức là một sách linh đạo. Đây là một cách nhìn mới về tác phẩm cũng như tác giả. “Thánh Tôma là thầy dạy đời sống tâm linh”, dó là tựa đề một cuốn sách của cha Jean Pierre Torrell, O.P., nguyên giáo sư đại học Fribourg (Thụy sĩ)[10].
Chúng ta sẽ nhận thấy rằng các chân lý đức tin mang theo những hệ luận về luân lý và tu đức, khi phân tích vài chủ đề trong các bài tới. Ở đây chỉ xin lưu ý đến tính cách năng động và nói được là căng thẳng trong các suy tư của thánh Tôma. Chúng ta xác tín rằng không thể nào có mâu thuẫn giữa lý trí và đức tin; nhưng đồng thời chúng ta cũng biết đức tin vượt trên lý trí: nhờ mặc khải, chúng ta biết được nhiều điều vượt quá sự khám phá của lý trí. Điều này được công đồng Vaticanô I công bố (và được Vaticanô II lặp lại trong hiến chế Dei Verbum số 8), nhắc đến những nhận xét của thánh Tôma ngay từ vấn đề thứ nhất (de necessitate sacrae doctrinae). Hơn thế nữa, chân lý chỉ được biểu lộ rõ ràng khi con người được hưởng nhan Thiên Chúa. Từ nhận xét này, chúng ta thấy tiến trình truy tầm chân lý của thánh Tôma đi qua ba cấp bậc khác nhau.
1/ Cấp thứ nhất, tìm hiểu bản chất các vật, dựa theo sự hiểu biết của lý trí (triết học). Các chân lý về bản chất thường mang tính cố định bất biến.
2/ Cấp thứ hai, học hỏi Thiên Chúa tự mặc khải trong lịch sử cứu độ (thần học).
3/ Cấp thứ ba, chiêm ngưỡng Thiên Chúa nhãn tiền trong hạnh phúc vĩnh cửu (phúc kiến)
Từ đó, bất cứ đề tài nào cũng có thể nhìn dưới ba góc độ hoặc viễn tượng, chẳng hạn như:
– Ba cách Thiên Chúa hiện diện khắp nơi: a) do hiện hữu (per essentiam), bởi vì Thiên Chúa là căn nguyên hiện hữu của mọi vật; b) do quyền năng (per potentiam) bởi vì muôn vật tùy thuộc vào quyền năng của ngài để hoạt động; c) do hiểu biết (per visionem, per scientiam) bởi vì Ngài trông thấy tất cả. Thần học còn nói đến sự hiện diện trong tâm hồn người tín hữu qua sự “cư ngụ” (per inhabitationem) ban cho linh hồn hiểu biết và yêu mến Ngài.
– Ba khía cạnh nghiên cứu con người: a) con người là động vật có lý trí; b) con người là hình ảnh Thiên Chúa: c) con người được thông phần bản tính Thiên Chúa
– Ba tình trạng của con người trong lịch sử: a) lúc khởi nguyên; b) tình trạng sa ngã; c) tình trạng được cứu chuộc và vĩnh phúc
– Ba cấp minh tuệ (sapientia): a) triết học (philosophia); b) thần học (theologia); c) ân huệ Thánh Linh (donum); từ đó có ba cấp độ chiêm ngưỡng (contemplatio): a) philosophica, b) theologica, c) mystica
– Ba cấp độ con người là hình ảnh Thiên Chúa: a) con người có khả năng hiểu biết là yêu mến Thiên Chúa; b) con người thực sự hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa, nhờ sống trong ân sủng, tuy còn bất toàn; c) các phúc nhân trên trời hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa cách trọn hảo (I, q.93, a.4)
– Ba cấp độ đức ái: a) khởi đầu, b) tiến bộ, c) hoàn hảo.
Chúng ta sẽ có dịp đào sâu đề tài này trong những bài kế tiếp. Như sẽ thấy, một đàng, chúng ta cần đọc tư tưởng của Tôma một cách năng động, tiệm tiến; nhưng đồng thời, chúng ta sẽ gặp thấy nhiều căng thẳng giữa lý trí và đức tin, hay nói theo theo ngôn ngữ của Tôma, giữa tự nhiên và ân sủng (natura et gratia). Lý trí cần đến đức tin; nhưng đức tin cũng cần đến lý trí.
Kết luận: Thế nào là thánh thiện?
Để kết luận bài dẫn nhập hôm nay, chúng ta thử nêu câu hỏi: Thánh Tôma quan niệm thế nào về việc nên thánh?
Trong một bài thuyết trình về sự thánh thiện theo thánh Tôma ở Bari (nam Italia) vào ngày 30 tháng 3 năm 2023, hồng y Marcello Semeraro, bộ trưởng Bộ phong thánh, đã nói như sau[11]:
Định nghĩa của thánh Tôma về sự thánh thiện có thể gồm tóm nơi lời chú giải đoạn Tin mừng Gioan 13,3-4, thuật cảnh Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ: “Khi biết rằng Chúa Cha đã đặt tất cả trong tay Người, và Người đến từ Thiên Chúa và đến cùng Thiên Chúa, Người đứng lên”. Theo Tôma, sự thánh thiện của con người hệ tại đến cùng Thiên Chúa (Super ev. Ioannis, c. 13, lect.1, n. 4). Đó là điều mà tác giả Tin mừng muốn nói, bởi vì khi Đức Kitô đến cùng Thiên Chúa là Người thi hành chức vụ của mình đó là dẫn đưa hết mọi người về Thiên Chúa. Vì thế, nên thánh là tiến đến Thiên Chúa, hay nói đúng hơn, để cho Đức Kitô dẫn dắt, bởi vì Người trở thành kẻ đồng hành với chúng ta trên con đường về với Chúa Cha.
Đoạn văn vắn tắt này rất súc tích. Đối với thánh Tôma sự thánh thiện không hệ ở các việc đền tội phạt xác, cũng chẳng hệ ở việc thực hành các việc lành hoặc thi hành các nhân đức, nhưng căn bản nằm ở tương quan với Đức Kitô.
Các việc đền tội phạt xác không có giá trị tự nó, mà chỉ có giá trị khi được liên kết với một nhân đức. Vì thế cần phải xét xem một sự khước từ hay một việc đền tội được thi hành theo nhãn giới nào và vì mục tiêu gì. Chẳng hạn như sự chay tịnh có giá trị tâm linh khì diễn tả nhân đức tiết độ hoặc để thi hành đức khiết tịnh (xc STh II-II, q.88 a.2. ad 3). Thánh Tôma còn thêm rằng không nên thực hành các việc đền tội cách bừa bãi nhưng cần giữ chừng mực và khôn ngoan để không tổn hại đến sức khỏe (cum debita discretione et natura non nimis gravetur). Nên biết là trong tông huấn Gaudete et exsultate số 59, ĐTC Phanxico nhắc lại giáo huấn của Thánh Tôma: “Người nhắc cho chúng ta rằng các mệnh lệnh do Giáo hội thêm vào Tin mừng không nên thái quá nhưng cần có chừng mục, kẻo đời sống các tín hữu ra nặng nề, và biến đạo chúng ta thành cảnh nô lệ”.
Đối với việc thực hành các việc lành hay thi hành các nhân đức, thánh Tôma nói rằng các công tác lớn lao chẳng có giá trị gì nếu không do đức mến thúc đẩy. Đức mến là tiêu chuẩn của sự trọn lành Kitô giáo[12] . Nếu thiếu đức mến thì chẳng có sự trọn lành, và việc thực hành đức tin và đức cậy sẽ chẳng có giá trị gì[13].
Những điều vừa nói xem ra quá tổng quát, thuộc về gia sản của Giáo hội, chứ chẳng phải của riêng gì Tôma. Đâu là đặc trưng của linh đạo Tôma?
Theo cha J.P. Torrell, có thể trả lời như thế này[14].
1/ Nếu hiểu đặc trưng linh đạo Tôma theo nghĩa là chủ trương độc đáo của ngài thì chắc là không có. Nếu hiểu đặc trưng theo nghĩa là sự đóng góp của Tôma vào việc xây dựng linh đạo Kitô giáo, thì có thể nói rằng công lao của ngài ở chỗ cung cấp một cái nhìn toàn diện về đạo lý Kitô giáo, dung hòa lý trí với đức tin, dung hòa cố gắng con người với sự trợ giúp của ân sủng, dung hòa giữa bản chất sự vật với chiều kích lịch sử cứu độ, giữa chiêm ngắm và loan truyền.
2/ Linh đạo vừa nói dành cho tất cả các Kitô hữu, nhưng có thể nói được là dành riêng cho các tu sĩ Đaminh, và đặc biệt là những ai chuyên nghiên cứu thần học. Chúng ta đã nói sơ qua về châm ngôn Contemplata aliis tradere mà Tôma để lại cho Dòng Giảng thuyết. Chúng ta cũng có thể thêm tấm gương về sự miệt mài truy tầm chân lý. Chân lý được hiểu như thực tại khách quan chứ không phải tình cảm chủ quan. Chân lý cũng còn được hiểu như là sự đồng nhất giữa nói và làm: thánh Tôma kể lại điều mà mình đã cảm nhận qua việc cầu nguyện và học hành. Đây là chân lý sống động chứ không phải chân lý khô khan trừu tượng. Chân lý đang bàn là chính Đức Kitô, Đấng là Đường, Sự thật và Sự sống. Ngay từ đầu Summa Theologiae (I p. q.1, a.7), thánh Tôma khẳng định rằng Thiên Chúa là subjectum của Sacra Doctrina. Chúng ta không được phép nghiên cứu thần học như một đối tượng (objectum), nhưng phải như là gặp gỡ một chủ thể (subiectum). Không thể tách rời việc nói với Chúa và nói về Chúa. Một hệ luận là chúng ta không thể học thần học giống như học các môn học khác. Hans Urs von Balthasar phân biệt giữa thần học “ngồi” và thần học “quỳ”. Động từ “quỳ” được hiểu theo nghĩa đen chứ không theo nghĩa bóng mà thôi. Thánh Tôma cũng đã tự thú ngài đã khám phá chân lý về Thiên Chúa khi quỳ dưới chân thập giá hơn là khi nghiên cứu trong sách vở. Xin hỏi các giáo sư và sinh viên của Trung tâm học vấn: thời gian dành cho việc cầu nguyện là bao nhiêu? Phải chăng vì lý do ấy mà công việc học hành và tông đồ của chúng ta không đạt được kết quả mong muốn?
Lưu ý
Loạt bài suy niệm dựa trên cuốn Tổng luận thần học (Summa Theologiae) của thánh Tôma Aquinô. Tác phẩm này (viết tắt ST) được chia làm 3 phần (pars); phần thứ hai lại được phân làm 2 đoạn (prima secundae và secunda secundae). Mỗi phần gồm nhiều vấn đề (quaestiones); mỗi vấn đề lại được chia thành nhiều tiết mục (articuli).
Vì thế, khi trích dẫn một đoạn văn, cần phải cho biết nó nằm ở phần nào (pars, thường viết tắt bằng số La-mã: I, I-II, II-II, III), vấn đề (quaestio) và tiết mục (articulus) nào.
———————–
[1] Nên biết là thánh nhân được tặng các tước hiệu: “tiến sĩ phổ quát” (doctor communis) từ năm 1317, “tiến sĩ thiên thần” (doctor angelicus, năm 1459) không những vì sự hiểu biết cao siêu giống các thiên thần mà còn vì nhân đức khiết tịnh như các thiên thần, “tiến sĩ Hội thánh” (doctor Ecclesiae) ngày 15/4/1567. Đến cuối thế kỷ XXi đây (13/9/1980), ĐTC Gioan Phaolô II còn tặng danh hiệu là tiến sĩ nhân bản (doctor humanitatis).
[2] Marika Räsänen, Thomas Aquinas’s Relics as Focus for Conflict and Cult in the Late Middle Ages. Amsterdam University Press, 2017, p.47.
[3] D. Prümmer, Fontes vitae S. Thomae Aquinatis. Notis historicis et criticis illustrati, Tolosae [1912], cap.23.
[4] Martin Grabmann, The interior life of St Thomas Aquinas presented from his works and the acts of his canonization process, Bruce, Milwaukee 1951 (nguyên tác tiếng Đức năm 1924).
[5] Guilelmus de Tocco, Vita di San Tommaso d’Aquino: (c.34) «Doctor conversus erat ad orandum cum lacrymis, hujuscemodi vocem prodire de imagine Crucifixi: Thoma bene scripsisti de me, quam recipies a me pro tuo labore mercedem? Qui respondit : Domine, non nisi te. Et tunc scribebat tertiam partem Summae de Christi passione et resurrectione». Nhiêu sử gia khác (Pietro Calo, Bernardo Gui) cũng thuật lại như vậy. Xc. D. Prümmer, Fontes vitae S. Thomae Aquinatis. Notis historicis et criticis illustrati, Tolosae [1912], 38. 108. 189.
[6] Summa contra Gentiles, l. 1, c. 2: tác giả trích dẫn thánh Hilario, De Trinitate, l. 1, c. 37: PL 84, 48 (conscius sum, ut te omnis sermo meus et sensus loquatur).
[7] Phan Tấn Thành, Thần học về đời sống tâm linh Kitô giáo (Đời sống tâm linh III), NXB Phương Đông, TPHCM 2015, trang 16.
[8] M.D. Chenu, Le plan de la SommeTheologique in Revue Thomiste 47 (1939) 93-107. Xc. J.P. Torrell, Saint Thomas, The person and his work, revised edition, The Catholic University of America Press, Washington DC, 2005, p.150-156.
[9] “Quia igitur principalis intentio huius sacrae doctrinae est Dei cognitionem tradere, et non solum secundum quod in se est, sed etiam secundum quod est principium rerum et finis earum, et specialiter rationalis creaturae… ad huius doctrinae expositionem intendentes: 1° tractabimus de Deo; 2° de motu rationalis creaturae in Deum; 3° de Christo, qui secundum quod homo, via est nobis tendendi in Deum”.
[10] Jean-Pierre Torrell, Saint Thomas Aquinas, Spiritual Master, The Catholic University of America Press, Washington D.C., 2003 (original: Saint Thomas d’Aquin, Maitre spirituel, Ed. Universitaires Fribourg Suisse 1996; troisieme edition, Cerf Paris 2017). Xem thêm: Robert Barron, Thomas Aquinas, Spiritual Master, Word on Fire Academic, Park Ridge IL, 2020, second edition 2022
[11] La santità in Tommaso d’Aquino, đăng trên mạng của bộ Phong thánh: https://www.causesanti.va/it/dicastero-delle-cause-dei-santi/prefetto-dicastero-cause-santi/interviste-del-prefetto/la-santita-in-tommaso-d-aquino.html
[12] “In spirituali vita simpliciter quidem homo perfectus dicitur ratione eius in quo principaliter spiritualis vita consistit… Consistit autem principaliter spiritualis vita in caritate: quam qui non habet, nihil esse spiritualiter reputatur” (De perfectione spiritualis vitae, cap. 1 co).: “Secundum caritatem specialiter attenditur perfectio vitae christianae”: ST II-II, q. 184, a.1).
[13] Chẳng hạn: « fides et spes sine caritate possunt quidem aliqualiter esse, perfectae autem virtutis rationem sine caritate non habent» (ST I-II, q. 65, a.4); «virtutes morales sine caritate esse non possunt» (ST I-II, q.65, a.2)
[14] J.P. Torrell, Saint Thomas Aquinas, Spiritual master, cit. p.383-384.
II. Bài 2: Thiên Chúa và con người trong linh đạo Tôma
- Sự tạo dựng nói chung
- Vật chất tốt lành
- Tạo dựng và tái tạo dựng: gratia non destruit naturam
- Con người nói riêng
- Con người trong tương quan với Thiên Chúa: hình ảnh Thiên Chúa
- Con người trong lịch sử cứu độ: sa ngã và cứu chuộc
- Con người tự tại: giá trị của thân xác và cảm xúc
——————–
Sau bài dẫn nhập giới thiệu sơ lược linh đạo thánh Tôma, chúng ta sẽ lần lượt điểm qua những nét chính qua việc trình bày những chiều kích tâm linh của thần học về Thiên Chúa, Đức Kitô, Thánh Linh. Hôm nay chúng ta bắt đầu với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Thánh Tôma đã dành phần thứ nhất của bộ Tổng luận thần học để bàn về mầu nhiệm Thiên Chúa Tam vị và công trình tạo dựng của ngài. Trong các sách giáo khoa, đề tài này thường được xếp vào bộ môn đầu tiên của thần học tín lý, nhưng chúng ta muốn nhìn như khởi điểm của con đường nên thánh (linh đạo). Điều này đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh ít là hai cách nhìn. Thứ nhất, mặc khải nói ít về bản tính nội tại của Thiên Chúa (Deus in se, Deus immanens) nhưng dành nhiều chỗ hơn cho tác động của Thiên Chúa trong kế hoạch cứu độ (oeconomia salutis), tức là Thiên Chúa đã làm gì cho chúng ta; như sẽ thấy, đó cũng là quan điểm của thánh Tôma. Thứ hai, khi bàn đến linh đạo, chúng ta liền nghĩ đến nỗ lực của con người hướng đến Thiên Chúa; nhưng thánh Tôma thì khởi đầu chuyển động từ Thiên Chúa đến con người. Thiên Chúa là Đấng sáng khởi của kế hoạch cứu độ, Ngài ra khỏi chính mình (exitus) ban sự thiện cho con người, và lôi kéo nó về mình (reditus). Thiên Chúa là nguyên nhân tác thành và hạnh phúc của con người.
Khuôn khổ một bài suy niệm tĩnh tâm không cho phép trình bày toàn bộ đạo lý về Thiên Chúa (Thiên Chúa nhất thể tam vị, Thiên Chúa sáng tạo và quan phòng), vì thế, tôi chỉ xin giới hạn vào mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người, tập trung vào hai điểm chính: công cuộc tạo dựng nói chung, việc tạo dựng con người nói riêng.
- Sự tạo dựng nói chung
Kinh Tin kính mà chúng ta đọc trong Thánh lễ mỗi chúa nhật bắt đầu bằng những lời: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”. Đàng sau lời tuyên xưng ngắn ngủi này là cả một lịch sử những thách đố lâu dài cho đức tin Kitô giáo.
– Thời xưa chưa có những học thuyết vô thần, nhưng các xã hội cổ điển thờ rất nhiều thần (đa thần). Các ngôn sứ đã rất vất vả để nhắc nhở Israel đã trung thành với một Thiên Chúa duy nhất; các thần khác chỉ là hư ảo.
– Cách riêng, những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo đã chứng kiến sự bành trướng của thuyết nhị nguyên, tin rằng có hai vị thần: thần Thiện là nguồn gốc của mọi sự tốt lành và thần Ác là nguyên nhân của các sự dữ. Cách riêng, nhiều người cho rằng thần Thiện là tác giả của các loài linh thiêng, còn vật chất là sản phẩm của thần Ác. Tuy nhiên, đức tin Kitô giáo tuyên xưng rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, tác giả của các loài linh thiêng cũng như các loài vật chất (muôn vật hữu hình và vô hình)
– Đức tin Kitô giáo còn thêm rằng Thiên Chúa là Cha. Điều này không chỉ là một sự quy gán công trình cứu chuộc cho Chúa Cha (cũng như việc cứu chuộc cho Chúa Con và việc thánh hóa cho Thánh Linh), nhưng còn muốn nói rằng vũ trụ này được tạo dựng do lòng yêu thương của Thiên Chúa. Việc tạo dựng bắt nguồn từ tình yêu sung mãn của Thiên Chúa (Bonum diffusivum sui). Nên biết là thánh Tôma quan niệm việc tạo dựng như là sự phát xuất ra bên ngoài (processio ad extra) kéo dài sự phát xuất nội tại của Thiên Chúa (sự phát xuất của Lời và Tình yêu). Nơi Thiên Chúa, sự thiện hay tình yêu không phải là cái gì trừu tượng nhưng là chính bản tính của Ngài. Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa Ba ngôi. Thiên Chúa không phải là kẻ đơn độc lẻ loi , nhưng là Thiên Chúa của đối thọai và yêu thương. Từ muôn thuở, trong cung lòng Thiên Chúa đã diễn ra sự đối thọai giữa Cha và Con; chính trong mối liên kết giữa Cha và Con mà phát xuất Thánh thần tình yêu.Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ nhờ Lời và tình yêu, muốn đổ tràn tình yêu sung mãn của Tam vị. Sự tạo dựng vạn vật ra như kéo dài cuộc đối thọai tình yêu ra bên ngòai (ST I, q.45, a.6). Thiên Chúa Ba ngôi chuyển thông tình yêu cho tạo vật, và mời gọi chúng đến chia sẻ hạnh phúc với mình (xc. I, q.32, a.1, ad 3m). Khi tạo dựng vạn vật, Thiên Chúa đã để lại dấu vết của sự hoàn thiện của mình nơi chúng. Vì thế nhìn ngắm vạn vật, chúng ta có thể nhận ra những ưu phẩm của Thiên Chúa.
Trên đây là những xác tín căn bản của đức tin Kitô giáo. Bây giờ chúng ta bước sang những đóng góp độc đáo của thánh Tôma cho thần học nói chung và đời sống tâm linh nói riêng, có thể tóm lại trong hai nguyên tắc: 1/ Vật chất tốt lành bởi vì do Thiên Chúa tạo dựng; 2/ Tạo dựng và tái tạo dựng.
- Vật chất tốt lành
Nhiều tác giả tu đức quan niệm rằng đời sống thiêng liêng (tâm linh) đồng nghĩa với dứt bỏ trần tục. Điều đó sẽ không hoàn toàn đúng, nếu nó hàm ngụ rằng trần tục, vật chất là điều xấu xa tội lỗi. Thánh Đaminh đã bài trừ thuyết nhị nguyên của nhóm Cathari (ảnh hưởng của đạo Mani, coi vật chất và hôn nhân là tội lỗi) bởi vì nó trái ngược với đức Kitô giáo. Thánh Tôma cũng tiếp tục đường hướng đó, với việc sử dụng thêm các luận cứ triết học.
Chúng ta thường nghe nói đến việc thánh Tôma “rửa tội” cho triết học Aristote, nhưng ít ai nghĩ đến những hệ luận của nó. Phải nói đây là một cuộc cách mạng tư tưởng lớn đối với con đường nên thánh.
Chúng ta biết rằng các giáo phụ chịu ảnh hưởng nhiều bởi thuyết Platon, vì thấy nó dễ đưa con người lên cùng Thiên Chúa. Con người được mời gọi hướng về thượng giới, là quê hương đích thật, còn trần thế này bị coi như là chốn lưu đày, thân xác bị coi là nhà tù của linh hồn. Vì thế đường nên thánh hệ ở thoát tục (contemptus mundi), hãm mình ép xác để linh hồn dễ bay lên chốn cao xanh.
Khi chấp nhận triết học Aristote, thánh Tôma đã làm một cuộc cách mạng, và dễ bị tố cáo là rơi vào thuyết duy vật. Như chúng ta đã biết, khác với ông Platon, ông Aristote không chấp nhận một kiếp sống của linh hồn trước đây ở trên thiên giới, rồi bị đày xuống dương gian để đền tội. Không, con người chỉ có một kiếp sống ở đời này; con người gồm bởi linh hồn và thể xác. Linh hồn cần đến thể xác, bởi vì linh hồn không mang trong mình những ý tưởng đã có từ trước, nhưng các ý tưởng được hình thành từ việc trừu xuất các ảnh niệm thu nhận được bởi sự quan sát vũ trụ vật chất.
Như vậy, chấp nhận thuyết Aristote có nghĩa là chấp nhận sự hiện hữu của vật chất. Vật chất không phải là cái gì xấu xa tội lỗi, do Ác thần tạo ra. Thế giới vật chất này do Thiên Chúa tạo thành, và là “tốt” (St 1,31; xc. Rm 14,20; Tt 1,15). Điều này đi ngược lại nhiều triết học và tôn giáo (thậm chí vài luồng tu đức Kitô giáo), theo đó, vũ trụ chỉ là ảo ảnh hoặc vật chất là xấu xa tội lỗi! Quan niệm như vậy không đúng: vật chất chẳng có tội tình gì hết; nó xấu hay tốt là tùy cách chúng ta sử dụng: chúng ta có thể dùng dao rựa để chặt cây làm nhà, hay để giết người, nhưng mà tội đâu tại con dao?
Thực ra, đàng sau lời tuyên xưng đức tin hàm chứa cả một tâm tình chúc tụng trước vẻ huyền nhiệm của vũ trụ. Lịch sử văn học các tôn giáo không thiếu các bài ca bày tỏ sự trầm trồ thán phục đứng trước vẻ đẹp của vũ trụ, dù là nói tới đại-vũ-trụ (với các tinh tú trên bầu trời, núi non sông ngòi), hay khi nói tới tiểu-vũ-trụ là con người (từ mầu nhiệm sự sống cho đến hoạt động các chức năng tâm sinh lý như sẽ nói trong phần hai). Những bài thánh thi, thánh ca chúc tụng Thiên Chúa tạo dựng càng nhiều hơn nữa trong Kinh thánh và văn chương Kitô giáo, chẳng hạn như các thánh vịnh được đọc Phụng vụ Giờ kinh: thánh thi Đaniel; thánh vịnh 104; 148. Dựa theo nguồn cảm hứng đó, thánh Phanxicô Assisi sáng tác ra “Bài ca vạn vật”: mọi loài thụ tạo được mời gọi hãy lên tiếng ca tụng Thiên Chúa. Nhưng đồng thời, các tác giả Sách thánh (từ Sách Khôn ngoan chương 13,1-9 cho đến thánh Phaolô trong thư gửi các tín hữu Roma chương 1,21-25) cũng cảnh giác chúng ta về nguy cơ thờ “ngẫu tượng”, nghĩa là chúng ta dễ bị thu hút bởi sự quyến rũ của thụ tạo đến nỗi thờ lạy chúng, và lãng quên Tạo hóa, Đấng đã dựng nên chúng để cho chúng ta hưởng dụng.
Trên thực tế, Thiên Chúa đã tạo nên vũ trụ tốt lành và trao cho nguyên tổ sử dụng. Tiếc rằng họ đã lạm dụng, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa, tự ý quyết định điều lành điều dữ. Từ đó tội lỗi đã len vào thế giới, làm cho thế giới bị hoen ố. Thế giới không phải xấu tại nó nhưng tại tội lỗi của con người.
- Tạo dựng và tái tạo dựng
Đến đây những lý luận triết học về sự tạo dựng cần được bổ túc với mặc khải về việc tái tạo dựng. Thiên Chúa không bỏ mặc con người trong sự chết, nhưng đã đến tái lập tình nghĩa với con người qua chương trình cứu chuộc. Điều này được thánh Tôma nói trong Prima Secundae, các quaestiones 90-108 (lề luật) và 109-114 (ân sủng).
Đàng sau các vấn đề về lề luật, thánh Tôma đã biên soạn một thiên khảo luận về lịch sử cứu độ, qua bốn chặng: 1/ lex aeterna (luật vĩnh cửu, kế hoạch cứu độ dành cho toàn thể vạn vật). 2/ lex naturalis (luật tự nhiên, kế hoạch cứu độ dành cho loài người là những thụ tạo có tự do). 3/ lex vetus (luật cũ) và 4/ lex nova (luật mới) là hai chặng của mặc khải Cựu ước và Tân ước.
Từ đó, bất cứ đề tài nào liên quan đến tương quan giữa con người với Thiên Chúa đều cần được xét trong tiến trình cứu độ ấy. Đây là một sự khác biệt giữa triết học (tìm hiểu bản chất các vật) và thần học (nhìn trong lịch sử cứu độ). Chúng ta sẽ có dịp trở lại khi bàn về con người dưới những chế độ khác nhau trong phần thứ hai của bài này. Ở đây, chúng ta chỉ xét đến một nguyên tắc chung chi phối mối tương quan giữa tạo dựng và tái tạo dựng, được thánh Tôma phát biêu qua công thức: “ân sủng không phá hủy tự nhiên, nhưng giả thiết và kiện toàn tự nhiên” (gratia non destruit naturam sed elevat et perficit eam). (ST I, q.1, a.8, ad 2m). Nguyên tắc này có thể được giải thích theo nhiều cách, từ đó mang theo nhiều hệ luận đối với đời sống tâm linh:
a- Có thể hiểu là không nên đối chọi giữa trật tự siêu nhiên với trật tự tự nhiên (thí dụ như giữa chân lý đức tin với chân lý khoa học), bởi vì cả hai đều xuất phát từ một nguồn gốc là Thiên Chúa. Chẳng lẽ Chúa lại dùng tay phải để đập phá điều mà tay trái đã làm! Đặc biệt, trong phạm vi luân lý, luật mặc khải không phá hủy luật tự nhiên. Luật mặc khải kiện toàn luật tự nhiên. Thực ra, thuật ngữ “luật tự nhiên” (lex naturalis) có thể hiểu theo nhiều nghĩa, trong phạm vi vật lý học cũng như trong phạm vi luân lý học. Thời sự thần học đã dành một số cho “Thần học tự nhiên” (số 88, tháng 5 năm 2020). Trong các văn kiện gần đây của Huấn quyền, thuật ngữ này xuất hiện khi bàn về một nền tảng chung cho luân lý của toàn thể nhân loại; thêm vào đó, Đức thánh cha Phanxicô, với thông điệp Laudato si kêu gọi chú ý đến việc bảo vệ môi trường sống.
b- Có thể hiểu rằng ơn thánh Chúa không miễn trừ cho chúng ta vận dụng khả năng tự nhiên của mình (gratia supponit naturam). Ơn thánh Chúa không tiêu hủy tự do hoặc bản năng của ta. Trên đường tu đức nên thánh, mỗi người cần lưu ý đến các sở trường sở đoản của mình (tùy thuộc vào tính tình, giáo dục, kinh nghiệm, vv.). Nói cho đúng, đây là cả một câu chuyện phức tạp về tương quan giữa ân sủng và tự do. Chúa Giêsu đã nói: “Không có Thầy, các con không thể làm gì được” (Ga 15,5); nhưng Người cũng trao cho chúng ta những nén bạc để sinh lợi, chứ không được phép há miệng chờ sung! Dù sao đi nữa, ta đừng quan niệm sự hợp tác giữa con người với Thiên Chúa diễn ra theo phương thức liên doanh: mỗi bên đầu tư một nửa (50/50). Không phải như vậy. Sự hợp tác diễn ra không phải giữa hai cổ phần ngang vai, nhưng là giữa “nguyên nhân đệ nhất” với “nguyên nhân đệ nhị”: 100% là của Chúa và 100 % là của ta. Điều này được Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo phát biểu với công thức: “Cầu nguyện và làm việc. Bạn hãy cầu nguyện ra như tất cả tùy thuộc vào Chúa, và bạn hãy làm việc ra như tất cả tùy thuộc vào bạn” (số 2834).
c- Có thể hiểu rằng sự thánh thiện không có nghĩa là thoát tục, nhưng là dấn thân xây dựng xã hội. Thánh nhân không phải là người sống trên mây trên gió, nhưng là người tìm cách nhận ra tiếng gọi của Chúa giữa hoàn cảnh xô bồ của lịch sử.
Dù hiểu như thế nào đi nữa, vũ trụ này được Thiên Chúa tạo dựng và là một công trình tốt đẹp. Từ việc chiêm ngắm vũ trụ, trí tuệ chúng ta có thể hướng lên tới Đấng Tạo hóa. Vũ trụ vật chất không phải là cái gì xấu xa bỉ ổi. Hơn thế nữa, Thiên Chúa ban cho các thụ tạo sự tốt lành theo bản chất của mỗi lòai. Các thụ tạo hoạt động theo bản tính nội tại bền vững của mình. Mặt khác, vũ trụ được Thiên Chúa ký thác cho con người cai quản: con người hãy biết sử dụng các tài năng của mình để làm chủ vũ trụ, hợp tác với kế hoạch của Thiên Chúa. Nói thế có nghĩa là con người phải tìm hiểu vũ trụ, khám phá những định luật của vũ trụ, và trân trọng bảo vệ nó. Dù giải thích thế nào về nguyên tắc vừa nói, ta có thể nhận thấy rằng thánh Tôma mang một hình ảnh lạc quan về vũ trụ (thiên nhiên, tự nhiên): vũ trụ không phải là cái gì xấu xa mà ta phải thoát ly trên đường nên thánh (I-II, q.108, a.4). Vũ trụ là tác phẩm của Thiên Chúa, và có thể dẫn đưa ta về với Thiên Chúa; nếu vũ trụ làm cho ta xa Chúa thì không phải lại nó xấu xa mà là tại vì ta không biết sử dụng nó đúng với trật tự (I, q.65, a.1, ad 3m).
- Con người nói riêng
Một câu hỏi: Sách Summa Theologiae bàn về Thiên Chúa hay bàn về con người? Thoạt tiên xem ra câu trả lời quá rõ: tất cả bộ sách này xoay quanh Thiên Chúa là nguyên nhân tác thành và cứu cánh của mọi vật. Tuy nhiên, nếu nhìn dưới góc độ kế hoạch cứu độ, thì cũng có thể nói được rằng con người là trung tâm. Thiên Chúa mặc khải cho con người biết kế hoạch mà ngài đã dành cho con người. Cha Mieczyslaw Albert Krapiec, O.P, nguyên viện trưởng đại học công giáo Lublin, đã có một bài viết đăng trong Thời sự thần học số 67, phân tích toàn bộ Tổng luận thần học dưới góc độ nhân học[1].
Ở đây, chúng tôi chỉ dừng lại ở ba điểm: 1/ con người trong tương quan với Thiên Chúa; 2/ con người trong lịch sử cứu độ; 3/ con người nội tại
- Con người trong tương quan với Thiên Chúa: hình ảnh Thiên Chúa
Con người là gì? Theo vài triết gia, con người là “động vật có lý trí” (animal rationale), hoặc “cây sậy biết tư duy” (theo Pascal). Sách Giáo Lý của Hội thánh Công Giáo (viết tắt GLCG) gọi con người là “hình ảnh Thiên Chúa”, một hạn từ đọc thấy từ trình thuật về việc tạo dựng con người ở sách Sáng thế (1,27) và được lặp lại nhiều lần trong Kinh thánh (St 5,3; 9,6; Kn 2,23-24; Hc 17,1-4).
Tại sao con người được gọi là “hình ảnh Thiên Chúa”?
Sách GLCG đã nhắc đến nhiều lối giải thích khác nhau trong truyền thống Kitô giáo.
1/ Một lối giải thích đơn giản hơn hết là con người mang trong mình lòng khao khát hướng về Thiên Chúa (homo capax Dei: GLCG 36), như hoa quỳ hướng dương. Thực vậy, bản tính con người là luôn đi tìm về Chân-Thiện-Mỹ, muốn biết và yêu mến Đấng Tuyệt đối. Đây là căn bản của cảm nghiệm tâm linh mà Thánh Linh gợi lên trong lòng bất cứ con người nào, dù có tín ngưỡng hay không (GLCG 299; 2563; 2566).
2/ Một lối giải thích thứ hai chú trọng đến vài điểm tương đồng giữa con người với Thiên Chúa (GLCG 41; 1978): con người có lý trí và ý chí, có khả năng định đoạt (GLCG 357); có khả năng yêu thương (GLCG 1604; 2331). Con người được chia sẻ khả năng sáng tạo bằng canh tác lao động (GLCG 2427; 2501) và quản lý vũ trụ (GLCG 373). Dĩ nhiên là con người cần phải cư xử giống như Thiên Chúa.
3/ Một lối giải thích thứ ba có thể gặp thấy nơi thánh Tôma Aquinô, theo đó, nên phân biệt ba cấp độ hình ảnh Thiên Chúa nơi con người (ST I, q.93, a.4). Cấp một có thể tìm thấy nơi bất cứ nhân sinh nào, bởi vì bất cứ con người nào cũng có khả năng hiểu biết và mến yêu Chúa. Cấp thứ hai chỉ có nơi những người sống trong tình trạng ân sủng, nghĩa là khi họ thực sự hiểu biết và yêu mến Chúa. Cấp thứ ba dành cho các thánh nhân trên trời, bởi vì họ được hiểu biết và yêu mến Chúa cách trọn hảo. Cũng nên biết là thánh Tôma cũng theo thánh Augustinô để phân tích hình ảnh Thiên Chúa trong viễn ảnh của Ba ngôi: sự hiểu biết và yêu mến nơi con người phản ánh nhiệm xuất của Ngôi Lời và Tình yêu từ Chúa Cha (ST I, q.93,a.6; q.45,a.7).
4/ Vài giáo phụ bên Đông phương lưu ý rằng Kinh thánh (St 1,26-27) sử dụng hai từ ngữ khi nói tới việc tạo dựng con người: con người được dựng nên theo “hình ảnh Thiên Chúa” (imago) và “giống như Chúa” (similitudo). Hai hạn từ mang hai ý nghĩa khác nhau: “hình ảnh” có tính cách tĩnh, còn “giống như” thì có tính cách động. Nói cách khác, con người phải luôn luôn cố gắng mỗi ngày một trở nên giống như Thiên Chúa, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, con người đã sa ngã phạm tội, vì thế không còn nói được là giống như Thiên Chúa được nữa. Con người cần được cứu chuộc ngõ hầu khôi phục mối tương quan với Thiên Chúa.
Tuy các giáo phụ bên Tây phương không quan tâm đến sự phân biệt giữa “hình ảnh” và “tương đồng” (giống như), nhưng họ đồng ý về hai điểm quan trọng trong lịch sử cứu độ. (1) Hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người không còn được duy trì nguyên vẹn sau tội lỗi nữa. (2) Con người cần gắng sức tái lập hình ảnh đó, qua việc trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, hình ảnh tuyệt vời của Thiên Chúa (Cl 1,55; GLCG 299).
- Con người trong lịch sử cứu độ
Dựa theo Kinh thánh, chúng ta biết rằng con người được dựng nên giống hình ảnh Chúa, nhưng rồi đã mất tình nghĩa với Chúa bởi vì nó muốn lấn quyền của Ngài trong việc quyết định điều tốt điều xấu theo sở thích riêng. Con người muốn lật ngược thứ tự luân lý, muốn đặt mình làm chủ tể vũ trụ, nhưng nó bị thất bại (GLCG 396-398). Con người phải nếm ngay nơi bản thân hậu quả của tình trạng rối loạn trật tự: mất hoà hợp với thiên nhiên, mất hoà hợp giữa nam với nữ, thậm chí mất hoà hợp giữa hồn với xác, giữa lý trí với cảm xúc, vv. Thần học gọi đó là trình trạng sa đoạ của con người (status naturae corruptae)[2].
Con người sa đoạ đến mức độ nào? Cách riêng, nơi người Kitô hữu (nghĩa là kẻ đã lãnh nhận ơn tha thứ và chữa trị nhờ bí tích thánh tẩy), bản tính nguyên tuyền có được khôi phục hoàn toàn hay không?
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (số 406) đã thuật lại hai chủ trương cực đoan trong lịch sử Kitô giáo. Một bên cho rằng bản tính con người hoàn toàn sa đoạ, không tài nào khôi phục được; con người luôn luôn mang tội lỗi ở trong mình. Một bên cho rằng bản tính con người đã trở về trạng thái nguyên vẹn. Chủ trương thứ nhất gặp thấy nơi những nhà khởi xướng phong trào Cải cách hồi thế kỷ XVI; chủ trương thứ hai thì đã xuất hiện từ thế kỷ VI nơi nhóm Pêlagiô. Đạo lý của Hội thánh nằm ở giữa hai thái cực đó: bản tính con người đã bị tổn thương do tội nguyên tổ. Đức Kitô đã đến cứu chuộc chúng ta, chữa lành các vết thương tội lỗi. Tuy vậy, những khuynh hướng nghiêng về tội lỗi vẫn còn hoành hành nơi chúng ta, đòi hỏi sự cảnh giác và chiến đấu (GLCG 407).
Dù sao, vấn đề tranh luận “nhân chi sơ tính bản thiện”, hoặc “nhân chi sơ tính bản ác” không chỉ có tính cách lý thuyết nhưng mang nhiều hệ quả quan trọng đối với giáo dục tâm lý cũng như đối với luân lý. Từ chủ trương “nhân chi sơ tính bản thiện”, người ta có thể đi đến kết luận rằng ta có quyền sống thỏa mãn những gì bản năng thúc đẩy, không cần kìm hãm gò bó hay giáo dục gì hết. Trên thực tế, đây là chính sách mà nhiều chương trình truyền thông đại chúng đang theo đuổi. Dù sao, chúng ta đừng để rơi vào thái cực đối lập, khi nhìn thấy tội lỗi lảng vảng khắp mọi xó! Đôi khi một vài lối nói trong các tác phẩm đạo đức có thể gây hiểu lầm như vậy, chẳng hạn như khi muốn tập nhân đức khiêm nhường, người ta nhấn mạnh rằng bản tính con người là hư không, xấu xa, tội lỗi, đê tiện… Có lẽ họ quên rằng Thiên Chúa đã yêu thương ta, đã ban cho ta hiện hữu, đã ban cho ta nhiều hồng ân: nhờ ơn Chúa, trong ta cũng có nhiều cái hay cái đẹp. Điều này được áp dụng cho bản thân ta cũng như cho những người quanh ta. Nói khác đi, mỗi người chúng ta mang trong mình cả cái thiện lẫn cái ác. Như sẽ thấy trong phần thứ hai, hành trình đời sống tâm lý cốt ở chỗ vun trồng cái tốt cho nó trở thành nhân đức, và diệt trừ những tật xấu. Tiếc rằng cái tốt cái xấu không nằm ở trong hai thửa vườn được phân tách bởi hàng rào dậu, nhưng nó trà trộn lẫn nhau, hay nói đúng hơn, nó tùy thuộc sự điều hành của ta: chúng ta có thể sử dụng sức lực cánh tay để giúp đỡ người tàn tật yếu đuối (một điều tốt) hoặc để đâm chém người khác (một điều xấu).
Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong bài thứ năm khi bàn đến việc thực hành các nhân đức.
- Con người tự tại
Đọc kỹ các bản văn Kinh thánh, chúng ta nhận thấy các tác giả chịu ảnh hưởng bởi hai luồng tư tưởng khác nhau: tư tưởng Do thái và tư tưởng Hy lạp. Mỗi bên mang một quan niệm khác nhau về cấu trúc con người, vì thế mà đôi khi một danh từ được hiểu theo một nghĩa riêng tùy theo hệ thống văn hóa. Theo tư tưởng Do thái, con người là một toàn bộ duy nhất. Trong các tác phẩm Cựu ước viết bằng tiếng Do thái, ta gặp thấy các từ “khí, hồn, xác”: đó không phải là ba yếu tố cấu thành nên con người nhưng là ba chiều kích của con người. Theo tư tưởng Hy lạp, con người gồm bởi hai yếu tố tách biệt: hồn (psyche: anima) và xác (soma: corpus). Hồn thì linh thiêng (ta quen gọi là “linh hồn”); còn Xác (hay: thân xác, thân thể) là một yếu tố vật chất hữu hình.
1/ Con người gồm bởi hồn và xác. Giá trị của thân xác
Thánh Tôma theo quan điểm của Hy lạp, chủ trương con người gồm bởi linh hồn và thân xác. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là khi bàn về mối tương quan giữa hồn và xác, có sự khác biệt rất quan trọng giữa Platon và Aristote. Theo Platon, các linh hồn đã được dựng nên từ ngàn xưa trên thiên giới, và vì phạm tội cho nên bị đày đoạ xuống trần gian để đền tội. Do đó, linh hồn mong sớm được thoát ly khỏi thân xác để trở về thiên giới. Quan điểm này trái ngược với đạo lý Kitô giáo ở hai điểm. Một đàng, linh hồn được dựng nên vào lúc thành hình sự sống của mỗi cá thể, chứ không có chuyện tạo dựng hàng loạt trên thiên giới. Đàng khác, thân xác không phải là nhà tù giam giữ linh hồn, nhưng thân xác là thành phần cốt yếu của con người. Như đã nói trên, thánh Tôma không theo thuyết Platon, nhưng theo thuyết Aristote, chấp nhận giá trị của thân xác cũng như tầm quan trọng của thân xác đối với đời sống tinh thần và tâm linh.
Do đó, sống đời tâm linh không có nghĩa là hành hạ tiêu diệt thân xác, nhưng là tôn trọng thân xác của mình và của tha nhân (GLCG 364; 1004; 2288-2297), qua việc giữ gìn sức khỏe và giúp đỡ những nhu cầu thể chất của những người ốm đau bệnh tật (GLCG 2447). Dĩ nhiên, cần phải duy trì hệ trật các giá trị: thân xác phục vụ các giá trị tinh thần chứ không được phép trở thành ngẫu tượng. Dù sao, khi đọc các tác phẩm của các nhà tu đức học, chúng ta nên phân biệt những ý nghĩa khác nhau của “thân xác” ngõ hầu hiểu biết đúng đắn mối tương quan của thân xác đối với đời sống tâm linh:
a- Thân xác có thể hiểu theo nghĩa vật lý và y khoa. Theo nghĩa này, thân xác (thân thể) là thành phần của bản thân, và chúng ta có bổn phận bảo vệ giữ gìn, chăm sóc.
b- Thân xác có thể hiểu theo nghĩa tâm lý và luân lý. Thân xác là tổng thể những cơ năng giúp chúng ta tiếp xúc với ngoại giới và tha nhân. Nó có thể giúp cho đời sống tinh thần phát triển hoặc làm cho tinh thần trì trệ. Nhìn cách tích cực, thân xác có thể trở nên “đền thờ Thánh Linh”. Nhìn cách tiêu cực, nó có thể trở nên cội nguồn của tội lỗi, được đặt tên là “tội xác thịt”, hoặc “đam mê xác thịt”. Dù sao, cũng nên biết là chủ thể phạm tội không phải là thân xác, nhưng là ý chí. Trong điều kiện hiện tại, ý chí không lúc nào cũng làm chủ được các giác quan, cảm xúc. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng trong tương lai mai hậu, khi thân xác này được phục sinh thì nó sẽ biến đổi thành “thần khí” (1Cr 15,14). Điều này không có nghĩa là thân xác sẽ hóa thành “thiêng liêng”, nhưng là nó sẽ hoàn toàn dưới sự điều động của thần khí.
2/ Cảm xúc và đời sống tâm linh
Khi bàn về con người, thần học còn đề cập đến nhiều khía cạnh khác nữa, chẳng hạn như các quan năng (lý trí, ý chí, các giác quan, các cảm xúc) cũng như các đặc điểm cao quý của nhân phẩm (tự do, lương tâm), hoặc chiều kích xã hội của con người. Chúng ta sẽ trở lại với các đề tài này trong những bài kế tiếp. Ở đây, tôi chỉ muốn nêu bật của sự đóng góp quan trọng của thánh Tôma đối với việc phát triển nhân cách đó là giá trị của các cảm xúc.
Các sách viết về đời sống tâm linh nói nhiều đến các “cảm xúc” (passiones), đôi khi cũng được dịch là: “ham muốn, dục vọng, đam mê”. Bên Đông phương, người ta nói đến “thất tình” (bảy mối tình): hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục (mừng, giận, đau đớn, sợ sệt, yêu, ghét, thèm muốn), và có khi thêm vào “lục dục” (sáu thèm muốn): danh, lợi, sắc, vị kỉ, ghen ghét, dối trá. Thần học kinh viện phân biệt 11 thứ “cảm xúc”[3], nghĩa là những phản ứng trước điều tốt hay điều xấu (lành / dữ). Tùy theo đối tượng là một điều tốt hay xấu bình thường hoặc cam go mà các cảm xúc được phân làm hai nhóm, được đặt tên là “tham dục” (appetitus concupiscibilis), và “nộ dục” (appetitus irascibilis).
a- Khi thấy cái gì tốt thì ta “yêu thích” (amor: ái), còn khi thấy cái gì xấu thì ta “ghét” (odium: ố). Nếu điều tốt chưa tới thì “ước muốn, thèm thuồng” (desiderium: dục), nếu đã tới rồi thì “vui thú” (gaudium: hỉ); ngược lại, nếu điều xấu chưa tới thì “trốn tránh” (fuga, abominatio: đào), nếu nó tới rồi thì “buồn” (tristitia: ai).
b- Khi điều tốt hay điều xấu mang tính cách cam go, thì lại phát sinh những cảm xúc khác. Đối với một điều tốt cam go trong tương lai mà có thể chiếm được thì ta “hy vọng” (spes: hy), còn nếu không chiếm được thì đâm ra “thất vọng” (desperatio: thất). Đối với một điều xấu cam go trong tương lai mà có thể vượt được thì ta dám “liều” (audacia: đảm), còn nếu không vượt được thì ta thấy “lo sợ” (timor: cụ). Nếu điều xấu cam go đã tới rồi thì ta đâm ra “tức giận” (ira: giận).
Trong lịch sử đời sống tâm linh Kitô giáo (và nhiều tôn giáo khác), không thiếu chủ trương phải “diệt dục”, dập tắt hết các đam mê cảm xúc. Không thiếu trường phái đề cao lý tưởng hoàn thiện như là “vô cảm” (apatheia), lãnh đạm dửng dưng. Thiết tưởng đó không phải là lý tưởng của Kitô giáo, bởi vì Tân ước không hề chủ trương bóp chẹt tình cảm mà còn đặt yêu thương làm cốt tủy của sự trọn lành (Rm 13,10). Chính Đức Giêsu cũng xuất hiện không như một con người lạnh như tiền, nhưng như là một con người chia sẻ mọi cảm xúc của con người: buồn khóc trước cái chết của ông bạn Ladarô (Ga 11,33-38), thương khóc cho số phận thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá vì không biết đón nhận ơn Chúa (Lc 19,4), hớn hở khi thấy các môn đệ thành công (Lc 10,21), xót thương cho bà góa mất người con một (Lc 7,13), hay đám đông lạc lõng không ai hướng dẫn (Mc 8,2; Mt 9,36), bồi hồi thổn thức trước đau khổ sắp xảy đến cho mình (Mt 26,38). Người cũng lấy dây làm roi để xua đuổi những kẻ buôn bán trong đền thờ (Ga 2,15). Người cũng nói tới niềm vui của Cha trên trời khi thấy tội nhân hóan cải, giống như mục tử tìm được chiên lạc hay bà góa tìm được đồng tiền bị mất (Lc 15). Đề tài “niềm vui” được thánh Luca nêu bật đặc biệt, bởi vì nó gắn với ơn cứu độ (Lc 4,18), một niềm vui cho nhân loại (Lc 1,28; 2,10), niềm vui bất chấp những gian truân thử thách (Ga 17,13). Một cách tương tự như vậy, thánh Phaolô cũng khuyến khích các tín hữu hãy “vui với người vui và khóc với người khóc” (Rm 12,15).
Dựa theo Kinh thánh, thánh Tôma Aquinô nói rằng cảm xúc tự nó không tốt cũng không xấu: nó tốt hay xấu là tùy theo nó hướng về đối tượng nào, và trong mức độ nào. Thực vậy, nếu thiếu sự thích thú say mê, thì ta sẽ nên ù lì bất động; nếu bóp nghẹt các cảm xúc thì con người chỉ là bức tượng đồng chứ đâu phải là người nữa! Không, đừng tiêu diệt cảm xúc, nhưng hãy điều khiển chúng theo trật tự của lý trí: nhân đức là như thế đó (I-II,q.24, a.3). Người đức hạnh không đồng nghĩa với người nhăn nhó ủ rũ! Không phải thế: người nào thực hành nhân đức thì sẽ cảm thấy “khoái”[4], bởi vì nhân đức mang lại cho ta niềm vui (ông thánh nào buồn là ông thánh đáng buồn). Nên nhắc lại là văn kiện của ĐTC Phanxico đều nhắc đến niềm vui: Evangelii gaudium, Amoris laetitia, Gaudete et exsultate.
Kết luận
Trong bài này, chúng ta bắt đầu nghiên cứu khía cạnh đầu tiên của linh đạo Tôma, nhìn dưới góc độ Thiên Chúa tạo dựng. Thiên Chúa tình yêu “ra khỏi” (exitus) chính mình để thông chia tình yêu cho loài thụ tạo, cách riêng là con người, và mời gọi con người chia sẻ hạnh phúc với Ngài. Đường nên thánh khởi đầu từ Thiên Chúa. Khi trình bày công trình tạo dựng, chúng ta có dịp nhận thấy thánh Tôma thu nhận triết học Aristote trong nhìn nhận giá trị của vũ trụ vật chất và của thân xác con người, nhưng không quên điều chỉnh dưới ánh sáng lịch sử cứu độ.
Trong những bài tới, chúng ta sẽ bổ túc với những chiều kích khác của linh đạo ấy, nhìn dưới tương quan với Đức Kitô và Thánh Linh, mở rộng thêm ơn gọi của con người là sự thiên hóa và tình liên đới xã hội.
——————————-
[1] Mieczyslaw Albert Krapiec, O.P., Hướng tới một nền nhân học toàn vẹn, TSTH 67 (tháng 2/2015), trang 54-84.
[2] Thánh Tôma bàn các tình trạng của con người ở ST I-II, q. 109, a.3 và a.9: status naturae integrae, corruptae, sanatae, status gloriae.
[3] Thánh Tôma Aquinô bàn đến các passiones ở Summa Theologica, I-II, qq.22-48. Danh từ passio có thể hiểu theo ba nghĩa: 1/ thụ động, đối lại với chủ động (actio / passio); 2/ đau khổ, (động từ patior), cách riêng khi nói về các đau khổ của đức Giêsu (thương khó, tử nạn) hoặc của các thánh tử đạo; 3/ cảm xúc, bởi tiếng hy lạp pathos. Thiết tưởng có thể dịch là “cảm xúc, thụ cảm”. Tên của 11 cảm xúc dịch ra tiếng Anh là: love, hatred. desire, aversion, joy, sadness; hope, despair, courage, fear, anger.
[4] “Quanto delectabilius operatur propter virtutis, tanto actus eius est delectabilior et magis meritorius” (Sent. III d.23 q.1 a.1 ad 4). Xem thêm I-II, q.59: De comparatione virtutis moralis ad passionem.
III. Bài 3: Đức Kitô trong linh đạo thánh Tôma
- Đức Kitô là Thầy dạy
- Đức Kitô là gương mẫu
- Mẫu gương luân lý
- Mẫu gương hữu thể
III. Đức Kitô là sự sống
Kết luận. Đức Kitô nhà giảng thuyết
——————–
Bộ Tổng luận thần học được chia làm ba phần. Phần thứ nhất bàn về Thiên Chúa như là nguyên nhân tác thành muôn vật; phần thứ hai bàn về Thiên Chúa như là nguyên nhân cứu cánh của muôn vật; hay – như đã trình bày trong các bài trước đây, dựa theo mô hình exitus / reditus -, tác giả trình bày một chuyển động: mọi vật bắt nguồn từ Thiên Chúa và trở về với Thiên Chúa. Phần thứ ba bàn về Đức Kitô. Một vấn nạn được nêu lên: tại sao đặt Đức Kitô ở phần thứ ba? Phải chăng đức Kitô chỉ là phụ trương? Phải chăng Đức Kitô được thêm vào bởi vì hành trình của con người về với Thiên Chúa đã gặp sự cố, bị gián đoạn do tội lỗi của con người; vì thế Đức Kitô mới xuất hiện để can thiệp? Phải chăng giả như nguyên tổ không phạm tội thì sẽ không còn cần đến Đức Kitô nữa?
Xưa nay nhiều người vẫn nghĩ như thế. Tuy nhiên, theo cha Jean Pierre Torrell, quan điểm của thánh Tôma khác hẳn[1]. Đức Kitô đến trần gian không chỉ để cứu thoát con người khỏi tội lỗi, nhưng còn giúp cho con người thể hiện ơn gọi của mình, đó là trở nên hình ảnh Thiên Chúa, trở nên con cái Chúa. Thánh Tôma tiếp nhận quan niệm của các giáo phụ Đông phương: “Thiên Chúa xuống làm người để đưa con người lên với Thiên Chúa”, hay nói vắn tắt, để con người được “thần hóa” (deificatio). Đức Kitô, Con Thiên Chúa, ban cho ta khả năng được trở thành con của Thiên Chúa, được nên giống Chúa (xc ST I-II, q.112, a.1). Vì thế, ta không nên coi phần thứ ba như là một thứ chữa cháy, nhưng là để hoàn tất điều là hàm chứa trong hai phần đầu. Điều thú vị là thánh Tôma không chỉ trình bày những chân lý khô khan trừu tượng, nhưng còn rút ra những hệ luận cho đời sống tâm linh. Thật vậy, đời sống tâm linh Kitô giáo cốt ở bắt chước Đức Kitô (imitatio Christi), trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô (conformitas Christo) như là con cái của Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, trong một bài giảng tĩnh tâm, không thể nào trình bày toàn bộ Kitô học của thánh Tôma. Chúng ta chỉ muốn dừng lại ở 3 điểm có liên quan đến linh đạo: 1/ Đức Kitô là Thầy dạy. 2/ Đức Kitô là gương mẫu nhân đức. 3/ Đức Kitô là đấng cứu độ chúng ta. Ba điểm này tương ứng với lời tuyên bố của Đức Kitô theo thánh Gioan “Thầy là Đường, là Sự thật, là Sự sống” (Ga 14, 6), tuy với đôi chút thay đổi thứ tự. Trong phần kết luận, chúng ta hãy ngắm nhìn Đức Kitô như là nhà giảng thuyết.
- Đức Kitô là Thầy dạy
Ở đầu sách Tổng Luận Thần học, khi giới thiệu bố cục tác phẩm, thánh Tôma viết rằng: trong phần thứ ba, “chúng tôi sẽ bàn về Đức Kitô như là con đường dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa” (ST I, q.2, Prol). Điều này được lặp lại trong lời mở đầu phần thứ ba (ST III, Prol.). Tuy nhiên, thiết tưởng chúng ta nên hiểu con đường (đạo) theo hai chiều: con đường đưa con người về với Thiên Chúa, và con đường đưa Thiên Chúa đến với con người. Chúng ta đặt tên cho con đường từ con người đến Thiên Chúa là “gương mẫu”; còn con đường từ Thiên Chúa đến với con người là “thầy dạy”. Thực ra sự phân biệt hai chiều không lúc nào cũng rõ ràng, xét vì Đức Kitô dạy không chỉ bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống. Dù sao, chúng ta có dịp nhận ra rằng đối với thánh Tôma, thần học tín lý dẫn đến thần học tâm linh, việc suy gẫm các chân lý đức tin mang kèm theo những yêu sách thực hành trong đời sống.
Chúng tôi xin trích một đoạn văn lấy từ quaestio 1, articulus 2 của Phần Ba, bàn về lý do của cuộc Nhập thể. Tác giả gom các lý do thích đáng vào hai nhóm: thứ nhất để giúp con người tiến trong điều thiện, thứ hai để giúp con người tránh xa điều dữ. Mỗi nhóm có 5 lý do. Nên ghi nhận là những lý do tích cực được đặt trước các lý do tiêu cực.
Trước hết, về những lý do giúp con người tiến triển trong đường lành, thánh Tôma kể ra 5 cách, bốn điểm liên quan đến các nhân đức tin, hy vọng, yêu mến, thực hành các nhân đức; điểm thứ năm liên quan đến hạnh phúc. Thứ nhất, về đức tin, giúp cho con người giúp cho đức tin thêm vững chắc bởi vì biết chắc rằng chính Thiên Chúa là chân lý đã phán dạy. Thứ hai, về đức trông cậy, khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa chứng tỏ lòng yêu thương chúng ta qua việc ngài kết hợp với bản tính loài người. Thứ ba, về đức mến, bởi vì Thiên Chúa đã chứng tỏ tình thương chúng ta khi chết vì chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân (Rm 5,8). Thứ bốn, trong việc thực hành điều tốt, bởi Ngươi đã cho chúng ta thấy một mẫu gương khi trở thành con người ở giữa chúng ta. Thứ năm, sự Nhập thể cho phép chúng ta tham dự vào thiên tính đã kết hợp với nhân tính của đức Kitô, như thánh Augustino đã viết: Thiên Chúa đã làm người ngõ hầu con người được làm Thiên Chúa (sermo 128: PL 39,1997).
Trong nhóm thứ hai, thánh Tôma cũng kể ra năm lý do mà cuộc nhập thể giúp chúng ta tránh xa điều xấu. Thứ nhất, cuộc nhập thể giúp chúng ta đừng sợ ma quỷ, là kẻ thường xúi chúng ta phạm tội, bởi vì Thiên Chúa đã trở nên con người có thân thể, khiến chúng ta đừng coi ma quỷ cao cấp hơn chúng ta vì là loài thần thiêng. Thứ hai, cuộc nhập thể cho thấy phẩm giá cao quý của con người: nếu Thiên Chúa đã đoái thương chấp nhận bản tính con người thì chúng ta phải tránh bất cứ điều gì làm hạ thấp phẩm giá ấy, như thánh Lêô Cả đã nhắc nhở trong bài giảng lễ Giáng sinh. Thứ ba, cuộc nhập thể xóa bỏ tính tự phụ của con người, nghĩ rằng có thể tự mình cứu độ nhờ sức lực của mình; bởi vì Đức Kitô đã đề cao ơn thánh Chúa không tùy thuộc vào công trạng con người, như thánh Augustino đã nói. Thứ bốn, cuộc nhập thể chữa lành vết thương kiêu căng của chúng ta khi cho thấy đức khiêm tốn của Thiên Chúa, như thánh Phaolô viết: “Anh em đã luôn tâm niệm rằng Đức Giêsu Kitô đã tự khiêm tự hạ, Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, giống như người trần thế (Pl 2,5-7). Thứ năm, để giải thoát con người cảnh nô lệ tội lỗi nhờ Đức Giêsu đã đền bù tội lỗi chúng ta: con người không thể nào đền bù tội lỗi của mình, Thiên Chúa cũng không thể đền bù tội lỗi của con người; duy có Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, mới có thể hoàn thành việc đó. (Xem thêm Summa contra gentiles IV, c.54).
Như đã nói, Đức Kitô là Đường xét về cả hai phía. Xét từ phía Thiên Chúa, Đức Kitô là Thầy dạy, bởi vì Người tỏ cho ta biết khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta tìm về như là hạnh phúc của mình. Nên biết là đề tài “Đức Kitô là Thầy dạy” được thánh Tôma bàn ở nhiều chỗ trong Tổng luận thần học trước khi bước sang Phần thứ ba. Chẳng hạn như Phần thứ hai khi đặt cứu cánh con người ở hạnh phúc là được chiêm ngưỡng Thiên Chúa, tác giả cho biết rằng Đức Kitô đã chỉ cho chúng ta con đường đi đến hạnh phúc đích thực khi ban cho chúng ta Luật Mới, hệ tại ân ban Thánh Linh và những lời giảng dạy của bài giảng trên núi.
- Đức Kitô là gương mẫu
Trên đây chúng ta đã chiêm ngưỡng Đức Kitô như là thầy dạy. Người dạy chúng ta bằng lời nói cũng như bằng hành động để chúng ta noi theo. Tin mừng Gioan đã ghi lại lời nhắn nhủ Thầy sau khi đã rửa chân cho các môn đệ: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12-15). Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Corinto: Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Đức Kitô (1Cr 10,31-11,1).
Nhiều tác giả tu đức học đã coi việc bắt chước Đức Kitô như là cốt yếu của đường nên thánh. Cổ điển nhất là tác phẩm De imitatione Christi (gán cho Thomas a Kempis) dịch sang tiếng Việt là “sách Gương phúc”. Trong Tổng luận thần học cũng như trong các tập chú giải Kinh thánh, thánh Tôma đã dành khá nhiều đoạn để bàn về việc “bắt chước Đức Kitô” (imitatio Christi), đi theo Đức Kitô (sequela Christi), trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô (conformitas Christo). Một lần nữa, ta thấy sự liên kết chặt chẽ giữa đức tin và đời sống tâm linh. Đức Kitô là mẫu gương cho chúng ta vì Người vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Chúng ta bắt chước Đức Kitô xét như là con người qua việc thực hành các nhân đức mà Người đã thi hành trong thân phận mỏng giòn của kiếp người, cách riêng vào cuộc khổ nạn. Chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô như là Lời nhập thể, nhờ vậy chúng ta được thông dự vào đời sống thần linh. Thánh Tôma dựa trên các dữ kiện của mặc khải nhưng đồng thời cũng sử dụng dầu óc của mình để phân tích và sắp xếp các dữ kiện đó.
Đức Kitô đã để lại cho chúng ta tấm gương gì? Nhiều lắm, như chúng ta đã có dịp nhắc qua trên đây. Tuy nhiên, theo cha Torrell, nên phân biệt hai cấp độ, được đặt tên là “tấm gương luân lý” (moral exemplarity: bắt chước các hành động của Người) và “tấm gương hữu thể” (ontological exemplarity: bắt chước chức phận làm con Thiên Chúa). Bắt chước luân lý là bắt các việc lành mà Đức Kitô đã làm; tất cả các hành động của Người đều đáng được bắt chước. Bắt chước Đức Kitô là đi theo con đường mà Người đã đi. Mặt khác, Đức Kitô không chỉ là một con người thánh thiện đã để lại mẫu gương nhân đức mà thôi, nhưng Đức Kitô còn là Thiên Chúa làm người. Thực vậy, con người cần phải bắt chước Thiên Chúa như là nguồn gốc và cứu cánh hạnh phúc của mình; thế nhưng làm thế nào con người có thể bắt chước Thiên Chúa vì là điều quá khả năng của mình? May thay, thánh Tôma cho thấy rằng bởi vì là nghĩa tử của Thiên Chúa chúng ta có thể bắt chước Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Trong thế giới nhân loại, những người hào hiệp nhận các nghĩa tử để thông chia gia tài cho chúng. Một cách tương tự như vậy, Thiên Chúa nhân lành đã nhận cho các thụ tạo được chia sẻ những điều thiện hảo của mình. Hơn thế nữa, con người được mời gọi chia sẻ sự thiên hảo của Thiên Chúa bởi vì họ được tạo dựng giống hình ảnh của Ngài và có khả năng chỉa sẻ hạnh phúc với Ngài. Để có khả năng thực hiện ơn gọi ấy, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ân sủng ngõ hầu có thể xứng đáng lãnh nhận gia tài trên trời (ST III, q.23, a.1). Đức Kitô là Con Thiên Chúa trở thành “mẫu gương hữu thể” để cho chúng ta bắt chước. Sau đây chúng ta hãy điểm qua mỗi cấp độ mẫu gương.
- Mẫu gương luân lý
Đề tài này được thánh Tôma đề cập nhiều lần trong Phần Ba, ngay từ khi bàn đến động lực của cuộc Nhập thể, và rồi trải qua những chặng đường của cuộc đời Đức Giêsu. Người đã mặc lấy một thân thể có thể chịu đau khổ để cho chúng ta tấm gương nhẫn nhục biết can đảm chịu đựng những đau khổ và hạn chế của mình (q.14, a.1); Người cầu nguyện để dạy chúng ta biết thường xuyên cầu nguyện với lòng tín thác (q.21, a.3). Bất cứ hành động nào trong cuộc đời Chúa Giêsu (chay tịnh, chịu cám dỗ, sống giữa người đời) đểu mang tính cách gương mẫu như vậy (q.40, a.2 ad 2). Giá trị gương mẫu đạt đến tuyệt đỉnh trong hồi tử nạn, nơi mà Người để lại cho chúng ta mẫu gương vâng phục, khiêm nhường, bền chí, công bình (q.46, a.3). Chúng ta hãy nghe lại bài giảng của thánh Tôma ở Napoli vào mùa Chay năm 1273 khi chú giải Kinh Tin kính liên quan đến “Đức Kitô chịu chết vì chúng ta”[2].
Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đủ để dạy cho chúng ta một mẫu gương trong hết mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Thật vậy, bất cứ ai muốn sống trọn lành thì chỉ cần khinh chê những gì Đức Giêsu đã khinh chê trên Thánh Giá và ao ước những gì Người đã ước ao. Không có một nhân đức nào mà chúng ta không tìm thấy mẫu gương trên cây Thánh Giá.
1) Đức ái
Bạn tìm một mẫu gương về đức ái ư? Thánh Gioan đã chỉ cho thấy (15,13): “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình,” và Đức Giêsu đã thực hiện điều này trên cây Thánh Giá. Nếu Người đã ban mạng sống của mình vì chúng ta, thì chẳng có gì là gian khổ khi chúng ta phải chịu đựng bất cứ một sự dữ vì Người. Vịnh gia đã hát (115,12) : “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho?”
2) Đức kiên nhẫn
Bạn tìm một mẫu gương về đức kiên nhẫn ư? Bạn sẽ tìm thấy một mẫu gương hoàn hảo nhất nơi Thánh Giá. Vì đức kiên nhẫn được chứng tỏ cách cao vời bằng hai cách: hoặc bằng cách kiên trì chịu đựng những điều dữ dằn hoặc bằng cách chịu đựng những cái có thể tránh được nhưng lại không tránh.
Thế nhưng trên Thánh giá, Đức Giêsu đã chịu đựng những đau khổ dữ dằn, vì thế có thể áp dụng lời của ông Giêrêmia trong sách Ai Ca (1,12) “Này tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem, có nỗi khổ nào so sánh được với nỗi khổ của Đức Chúa giáng trên tôi.”, và Người đã chịu đựng một cách kiên nhẫn bởi vì : “Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe” (1 Pr 2,23). “Như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng.” (Is 53,7)
Ngoài ra, Người đã có thể tránh những đau khổ nhưng lại không tránh, như chính Người đã nói với ông Phêrô trong vườn Cây Dầu (Mt 26,53): “Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy và lập tức Cha sẽ cấp cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần sao?” Do đó, sự chịu đựng của Đức Kitô trên cây Thập Giá thật là vĩ đại: “Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục.” (Dt 12,1-2)
3) Đức khiêm nhường
Bạn tìm kiếm mẫu gương về đức khiêm nhường ư? Hãy nhìn lên Đấng chết treo trên cây Thánh Giá. Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã chịu để cho Phong-xi-ô Phi-la-tô xét xử và chịu chết. Chúng ta có thể nói về Người: “Vụ án của người đã bị xét xử như vụ án của kẻ tội phạm.” (X. G 36,17). Thật giống như vụ án của kẻ tội phạm bởi vì những kẻ thù của Người có thể nói (Kn 2,20): “chúng ta hãy kết án cho Nó chết nhục nhã.” Ông Chủ đã muốn chết vì tôi tớ của Mình và sự sống của các Thiên Thần đã chịu sát tế vì con người. Thánh Phaolô đã viết (Pl 2,8): “Đức Kitô Giêsu đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên Thánh giá.”
4) Đức vâng lời
Bạn muốn tìm kiếm mẫu gương về đức vâng lời ư? Hãy đi theo Đức Kitô, Đấng đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết. Thánh Tông đồ viết cho các tín hữu Rôma (5,19): “Cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.”
5) Khinh chê của cải trần gian
Bạn muốn tìm mẫu gương về sự khinh chê của cải trần gian ư? Hãy đi theo Đấng là Vua các Vua và Chúa các Chúa, nơi Người có tất cả mọi kho tàng sự khôn ngoan (Cl 2,3), thế mà trên Thánh giá, Người bị trần truồng, nhạo báng, đánh đòn, đội mão gai, uống giấm chua và mật đắng, và cuối cùng chịu chết. Do đó, đừng quan tâm tới y phục hoặc của cải của bạn, vì “quân lính đã chia áo của tôi” (Tv 21,19), cũng đừng quan tâm tới danh dự, bởi vì “chính Tôi phải chịu cười nhạo và bị đập đánh”; cũng đừng quan tâm đến chức vị, bởi vì chúng kết một vòng gai và đội lên đầu tôi; cũng đừng quan tâm tới khoái lạc, vì “lúc con khát nước, chúng lại cho uống giấm chua.” (Tv 68,22). Vì thế, khi chú giải thư Do-thái đoạn 12 câu 2 (Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục) thánh Âu-tinh nói rằng: “Con người Giêsu Kitô đã khinh chê mọi của cải trần gian để dạy cho biết những gì phải khinh chê”.
Toàn thể cuộc đời Chúa Giêsu là bài học, từ khi sinh ra cho đến lúc chịu chết trên thập giá và kể cả cuộc Phục sinh và Thăng thiên nữa. Một đặc trưng của Kitô học thánh Tôma là không chỉ trình bày mầu nhiệm Nhập thể của Ngôi Lời, sự kết hợp giữa hai bản tính với một ngôi vị (quaestiones 1-26), mà còn trình bày cuộc đời của Đức Kitô (quaestiones 27-59), qua đó Người hoàn tất công trình cứu độ loài người. Như chúng ta đã biết, các “mầu nhiệm cuộc đời Đức Kitô” đã trở thành đề tài cho các sách suy niệm và cầu nguyện, chẳng hạn như Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (số 512-580) và các mầu nhiệm kinh Mân Côi.
- Mẫu gương hữu thể
Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, con người là hình ảnh của Thiên Chúa, và phải trở nên giống Thiên Chúa. Để thực hiện ơn gọi, con người cần một mẫu gương từ chính Thiên Chúa, con người cần Thiên Chúa mặc khải chính mình, ngõ hầu có thể biết được Thiên Chúa và kết hiệp với Ngài. Đó là lý do của sự cần thiết của Ngôi Lời nhập thể. Con người không chỉ cần đến tấm gương của một thầy dạy luân lý các nhân đức, nhưng còn cần đến tấm gương của chính Lời Thiên Chúa để bắt chước.
Theo thánh Tôma, có ba cách thức bắt chước Lời của Thiên Chúa. Thứ nhất, các thụ tạo có thể bắt chước Ngôi Lời tùy theo hình thái của mình. Tất cả mọi loài thụ tạo có thể bắt chước Ngôi Lời bởi vì muôn loài được tạo dựng nhờ Ngôi Lời. Thứ hai, loài người có thể bắt chước Ngôi Lời theo hình thái có lý trí của minh. Thứ ba, nhờ ân sủng và đức mến, chúng ta bắt chước Lời của Thiên Chúa dựa theo việc Người hợp nhất với Chúa Cha. Đức Kitô là Con Thiên Chúa do bản tính; chúng ta trở nên con Thiên Chúa nhờ ơn làm nghĩa từ do Thánh Linh ban tặng (III, q.23, a.4, ad 2).
Đến đây, sự bắt chước hàm ngụ một sự biến đổi bản thể: từ loài thụ tạo chúng ta được biến đổi nên con cái Thiên Chúa. Điều này hàm ngụ một ơn huệ từ trên ban xuống chứ không phải do khả năng tự nhiên của con người.
III. Đức Kitô là sự sống
Mặc dù hai tư tưởng “thầy dạy” và “gương mẫu” đã nói lên tầm quan trọng của Đức Kitô đối với đời sống tâm linh Kitô giáo, cách riêng khi chúng ta muốn so sánh với các vị sáng lập của các tôn giáo khác, nhưng chưa đủ. Xem ra vai trò của Đức Kitô mới chỉ là kẻ hướng đạo, hay nói theo một hình ảnh quen thuộc bên Phật giáo, Người chỉ cho thấy mặt trăng ở đâu, và chúng ta hãy nhìn lên mặt trăng chứ đừng ngó ngón tay của người hướng đạo. Thế nhưng vai trò của Đức Kitô còn hơn thế nữa, bởi vì Người còn là nguồn mạch ân sủng do công trình cứu chuộc mà Người đã thực hiện. Đức Kitô là Đấng Cứu độ của chúng ta. Trong giới hạn của một bài thuyết trình về linh đạo thánh Tôma, thiết tưởng chỉ cần dừng lại ở một tư tưởng đặc trưng của vị tiến sĩ thiên thần, đó là Đức Kitô là nguyên ủy của ân sủng; Người nhận được ân sủng trong tư cách là đầu (nguyên thủ) của nhân loại. Đức Kitô không phải là một kẻ đứng ở bên ngoài chúng ta, nhưng là đầu của thân thể mà chúng ta là những chỉ thể. Đây là một khái niệm diễn tả điều mà Tin mừng Gioan đã viết (Ga 10,10): “Tôi đến để cho họ được sống và sống dồi dào”. Từ sự sung mãn ân sủng của Đức Kitô, mà chúng ta lãnh nhận được các ân sủng, hết ơn này đến ơn kia (Ga 1,16). Thánh Tôma đã dành quaestio 8 để bàn về ân sủng của Đức Kitô như là đầu của Hội thánh (với 8 articuli).
Như chúng ta đã biết, vào thế kỷ XIII, môn Giáo hội học chưa ra đời. Vì thế trong Tổng luận thần học, chúng ta không thấy một khảo luận về Giáo hội học (cũng như không thấy một khảo luận về Thánh mẫu học). Nói thế không có nghĩa là thánh Tôma không có khái niệm gì về Giáo hội. Đúng ra, quan niệm của ngài về Giáo hội rộng hơn các nhà thần học sau đó. Trong quaestio 8, articulus 3, thánh Tôma cho thấy Hội thánh là thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô bao gồm toàn thể nhân loại với nhiều cấp độ khác nhau:
“Thân thể Hội thánh được cấu thành bởi hết mọi người bắt đầu từ lúc khởi đầu cho đến kết thúc thế giới, và bao gồm cả những người có ân sủng cũng như những người không có hoặc chưa có ân sủng. Vì thế các phần tử của Hội thánh cần được xét theo thực thụ cũng như theo tiềm thể nữa. Một số người ở trong tiểm thể mà sẽ không bao giờ trở thành thực thụ; một số khác đã đến chỗ thực thụ theo ba cấp: đức tin, đức mến dưới đất, hạnh phúc trên trời. Vì thế Đức Kitô là đầu của toàn thể nhân loại nhưng tùy theo cấp độ. Chính yếu Người là đầu của những kẻ đã kết hợp với Người trong vinh quang. Thứ hai, Người là đầu của những kẻ kết hợp với Người trong đức mến. Thứ ba, Người là đầu của Người kết hợp thực thụ trong đức tin. Thứ bốn, Người là đầu của những kẻ kết hợp trong tiềm thể và sẽ sang thực thụ do sự tiền định. Sau cùng, thứ năm, Người là đầu của những kẻ kết hợp trong tiềm thể nhưng sẽ không bao giờ chuyển thành thực thụ, chẳng hạn như những người người sống trên đời này mà không được tiền định. Những người này sẽ không còn là thành phần của Đức Kitô khi họ ra khỏi đời này, bởi vì bấy giờ họ chẳng còn kết hiệp với Đức Kitô theo tiềm thể nữa.”
Nên ghi nhận là cấp thứ bốn bao gồm cả những người chưa được rửa tội. Họ cũng là thành phần của Hội thánh, bởi vì khi trả lời vấn nạn thứ nhất, thánh Tôma cho biết rằng dù những người ấy chưa thực thụ ở trong Hội thánh, nhưng họ thuộc về Hội thánh trong tiềm năng, xét vì họ đang khao khát ơn cứu độ. Thiết tưởng điều này mang theo nhiều hệ luận cho cuộc đối thoại liên tôn.
Trên thực tế, là Kitô hữu, chúng ta nhìn nhận Đức Kitô là suối nguồn ân sủng nhờ Lời và các bí tích, trong đó nổi bật nhất là bí tích Thánh Thể, nhờ đó chúng ta được nên một với Người và được biến đổi trở nên giống với Người.
Công trình cứu độ của Đức Kitô có thể được trình bày dưới nhiều khía cạnh khác nhau, chẳng hạn qua việc phân tích ba chức vụ của Đấng Mesia (được xức dầu), đó là “ngôn sứ – vua – tư tế” (q.22, a.1, ad 3; q.31, a.2). Qua các chức vụ ấy, Đức Kitô thực hiện vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Thời giờ không cho phép chúng ta đi sâu vào các đề tài ấy[3]. Chúng tôi chỉ xin dừng lại một hình ảnh có liên quan đến ơn gọi của chúng ta, đó là Đức Kitô nhà giảng thuyết.
Kết luận: Đức Kitô nhà giảng thuyết
Trước khi đi vào nội dung, thiết tưởng nên phân biệt ba khía cạnh khác nhau của vấn đề:
(i) Thánh Tôma nhà giảng thuyết. Đây là một khía cạnh ít được quan tâm khi nghiên cứu các tác phẩm của ngài[4]. Thường các học giả để ý đến các bộ Tổng luận thần học, các quyển chú giải Kinh thánh, là những tác phẩm được soạn để dùng vào việc dạy học. Nhưng thánh Tôma còn là nhà giảng thuyết nữa, và việc giảng thuyết cũng là một công tác của giáo sư thần học. Hiện nay, khoa phê bình đã sưu tập được 19 bài giảng, qua đó người ta có thể rút ra vài nhận xét về phương pháp giảng thuyết.
(ii) Những suy tư của thánh Tôma về sứ vụ giảng thuyết, rải rác trong các tác phẩm của ngài, đặc biệt là trong các quyển chú giải Kinh thánh[5].
(iii) Suy niệm về Đức Kitô như nhà giảng thuyết, và từ đó rút ra những bài học cho những ai được mời chia sẻ sứ vụ giảng thuyết của Người. Ở đây, chúng ta xét đến khía cạnh thứ ba, dựa theo một bài viết của cha Jean Pierre Torrell[6]. Tác giả sử dụng hai bản văn làm nền tảng: 1/ Một là quaestio 42 trong Phần Ba của Tổng luận thần học. 2/ Hai là bải giảng mùa chay năm 1271, dựa theo dụ ngôn về người gieo giống nói ở Lc 8,5-8.
- ST III, quaestio 42
Quaestio 42 bàn về việc giảng dạy của Đức Kitô, gồm 4 articuli: tại sao Người chỉ giảng cho cho người Do thái mà không giảng cho dân ngoại? Lời lẽ của Người có gây đụng chạm với ai không? Người giảng kín đáo hay công khai? Tại sao Người không viết sách? Sau đây là câu trả lời.
1/ Đức Giêsu dành ưu tiên sứ vụ của mình cho dân Do thái vì muốn trung thành với lời hứa cùng các tổ phụ. Sau khi phục sinh, Người sai các môn đệ đến muôn dân khi mà mặc khải đã được hoàn tất với việc mặc khải thiên tính của Người cùng với việc ban Chúa Thánh Linh.
2/ Chúa Giêsu có nói những lời xúc phạm đến các người Do thái không?
Khi giảng dạy, Chúa Giêsu không tìm cách chiều lòng các thính giả, nhưng tìm ơn cứu độ của họ. Cũng như các ngôn sứ, Người rao giảng sự thật, dù biết rằng nói thật thì mất lòng.
3/ Chúa Giêsu giảng dạy công khai hay kín đáo?
Đối lại với những khuynh hướng mật giáo hay bi truyền đề cao các mặc khải tư, thánh Tôma nói rằng Chúa Giêsu giảng công khai chứ không bí mật. Tuy có khi Người dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời bởi vì các thính giả không đủ khả năng lĩnh hội, nhưng sau đó, Người lại giải thích cho các môn đệ để họ hiểu.
4/ Tại sao Chúa Giêsu giảng dạy chứ không viết sách?
Thánh Tôma đưa ra ba lý do thích hợp. Thứ nhất, bởi vì Người muốn in sâu đạo lý vào con tim của thính giả hơn là trên sách vở. Điều này, các thầy giáo ngoại đạo như Pythagoras và Socrates đã từng làm. Thứ hai, bởi vì đạo lý cao siêu phong phú không thể nào chứa được trong một cuốn sách. Thứ ba, Người muốn đi theo một thứ tự trong việc rao giảng: trước tiên, Người muốn dạy cho các môn đệ để rồi đến lượt các ông sẽ truyền bá đạo lý cho hậu thế bằng sách và thư. Người muốn cho các tông đồ cũng được tham gia vào sứ mệnh rao giảng ơn cứu độ. Người đã kêu gọi các môn đệ để họ sống với Người, thấm nhuần đạo lý của Người. Họ phải từ bỏ tất cả để gắn bó với Người. Họ phải rao giảng nhờ quyền năng của ơn thánh chứ không phải do tài năng cá nhân.
- Bài giảng về dụ ngôn người gieo giống(Lc 8,3-8)
1/ “Người gieo giống đi ra”
- a) Đối với Chúa Giêsu, “Người đi ra” có nghĩa là ra khỏi lòng Chúa Cha để đến thế gian.
- b) Đối với nhà giảng thuyết, “đi ra” có ba nghĩa: (i) ra khỏi tội lỗi, vì nếu mình là người tội lỗi thì làm thế nào mà giảng dạy người khác từ bỏ tội lỗi được; (ii) ra khỏi thế gian, rời bỏ tất cả mọi sự để đi theo Chúa, vác thập giá với Chúa; (iii) ra khỏi đời sống chiêm niệm để rao giảng Lời Chúa cho tha nhân. Chiêm niệm là điều tốt, nhưng chuyển thông cho tha nhân sự phong phú của việc chiêm niệm thì tốt hơn (x. ST II-II, q. 188, a.6). Chính Chúa Giêsu đã chọn nếp sống ấy (x. III, q.40, a.1, ad 2).
2/ Hạt giống gieo vào đất tốt
Hạt giống gieo vào đất tốt và sinh hoa trái. Việc gieo lời Chúa phát sinh hoa trái tốt khi người ta lắng nghe lời bằng tai, yêu mến lời bằng con tim, và đem ra thực hành bằng việc lành. Ai đón nhận Lời Chúa như thế sẽ được an ủi vì được làm con cái của Thiên Chúa, và sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ.
———————-
[1] Jean-Pierre Torrell, Saint Thomas Aquinas, vol.II: Spiritual Master, The Catholic University of America Press, Washington DC, 2003, trang 101-112.
[2] Hồ Vĩnh Thịnh (biên dịch), Kinh Tin kính theo chú giải của thánh Toma Aquino, Học viện Đaminh 2015, trang 69-72.
[3] Nên biết là thánh Tôma dành quaestio 22 của pars III để bàn về chức vụ tư tế của Đức Kitô.
[4] Jean-Pierre Torrell, La pratique pastorale d‘un théologien du XIIIè sièecle: Thomas d’Aquin prédicateur in: Revue Thomiste 82 (1982) 213-45. Jean-Pierre Torrell, Thomas d’Aquin: Sermons. Traduction Française d’après le Texte Latin de l’Édition Léonine, Paris, 2014).
[5] Joachim Walsh, Thomas on preaching, https://www.dominicanajournal.org/wp-content/files/old-journal-archive/vol5/no4/dominicanav5n4stthomasonpreaching.pdf
[6] Jean-Pierre Torrell, Christ and Spirituality in Thomas Aquinas, The Catholic University of America Press, Washington D.C., 2011, (Chapter 8: The Sower Went Out to Sow: The Image of Christ the Preacher in Friar Thomas Aquinas), p.159-173. Nguyên tác tiếng Pháp: Le semeur est sorti pour semer. L’image du Christ prêcheur chez frere Thomas d’Aquin, La Vie Spirituelle 147 (1993) 657-670.
IV. Bài 4: Thánh Linh trong linh đạo thánh Tôma
- Thánh Linh trong các tác phẩm của Tôma
- Summa Theologiae
- Summa contra gentiles
- Chú giải Kinh thánh
- Tổng hợp
- Căn tính của Thánh Linh là trao tặng (Donum)
- Thánh Linh cốt lõi của Luật mới (lex nova)
- Thánh Linh trái tim của Hội thánh
- Các đặc sủng
————————–
Như đã nói trong bài mở đầu, từ “linh đạo” (spiritualitas) trong tiếng Việt còn mới mẻ và gây nhiều tranh luận về ý nghĩa của thuật ngữ. Chúng ta hiểu cách đơn giản như là đời sống dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh (vita spiritualis). Hai bài suy gẫm cuối cùng được dành cho ngài. Bài hôm nay muốn trình bày đạo lý về Thánh Linh trong các tác phẩm của thánh Tôma cùng tác động của Ngài trong Hội thánh, còn bài tới sẽ bàn về tác động của Ngài trong mỗi cá nhân, quen gọi là “đời sống tâm linh”.
Cho đến ngày hôm nay, nghĩa là bắt đầu thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, trong chương trình đào tạo thần học tại nhiều chủng viện và học viện công giáo (kể cả học viện Đaminh), không có môn Thần-khí-luận (hoặc Thánh-Linh-học: Pneumatologia); vì thế chúng ta không thể nào đòi hỏi một tác giả sống vào thế kỷ XIII phải cung cấp cho ta một khảo luận có hệ thống về Thánh Linh. Thánh Tôma bàn về Thánh Linh rải rác trong nhiều tác phẩm. Sau khi rảo qua một vòng các tác phẩm quan trọng, chúng ta sẽ tổng kết để nêu bật những nét độc đáo của thần học về Thánh Linh theo thánh Tôma[1].
- Điểm qua các tác phẩm
Chúng ta sẽ xét đến các tác phẩm chính, được phân làm ba mục: 1/ Summa Theologiae; 2/ Summa contra gentiles. 3/ Các quyển chú giải Thánh kinh. Sự phân chia này đi từ chỗ quen đến chỗ lạ, chứ không theo thứ tự thời gian biên soạn của tác giả. Bộ Tổng luận thần học quen thuộc với chúng ta hơn cả, nhưng được soạn vào những năm cuối đời.
- Summa Theologiae
Trong bộ sách này, Thánh Linh được bàn cách đặc biệt trong Prima và Secunda pars.
1/ Trong Prima pars.
Thánh Linh được nghiên cứu trong những đoạn bàn về mối tương quan giữa Tam vị (I, q.27-38): sự phát xuất và sự phái cử. Thánh Linh phát xuất từ Cha và Con, theo hướng của Tình yêu. Kế đó, tác giả đã phân tích các danh xưng của Ngài theo Thánh Kinh, cách riêng Spiritus (Thần khí: q. 36), Amor (Tình yêu: q. 37), Donum (Tặng phẩm: q.38). Những danh hiệu này sẽ cung cấp chìa khóa để hiểu biết tác động của Thánh Linh trong Hội thánh và trong các tâm hồn, như sẽ thấy trong phần tổng hợp.
2/ Trong Prima Secundae.
Thánh Linh được đề cập trong 3 khối:
- a) Các ân huệ Thánh Linh, cần thiết để được cứu độ, cùng với các chân phúc và hoa trái Thánh Linh (q.68-70). Một nét đặc trưng của Tôma là liên kết giữa các ân huệ, chân phúc và hoa trái Thánh Linh khi bàn về động lực của đời sống tâm linh[2].
- b) Cốt yếu của Luật mới hệ tại ân sủng Thánh Linh, tức là Tin mừng được viết vào trái tim (q.106-108);
- c) Ân sủng (q.109-114).
3/ Nói chung, thánh Tôma trình bày hoạt động của Thánh Linh trong ba lãnh vực sau đây:
- a) Sự hiểu biết chân lý, dù là tự nhiên hay siêu nhiên. Tất cả mọi chân lý, dù bởi bất kỳ ai nói, cũng đều bắt nguồn bởi Thánh Linh (Omne verum, a quocumque dicatur, a Spiritu Sancto est; I-II, q.109, a.1 ad 1; cf. I, q.12, a.12, ad 3)[3]. Nhận xét này giúp ta có thái độ cởi mở tìm kiếm chân lý trong các nền văn hóa, và đối thoại với hết những ai đang tìm kiếm chân lý trọn vẹn, bởi vì thâm tín rằng đó là những hạt giống do chính Thánh Linh đã gieo trong tâm hồn mỗi người và trong nền văn hóa các dân tộc.
- b) Hoạt động siêu nhiên: Cần phải gán cho Thánh Linh không chỉ là các ân huệ mà cả các nhân đức hướng Chúa khi được thi hành vì yêu thích điều thiện (I-II, q.70, a.1). Nhờ Thánh Linh, nhân loại đã bước sang chế độ giao ước mới, không còn sống đưới lề luật nữa, nhưng là dưới sự tự do của Thánh Linh (I-II, q.93, a.6, ad 1, trích 2Cr 3,17).
- c) Thánh Linh cư ngụtrong linh hồn người công chính, thúc đẩy họ sống đức ái (I-II, q.109, a.9, ad 2).
Dù sao, xem ra Summa Theologiae chỉ chú ý đến hoạt động của Thánh Linh trong các tín hữu; còn Summa contra gentiles mở rộng ra toàn thể lịch sử cứu độ[4]. Chúng ta hãy rảo qua tác phẩm này, biên soạn sớm hơn (1259-1265).
- Summa contra gentiles
Thánh Linh được bàn trong quyển Bốn, từ chương 15 đến chương 24. Trước hết tác giả tìm hiểu đức tin Công giáo về Thánh Linh trong mầu nhiệm Tam vị. Kể từ chương 20, tác giả trình bày vai trò của Thánh Linh trong kế hoạch cứu độ. Mặc dù nhìn nhận công trình của tất cả Tam vị trong kế hoạch cứu độ, nhưng thánh Tôma quy gán tất cả cho Thánh Linh, trong lãnh vực tự nhiên cũng như trong lãnh vực siêu nhiên, nhìn dưới viễn tượng của tình yêu.
– Dựa theo Kinh thánh, tác giả khởi đi từ lãnh vực tự nhiên, và gán cho Thánh Linh những công cuộc sau đây (IV CG c.20): 1) Việc tạo dựng (Tv 103,30). 2) Chuyển động của vạn vật (St 1,2). 3) việc điều hành vạn vật (2Cr 3,17); việc linh hoạt vạn vật, nghĩa là ban sự sống cho chúng (Ed 37,5; Ga 6,64). Cách riêng, vì tác giả gán cho Thánh Linh việc điều hành và linh hoạt vạn vật (nghĩa là gồm cả lịch sử thế giới và Hội thánh), cho nên trong Tam vị, Ngài được coi như Ngôi vị gần gũi hơn cả với các loài thụ tạo, cách riêng gần với những ai được thúc đẩy bởi đức mến.
– Trong lãnh vực siêu nhiên, đối với con người, Thánh Linh được gán cho những công việc sau đây (IV CG c.21): 1) Đức mến, tức là tình yêu siêu nhiên đối với Thiên Chúa (Rm 5,5). 2) Những hoạt động do đức mến thúc đẩy. 3) Tình nghĩa thân thiết với Thiên Chúa cư ngụ trong linh hồn người công chính (Ga 14,23; 1Cr 3,16). 4) Tỏ lộ những điều huyền nhiệm về Thiên Chúa (Ga 15,15; 1 Cr 2,9-10). 5) ơn linh hứng để nói về Thiên Chúa (2Pr 1,21; Mt 10,20). 6) Tất cả những ân huệ khác của Thiên Chúa, bao gồm cả các chân phúc và tình nghĩa tử (1Cr 12,11; Rm 8,15). 7) Sự tha thứ tội lỗi (Ga 20,22-23). 8) Thanh luyện hoặc đổi mới đời sống tâm linh (Tv 103,30; Ep 4,23).
– Trong chuyển động của thụ tạo trở về với Thiên Chúa, thánh Tôma đề nghị một lộ trình độc đáo của đời sống tâm linh (IV CG c.22).
1) Tình thân mật đối với Thiên Chúa nhờ ân sủng của Thánh Linh (Pl 3,20) được diễn tả qua việc chiêm ngắm (contemplatio): Thánh Linh biến chúng ta thành những người chiêm ngắm Thiên Chúa (2Cr 3,18).
2) Sự thân mật vì được sống gần bên Chúa mang lại cho ta niềm vui (Rm 14,17), nhờ đó chúng ta có thể đương đầu với những nghịch cảnh của cuộc đời. Thánh Linh được gọi là Đấng An ủi (Paraclitus: Ga 14,26)
3) Việc sống thân mật với Thiên Chúa như bạn hữu đưa chúng ta đến chỗ hòa hợp ý muốn của ta với ý của Chúa, giúp chúng ta thi hành ý Ngài (Ga 14,15).
4) Thánh Linh giúp chúng ta sống tinh thần tự do của con cái: hành động vì tình yêu chứ không như nô lệ (Rm 8,15).
5) Thánh Linh hướng chúng ta đến sự thiện, vì thế chúng ta được giải thoát khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi (Gl 5,18), và hủy diệt những công việc của xác thịt (Rm 8,13).
Tóm lại, tất cả đời sống Kitô hữu được đặt dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh.
- Các chú giải Kinh thánh
Thánh Tôma bàn đến vai trò Thánh Linh trong đời sống Giáo hội, đặc biệt khi chú giải các thư thánh Phaolô gửi Rôma và Tin mừng Gioan[5].
1/ Chú giải thư Rôma
Trong chương 8, thánh Tôma giải thích “luật của Thần khi” là Thánh Linh, nguyên ủy đời sống Kitô hữu, giải thoát loài người khỏi tội lỗi và sự chết. Luật của Thần khí không những dạy cho lý trí biết điều gì phải làm mà còn thúc đẩy ý chí để thi hành nữa. Mặt khác, luật của Thần khí cũng có thể hiểu như là hiệu quả của Thánh Linh, đó là đức tin được linh động bởi tình yêu. Trong Tân ước, luật của Thần khí có thể được hiểu như là chính Thánh Linh, hoặc như là tác động của ngài trong tâm hồn.
Cũng trong chương 8, thánh Tôma nói đến vai trò của Thánh Linh trong việc cầu nguyện khi chú giải câu văn “Thánh Linh cầu thay nguyện giúp cho chúng ta vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải”. Thực ra chúng ta biết là cần phải cầu nguyện nói chung, nhưng chúng ta không biết cầu xin điều thích hợp trong trường hợp cụ thể; vì thế cần Thánh Linh giúp chúng ta cầu nguyện bằng cách gợi lên những ước ao chính đáng.
2/ Chú giải Tin mừng Gioan
Trong tác phẩm này, Thánh Linh được nhắc đến 600 lần khi đề cập đến bản tính và sứ vụ của Ngài.
Ngay từ khi chú giải dẫn nhập, thánh Tôma đã giải thích “đầy tràn ân sủng và chân lý” (Ga 1,14) theo chiều hướng các ân huệ và hoa trái Thánh Linh.
Khi chú giải cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu với ông Nicođêmô (c.3), thánh Tôma ví tác động Thánh Linh như gió: điều này muốn nói đến quyền năng của Thánh Linh, nhắc nhở chúng ta qua tiếng nói lương tâm hay những lời giảng dạy từ bên ngoài, và ngài dẫn dắt chúng ta đến những nơi mà ta không ngờ.
Khi chú giải chương Bốn, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samaria cạnh bờ giếng ông Giacob, tác giả nêu bật Thánh Linh như là nguồn mạch vô tận trào ra mọi ân sủng.
Vai trò của Thánh Linh được bàn sâu hơn trong chú giải các diễn từ của Chúa Giesu trong bữa Tiệc Ly. Thánh Linh được Chúa Cha phái đến như là Thần khí của Tình yêu. Ngài cũng giúp cho các tông đồ hiểu biết những giáo huấn của Chúa Giêsu. Mặt khác, nếu Thánh Linh không ngự trong tâm hồn những người nghe sứ điệp thì các lời giảng của các sứ giả không gây tác dụng nào. Bước sang chú giải chương 15, thánh Tôma mô tả những hoa trái của Thánh Linh: cao minh, hiền hậu, vui tươi, an ủi và bình an.
Đoạn văn cuối cùng nhắc đến Thánh Linh là bài chú giải mẻ cá lạ lùng ở chương 21. Tiếp theo các giáo phụ, thánh Tôma giải thích con số 153 như là nhân cấp 7 ân huệ Thánh Linh (7 x 7 +1 = 50. 3 x50 + 3 = 153).
- Tổng hợp
Từ những tư tưởng trên đây, bước sang phần thứ hai, chúng ta thử đúc kết vài đặc điểm của thần học thánh Tôma về Thánh Linh, xoay quanh năm điểm sau đây: 1/ Căn tính của Thánh Linh: Tình yêu và Trao tặng. 2/ Thánh Linh trong lịch sử cứu độ: Luật mới. 3/ Thánh Linh trong Hội thánh: Ngài là linh hồn và trái tim. 4/ Các đặc sủng Thánh Linh. 5/ Các ân huệ Thánh Linh (điểm cuối cùng sẽ được khai triển trong bài tới).
- Căn tính của Thánh Linh là Trao tặng(Donum)
Như đã nói, khi bàn về danh xưng của Thánh Linh trong sách Tổng luận thần học, thánh Tôma chọn lọc ba danh từ: Spiritus, Amor, Donum. Tuy nhiên, xem ra tác giả ưng ý với hai danh xưng cuối cùng, đó là Tình yêu và Trao tặng, hay nói chính xác hơn nữa, gom lại thành một, tức là: Trao tặng Tình yêu. Danh hiệu này giải thích nguồn gốc cũng như bản tính của Thánh Linh. Thật vậy, trao tặng có nghĩa là cho đi mà không đòi lại, một sự trao ban vô điều kiện. Động lực của việc trao tặng là tình yêu, bởi vì khi tặng ai một món quà là vì ta yêu họ. Vì Thánh Linh phát xuất từ tình yêu giữa Cha và Con, cho nên Ngài xuất phát như là Tình yêu, tình yêu trao tặng giữa Cha và Con; Ngài trở thành Sự Trao tặng nguyên thủy, biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa, và trở nên nguồn gốc cho các ân huệ ban cho các thụ tạo (I, q.38, a.2., corpus; xc. q.37). Đó cũng là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định ở Rm 5,5: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Linh mà Ngài ban cho chúng ta”.
Tình yêu trở thành viễn ảnh tiếp cận chính của thánh Tôma khi trình bày hoạt động của Thánh Linh trong lịch sử cứu độ. Chúng ta sẽ lần lượt điểm qua tác động của Ngài trong khung cảnh của Luật mới (Lex Nova), rồi đến trong Hội thánh và trong các linh hồn: tất cả đều là ân ban của tình yêu.
- Thánh Linh, cốt lõi của Luật mới
Mỗi lần nghe nói tới luật, đầu óc chúng ta lập tức liên tưởng đến một số nghĩa vụ do nhà cầm quyền áp đặt trên đầu người dân. Nói cách khác, luật trái ngược với tự do. Ngoài ra, trong Tân ước, khi đọc thư thánh Phaolô (chẳng hạn thư gửi Galat) chúng ta thấy có sự đối chọi giữa Lề luật với Ân sủng (Đoạn văn Ga 1,17 cũng gợi lên điều ấy). Trong lịch sử Giáo hội, không thiếu những phong trào đối lập giữa cơ chế và thần khí. Vào hồi thế kỷ XIII, Giáo hội phải đương đầu với nhóm Thần khí (Spirituales) chịu ảnh hưởng của viện phụ Joachim Fiore (k.1130-1202), cho rằng kỷ nguyên của Đức Kitô đã kết thúc, nhường chỗ cho kỷ nguyên của Thần khí, trong đó Hội thánh được cai quản không phải bởi hàng phẩm trật nhưng là bởi những con người thần khí. Thánh Tôma đã cố gắng dung hòa tất cả các khuynh hướng ấy khi bàn đến “Luật mới” (Lex Nova), mà bản chất là luật tự do, luật ân sủng, luật Thần khí. Thậm chí cốt yếu của Luật mới là Thần khí nhưng không thể nào loại bỏ Đức Kitô.
Để nắm bắt được tư tưởng của thánh Tôma, chúng ta cần phải sửa lại một vài quan niệm lệch lạc. Trước hết, theo thánh Tôma, luật không phải là mệnh lệnh mù quáng của ý chí nhưng là chỉ thị của lý trí nhằm đạt đến ích chung của cộng đồng. Thứ đến, thánh Tôma bàn đến nhiều thứ luật như là những chặng đường mà Thiên Chúa dạy dỗ nhân loại, từ luật vĩnh cửu đến luật tự nhiên, từ luật Cựu ước đến luật Tân ước, tất cả nhằm giúp con người đạt đến hạnh phúc. Đó là những chặng của lịch sử cứu độ, từ tạo dựng đến ân sủng, từ tự nhiên đến mặc khải. Thời giờ không cho phép dài dòng về đề tài này, vì thế chỉ xin tóm lại vài điểm căn bản của Luật Mới. Trong Tổng luận thần học, thánh Tôma đã dành ba quaestiones 106-108 trong I-II để bàn về Luật Mới, xoay quanh ba điểm: 1/ Khái niệm. 2/ Đối chiếu luật mới với luật cũ. 3/ Nội dung của luật mới.
1/ Khái niệm
Luật Mới tức là giao ước mới giữa con người với Thiên Chúa, có khả năng mang lại ân sủng. Giao ước mới được thiết lập trong cái chết của Đức Kitô trên thập giá vì yêu thương nhân loại. Vì thế luật Mới là luật của tình yêu; tình yêu trở thành nền tảng và nguồn mạch của đời sống Kitô hữu. Cốt yếu của luật mới là ân sủng được thông ban cho ta bởi Thánh Linh. Ân sủng này được thành hình do hy tế của Đức Kitô, nhờ đó chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và được trở nên con cái Chúa.
Đạo lý của thánh Tôma dựa theo thánh Phaolô, đặc biệt là thư gửi Roma và thư gửi Galat. Vì thế tác giả cũng dựa theo các bản văn ấy để đặt tên cho nó: luật Mới là luật Tin mừng, bởi vì được chứa trong Tin mừng; luật của đức tin (I-II, q.106, a.3; xc. Rm 3,27), luật của ân sủng (ibid), luật của chân lý (I-II, q.107, a.2), luật của sự trọn hảo (I-II, q.107, a.3), luật của tình yêu (I-II, q.107, a.1, ad 2), luật của tự do (I-II, q.108, aa 1,2,4; dựa theo Gc 1,25; 2,2; Gl 2,4.31; 5,30).
2/ So sánh Luật Mới và Luật Cũ
Luật Cũ thường chỉ quy định những hành vì bên ngoài; Luật Mới chi phối cả những hành vi nội tại. Luật Cũ hướng đến những điều thiện ở trần thế này; Luật Mới hướng đến những điều thiện tinh thần. Luật Cũ nhắm giúp con người tuân hành ý Chúa bằng những đe dọa và hình phạt; Luật Mới giúp con người thi hành ý Chúa bằng tình yêu do Thánh Linh đổ vào tâm hồn chúng ta. Luật Mới được ghi trong con tim chứ không khắc trên bia đá như là Luật Cũ.
3/ Nội dung của Luật Mới
Cốt yếu của Luật Mới là ân sủng được Thánh Linh đổ xuống tâm hồn ta, nhờ việc tin nhận Đức Kitô. Tuy nhiên, con người gồm bởi linh hồn và thể xác, cho nên bên cạnh cốt lõi là ân sủng Thánh Linh trong linh hồn, còn có những hành vi bên ngoài nữa, hoặc nhằm chuẩn bị đón nhận ân sủng (hoán cải, đức tin), hoặc chuyển thông ân sủng (các bí tích), hoặc sử dụng ân sủng (các hành vi nhân đức). Nói cách khác, tuy chủ yếu Luật Mới nằm trong linh hồn, nhưng nó cũng cần liên kết với thân thể: thân thể cần được huấn luyện để phục tùng linh hồn.
Dù sao đi nữa, đặc điểm của Luật Mới, do ảnh hưởng của Thánh Linh, là sự tự do tự phát, bởi vì người tín hữu hành động như là con cái Chúa, hành động trong tình yêu chứ không phải vì bị cưỡng bách sợ sệt. Như sẽ thấy trong bài tới, ân huệ Thánh Linh ra như trở thành bản năng thúc đẩy con người tuân hành ý Chúa cách dễ dàng.
- Thánh Linh, trái tim của Hội thánh
Khi bàn đến tương quan giữa Đức Kitô với Hội thánh, thánh Tôma dùng hình ảnh của thánh Phaolô, gọi Người là “Đầu”, như đã nói trong bài trước. Còn mối tương quan giữa Thánh Linh với Hội thánh thì sao?
Thánh Linh tác động trong Hội thánh phù hợp với đặc tính là Tình yêu và Trao tặng. Tôma gọi Thánh Linh là “linh hồn” và “con tim” của Hội thánh[6]. Thánh Linh được gọi là “hồn” của Hội thánh vì muốn ví với vai trò là nguyên ủy của sự sống và sự hợp nhất giữa các chi thể của Hội thánh. Tư tưởng này đã được thánh Augustino sử dụng (xc. Sermo 257, n.4: PL 38,1231). Thánh Linh là nguyên ủy của sự hợp nhất nhờ hồng ân đức tin và đức mến được ban cho các phần tử, tác động vào trí tuệ và ý chí của họ, ngõ hầu họ hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa. Dù sao, thánh Tôma là nhà thần học duy nhất vào đời Trung cổ gọi Thánh Linh là “trái tim” của Hội thánh[7].
Hình ảnh “trái tim” muốn nói lên nhiều điều. Trước hết, nó nói lên ảnh hưởng âm thầm kín đáo của Thánh Linh, khác với Đức Kitô là Đầu xuất hiện tỏ tường (ST III, q.8, a.1 ad 3). Thứ đến, Thánh Linh là nguyên ủy của sự hiệp nhất, nhờ tình yêu là nguyên nhân của sự sống và hợp nhất của Hội thánh. Như đã nói nhiều lần, Thánh Linh là Tình yêu giữa Cha và Con, cũng như là tình yêu liên kết giữa các phần tử với nhau. Tình yêu được ví dòng máu lưu thông giữa các chi thể, mang lại cho họ sự sống và sự hợp nhất. Nói theo ngôn ngữ khá cổ điển của thần học, Thánh Linh là chính sự “thông hiệp của Hội thánh” như được tuyên xưng trong Tín biểu các thánh Tông đồ (communio sanctorum), được hiểu theo nghĩa là hiệp thông giữa các thánh (bao gồm tất cả các tín hữu thuộc Hội thánh lữ hành, thanh luyện và vinh hiển), cũng như hiệp thông trong những sự thánh (các bí tích, các công trạng).
- Các đặc sủng Thánh Linh
Thánh Linh là nguyên ủy của sự hiệp thông trong Hội thánh. Thuật ngữ “hiệp thông” muốn nêu bật hai đặc tính xem ra trái nghịch nhau, một bên là hợp nhất, bên kia là đa nguyên. Hiệp thông là duy trì sự hợp nhất tuy không xỏa bỏ sự đa nguyên. Đây là sự quân bình rất khó duy trì: hợp nhất (unity) nhưng không đồng đều (uniformity); đa nguyên (plurality) nhưng không phân tán. Thánh Linh vừa là nguyên ủy của sự hợp nhất trong Hội thánh, nhưng đồng thời ngài cũng là nguyên ủy của sự đa dạng, nhờ những đặc sủng được ban cho các phần tử Hội thánh. Trong đoạn này, chúng ta dừng lại ở đặc tính đa dạng này.
Trong tiếng Việt, “đặc sủng” là từ ngữ dùng để dịch từ charisma gốc Hy-lạp (hoặc đoàn sủng), xuất hiện 15 lần trong các thư thánh Phaolô và 1 lần trong thư thứ 1 của Phêrô (1 Pr 4,10), với ý nghĩa phức tạp (khác với charis, ân sủng). Bản dịch Vulgata chỉ duy trì từ charisma 1 lần (1 Cr 12,31), còn những nơi khác thì có lúc dịch là gratia, có lúc dịch là donum hoặc donatio. Vì thế không lạ gì mà nó ít được các nhà thần học lưu ý. Thánh Tôma là một trừ lệ, bởi vì ngài phân biệt hai loại gratia: gratia gratum faciens và gratia gratis data. Đây là một chơi chữ trong tiếng Latinh, bởi vì gratia, gratum, gratis đều cùng một gốc tầm nguyên, nhưng lại ám chỉ hai đặc điểm khác nhau.
1/ Bản chất
Loại thứ nhất (gratia gratum faciens) giúp cho con người nên thánh thiện (dịch là “thánh sủng” thì khá sát ý, bao gồm cả bảy ân huệ Thánh Linh), cần thiết cho tất cả mọi người sống trong tình nghĩa với Chúa. Loại thứ hai (gratia gratis data) được ban cho một số người không vì công trạng của họ nhưng nhằm đến công ích xã hội. Sự khác biệt quan trọng nằm ở chỗ những người lãnh nhận đặc sủng chưa chắc đã đẹp lòng Chúa và được cứu độ, dựa theo lời cảnh cáo của Mt 7,21-23. Đến ngày phán xét, họ thưa với Chúa: “Lạy Chúa, chúng con đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri… trừ quỷ … làm phép lạ đó sao?”, và họ nghe tiếng đáp lại: “Ta không biết các ngươi”.
2/ Phân loại
Điều thú vị là tác giả đã cung cấp danh mục 9 đặc sủng (dựa theo 1Cr 12,8-10), và phân tích ý nghĩa của chúng (trong Summa Theologiae I-II, q.111 và II-II, qq.171-178) với những tư tưởng độc đáo mà có lẽ thánh Phaolô không nghĩ đến!
Các đặc sủng được phân làm ba nhóm: một là để biết (mặc khải), hai là để nói (công bố), ba là để làm (chứng minh).
- a) Loại thứ nhất được gọi là mặc khải, tức là ánh sáng trong tâm trí. Trong loại này có thể kể đến ơn ngôn sứ, là một thứ tri thức được Thiên Chúa ban cho trí tuệ của ngôn sứ, như là một thứ giáo huấn. Sự hiểu biết này vượt quá khả năng tự nhiên của trí óc con người. Ơn ngôn sứ do Thánh Linh ban, đôi khi qua trung gian của các thiên sứ, và có thể mang nhiều hình thức khác nhau (tựa như: hình ảnh, giấc mơ, thị kiến, ánh sáng trí tuệ).
Ơn mặc khải có thể mang ba hình thức: (i) lời dạy (x. 1Cr 12,8), hay nói tiên tri (x.1Cr 12,10); (ii) xuất thần (x. 2Cr 12,2-4), qua đó con người được Thần khí Chúa đưa lên các thực tại siêu nhiên, thoát ra khỏi giác quan, giống như thị kiến mà ông Edêkiel đã kể lại (Ed 8,3); (iii) phân định thần khí, nghĩa là khả năng phân biệt các thần khí khác nhau, để nhận ra tinh thần nào thúc đẩy một người nào nói hoặc làm điều gì (có phải là tinh thần bác ái, hay là ghen tương).
- b) Loại thứ hai bao gồm những ơn thuộc lãnh vực công bố. Thật vậy, khi Thiên Chúa mặc khải cho người nào thì không chỉ nhằm soi sáng cá nhân họ, nhưng còn nhằm soi sáng những người khác, nhờ việc giảng dạy. Vì thế, cần phải có ơn “ngôn ngữ” (nói). Trong loại này, có thể kể đến ơn nói tiếng nước ngoài (xenoglossia), nghĩa là nói được ngôn ngữ của thính giả cho họ hiểu; điều này khác với ơn “glossolalia” được nói đến ở 1Cr 14,14 (ơn nói tiếng lạ trong buổi cầu nguyện, và cần đến người giải thích). Cũng có thể kể vào loại này ơn giải thích những giấc mơnhư trường hợp của ông Giuse (St 40,8) và Đaniel (Đn 5,16). Thánh Tôma cũng xếp trong loại này ơn thông tuệ và hiểu biết(hoặc có thể dịch là: khôn ngoan và hiểu biết, xc Is 11,2): ở đây không hiểu về chính tri thức, nhưng là khả năng diễn đạt cách thông minh khôn khéo để thuyết phục người nghe.
3/ Loại thứ ba gồm những ơn để minh chứng rằng lời giảng thuyết đến từ Thiên Chúa. Điều này được thực hiện qua các phép lạ, tựa như chữa bệnh. Những ơn này không những thúc đẩy người nghe chấp nhận lời giảng vì nhận ra nguồn gốc siêu nhiên của việc làm, nhưng cũng có thể giúp cho người nghe được củng cố thêm trong đức tin.
Ngày nay, các tác giả dùng những tiêu chuẩn khác để liệt kê và phân chia các đặc sủng (trong đó có cả vấn đề đặc sủng các dòng tu)[8]. Nhưng nhìn lại suy tư của thánh Tôma trên đây, ta có thể nhận ra tiêu chuẩn được đề ra dựa trên sứ mạng loan báo Tin mừng, và đó là mối quan tâm chính của thánh Tông đồ cũng như Dòng tu mà tác giả là phần tử.
Nhiệm vụ loan báo tin mừng đòi hỏi trước hết là sự hiểu biết, được thủ đắc nhờ việc học hỏi, không những là các chân lý đức tin mà còn kiến thức khoa học. Dĩ nhiên, cần có ơn Chúa thì ta mới có thể nắm bắt được những mầu nhiệm vượt qua khả năng tự nhiên. Kế đó, nhà giảng thuyết cần đến “ơn ngôn ngữ” nghĩa là biết cách diễn đạt các chân lý trong công tác rao giảng Tin mừng. Cuối cùng, nhà giảng thuyết cần phải minh chứng bằng việc làm, mà ta có thể hiểu về chứng tá cuộc sống hoặc những công tác bác ái dành cho tha nhân.
Kết luận
Chúng ta chỉ mới điểm qua vai trò của Thánh Linh trong chế độ giao ước mới và trong Hội thánh. Còn một điều quan trọng nữa mà chúng ta để dành cho bài tới, đó là tìm hiểu vai trò của Thánh Linh trong đời sống mỗi tín hữu. Tuy mang nhiều hình thức khác nhau, ta vẫn có thể nhận thấy một mẫu số chung trong các hoạt động của Thánh Linh, là tình yêu (Amor), mà đôi khi cũng được dịch là đức mến (Caritas). Dù sao, trước khi nói đến tình yêu của ta đối với Chúa, thì cần phải nhấn mạnh đến tình yêu của Chúa đối với ta. Thiên Chúa yêu ta trước. Đây là một đặc điểm của linh đạo thánh Tôma, đó là đề cao vai trò của ân sủng (gratia), tuy vẫn không quên rằng: “ân sủng không phá hủy tự nhiên” hoặc “ân sủng giả thiết tự nhiên”. Tạm thời, chúng ta xin Thánh Linh ban cho ta được ngoan ngoãn (dễ bảo: docilis) với những sự thúc đẩy của Ngài.
Đời sống tâm linh là sống theo Thánh Linh (Thần khí Chúa: Rm 8; Gl 3,3; 5,13.16-25; 1Cr 3,1-2). Theo thánh Tôma, con người “thần khí” (homo spiritualis) là kẻ sống hòa hợp với Thần khí đến nỗi ra như Thần khí trở thành “bản năng hoạt động” (instinctus Spiritus Sancti: ST I-II, q.68, a.2, 3m) nơi họ. Phàm ai để cho Thánh Linh hướng dẫn thì không những sẽ cảm nhận tình yêu và các ân huệ của Ngài, mà còn được hưởng tự do của con cái Chúa (2Cr 3,17). Nhờ để cho Thánh Linh hướng dẫn, người tín hữu vượt lên sự xung khắc giữa luật pháp và tự do. Thực vậy, nhiều tác giả vẫn khuyên nhủ hãy trung thành với lề luật Chúa để nên trọn lành, bởi vì họ sợ rằng nếu đề cao tự do quá đáng thì sẽ rơi vào tháo thứ! Tuy nhiên sự xung khắc giữa luật pháp và tự do chỉ xảy ra khi luật pháp được coi như yếu tố áp đặt từ bên ngoài. Đối với thánh Tôma, Thánh Linh được ban để giúp ta thấm nhuần luật Chúa, không còn coi luật Chúa như là cái gì áp đặt tự bên ngoài nhưng trở thành thâm tín nội tâm [9]. Đến mức độ đó, con người thần khí trở nên luật cho chính mình: “ipsi sibi sunt lex” (Rm 2,14-15: I-II, q.96, a.5, ad 1m). Nhận định này mang lại khá nhiều hệ luận cho những ai có trách nhiệm hướng dẫn người khác (dù là cha linh hướng, hay là một giáo viên): nhà giáo phải làm sao giúp cho môn sinh đến với Thánh Linh. Chính Thánh Linh mới thực là nhà mô phạm nội tâm. Nếu Thánh Linh không nhúng tay vào, thì bao nhiêu lời lẽ của nhà giáo đều là vô bổ. Mặt khác, nhà giáo cũng phải biết giới hạn của mình, biết lúc nào phải dừng lại (hoặc rút lui) để cho môn sinh được tiếp xúc trực tiếp với Thánh Linh.
———————-
[1] Jean Pierre Torrell, Saint Thomas Aquinas Spiritual Master (Chapter VII: To speak of the Holy Spirit), p. 153-174. Leo Elders SVD, El Espiritu Santo en la teologia de Santo Tomás¸ in: Sapientia LXXI (2015), fasc. 237, pp. 121 – 146.
[2] Phan Tấn Thành, Thánh Linh trong đời sống Kitô hữu (Đời sống tâm linh tập XV), Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2017, trang 164-184.
[3] Đây là một câu nói được thánh Tôma gán cho thánh Ambrosiô, nhưng ngày nay các nhà phê bình cho rằng của một tác giả vô danh (được đặt tên là Ambrosiaster). Câu nói này được lặp lại nhiều lần trong các tác phẩm của thánh Tôma.
[4] Tertia pars nhắc đến hoạt động của Thánh Linh nơi Đức Kitô (III, q.7), Đức Maria, các thánh tông đồ (q.23, a.4, ad 4m), các bí tích giúp chúng ta sống ơn gọi (q.41, a.2, ad 2).
[5] Ngoài ra cũng nên thêm chú giải thư thứ nhất gửi Corintô (chương 12) về các đặc sủng, chú giải thư gửi Galat (chương 5) về tự do thần khí.
[6] J.P. Torrell, Saint Thomas Aquinas, Spiritual Master, (Chapter VIII), p.175-199.
[7] Cha Torrell trích dẫn M. Grabmann, Die Lehre des heiligen Thomas von Aquin von der Kirche als Gotteswerk, Regensburg 1903, 184-93.
[8] Thánh Tôma cũng đề cập đến sự phân chia các “đặc sủng” dựa theo các công tác phục vụ (ST II-II, q.179-180) cũng như các hàng ngũ khác nhau trong Hội thánh (II-II, q. 183-189).
[9] ST II-II, q.93, a.6, ad 1m: “Spirituales viri non sunt sub lege: quia per caritatem, quam Spiritus Sanctus cordibus eorum infundit, voluntarie id quod legis est, implent”.
V. Bài 5: Đường nên thánh theo linh đạo Tôma
- Bộ máy đời sống tâm linh
- Các nhân đức
- Các ân huệ Thánh Linh và các chân phúc
- Các hoa trái Thánh Linh
- Tiến trình cầu nguyện
- Chuẩn bị xa
- Thực hành chiêm niệm: lectio (cogitatio, studium), meditatio, oratio, contemplatio
———————–
Trong bài trước, chúng ta tìm hiểu tác động của Thánh Linh trong đời sống Hội thánh. Hôm nay chúng ta tiếp tục tìm hiểu tác động của Thánh Linh trong đời sống của mỗi tín hữu. Như đã nói nhiều lần, chúng ta hiểu “linh đạo” là đời sống tâm linh, tức là sống theo Thánh Linh; còn linh đạo Tôma được hiểu là quan điểm của vị Tiến sĩ thiên thần về đời sống tâm linh. Dù sao, trước khi đi vào đề, chúng ta cần phải điều chỉnh vài khái niệm để khỏi hiểu lầm thánh Tôma.
Trong bộ Tổng luận thần học, thánh Tôma không phân biệt “thần học luân lý” và “thần học tâm linh”. Việc tách rời này bắt đầu hồi thế kỷ XV: Thần học luân lý bàn về 10 điều răn Đức Chúa Trời, nhằm giúp cho các tín hữu tránh tội kẻo sa hỏa ngục; Thần học tâm linh (quen gọi là tu-đức-học), bàn về các nhân đức, dành cho những ai muốn nên trọn lành (chẳng hạn như các tu sĩ). Tiếc rằng nhiều học viện Đaminh cũng theo đường hướng đó, mà không ngờ rằng mình đã phản bội thánh Tôma.
Thánh Tôma không tách rời thần học luân lý và thần học tâm linh, bởi vì thần học luân lý (thường được đồng hóa với Phần Hai của bộ Tổng luận thần học), không dựa theo 10 giới răn nhưng là dựa trên các nhân đức. Nói cách chính xác hơn, thần học luân lý nghiên cứu con đường trở về với Thiên Chúa là cội nguồn hạnh phúc của con người. Để đạt đến mục tiêu ấy, con người cần phải thực hành các nhân đức. Tuy nhiên, bên cạnh nỗ lực của mình, Thiên Chúa còn đến trợ giúp chúng ta bằng các nhân đức thiên phú và các ân huệ Thánh Linh, tất cả dưới sự chỉ đạo của Thánh Linh, vị Thầy của đời sống nội tâm. Bài này gồm hai phần: trong phần thứ nhất, chúng ta bàn về hành trình của đời sống tâm linh nói chung, dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh. Trong phần thứ hai, chúng ta sẽ tìm hiểu quan niệm của thánh Tôma về hành trình cầu nguyện, dẫn đến sự chiêm niệm.
- Bộ máy đời sống tâm linh: các nhân đức, các ân huệ và hoa trái Thánh Linh
Trong phần luân lý tổng quát của sách Tổng luận thần học (I-II), thánh Tôma cung cấp cho chúng ta một khái niệm về những yếu tố cấu thành bộ máy đời sống tâm linh Kitô hữu, gồm có: các nhân đức (quaestio 55-67), các ân huệ Thánh Linh (q.68), các chân phúc (q. 69), các hoa trái Thánh Linh (q.70).
- Các nhân đức
Xin miễn dài dòng về các nhân đức bởi vì mọi người đều đã biết[1]. Chỉ cần thêm vài đóng góp của thánh Tôma trong việc xếp đặt hệ trật các nhân đức, gồm các nhân đức luân lý (thủ đắc và thiên phú) và các nhân đức hướng Chúa. Các nhân đức luân lý (khôn ngoan, công bình, hùng mạnh, tiết độ) đã được các triết gia Hy-lạp và Roma bàn đến; thánh Grêgoriô Cả thêm vào ba nhân đức hướng Chúa (tin, cậy, mến).
Thánh Tôma bổ túc thêm các nhân đức luân lý “thiên phú” cùng với bảy ân huệ Thánh Linh, và lý giải sự cần thiết của chúng như thế này. Các nhân đức luân lý (hoặc cũng gọi là nhân đức nhân bản), giúp cho chúng ta cư xử xứng hợp với địa vị làm người: chúng ta cần phải hành động hợp với lý trí ngay chính. Tuy nhiên, nhờ mạc khải, chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đến một mục đích cao hơn, đó là ơn gọi làm con cái Chúa và được kết hiệp với Chúa. Vì thế chúng ta cũng cần phải cư xử thế nào cho hợp với thiên chức mới, ngõ hầu đạt được cứu cánh mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Khả năng hoạt động siêu nhiên không do chúng ta thủ đắc, nhưng là do chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Thánh Tôma nói đến ba cấp độ nhân đức thiên phú:
1/ Trước hết là các nhân đức luân lý thiên phú. Những nhân đức này kiện toàn các nhân đức nhân bản với một động lực mới, đó là hành động như những con cái của Chúa.
2/ Kế đến là các nhân đức hướng Chúa: tin, cậy, mến. Ba nhân đức này hoàn toàn mới mẻ, bởi vì do Thiên Chúa ban cho chúng ta, nhằm dẫn đưa chúng ta đến kết hiệp với Ngài.
3/ Cao hơn nữa là bảy ân huệ của Thánh Linh, ban cho chúng ta khả năng thực hành các nhân đức ở mức độ “anh hùng” (một thuật ngữ được đưa vào thủ tục phong thánh cho các tôi tớ Chúa).
Thiết tưởng không cần nói nhiều về ba nhân đức hướng Chúa vì đã quá quen thuộc. Chỉ xin thêm đôi lời về các nhân đức nhân bản thiên phú. Thánh Tôma khẳng định sự hiện hữu của bốn nhân đức thiên phú dựa trên bản chất ơn gọi Kitô hữu. Nếu trong tình trạng tự nhiên, Thiên Chúa đã ban cho con người những khả năng để sống tốt, phù hợp với chân lý; thì không có lý gì trong tình trạng siêu nhiên, Ngài lại không ban những khả năng tương xứng để sống xứng hợp với ơn gọi. Ta có thể vạch ra sự khác biệt giữa bốn nhân đức thiên phú và bốn nhân đức thủ đắc ở những điểm sau đây:
– Các nhân đức thiên phú do Chúa ban cùng với ơn thánh sủng, chứ không do thủ đắc.
– Các nhân đức thủ đắc có thể bị mai một bởi vì thiếu thực hành hoặc do tật xấu trái nghịch; các nhân đức thiên phú cũng có thể bị mất do một tật xấu trái nghịch, và đặc biệt là khi mất ơn thánh sủng.
– Xét về hoạt động, các nhân đức thiên phú và các nhân đức thủ đắc cùng chung quan năng và đối tượng, nhưng khác nhau ở tiêu chuẩn điều hành. Thí dụ đức tiết độ “thủ đắc” điều hành việc ăn uống sao cho hợp với sức khỏe thân xác; đức tiết độ “thiên phú” còn nhắm đến sự thăng tiến đời sống tâm linh, do đức tin và đức mến thúc đẩy. Thật vậy, đức tin mở cho chúng ta một ánh sáng mới về ý nghĩa các thực tại thế trần (sức khỏe và bệnh tật, vui sướng và đau khổ, thành công và thất bại) dựa theo mẫu gương của Đức Kitô, Đấng tuy giàu sang nhưng đã trở nên khó nghèo vì yêu chúng ta, đã chấp nhận hy sinh để bày tỏ tình yêu đối với loài người.
- Các ân huệ Thánh Linh
Các sách kinh cổ ở Việt Nam dịch là “bảy ơn Chúa Thánh Thần”, trong khi nguyên gốc Latinh là “dona”, có nghĩa là “quà tặng” (don tiếng Pháp, gift tiếng Anh). Nó gắn liền với bản tính của Thánh Linh là “trao tặng” (donum). Đạo lý về bảy ân huệ Thánh Linh bắt nguồn từ đoạn văn Isaia 11,1-3: “Từ gốc tổ Giessê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Giavê sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Giavê. Lòng kính sợ Giavê làm cho Người hứng thú”.
Theo các nhà chú giải, ở đoạn văn này, ngôn sứ Isaia phác họa chân dung của vị vua lý tưởng thuộc dòng Đavít, được thần khí Chúa trang điểm với các đức tính lỗi lạc vượt xa các tiền bối. Điều này ám chỉ về vị Thiên sai, nghĩa là về Đức Kitô. Tuy nhiên từ thánh Augustinô (De sermone Domini, 1,4: PL 34,1234-1235) và Grêgôriô Cả (Moralia II,77: PL 75, 592) truyền thống Kitô giáo đã áp dụng vào đời sống của mỗi tín hữu dưới ảnh hưởng của Thánh Linh. Bảy ơn được xếp đặt theo hệ trật cao thấp (từ trên đi xuống) với nội dung được giải thích như sau:
1) “Khôn ngoan” (hay cũng dịch là: Cao minh, Thượng trí, Sapientia) giúp cho ta gắn bó với Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc đích thực.
2) “Thâm hiểu” (Intellectus) ban cho ta sự hiểu biết sâu xa các chân lý đức tin.
3) “Minh luận” (Scientia) giúp ta phán đoán giá trị của các thụ tạo theo ánh sáng đức tin.
4) “Chỉ giáo” (Consilium) ban cho ta biết chọn lựa con đường nào hợp ý Chúa hơn cả và ngoan ngoãn để cho Chúa hướng dẫn.
5) “Sùng hiếu” (Pietas) ban cho ta lòng tôn thờ Thiên Chúa với tinh thần con thảo và liên hệ với mọi người như con cái cùng Cha.
6) “Hùng mạnh” (Fortitudo) vượt thắng mọi khó khăn hoặc chịu đựng đau khổ nhờ sức mạnh Chúa ban.
7) “Kính sợ Chúa” (Timor Domini) tránh tội và loại bỏ sự quyến luyến của cải trần thế khi nó làm mất lòng tôn kính yêu mến Chúa.
Sự đóng góp của thánh Tôma nằm ở chỗ móc nối bảy ân huệ Thánh Linh với bảy nhân đức, và trình bày mối tương quan giữa đôi bên như thế này. Nhờ các nhân đức, con người có khả năng thi hành những việc tốt lành. Tuy vậy, con người vẫn còn xa mục tiêu muốn nhắm đến, đó là Thiên Chúa. Một đàng, con người chỉ có thể thực hành những hành vi trong tầm sức của mình, chứ đâu có thể vươn lên tới thế giới thần linh! Đàng khác, do bản tính yếu đuối, con người thiếu kiên trì trong đường nhân đức và dễ bỏ cuộc giữa đường. Chính trong bối cảnh này mà Thiên Chúa đến trợ lực cho ta nhờ các ân huệ Thánh Linh. Các ân huệ này nâng cao khả năng của con người, giúp cho con người được mạnh mẽ để thực hiện những hành động phi thường, cũng như kiên trì trong đường tiến đức (xc. Rm 8, 14).
Như vậy, theo thánh Tôma, mối tương quan giữa các nhân đức với các ân huệ Thánh Linh có thể thiết lập dựa theo vai trò chủ động trong tiến trình nên thánh. Các “nhân đức” nêu bật hoạt động của con người, còn các “ân huệ” thì đề cao vai trò chủ động của Thánh Linh. Nhằm diễn tả cách cụ thể tác động của Thánh Linh đối với hành trình nên thánh, Thánh Tôma móc nối 7 hồng ân với 7 nhân đức cơ bản điều khiển tất cả các hành vi như sau:
1) Ơn cao minh kiện toàn đức mến, dẫn chúng ta vào sự kết hiệp hoàn toàn với Thiên Chúa, đồng tâm nhất trí với Ngài.
2) Ơn thâm hiểu kiện toàn đức tin, giúp chúng ta thấu hiểu các mầu nhiệm do Chúa mặc khải.
3) Ơn minh luận cũng kiện toàn đức tin, vì giúp chúng ta đánh giá mọi sự theo viễn tượng của Chúa.
4) Ơn chỉ giáo kiện toàn đức khôn ngoan, để biết lựa chọn những biện pháp tốt đẹp nhất theo ý Chúa.
5) Ơn sùng hiếu kiện toàn đức công bình, giúp chúng ta sống tương quan con thảo đối với Chúa, và tình huynh đệ với tha nhân.
6) Ơn hùng mạnh kiện toàn đức hùng mạnh, nổi bật nhất nơi các vị tử đạo.
7) Ơn kính sợ kiện toàn hai nhân đức: đức cậy bởi vì dựa vào quyền năng của Thiên Chúa; đức tiết độ nhằm giúp con người tránh phạm tội bởi vì sợ mất lòng Chúa.
(Ta có thể xếp đặt lại thứ tự như sau: đức tin được kiện toàn nhờ hai ơn thâm hiểu và minh luận; đức cậy được kiện toàn với ơn kính sợ; đức mến với ơn cao minh; đức khôn ngoan với ơn chỉ giáo; đức công bình với ơn sùng hiếu; đức hùng mạnh với ơn hùng mạnh; đức tiết độ với ơn kính sợ).
Dĩ nhiên, người ta có thể chỉ trích sự xếp đặt là gượng ép, bởi vì đức tin tương ứng với hai ơn (thông hiểu và minh luận), còn một ơn kính sợ lại ghép với hai nhân đức (cậy và tiết độ). Thực ra, sự phối trí chi tiết giữa các ân huệ với các nhân đức có lẽ không quan trọng cho bằng chủ ý mà thánh Tôma muốn phát biểu, đó là: trên con đường tiến đến sự kết hiệp với Chúa, chúng ta không hành động lẻ loi. Nhờ các ân huệ Thánh Linh, các hành vi của ta trở thành hành vi “đồng lao” của Thánh Linh: Chúa Thánh Linh hành động với ta đến nỗi có thể nói được rằng các hành vi nhân đức mà ta làm là của Ngài hơn là của ta (I-II, q.93, a. 6, ad 1m). Đây là điều mà thánh Phaolô đã nói nhiều lần, thí dụ như: Thánh Linh đến cùng cầu nguyện với ta (Rm 8,26) đến nỗi nói được là ta cầu nguyện trong Thánh Linh (Ep 6,18), bởi vì Ngài giục ta thốt lên như Đức Kitô “Abba, Cha ơi!” (Rm 8,15; Gl 4,6). Người ta so sánh tác động của các ân huệ Thánh Linh như là gió thổi trên cánh buồm, đẩy chiếc thuyền bay vùn vụt; đang khi các nhân đức chỉ là những nỗ lực chèo chống, vừa vất vả lại vừa chậm chạp.
Mối tương quan giữa các nhân đức và ân huệ cũng có thể ví với hai chặng trong tiến trình nên thánh. Chặng đầu tiên (quen gọi là “tu đức”: ascetical), con người ra như nắm phần chủ động; chặng thứ hai (quen gọi là “huyền bí”: mystical), Thánh Linh giữ vai trò tích cực, mặc dù không làm mất sự tự do của con người. Đúng hơn, chúng ta ngoan ngoãn để cho Ngài dẫn dắt.
Ngoài ra, cũng nên biết là thánh Tôma còn liên kết các nhân đức với các chân phúc (ST I-II, qq.69-70). Thánh Tôma quan niệm rằng bảy nhân đức như là bảy tập quán tốt củng cố những quan năng của chúng ta để thực hiện các hành động tiến đến cứu cánh đời người; nhưng các nhân đức phần nào vẫn còn là hành vi của con người. Bảy ân huệ Thánh Linh được ban để nâng cao bảy nhân đức, khiến các hành vi trở thành dường như thần linh. Các hành vi này đạt đến chóp đỉnh hoàn thiện ở đời này qua các chân phúc là tiền đường của hạnh phúc bất diệt mai sau. Việc liên kết bảy nhân đức với bảy ân huệ và các chân phúc được diễn tả theo lược đồ như sau, theo thứ tự cao thấp.
- Đức mến → ơn cao minh → kẻ xây dựng hòa bình.
- Đức tin → ơn thâm hiểu và minh luận → kẻ thanh sạch trong con tim.
- Đức cậy → ơn kính sợ → kẻ khó nghèo trong tinh thần.
- Đức khôn ngoan → ơn chỉ giáo → kẻ có lòng thương xót.
- Đức công bình → ơn sùng hiếu → kẻ hiền lành.
- Đức hùng mạnh → ơn hùng mạnh → kẻ đói khát sự công chính.
- Đức tiết độ → ơn kính sợ → kẻ khó nghèo trong tinh thần.
Thời giờ ngắn ngủi không cho phép khai triển đề tài này. Vì vậy, xin chuyển sang các hoa trái Thánh Linh, được thánh Tôma giải thích ở I-II, q.70.
- Các hoa trái Thánh Linh
Dựa trên bản văn Gl 5,22, thánh Tôma đã đưa các hoa quả Thánh Linh vào toàn bộ đời sống tâm linh Kitô giáo, được kết thành bởi 7 nhân đức, 7 ân huệ Thánh Linh, và 12 hoa trái Thánh Linh. Thật ra trong nguyên bản Hy lạp, thánh Phaolô chỉ nói đến “hoa trái của Thánh Linh” (ở số ít) được diễn tả ra 9 nhân đức. Bản dịch La tinh Vulgata đề cập đến “Mười hai hoa trái” (ở số nhiều), có lẽ vì muốn móc nối với con số 12 hoa quả quanh năm của cây hằng sống được đề cập trong sách Khải huyền (22,1-2), và như vậy đã thêm vào ba hoa trái, với danh sách như sau: “bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, khiết tịnh”[2].
1/ Tại sao gọi là hoa trái?
Tác giả bắt đầu đi từ khái niệm thường thức về hoa trái. Hoa trái là sản phẩm tự nhiên từ loài thảo mộc (chẳng hạn cây tốt sinh trái tốt: Mt 7,18), hoặc là kết quả của việc làm (x. Kn 3,15). Hoa trái cũng hàm ngụ ý nghĩa ngon ngọt, đáng thèm thuồng (x. Dc 2,3). Vì thế hoa trái của Thánh Linh có thể hiểu như là sản phẩm của Thánh Linh và mang lại sự thỏa thích. Ngoài ra, điều này cũng muốn nêu bật vai trò chủ động của Thánh Linh trong công cuộc thánh hóa (Rm 6,22): chính Ngài đã gieo mầm nơi chúng ta, và chúng ta cố gắng hợp tác với ân sủng.
2/ Bản chất: hoa trái khác với nhân đức, ân huệ như thế nào?
Trong nhân đức, ta nên phân biệt giữa “tập quán” và “hành vi”. Tập quán giúp cho chúng ta hành động tốt. Nếu tập quán giúp cho ta hành động tốt theo cách thức nhân loại thì gọi là “nhân đức”; nếu giúp cho ta hành động tốt theo cách thức siêu phàm thì gọi là “ân huệ”. Nếu hành vi tốt làm cho ta nên hoàn bị thì gọi là “chân phúc”, nếu mang lại cho ta sự ngon ngọt thì gọi là “hoa trái”.
3/ Nội dung các hoa trái Thánh Linh
Dựa theo bản văn Vulgata (12 hoa trái), thánh Tôma phân phối thứ tự của chúng trước hết thành 2 khối chính: những hoa trái kiện toàn con người ở bên trong (nghĩa là chính bản thân của mình), và những hoa trái kiện toàn bên ngoài (trong tương quan với tha nhân).
- a) Kiện toàn bản thân, hoặc liên quan đến điều tốt hay liên quan đến điều xấu.
– Trước hết, con tim được kiện toàn nhờ tình yêu (bác ái).
– Tình yêu dẫn ta đến kết hợp với cứu cánh tối hậu: ai yêu mến Chúa thì ở lại trong Chúa (1Ga 4,16), nhờ vậy ta cảm thấy niềm vui.
– Để niềm vui được trọn vẹn, cần được bình an ngõ hầu hưởng được niềm vui.
[ii] Liên quan đến điều xấu– Để giúp cho linh hồn được bình an giữa những nghịch cảnh: Thánh Linh ban cho ta kiên nhẫn.
– Chống lại điều xấu ngăn cản chúng ta hưởng niềm vui: Thánh Linh ban cho ta quảng đại.
- b) Những hoa trái kiện toàn con người trong những tương quanvới tha nhân: hoặc với những người ngang hàng, hoặc với cấp trên, hoặc với cấp dưới.
– Trước hết, Thần khí kiện toàn trái tim bằng lòng tốt
– Kế đến, Thần khí kiện toàn việc làm (trao đổi với tha nhân) bằng từ tâm, nghĩa là quảng đại ban phát.
– Trong cách đối xử với tha nhân, ta cũng cần đến đức hiền hậu để chịu đựng những phiền hà mà người ta gây cho ta.
[ii] Với cấp trên, tức là với Thiên Chúa, Thần khí giúp chúng ta biết tín thành [iii] Với cấp dưới ta, tức là với thân xác,– trong cử chỉ bên ngoài, ta cần đến tính đoan trang;
– trong cảm xúc bên trong, ta cần có tiết độ và khiết tịnh, kể cả đối với những điều được phép làm.
Qua những điều trình bày trên đây, chúng ta thấy thánh Tôma mô tả tác động của Thánh Linh trong đời sống tâm linh của các tín hữu không những trong các yếu tố cấu thành mà còn trong các chặng tiến triển của nó.
Để kết thúc loạt bài về linh đạo thánh Tôma, chúng ta thử hỏi: ngài có đề cập đến phương pháp cầu nguyện không? Thật vậy, vào thời cận đại, khi nói đến các trường phái linh đạo, nhiều tác giả thường dựa trên “phương pháp tâm nguyện” để định nghĩa căn cước: trường phái Y-nhã, trường phái Xuân-bích, trường phái Lasan, vv[3]. Chính trong khung cảnh ấy mà nhiều anh em cảm thấy lúng túng khi trình bày linh đạo Đaminh bởi vì Dòng không có một phương pháp suy niệm. Thực ra, thánh Tôma có đề cập đến tiến trình cầu nguyện, tuy không phân tích chi tiết như các tác giả cận đại, nhưng phần nào giống với tiến trình của lectio divina được thực hành trong các đan viện thời Trung cổ.
- Tiến trình cầu nguyện
Trong sách Tổng luận thần học, thánh Tôma bàn về việc cầu nguyện ở hai chỗ thuộc phần luân lý chuyên biệt (II-IIae):
– Một, ở quaestio 83, khi đề cập đến những hành vi của nhân đức thờ phượng. Tác giả đã dành ta 17 tiết mục (articuli, dài nhất trong toàn tác phẩm) để bàn về những khía cạnh khác nhau của việc cầu nguyện: bản chẩt, sự cần thiết, đối tượng, cũng sự phân biệt các loại dựa theo 1Tm 2,1 (thờ lạy, tạ ơn, thỉnh nguyện, van nài), nhưng không đụng đến tiến trình thực hành cầu nguyện. Nên biết là ở đây tác giả bàn về việc cầu nguyện nói chung (với khuôn mẫu là Kinh Lạy Cha), chứ không chỉ nói đến lời nguyện cá nhân mà thôi. Như đã nói ở bài đầu thứ nhất, thánh Tôma sốt sắng tham dự Phụng vụ (mỗi ngày tham dự hai Thánh Lễ), và gắn liền cầu nguyện với việc học hành.
– Hai, ở quaestio 180, khi bàn về đời sống chiêm niệm (vita contemplativa), ta có thể tìm thấy phần nào hành trình dẫn tới sự chiêm niệm (contemplatio). Thiết tưởng cần phân biệt giữa sự chiêm niệm và đời sống chiêm niệm: đời sống chiêm niệm là một nếp sống chuẩn bị cho sự chiêm niệm. Chúng ta sẽ dừng lại ở đoạn này để tìm hiểu những chỉ dẫn để dạt tới sự chiêm niệm, bao gồm: việc chuẩn bị xa (art.1-2); những hành vi thực hành chiêm niệm (art.3).
1/ Việc chuẩn bị xa
Sự chiêm niệm tự nó là một hành vi của lý trí, được định nghĩa là “một cái nhìn cắm thẳng vào chân lý” (simplex intuitus veritatis: II-II, q.180, a.3, ad 1), nhưng ở đây chúng ta không bàn về chân lý triết học nhưng là về Thiên Chúa, vì thế cần có những công tác chuẩn bị
- a) Trước hết, nó đòi hỏi ý muốn cầu nguyện. Ý muốn không chỉ hiểu về quyết tâm cầu nguyện, mà còn bao hàm lòng yêu mến, ước ao gặp gỡ Chúa.
- b) Mặt khác, nó đòi hỏi sự hợp tác của các nhân đức luân lý, nhằm ngăn cản những xáo trộn của cảm xúc, tạo ra một bầu khí bình an nội tâm. Nói cách khác, việc chuẩn bị cầu nguyện bao gồm việc thực hành các nhân đức luân lý.
2/ Thực hành chiêm niệm
Trong articulus 3, thánh Tôma phân tích bốn hành vi chính của việc chiêm niệm dựa theo mô hình của Hugues de Saint Victor (1096-1141) : lectio, meditatio, oratio, contemplatio[4]. Chiêm niệm là đích điểm, các hành vi trước đó chỉ là phương tiện. Vì thế chúng tôi xin đảo ngược thứ tự, đi từ cuối lên đầu.
- a) Đích điểm: contemplatio. Thường được dịch là “chiêm niệm”, nhưng cũng có thể dịch là chiêm ngắm, chiêm ngưỡng. Có nhiều loại chiêm ngưỡng, chẳng hạn chiêm ngắm một bức tranh, một quang cảnh thiên nhiên. Ở đây, chúng ta bàn về việc cầu nguyện, được thánh Tôma diễn tả như là chiêm ngắm chân lý (contemplatio veritatis), nhưng chỉ là chiêm niệm triết học, bởi vì nhắm đến Thiên Chúa. Bản chất của chiêm niệm là một hành vi của lý trí, nhưng ở đây, xét vì đối tượng đặc thù, thì chiêm niệm bao gồm cả yêu mến nữa: chiêm niệm là một cuộc gặp gỡ, một cái nhìn trìu mến. Khuôn mẫu trọn vẹn của việc chiêm ngưỡng này chỉ diễn ra trên thiên đàng, bao lâu còn trên đường lữ hành đức tin, việc chiêm ngưỡng được chuẩn bị bằng nhiều phương thế, đó là lectio, meditatio, oratio. Nên biết là có người coi ba tác động này như phương thế chuẩn bị, có người coi đó như là những thành phần của việc chiêm niệm trong điều kiện sinh hoạt của con người hiện nay.
- b) Lectio, meditatio, oratio
Đã có nhiều giải thích được đưa ra chung quanh những động tác này. Thánh Tôma quan niệm đơn giản như thế này: Lectio là đọc Sách Thánh, nghĩa là mình nghe Chúa nói; Oratio là mình nói chuyện với Chúa; Meditatio có thể thuộc cả hai bên: hoặc như là nghiền ngẫm điều mà mình mới nghe, rồi từ đó mình chuẩn bị những tâm tình sẽ thưa lại với Chúa[5]. Hiểu như vậy, không nhất thiết phải tuân hành ba động tác này theo một thứ tự chặt chẽ. Ý tưởng chính là gặp gỡ Chúa với cả trí tuệ cũng như lòng mến yêu, hay nói cách khác, đây là cơ hội để sống ba nhân đức tin, cậy, mến.
Cũng trong articulus 3, bên cạnh tiến trình 4 hành vi vừa nói, thánh Tôma còn thêm một chuỗi khác dài hơn mà ngài đã học được từ luật thánh Biển Đức (chương 48), kéo dài bước thứ nhất (lectio) ra làm ba động tác: lectio, cogitatio, studium. Công thức này có lợi điểm là coi cả việc suy tư và học hành cũng nằm trong “kế hoạch” chiêm niệm. Thật vậy, thánh Tôma đã biện minh cho việc thiết lập một dòng tu chuyên học thánh khoa, bởi vì ngoài việc góp phần vào việc rao giảng Tin mừng, việc học còn giúp cho việc chiêm niệm chân lý và thánh hóa bản thân (II-II, q.188, a.5).
Nên biết là, đối với thánh Tôma, contemplatio không chỉ là điểm đến của buổi cầu nguyện mà còn là cứu cánh của cuộc đời Kitô hữu, tuy chỉ sẽ hoàn bị ở đời sau (II-II, q.180, a.4). Nhất là chúng ta không được phép quên rằng đức mến cao trọng nhất trong các nhân đức và tồn tại mãi mãi (II-II, q.184, a.1).
Đến đây, thánh Tôma thêm một ghi chú nho nhỏ nhưng khá quan trọng. Mục tiêu của cuộc đời là chiêm ngắm Chúa (STh II-II, q. 180, a. 4: contemplatio est finis totius humanae vitae), bởi vì là khởi đầu của phúc kiến (STh II-II, q.180, a. 4: inchoatio beatitudinis, quae hic incipit ut in futuro terminetur). Do đó, đời sống chiêm niệm thì cao quý hơn đời sống hoạt động. Tuy nhiên, chiêm niệm rồi thông truyền cho tha nhân điều mà mình chiêm niệm thì tốt hơn là chỉ chiêm niệm cho bản thân mình (II-II, q.188, a.6). Trên thực tế, chúng ta đã là những nhà chiêm niệm chưa, trước khi thông truyền cho tha nhân?
Kết luận
Đã đến lúc phải kết thúc loạt bài về linh đạo thánh Tôma. Chúng ta khởi đi từ đề tài: “Tôma mẫu gương thánh thiện và thầy dạy nên thánh”, và cố gắng vạch ra vài nét đặc trưng của giáo huấn của vị Tiến sĩ thiên thần. Giáo huấn này nằm rải rác trong nhiều tác phẩm khác nhau, nhưng đặc biệt sách Tổng luận thần học. Bộ sách không chỉ là tóm lược những chân lý về tín lý và luân lý Kitô giáo, nhưng tiên vàn là một con đường (đạo) từ Thiên Chúa đến con người, và từ con người trở về với Thiên Chúa (exitus / reditus). Thánh Tôma đã sử dụng triết học Aristote để phân tích bản chất của vạn vật, cách riêng là bản tính con người, từ đó nhìn nhận giá trị của vật chất, của thân xác, của cảm xúc. Nhưng tác giả cũng không quên “lịch sử cứu độ” (historia salutis), theo đó con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, được mời gọi chia sẻ bản tính Thiên Chúa, nhưng đã sa ngã và đã được cứu chuộc. Hành trình nên thánh được trình bày như là một sự phối hợp giữa tự nhiên và ân sủng (natura et gratia), giữa nỗ lực của con người và ân huệ của Thánh Linh.
Đành rằng những gì Tôma đã viết đều nhắm tới tất cả mọi tín hữu, nhưng chúng ta cũng nên ghi nhận một ưu tư dành cho các anh em thuộc dòng Giảng thuyết. Ngài đã sống lý tưởng đi tìm kiếm Chúa (quaerere Deum), và chỉ một mình Chúa (non nisi te Domine), tìm Chúa và nên thánh qua việc cầu nguyện và học hành, để rồi tìm cách chia sẻ điều đã chiêm niệm cho tha nhân. Ngài trình bày Đức Kitô như là khuôn mẫu nhà giảng thuyết; các đặc sủng của Thánh Linh được sắp xếp nhắm đến việc loan báo Tin mừng (biết, nói, làm chứng). Các tu sĩ dòng Đaminh mang ơn thánh Tôma bởi vì đã để lại một mẫu gương đời sống cũng như một “huấn thị” để sống ơn gọi của mình. Dù vậy, sau khi đã ghi nhận sự ưu đãi dành cho anh em cùng Dòng, chúng ta phải trả ngài lại cho Hội thánh: ngài là thầy dạy của Hội thánh (Doctor ecclesiae). Như Walter Principe đã nêu bật, linh đạo của thánh Tôma được dành cho tất cả mọi người[6], cách riêng các giáo dân sống giữa trần thế, bởi vì theo ngài, sự thánh thiện không hệ ở các hiện tượng phi thường mà ở đức mến khi thực hành các công việc thường nhật. Không lạ gì mà Hồng y Semeraro cho thấy tính thời sự của quan điểm thánh Tôma khi đối chiếu với giáo lý của ĐTC Phanxicô trong tông huấn Gaudete et exsultate[7].
Cuối cùng, xin thêm hai điều nữa trước khi chấm dứt bàn luận về đường nên thánh của Tôma.
1/ Một, việc nên thánh là ân sủng của Thiên Chúa. Như đã nói, ngài quan niệm cứu cánh của đời người nằm ở chỗ chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Những tác động được mô tả trên đây (lectio, cogitatio, studium, meditatio, oratio) là nhìn từ phía con người; bên cạnh đó, còn có thứ chiêm ngưỡng thiên phú được Chúa ban cho cả những người quê mùa dốt nát: không thiếu lần họ không có kiến thức thần học cao siêu, nhưng họ được ban cho cảm nghiệm sâu xa về Thiên Chúa. Catarina Siena, Têrêsa Avila, Têrêsa Lisieux là ba thí dụ điển hình.
2/ Hai, vào lúc cuối đời, chắc chắn thánh Tôma cũng đã nhận được ơn mà ta gọi là “xuất thần”, vào ngày 6/12/1273. Kể từ hôm đó, tác giả ngưng viết, vì coi những gì đã làm đều là rơm rác. Ước mong chúng ta cũng được chia sẻ đôi chút cảm nghiệm ấy.
——————–
[1] Phan Tấn Thành, Các nhân đức Kitô giáo (Đời sống tâm linh XII), NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2014, 384 tr.
[2] Các từ ngữ trên đây trích theo bản dịch Sách Giáo lý cua Hội thánh Công giáo của Ủy ban Giáo Lý Đức tin thuộc HĐGMVN. Nguyên bản La tinh là: “caritas, gaudium, pax, patientia, benignitas, bonitas, longanimitas, mansuetudo, fides, modestia, continentia, castitas”. Như sẽ thấy sau, các từ này có thể chuyển sang nhiều từ ngữ khác trong tiếng Việt. Nên biết là bản dịch Nova Vulgata đã trở về gốc Hy lạp và chỉ giữ lại 9 hoa trái: “caritas, gaudium, pax, longanimitas, benignitas, bonitas, fides, mansuetudo, continentia”; như vậy là loại bỏ: patientia, modestia, castitas
[3] Phan Tấn Thành, Thần học về đời sống tâm linh Kitô giáo (Đời sống tâm linh III), NXB Phương Đông, TPHCM, 2015, trang 201-225.
[4] Ngày nay, các nhà sử học nhìn nhận tác giả của công thức này là viện phụ Guigo II, trong tác phẩm Scala Claustralium k.1188). Xc. Phan Tấn Thành, Cầu nguyện Kito giáo: Lịch sử và thần học (Đời sống tâm linh VII), NXB Phương Đông, TPHCM 2015, trang 330.
[5] Sent. IV, dist. 15, q. 4, a. 1, q. 2, ad 1.
[6] Walter Principe, Aquinas’ spirituality for Christ’s faithful living in the world, in: “Spirituality Today”, 44 (1992), p.110-131.
[7] Marcello Semeraro, La santità in Tommaso d’Aquino, in: https://www.causesanti.va/it/dicastero-delle-cause-dei-santi/prefetto-dicastero-cause-santi/interviste-del-prefetto/la-santita-in-tommaso-d-aquino.html