Bài hát và suy niệm (01.12.2024 – Chúa Nhật Tuần I Mùa Vọng Năm C)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

Nghe giảng

Năm 2018


NL: NGUYỆN MÙA VỌNG 1

ĐC: XIN CHỈ CHO CON

HALL: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con và ban ơn cứu rỗi cho chúng con.

DL: DÂNG TRỌN CUỘC ĐỜI

HL: TRÔNG ĐỢI

KL: HÃY SẴN SÀNG

Năm 2021

NL: CA NHẬP LỄ MÙA VỌNG

ĐC: LỐI NGÀI BƯỚC ĐI

DL: DÂNG NGÀI

HL: ĐỂ CHÚA ĐẾN

KL: HÃY SẴN SÀNG

 

Lời Chúa: Gr 33,14-16 ; 1Tx 3,12-4,2 ; Lc 21,25-28.34-36

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca ( Lc 21,25-28.34-36)

25 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. 26 Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. 27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 28 Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.

34 “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, 35 vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. 36 Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”

Sống chờ đợi và hy vọng vào ngày Chúa đến (01.12.2024)

Chúa Nhật I mùa Vọng, cũng là Chúa nhật đầu tiên của năm Phụng Vụ mới.

Mùa Vọng không phải chỉ chuẩn bị kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh, nhưng là mỗi người chuẩn bị một cách xứng đáng để đón Chúa đến với mình, nhất là đón ngày Chúa Giêsu quang lâm lần sau hết cho riêng mỗi người.

Theo sách: “Những Quy Luật Tổng Quát về Năm Phụng Vụ và Niên Lịch”, Mùa Vọng có một đặc tính với hai khía cạnh :

– Là một mùa để chuẩn bị cho Giáng Sinh khi chúng ta tưởng niệm việc Đức Kitô đến lần thứ nhất.

– Như là một Mùa mà việc nhớ lại ấy hướng tâm trí của chúng ta tới sự chờ đợi cho lần trở lại của Đức Kitô trong ngày sau hết.

Trong ngày Chúa Nhật thứ I mùa Vọng, Giáo hội xếp đặt các bài đọc Lời Chúa đều tập trung vào chủ đề hướng tới “Thời kỳ cuối cùng” và “Ngày của Chúa” hay “Thời của Đấng Mêsia” sắp đến.

Bài đọc I trích từ sách Ngôn sứ Giê-rê-mia. Dân Do thái xưa đang trong tình cảnh thất vọng chán chường vì bị lưu đày Babylon, thì ngôn sứ Giê-rê-mi-a, từ người chỉ loan báo những tai họa vì vua và dân Giuđa đã sống trong tội lỗi, không chịu quay về với Chúa, nên bị Thiên Chúa phạt nước mất nhà tan, phải lưu đày và bị ngoại bang thống trị, nay lại là ngôn sứ nói những lời an ủi, đem lại hy vọng cho dân, vì ông khẳng định rằng Thiên Chúa vẫn trung thành giữ và thực hiện lời hứa của Ngài với vua Đa-vít, sẽ cho dòng dõi vua xuất hiện một đấng minh quân cứu thoát Giuđa và làm cho Giêrusalem được sống yên ổn..

Khác với dân Do thái xưa đã thất vọng, các Kitô hữu ngày nay biết rõ và chắc chắn rằng sẽ có ngày Chúa Giêsu quang lâm để “tính sổ” với mỗi người. Hơn nữa người Kitô hữu biết Thiên Chúa đã yêu thương chọn và ban họ cho Đức Giêsu Kitô. Mà đối với Chúa Giêsu thì “Những người Chúa Cha đã ban cho tôi thì tôi không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. (Ga 6,39). Vì vậy trong Bài đọc II, Thánh Phao-lô khuyên các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang, bằng cách thực hành đức ái và thăng tiến trên con đường thánh thiện.

Bài Tin Mừng là một bài giảng mang tính Khải Huyền của Chúa Giêsu nói về Ngày cánh chung. Đây là loạt bài giảng của Chúa Giêsu trong những ngày cuối cùng của Người ở tại Giêrusalem. Chúa Giê-su công bố bài diễn từ này vào dịp Ngài rao giảng về sự sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21, 6).

Chúa Giêsu nói về những dấu chỉ khi Ngày cánh chung sắp đến : sẽ có chiến tranh loạn lạc, những tai hoạ thiên nhiên kinh khủng sẽ xảy ra, những điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện. Nhưng quan trọng nhất là trước khi những tai họa, điềm lạ xảy ra, thì người môn đệ của Chúa sẽ bị bách hại, bị ngược đãi.

Và khi thành Giêrusalem bị bao vây, bị dân ngoại giày xéo, những hiện tượng to lớn lạ thường xảy ra làm rung chuyển trời đất, biển gầm sóng thét. Thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh hiển ngự giá mây trời  mà đến.

Nhưng Chúa Giêsu bảo các môn đệ khi họ thấy như vậy thì đừng sợ, hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì “anh em sắp được cứu chuộc”. Trái ngược với sự hiên ngang vui mừng của các môn đệ là các dân tộc buồn sầu lo lắng, sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến.

Chúa Giêsu nhắc nhờ các môn đệ phải luôn tỉnh thức, là sống hiên ngang “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” và loại bỏ những lợi ích tạm bợ ở đời này.

Chúa Giêsu biết các môn đệ của Người cũng như các Kitô hữu ngày nay yếu đuối, dễ sa chước cám dỗ mà chạy theo danh lợi và thú vui vật chất, chìm vào trong những dục vọng xấu và quên đi lý tưởng đời mình là tìm kiếm chính Chúa và hướng đến tha nhân với tình yêu vị tha. Vì vậy Người luôn nhắc nhở các môn đệ phải tỉnh thức, phải luôn cầu nguyện để được Thiên Chúa giúp sức, nhờ đó mới có thể đứng vững trước những cám dỗ và bền đỗ trung thành với Chúa.

Chỉ có tỉnh thức và luôn cầu nguyện thì người Kitô hữu mới nhận được nguồn sức mạnh và sự quan phòng của Chúa, vì nhận ra và theo đường của Chúa, dù con đường đó đầy chông gai, phải hy sinh nhiều thứ, kể cả mạng sống. Và chỉ có con đường đó mới dẫn người Kitô hữu đến vinh quang của Chúa mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con bắt đầu vào mùa Vọng, là mùa hy vọng, mùa đợi chờ, đợi chờ một Đấng yêu thương mọi người và được mọi người yêu. Chúng con chờ đợi để được đến với một Người Cha nhân từ. Vì thế xin Chúa giúp tất cả chúng con thực hành, bắt đầu từ những cá nhân nhỏ bé biết hy sinh những lợi ích nhỏ nhen của mình, để tập hợp lại thành một cộng đoàn, một Giáo Hội là thân thể của Chúa, tích cực thực hiện mục tiêu của Năm thánh 2025 là đem Hy Vọng tới cho mọi người, Spes non confundit, “Đức trông cậy không làm thất vọng” (Rm 5,5). Amen.

Jos. NM Tưởng

Chờ đợi Chúa

Mùa vọng.

Vọng là đợi chờ, là tha thiết ngóng trông.

Là chuẩn bị cho có một tâm hồn xứng đáng, để Đấng Em-ma-nu-en  có thể đến và ở lại với chúng ta và với riêng mỗi người.

Lời hứa của Đức Chúa qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a phác họa lên một chân dung những ngày hạnh phúc của một triều đại mới. Một triều đại ngập ánh nắng huy hoàng của bình an và phước lành cứu độ. Ngày xưa đó, Đức Chúa muốn nhân gian biết rằng có một Đấng từ Thiên Chúa, Người lại đến trong dòng dõi vua Đa-vít, và sẽ là Đấng Công Chính được ban tặng cho nhân gian. Với niềm tin Ki-tô, Đấng Thiên Sai ấy đã đến rồi:  Người là Ki-tô Giê-su làng Na-da-rét, Đấng đã làm nên lịch sử huy hoàng ơn cứu độ… Cho nên, với bối cảnh hiện nay của nhân loại, dịch bệnh dai dẳng, chiến tranh, khủng bố, thiên tai giết chết vô số người, những cuộc bách hại đức tin càng lúc càng dữ dội hơn. Tình cảnh chung của trái đất, về tự nhiên lẫn siêu nhiên cùng nóng lên chờ đợi Đấng Công Chính quang lâm ngày càng rõ nét hơn.

Mùa vọng trở về, nhắc nhở những tâm hồn đang lạnh nhạt, khô héo niềm tin, hay những con tim đang đong đầy nhiệt huyết sống đức tin: Hãy sống tâm tình nồng nhiệt đón đợi Đấng Thiên Sai! Ý nghĩa của bài đọc hai cho chúng ta thấy có hai cách đợi, cách đợi thể hiện ra bên ngoài là hãy sống yêu thương “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết… Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.” Cách đón đợi thứ hai, là khao khát trong mong chờ tha thiết Người đến và nhập thể trong ta, cho ta được nên một với Người “anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giê-su, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa.

Hai tâm tình nầy chuẩn bị cho vững vàng, để có thể trung kiên bước vào bối cảnh mà Chúa Giê-su công bố nơi Phúc Âm “Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” Vì thế, chúng ta phải trau dồi đời sống cho vẹn vẻ hai cách đợi

Cách đợi thứ nhất: sống yêu thương.

Tinh thần mùa vọng đòi buộc chúng ta phải tích cực sống giới răn mới của Người “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13,34-35) Bởi vì “Thời cùng tận của vạn vật gần đến rồi. Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được. Trước hết, anh em hãy hết tình yêu thương nhau, vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi.” (1 Pr 4,7-8)

Làm sao một người chồng, người vợ, chủ gia đình hay là anh em với nhau có thể dễ dàng mạt sát, chửi mắng thậm tệ hoặc tát tai người bạn đời, người em, người cấp dưới hay đồng chí hướng với mình, mà chứng tỏ được là mình đang sống yêu thương? Hoặc một tu sĩ có thể xét nét, luôn vạch lá tìm sâu để chỉ trích bạn đồng môn, công khai nói xấu họ mới thỏa lòng mình. Thái độ, hành vi, lời nói trịch thượng, cao ngạo, dữ dằn hạ nhục người bên cạnh hay người có tương quan với mình, rất vô lối kia, nói lên rằng tâm hồn mình đang đầy rác rưởi “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ bángkiêu ngạongông cuồng.” (Mc 7,21-22) Hãy hạ mình xuống và nâng anh em lên mới là tâm hồn cao thượng, còn đạp anh chị em xuống để mình được nâng lên, giày vò người yếu thế hơn mình để chứng tỏ mình mạnh, mình đúng. Chỉ chứng tỏ được rằng mình không phải môn đệ Chúa Ki-tô mà là một kẻ tội lỗi, một người chỉ còn tin Chúa trên hình thức, chứ không hề sống lời Người dạy.

Hoặc là vợ chồng chỉ cần một bất đồng nhỏ là có thể xảy ra chiến tranh lạnh với nhau. Dẫn tới một cuộc sống thiếu yêu thương làm cho con cái phải chịu lụy trước ngọn sóng đầu gió của mẹ cha. Như vậy, trong bối cảnh đó làm sao Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể có thể đến và ở với chúng ta, hở các con!?

Yêu thương là khiêm hạ nhường nhịn nhau, mong điều tốt lành đến cho nhau, hy sinh cho nhau, đem hạnh phúc đến cho người thân cận, quan tâm đến nhau trong những điều tế nhị, nhỏ nhặt là hoa trái của yêu thương. Còn tẩy chay nhau, xa lánh nhau ngay tự trong lòng thì làm sao yêu thương được? Một người có tâm lạnh nhạt, một người cứ theo ý riêng rồi sai lỗi, làm sao hòa hợp được. Phải thay đổi mình mà sống hòa hợp các con ơi!

Cách đợi thứ hai: sống với Chúa trong nội tâm mình.

– Ở bậc thấp: Hành trình từ bỏ tính tự nhiên.

Con người tự nhiên ai cũng có sở thích riêng, đam mê riêng, mong muốn riêng, suy nghĩ định hướng cuộc sống bản thân cách cá biệt. Ai sống cho mình thì thể hiện rõ những ước muốn, đam mê, sở thích và ý riêng của chính mình. Còn những ai sống cho Chúa, vì Chúa thì từ bỏ những điều mình yêu thích để chọn điều Chúa thích; bỏ đam mê thế tục của mình mà đam mê Nước Trời, bỏ ước muốn tự nhiên để mong ước điều Chúa ước mong nơi mình, về mình; và định hướng cuộc đời mình theo Chúa Giê-su. Từ bỏ càng nhiều, hy sinh càng lớn, càng chứng tỏ mình yêu kính Chúa hơn.

– Ở bậc cao hơn: Tích cực hơn tiến về phía Chúa.

Khát khao sống cho Chúa, tìm hiểu tâm nguyện của Người và chia sẻ với Người những gì Chúa muốn. Suy ngắm tâm trạng buồn vui của Chúa Giê-su, và khát khao được cùng Người san sẻ, sớt chia. Yêu và sống cho, sống với người mình yêu. Những điều này cần hâm nóng luôn mãi, nếu không nhiệt tâm sẽ nên nguội lạnh và tuột dốc đời nội tâm.

– Cao hơn nữa: Khát khao nên một với Chúa.

Sau khi băng qua được hai cấp độ sống trên, các con đã chứng tỏ được với Chúa nhiệt tâm và sự cố gắng của mình. Lên đến bậc sống này, sức con người không đóng góp được bao nhiêu nữa vào hành trình tâm linh. Đây là giai đoạn chỉ cần giữ ý chí bám vào ý Chúa, rồi phó thác đường đời, đường nên hoàn thiện cho Chúa. Nên, trong giai đoạn này,  khát khao là chủ lực thể hiện ý chí và lý trí muốn thuộc về Chúa, mong chờ Chúa nhập thể vào chính mình để Chúa và mình nên một. Tới đây Thần Khí sẽ hoạt động mạnh mẽ nơi chúng ta, yêu dấu dẫn chúng ta dần đến đời sống nên một hay nhiệm hiệp cùng Chúa. Chỉ cần chúng ta luôn biết khát khao thiết tha đợi chờ Chúa đến cùng ta.

Có như vậy chúng ta mới thực hiện được lời này của Chúa “chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”.

Tình Yêu Hoa Cỏ

TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN

Có anh kia vì chè chén say xỉn tối ngày, nên lúc nào tâm thần cũng “lơ tơ mơ” không biết đàng nào mà lần, nói toàn chuyện vu vơ không đâu. Lần kia trước thánh lễ, anh khoanh tay từ cuối nhà thờ đi lên, có vẻ trịnh trọng ngồi vào hàng ghế đầu tiên. Vợ con anh ngồi dưới mà lo cháy ruột, chỉ sợ lỡ anh tiến lên bục giảng, tự… “làm cha” nói lung tung đang giờ lễ, thì vợ con không biết chui vào đâu, vì quá xấu hổ với “thế giới ảo” của anh.

Trong Tin Mừng hôm nay, để kết thúc bài giảng về ngày sau hết, Đức Giêsu cảnh báo thái độ sống buông thả theo cám dỗ thế trần: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” (Lc 21,34a). Chè chén say sưa làm cho lòng người ra nặng nề, không còn biết lo lắng cho sự gì sắp xảy đến nữa. Người nghiện rượu thì sẽ mất khôn hóa dại, còn thức mà nói năng hành động như thể người ngủ mê. Đó là chuyện thực tại của thế trần. Nhưng chuyện “chè chén say sưa” Đức Giêsu nói ở đây còn là những cõi lòng đang mê mải say sưa tiền bạc, lợi danh lạc thú, sa đọa trong vũng bùn tội lỗi, lòng còn chất chứa oán hận hờn căm, không đội trời chung với “kẻ thù” nào đó, sống buông thả như không hề có Chúa…

“kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21,34b). Đàn chim đang mải mê ăn lúa, một chiếc lưới bất thần chụp xuống, cả đàn bị mắc lưới không thoát được vì lưới chụp xuống bất thình lình. Người ta đang mải mê ăn uống chơi bời, lo lắng sự đời mà ngày ấy bất thần chụp xuống trên mặt đất thì làm sao kịp sóng mình đây? Vì vậy nên Đức Giêsu kêu gọi, cảnh báo khẩn trương: “anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 21,36).

Ngày Con Người đến đối với toàn thể nhân loại sẽ là ngày bất ngờ. Mọi người đang sống theo hoàn cảnh của riêng mình, hoạt động bình thường trong vòng quay của đời thường, nhưng khi Con Người chợt đến thì tâm trạng, số phận của họ lại khác nhau. Những người say sưa chè chén, mải mê lo lắng sự đời, nhởn nhơ vui chơi với thế trần, không tỉnh thức cầu nguyện, thức mà như người ngủ mê thì quả là sợ hãi vì hối sao cho kịp. Còn những người tỉnh thức, cầu nguyện, nối kết liên đới trong yêu thương với Chúa thì đâu có bất ngờ, hay giật mình hoảng sợ, vì lúc nào họ cũng sống trong Đấng là Tình Yêu.

Ngày mà chiếc lưới tình yêu chụp xuống là niềm hạnh phúc, là nơi họ tự nguyện chui vào, chứ không phải sợ hãi, vì đang mong ngóng đợi chờ. Bởi vì: “Họ sẽ được nhìn thấy tôn nhan Người, và thánh danh Người ghi trên trán họ. Sẽ không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời.” (Kh 22,4-5).

 Én Nhỏ

***

Mục lục

 

Năm 2018

1. Niềm hy vọng  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Vọng  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

3. Tỉnh thức và cầu nguyện (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Vọng chờ  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

5. Mở cửa tâm hồn đón Chúa đến  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Trông đợi Chúa đến (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

7. Tỉnh thức và cầu nguyện. (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

8. Chúa sẽ đến giải thoát (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

9. Suy niệm Chúa Nhật 1 Mùa Vọng_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

10. Miền Vọng  (Trầm Thiên Thu)

11. Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

12. Tỉnh thức cầu nguyện  (Lm. Vũ Đình Tường)

13. Ngày giờ tâm lý (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

14. Chúa Nhật 1 Mùa Vọng_C  (Lm. Phêrô Lê Nguyễn Hoàng Vũ)

15. Không lo xa ắt buồn gần  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

16. Mở cửa tâm hồn đón Chúa (JM. Lam Thy, ĐVD)

17. Chiến sĩ của Chúa (Tập sinh MTG.Thủ Đức)

18. Sẵn sàng đón Chúa đến (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

19. Tin mừng Chúa Nhật 1 Mùa Vọng_C  (Jorathe Nắng Tím)

20. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật I Mùa Vọng (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

21. Chúa Nhật I Mùa Vọng_C.  (Lm. Antôn)

 

Năm 2015

1. Hãy tỉnh thức  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Biết để sống  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Sống tỉnh thức  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Khởi đầu của lòng xót thương  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

5. Tỉnh thức và cầu nguyện  (Lm. G.B. Trần Văn Hào, SDB)

6. Niềm mong đợi  (Trầm Thiên Thu)

7Tỉnh thức bước vào thế giới mới  (Baptista, Xitô Phước Thiên)

8. Hãy tỉnh thức vì không ngờ  (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

9. Chúa Nhật I Mùa Vọng_C  (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)

10. Sẵn sàng tỉnh thức và cầu nguyện  (AM. Trần Bình An)

11. Mùa tỉnh thức  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Tỉnh thức đi vào thế giới mới  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

13. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

14. Chờ mong (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

15. Tỉnh thức và cầu nguyện đón Chúa lại đến  (Lm. Đan Vinh)

16. Tỉnh thức và chờ đợi  (Huệ Minh)

17. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên (Dã Quỳ)

18. Mùa Vọng, Mùa của lòng thương xót  (Lm. Giuse Trực)

 

.

NIỀM HY VỌNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Con người không thể sống ở đời mà không có niềm hy vọng. Niềm hy vọng giúp ta có sức mạnh để vươn lên, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Vì thiếu niềm hy vọng, nhiều người khi gặp bế tắc đã tự kết liễu đời mình. Các nhà nghiên cứu xã hội cho biết Nhật Bản và Hàn Quốc là hai quốc gia có số người tự tử nhiều nhất trên thế giới. Trong số những người tự tử, có nhiều người thành đạt trong lãnh vực học vấn hoặc kinh doanh. Có nhiều người là ca sĩ, là người mẫu hoặc ngôi sao điện ảnh. Bổng lộc vinh quang trần thế không đem lại cho họ hạnh phúc, vì họ thiếu niềm hy vọng trong cuộc đời. Đức Kitô là niềm hy vọng cho thế giới. Thiếu Người, cuộc đời này trở nên trống rỗng, vô nghĩa. Vắng bóng Thiên Chúa, thế gian này trở thành bãi chiến trường.

Mùa phụng vụ mà chúng ta khai mở hôm nay có tên là “Mùa Vọng”. Mục đích của mùa này giúp chúng ta tìm thấy niềm hy vọng trong cuộc sống, nhờ đó chúng ta tìm ra ý nghĩa cuộc đời, tận hưởng những điều tốt đẹp Chúa ban cho ta.

Vì là niềm hy vọng, nên những gì Chúa nói với chúng ta trong Bài đọc I và bài Tin Mừng đều ở tương lai. Ngôn sứ Giêrêmia là người chịu nhiều đau khổ, trong tình cảnh dân Do Thái sắp phải đi lưu đày. Vào lúc dân chúng hoang mang, lo lắng và hoảng loạn, vị Ngôn sứ trấn an họ: hãy cậy trông vào quyền năng vô biên của Chúa, vì Ngài là Cha yêu thương, không bỏ rơi các con cái của Ngài. Giêrêmia đã hướng lòng dân chúng về một tương lai, lúc đó Thiên Chúa sẽ can thiệp vào lịch sử và cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công chính để nối nghiệp Đavít. Lúc ấy, sự bất công đàn áp sẽ không còn. Cảnh lưu đầy tha hương sẽ chấm dứt. Đấng Công chính sẽ dẫn dắt dân chúng và cai trị trong hòa bình. Chính những lời ngôn sứ này đã nuôi dưỡng niềm tin và niềm hy vọng của Dân Do Thái trong cảnh lưu đày, để rồi, dù bao tủi nhục, họ vẫn một lòng cậy trông. Trong cảnh tha hương, vào những buổi chiều, người Do Thái đến bờ sống Babilon để gửi nỗi hoài vọng về quê cha đất tổ. Họ cầu nguyện để Thiên Chúa sớm thực hiện điều Ngài đã hứa.

Và, Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa của Ngài từ ngàn xưa. Ngài đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến trần gian. Đức Kitô là Đấng muôn dân mong đợi. Lúc Người khởi đầu sứ mạng loan báo Nước Trời, những câu hỏi, những phản ứng đến từ các vị lãnh đạo tôn giáo cũng như từ phía người dân đã chứng minh sự mong đợi này. Câu truyện ông Gioan Tẩy giả là một ví dụ. Lúc đó ông đang bị giam cầm. Nghe nói về ông Giêsu đang rao giảng có nhiều người tin theo, ông Gioan sai người đến hỏi: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (x. Mt 11,2-6). Câu hỏi này cho thấy niềm hy vọng Đấng Thiên sai của dân Do Thái rất mãnh liệt. Trong lời giảng dạy của mình, Chúa Giêsu luôn chứng minh Người là Đấng Thiên Sai, nhưng không theo quan niệm trần tục như một số khá đông người Do Thái thường nghĩ. Nhiều lần, Người đã điều chỉnh quan niệm Thiên sai nơi các môn đệ. Người cho thấy, Đấng Thiên sai đến không phải để hưởng vinh quang trần thế, nhưng để phục vụ con người và dẫn đưa họ về với Chúa Cha. Người chính là Đấng Công chính mà ngôn sứ Giêrêmia đã tiên báo. Vương quốc của Người là vương quốc an bình, thánh thiện. Nơi đó, tình thương Thiên Chúa sẽ tràn ngập, bao phủ những ai sống công chính, thánh thiện và mến Chúa và yêu người.

Sống niềm hy vọng là gửi gắm tín thác tương lai của mình nơi Thiên Chúa. Người vững niềm hy vọng không lo sợ khi những tai ương xảy đến, vì tin có Chúa che chở đồng hành. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta, sống niềm hy vọng được thể hiện qua một đời sống lành mạnh, đạo đức. Người lên án lối sống bê tha, chè chén, say sưa, đam mê hoang đàng. Bởi có thể chính lúc say sưa ấy, Thiên Chúa đến gọi họ, và họ sẽ rơi vào tình huống bất ngờ, thiếu chuẩn bị hành trang về quê vĩnh cửu. Chúa mời gọi chúng ta: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”.

Đức Giêsu đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm. Người đang hiện diện giữa chúng ta một cách thiêng liêng vô hình. Sống tinh thần của Mùa Vọng, là nhận ra sự hiện diện huyền nhiệm ấy, đồng thời chờ đợi Người sẽ đến trong vinh quang. Một cách cụ thể và đối với cá nhân mỗi người, Chúa Giêsu sẽ đến vào lúc chúng ta kết thúc cuộc đời trần thế. Lúc đó, Chúa sẽ phán xét những hành vi cử chỉ của chúng ta, trong cách đối xử với anh chị em mình.

Người Kitô hữu không chờ đợi Chúa trong một tâm trạng ù lỳ, miễn cưỡng hay tiêu cực buồn bã. Thánh Phaolô khuyên tín hữu thành Thessanonica: Hãy bền tâm vững chí, sống thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha  chúng ta, trong ngày  Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.

Cuộc chờ đợi nào cũng đòi hỏi phải kiên nhẫn. Tình yêu mến cậy trông sẽ biến cuộc chờ đợi trở thành niềm vui, vì chúng ta xác tín Đấng mà chúng ta chờ đợi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Vâng, Chúa Giêsu đang đến, hãy chuẩn bị tâm hồn để đón Người. Chính Người là niềm Hy Vọng của chúng ta. Sống niềm hy vọng phải đi kèm với thiện chí canh tân đổi mới cuộc đời, để khi Chúa đến gặp ta, đó sẽ là cuộc hội ngộ hạnh phúc Cha-con, Thày-trò trong niềm vui bất tận.

 

.

VỌNG

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan.

Vọng có nhiều nghĩa, cả xấu và tốt. Khía cạnh xấu gồm, vọng ngữ, vọng tưởng, vọng cuồng. Để có một mùa vọng tốt lành, hãy lắng nghe sứ điệp của Tin Mừng theo Thánh Luca : “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”.  (Lc 21, 34 – 36)

Vọng ngữ: Lời nói gian ngoa, không thành thật, lừa gạt, không ngay thẳng. Người dùng vọng ngữ mang tính tham lam, ưa thích danh vọng, mưu đồ thỏa mãn cho cái ích kỷ, chiếm đoạt lòng tin cho người khác. Thánh Phao lô hướng dẫn cộng đoàn Ê phê sô:  “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe”  (Ep 4, 29).

Người vọng ngữ trước tiên là lừa gạt chính mình, sau mới là hại đến người khác. Lời ngay thật và chân thành là lời xây dựng chính mình và cũng xây dựng cho người khác điều ích lợi, tốt đẹp trong đời sống. Chúa dạy: “có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5, 37)

Vọng tưởng: Mơ ước điều bất chính, mơ tưởng những điều xấu, âm mưu điều đê tiện hại người… Vọng tưởng ở cấp độ yên thân, áo ấm, tích trữ cho mình như người nhà giàu tự nhủ: “hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã! Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12, 19). Các giáo sĩ Do Thái nói rằng: “Người giàu giúp đỡ người nghèo trong cuộc sống này, nhưng người nghèo lại giúp người giàu trong sự sống ngày sau”.

Vọng tưởng trong đời sống cầu nguyện, còn là suy nghĩ mông lung, xác trong nhà thờ, hồn lang thang đâu đó ngoài phố thị, chợ đời… Mộng tưởng những điều không thật và làm nên lối sống ảo, cuối cùng thất bại trong cách sống của mình dẫn đến thiếu niềm tin ở cuộc sống… Mộng tưởng rất nguy hại, Chúa mời gọi neo giữ tâm trí của mình lại trong việc: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.”  (Mt 6, 33).

Cuồng vọng: Lối sống cuồng vọng dẫn dắt người ta đến chỗ nguy hại nhất. Cuồng vọng làm cho người ta điên cuồng chạy theo lối sống ảo tưởng, muốn làm tất cả không phân biệt tốt, xấu, lành dữ; điên cuồng để đạt được mục đích, tình, tiền, tài. Cơn cuồng vọng không chỉ xuất hiện ở cá nhân mà lắm lúc cuồng vọng phát sinh trong một số đông. Có những phong trào quái dị ra khỏi nếp sống bình thường của con người. có những cơn cuồng vọng muốn đập phá mọi tôn giáo ngay lành, chỉ muốn phát triển một tôn giáo ma quỷ, những giáo phái phá đổ mọi luật lệ, theo lối sống quần hôn, phục vụ cho khoái lạc. Có những cơn cuồng vọng muốn phá vỡ hôn nhân bình thường truyền thống cha ông để lại, để sống lối sống hôn nhân dị thường.

Cơn cuồng vọng giống như bão táp quét qua các nền văn hóa truyền thống, những tôn giáo kỷ cương, ngay lành, những xã hội trật tự an ninh, những giá trị công bằng và ngay chính…

Ra khỏi Vọng xấu để bước vào mùa Vọng Chúa mời gọi.

Tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Phương thế ra khỏi những điều xấu luôn là lời mời gọi canh chừng tỉnh thức chính mình. “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5, 8)

Tập luyện các nhân đức. Vọng không chỉ về một ngày tháng mà gợi nhắc tới mùa. Như nhà nông đợi chờ ngày mùa bằng những vất vả hy sinh, chăm bón. Người Kitô hữu cũng được mời gọi tập luyện đời sống thiêng liêng. Theo gương Mẹ Maria: “suy đi, gẫm lại Lời Chúa” (Lc 2, 19) và những sự kiện gặp gỡ Chúa trong đời, để được lớn lên trong tình yêu của Chúa.

Mừng vui đón Chúa Giáng Sinh. Kết thúc mùa Vọng bằng tâm tình được sinh lại trong Chúa cùng Chúa Hài Nhi. Mùa ân phúc của ngày gặt hái kết quả của hy sinh, tập luyện. Mùa của ngày đón Chúa vào trong cuộc đời và tiếp tục đón Chúa trong ngày quang lâm.

Xin Chúa giúp chúng con được sinh ra trong Người và lớn lên cùng Người.

 

.

TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Mùa vọng lại trở về.Chu kỳ Phụng vụ lại bắt đầu. Mùa vọng là mùa chờ đợi, mong chờ lần thứ nhất Con Thiên Chúa đến trần gian, nhưng Mùa vọng cũng là mùa chờ đợi Chúa Giêsu quang lâm một cách bất ngờ, đột xuất không ai có thể suy đoán, biết trước được. Lần sau cùng này đến thình lình như :” chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất “ ( Lc 21,35 ).

Người ta cứ tưởng rằng ngày tận cùng sẽ xẩy đến lúc này, lúc nọ, năm này, năm kia. Không giữa hai lần chờ đợi, đã có biết bao lần Chúa bất ngờ đến. Đó là ngày chết của mỗi người, của chính chúng ta. Bởi vì, trên thế giới đã có biết bao người giỏi giang, trổi vượt, có biết bao nhà khoa học, bác học muốn biết ngày nào con người chết, ngày nào là ngày tận thế! Tuy nhiên, những người đó đã tốn biết bao công sức, tiền của với biết bao nghiên cứu khoa học, biết bao giả thiết đưa ra với nhiều kết luận, cuối cùng mọi cố gắng của họ đều bó tay. Bao đe dọa, bao lời tiên tri, suy đoán của giáo phái này, giáo phái kia đều trở nên lố bịch, vô ích !

Chúa Nhật thứ I Mùa vọng năm C, Chúa nói cho con người, cho nhân loại, cho chúng ta về viễn cảnh của ngày phán xét, ngày cánh chung. Chúa cho chúng ta thấy trước những cảnh tượng và những sự việc hãi hùng đến nỗi con người, và chúng ta sẽ sợ hãi, run lên, hồn xiêu phách lạc khi phải đối diện, đương đầu với những tai họa giáng xuống địa cầu như Tin mừng hôm nay kể ra :” Điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang vì biển gào sóng thét…” ( Lc 21,25-26 ).Trước những cảnh tượng khủng khiếp, nhưng xẩy đến bất ngờ, con người không kịp ăn năn, hối cải, không còn cơ hội để làm những việc lành phúc đức để mong Chúa thưởng công. Chỉ có những người biết lắng nghe lời Chúa, thực thi lời Chúa, những người thánh thiện, đạo đức luôn khôn ngoan, sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn mà lại mang dầu theo, hoặc như những đầy tớ nhanh nhẹn, đắn đo kỹ càng, suy nghĩ cẩn thận, luôn chóng vánh, tỉnh thức đón chờ ông chủ đi làm xa về , mới đủ sức, đủ điều kiện thoát khỏi mọi sự việc sắp xẩy ra trong tư thế đứng thẳng và ngẩng đầu cao vì những người này luôn sẵn sàng, cầu nguyện và hết sức tỉnh táo “ đành mất mạng sống “ để sẵn sàng vào dự tiệc với Chúa Giêsu trong Nước Trời.

Vâng, Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài không muốn để bất cứ người nào hư mất, nên Ngài đã cho con người, cho chúng ta biết trước cảnh tượng khủng khiếp đó để chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện.Tuy nhiên, con người thường dửng dưng cho rằng ngày đó còn lâu, hoặc chưa thể nào xẩy đến được, cứ từ từ không gì phải vội vàng… Ngày đó không thề là hôm nay cũng không thể là ngày mai…Chính vì thế, họ tỉnh bơ trước lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy coi chừng vì Chúa cảnh giác chúng ta thật mạnh mẽ và rõ ràng :” Thiên Chúa chính là chủ nhân của cuộc sống vì Ngài là Vua Vũ trụ. Ngài điều khiển mọi sự trên trời, dưới đất “. Chính vì thế, chúng ta phải mau mắn sửa đổi nếp sống, ăn ngay ở lành để canh tân, sám hối, quay trở về với Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Xin giúp chúng con luôn “ tỉnh thức và cầu nguyện “, luôn sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn thanh thoát, mau mắn chờ đón Chúa vì chúng con sắp được lãnh ơn cứu độ. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Đức Giêsu báo trước cho con người điều gì ?
2.Chúng ta có biết khi nào Chúa đến không ?
3.Chúa có đến bất ngờ không ?
4.Lần thứ nhất, Chúa đến là lần nào ?
5.Ngày tận cùng của mỗi người chúng ta là ngày nào ?

 

.

VỌNG CHỜ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tầng trời rung chuyển khắp nơi,
Biển gầm sóng vỗ, ngoài khơi thét gào.
Bầu trời điềm lạ trăng sao,
Mọi dân lo lắng, khát khao mỏi mòn.
Kinh hồn chờ đợi héo hon,
Càn khôn vũ trụ, núi non vọng chờ.
Mây tan tỏa sáng vô bờ,
Con Người ngự đến, kính thờ Vua ta.
Uy nghi hiển thánh hiện ra,
Hạ thân cứu rỗi, mưa sa phúc lành.
Giữ mình tránh khỏi tranh dành,
Xin đừng chè chén, thi hành đổi thay.
Nguyện cầu tỉnh thức ăn chay,
Hãm mình sửa lỗi, hằng ngày thực thi.
Mong chờ ân phúc từ bi,
Khổ đau chuốc lấy, bước đi trong đời.
Hồng ân chan chứa tuyệt vời,
Giê-su giáng thế, làm người hóa thân.
Yêu thương cứu độ nhân trần,
Hy sinh chịu chết, thiện chân cao vời.

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của Năm Phụng Vụ mới. Mùa Vọng là mùa chuẩn bị đón mừng Chúa đến với hai ý nghĩa. Thứ nhất, chuẩn bị Lễ Chúa Giáng Sinh nơi tâm hồn mỗi người chúng ta. Thứ hai, nhắc nhở chúng ta rằng Chúa sẽ đến trong vinh quang.

Mùa Vọng là mùa của sự chờ đợi trong hy vọng. Niềm hy vọng làm phấn khởi lòng người. Mỗi năm khi Mùa Vọng đến, ai ai cũng nô nức, người tin Chúa cũng như người không tin, đều chuẩn bị một điều gì đó. Người trong đạo thì lo gởi thiệp, kết đèn, trang trí, chuẩn bị làm hang đá và trưng bày các tượng ảnh bên ngoài. Họ còn chuẩn bị tâm hồn qua các cuộc cấm phòng, tĩnh tâm, lãnh nhận bí tích hòa giải và thực hành việc bác ái.

Người không có niềm tin vào Chúa, họ cũng chuẩn bị nào là trưng bày cây thông, hình ảnh ông già Noel, giăng đèn điện và tổ chức các buổi liên hoan. Các nhà thương mại thì lợi dụng cơ hội để tiêu thụ các sản phẩm cả trong đạo lẫn ngoài đời. Như vậy ai cũng có sự chuẩn bị cho dù mục đích có khác nhau. Có biết bao nhiêu người hân hoan mừng Lễ Giáng Sinh, nhưng mấy ai để tâm suy niệm ý nghĩa đích thực của mùa lễ. Nhiều người không hiểu về mầu nhiệm Chúa giáng trần cứu độ nhân loại. Có khi họ không biết Chúa Giêsu là ai và tại sao Chúa lại xuống thế làm người. Họ chỉ biết là đây là một mùa lễ vui mừng. Có dịp nhận qùa và cho qùa.

Là Kitô hữu, chúng ta nhận rõ ý nghĩa đích thực của những ngày Mùa Vọng. Vọng chờ trong tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa Hài Nhi Giêsu đã giáng sinh trong thời gian và không gian của lịch sử. Ngày nay Chúa không sinh ra nơi hang đá nghèo hèn, nhưng Chúa muốn gõ cửa tâm hồn của mỗi người. Chúng ta hãy sẵn sàng dọn lối và sửa đường đón Chúa vào lòng.

Chúa loan báo ngày Chúa đến sẽ có những dấu lạ trên trời, dưới đất và các dân tộc buồn sầu lo lắng… Chúa mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Quan sát chung quanh, hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao người đã ra đi. Chúng ta nhận biết những người ra đi không phân biệt kẻ già, người trẻ, người lớn hay trẻ em. Ra đi là mẫu số chung cho mọi người. Vậy chúng ta cần chuẩn bị sẵn sàng vì chúng ta không biết ngày nào và giờ nào.

Chúa giáng sinh làm người để cùng chia xẻ thân phận con người với chúng ta. Niềm vui của chúng ta là có Chúa ở cùng. Chúa chính là nguồn hoan lạc trong tâm hồn. Chúng ta hãy chuẩn bị đón chờ Chúa đến với tâm hồn trong mùa Giáng Sinh này và sẵn sàng đón Chúa đến ngày sau hết.

 

.

MỞ CỬA TÂM HỒN ĐÓN CHÚA ĐẾN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin làAdventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.

Hỏi : Chúa đã đến chưa ? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng : Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?

Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích : một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa, sinh bởi Ðức Maria Đồng TrInh ; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và người chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do các từ “chờ đợi” được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết : « Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi », và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van : « Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống ».

Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mặc tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.

Mùa Vọng trong Kinh Thánh

Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ lại sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo : “Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non…” (x.Is 11, 1-10).

Lời thiên thần Gabriel cho biết Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế :“Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu…” (x.Lc 1, 26-38)

Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng : “Có Ðấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)

Như thế, những việc cử hành thánh trong Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta hoán cải nội tâm, canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.

Mùa Vọng

Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi tuần có tên gọi truyền thống đặc thù của nó, gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu :

– Chúa Nhật I Mùa Vọng: Ad Te levavi…(= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa… )

– Chúa Nhật II Mùa Vọng :Populus Sion …(Này hỡi Dân Sion…)

– Chúa Nhật III Mùa Vọng : Gaudete …(= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…)

– Chúa Nhật IV Mùa Vọng : Rorate … (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng CôngChính…)

Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng

Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Chúa đến lần thứ nhất, và tỉnh thức sẵn sàng đón Chúa tái lâm là chiều kích thứ hai : “Vì giờ cứu rỗi các con đã đến gần” (x. Lc 21, 25-28, 34-36).

“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biểngầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến” (Lc 21, 25-28). Đó là những dấu hiệu báo trước ngày Chúa tái lâm.

Hơn bao giờ hết, con người thời nay hết sức đau buồn vì nạn khủng bố gây rq. Các kitô hữu ở nhiều nơi kêu la thảm thiết. Biển gầm lên, đất rung chuyển tại Nhật Bản, Inđônêsia, Trung Quốc và nhiều nơi khác thiêu hủy biết bao sinh mạng con người. Phải chăng giờ cữu rỗi đã gần đến?

Lời Chúa Giêsu khuyên chúng ta vẫn còn cấp bách : “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” (Lc 21, 34-36).

Sống Mùa Vọng

Thế giới dường như đang cạn kiệt tình thương, nên loài người giết hại nhau, hủy hoại môi sinh, khiến thiên nhiên nổi nóng chống lại con người. Sách Khải Huyền viết : “Ta đứng ngoài cửa và gõ”. Chúa gõ cửa lòng chúng ta : “Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa chiều với người ấy và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Chúa đang chờ đợi chúng ta mở cửa để bước vào đem theo phúc lành cũng như tình bạn của Chúa đến cho chúng ta.

Chúa Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, vì Người sinh ra hòa bình trong trái tim chúng ta. Người đến thế gian bằng tình yêu và lòng mến, với sự cảm thông dịu hiền của một Vì Thiên Chúa là Cha. Lợi dụng cơ hội này, chúng ta phải ý thức mình là người mang tình yêu, hòa giải và an bình, sẵn sàng trao ban và tha thứ cho nhau, liên đới trong tình huynh đệ, giúp đỡ lẫn nhau, đồng tâm chia sẻ vui buồn, khổ đau với đồng loại.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, xin dẫn chúng con bước vào Mùa Vọng và hăm hở đón mừng Chúa Giêsu Con Mẹ ngự đến. Amen.

 

.

TRÔNG ĐỢI CHÚA ĐẾN

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Hôm nay, chúng ta bước vào năm Phụng vụ mới, bắt đầu từ Chúa nhật thứ I mùa Vọng. Mùa Vọng, là mùa của niềm vui, mùa trông đợi Chúa đến. Thật ra, Chúa đã đến với nhân loại lần thứ nhất cách đây hơn 2.000 năm, khi Ngài giáng sinh ở Belem, và hằng ngày Ngài vẫn đến với chúng ta qua Lời của Ngài, Ngài hiện diện trong Bí tích Thánh thể, Ngài ẩn mình trong từng người chúng ta gặp gỡ. Và tương lai, Ngài sẽ đến lần thứ hai trong ngày quang lâm.

Nhưng đan xen giữa 2 lần đến, thì chắc chắn Chúa sẽ đến riêng với mỗi người chúng ta đó là giờ sau hết. Chính vì thế mỗi năm mùa Vọng về, Giáo hội nhắc lại cho chúng ta lời Chúa nói về ngày giờ Chúa viếng thăm. Chẳng hạn như: “Các con hãy tĩnh thức và cầu nguyện, vì không biết ngày nào giờ nào Chúa các con sẽ đến”.

Một thầy phó tế chỉ còn hai ngày nữa là lãnh chức linh mục, áo lễ, chén lễ đã mua rồi, thiệp mời đã gửi đi hết rồi, nói chung là mọi sự đã sẵn sàng. Thế nhưng, buổi sáng hôm ấy trên đường đi về nhà thăm mẹ bệnh nặng, đang đi chiếc xe bổng dưng bể bánh trước, thầy té ngả lăn ra bên đường, liền ngay lúc đó chiếc xe lớn đàng sau chạy tới thắng không kịp cán thầy chết tại chỗ.

Dâng thánh lễ an táng cho thầy, cả nhà thờ hôm ấy dường như ai cũng rơi nước mắt. Bởi vì nhìn thấy những người thân của thầy ôm chầm chiếc quan tài khóc như mưa. Cha mẹ thì thương tiếc đứng không nổi trong nhà thờ. Những giọt nước mắt tang thương ấy chắc vang lên tới tận trời cao. Lúc đó, làm con chợt nhớ tới lời cha ông mình nói: “Lá vàng còn ở trên cây, là xanh rụng xuống Trời hay chăng Trời!”.

Cái chết bất ngờ, cái chết tức tưởi, cái chết tang thương ấy, như một lời nhắc nhở chúng ta, rồi đây sẽ đến một lúc nào đó, chúng ta cũng phải từ giã cuộc đời tạm bợ này. Và không ai biết trước giờ mình chết và chết ở hoàn cảnh nào. Tất cả dường như tấm màn bí mật che lấy cuộc đời chúng ta.

Chính vì thế, lời Chúa luôn luôn nhắc chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì giờ Chúa đến hết sức bất ngờ như kẻ trộm. Tĩnh thức để khỏi rơi vào cơn cám dỗ của ba thù, đó là: ma quỉ – xác thịt – thế gian. Kẻ thù đáng sợ nhất là ma quỉ.

Đức Giêsu nói: Ma quỷ là cha dối trá, nó đánh lừa rất tinh vi, làm chúng ta ươn lười, biếng nhác trong việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích và đọc kinh dự lễ. Vì nghĩ rằng: mình còn trẻ, còn khỏe chưa chết đâu, cứ từ từ ăn chơi hưởng thụ, để khi về già bệnh nặng thì mời cha đến xức dầu, nếu như thế, thì e rằng mắc mưu ma quỷ rồi.

Tĩnh thức để khỏi rơi vào cơn cám dỗ thứ hai, đó là xác thịt. Người ta nói rằng nhu cầu xác thịt còn lớn hơn nhu cầu ăn uống. Chính vì xác thịt mà ngày nay người ta khai thác tình dục tối đa, đủ mọi hình thức. Hậu quả biết bao nhiêu thai nhi bị sát hại hết sức dã man, ngay từ trong lòng mẹ.

Tỉnh thức đừng để rơi vào cơn cám dỗ thứ ba, đó là thế gian. Thế gian ngày nay đầy dẫy những quyến rũ, mời gọi, cám dỗ lôi kéo con người hướng chiều về điều xấu. Những thú vui vật chất, tình tiền tài… rất ư là hấp dẫn mời gọi, làm chúng ta lung lạc đức tin, tâm hồn không còn có Chúa ngự trị.

Bởi vậy, Lời Chúa hôm nay nhắc nhở: Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con.

Như vậy, tĩnh thức là đi vào con đường hẹp, đừng tìm dễ dãi bản thân, nuông chiều theo xác thịt. Tĩnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan, chuẩn bị ngọn đèn đức tin luôn tỏa sáng, và bình dầu luôn đong đầy tình Chúa, đầy ắp tình người. Để khi chàng rễ Giêsu đến bất cứ lúc nào, Ngài sẽ mời chúng ta vào dự tiệc cưới Nước trời.

Anh chị em thân mến,

Lời Chúa dạy: Tĩnh thức luôn phải đi đôi với cầu nguyện. Vì tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt thì nặng nề yếu đuối.

Bởi vì, cầu nguyện là nền tảng nuôi dưỡng đời sống đức tin. Là kết hợp mật thiết với Chúa. Lúc đó, trong tư thế đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến.

Như vậy, chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta giảm bớt những bận tâm, lo lắng việc đời, biết tìm kiếm nước Thiên Chúa trước, còn mọi sự khác để Chúa lo cho sau.

Chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta vơi đi những nỗi u buồn, thắng dẹp những cơn cám dỗ, tìm lại được bình an nội tâm.

Xin Chúa giúp chúng ta tích cực sống tinh thần tĩnh thức của Mùa Vọng, bằng đời sống cầu nguyện gắn bó với Chúa. Làm mới lại đời sống nội tâm. Sống tinh thần bác ái yêu thương. Đó là những việc làm căn bản để dọn mình mừng đại lễ Chúa giáng sinh, và hướng lòng trông đợi ngày giờ Chúa đến. Amen.

 

.

TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN.

Lm. Phêrô Lê văn Chính

Khởi đầu của năm Phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về việc Chúa đến với nhân loại và mỗi người trong chúng ta. Thời gian của đời người không phải chỉ là để xây đắp những công trình nhân loại mà thôi, học hành, làm ăn mua bán, dù các công trình này có cần thiết cho đời sống con người. Thời gian của đời người còn là việc luôn chuẩn bị sẵn sàng hướng về việc Chúa đến để đưa con người chúng ta đến một đời sống mới quyết định hơn. Bài Tin mừng mô tả những hiện tượng thay đổi vũ trụ đáng sợ là dấu chỉ kết thúc thời gian. Mọi thời đại đều cảm thấy những dấu chỉ thay đổi vũ trụ như rất gần kề. Những dấu chỉ trên trời như mặt trời, mặt trăng, các tinh tú thay đổi đảo lộn, dưới đất những dấu chỉ nơi biển cả với sóng dữ thét gào những đợt sóng thần. Không còn bình yên và trật tự ổn định vốn là những chuẩn mực tự nhiên thông thường trong đời sống con người. Những lời tiên báo về những biến chuyển vũ trụ vốn thuộc một loại văn Khải huyền cánh chung, người ta khó có thể giải thích theo mặt chữ những hiện tượng này như là sự kiện của một cuộc tận thế gần kề khi mà vũ trụ chấm dứt vận hành của nó. Mặt khác, những biến chuyển vũ trụ như những thiên tai sóng thần, động đất, bão tố vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, khi thì ở nơi này khi thì ở nơi khác. Nói theo cách nhìn khoa học, những nhà khoa học cũng có thể dự đoán thời gian mặt trời sẽ tắt và vũ trụ tan biến nhưng thời điểm đó cũng còn phải hằng tỷ năm mới xảy ra. Mặt khác, người ta vẫn chứng kiến thiên nhiên vũ trụ điều hòa một cách trật tự nhịp nhàng làm cho con người an tâm tin tưởng và chung tay góp phần xây dựng với mọi người.

Chúa Giêsu không phải là một nhà thông thái, tiên đoán những hiện tượng vũ trụ dựa vào những tính toán khoa học tiên tiến, người cũng không phải là một nhà tiên tri của thời đại, tiên báo những điềm dữ để làm cho mọi người giật mình sợ hãi. Nhưng Người đã nói với uy quyền thần linh về một thực tại chung cuộc quan trọng có liên hệ thiết thân với mọi người để mời gọi mọi người biết chọn lựa hành động khôn ngoan trong cuộc đời hiện tại của mình. Người không xác định một thời gian nào sẽ xảy ra, nhưng chỉ đơn giản xác định là sẽ xảy ra, và mỗi người cần phải biết đối diện với những thực tại quyết định này ngay từ bây giờ. Trong khi mà ai cũng an tâm nghĩ rằng vũ trụ vận hành một cách trật tự hài hòa xác định, thì Chúa Giêsu lại cảnh giác các môn đệ tính chất bất thường và mong manh đổ vỡ của nó. Tuy nhiên, dù những tai ương vũ trụ này có đáng sợ cách mấy, thì đối với những người môn đệ của Chúa Kitô, đó lại là thời gian cứu độ của họ, họ được mời gọi tin tưởng và ngẩng cao đầu, đứng vững như dấu chỉ của những con người xứng đáng với thời gian cứu độ dành cho họ.

Vọng cũng là chờ đợi, thời gian chờ đợi Con Thiên Chúa đến để đổi mới cuộc đời mỗi người. Mùa Vọng của Giáo hội không phải chỉ là thời gian chờ đợi thụ động, mệt mỏi, nhưng là chờ đợi đầy hy vọng và tin tưởng. Người môn đệ của Chúa Giêsu được mời gọi tỉnh thức và cầu nguyện, xa tránh những đam mê tội lỗi của mình như chè chén say sưa, hay tham mê của cải và đắm mình trong nhục dục xác thịt. Tuy nhiên, Chúa đến không tùy thuộc vào hành động của chúng ta. Đây là công trình của Thiên Chúa, của lòng thương xót của Thiên Chúa. Đây là quà tặng của tình yêu và mời gọi con người đón nhận với tự do và trách nhiệm. Sự tỉnh thức của người tín hữu là tin tưởng vào tình yêu tuyệt đối của hồng ân Thiên Chúa và ý thức trách nhiệm của mình phải chuẩn bị thật xứng đáng với ân huệ tình yêu và sự sống cao trọng này. Sự chờ đợi có trách nhiệm bao giờ cũng là chờ đợi năng động, làm cho chúng ta trở nên biết liên đới với những người khác, chuyên cần cầu nguyện và từ bỏ những tội lỗi và tật xấu. Thái độ cầu nguyện làm cho con người nhận biết thánh ý Thiên Chúa và can đảm bước theo thánh ý này.

Vọng là thời gian hồng phúc bởi vì con người biết mình còn có hy vọng điều mới mẻ vượt lên trên thân phận yếu đuối của mình. Chính Chúa Giêsu là mục đích và ý nghĩa cho cuộc đời của chúng ta. Người sẽ xuất hiện trong vinh quang và âu yếm đợi chờ chúng ta để đưa chúng ta vào một cuộc sống mới vĩnh cửu. Con người chúng ta dễ bị những đam mê tội lỗi cuốn hút vào những đam mê trụy lạc. Có những người chìm ngập trong những thiên đàng giả tạo của men rượu hoặc của ma túy, hoặc của những lạc thú xác thịt và tiền của. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta một thái độ thích hợp là cầu nguyện và tỉnh thức. Mỗi người sẽ phải trả lẽ về đời sống của mình, sẽ bị phán xét về những công việc làm của mình. Cuộc đời có giá trị cao cả không để chúng ta buông xuôi trong những yếu hèn của mình. Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu một thái độ cụ thể trong đời sống cộng đoàn, đó là họ hãy biết yêu thương và tha thứ cho nhau. Đồng thời họ hãy luôn biết kiểm điểm chính mình để trở nên những con người thánh thiện không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha của họ. Cuộc đời chúng ta được xây dựng từng ngày với những cố gắng và thái độ thích hợp nhất là cầu nguyện để có thể đứng vững trước mặt “con người”.

 

.

CHÚA SẼ ĐẾN GIẢI THOÁT

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của năm Phụng vụ mới. Theo ý của Hội thánh : “Mùa Vọng có hai đặc tính : vừa là mùa chuẩn bị  mừng lễ trọng Giáng sinh, là lễ kính nhớ Con Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa là mùa mà qua cuộc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này, Mùa Vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi”(Những qui luật tổng quát về năm Phụng vụ và niên lịch, số 39).

Chúa nhật I Mùa Vọng mở đầu cho năm Phụng vụ mới. Mở đầu mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi, Lời Chúa hôm nay nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa là ban Đấng Công chính cho Israel. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho 4000 năm dân Do thái mong đợi Đấng Cứu thế. Lời hứa ấy đã được thực hiện trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người và được Đức Maria sinh ra tại hang đá Be lem. Hằng năm chúng ta vẫn mừng biến cố vĩ đại này : Lễ Chúa giáng sinh.

Lời Chúa hôm nay còn mời gọi người tín hữu hãy tỉnh thức và cầu nguyện, hãy tấn tới hơn nữa trong đời sống Đức ái đối với Chúa và tha nhân để đón chờ ngày Chúa Kitô “lại đến” trong vinh quang. Ước gì trong ngày Chúa đến, chúng ta “hãy đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên”, vì ơn cứu rỗi chúng ta đã đến.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+  Bài đọc 1 : Gr 33,14-18.

Giêrêmia là một tiên tri chứng kiến cảnh tang thương của đất nước mình : vì dân bất trung với Chúa nên Ngài để cho quân thù đến vây hãm thành thánh, Giêrusalem bị phá hủy và dân chúng bị phân tán và đi lưu đầy.

Nhưng trong khi dân chúng đang sống trong tuyệt vọng trong cảnh lưu đầy thì Giêrêmia lại loan báo rằng Thiên Chúa không quên lời Ngài đã hứa. Ngài sẽ ban một “Đấng Công chính” để giải thoát dân Ngài :”Trong những ngày ấy… Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công chính… Giuđa sẽ được cứu thoát… Giêrusalem sẽ được an cư lạc nghiệp”.

Rõ ràng đây là lời hứa về lần đến lần thứ nhất của Đấng Messia. Lời loan báo này làm cho dân Chúa xưa cũng như chúng ta hôm nay có thể chỗi dậy và tiến bước.

Bài đọc 2 : 1Tx 3,12-4,2.

Thánh Phaolô phải rời Thessalonica trước khi kịp dạy bảo những điều thiết yếu. Vì vậy Ngài lo lắng cho sự tăng trưởng  về đức tin và đức ái trong cộng đoàn còn non trẻ này.

Ngài nhắc bảo họ  hãy tin và chờ đợi Chúa sẽ trở lại trong vinh quang. Niềm tin này sẽ định hướng cuộc đời của mọi người. Trong khi chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang, mọi người phải thực hiện giới răn của Chúa là thi hành đức bác ái đối với nhau :”Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đặm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng trách… trong ngày Chúa Giêsu quang làm”.

Bài Tin mừng : Lc 21,25-27.34-36.

Luca mô tả sự sụp đổ của Giêrusalem như một tai hoạ toàn cầu : trong thế giới tôn giáo  của người tín hữu, thành Giêrusalem chiếm địa vị quan trọng đến nỗi khi tưởng tượng đến sự sụp đổ của thành thì không thể không nghĩ đến ngày tận thế.

Đoạn Tin mừng này nằm trong diễn từ chung luận, trong đó Đức Giêsu nói  về những sự việc sẽ xẩy ra vào những ngày cuối cùng của thế giới. Vì thế, sống trong thế giới văn minh ngày nay, chúng ta đừng quên rằng cuộc sống của chúng ta  không hoàn toàn thuộc về chúng ta, mà chúng ta còn phải trả lẽ với Đấng là chủ tể toàn năng về cuộc sống của mình. Chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện để luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng.

C. THỰC HÀN LỜI CHÚA.                             

I. Ý NGHĨA MÙA VỌNG.

  1. Mùa Vọng.

Ngày xưa ta gọi mùa này là Mùa AtÙ, có lẽ do chữ Adventus của tiếng La tinh có nghĩa là việc Chúa đến. Ngày nay ta gọi mùa này là Mùa Vọng. Mùa vọng có nghĩa là thời gian trông mong, hướng về, chờ đợi Chúa đến.

Cả Cựu ước là Mùa Vọng.

Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa không nỡ bỏ rơi con người , Thiên Chúa không nỡ bỏ rơi con người dưới ách thống trị của tội lỗi và sự chết. Ngài đã hứa ban Đấng Cứu thế (St 2,15). Ai tin vào Thiên Chúa Tình yêu và sống trong tình yêu là sống trong Vương quốc của Ngài. Trong lịch sử dân Israel, Thiên Chúa đã nhiều lần lặp lại lời hứa này với các tổ phụ và tiên tri. Niềm hy vọng này đã nâng đỡ dân Chúa  sống niềm tin tưởng phó thác qua giòng lịch sử.

* Cả cuộc sống Giáo hội là một Mùa Vọng.

Lời hứa của Chúa đã được thực hiện, Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu đã giáng trần,

sống trong kiếp người, đã chịu chết và sống lại, về trời cùng Thiên Chúa Cha và loan báo sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Do đó, toàn thể đời sống của Giáo hội hướng về ngày Quang lâm của Đức Giêsu. Vì thế, Giáo hội thường xuyên kêu lên : Maranatha, Lạy Chúa Kitô, xin ngự đến.

* Cả cuộc sống từng người cũng là một Mùa Vọng.

Chúng ta cùng Giáo hội đón chờ ngày Chúa đến lần thứ hai. Nhưng Chúa có thể đến riêng với chúng ta lần thứ hai trước ngày tận thế, nghĩa là đến gọi chúng ta ra đi trong ngày kết thúc cuộc đời mình.  Chúng ta được mời gọi sống tinh thần Mùa Vọng trong mỗi giây phút của cuộc đời.

  1. Mùa Vọng đối với chúng ta.

Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta hướng lòng về ngày Chúa đến. Chúa đến thế gian này hai lần : lần thứ nhất đã đến rồi, và lần thứ hai chưa đến, nhưng chắc chắn sẽ đến. Vì thế Mùa Vọng có 2 ý nghĩa :

– Nhìn về phía sau : chuẩn bị đón mừng kỷ niệm biến cố trọng đại lần thứ nhất cách đây 2000 năm, Ngày Chúa giáng trần.

– Nhìn về phía trước : chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai. Ta không biết khi nào Chúa đến, có thể là còn lâu, có thể là đến nơi rồi vì Ngài đã nói giờ đó đến bất ngờ như kẻ trộm, hoặc như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Ngài bất ngờ đến. Đó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.

II. CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN.

1Chúa đến lần thứ nhất.

Thực sự, Chúa đã đến với nhân loại lần thứ nhất tại hang đá Be lem, nghĩa là Chúa nhập  thể làm người cách đây 2000 năm. Lúc này đây chúng ta đang sống trong mầu nhiệm làm người của Đức Giêsu. Tất nhiên chúng ta không thể sống một tâm tình như thể Chúa chưa giáng trần. Nhưng chúng ta sống lại những tâm tình của dân Do thái mong đợi Chúa đến, để lúc này đây công cuộc nhập thể cứu chuộc của Chúa ăn sâu vào đời sống của ta, việc này đòi nhiều thời gian và ta sẽ phải làm suốt đời.

Trong suốt năm, chúng ta sẽ được sống trở lại toàn bộ những câu chuyện của Ngài. Nhưng chúng ta đã nghe kể về những câu chuyện đó nhiều lần. Do đó, có nguy cơ là chúng ta có thể xem những câu chuyện đó là cũ rích, nhàm chán. Hãy cố gắng và nhìn nhận rằng đó là những câu chuyện  vẫn còn mới mẻ, hiện đang tồn tại và sống động. Điều này không giống như việc xem một cuốn băng video cũ. Việc cử hành mỗi ngày lễ mang từng sự kiện trở lại, trong sự sáng tỏ và sinh động của nó, không bao giờ chúng ta được mặc cho ngày lễ đó trở nên lạnh lẽo, mất sức sống, hoặc chìm vào quên lãng.

Ngoài ra, chúng ta không phải là khán giả, nhưng là những tác nhân trong toàn bộ ngày lễ này. Những mầu nhiệm về cuộc đời của Đức Kitô được trình bầy theo cách thế khiến chúng ta được lôi cuốn, và trở nên những nguời tham dự vào những mầu nhiệm đó. Điều này làm cho ngày lễ mang tính cách đòi hỏi hơn, nhưng cũng phong phú hơn và đem lại phấn khởi hơn. Thiên Chúa không phải chỉ là một Thiên Chúa của quá khứ, nhưng còn là của hiện tại và tương lai nữa  (Flor McCarthy).

  1. Chúa đến lần thứ hai.

Hôm nay các bài đọc đều tập trung vào ngày Đức Kitô đến lần thứ hai và là ngày tận thế. Các Kitô hữu tiên khởi tin rằng ngày Đức Kitô đến lần thứ hai đã gần kề, và sẽ được báo trước bằng những dấu hiệu về thiên văn. Chúng ta không biết chắc chắn về điều đó. Nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng, khi lịch sử kết thúc, Đức Giêsu sẽ đến trong vinh quang để đến phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày chung thẩm.

Trước lời hứa trở lại của Chúa, người ta đem ra nhiều lý luận và suy đoán viển vông. Khi nào nó xẩy đến, xẩy đến như thế nào, chúng ta không đuợc biết. Nhưng một điều chân thật lớn lao sẽù phát xuất là lịch sử đang tiến tới một chỗ nào đó. Có một số người – các triết gia phái Khắc kỷ coi lịch sử là một vòng tròn. Họ tin rằng cứ mỗi 3000 năm hoặc khoảng như thế, vũ trụ lại một lần bị thiêu đốt, rồi sau đó bắt đầu lại, lịch sử lại tái diễn. Có nghĩa là lịch sử chẳng đi đến đâu cả và loài người cứ bước đi loanh quanh như một cối xay vĩnh cửu. Còn người Kitô hữu chúng ta tin rằng lịch sử có cùng đích  và tại cùng đích đó Chúa Cứu  Thế Giêsu sẽ làm chủ tể mọi sự mọi loài.

Đức Giêsu đã nói rõ ngày tận thế sẽ xẩy ra bất ngờ như “chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất”(Lc 21,35), như chiếc lưới chụp xuống đàn chim đang ăn mồi, như chiếc lưới chụp xuống đàn cá đang nhởn nhơ trên mặt hồ. Nhưng có những người lại dám tự mình cho mình biết rõ ngày tận thế, ấn định ngày tận thế và loan báo cho tín đồ của họ phải chuẩn bị cho ngày đó.

Truyện : Tận thế ở Đại hàn.

Hồi cuối tháng 10 năm 1992, hàng chục ngàn người Hàn quốc thuộc một giáo phái đã tụ tập tại hơn 150 nhà thờ ở nhiều nơi trong nước để chuẩn bị đón Chúa Kitô tái lâm và phán xét thế gian. Theo giới lãnh đạo của giáo phái này : ngày tận thế sẽ xẩy ra vào đúng nửa đêm 28.10.1992. Các tín đồ của giáo phái này trưng nhiều biểu ngữ với câu :”Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên trời” . Trong khi đó, hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc được đặt trong tình trạng báo động trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu tận thế không xẩy  ra. Một cuộc tự sát như thế có thể xẩy đến, bởi vì nhiều người đã bỏ tài sản, gia đình để chuẩn bị cho biến cố này. Thế nhưng, cuối cùng tận thế đã không xẩy ra, nên giáo phái này đã tự động giải tán (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng C, tr 4).

3Chúa đến giữa hai lần : giờ chết.

Chúa lại đến để đưa lịch sử loài người đến cùng đích và tất cả loài người đều phải trình diện trước Thiên Chúa, nhưng cũng có thể mỗi người phải trình diện Thiên Chúa khi kết thúc cuộc đời lữ hành trên trần gian này.

a) Cuộc đời chóng qua.

Cuộc đời con người rất bấp bênh giống như con tầu đi trên mặt biển. Tuy con tầu có vẻ to lớn và rất chắc chắn, không gì có thể làm cho nó chìm được, nhưng con tầu sánh đâu được với biển cả. Số phận con người cũng thế, thật mỏng manh :”Đời sống con người giống như cây cỏ, như bông hoa nở trên cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi , nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích (đáp ca lễ an táng)..

Truyện : chiếc tầu Titanic.

Con tầu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn. Con tầu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn : những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại tây dương để đến New York là thành phố lớn nhất, giầu nhất thế giới hồi đó. Họ tưởng đi trên con tầu đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng vào băng sơn gẫy đôi chôn sống hơn 1500 người vào ngày 14.04.1912 (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, C, tr 6).

Cái chết thường đến đột ngột bất ngờ. Trong bài Tin mừng này, Đức Giêsu đã nói rõ điều ấy :”Các con hãy tỉnh thức vì các con con không biết ngày nào giờ nào”. Đành rằng có nhiều người bệnh một thời gian khá lâu rồi mới chết, nhưng chẳng ai ngờ mình sẽ chết vào giờ này, ngày này. Tuy bất ngờ nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ, vì Chúa thương chúng ta, Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước trước cái chết để chúng ta kịp chuẩn bị. Ví dụ : mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu ; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn… Đó là những tín hiệu  mà Chúa gửi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta.  Vì thế chúng ta đừng giả mù, giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị.

b) Chuẩn bị cho tương lai.

Sống ở trên đời, mỗi người phải đặt ra những thắc mắc, những ưu tư và phải tìm ra câu giải đáp. Ưu tư của chúng ta là khi rời bỏ thế gian này rồi sẽ ra sao ? Chính vì vậy cổ nhân đã đưa ra cho chúng ta 3 câu hỏi và phải tìm ra câu giải đáp :

Nhân sinh hà tại : con người bởi đâu mà đến ?

Tại thế hà như : đến để làm gì ?

Hậu thế như hà : sau này sẽ ra sao ?

– Con người bởi đâu mà đến ? Thánh kinh viết :”Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta”(St 1,26). Do đó chúng ta biết con người do Thiên Chúa mà đến.

–  Đến để làm gì ? Thánh kinh đáp :”Con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và thương yêu đồng loại như mình”. Do đó, chúng ta lại biết con nguời đến để phụng thờ Thiên Chúa và giúp đỡ lẫn nhau.

– Sau này sẽ đi đâu ? Thánh kinh lại minh chứng :”Ai nấy sẽ về nhà đời đời của mình”(Kn 12,5) và ở đó sẽ được thưởng theo công trạng mình đã lập được”(x. Mt 10,19 ; Lc 10,7).

c) Hãy học với thần chết.

Có câu chuyện về một người tên Cataneda tìm thầy học đạo, chàng đến với đạo sư Don Juan. Đạo sư chỉ cho anh một bí quyết : học với thần chết. Dĩ nhiên, chàng đệ tử không muốn nghĩ đến sự chết, anh chỉ muốn học hỏi những kiến thức kỳ lạ, những pháp thuật, nên đạo sư tỏ ra khó chịu, bèn bảo anh :”Con chớ nên bắt chước mọi người cứ nghĩ rằng mình chẳng bao giờ chết mà đòi làm những việc vĩ đại, kinh thiên động địa, vá trời lấp biển mà nên ý thức rằng Thần Chết là vị khôn ngoan nhất mà con sẽ gặp.

Truyện : Kinh nghiệm về sự chết.

Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đồng hồ ấy. Ôâng xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hằng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi :

– Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.

Nói thế rồi, ông tắt thở, để cho mọi người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)

III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.

  1. Hãy đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên

Ngày tận thế và ngày mỗi người phải ra đi khỏi trần thế này là một điều chắc chắn. Ngày đó là ngày đáng sợ cho mọi người, nhưng Chúa bảo chúng ta đừng sợ vì ơn cứu rỗi của chúng đã đến. Ngược lại, chúng ta còn phải phấn khởi và chờ đợi trong tư thế đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên.

Hãy đứng thẳng là tư thế của con người can đảm. Đúng thế, đức tính can đảm là một điều kiện cần thiết để có sức mạnh mà đối phó với mọi nghịch cảnh, khó khăn và quyết liệt dứt khoát từ bỏ mọi quyến rũ bất chính. Thử hỏi một người hay lười biếng, nhát đảm, yếm thế cầu an thì làm sao lướt thắng được mọi khó khăn, chu toàn bổn phận và giữ vững luơng tri giữa bao thử thách cám dỗ !

Hãy ngẩng đầu lên là tư thế của con người lạc quan, hy vọng. Bởi vì, ai biết sống lạc quan, hy vọng không những tăng thêm sức mạnh cho mình, mà còn giảm thiểu được những sai phạm. Và sống mà không có hy vọng lạc quan để nhắm tới mục đích thì không thể nào ra sức phấn đấu và cố gắng vươn tới được. Nhưng chúng ta hy vọng gì và hy vọng vào ai ? Tất nhiên ngoài Chúa ra  và hạnh phúc đời đời thì tất cả mọi hy vọng khác chỉ là tạm bợ mau qua hoặc hão huyền mây khói mà thôi.

Vậy khi sống trên cõi đời này đầy bất trắc và lắm thử thách, chỉ có những ai biết tin tưởng phó thác nơi Chúa, chắc chắn họ sẽ có đủ can đảm vượt thắng gian nan và hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời giúp họ bền đỗ đến cùng.

Truyện : Hãy đứng thẳng.

Mới đây các nhà khảo cổ đã tìm ra một thành phố cổ xưa đã bị chôn vùi trong lòng đất hàng ngàn năm, do núi phun lửa làm cho nham thạch bất ngờ ập xuống thành phố. Rất nhiều người đã bị chôn vùi trong lớp nham thạch nóng bỏng và chết lập tức. Nhiều xác chết đã được đào thấy bị chết khi đang ở trong những tư thế khác nhau : có người chết khi đang ngủ trên giường, người khác chết đang khi ngồi bàn ăn uống. Đặc biệt người ta đào được xác của một người lính bị chết trong tư thế đang đứng gác và đang cầm một cây giáo dài trong tay.

  1. Hãy giữ lòng kẻo ra nặng nề

Chúa dạy chúng ta :”Các con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề”. Chúa nhắc nhở ta  phải canh chừng và đề phòng những lôi cuốn của thế gian nó làm cản trở tâm hồn bay lên. Ba điều cản trở được nhắc ở đây là : ăn uống thái quá, chè chén say sưa, lo lắng sự đời quá mức.

Truyện : Ham mê ăn uống.

Câu chuyện ngụ ngôn kể về một con chim ưng. Đang khi đói, nó bay qua một nông trại, nhìn xuống thấy biết bao nhiêu giun dế. Nó thèm lắm, nhưng lại sợ chết nên nó phải hạ cánh bay xuống sát mặt đất của nông trại để thương lượng với ông nông dân. Con chim ưng sẵn sàng đổi cho ông  cứ mỗi cái lông lấy một con giun. Vì háu ăn, con chim đã ăn quá nhiều giun, và như thế nó cũng mất đi rất nhiều lông cánh tới độ nó không còn có thể bay lên cao được nữa. Dù nó nhận biết rằng thân phận của nó là phải bay trên bầu trời cao, nhưng những con giun đã làm cho nó mê muội rồi quên đi khung trời cao xanh ở trên, mà chỉ biết tới những con giun dưới đất.

  1. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện

Chúng ta hãy tỉnh thúc và cầu nguyện để đón chờ Chúa đến. Chủ đề này được lặp đi lặp lại trong Tin mừng dưới nhiều cách thức. Chẳng hạn ở một đoạn Tin mừng khác, Đức Giêsu nói:”Hãy coi chừng ! Hãy tỉnh táo ! Các con không biết được ngày nào giờ nào Con Người sẽ đến, vào buổi tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay vào buổi sáng… Điều Ta nói với các con cũng là điều Ta muốn nhắn nhủ mọi người đó là “Hãy tỉnh thức”(Mc 13,33.35-36)

Nếu chúng ta luôn tỉnh thức và cầu nguyện (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Ngài đến sẽ là một thú vị bất ngờ. Ngày đó chúng ta không phải “lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”(Lc 21,25), chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc”(Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên”(Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.

  1. Hãy sống đúng tinh thần Mũa vọng.

Sống mùa Vọng không những là hy vọng và chờ đợi Chúa đến; mà còn sẵn sàng nhận ra sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta, dù không trông thấy những dấu lạ lùng nơi mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Sống mùa vọng trong thế giới chúng ta là chuẩn bị ngẩng đầu lên mặc dù quyền uy và vinh quang của Con Người không hiện diện ở đó. Sống Mùa Vọng là hy vọng rằng Thiên Chúa luôn luôn được tỏ hiện trong đời chúng ta, không phải chỉ vào ngày tận thế, hoặc vào ngày phán xét cuối cùng, nhưng ngay hôm nay. Nhưng điều này đòi hỏi chúng ta  phải biết đọc những dấu chỉ của Chúa và sự hiện diện của Ngài ngày hôm nay, nơi bản thân và chung quanh chúng ta. Điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết Ngài và quan tâm đến Ngài hơn nữa.

Dấu lạ là cần thiết khi sự chú ý yếu đi. Nhưng chúng ta lại chẳng thấy trong đời mình những dấu lạ ấy, những biến cố làm chúng ta chú ý đó sao, và đôi khi chúng ta tránh vì sợ ý nghĩa và sự thách thức của những dấu lạ đó, hoặc tầm thường hóa chúng vì ta đã thấy nhiều quá rồi. Vậy nên ta phải cùng nhau nghe lại Lời Chúa trong Cựu ước và Tân ước, cùng nhau ý thức lại sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là như thế nào đến nỗi Ngài đã hiến mạng sống mình để cho thế gian được sống (Jean-Guy-Nadeau).

Phúc cho những ai nói lên được lời này khi Chúa đến:”Lạy Chúa, sau bao năm trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, giờ đây con vui mừng được diện kiến Ngài”. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện đó chính là sứ điệp Giáo hội truyền dạy chúng ta trong Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này. Vậy, chúng ta hãy lo tỉnh thức và cầu nguyện để khi Chúa đến, Ngài sẽ nói với chúng ta :”Hãy đến, hỡi các con yêu dấu của Ta. Sau bao năm tháng xa cách, Ta thật hết sức vui mừng được gặp lại các con”.

Để kết thúc bài suy niệm hôm nay, chúng ta hãy đọc lời cầu nguyện của một tác giả vô danh thuộc một trường dành cho dân da đỏ là Red Cloud miền Pine Ridge tiểu bang South Dakota. Tư tưởng của lời cầu nguyện này có liên quan đến chủ đề phụng vụ hôm nay là Hãy tỉnh thức và cầu nguyện :

Kính lạy Thần Trí cao vời, hơi thở Ngài đem đến nguồn sống cho thế gian, con đang nghe tiếng Ngài thì thầm trong gió thổi.

Xin hãy lắng nghe con là kẻ bé mọn yếu hèn đang khẩn cầu Ngài đây.

Xin cho con bước đi trên đường thiện mỹ, đôi mắt lúc nào cũng chiêm ngắm cảnh hoàng hôn mầu tím, cho đôi tay con biết kính trọng mọi tạo vật của Ngài, và đôi tai con luôn nhạy bén nghe lời Ngài nói.

Xin cho con ơn khôn ngoan để thấu hiểu những lời giáo huấn của Ngài; cho con biết khám phá ra bài học Ngài nhắn nhủ chúng con trong từng lá cây, viên đá.

Xin ban cho con sức mạnh không phải để con chế ngự anh chị em con, mà để con chế ngự kẻ thù hung hãn nhất là chính bản thân mình.

Xin cho con luôn sẵn sàng đến gặp Ngài với đôi tay thanh sạch và đôi mắt thẳng ngay, và khi cuộc đời xế tàn tựa bóng hoàng hôn lịm tắt, tâm hồn con không phải hổ thẹn khi đi diện kiến Ngài”. Amen (Mark Link).

 

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG_C

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Kính thưa anh chị em,

Cùng với toàn thế Giáo Hội, chúng ta chính thức bước vào Mùa Vọng hôm nay.

Mở đầu Mùa Vọng,”Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy ngẩng đầu lên vì ơn cứu độ đã đến gần”(Lc 21,28)

  1. Thế nào là ngẩng đầu lên và tại sao lại phải ngẩng đầu lên như vậy?

Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ngẩng đầu lên vì chúng ta thường hay cúi đầu xuống. Cúi đầu xuống để chỉ nhìn thấy những cái dưới đất, chỉ khao khát, tìm kiếm những cái dưới đất và lấy làm thỏa mãn với những cái dưới đất.

Nói là: “cúi đầu xuống” nhưng thực ra là để cho lòng bị thu hút, bị phong tỏa, bị ràng buộc vào trái đất bởi biết bao sợi giây vô hình, gỡ ra không nổi. Tình trạng này làm tâm hồn chúng ta tê liệt đến nỗi không còn đủ sức cất cánh lên cao, để khao khát, tìm kiếm những gì chân thật, vĩnh cửu, là những cái tạo nên thực chất và ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời con người.

Một chú vịt trời theo đàn bay về phương Bắc. Một buổi chiều khi đáp xuống một nông trại, chú vịt trời thấy đàn vịt nhà đang ăn bắp, liền nhảy lên để được ăn. Bữa ăn ngon làm nó không muốn bay theo đàn nữa, nó tự nhủ: để mai mốt mình bay theo cũng không muộn.

Nhưng rồi ngày qua ngày nó vẫn ở với đàn vịt nhà để được nuôi ăn. Mùa thu đến, đàn vịt trời bay từ hướng Bắc xuống hướng Nam: các bạn cũ kêu nó trở về khi bay qua nông trại, chú vịt trời ráng sức dập cánh bay lên, nhưng đôi cánh bây giờ quá yếu, nó chỉ bay được lên nóc nhà rồi lại rơi xuống đất. Đời sống dễ dãi ở đây đã làm nó không thể bay được như xưa. Nó đành đứng nhìn đàn vịt trời bay xa dần.

Từ đó mỗi mùa xuân và mùa thu, chú vịt trời đều thấy các bạn cũ bay qua hướng Bắc rồi trở về hướng Nam. Nhưng nó không thể cất cánh bay theo vì nó đã đánh mất đi khả năng thiên phú của nó để rồi nó yên phận sống dưới đất với đàn vịt nhà trong trang trại!.

Cuộc sống của con người trên trái đất này nhiều khi cũng như thế. Có nhiều người đã để cho mình bị mắc kẹt vào những sự tầm thường mà không gỡ ra nổi.

Đành rằng cuộc sống diễn ra dưới đất thì không thể không yêu mến trái đất này. Phải khai thác, sử dụng trái đất hợp với nhu cầu và lợi ích chính đáng của con người. Mỗi người phải nhận lấy trách nhiệm xây dựng trần thế và gây dựng cuộc đời của chính mình. Điều này chính đáng và cần thiết.

Nhưng như vậy đã đủ chưa? Một chén cơm đầy, một ngôi nhà sang trọng, một trương mục đầy tiền, một chiếc xe hơi lộng lẫy đã đủ để thỏa mãn ước mơ làm người của chúng ta chưa? Có còn cần cái gì khác nữa không?

Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy ngẩng đầu lên là muốn thức tỉnh chúng ta. Đừng giam mình trong những giấc mơ nhỏ bé hoặc hão huyền. Đừng bao giờ lấy làm thỏa mãn với những cái dễ dãi, tương đối. Đừng ưa hàng giả. Phải mơ ước những cái thật cao cả. Phải tìm kiếm những gì thực sự đưa tới hạnh phúc chứ không phải chỉ đánh lừa hạnh phúc.

Thế nào là đã gần đến? Có thể hiểu những chữ đã gần đến theo nhiều nghĩa.

Trước hết, ơn cứu độ đã gần đến c

  1. Chúa Giêsu Còn Bảo: Ơn Cứu Độ Đã Gần Đến

ó nghĩa là ơn cứu độ thật khẩn trương. Khẩn trương vì quan trọng nhất, cần thiết nhất. Đừng có chần chừ, do dự, thoái thác. Tìm ơn cứu độ phải đứng đầu trong các việc cần làm ngay. Khốn nỗi, trong tâm hồn nhiều tín hữu, nhiều lúc việc khẩn thiết nhất này đã mất tính ưu tiên. Có lẽ nó được nghĩ đến ít nhất vì thường bị coi là phụ thuộc nhất.

Thứ đến, ơn cứu độ đã gần đến cũng có nghĩa là ơn cứu độ luôn ở tầm tay, không bao giờ thiếu. Hễ muốn là có, hễ tìm là thấy… vì Thiên Chúa rộng lượng, lúc nào cũng sẵn sàng ban và ban thật dồi dào. Nhưng xem chừng hồng ân đó chẳng được giá bao nhiêu. Người ta đâu có hăm hở vào Nước Trời như chen chúc nhau vào các rạp hát, các cửa hàng bán hạ giá, xếp hàng dài trước địa điểm phát hàng ngoại nhập.

Vào năm 160, dưới thời bắt đạo của Hoàng Đế Marc Ausèle Valérien, chồng của thánh nữ Cécilia, và em là Tiburce bị nhốt ngục vì đức tin. Một sĩ quan Maxime được lệnh dẫn các ông ra pháp trường. Mở cửa ngục thất, ông thấy họ quỳ gối dưới đất, mắt ngước lên trời, guơng mặt bình tĩnh phi thường. Tuổi thanh xuân, gia đình sang trọng, vẻ ngây thơ trong trắng và tinh thần nhẫn nhục chịu đựng nơi các tử tội đã khiến người quân nhân rơi lệ.

– Tại sao ông khóc? – một tù nhân hỏi.

– Tôi khóc vì thấy các bạn trẻ trung, giàu sang, qúy phái mà lại sắp chết .

–  Ông Maxime ạ, đừng tưởng nhầm nữa. Chúng tôi là người công giáo, và một một khi đã giã từ cõi trần này, người công giáo tôi chuyển sang một cuộc sống tươi đẹp hơn, một nơi không có bóng dáng tử thần nữa.

– A! Giả như đúng như lời các bạn nói?

– Nếu ông hứa sẽ giữ đúng niềm tin ngưòi công giáo thì giờ chúng tôi chết, ông sẽ nhìn thấy sự thật tận mắt.

Maxime hứa và khi nhát dao người đao phủ chặt đầu các vị  tuẫn giáo vừa đứt, ông đã thấy linh hồn họ sáng ngời. Sau đó không lâu, chính Maxime cũng đã tìm đến với đức tin van được nhận triều thiên chiến thắng.

  1. Khám Phá Niềm Vui

Có lẽ ít khi chúng ta nghĩ đến niềm vui trong Chúa. Chúng ta cũng thường quên rằng niềm vui là nét tiêu biểu của đời Kitô hữu. Có lẽ bởi vậy mà ít khi chúng ta vui thật, vui sâu xa và lâu bền trong lòng, một niềm vui biến thành bình an. Bình an chính là một tên gọi khác của niêm vui.

Cũng chính vì chúng ta không đặt niềm vui của chúng ta “trong Chúa” nên chúng ta thường đại tìm nguồn vui độc hại ở nơi khác ngoài Chúa. Hậu quả là lo âu, buồn chán của cuộc sống có cơ lấn át bình an, làm cản nghị lực và sức sông, làm chúng ta yếu đi, già đi.

Phụng vụ “Chúa nhật Vui mừng chẳng những gợi lên tính vui tươi của Mùa Vọng mà còn chỉ cho chúng ta thấy nguồn vui vô tận luôn tiềm ẩn trong lòng người tín hữu. Nguồn vui vô tận ấy chính là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn.

Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được”. Về sau, chàng tài tử ấy thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu truớc đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.

Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.

Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.

Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi, đâu đâu cũng là nhà của Chúa.

Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. Amen.

 

.

MIỀN VỌNG

Trầm Thiên Thu

Trái Đất Khô Cằn Khát Nguồn Mưa Móc

Nhân Gian Tội Lỗi Mong Đấng Cứu Đời

Từ ngàn xưa đã có lời cầu nguyện da diết: “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên” (Is 45:8). Lời cầu nguyện đó mang nỗi khắc khoải của nhân loại đêm ngày khát vọng và trông ngóng Đấng Thiên Sai là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đến thế gian để cứu những gì đã mất.

Năm Phụng Vụ mới khởi đầu bằng Mùa Vọng – chu kỳ phụng vụ năm C, thời điểm này có thể gọi là Xuân hoặc Tết Phụng Vụ. Mùa Vọng mang sắc tím, nhưng màu tím này không mang sắc tím buồn, nếu có buồn thì chỉ là buồn man mác hoặc bâng khuâng trong thời gian chờ đợi, mà là sắc tím chung thủy và kiên tâm trong nỗi mong chờ khắc khoải đêm ngày.

Mùa Vọng là mùa mơ ước, theo “vòng ngôn ngữ” kỳ diệu – khởi đầu và kết thúc bằng chữ ƯỚC: ước mong, mong chờ, chờ đợi, đợi trông, trông mong, mong ước. Người ta mong điều tốt chứ chẳng ai lại chờ điều xấu. Mong chờ thì phải tỉnh thức, đó là hệ lụy tất yếu. Tỉnh thức để mà “căn me” kẻo lỡ cơ hội, mà lẽ thường thì “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Không chỉ tỉnh thức đợi chờ Chúa đến, mà còn phải tỉnh thức kẻo sa ngã vì mưu chước của ba thù – ma quỷ, thế gian và xác thịt, tình trạng mà Thánh Phêrô đã cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Lơ là một chút là “chết” ngay, bởi vì kẻ thù luôn thức để rình rập, chúng không bao giờ ngủ đâu!

Nếu ma quỷ khơi lại quá khứ xấu xa của chúng ta khiến chúng ta mặc cảm và chán nản, đừng mắc bẫy nó, cứ mặc kệ nó, và hãy thẳng thắn nói với nó về tương lai. Tại sao vậy? Bởi vì “thánh nhân nào cũng có quá khứ, tội nhân nào cũng có tương lai”. Thế nên đừng lo và đừng sợ chi cả! Từ ngàn xưa, Đức Chúa đã tuyên sấm ngôn: “Này, sẽ đến những ngày Ta sẽ thực hiện ĐIỀU TỐT LÀNH Ta đã phán về nhà Ít-ra-en và về Giuđa” (Gr 33:14). Đó là lời hứa từ ngàn xưa, và chắc chắn sẽ được thực hiện. Thật vậy, Thiên Chúa đã hứa bất cứ điều gì, dù to hay nhỏ, Ngài luôn thực hiện không sai một ly. Ngài khác hẳn chúng ta, vì đa số chúng ta đều mang họ Hứa và cùng phe với chàng Cuội (máu xạo).

Chúng ta là “công trình” của Thiên Chúa nên Ngài không bao giờ bỏ mặc chúng ta, và Ngài còn hứa thêm: “Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực” (Gr 33:15). Đấng Công Chính đó thuộc dòng dõi Thánh vương Đa-vít, nối vương nghiệp của Đa-vít, và dùng lẽ công bình để trị quốc an dân. Chắc hẳn đó là đường lối hoàn toàn khác với mọi vua chúa trần gian. Và cũng trong những ngày ấy, cả Giuđa sẽ được cứu thoát, và Giêrusalem cũng được an cư lạc nghiệp. Công lý có thì hòa bình sẽ có, không có công lý thì không bao giờ có hòa bình. Vì thế, danh xưng “Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta!” (Gr 33:16) là tên gọi của thành trì đó.

Là Đấng tốt lành duy nhất, Thiên Chúa cũng luôn hứa ban điều tốt lành, vấn đề là chúng ta phải kiên trì chờ đợi “Giờ G” của Ngài. Chờ đợi thì phải liên lỉ cầu nguyện: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con” (Tv 25:4-5). Tại sao chúng ta sớm hôm cậy trông Ngài? Bởi vì Ngài nhân ái, là “Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Ngài” (Tv 25:8-9). Ai được Ngài yêu thương thì thật là hạnh phúc, nhưng người đó phải sống tốt lành: “Chúa xử thân tình với những ai kính sợ Chúa và cho họ biết giao ước của Ngài” (Tv 25:14). Thánh Phaolô phân tích và so sánh rất hay: “Vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5:19). Hai cái một đối lập.

Và rồi Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy” (1 Tx 3:12). Một lời cầu chúc mang tính “trái khoản” độc đáo: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8). Yêu thương là món nợ mà ai cũng PHẢI vay và PHẢI trả cho xong. Thánh Phaolô giải thích: “Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người” (1 Tx 3:13).

Lời lẽ của Thánh Phaolô rõ ràng, giản dị, dễ hiểu, và lịch sự: “Thưa anh em, anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa. Hẳn anh em rõ chúng tôi đã lấy quyền Chúa Giêsu mà ra những chỉ thị nào cho anh em” (1 Tx 4:1-2). Mong sao mỗi chúng ta cũng đều quyết tâm sống đúng, nghĩa là “đang sống đẹp lòng Thiên Chúa”.

Sống đẹp lòng Chúa là chúng ta đang mong chờ Đức Kitô – không chỉ trong Mùa Vọng mà luôn như vậy, mong chờ suốt đời mình, mong chờ từ đời nọ đến đời kia, nhất là tỉnh thức và mong chờ thời điểm Chúa quang lâm – ngày “tận thế chung”, đặc biệt là lúc Ngài gọi chúng ta rời bỏ thế gian này – ngày “tận thế riêng”.

Khởi đầu Mùa Vọng – bắt đầu khoảng thời gian mong chờ, Phụng Vụ sử dụng trình thuật Tin Mừng đề cập ngày quang lâm của Đức Kitô. Đó là lời nhắc nhở cần thiết, cũng là “tin nhắn” luôn nóng hổi và mang tính thời sự được Chúa Giêsu gởi hằng ngày: “Hãy SẴN SÀNG, vì chính giờ phút anh em KHÔNG NGỜ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24:44; Lc 12:40).

Vấn đề liên quan Ngày Giờ của Thiên Chúa, Đức Giêsu cho biết rõ các dấu chỉ xuất hiện trên trời: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao” (Lc 21:25a), và các dấu chỉ xuất hiện dưới đất: “Muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển” (Lc 21:25b-26). Những dấu chỉ đó cho thấy thời điểm Chúa quang lâm vô cùng đặc biệt. Các dấu chỉ đó xem chừng rất đáng quan ngại vì quá kinh khủng đối với loài người, nhưng các dấu chỉ đó sẽ là bình thường đối với những người đang sẵn sàng nhận hiệu lệnh “xuất quân” của Thiên Chúa.

Luôn có sự trái ngược, Ngày Ấy là niềm vui với người này nhưng lại là nỗi lo cho kẻ khác, bởi vì “bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ĐẦY QUYỀN NĂNG và VINH QUANG ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21:27). Chúa Giêsu biết sẽ có ít nhiều “chấn động” trong lòng chúng ta nên Ngài đã ân cần căn dặn: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy ĐỨNG THẲNG và NGẨNG ĐẦU lên, vì anh em sắp ĐƯỢC CỨU CHUỘC” (Lc 21:28). Ngài còn giải thích rõ ràng hơn để bất kỳ ai cũng có thể hiểu: “Vậy anh em PHẢI đề phòng, CHỚ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày Ấy sẽ ẬP XUỐNG trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy TỈNH THỨC và CẦU NGUYỆN luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:34-36). Thiên Chúa cảnh báo chứ không hù dọa ai cả!

Chúng ta lại có dịp sống thêm một Mùa Vọng nữa – và cũng là cơ hội hoán cải, hãy noi gương Thánh Faustina sống tinh thần Mùa Vọng bằng cách thổ lộ với Chúa Giêsu niềm hoài vọng chính đáng theo Tôn Ý Thiên Chúa: “Nỗi khao khát nhất của con là các linh hồn nhận biết Ngài là hạnh phúc vĩnh cửu, vững tin vào lòng nhân từ và tôn vinh lòng thương xót của Ngài” (Nhật Ký, số 305). Được vậy thì thật diễm phúc cho chúng ta, cả hôm nay và mãi mãi… Và tự vấn: “Liệu tôi còn được sống Mùa Vọng năm tới?”. Lá lúc nào cũng rụng, dù trời không hề có gió!

Đó không là ý tưởng bi quan, yếm thế, mà là khôn ngoan. Văn sĩ Alexandre Dumas (1802-1870, Pháp quốc) có cách nhận định thú vị: “Tất cả sự khôn ngoan của con người được tập hợp lại trong hai từ: CHỜ ĐỢI và HY VỌNG”. Trong cuộc sống, có những nỗi mong chờ kèm theo niềm hy vọng, có những nỗi mong chờ đằng đẵng trong sự vô vọng. Dù là nỗi mong chờ nào cũng khiến người ta bồi hồi, thao thức, khắc khoải khôn nguôi. Nhưng dù sao thì Nỗi Mong Chờ vẫn tiềm ẩn Niềm Hạnh Phúc.

Ngày xưa, ngôn sứ Isaia mời gọi: “Hãy bước qua, hãy bước qua các cửa thành, hãy MỞ CON ĐƯỜNG cho dân, hãy DỌN ĐƯỜNG, hãy dọn đường, hãy NHẶT cho hết đá. Hãy PHẤT CỜ ra hiệu cho các dân” (Is 62:10). Mở đường cho Thiên Chúa và tha nhân, nhưng dọn đường và nhặt đá “đường lòng” của chính mình – đá to hay nhỏ cũng phải nhặt sạch. Và Thánh Vịnh gia tiếp tục nhắn nhủ: “Hãy hát mừng Thiên Chúa, đàn ca kính danh Người, hãy DỌN ĐƯỜNG cho Đấng ngự giá đằng vân” (Tv 68:5).

Lạy Thiên Chúa, miền hạn hán chúng con ngày đêm mong chờ Cơn Mưa Cứu Độ, xin thương ban Nguồn Mưa Giêsu để chúng con giải khát, vì chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ làm đất-hạn-chúng-con được tưới mát mà trổ sinh cây đức trái lành. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

 

.

HÃY ĐỨNG THẰNG VÀ NGẨNG ĐẦU LÊN

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Một năm Phụng vụ mới lại về. Tôi đã từng ví ngày Chúa Nhật I Mùa Vọng như là ngày Tết của đức tin. Với người dân trên hoàn cầu, cách riêng với con dân đất Việt thì những sự kiện, những sứ điệp… trong dịp đầu năm vốn thường mang tính thiêng thánh cách nào đó. Người ta nhận ra điều này qua những tục lệ kiêng cử, kỵ úy hay những tập tục hái lộc, xin xăm…Tín hữu Công Giáo Việt Nam đã quen với việc hái lộc Lời Chúa dịp đầu xuân dân tộc. Có thể nói rằng các bài trích đọc Lời Chúa trong Chúa Nhật I Mùa Vọng không phải là lộc hái mà chính là lộc ban cho đoàn con cái Chúa Công Giáo. Xin được tuần tự mở lộc để không chỉ xem “Thánh phán” mà nhất là còn để thực thi “Thiên Ý”.

Lời Chúa trong sách ngôn sứ Giêrêmia (Gr 33,14-16): “Sấm ngôn của Đức Chúa: Này sẽ đến những ngày Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Isrsel và về Giuđa…” (33,14). Điều tốt lành mà Thiên Chúa hứa ban đó là sẽ cho mọc lên một Đấng Công Chính. Đấng ấy sẽ giải cứu dân và cho dân được an cư lạc nghiệp bằng các chủ trương, chính sách, luật lệ đầy chính trực và công minh.

Đây là một quẻ tốt, nói như anh em lương dân. Kitô hữu thì khẳng định đó là một tin vui, một sứ điệp tràn trề hy vọng. Thế nhưng cái quẻ ấy, cái sứ điệp ấy đã ứng nghiệm cách đây hơn hai ngàn năm nơi Đức Giêsu Kitô. Vậy còn gì để mong, còn gì để chờ? Xin thưa vẫn còn. Chúa Kitô đã từng hứa rằng “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Đấng Công Chính mãi ở cùng nhân loại chúng ta cách huyền nhiệm nơi thánh Phaolô, người đã từng khẳng định: “tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà Chúa Kitô đang sống trong tôi” (Gl 2,20), nơi thánh Gioan Vianey, người được một cụ ông xác nhận trước tòa phong thánh rằng đã thấy Thiên Chúa hiện diện nơi Ngài. Chắc hẳn Chúa Kitô hằng khát mong mỗi người chúng ta góp phần để cho sứ điệp hy vọng ấy được ứng nghiệm trong môi trường, hoàn cảnh và thời đại chúng ta. Mong cho sứ điệp hy vọng được ứng nghiệm là điều tốt, nhưng góp phần làm cho sứ điệp ấy thành hiện thực thì tốt hơn nhiều. Xin đừng quên, mang danh Kitô hữu thì phải có trách vụ làm cho Đức Kitô hiện diện nơi con người và cuộc sống của mình, nghĩa là hãy làm cho mình, cuộc sống của mình trở thành sứ điệp của niềm hy vọng.

Thánh Phaolô tông đồ đã nhìn nhận tình yêu thương, liên đới giữa các tín hữu Thêxalônica. Và Ngài khuyên nhủ họ hãy bền tâm vững chí trong sự thánh thiện, tấn tới nhiều hơn nữa trong việc yêu thương nhau hầu xứng đáng đón chờ Đức Kitô lại đến trong vinh quang. Các nhà chú giải Thánh Kinh cho ta hay thánh Tông đồ dân ngoại thuở ấy những tưởng rằng Chúa Kitô sắp giáng lâm. Giờ ngày Chúa Kitô tái giáng tức là ngày tận thế thì không một ai có thể biết, ngay cả với Chúa Kitô khi còn tại thế (x.Mc 13,32). Tuy nhiên cái ngày giờ mỗi người chúng ta ra khỏi trần gian này thì có thể lường đoán cách nào đó vì nó có giới hạn. Chúa sẽ đến với anh, với chị, với bạn, với tôi không biết khi nào, nhưng chắc chắn là không quá xa. Vấn đề đặt ra là thái độ của chúng ta khi đón Chúa đến. Và thái độ ấy tùy thuộc vào niềm tin của chúng ta.

Bài trích Tin mừng thánh Luca Chúa Nhật này hé mở cho chúng ta về mục đích việc Chúa lại đến. Chúa đến để cứu độ chúng ta, ban hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta. Chúa Kitô khẳng định sự thật này: “Khi những biến cố ấy (những điềm lạ của thiên nhiên) bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21, 28). Chúa đến để ban ân phúc thì sao ta lại hãi sợ? Trái lại, trong niềm tin thì chúng ta phải hân hoan vui mừng. Tuy nhiên cần phải tỉnh thức, canh chừng chớ để vuột mất ân phúc Chúa ban tặng. Đây chính là sứ điệp Chúa Kitô muốn nhắn gửi chúng ta. Người nhắc bảo chúng ta hãy “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, đừng để “ lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” và “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. Qua các mệnh lệnh của Chúa Kitô trên đây chúng ta có thể xếp thành hai chuỗi động thái hữu quan như sau:

1.Đứng thẳng: đây là động thái dứt mình khỏi hố sâu tội lỗi, hay những đam mê bất chính mà cụm từ “chè chén say sưa” minh họa. Để có thể đứng thẳng lên, nghĩa là ra khỏi tình trạng tội lỗi thì tiên vàn phải biết mình, một kiểu biết theo ngôn ngữ triết học là phản tỉnh và ngôn ngữ đạo đức là tỉnh thức. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã từng nhận xét rằng cái hiểm họa của con người thời đại hôm nay không phải là phạm nhiều thứ tội mà là không còn ý thức về sự tội. Không ý thức việc mình vấp té thì sẽ không bao giờ có chuyện chỗi dậy. Không biết mình ngã quỵ thì không bao giờ có chuyện đứng lên.

2.Ngẩng đầu lên: Đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả hơn. Thiên Chúa dựng nên mọi sự ở trần gian này đều là tốt đẹp (x. St 1). Tuy nhiên thần dữ đã ma mãnh sử dụng những thiện hảo giới hạn, chóng qua để kìm giữ con người không vuơn lên đến với nguồn của mọi thiện hảo. Là người, chúng ta phải chu toàn những sự ở đời này, nhưng đừng để chúng trói buộc chúng ta không cho chúng ta hướng thượng, bay lên. Chúa Kitô đã từng lập luận kiểu so sánh mạng sống với của ăn, thân thể với áo mặc, để dạy bảo chúng ta phải biết kiếm tìm thiện hảo cao hơn và cao nhất là Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (x.Mt 6,25-34). Và Người đã cảnh tỉnh rằng nhiều khi chúng ta đã để cho cái việc “lo lắng sự đời” trở nên nguyên cớ khiến chúng ta đánh mất vĩnh phúc.

Để có thể thoát khỏi những ràng buộc của những thiện hảo hữu hạn thì không gì hơn là phải biết ngẩng đầu lên. Cầu nguyện chính là cách thế ngẩng đầu lên, chiêm ngắm, gặp gỡ Đấng là nguồn mọi thiện hảo. Gặp được Đấng ban ơn lành thì chúng ta sẽ dễ dàng tự do với các ơn lành. Tiếp xúc với nguồn hạnh phúc đích thật, vĩnh tồn, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng tự do với những thiện hảo hữu hạn và chóng qua.

Sứ điệp đầu năm đã tuyên ban hay nói như anh em lương dân là quẻ đã mở. Không phải ngồi chờ quẻ ứng, Kitô hữu chúng ta đón nhận sứ điệp là phải sống, phải gắng công, nỗ lực làm cho sứ điệp thành hiện thực. Đó là đứng dậy ra khỏi tình trạng tội lỗi, ngẩng đầu lên trong sự hướng thượng, vươn tới những giá trị cao cả, để trở nên một dấu chỉ hy vọng cho tha nhân bằng tình yêu trong sự công mình chính trực hay nói như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI là bằng “Bác Ái trong Chân Lý”.

 

.

TỈNH THỨC CẦU NGUYỆN

Lm Vũdình Tường

Chúa Nhật Mùa Vọng cũng là đầu năm Phụng Vụ. Bốn tuần chuẩn bị trước khi mừng lễ Giáng Sinh được biết đến như là Mùa Vọng. Vọng đây mang í nghĩa chờ đợi trong hy vọng, chờ đợi với tinh thần tỉnh thức cộng chung với cầu nguyện. Đức Kitô nhắc nhở các môn đệ Ngài tỉnh thức trong cầu nguyện, chuẩn bị tinh thần, đổi mới cuộc sống, canh tân tâm hồn, xem xét lại cách sống cho phù hợp với đường lối Chúa, loại trừ cái xấu, cộng thêm cái tốt. Sống đường lối Chúa. Đường lối Chúa là đường ngay thẳng, công chính, có lần Đức Kitô nói:

Thầy là đường là sự thật và là sự sống Jn 14,6

Như thế Mùa Vọng chính là mùa chuẩn bị cho sự sống mới trong tâm hồn mỗi người. Hàng năm Giáo Hội mừng kính trọng thể hai sự kiện quan trọng trong cuộc sống đời người đó là ngày sinh vào trần thế và ngày sinh vào nước hằng sống. Hai sự kiện này xảy ra ở hai thời điểm khác nhau trong đời nhưng chúng liên kết với nhau. Có ngày sinh ra sẽ có ngày tử vong. Chính vì thế mà Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng các bài đọc trong Chúa Nhật tuần này nhắc về cuộc Phục Sinh của Đức Kitô bởi sự Phục Sinh của Ngài đem lại cho linh hồn ta sự sống trường sinh, xoá bỏ tội ta phạm và giải thoát ta khỏi khống chế của tội lỗi. Mừng Chúa sống lại với niềm hy vọng mỗi chúng ta cũng được hưởng phúc sống lại trong Đức Kitô khi chúng ta hoàn tất cuộc lữ hành trần thế. Cuộc sống trần gian là quan trọng, cuộc sống trường sinh còn quan trọng hơn và cần chuẩn bị kĩ hơn. Cha mẹ trần thế chuẩn bị đón chúng ta vào đời, vào cuộc sống gia đình; Đức Kitô chuẩn bị đón chúng ta vào cuộc sống trường sinh, vào đại gia đình Chúa trong thiên quốc của Ngài. Mùa Vọng nhắc chúng ta trân trọng ơn trường sinh Chúa ban, đừng thờ ơ với ân thánh, nhưng mau mắn đón nhận vào tâm hồn và trân trọng quí mến, nâng niu ân thánh. Chuẩn bị đón nhận ân thánh qua cầu nguyện, việc bác ái. Nhờ cầu nguyện hướng dẫn mà việc bác ái của ta trở nên ân phúc cho chính mình, thánh hoá việc làm và đời sống ta. Bác ái thiếu cầu nguyện dù là việc tốt, việc lành nhưng không phải việc thánh. Vì thế người ta ước mong lời khen, lời ca từ xã hội. Bác ái thiếu cầu nguyện kết hợp ta với tha nhân và ngưng tại đó. Bác ái chung với cầu nguyện, qua tha nhân, ta kết hợp với Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho việc bác ái của ta nên thánh thiện. Không phải hành động bác ái nào cũng thánh thiện mà chính là Thiên Chúa là Đấng Thánh biến việc tầm thường của ta thành việc lành thánh.

Đón nhận ơn thánh bằng cách mỗi ngày có giờ riêng cho cầu nguyện, cho xét mình, cho nhìn lại việc làm trong ngày và xác định chỗ đứng của mình trước mặt Chúa. Như thế sẽ tránh lo sợ, hãi hùng bởi có Chúa luôn đồng hành cùng ta trong mọi tình huống của cuộc sống. Kitô hữu sống trong hiện tại nhưng hướng về tương lai, về cuộc sống trường sinh. Màu tím trong Mùa Vọng là mầu của ăn chay, thống hối và thuộc về hoàng tộc liên kết với lễ Đức Kitô Vua vũ trụ Giáo Hội mới cử hành tuần qua.

Giáng Sinh và Phục Sinh liên kết với nhau. Điều này giải thích tại sao Giáo Hội lại chọn bài Phúc Âm thánh Luca nói về những biến cố liên quan đến cuộc thương khó của Đức Kitô và ngày thế mạt. Ngài kêu gọi các tông đồ tỉnh thức cầu nguyện để có được bình an trong tâm hồn trước những biến cố dồn dập xảy đến. Những dấu lạ khác thường xảy đến làm cho người ta hoang mang, sợ hãi, trốn chạy. Kitô hữu được báo trước cho biết những dấu lạ để kiên tâm cầu nguyện, tìm bình an trong Chúa. Họ không cần sợ hãi hoang mang nhưng tin tưởng, phó thác và vui mừng vì ngày giờ gặp Đấng ban sự sống đang đến gần. Nếu chúng ta tin những tiên đoán về đau khổ, sợ hãi xảy ra là điều thật thì chúng ta cũng cần tin và vững tin hơn, tin mãnh liệt hơn những điều Đức Kitô hứa Ngài sẽ đến trong vinh quang, cứu độ những ai trông cậy, vững tin nơi Ngài. Qua cầu nguyện và niềm tin nơi Đức Kitô chúng ta sẽ nhận được an bình và ủi an bởi chính Đức Kitô hứa Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế Mat 28,20. Bác ái và cầu nguyện cùng chay tịnh sẽ giúp chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống, ngay cả trong trường hợp đứng giữa phong ba, bão táp cuộc đời chúng ta vẫn thấy Chúa hiện diện, giang tay cứu vớt.

 

.

NGÀY GIỜ TÂM LÝ

Lm. Bosco Dương Trung Tín

Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36)

Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa mong chờ; mùa trông đợi. Chúng ta mong chờ gì; chúng ta chờ đợi chi ? Chúng ta mong chờ Chúa đến. Thực ra, theo Phụng Vụ, Mùa Vọng là mùa kỷ niệm mong chờ Chúa đến Lần Thứ Nhất. Vì Chúa đã đến một lần rồi. Qua đó, Giáo Hội muốn con cái mình chuẩn bị trông đợi Chúa đến lần thứ hai cơ. Tức là ngày Chúa quang lâm cùng với thần thánh của Ngài.

Không biết Lần Thứ Hai này, Chúa đến lúc nào và khi Chúa đến, liệu chúng ta có còn sống không. Chúa chưa đến Lần Hai, có lẽ ta đã đến với Chúa rồi. Có nghĩa là ngày ta chết. Khi chết thì linh hồn ta sẽ về với Chúa. Chúng ta nên chuẩn bị cho ngày này sẽ thực tế, hiệu quả và khôn ngoan hơn. Nếu Chúa có đến LẦN HAI thì càng hay. Trong khi chờ ngày chúng ta về với Chúa, chúng ta sẽ làm gì đây ?

Theo Lời Chúa hôm nay, thì chúng ta phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện. Có thể nói tỉnh thức là cầu nguyện và cầu nguyện là tỉnh thức. “Hai trong Một”. Quả thực nếu ta không tỉnh thức thì ta cũng không cầu nguyện được. Mà khi ta cầu nguyện, có nghĩa là ta tỉnh thức. Để cầu nguyện cho sốt sắng và tỉnh thức thì ta phải “Ý THỨC”.

Ý thức là ta biết mình đang làm gì, đang nghĩ gì và mục đích là chi; mình làm để làm gì. Đó là một khả năng cao quí Chúa ban cho con người chúng ta: Một sinh vật có lý trí. Mình làm mà chẳng biết mình làm cái gì; mình làm để làm chi thì còn chi là hấp dẫn, còn gì là phấn khởi. “Tôi buồn mà không biết vì sao tôi buồn” thì A-men rồi; thì chán lắm cơ.

Nếu cầu nguyện mà ta không ý thức những gì mình đọc và mình đọc kinh, dâng lễ để làm gì thì ta sẽ đọc như casette, sẽ làm như con vẹt thôi. Ta chán nản, khô khan và chia trí thôi và nhất là chẳng đem ích lợi gì cho ta cả đời này lẫn đời sau. Quả thật, khi ta ý thức thì ta sẽ tỉnh thức và sẽ cầu nguyện sốt sắng.

Chúng ta phải luôn tỉnh thức cầu nguyện để thoát khỏi “mọi điều sắp xảy ra”. Ta tự hỏi, điều gì sắp xảy ra đây ? Đó không chỉ là những biến đổi của thế giới, mà nhất là sự biến đổi của con người chúng ta. Đó chính là cái chết. Chúng ta, ai cũng muốn sống và sống lâu bao nhiêu có thể và rất sợ cái chết. Dù có sợ thì CÁI CHẾT cũng sẽ xảy ra thôi, chúng ta không biết lúc nào. Bởi đó, nếu ta luôn tỉnh thức, luôn cầu nguyện, luôn chuẩn bị thì ta sẽ không sợ chết nữa. Ai không sợ chết, người đó là người sung sướng nhất trên đời. Họ sống ung dung, tự tại; không phải lo lắng gì, luôn sống trong bình an và đương nhiên sẽ luôn sống trong hạnh phúc.

Vì sao ? Vì họ đã có sự chuẩn bị; họ ý thức mình sẽ chết, nên có làm gì, có cầu nguyện chi thì họ cũng hướng về ngày đó và trông chờ ngày đó đến. Nếu ngày đó đến, họ sẽ vui mừng và ngẩng đầu lên, vì họ sắp được cứu chuộc, sắp được vào thiên đàng sống đời đời với Chúa.

Như ta biết và có kinh nghiệm khi chờ đợi. Khi chờ đợi ta thấy nó lâu, thời gian như chậm lại. Chờ có một phút mà ta như cảm thấy cả tiếng đồng hồ vậy. Đó người gọi là “Giờ tâm lý”. Còn giờ vật lý thì lúc nào nó cũng vẫn thế, không nhanh, không chậm. Thánh Phê-rô nói: “Một điều duy nhất xin anh em đừng quên: Đối với Chúa một ngày vì thể ngàn năm; ngàn năm cũng tựa một ngày” (x. 2P 3,8).

Có thể nói “Ngày giờ” Chúa đến là “Ngày giờ tâm lý” chứ không phải ngày giờ vật lý. Nên ta đừng tìm kiếm ngày nào, năm nào Chúa đến hay suy nghĩ xem ngày nào, năm nào ta chết. Vô ích. Nước Chúa đến cũng vậy, không ở chỗ này hay chỗ kia mà chính trong tâm hồn của ta. Nên ta đừng đi tìm đâu đâu cho mất công. Hãy tìm Chúa trong tâm hồn ta thì hơn. Chúa ở đó, mà ta cứ đi tìm đâu đâu thì có phải là ngớ ngẩn không.

Ai đang yêu và chờ ngày giờ để gặp người mình yêu thì càng thấy nó lâu. Chờ thì thấy rất lâu, mà khi gặp thì lại cảm thấy giờ nó chạy rất nhanh. Vì sao ? Vì chờ để được yêu và yêu, ta mong mỏi đợi chờ cho có được giây phút đó, nên càng thấy nó lâu, nhìn đồng hình như kim gió không chạy; nhìn lịch mà cứ muốn xé hết các tờ cho đến ngày đó cho mau. Rồi khi ngày giờ đó đến, hạnh phúc biết chừng nào, quên cả thời gian, quên cả không gian, mới đó mà đã hết giờ, hết ngày gặp nhau rồi…tiếc tiếc…nuối …nuối. Cứ muốn cho một phút là 1000 giây, chứ 60 giây ít quá !!!!!!!!!!!!! Một ngày ước chi là 1000 giờ thì hay biết mấy !!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!

Thế nhưng, đó chỉ là ngày giờ tâm lý thôi; phải theo ngày giờ vật lý mới được. Vấn đề là khi chờ đợi. Khi chờ đợi mà ta có làm việc gì thì sẽ thấy thời gian trôi qua đi nhanh hơn, nhưng nếu ham làm quá có khi ta lại quên luôn cả điều mình mong, mình chờ. Điều này chỉ đúng có 50% cho những người đang yêu. Vì họ có làm việc thì thời gian chờ đợi, họ sẽ cảm được là thời gian sẽ đi nhanh hơn, nhưng không bao giờ họ quên điều họ mong chờ, không bao giờ họ quên việc gặp người yêu của họ.

Còn đối với việc chờ đợi Chúa đến hay việc chờ đợi ta đến với Chúa thì đúng 100%. Nghĩa là, khi ta có làm việc để chờ sẽ thấy thời gian đi nhanh và cảm thấy còn ít giờ quá cho sự chuẩn bị hay thời giờ mình sống trên trần gian này, nên ta càng trân trọng và quí giá những ngày giờ mình còn sống và sẽ tận dụng tất cả, không để phí một giờ, một ngày nào. Không đi rông dài, đi đây đi đó cho mất thời gian; không phung phí cho những việc vô bổ, mất cả ngày trời mà chẳng được tích sự gì.

Và nếu không tỉnh thức, ta lại đâm đầu vào làm, quên cả việc chuẩn bị, quên cả việc ta sẽ chết, ta sẽ về với Chúa, sống mà như không bao giờ mình chết. Như chè chén say xưa, ăn chơi nhậu nhẹc; ham mê sự đời; ham tiền, ham danh, ham của mà quên đi việc chuẩn bị cho ngày ta trở về với Chúa. Rồi ngày đó đến, ta sẽ phải bỏ mọi sự, ra đi với đôi bàn tay trắng, không có công trạng, không có những hy sinh; không có những chịu khó, tập tành để nên thánh nên thiện, thử hỏi ta có dám ngẩng đầu lên; ta có đứng vững trước mặt Chúa không?

Bởi đó, hàng năm, Giáo Hội, kỷ niệm ngày Chúa đến lần thứ nhất để giúp ta ý thức lại việc mình sống và làm việc trên cõi đời này. Là người tín hữu Ki-tô, thì ta không thể không tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Ta hãy tìm hiểu xem cầu nguyện là gì và thực hành thế nào cho phải?

Theo sách Giáo lý thì “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên Chúa hay cầu xin Chúa ban cho mình những ơn cần thiết” (x. GLCG, số 2590).

Như vậy cầu nguyện có hai việc. Một là ta nâng tâm hồn lên tới Chúa. Nghĩa là ta không dính bén đến những gì của trần gian; ta bỏ mọi sự lo lắng, ưu tư về trần thế mà dành thì giờ nói chuyện với Chúa, nhớ đến Chúa. Có thể nói với Chúa tất cả những lo lắng hay ưu tư của mình; mình đang làm gì, mình đang gặp khó khăn gì; mình đang thương ai, mình đang nhớ ai; mình đang mong ước chi. Đó gọi là nâng tâm hồn lến với Chúa. Không nhất thiết phải đến nhà thờ, mà ở đâu ta làm cũng được.

Hai là cầu xin Chúa ban cho mình những ơn cần thiết. Tức là đang khi chúng ta làm việc; đang khi chúng ta muốn làm điều gì đó, nhưng ta ý thức con người của ta yếu đuối, cần có ơn Chúa để ta có thể làm một cách thánh thiện và công chính, sinh ích cho mình và đem niềm vui cho người khác. Có khi là xin ơn khôn ngoan để ta có suy nghĩ và quyết định chính xác. Đó là cầu nguyện.

Vì nhiều khi, ta kiêu ngạo, ta tưởng mình giỏi ghê gớm, không cần đến ơn Chúa, chỉ cần có “AIPHON”, “AIPAT”, chỉ cần có chiếc điện thoại thông minh “SMARPHON” là OK. Cái gì ta cũng biết, cái gì cũng làm được.

Đúng vậy, cái gì nó cũng biết, cái gì cũng làm được, nhưng chỉ trừ nên thánh, nên thiện là nó không làm được thôi. Nó không giúp cho ta cầu nguyện sốt sắng được, chỉ làm cho ta chia trí; nó không giúp ta suy gẫm được, chỉ làm cho ta lo ra; nó không giúp ta chiêm niệm được, vì nó làm cho ta không có thì giờ.

Ta hãy dẹp cái thứ đó qua một bên, để mà cầu nguyện, để đọc kinh, để suy gẫm và để chiêm niệm.

Khi đọc kinh, tức là khẩu nguyện thì: “Khẩu nguyện là đọc kinh thành tiếng, cách diễn tả rất phù hợp với con người, nên thích hợp với đám đông. Ngay cả khi cầu nguyện trong lòng, chúng ta không được xao lãng khẩu nguyện. Kinh nguyện trở thành tâm tình bên trong, khi chúng ta ý thức về Đấng chúng ta đang thưa chuyện. Lúc đó khẩu nguyện, biến thành hình thức đầu tiên của cầu nguyện chiêm niệm” (x. GLCG, số 2704).

Nghĩa là đọc kinh, thì miệng đọc lòng ta suy và hợp một lòng một ý với ý nghĩa trong kinh nguyện đó.

Tiếp đó là suy gẫm. “Suy gẫm là tìm hiểu trong khi cầu nguyện, bằng cách vận dụng khả năng suy tư, trí tưởng tượng, cảm xúc và ước muốn. Nhờ suy gẫm, chúng ta hấp thụ được đề tài trong đức tin và đối chiếu với thực tại cuộc sống” (x. GLCG, số 2723).

Tức là ta suy Lời Chúa, rồi ta gẫm sự đời, xem Lời Chúa nói có đúng không và khi ta thực hành Lời Chúa thì ta thu được kết quả gì.

Sau cùng là chiêm niệm. “Chiêm niệm là hình thức đơn sơ của cầu nguyện; là lấy đức tin mà chiêm ngắm Đức Giê-su; là lắng nghe Lời Chúa, là yêu mến Chúa trong thinh lặng. Chiêm niệm cho ta hợp nhất với Đức Ki-tô trong kinh nguyện của Đức Ki-tô theo mức độ chúng ta tham dự vào mầu nhiệm của Người” (x. GLCG, số 2724).

Nghĩa là ta chiêm, ta “chiếm” được Chúa cho chính ta; ta cảm, ta kết hợp mật thiết với Chúa trong thinh lặng và yêu mến thẳm sâu. Ta như nắm bắt được Chúa trong tay, trong lòng của ta vậy.

Vậy ta hãy đem Lời Chúa hôm nay ra thực hành; hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Hãy đọc kinh, suy gẫm và chiêm niệm luôn. Có như thế, Chúa sẽ cho ta được bền tâm vững chí; được nên thánh thiên, không gì đáng trách trước nhan Thiên Chúa, trong ngày ta trở về với Chúa; cũng như trong ngày Chúa quang lâm.

 

.

CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG_C

Lm. Phêrô Lê Nguyễn Hoàng Vũ

Kính thưa quý ông bà và anh chị em!

Bước vào mùa vọng chúng ta thấy bầu trời u ám với một chút gió lạnh của mùa đông làm cho tâm hồn chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng. Và ở đâu đó đã vang lên nhạc phẩm “Bài Thánh Ca Buồn” của nhạc sĩ Nguyên Vũ với những ca từ thật nhẹ nhàng và sâu lắng.

Vâng, nếu như “Bài Thánh Ca Buồn” của nhạc sĩ Nguyên Vũ thật nhẹ nhàng và sâu lắng, thì bài Tin mừng hôm nay của thánh sử Luca dường như chúng ta cảm thấy có một nỗi hoang mang nào đó, rồi sẽ có một ngày người ta hồn siêu phách lạc, hoang mang và sợ hãi, bởi không biết có điều gì đang chuẩn bị đổ ập xuống địa cầu này.

Tại sao Giáo hội cho chúng ta nghe những lời có vẻ sợ hãi và hoang mang ấy trong ngày thứ nhất của mùa vọng? Xin thưa, Mùa vọng không phải chỉ là một thời điểm để chúng ta chuẩn bị đón mừng Chúa Giáng Sinh, mà mùa vọng có hai ý nghĩa rõ rệt.

Từ Chúa Nhật thứ nhất mùa vọng đến hết ngày 16 tháng 12, Giáo hội nhắc nhở cho con cái của mình cuộc giáng lâm của Chúa Giêsu. Và chính bài Tin mừng của thánh sử Luca đã ghi lại trong lễ Chúa nhật hôm nay đã diễn tả một phần nào đó của khung cảnh ngày quang lâm, ngày quang lâm của Thiên Chúa, ngày tận cùng của trái đất, ngày tận thế và ngày Thiên Chúa đến để cứu độ chúng ta. Những lời văn có vẻ gây một chút hoang mang ấy, nhưng sứ điệp của Tin mừng thì thật là rõ ràng. Để có thể đứng vững trong ngày của con người, Thiên Chúa mời gọi mỗi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện.

Tỉnh thức không phải là không ngủ, nhưng tỉnh thức là nghe được tiếng của Chúa và nhận ra tiếng gõ cửa của Ngài. Tỉnh thức để rồi với cuộc sống vẫn đang bề bộn, với những lo toan cơm áo gạo tiền, chúng ta vẫn có những khoảnh khắc để cho Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống, cho Chúa hiện diện trong tâm hồn của chúng ta. Tỉnh thức để những gì âu lo của cuộc sống không vùi dập cuộc đời của chúng ta. Tỉnh thức để những gánh nặng của trần gian không làm cho chúng ta mỏi mệt mà quên đi nghĩa vụ chúng ta đang chờ đón Chúa đến.

Tỉnh thức và cầu nguyện, đó là điều kiện để cho chúng ta đứng vững trong ngày của Con Người. Chỉ những ai lắng nghe tiếng Chúa, quen nghe tiếng Chúa thì mới nhận ra tiếng của Ngài, muốn nghe được tiếng của Ngài thì chúng ta phải biết thinh lặng, bởi vì cuộc sống hôm nay dường như con người sợ im lặng, họ cho rằng im lặng là thời gian chết, vì thế mà họ nói huyên thuyên cười giỡn khắp nơi.

Ngày Thiên Chúa đến đối với mọi người đó là ngày quang lâm, nhưng có thể là ngày rất riêng tư mà Thiên Chúa gõ cửa tâm hồn mỗi người chúng ta. Thế nhưng, đó không phải là ngày tận cùng của thế giới, đó cũng không phải là ngày chết của mỗi người làm cho ta hoảng loạn. Nhưng đó là những giây phút Chúa đến gặp gỡ tâm hồn của mỗi con người và đưa con người vào mối tâm giao với Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta nghe được tiếng của Thiên Chúa giữa muôn vàn những tiếng ồn ào của cuộc sống này, thì khi ấy chúng ta mới có thể đón tiếp Ngài một cách chu đáo.

Trong ngày của con người, Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Đứng thẳng là thái độ của một con người tự do, một con người không bị ràng buộc bởi những quyến luyến. Đứng thẳng là thái độ của một con người sẵn sàng. Chúng ta là những người đang sống trong sự tự do hào hùng của con cái Thiên Chúa, một sự tự do đã được Thiên Chúa trao tặng, Thiên Chúa đã dùng chính máu của mình để mà giải thoát chúng ta khỏi những quyến luyến ràng buộc của trần gian.

Ước gì trong năm phụng vụ mới này, mỗi người trong chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta sống trong tâm tình mùa vọng một cách đích thực, xin ơn thánh của Chúa biến đổi tâm hồn của chúng ta, để chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh không phải là lễ hội, không phải là quà tặng, không phải là tiệc tùng mà là chúng ta có một chỗ để cho Chúa Giáng Sinh ngự trong trái tim của chúng ta. Amen.

 

.

KHÔNG LO XA ẮT BUỒN GẦN

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Cổ nhân có câu rằng “người không biết lo xa,ắt sẽ buồn gần”. Người xưa muốn khuyên răn nhau đừng quá dễ dãi, nông nổi, hời hợt, có con mắt thiển cận, thái độ ăn xổi ở thì; mà rất nên, rất cần có suy nghĩ chín chắn, biết nhìn xa trông rộng, ăn hôm nay phải nhớ đến ngày mai, làm việc gì cũng phải tính toán trước sau, đo lường sự thiệt hơn để mục đích cuối cùng là được nhiều hơn mất, góp phần làm cho tiếng cười vui nhiều hơn nước mắt, để cho làng trên xóm dưới nhiều niềm vui hơn là sự ta thán, phiền muộn.

Nhưng đáng tiếc nhiều người chỉ thấy lợi trước mắt mà không nghĩ tới hoạ liền sau. Họ tưởng rằng “một tay che được bầu trời” nhưng họ đã lầm to, những điều xấu sớm muộn cũng bị đưa ra ánh sáng.

Điển hình là các quan chức Việt Nam. Rất nhiều năm nay họ luôn nghĩ rằng Đảng bênh Đảng nên không xử lý họ. Các quan to nhỏ thi nhau tham nhũng làm nghèo đất nước. Họ đâu nghĩ rằng sẽ có ngày cuộc đời họ sẽ tàn trong những năm tháng tù tội thiếu thốn. . .

Theo Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng cho biết cơ quan chức năng đã kỷ luật hơn 840 tổ chức Đảng và 58.120 đảng viên vi phạm. Trong đó, hơn 2.700 đảng viên vi phạm về tham nhũng, cố ý làm trái, kiến nghị thu hồi trên 260.000 tỷ đồng.

“Điển hình là các vụ án: Dương Chí Dũng, Huỳnh Thị Huyền Như, Nguyễn Đức Kiên (Bầu Kiên), Châu Thị Thu Nga, Giang Kim Đạt, Trịnh Xuân Thanh, Đinh La Thăng, Phan Văn Anh Vũ (Vũ Nhôm), vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc xảy ra tại Phú Thọ với 2 tướng Công an bảo kê là Phan Văn Vĩnh Và Nguyễn Thanh Hoá  (ông Phan Đình Trạc ban PCTN đã nói).

Cuộc sống luôn thay đổi mà người ta hay nói rằng cuộc sống thì vô thường. Con người chẳng biết ngày mai sẽ ra sao.  Sống hay chết đều không do mình quyết định. Cái chết đến thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đào ngạch vào nhà lấy đi đồ đạc lúc nào chẳng hay biết. Cái chết cũng chẳng định lứa tuổi hay giai cấp, vì có thể cùng một lứa tuổi, cùng một công việc nhưng kẻ thì được mang đi, người thì vẫn còn ở lại.

Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức bằng cả một đời sống theo thánh ý Chúa. Tỉnh thức không để lòng mình buông theo những cám dỗ thế gian, những ước muốn tầm thường. Tỉnh thức để sống ngay thẳng không theo đường lối gian tà.

Chúa Giê-su hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời mà hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hãy sống công chính trước mặt Chúa. Sống trong ơn nghĩa của Ngài. Sống trung thành với giáo huấn của Ngài. Sống tự chủ bản thân mình đừng chiều theo tính xác thịt mà làm trái với luân thường đạo lý.

Đây cũng là thái độ của người khôn ngoan luôn tỉnh thức trước giờ Chúa đến. Tỉnh thức bằng việc cầm đèn cháy sáng như năm cô khôn ngoan có đủ dầu đèn. Dầu đèn ở đây chính là những việc lành bác ái, những ước vọng sống thánh thiện khước từ tội lỗi.

Mùa vọng là thời gian đợi chờ. Cuộc đợi chờ tân lang đến nhưng không hẹn rõ ngày giờ. Một cuộc đợi chờ luôn đòi hỏi chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức để xứng đáng dự tiệc vui muôn đời bên Chúa. Ước gì chúng ta hãy tận dụng mùa vọng để chuẩn bị cho mình hành trang cần thiết cho cuộc hội ngộ với Đức Lang Quân. Xin đừng vì những mải mê thế gian mà đánh mất cơ hội dự tiệc vui muôn đời. Amen

 

.

MỞ CỬA TÂM HỒN ĐÓN CHÚA

JM. Lam Thy

Khởi đầu Năm Phụng Vụ mới, để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh – một đại lễ đánh dấu kỷ niệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người cứu chuộc nhân loại lần thứ nhất cách đây hơn 2000 năm – Giáo hội ấn định 4 tuần lễ gọi là Mùa Vọng. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đấy, Giáo hội còn muốn đi xa hơn nữa để đón chờ Đức Giê-su Ki-tô đến lần thứ hai trong ngày quang lâm, ngày tận cùng của trần thế (tận thế). Đây là điểm trọng tâm của Mùa Vọng.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN I/MV-C – Lc 21, 25-28.34-36) trình thuật về ngày tận thế. Thánh sử Lu-ca chỉ lấy lại những hình ảnh văn chương đã có sẵn theo truyền thống Khải huyền, miêu tả thời cánh chung của vũ trụ có nhiều điềm lạ (“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” – Lc 21 25-26). Đó chỉ là quang cảnh làm hình nền cho việc tiên báo sự kiện Con Người quang lâm. Chính điều này mới là trọng tâm, và vì thế, tác giả rất chú trọng đến sự kiện cuối cùng này, và ngài đã mượn lại lời ngôn sứ Ða-ni-en trong một thị kiến (Đn 7, 1-14) để tường thuật: Thoạt tiên ngôn sứ thấy bốn con vật từ biển đi lên phá phách dữ tợn. Rồi ông thấy một Con Người hiện đến trong mây được trao quyền thống trị trời đất và các dân tộc (“Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện.” – Đn 7, 13)

Những lời tiên tri này rất thích hợp để nói về ngày Chúa Ki-tô tái quang lâm. Người chẳng phải là Con Người đó sao? Cùng lúc Ðức Giê-su Ki-tô có 2 bản tính: bản tính nhân loại + bản tính thần linh. Hình ảnh một Con Người đến trong mây rất thích hợp để nói lên cả hai bản tính ấy nơi Người. Nhưng nếu chỉ viết “Con Người ngự giá mây trời mà đến” thì vẫn chưa đủ để diễn tả việc Người trở lại trần gian lần thứ hai, nên thánh Lu-ca phải thêm vào hình ảnh Con Người những lời chú thích cần thiết: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21, 27). Những lời chú thích này chỉ được dùng để nói về Ðức Giê-su Ki-tô sau ngày Phục Sinh. Và như vậy, tác giả muốn nói rằng: Khi Ðức Giê-su Ki-tô trở lại sẽ không như lần trước – lúc Người giáng sinh làm người trong thân thể một Hài Nhi bé bỏng và yếu ớt – mà Ngườii sẽ đến với uy quyền và vinh quang tuyệt đỉnh.

Thánh sử Lu-ca thừa biết rằng có nhiều suy nghĩ không cần thiết về ngày Chúa lại đến, nên ngài rất dè dặt trong việc trình thuật. Ngược lại, ngài chú trọng đến thái độ người tín hữu phải có cho ngày trọng đại ấy. Theo ngài, ngày ấy sẽ kinh khủng cho thiên hạ; nhưng đối với các Ki-tô hữu, đó là ngày cứu độ. Ngài nhắc nhở: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.” (Lc 21, 28). Vâng, có lý nào những người tin thật Đấng Cứu Thế Giê-su Ki-tô, lại sợ hãi trước việc Người trở lại? Phải chăng chỉ có những kẻ không có hoặc đã đánh mất niềm tin, không còn sống theo niềm tin ấy? Do đó, tác giả mới khuyên ai nấy hãy sẵn sàng, đừng để ngày ấy đến chụp lấy mình như một cái lưới. Những kẻ chỉ lo chè chén say sưa và lo lắng sự đời, chắc chắn sẽ bị bất ngờ không kịp sửa soạn. Còn những ai vững niềm tin, luôn tỉnh thức và cầu nguyện thì chắc chắn “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”

Khi miêu tả sự tự tin của con người trước một biến cố nào đó, người ta thường dùng cụm từ “đứng thẳng và ngẩng cao đầu”. Ngẩng cao đầu không phải là thái độ kiêu ngạo coi thường sự việc, mà chính đó là một cách biểu lộ một niềm tin vào chủ định của bản thân. Nếu Ki-tô hữu đã vững tin vào Người Con đã vâng lời Thiên Chúa Cha xuống thế mặc xác phàm, chịu khổ hình chết treo trên thập giá và phục sinh vinh hiển, để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết đời đời; đồng thời tin vào những lời dạy bảo của Người về ngày Người sẽ quang lâm lần thứ hai, thì chắc chắn “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” vui hưởng hồng ân cứu độ. Ấy cũng bởi vì chính Con Người đã khẳng định: “Tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian” (Ga 12, 47).

Một cách cụ thể, muốn “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” khi Con Người quang lâm, thì đừng lo lắng sợ sệt thái quá để rồi “rút cổ, gục đầu” phó mặc cho số phận đẩy đưa. Chẳng có số phận nào cả, mà chỉ có những “Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại đứng ở nơi nó không được phép đứng”, cùng với những “Ki-tô giả” dọa nạt lừa đảo người ta (Mc 13, 14-23) mà thôi. Không sợ hãi lo lắng thái quá, nhưng cũng không lơ là mất cảnh giác để “Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất”; mà phải là “tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 21, 34-36).

Tỉnh thức không phải chỉ là thức suốt đêm này qua đêm khác như một người bị bệnh mất ngủ, mà là phải tỉnh táo, canh giữ, phòng vệ trong mọi trường hợp, mọi lúc, mọi nơi. Nói cách khác là phải cảnh giác trước những hiện tượng thiên nhiên và nhất là những trò lừa bịp, ma mị của ma quỷ thông qua những “Ki-tô giả, ngôn sứ giả”, đồng thời phải tìm đến với Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và kiên quyết sống theo Lời Chúa dạy. Vâng, nhất quyết “Phải như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.” (Rm 13, 11-14).

Nói thì đơn giản, nhưng thực hành được mới là thiên nan vạn nan, vì vào những ngày ấy từ hiện tượng thiên nhiên đến tâm trạng con người không lúc nào được bình lặng. Hơn thế nữa, còn biết bao nhiêu “Đồ Ghê-Tởm-Khốc-Hại” hay “Ki-tô giả, ngôn sứ giả” cũng chẳng để yên cho con người có đủ tỉnh táo mà phòng vệ. Chính vì thế, nên phải “tỉnh thức và cầu nguyện”, vì đó là hai chiều kích tất yếu nhắm tới mục tiêu duy nhất là “đứng vững trước mặt Con Người” trong ngày cánh chung. Cầu nguyện xin Chúa ban Thần Khí để Người soi sáng cho hiểu biết tận căn sự chân thật và điều giả dối, đâu là người công chính, đâu là kẻ giả hình, đồng thời Người ban cho đầy đủ can đảm và dũng khí đối diện với mọi nghịch cảnh, thử thách nghiệt ngã, để sẵn sàng đón Chúa trong ngày Người trở lại lần thứ hai.

Thật ra, giáo huấn của Hội Thánh về việc Chúa trở lại rất trong sáng và đơn giản. Hội Thánh khuyên nhủ mọi Ki-tô hữu phải tin và sẵn sàng, tức là phải trông đợi trong hy vọng. Mùa Vọng là mùa trông đợi, mong ngóng, chờ đón Tin Mừng Đấng Cứu Thế quang lâm lần thứ hai. Đã đành là Chúa đã đến, đang đến và luôn sẵn sàng ở lại trong cung lòng mỗi người hàng ngày hàng giờ, nhưng chỉ những người ngay lành, công chính mới thực sự được Chúa ở cùng “mọi ngày cho đến tận thế”. Tuy rằng ngày Chúa quang lâm lần thứ hai chưa tới, nhưng nó có thể tới bất cứ lúc nào, tới vào lúc loài người bất ngờ nhất, và khi Người tới thì toàn thể nhân loại đều được diện kiến. Duy chỉ có điều – và là điều cần quan tâm nhất, cần lo lắng nhất – là vào ngày giờ ấy, ai sẽ được đứng ở bên phải và ai sẽ phải đứng ở bên trái Người.

Chính vì thế, xin hãy biến 4 tuần lễ Mùa Vọng đón chờ ngày Chúa giáng sinh trong năm Phụng vụ thành Mùa Vọng trong suốt cuộc đời trông đợi Chúa quang lâm vào ngày cánh chung vũ trụ. Ngay từ bây giờ, có thể anh vừa mới sinh ra, có thể chị đang ở tuổi thanh niên, trung niên, có thể ông bà đang ở vòng bóng xế, và cũng có thể các cụ đang thèm ăn đất hơn thèm ăn cơm, chân trên lỗ chân dưới lỗ; xin tất cả “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.” (Lc 12, 35-37). Vâng, xin hãy thực sự sống cuộc đời trần thế cho Mùa Vọng Nước Trời mai hậu trong tư thế đứng thẳng và ngẩng cao đầu diện kiến Thiên nhan Đấng Cứu Tinh. Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Chúa Cha toàn năng, xin cho đoàn tín hữu chúng con hằng quyết tâm làm việc thiện, để đón chào Con Chúa đang ngự đến xét xử trần gian. Nhờ đó, chúng con sẽ được Người cho ở bên hữu, và gọi vào hưởng phúc Nước Trời. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật I Mùa Vọng).

 

.

CHIẾN SĨ CỦA CHÚA

Bão về. Người dân miền Trung lại phải sống trong thấp thỏm, lo âu.

Đã bao mùa bão đi qua, những mất mát về tài sản còn gầy dựng được, nhưng những nỗi đau mất mát người thân thì còn mãi. Trong tâm tình cầu nguyện cho bao người đang phải lo lắng hoang mang vì bão đến, ta được Chúa nhắn nhủ về một thái độ tỉnh thức và cầu nguyện luôn để sẵn sàng chờ đón Chúa quang lâm.

Trước cảnh biển gào sóng thét, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang. Còn đâu sự bình yên ngày nào vì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ  không còn chiếu sáng, nhưng điều mà muôn dân đang hoang mang lo lắng, ngày mà muôn dân không mong đợi, đó lại là lúc các môn đệ của Chúa được “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, vì họ biết ngày đó sẽ được cứu chuộc. Chúa Giêsu hiểu được nỗi lo lắng của các môn đệ khi nghe những việc sẽ xảy đến trong ngày Con Người quang lâm, và Chúa đã chỉ cho các ông hai việc cần thiết là phải tỉnh thức và cầu nguyện.

Khi nghe tin có bão sắp đổ bộ vào đất liền, người ta lo lắng để đi tản dân, có các biện pháp để giảm các thiệt hại. Khi Con Người nói về ngày quang lâm, chúng ta sẽ chuẩn bị ra sao? Chẳng ai biết trước được ngày quang lâm chính xác là ngày nào. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định rằng ngày và giờ chỉ có Chúa Cha biết thôi (x. Mc 13,32). Mặc dù đã được báo cho biết về cách mà ngày quang lâm xảy đến, con người vẫn không có sự chuẩn bị mà mải lo lắng với bao sự đời, say sưa với bao thú vui, để rồi ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu (x. Lc 21,34). Biển vẫn trong xanh, đàn cá tung tăng bơi lội, nhưng kìa chiếc lưới người ngư phủ tung xuống và đàn cá bị kéo lên khoang thuyền. Chúa Giêsu khẳng định: “Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất” (Lc 21,35). Như vậy, tất cả mọi người không trừ một ai đều sẽ phải tỉnh thức và sẵn sàng, vì tất cả sẽ được thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến (x. Lc 21,27).

Chúa Giêsu đã đổ máu mình ra để cứu chuộc nhân loại tội lỗi, giải thoát họ khỏi quyền lực sự chết mà đưa họ vào cõi sống ngàn thu. Thật diễm phúc cho ai nhận biết Thiên Chúa và đón nhận Tình Yêu của Chúa. Nhưng để bước theo Chúa Giêsu, người môn đệ phải từng ngày chết đi cho chính mình, nghĩa là chấp nhận “từ bỏ mình, vác thập  giá mình mà theo Chúa” (x. Mt 10, 38). Để ngày Chúa quang lâm, các môn đệ với tư thế “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” thì từng ngày sống, từng giây phút họ phải chiến đấu. Đây là cuộc chiến đấu cao đẹp để chiếm cho được triều thiên vinh hiển là chính Chúa. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ các tín hữu thành Êphêxô hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa để có thể đứng vững trước những mưu chước ma quỷ (x. Ep 6,10-11). Vinh quang Thiên Chúa được biểu hiện ngay cả trong cuộc sống của Chúa Giêsu, và nhất là ngay trên thập giá. “Chúa Giêsu đã dùng chính cái chết của mình để biểu lộ vinh quang và uy quyền, biểu lộ tình yêu đến cùng của Người. Để bước theo sát dấu chân của Chúa, ta hãy tha thiết cầu nguyện. Hãy theo Thần Khí hướng dẫn mà dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi” (x. Ep 6,18).

Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Tỉnh thức và cầu nguyện là điều hết sức cần thiết để con đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Chúa. Xin Chúa cho con trở nên một chiến sĩ của Chúa: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an, luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó con có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng,  xin cho con đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa” (x.Ep 6, 14-17) để cuộc đời của con là lời ca tụng Chúa luôn mãi. Amen

 

.

SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA ĐẾN

Phêrô Nguyễn Văn Hương

Hôm nay, chúng ta bước vào năm phụng vụ mới với việc cử hành Mùa Vọng. Đây là mùa chuẩn bị mừng kỷ niệm biến cố Con Chúa đến lần thứ nhất, qua đó, giúp chúng ta biết đón Chúa đến mỗi ngày; đồng thời cũng là thời gian hướng lòng chúng ta mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong vinh quang. Để giúp hiểu đúng về những lần Chúa đến, trong thánh lễ này, chúng ta hãy suy niệm về việc Chúa đến và thái độ cần thiết để đón Chúa.

1- Chúa đã đến

Trước hết, dựa vào Lời Chúa hôm nay, chúng ta biết rằng việc Chúa đến với loài người được loan báo qua tiên tri Giêrêmia trong bài đọc I: “Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực” (Gr 33,14-15).

Đây là lời loan báo của Cựu Ước về Đấng Mêsia sẽ đến trong lần thứ nhất. Lời loan báo này được thực hiện trong thời Tân Ước qua biến cố Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh bởi Đức Maria. Trong lần giáng trần này, Thiên Chúa đến với con người theo cách thức là một tôi tớ, trong khiêm tốn và âm thầm. Người được sinh ra và được bọc tã đặt nằm trong máng cỏ đơn hèn. Người sống âm thầm trong gia đình Thánh Gia suốt ba mươi năm tại làng Nazarét. Sau đó, Người công khai đi rao giảng Tin Mừng ba năm, rồi chịu tử nạn trên thập giá, sau ba ngày phục sinh vinh hiển vì ơn cứu độ loài người.

Như thế, Thiên Chúa đã đến với loài người và ở giữa chúng ta qua việc Chúa Cha sai Chúa Con đến trong thế gian, nhập thể làm người để cứu độ chúng ta. Đây là lần thứ nhất Chúa đến.

2- Chúa sẽ đến

Tuy nhiên, trước khi về trời, Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ biết rằng, Người sẽ trở lại trong ngày quang lâm (parousia). Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca ghi lại lời loan báo về sự trở lại của Chúa Kitô như sau: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ, thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21,25-28).

Đây là những lời tiên báo về việc Chúa Kitô đến lần thứ hai. Nếu lần thứ nhất Chúa đến trong tư cách là một người tôi tớ khiêm hạ, thì lần thứ hai Chúa đến trong tư cách là “Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta xuất hiện trong vinh quang” (Tt 2,13). Người xuất hiện như vị thẩm phán đầy uy quyền và công minh để xét xử nhân loại trong ngày chung thẩm.

Vì thế, trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, triều đại Người sẽ vô cùng vô tận.”

Như vậy, trong ngày cánh chung, Đức Giêsu Kitô sẽ từ trời ngự đến. Người sẽ ngự đến trong vinh quang và uy quyền của Thiên chúa để xét xử mọi loài. Nhưng sự việc này xảy ra lúc nào và khi nào? Điều này không được Chúa Giêsu mạc khải. Vì đây là bí mật mà Chúa Cha nắm giữ. Kinh Thánh chỉ mạc khải cho biết Chúa đến bất ngờ, vào giờ con người không ngờ. Nên Lời Chúa hôm nay hướng dẫn chúng ta phải có những thái độ cần thiết để đón Chúa.

3- Thái độ đón Chúa đến

Trước hết, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ” (Lc 21,28). Đứng thẳng và ngẩng cao đầu là tư thế của người sẵn sàng và tin tưởng. Tư thế này có ý nghĩa biểu tượng để nói rằng chúng ta được mời gọi dù sống trên mặt đất nhưng phải luôn biết hướng về trời cao, dù phải vất vả tìm kiếm lương thực hằng ngày, nhưng phải luôn biết hướng về hạnh phúc vĩnh cửu. Vì thế, đứng thẳng cũng có nghĩa là sống đúng với phẩm giá của mình, không quỵ ngã hay cúi mình trước khó khăn, thử thách và cám dỗ của cuộc sống. Ngẩng cao đầu là tư thế của người lạc quan và tin tưởng. Người ngẩng cao đầu là người biết trông cậy và hy vọng vào Thiên Chúa, bất chấp mọi khó khăn và nguy biến có thể xảy ra trong cuộc sống.

Tiếp đến, thái độ thứ hai để đón Chúa đến là: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời (Lc 21,34). Cuộc sống cần phải ăn uống. Nhưng mọi cái thái quá đều là không tốt. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta phải đề phòng và diệt trừ những thói hư tật xấu, đó là “chè chén say sưa và lo lắng sự đời.” Đây là những điều cản trở chúng ta đến với Chúa. Người Kitô hữu phải là người sống quân bình và làm chủ các đam mê của mình, nhất là tính mê ăn uống.

Cuối cùng, Chúa mời gọi chúng ta: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36). Tỉnh thức là không ngủ, tỉnh táo trước những cơn cám dỗ của ba thù: ma quỷ, thế gian và xác thịt, nhưng nhạy bén với ơn Chúa và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Còn cầu nguyện là gắn bó, đối thoại và lắng nghe Đấng mà chúng ta biết rằng Người yêu thương chúng ta (Têrêsa Avila). Nhờ tỉnh thức, chúng ta biết biện phân các nguy cơ tội lỗi và nắm bắt các cơ hội ân sủng. Nhờ cầu nguyện, chúng ta có sức mạnh và năng lực để vượt thắng mọi nguy hiểm trong đời.

Lạy Chúa, Chúa đã đến lần thứ nhất trong sự khó nghèo và đơn hèn để cứu độ chúng con. Chúa sẽ đến lần thứ hai trong vinh quang và quyền uy để xét xử loài người. Xin cho mỗi người chúng con trong Mùa Vọng này, luôn biết sống tỉnh thức và cầu nguyện, để bất kỳ lúc nào Chúa đến, chúng con đều sẵn sàng ra đón Chúa. Amen!

 

.

TIN MỪNG CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG_C

Jorathe Nắng Tím

Các bài đọc trong Chúa Nhật thứ nhất mùa vọng đặt chúng ta trong bầu khí nhiều biến động mang tính đe dọa, và một xã hội nhiều bất công. Đó là sự thật của một thế giới, khi đường lối công chính và ơn cứu độ của Thiên Chúa chưa được con người đón nhận. Nhưng chính trong bối cảnh hỗn loạn, “hoảng hồn mất vía” này, chúng ta được kêu gọi “tỉnh thức cầu nguyện hầu thoát mọi điều nguy hiểm và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36).

Bài đọc thứ nhất: sau khi tuyên sấm “cảnh điêu tàn, không người, không vật” của Giuđa và Giêrusalem, ở đó, tất cả “đã ra tan hoang…, không tiếng mừng vui, hoan lạc, tiếng cô dâu chú rể, tiếng những kẻ nói: “Hãy cảm tạ Giavê các cơ binh, vì Người tốt lành, vì ơn Người miên man vạn đại ” (Gr 33,10-11), ngôn sứ Giêrêmia đã loan báo những ngày Thiên Chúa Giavê cho nẩy chồi công chính và hạnh phúc trong nhà Đavít: “Giuđa sẽ được độ trì và Giêrusalem sẽ hưởng cảnh an cư” (Gr 33,16).

Tin Mừng Luca thì cảnh báo “sẽ có điềm lạ nơi mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Dưới đất, các dân hồi hộp vì biển gầm sóng vỗ. Người ta mất vía vì sợ…” (Lc 21, 25-26), và nhắc bảo cảnh giác đề phòng, kẻo lòng các ngươi ra nặng nề bởi chè chén say sưa, bởi những lo lắng sự đời…Nhưng hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21, 34.36).

Quả thực, những năm gần đây, ít nhiều chúng ta đã chứng kiến hoặc nghe kể thảm cảnh sóng thần trong vài phút đã cuốn trôi cả một thành phố gần biển, và hàng vạn dân cư. Thiên tai đủ loại, đủ cỡ xẩy ra liên tục khắp nơi trên thế giới làm nhiều người nghĩ đến ngày tận thế. Chẳng thế mà cứ lâu lâu lại nghe đồn đãi ngày ấy, tháng ấy, năm ấy đêm tối sẽ bao phủ địa cầu, không ai  thấy ai, nên cả làng, cả nước đổ xô mua nến phòng hờ ngày tăm tối. Cũng có nhiều nhóm tự nhận mình được “mặc khải riêng” trong giấc mơ, hay “thị kiến” về ngày giờ tận thế, nên gõ cửa từng nhà cảnh báo, dặn dò những gì phải làm trong ngày cuối cùng của loài người. Thậm chí cả những “bậc đạo đức” tự cho mình thông hiểu Kinh Thánh cũng với bộ dạng trầm trọng “bỏ nhỏ” vào tai người thân quen “ngày giờ tận thế”.

Nhưng rồi thế giới vẫn chưa tận số, loài người vẫn sống, chỉ khổ thân những con người nhẹ dạ, cả tin đã căng thẳng chuẩn bị ngày tận thế, để phải thẹn thùng với bà con làng nước về “mặc khải dổm”, “lời tiên tri ấu trĩ, ngờ nghệch”, và những “chuẩn bị lố bịch đến nực cười” của mình khi ngày tận thế không xẩy ra.

Là người Kitô hữu, chúng ta không được mời gọi tiên đoán ngày tận thế, vì ngày đó thuộc quyền Thiên Chúa; chúng ta cũng không có bổn phận loan báo ngày tận thế cho anh em mình, với dáng vẻ của người “thất kinh bát đảo”, lo lắng, sợ hãi, thất vọng; chúng ta càng không được phép lấy cảnh hãi hùng của tận thế phần lớn do óc tưởng tượng để doạ nạt, trấn áp, ép buộc anh em mình đi đạo. Trái lại, trước những thiên tai, những bất thường trong thiên nhiên, chúng ta được mời gọi nhận ra dấu chỉ và sứ điệp của Chúa nhắn gửi:

  1. Nước Thiên Chúa đã đến gần, và chúng ta phải chuẩn bị để đón nhận Nước Thiên Chúa.

Thánh Phaolô kêu gọi cộng đoàn Thessalônica hãy thực hiện việc đón nhận Nước Thiên Chúa bằng sống huynh đệ trong cộng đoàn, đồng thời lan tỏa lòng bác ái đến với mọi người, ở ngoài cộng đoàn.

  1. Đường lối của Thiên Chúa là Tình Yêu và Sự Thật:

Một điều chúng ta thường hay quên, đó là ý nghĩ của Thiên Chúa không phải ý nghĩ của ta, và đường lối của Thiên Chúa không phải đường lối của ta (x. Is 55, 8-9). Thánh Phaolô còn nhấn mạnh: “Ôi, thẳm sâu thay sự giầu có, khôn ngoan, thượng trí của Thiên Chúa! Những phán quyết của Người vô phương dò thấu, đường lối của Người không thể dõi theo! ” (Rm 11, 33). Vì thế, chúng ta không thể sắp xếp chương trình cho Thiên Chúa, lập trình sẵn đường lối hay làm cố vấn cho Ngài. Chúng ta chỉ có thể đón nhận thánh ý Ngài được mặc khải qua Đức Giêsu, con yêu dấu của Ngài đã làm người và ở giữa chúng ta. Ngài ở giữa để chia sẻ phận làm người và để nói với chúng ta bằng ngôn ngữ loài người về Thiên Chúa, về đời sống và vận mệnh tương lai của con người; Ngài còn ở giữa, ở với, sống, chết, và phục sinh để cứu độ mọi người. Chính Ngài đã cho chúng ta biết đường lối của Thiên Chúa là Tình Yêu và Sự Thật. Trên đường lối này, Thiên Chúa muốn chúng ta bước đi theo Ngài.

Ở đây, chúng ta cần lưu ý: Sự Thật ở Thiên Chúa luôn sánh vai với Tình Yêu để sự thật, dù là sự thật đáng ghét, đáng nguyền rủa, trần trụi, trơ trẽn thế nào đi nữa, cũng vẫn là sự thật được Thiên Chúá biến đổi thành giá cứu độ, vì có Tình Yêu bao che, bảo bọc, bênh đỡ, tẩy rửa. Có thể sự thật của con người trong tay con người sẽ bị té tát, khai thác, lột trần trắng trợn, để lên án, trừng phạt, nhưng sự thật của con người trong tay Thiên Chúa lại được Thiên Chúa cất giấu trong Tình Yêu, gìn giữ trong Tình Yêu, bảo vệ trong Tình Yêu, thăng hoa trong Tình Yêu bằng thánh hoá trong Tình Yêu. Vì thế nên, trong Thiên Chúa, không sự thật nào, dù bẽ bàng, xấu xa đến đâu của tôi, của anh chị lại có thể bị Thiên Chúa xử dụng để lên án, thanh trừng, loại bỏ.

Khi nhắc bảo chúng ta: trong những ngày thử thách, “Hãy tỉnh thức ”, Đức Giêsu biết rõ: ta chỉ có thể tỉnh thức trong Sự Thật, vì dối trá sẽ làm u mê tim óc, gian manh sẽ làm tối tăm đôi mắt tâm hồn, chỉ Sự Thật mới giải phóng ta khỏi sai trái, lầm lạc và cho ta tỉnh thức khi Chúa đến. Bên cạnh là Tình Yêu, như bệ chắc chắn cho ta đứng vững trước mặt Con Người, bởi chỉ Tình Yêu mới là công trạng có giá trị trước mặt Chúa Cha; chỉ Tình Yêu mới có sức hấp dẫn trái tim Thiên Chúa là Tình Yêu; chỉ Tình yêu mới là tiêu chuẩn chọn lọc người lành, kẻ dữ trước Nhan Thánh, trong ngày chung thẩm; chỉ Tình Yêu mới làm Thiên Chúa nhớ đến ta, và chỉ Tình Yêu mới là dấu chỉ, huy hiệu ta thuộc về gia đình Thiên Chúa.

Vâng, Mùa Vọng khởi đầu bằng lời nhắc nhở: “Đường lối của Thiên Chúa  không phải đường lối của loài người”, để chúng ta bỏ đi thói quen  vẽ đường cho Chúa đi, ép Chúa làm những gì ta ưa thích, và trách móc Chúa khi lời cầu xin của ta không được toại nguyện, để thay vào đó lòng vâng phục đường lối của Thiên Chúa , bởi tự nó đã là hạnh phúc mang lại ơn cứu độ cho chúng ta.

Hành trình Mùa Vọng cũng bắt đầu bằng khởi điểm Sự Thật và Tình Yêu. Không bắt đầu bằng khởi điểm này, chúng ta không thể gặp được Thiên Chúa, dù Ngài đang ở giữa chúng ta, bởi một lý do rất đơn giản: Chính Thiên Chúa là Sư Thật và là Tình Yêu, nên ở ngoài Sự Thật, và Tình Yêu, chúng ta không có Thiên Chúa đồng hành trong cuộc đời.

Có Chúa là Sự Thật và Tình Yêu, chúng ta sẽ chẳng phải lo lắng trước bất cứ xáo trộn, tai hoạ nào, vì mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh vui, buồn, thành công, thất bại, chúng ta luôn được tỉnh thức với Chúa và đứng vững trước tôn nhan Ngài.

 

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG_C

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Với Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ là Năm C. Trong Mùa Vọng này, chúng ta sống lại tâm tình của dân Do thái xưa chờ đón Chúa đến. Nhưng khác với dân Do thái, chúng ta biết rằng Chúa đã đến rồi trong thân phận yếu hèn của kiếp người, hiện nay Ngài vẫn hằng đến với chúng ta mọi ngày cách mầu nhiệm và Ngài sẽ đến sau cùng với chúng ta trong vinh quang, gần nhất vào ngày mỗi người từ giả cuộc sống trần thế này, và xa hơn vào ngày Quang Lâm của Ngài. Vậy, Mùa Vọng vừa chuẩn bị chúng ta mừng kỷ niệm việc Chúa đến lần thứ nhất trong thân phận yếu hèn của kiếp người, vừa giúp chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang của Ngài.

Gr 33: 14-16

Bài Đọc I là sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã được một bàn tay vô danh sửa lại, hay nói đúng hơn, hiện tại hóa vào trong thời đại của mình, sau khi vương triều Đa-vít biến mất. Bản văn này chuyển niềm hy vọng Mê-si-a sang Giê-ru-sa-lem, thành đô của Thiên Chúa.

1Tx 3: 12-4: 2

Thánh Phao-lô khuyên các Ki-tô hữu Thê-xa-lô-ni-ca sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang bằng cách thực hành đức ái huynh đệ và thăng tiến trên con đường thánh thiện.

Lc 21: 25-28, 34-36

Tin Mừng được trích từ bài diễn từ của Đức Giê-su về ngày tận thế theo Tin Mừng Lu-ca. Đức Giê-su loan báo cuộc trở lại trong vinh quang của Ngài để khai mạc một thế giới mới; các tín hữu phải chờ đợi ngày này trong niềm tin tưởng chứa chan hy vọng.

BÀI ĐỌC I (Gr 33: 14-16)

Bản văn Gr 33: 14-16 nầy lập lại sấm ngôn của Giê-rê-mi-a ở 23: 5-6, tuy nhiên đoạn cuối đã được một nhà biên soạn vô danh sửa lại sau này: thay vì “Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn” (23: 6), thì lại “Trong những ngày ấy, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Giê-ru-sa-lem sẽ được an cư lập nghiệp” (33: 16). Việc sửa lại này dâng hiến một lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như tâm lý.

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố sứ điệp hy vọng này vào lúc triều đại Đa-vít biến mất trong một cơn phong ba bảo táp dữ dội và xem ra cuốn theo với triều đại này mọi lời hứa về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít.

  1. Bối cảnh lịch sử:

Bối cảnh lịch sử được định vị vào năm 597 trước Công Nguyên, khi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, xâm chiếm Giê-ru-sa-lem và bắt vua Giơ-hô-gia-khin, hậu duệ của vua Đa-vít, và các thân hào nhân sĩ đi lưu đày; đoạn, mười năm sau đó cướp sạch thành thánh và triệt hạ Đền Thờ.

Trước khi tai họa xảy đến cho đất nước, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã lãnh nhận một sứ mạng khó khăn là báo trước cho các vị lãnh đạo và các thân hào nhân sĩ những biến cố bi thảm này, nếu họ không chịu thay đổi cách ăn nếp ở, thực hành công chính và trung tín với Đức Chúa. Nhưng khi những nỗi gian truân bất ngờ xảy đến, ngôn sứ Giê-rê-mi-a, từ ngôn sứ loan báo những tai họa trở thành sứ giả loan báo niềm hy vọng, khẳng định rằng không có gì mất cả; những lời hứa của Thiên Chúa liên quan đến dòng dõi vua Đa-vít không bị hủy bỏ.

“Này, sẽ đến những ngày” (biểu thức này ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc, chắc chắn được mượn ở ngôn sứ A-mốt) Thiên Chúa sẽ cho mọc lên từ dòng dõi Đa-vít một “mầm non” (thuật ngữ này đã là một danh hiệu của Đấng Mê-si-a), Đấng này sẽ trị nước theo lẽ công minh chính trực. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a kết thúc sấm ngôn của mình khi trao tặng cho hậu duệ Đa-vít tương lai danh hiệu “Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta”, một trong những danh xưng biểu tượng mà các ngôn sứ thường sử dụng (từ “công chính”  được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh là sự thánh thiện của Thiên Chúa).

  1. Ý nghĩa của việc sửa lại.

Nhiều thế kỷ trôi qua, nền độc lập không được khôi phục và vương triều không được tái lập. Dân Thiên Chúa được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của họ và Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết. Vào lúc đó, sấm ngôn Giê-rê-mi-a được sửa lại. Vì thế ai xứng đáng đón nhận danh hiệu Mê-si-a “Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta” này, nếu không là Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa? Không phải từ nay Thành Thánh là nơi độc nhất mà các lời hứa cứu độ được ký thác sao?

Các nhà chuyên môn có thể ghi niên biểu của việc sửa đổi này vào hậu bán thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, vì bản dịch Hy lạp, bản Bảy Mươi, không biết đoạn văn này. Ấy vậy, bản dịch nầy được thực hiện ở A-lê-xan-ri-a vào những năm 285-246 trước Công Nguyên.

Việc sửa đổi này rất có ý nghĩa. Vào thời đó, dòng dõi Đa-vít bị mất hút vào trong tập thể. Vị thượng tế lãnh nhận lễ xức dầu tấn phong thế vị vua. Trào lưu Mê-si-a vương đế và trào lưu Mê-si-a tư tế được nhập thành một. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem là trung tâm độc nhất, dấu chỉ niềm hy vọng vĩnh hằng.

BÀI ĐỌC II (1Tx 3: 12-4: 2)

Thánh Phao-lô viết Thư thứ nhất gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vào đầu năm 51, tức khoảng hai mươi năm sau cái chết của Đức Giê-su. Đây là một văn kiện Tân Ước lâu đời nhất.

Thánh Phao-lô viết hai bức thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Trong cả hai bức thư, viễn cảnh về ngày Quang Lâm của Đức Giê-su là một trong những chủ đề chính, viễn cảnh nầy đem lại cho những lời khuyến dụ của thánh nhân một cung giọng khẩn thiết. Như vậy, đoạn trích thư này hòa hợp với hai bài đọc còn lại của Chúa Nhật I Mùa Vọng năm C này.

  1. Bối cảnh:

Thánh Phao-lô đã sáng lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào năm 50. Thê-xa-lô-ni-ca là thành phố thương mại miền duyên hãi, thủ phủ của miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai thuộc Châu Âu đón nhận sứ điệp Tin Mừng, sau thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê (1Tx 2: 2). Việc thánh Phao-lô rao giảng thành công đã khiến một nhóm người Do thái ghen tức, họ xúi dục một nhóm người chống đối thánh nhân dữ dội đến mức thánh nhân cùng với hai người bạn đồng hành là Xin-va-nô và Ti-mô-thê đang đêm phải vội vã trốn khỏi thành phố (Cv 17: 5-10). Thánh Phao-lô ra đi mang theo nỗi bận lòng của ngài vì phải rời bỏ một giáo đoàn mà ngài vừa mới thành lập mà đức tin của họ vẫn còn non yếu. Vì thế, khi thời thế thuận tiện, thánh nhân đã phái ông Ti-mô-thê viếng thăm giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca mà chính thánh nhân đã không thể. Khi trở về, ông Ti-mô-thê đem đến những thông tin đầy khích lệ: các tín hữu non trẻ vẫn “đứng vững trong Chúa” (Tx 3: 8), bất chấp những gian truân mà họ phải chịu. Lúc đó, thánh Phao-lô ở Cô-rin-tô, với niềm vui và tâm tình cảm tạ tri ân, viết một bức thư chan chứa ân tình, thư thứ nhất gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.

Thư này gồm hai phần. Đoạn trích hôm nay là một bản lề: chúng ta đọc đoạn kết của phần thứ nhất (3: 12-13) và đoạn mở của phần thứ hai (4: 1-2).

  1. Lời nguyện xin của thánh Phao-lô:

Phần thứ nhất kết thúc với lời nguyện xin của thánh Phao-lô (phần thứ hai cũng vậy). Qua những ngôn từ của lời nguyện xin này, thánh nhân nhắc các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nhớ nguyên tắc Ki-tô giáo tuyệt vời: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”. Trong giáo đoàn đa số là các Ki-tô hữu gốc lương dân, như mạch văn để cho thấy điều đó, nhưng chắc chắn cũng bao gồm những Ki-tô hữu gốc Do thái.

Trong Giáo Hội tiên khởi việc sống chung không là vấn đề, nhưng thánh nhân còn đi xa hơn: khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca không chỉ yêu thương nhau mà còn yêu thương hết mọi người, “ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”, lời khuyên này vào hoàn cảnh đó thật quan trọng, tức là các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca phải yêu mến những người bách hại mình, dù phải chịu nhiều nỗi gian truân. Để nâng đỡ và khích lệ họ, thánh nhân nhắc họ nhớ lại tấm lòng mà ngài có đối với họ: “cũng như tình thương của chúng tôi đối anh em vậy”.

Luật yêu thương là con đường thánh thiện, “không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người”.

  1. Ngày của Chúa:

Chúng ta ghi nhận rằng ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên này, Đức Giê-su được gọi là Chúa (Đức Chúa), danh xưng mà Cựu Ước dành riêng cho Thiên Chúa. Như vậy, các Ki tô hữu tiên khởi đã khẳng định Thần Tính của Đức Giê-su. “Ngày của Chúa” mà các ngôn sứ đã loan báo nay được dùng để chỉ “ngày Quang Lâm”, nghĩa là ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang cùng với “các thánh của Người”.

Các thánh này là ai? Theo truyền thống Do thái, nhất là truyền thống khải huyền, vào ngày chung thẩm, Đức Chúa được các thiên sứ đứng chầu chung quanh, thường được gọi “các thánh” (x. Dcr 14: 5). Các sách Tin Mừng vang dội lại truyền thống này: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Ngài, có tất cả các thiên sứ theo hầu” (Mt 25: 31). Tuy nhiên, thánh Phao-lô vừa mới gợi lên sự thánh thiện của các tín hữu, vì thế, không thể không nghĩ rằng thánh nhân liên kết sự hiện diện của những người được tuyển chọn với sự hiện diện của các thiên sứ.

  1. Trong ngày của Đức Giê-su:

Đoạn văn này chỉ trích dẫn lời mào đầu của phần thứ hai thư gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (4: 1-2). Trong lời mào đầu này, thánh Phao-lô khuyên bảo các tín hữu hãy kiên vững và thăng tiến trên con đường thánh thiện. Thánh nhân nhắc nhớ giáo huấn của ngài, khi xác định ngài đã truyền đạt cho họ những chỉ thị mà ngài “đã lấy quyền Chúa Giê-su”. Thánh nhân sẽ luôn luôn tự giới thiệu mình chỉ là người trung gian, sứ giả phàm nhân của lời Thiên Chúa.

Mặt khác, thật đáng chú ý là, ngay từ bản văn đầu tiên của thánh Phao-lô, xuất hiện biểu thức thường được lập đi lập lại dưới ngòi bút của thánh nhân, biểu thức then chốt phản ảnh hồn tông đồ cũng như cuộc sống nội tâm của thánh nhân: “Nhân danh Chúa Giê-su, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em”. Xa hơn một chút, thánh nhân lập lại đến hai lần “Nhân danh Chúa Giê-su” (5: 12, 18). Phải sống, hành động, suy nghĩ, cầu nguyện “nhân danh Chúa Ki-tô”. Đây là cách thức duy nhất “làm vui lòng Thiên Chúa”.

TIN MỪNG (Lc 21: 25-28, 34-36)

Năm Phụng Vụ khởi đầu và kết thúc trên viễn cảnh Đức Giê-su trở lại vào ngày tận thế để thiết lập Triều Đại của Ngài một cách vĩnh viễn và tôn vinh các thánh. Như vậy, vào Chúa Nhật trước, trong ngày lễ Chúa Giê-su Vua kết thúc năm Phụng Vụ theo chu kỳ Năm B, chúng ta đã cử hành vương quyền hoàn vũ của Đức Giê-su. Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng này theo chu kỳ là Năm C, chúng ta lấy lại sự gợi ý tương tự, nhưng trong viễn cảnh Giáng Sinh. Đức Giê-su đã trở thành phàm nhân và đã hội nhập vào trong cuộc sống nhân loại để hướng dẫn nhân loại đến vận mệnh siêu nhiên của Ngài; Ngài sẽ hoàn thành công trình của mình vào ngày Quang lâm. Tương ứng với việc Chúa đến lần thứ nhất trong sự yếu đuối và khiêm hạ của biến cố Bê-lem lại là việc Chúa đến lần thứ hai trong quyền năng và sự cao cả của việc “Con Người ngự đến”.

  1. Bối cảnh:

Cũng như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca đặt bài diễn từ về ngày Quang Lâm của Đức Giê-su vào lời giáo huấn sau cùng của Ngài ở Giê-ru-sa-lem, không bao lâu trước cuộc Thương Khó của Ngài. Chúng ta đọc phần cuối của bài diễn từ này.

Trong cả ba Tin Mừng nhất lãm, Chúa Giê-su công bố bài diễn từ này vào dịp Ngài rao giảng về sự sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21: 6). Viễn cảnh này làm xao xuyến các môn đệ đến độ các ông liên kết nó với viễn cảnh ngày tận thế. Về phần mình, thánh Lu-ca cẩn trọng ghi nhận giữa hai biến cố này có một thời kỳ trung gian, “thời kỳ dân ngoại” ở 22: 24 ngay trước đoạn trích này: “Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại”.

Theo thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, Đức Giê-su công bố diễn từ này trên núi Ô-liu, khi ngỏ lời với các môn đệ, hay chỉ một nhóm nhỏ, theo Mác-cô. Thánh Lu-ca định vị nó vào ở trung tâm Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi mà việc sụp đổ sắp xảy ra (thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ luôn luôn là trọng tâm của những viễn cảnh sách Tin Mừng Lu-ca). Bên kia các môn đệ, Đức Giê-su ngỏ lời với đám đông; như vậy thành thánh Giê-ru-sa-lem nghe công bố ngày Quang Lâm của Đấng mà nó sẵn sàng giết chết.

  1. Truyền Thống Kinh Thánh:

Trong Kinh Thánh, những điềm báo về việc Thiên Chúa can thiệp dứt khoát trong lịch sử, đề tài này xuất hiện rất sớm, chẳng hạn như Đức Chúa gieo rắc sự kinh hoàng tại đất Ai-cập trước khi giải phóng dân Ngài (Xh 7: 14-11: 8). Đức Giê-su loan báo ngày tận thế theo cùng tiến trình: “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc”, trong khi những người công chính “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”.

Những điềm trời thường được các ngôn sứ sử dụng để loan báo những án phạt của Thiên Chúa trên các dân ngoại áp bức dân Ít-ra-en, cũng như trên chính dân Chúa chọn khi dân bất trung như Is 13: 10: “Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc lên đã tối sầm, mặt trăng sẽ không còn tỏa sáng”.

Khởi đi từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, các sách khải huyền phóng đại những mô tả này bằng những cảnh tượng huyền hoặc được gợi hứng từ Phương Đông (điều này đã để lại dấu vết trên sách Khải Huyền của thánh Gioan). Thể loại văn chương này đưa vào trong Do thái giáo một trào lưu suy luận rộng lớn về “thế giới tương lai” và “kỷ nguyên cánh chung”. Vào thời Đức Giê-su, người ta rất quan tâm đến vấn đề này; chúng ta cũng có thể nói rằng vào lúc đó nhiều thế hệ đã sống trong niềm mong đợi ngày tận thế. Nhiều người Ki-tô hữu gốc Do thái sống trong niềm mong đợi ngày Quang Lâm của Đức Ki tô.

  1. Con Người ngự đến:

Thánh Lu-ca gợi lên những hình ảnh truyền thống và quy ước về những xáo động trên đất và biển như khúc dạo đầu “Ngày của Chúa”, vì những hình ảnh nầy diễn tả những vùng vẫy sau cùng của những quyền lực sự ác trước khi chúng bị tiêu diệt; nhưng thánh ký không chú tâm đến những hình ảnh này; ông ngỏ lời với quần chúng ít quen thuộc với thể loại văn chương khải huyền Do thái. Tất cả từ vựng này được sử dụng cốt nhấn mạnh quyền tối thượng của Đấng “ngự trong đám mây mà đến”.

Đức Giê-su đã loan báo nhiều lần rồi cho các môn đệ về cuộc trở lại đầy quyền năng và vinh quang của Ngài dưới danh hiệu Con Người; ở đây Ngài đặt danh hiệu này vào trong bối cảnh gốc của nó hầu như theo sát nguyên văn, thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13). Do đó, danh hiệu mà Đức Giê-su tự nhận cho mình được khám phá với tất cả trương độ ý nghĩa của nó. Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, Con Người là thủ lãnh “dân thánh của Đấng Tối Cao”. Với tư cách là Con Người, Đức Giê-su mang lấy vận mệnh nhân loại. Vinh quang của Ngài cũng sẽ là tôn vinh tất cả những ai đã tin vào Ngài.

  1. Bức tranh bộ đôi:

Thánh Lu-ca đặc biệt nhạy bén trước chiều kích con người về tấn thảm kịch sau cùng; thánh ký đặt hai bức tranh đối lập với nhau: bức tranh về quân vô đạo (chư dân) “sợ đến hồn xiêu phách lạc” và bức tranh về các tín hữu phát hiện giờ mình được cứu độ, giờ mình được giải thoát. Nói cách chính xác, nếu thánh ký không mô tả cuộc quy tụ của những người được tuyển chọn, thì những từ ngữ ông sử dụng có một âm vang rất ý nghĩa: “đứng thẳng”“ngẩng đầu lên”, diễn tả tư thế của những người được sống lại.

  1. Biến cố bất ngờ:

Đức Giê-su không bác bỏ những hình ảnh của văn chương khải huyền; nhưng Ngài đề nghị mô tả Triều Đại của Ngài theo một cách thức khác, khi dựa trên một truyền thống phổ biến: Ngày Quang Lâm của Ngài xảy đến bất ngờ không có dấu hiệu nào báo trước; nó thình lình giáng xuống địa cầu. Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su đã gợi lên viễn cảnh này rồi ở nơi các dụ ngôn kêu gọi sự tỉnh thức của Ngài: “Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng , vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12: 40) và ở nơi việc Ngài so sánh Triều Đại của Ngài với trận đại hồng thủy xảy đến bất ngờ: “Vì ánh chớp lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng là như vậy trong ngày của Người” (Lc 17: 20). Ở đây, Đức Giê-su sử dụng hình ảnh “chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu” mà ngôn sứ I-sai-a đã dùng: “Nào kinh hoàng, nào hố sâu, nào dò lưới đang chờ đợi ngươi, hỡi cư dân trái đất” (I s 24: 17). Khi căn dặn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô cũng theo truyền thống như vậy: “Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5: 2), điều nầy không loại trừ thời kỳ gian nan khốn khó sau cùng: “Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy” (2Pr 3: 10).

  1. Tỉnh thức và cầu nguyện:

Đức Giê-su đặt hai truyền thống này bên cạnh nhau: một truyền thống đặt dấu nhấn trên chiều kích hoàn vũ của biến cố, còn truyền thống kia – không loại trừ chiều kích hoàn vũ này – nhấn mạnh sự gặp gỡ thân tình của mỗi cá nhân với Chúa. Từ đó, Đức Giê-su mời gọi hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Thánh Lu-ca không bao giờ quên tầm quan trọng của việc cầu nguyện; thánh nhân là thánh ký thường hằng ghi nhận tầm quan trọng quan trọng của lời cầu nguyện trong cuộc đời của Đức Giê-su: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, đây là lời căn dặn sau cùng của Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài; Ngài sẽ lập lại vài giờ sau này ở vườn Ô-liu…

 

.

CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG_C.

.

 

.

 

HÃY TỈNH THỨC

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Mùa Vọng đã về. Nói đến Mùa Vọng, chúng ta nghĩ ngay đến những điệu nhạc du dương, những trang hoàng lộng lẫy, những kiểu mẫu đầu tóc, quần áo sành điệu. Lời Chúa hôm nay lại nhấn mạnh đến sự tỉnh thức, như một điều kiện cốt lõi của đời sống Đức tin. Một số người ngày nay thường thích nói công thức thuộc lòng: ngày lễ Giáng Sinh không còn của riêng của người Công giáo, nhưng của cả xã hội. Công thức này hàm chứa một quan niệm lệch lạc, đó là coi ngày kỷ niệm Chúa giáng trần như một lễ hội truyền thống mà quên đi chiều kích thiêng liêng và sứ điệp của việc Chúa đến trần gian. Bởi lẽ Hài Nhi Giêsu đã làm người từ hơn hai ngàn năm nay để cứu nhân độ thế và để mời gọi con người hãy tỉnh thức để lắng nghe và thực hiện giáo huấn của Người.

Trước hết, chúng ta cần tỉnh thức để nhận ra Chúa đang đến trong đời mình: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa”. Mỗi ngày, Chúa đang đến để gặp gỡ chúng ta. Đức Thánh Cha Benêđitô đã định nghĩa: Đức tin là cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa. Nhờ Đức tin, chúng ta được gặp Ngài, có thể nói chuyện với Ngài, thân thưa với Ngài biết bao chuyện vui buồn của cuộc sống. Nhờ gắn bó với Chúa, cuộc đời chúng ta thuộc trọn về Ngài, “Dầu mắt ngủ nhưng lòng vẫn thức, vẫn tin yêu một mực chân tình” (Thánh thi Kinh tối). Chúa hiện diện qua vẻ đẹp huy hoàng của vũ trụ, qua cha mẹ và những người bạn tốt biết lắng nghe và đồng cảm với chúng ta. Chúa còn hiện diện cách đặc biệt qua Lời Chúa và Thánh Thể. Mỗi khi suy niệm và thinh lặng tôn thờ, chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện của Ngài. Có Chúa trong đời, chúng ta không còn cô đơn. Nghe lời Chúa, chúng ta không sợ lầm lạc. Tín thác nơi Chúa, chúng ta không sợ thất vọng. Trong xã hội hôm nay, dường như Lời Chúa bị bóp nghẹt bởi biết bao thứ âm thanh hỗn tạp của đam mê quay cuồng. Chúng ta cần tỉnh thức và dành một chốn riêng tư trong tâm hồn, nhờ đó chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời.

Sống trong cuộc đời, chúng ta cũng cần tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ thời đại. “Bấy giờ, thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng ngự trong đám mây mà đến”. Công đồng Vatican II đã chỉ rõ: “Để chu toàn phận vụ ấy (bổn phận phục vụ con người), Giáo Hội phải luôn tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại và giải thích những dấu chỉ ấy dưới ánh sáng của Tin Mừng; như vậy, Giáo Hội mới có thể đưa ra câu giải đáp thích hợp với từng thế hệ cho những thắc mắc muôn thuở của con người, về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai sau, cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy. Do đó, cần phải nhận biết và thấu hiểu thế giới chúng ta đang sống, cũng như những mong chờ, những khát vọng và cả tính chất thường là bi thảm của nó” (MV 4). Mỗi ngày, xung quanh chúng ta, có biết bao sự việc xảy đến, Đức tin và Lời Chúa mách bảo chúng ta, hãy nhìn nhận những vụ việc ấy như những dấu chỉ của thời đại, tức là mỗi sự kiện xảy đến đều kèm theo một sứ điệp, như lời cảnh báo chúng ta hãy thận trọng và khôn ngoan, hoặc hãy tin tưởng phó thác nơi Chúa quan phòng. Nếu biết “giải mã” các dấu chỉ thời đại, chúng ta sẽ nhận ra thánh ý của Chúa để thực hành, và như thế, chúng ta tìm được sự bình an.

Sau cùng, chúng ta cũng cần tỉnh thức để nhận ra mọi người đều là anh chị em: Mỗi người sống trên đời không phải là một ốc đảo cô đơn, nhưng sống cùng và sống với mọi người trong cộng đồng xã hội. Hơn nữa, là tín hữu, chúng ta còn có sự bao bọc nâng đỡ của cộng đoàn Giáo Hội địa phương. Đức tin khẳng định, họ cùng là anh chị em với chúng ta, và cùng là con của Cha trên trời. “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy”. Tình yêu thương là nền tảng của mọi cộng đoàn Đức tin, là điều kiện cốt lõi để công cuộc truyền giáo có hiệu quả. Lễ Giáng Sinh sẽ trở nên vô nghĩa nếu được cử hành với tâm trạng thù oán chia rẽ. Chúa Hài Nhi sẽ không ngự đến nơi những tâm hồn ích kỷ khép kín hoặc chứa đầy tham vọng. Giuse, Maria, những mục đồng, đó là những có tấm lòng rộng mở để đón Chúa đến trong đời.

“Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta”. Đây là danh xưng của Chúa, vừa là một mơ ước về một cuộc sống tương lai, khi con người sống hài hòa với nhau, không còn chia rẽ, không còn hận thù, nhưng chỉ còn sự công chính của Chúa bao trùm vũ trụ và toàn thể nhân loại.

 

.

BIẾT ĐỂ SỐNG

Lm. Jos. DĐH

Sống ở đời, dám chắc ai cũng đã nghe câu tục ngữ : không thầy đố mày làm nên; rồi khi có danh có phận, đâu phải tất cả đều biết sống chữ tình chữ nghĩa ! Thông thường, người ta lấy “cái biết” của mình để làm cần câu cơm, tiếp đến là tích cóp, sau nữa là hưởng thụ…, với muôn vàn lý do : khôn chết, dại chết, biết mới sống. Thực ra thì phân biệt phải trái, biết đẹp biết xấu, không khó, nhưng để áp dụng “cái biết” của mình mà sống tốt, sống có ý nghĩa, đó mới là vấn đề cần hơn cả.

Kinh nghiệm ở đời, về phương diện nào cũng vậy, nếu ta chuẩn bị kỹ, xác xuất thành công càng nhiều, gian truân cực nhọc càng lớn, niềm vui thành quả càng giá trị. Quy luật tự nhiên cũng cho thấy, cái gì có khởi đầu, sẽ có kết thúc. Vạn vật đều theo quy luật chung, có sinh ắt có tử. Nếu có sự dữ, có những điềm lạ xuất hiện làm ta sợ hãi, âu cũng là do ta đã sống sai lệch với tự nhiên, khiến tâm hồn ta bất an. Nếu chúng ta có công mài sắt, sẽ có ngày nên kim; nếu có phấn đấu, kiên nhẫn đợi chờ, có sống thủy chung, sẽ thấy giá trị thật của tình yêu.

Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay nói đến những xáo trộn xảy ra trên bầu trời, trong vũ trụ, vào ngày sau hết; mà khủng khiếp hơn là xáo trộn xảy ra trong lòng người : lo lắng, hoang mang, sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc… Khi hé mở những điều phải xảy đến như thế, Chúa muốn nói tới thời gian và lịch sử ơn cứu độ, nhất định phải đi đến hoàn tất. Ngày tận cùng của kiếp người, ngày chung cuộc của thế giới hữu hình sẽ khép lại. Quy luật của thời tiết, vòng xoay thời khắc, già lão bệnh tử, khiếp sợ pha lẫn vui mừng, nhất định ai cũng phải đối diện.

Có khởi đầu, có kết thúc, có gieo có gặt…, đó là quy luật, cũng là công bằng do mỗi người đã đầu tư, chờ ngày nhận lãnh kết quả. Biết Thiên Chúa yêu thương, ban yêu thương, con người phải mở lòng đón nhận và chia sẻ yêu thương. Biết Thiên Chúa ban ơn cứu độ, con người phải khôn ngoan lãnh nhận và sống giá trị của tình yêu cứu độ. Chúa Giêsu cho biết đến giờ Ngài sẽ đến trong uy nghi và quyền năng cao cả, lúc đó những ai đã chuẩn bị chờ đón, đã sống niềm tin yêu, mới có thể ngẩng cao đầu vì ơn cứu độ đã hoàn tất.

Thự tế vẫn minh chứng rằng : có tỉnh mới biết mình không say, có cay đắng nhiều, mới hiểu giá trị của thủy chung là gì ! Bao lâu Chúa Kitô chưa trở lại, bầu trời và vũ trụ vẫn hoạt động bình thường, con người còn cơ hội để sống, gọi là sống bổn phận, sống chờ đợi, sống chứng nhân cho tình yêu Đức Kitô. Đó cũng là là lời căn dặn của Chúa Giêsu, đừng lo lắng sự đời, đừng để lòng trí nặng nề, chè chén say sưa, rồi lúc ấy chỉ có sợ hãi mà không có vui mừng vì ơn cứu độ đã đến.

Trong xã hội vẫn có những lý luận vui vui nhưng đáng để ta suy nghĩ : khi say mới biết ta yêu ai, khi tỉnh mới biết ai yêu mình. Khi đứng lên bạn bè sẽ biết ta là ai, khi ngã xuống ta sẽ biết ai là bạn là bè. Trong đạo làm người cũng vậy, dù đẹp tám vạn nghìn tư, mà chẳng có nết cũng hư một đờiDù có khấn phật cầu trời, lễ bái khắp nơi, nhưng quên ngày giỗ tổ, cũng là vô ích. Với người Kitô hữu cũng thế, dù hàng ngày, có tận dụng thời giờ để làm kinh tế, để đạt được mơ ước giầu sang phú quý, mà không hề biết sống tinh thần đợi chờ Chúa đến, thật là vô nghĩa !

Làm cách nào để chúng ta có thể “ngẩng đầu lên và đứng thẳng chờ ngày Chúa đến” ? Đã hẳn là người Kitô hữu ai cũng được nhắc nhớ : tỉnh thức cầu nguyện, nhưng cái biết phải có thực hành, cái biết phải được thể hiện bằng niềm tin yêu chân thật mới đủ ý nghĩa. Con người giới hạn, có nhiều lý do để quên sót, nhưng chân lý không hề thay đổi, dù do hoàn cảnh có thể làm lu mờ. Sinh lão bệnh tử là có thật nơi vạn vật, Thiên Chúa công bằng nên có thưởng có phạt. Thế giới vũ trụ này có khởi đầu, phải có kết thúc, tin Thiên Chúa là tình yêu, phải có ngày diện kiến tình yêu của Thiên Chúa.

Người xưa có câu : không có quyển sách nào hay đối với người dốt, chẳng có tác phẩm nào dở đối với người khôn. Dù cao không tới, thấp không thông, nhất định chúng ta vẫn phải là người may mắn, người khôn ngoan, vì đã từng được nghe, từng phân biệt được tốt xấu, điều nên làm và không nên làm. Nếu chúng ta hiểu được ý nghĩa của người xưa răn dạy : một trăm cái lý, không bằng một tí cái tình, hẳn không có điều gì làm ta phải sợ hãi, khi mà ta đang áp dụng tình yêu thương của Chúa vào từng ngày sống của ta.

Ngày tận thế bao giờ sẽ đến, không ai biết rõ ràng, nhưng mùa vọng của đời người không phải vì thế mà dư thừa đối với những ai muốn làm thần dân của Chúa. Chúa không hứa hẹn giầu sang, Chúa tôn trọng tự do và lòng mến của mỗi người, nhưng Chúa nói : “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể đứng vững trước mặt Con Người”. Biết thân phận con người là bất toàn nay còn mai mất, biết quy luật của già lão bệnh tử, do đó ai cũng cần phải khôn ngoan trong tình yêu Chúa, biết yêu và biết sống thật, mãi mãi là chân lý ở đời này và đời sau. Amen.

 

.

 

SỐNG TỈNH THỨC

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có ba xác chết đều có bộ mặt đang mỉm cười được đặt tại Trung tâm điều tra hình sự. Ông quản lý đang trả lời nhà báo về nguyên nhân của những cái chết.
– Đây là ông A. Ông ta chết ngay sau khi biết tin mình trúng xổ số 10 tờ độc đắc.
Ông ta bước đến xác thứ hai:
– Đây là Bo. Ông ta chết khi nghe tin toà án cho ly dị vợ mà không phải chia gia sản được hưởng toàn bộ.
Đến cái xác thứ ba:
– Đây là Tom. Ông ta chết vì bị sét đánh.
– Hai người trước thì có thể hiểu được nụ cười, còn ông này cười cái gì?
– Ồ, ông này say rượu, khi thấy tia sáng của sét đánh xuống mà ông ta cứ ngỡ mình đang được chụp hình nên vẫn cứ cười !
Chết có muôn ngàn kiểu. Vui quá cũng chết. Buồn quá cũng chết. Không hẳn già mới chết mà có khi mới sinh cũng chết. Không hẳn bệnh mới chết mà có khi đang khỏe mạnh cũng lăn ra chết. Chết cũng không quy định nơi chốn. Có người chết ở nhà và cũng có người chết đang đi đường. Có người đang nằm viện nhưng cũng có người đang trên công trường. Nơi chốn và cách thức chết xem ra chẳng có một quy định nào dành cho con người.
Thế nhưng, có một điều chung cho con người là ai cũng phải chết. Cái chết là quy luật tất yếu của đời người. Sinh – lão – bệnh – tử. Có người còn cho rằng con người sinh ra để tiến về cái chết. Mỗi một ngày sống là tiến về cái chết gần hơn.
Hôm nay, Chúa Giê-su còn nói đến ngày cánh chung của toàn thể nhân loại và vũ trụ. Vũ trụ có khởi đầu thì cũng có ngày kết thúc. Sự sống con người tồn tại trong vũ trụ cũng kết thúc cùng với ngày cánh chung của vũ trụ. Ngày ấy sẽ đến với những dấu chỉ kinh thiên động địa. Ngày ấy sẽ san bằng mọi công trình do con người làm ra. Ngày ấy sẽ san bằng mọi giai cấp, chủng tộc. Ngày ấy là sự kết thúc cuộc sống hữu hình để bước qua một trang sử mới trong sự sống siêu nhiên. Con người sẽ bước qua một cuộc sống thần linh. Sự sống của linh hồn bất diệt. Sự sống đời đời ấy với hai thái cực. Một là sống lại để hưởng hạnh phúc đời đời bên Chúa. Hai là sống lại để bị trầm luân hỏa ngục đời đời.
Song le, thưởng hay phạt đều tùy thuộc vào cách sống của chúng ta hôm nay. Chúng ta biết đi con đường hẹp, con đường hy sinh từ bỏ những niềm vui bất chính, những thú vui tội lỗi để sống có trách nhiệm với bổn phận thì đời sau sẽ là thiên đàng, là hạnh phúc viên mãn. Ngược lại, sẽ chịu hình phạt đời đời khi ta cố tình sống buông thả tội lỗi, sống thiếu trách nhiệm và gây đau khổ cho tha nhân.
Thế nên, hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời mà hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hãy sống công chính trước mặt Chúa. Sống trong ơn nghĩa của Ngài. Sống trung thành với giáo huấn của Ngài. Sống tự chủ bản thân mình đừng chiều theo tính xác thịt mà làm trái với luân thường đạo lý.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức thân phận mỏng dòn của mình để trông cậy vào ơn Chúa. Xin cho chúng ta đừng bao giờ sa ngã trong những đam mê tội lỗi nhưng luôn sống trong ơn nghĩa Chúa. Amen.

 

.

KHỞI ĐẦU CỦA LÒNG XÓT THƯƠNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Chiều hôm đó, cô bé cãi nhau với mẹ, rồi không mang gì theo, cô đùng đùng ra khỏi nhà. Trong lúc đang lang thang trên đường phố, cô mới nhớ ra rằng mình chẳng có đồng bạc nào trong túi, thậm chí không có đủ mấy xu để gọi điện về nhà. Cùng lúc đó, cô đi qua một quán mì, mùi thơm bốc lên ngào ngạt làm cô cảm thấy đói ngấu. Cô thèm một tô mì lắm nhưng lại không có tiền !

Người bán mì thấy cô đứng tần ngần trước quầy hàng bèn hỏi :

– Này cô bé, cháu có muốn ăn không ?

– Nhưng… nhưng cháu không mang theo tiền.

– Cháu cứ vào đây ! Vào đây, tôi làm cho cháu một dĩa mì.

Mấy phút sau, ông chủ quán bưng tới cho cô một dĩa mì xào thập cẩm bốc khói. Ngồi ăn được mấy miếng, cô bé bật khóc.

– Có chuyện gì vậy ? – ông ta hỏi.

– Sao bác xào đĩa mì này giống như mẹ cháu xào thế ? – Cô bé nghẹn ngào.

Ông chủ trả lời :

– Mẹ cháu đã đến đây và dặn bác làm cho cháu dĩa mì xào là món ăn mà cháu thích nhất. Mẹ cháu sợ rằng cháu không thích các món khác.

Thưa quý OBACE, mẹ là thế và Thiên Chúa cũng giống như vậy ! Ngài có giận thì chỉ giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.

Hôm nay bước vào mùa Vọng là bước vào một mùa xót thương mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta là con của Ngài. Thiên Chúa giống như người cha, người mẹ, mặc dù con người đã cố tình bỏ nhà ra đi, từ chối tình yêu của Thiên Chúa, nhưng Ngài không thể bỏ con người, Ngài vẫn tìm mọi cách để cứu giúp con người. Thời gian mùa Vọng là thời gian Thiên Chúa mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn để đón nhận quà tặng yêu thương mà Thiên Chúa ban. Quà tặng ấy chính là Đức Giêsu, là Ngôi Hai Thiên Chúa và là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa được ban cho nhân loại. Ngài đến để đem bình an và giải thoát, đem yêu thương và tha thứ cho nhân loại.

Trong lúc tội lỗi trói buộc con người, làm cho con người mất tự do và hạnh phúc, thì Thiên Chúa đã đem lại cho con người hy vọng. Khi dân Israel đang chịu cảnh nô lệ lưu đày ở Babylon, họ đang chịu một cuộc sống nhục nhã về tinh thần, mệt mỏi về thể xác thì lời hứa của Thiên Chúa qua tiên tri Giêrêmia đã là nguồn an ủi nâng đỡ họ. Dân Israel đã nhận ra rằng, chính vì họ chống lại Thiên Chúa nên Thiên Chúa đã để họ rơi vào cảnh mất nước nhà tan, phải lưu đày nô lệ cho dân ngoại ; vì họ bỏ bê việc thờ phượng Thiên Chúa nên Thiên Chúa đã để cho đền thờ bị phá huỷ, dân chúng bị tản mác, bao hy vọng về một vương quốc Israel phồn thịnh nay đã tiêu tan. Trong hoàn cảnh đó, tiên tri Giêrêmia đã đem lại cho Israel niềm hy vọng qua lời tiên báo : Trong những ngày ấy, Ta sẽ cho mọc lên một chồi non, một Đấng Công Chính sẽ nối nghiệp Đavít…Ngày ấy, Giuđa sẽ được giải thoát, Giêrusalem sẽ được an vui. Lời tiên báo này đã khơi lên niềm hy vọng và nuôi dưỡng đời sống đức tin của dân Israel.

Ngày xưa, sau bao năm tháng đợi chờ, Thiên Chúa đã đến, đã đem lại cho con người một cuộc sống mới, giải thoát nhân loại khỏi nô lệ của ma quỷ và tội lỗi, ban cho con người được tự do. Hôm nay, bước vào mùa Vọng, Lời Chúa hướng chúng ta đến cuộc trở lại của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ trở lại, đó là lời hứa và là niềm tin chắc chắn của chúng ta.

Vũ trụ này sẽ không là vĩnh viễn, nhưng sẽ được biến đổi vào ngày Thiên Chúa trở lại. Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu đã nói về ngày Ngài trở lại để hoàn tất mọi sự và biến đổi mọi loài. Ngài sẽ cho những dấu hiệu báo trước trong vũ trụ thiên nhiên : sẽ có điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng ; dưới đất, mọi người sẽ lo lắng, hoang mang. Trước những sự kiện đó, sẽ có những thái độ, phản ứng khác nhau. Đối với những người không có niềm tin hoặc không chuẩn bị sẵn sàng thì ngày đó là ngày kinh hoàng sợ hãi ; với những người đặt hết hy vọng và cuộc đời nơi trần gian, thì ngày đó là ngày mất mát và tuyệt vọng. Còn đối với những người đã chuẩn bị sẵn sàng thì ngày Chúa trở lại là ngày vui mừng hân hoan, là ngày gặp gỡ Thiên Chúa trong tình cha con, ngày mọi người đón nhận lòng Chúa xót thương. Khi đã chuẩn bị sẵn sàng thì ngày Chúa đến : Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu chuộc anh em đã đến.

Tuy nhiên, để có thể đứng thẳng và ngẩng cao đầu, mỗi người không được để mình bị ràng buộc bởi thế gian nữa, nhưng phải hoàn thoàn thuộc về Thiên Chúa. Để được như thế, Tin Mừng cũng chỉ cho chúng ta : Anh em hãy đề phòng, đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa bởi lo lắng sự đời. Ngày đó sẽ như chiếc lưới bất ngờ chụp xuống trên đầu anh em. Để khỏi rơi vào tình trạng hoảng loạn bất ngờ, Chúa cảnh giác mỗi người hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể đứng vững trước mặt Con Người.

Thiên Chúa không đến để tàn sát, trừng phạt con người, nhưng để xót thương và cứu chữa. Tình yêu thương của Thiên Chúa chỉ có thể đổ tràn trên những tâm hồn khiêm nhường và biết xót thương, vì chỉ nhưng tâm hồn biết xót thương thì mới có thể mở lòng ra trước Thiên Chúa và trước anh em. Đó là điều Thánh Phaolô đã cảm nghiệm và chia sẻ với cộng đoàn Thesalônica : Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết… Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm.

Thưa các bạn, giống như cô bé trong câu chuyện trên, đã nhiều lần chúng ta cũng cự cãi lại Thiên Chúa mà không nhận ra tình yêu thương của Ngài. Nhiều lần chúng ta đã bỏ Chúa để ra đi, nhưng Thiên Chúa vẫn dõi theo và lo liệu, chăm sóc cho chúng ta. Chỉ có con người có thể chối bỏ Thiên Chúa, còn Thiên Chúa như người mẹ, không bao giờ từ chối đứa con của mình, dù đứa con ấy có ngỗ nghịch.

Tin vào tình yêu để mỗi người cảm nhận được sự hiện diện và bàn tay yêu thương của Thiên Chúa vẫn hằng chăm sóc chúng ta. Tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa để mỗi người không mặc cảm về tình trạng tội lỗi của mình, nhưng mạnh dạn quay trở về, đến với Chúa để cầu xin sự khoan dung tha thứ. Tin vào tình yêu còn là động lực, là sức mạnh giúp chúng ta điều chỉnh lại cuộc sống cho phù hợp với ý Chúa, xứng đáng là người con Chúa.

Thiên Chúa không bao giờ dập tắt hy vọng của con người. Ngài luôn mở ra cho con người con đường sống và hy vọng. Ngài đã hứa và đã thực hiện việc trao tặng cho nhân loại Người Con Duy Nhất của Ngài là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng, hy vọng được sống, được đổi mới, được hạnh phúc đời đời. Vì thế, chúng ta cũng đừng bao giờ vùi dập niềm hy vọng của anh em. Một khi cảm nhận được tình yêu của Chúa, đón nhận được sự xót thương của Chúa, chúng ta được mời gọi đem lòng thương xót của Chúa đến cho anh em.

Hãy đứng thẳng và ngẩng cao đầu vì ơn cứu độ đã đến. Đó là thái độ Chúa mời gọi mỗi người. Đứng thẳng để không luồn cúi trước bất cứ một sức mạnh hoặc quyền lực nào của ma quỷ, thế gian. Ngẩng đầu để sống công minh chính trực, không quanh co, không gian dối. Đứng thẳng và ngẩng cao đầu là sống thành thực với lương tâm, với chính mình và với mọi người. Ngày hôm nay, nhiều người đã chấp nhận lối sống luồn cúi, chấp nhận cúi đầu, im lặng trước sự sai trái vì một chút danh vọng, quyền lợi. Sống như thế sẽ không xứng đáng với Thiên Chúa là Đấng công minh chính trực.

Chuẩn bị đón Chúa đến, mỗi chúng ta được mời gọi để lòng mình không bị nặng nề bởi những thú vui đam mê, những mời chào và lôi cuốn của xã hội hôm nay, bởi quá lo lắng tìm kiếm của cải danh vọng trần gian mà quên việc tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức và cầu nguyện mãi vẫn là phương thế tốt nhất để mỗi người chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đời của mình. Chỉ khi trong tình trạng tỉnh thức và cầu nguyện, thì giờ Chúa đến, chúng ta mới có thể đứng thẳng và ngẩng cao đầu đón Chúa được.

Xin Chúa cho mỗi chúng ta cảm nhận và luôn tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa để mạnh dạn bước đến với Chúa để xin ơn tha thứ, để tâm hồn tìm lại được bình an và niềm vui trong Mùa Giáng Sinh sắp tới. Amen.

 

.

TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN

Lm. G.B. Trần Văn Hào

Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn trọc đợi chồng đi xa trở về. Đôi tình nhân đợi chờ giây phút hẹn hò bên nhau với bao rạo rực xao xuyến. Những bạn công nhân tha phương vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày tháng qua mau để mong ngày tết đến về quê xum họp, gặp lại anh em hay bạn bè xưa cũ. Có những cuộc chờ đợi với bao xốn xang rộn rã, ngược lại cũng có những phút giây đợi chờ trong tuyệt vọng và chán chường. Dầu sao, bất cứ sự đợi chờ nào cũng làm cho thời gian như chùng lại, từng giờ từng khắc qua đi tựa như cả một thế kỷ dài đằng đẵng. Tất cả đều lệ thuộc vào tâm trạng và thái độ của những kẻ đợi chờ.

Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và mong đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.

Chờ đợi Đấng sẽ đến

Hạn từ Adventus (mùa vọng) mang chở ý nghĩa này. Người tín hữu chúng ta đang mong chờ, nhưng không phải chờ đón một biến cố hay một sự kiện sẽ đến. Chúng ta chờ đợi một con người. Con người đó là chính Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người và cũng là Đấng Cứu thế. Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm. Ngài cũng đang đến trong từng biến cố của cuộc sống đời thường chúng ta. Đồng thời Ngài sẽ đến, sẽ trở lại trong ngày chung thẩm để phán xử vũ trụ, khóa sổ trời cũ đất cũ và khai mở một trời mới và đất mới. Trong Tông huấn ‘Tiến về Thiên niên kỷ thứ ba’ (Tertio Milennio Adveniente), Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã diễn tả cuộc lữ hành đức tin của chúng ta như một mùa vọng lớn. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội khơi dậy cảm thức đức tin và thắp lên niềm hy vọng khi mời gọi chúng ta tuyên tín: “ Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là đối tượng của đức tin, cũng là điểm quy chiếu của đức cậy giúp chúng ta canh tân mỗi ngày niềm hy vọng của những lữ khách trên con đường tiến về quê hương. Chúng ta vẫn hằng ngày cầu xin Chúa ban bình an, gìn giữ chúng ta khỏi vương tội lỗi, được an toàn giữa những biến loạn, đang khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy Giáo hội lữ hành hôm nay đóng vai một tân nương chờ đón đức lang quân của mình. Trong suốt mùa vọng, Giáo hội mượn lời kết trong sách khải huyền để dạy chúng ta thưa lên với Chúa tâm tình cầu nguyện: “ Maranatha, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến”.

Chờ đợi trong hy vọng

Trên thế giới ngày nay hiện có hai khối người đang sống cùng một niềm hy vọng chờ đợi, đó là tín hữu Do thái và các Kitô hữu. Người Do thái vẫn mong chờ Đấng Messia như lời các ngôn sứ đã loan báo đặc biệt dựa vào sách tiên tri Isaia, nhưng họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Còn đối với Kitô hữu chúng ta, Đức Giêsu Kitô chính là Đấng đã đến trần gian để quy tập dân Irael tản mác từ khắp bốn phương và khai lập một vương quốc mới, vương quốc của thời thiên sai. Ngài đã đến thực hiện kế hoạch cứu độ, và ơn cứu độ này sẽ đạt đến viên mãn trong ngày Người trở lại lần thứ hai để khóa sổ vũ trụ. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta tái hiện tâm thức hy vọng trong chờ đợi. Niềm hy vọng chính là chìa khóa then chốt để chúng ta sống tinh thần của mùa phụng vụ này.

Một triết gia đã nói: Một tôn giáo không đem lại cho ta niềm hy vọng, không phải là một tôn giáo đáng để chúng ta tin theo. Đúng như thế, không có hy vọng, chúng ta sẽ bị nhấn chìm trong bóng tối của sự chết và hủy diệt. Một con người có thể sống mà chưa có tình yêu, nhưng không ai có thể tồn tại nếu không hy vọng mình sẽ biết yêu và sẽ được yêu. Trong những năm tháng tù ngục, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết cuốn sách tựa đề ‘Con đường hy vọng’ để diễn tả cuộc hành trình đức tin trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời Ngài. ‘Vui mừng và hy vọng’ cũng chính là khẩu hiệu Ngài chọn khi được tấn phong Giám mục. Niềm hy vọng Ngài nói đến không phải là một mơ ước hão huyền hay mông lung, nhưng đó là một trong ba nhân đức đối thần : Tin Cậy Mến, quy chiếu vào chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Mỗi khi có dịp cử hành Thánh lễ một cách lén lút trong căn phòng chật chội và tối tăm của nhà tù, Ngài vẫn khơi lại nơi mình niềm hy vọng, đặc biệt khi cầm Mình Thánh Chúa trên đôi tay chai sạn với chiếc áo tù sờn cũ. Ánh sáng hy vọng đó là sức mạnh sâu xa, giúp Ngài vượt qua những ngày tháng đen tối nhất.

Cha Teilhard Chardin, một linh mục dòng Tên cũng đã viết: “ Ngóng đợi là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô hữu, và là nét nổi bật nhất để hiển thị đức tin. Người Kitô hữu luôn phải sống trong sự đợi chờ với niềm tin và hy vọng”. Thái độ chờ đợi của người tín hữu không phải là sự mỏi mòn trong tuyệt vọng giống như một tên tử tội khiếp sợ đợi chờ giây phút bị đem đi hành quyết. Nhưng chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của một cô dâu chờ đón chú rể đến giữa đêm khuya để tiến vào phòng cưới, tham dự ‘Tiệc Cưới Chiên Con’ cùng với Đấng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn trong vinh thắng.

Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng

Đây là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta. Trong phần kết luận của bài Tin mừng, sau khi tiên báo về ngày chung thẩm, Chúa Giêsu nhắc nhở : “ Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn hầu có thể đứng vững trước mặt Con Người”. Đồng thời Chúa cũng khuyến mời chúng ta đừng ngủ mê trên chè chén say sưa hay những lo toan trần thế. Lý do Chúa đưa ra, vì ‘anh em sắp được cứu chuộc’. Ơn cứu chuộc được dàn trải trên tất cả mọi người và Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết để khai mở nguồn mạch cứu độ bất tận ấy. Nhưng hồng ân cứu độ chỉ thực sự hoàn tất khi Chúa đến lần thứ hai khai mở trời mới đất mới và thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài. Vì vậy không chỉ trong mùa vọng kéo dài bốn tuần lễ, nhưng trong suốt cả mùa vọng lớn là trọn cuộc hành trình lữ thứ trần thế, chúng ta luôn phải sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng.

Cách đây hơn 20 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ :“ Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao nhiêu năm nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi”. Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết. Thánh Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là ‘ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý, nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu đã nói “ Anh em không biết ngày nào giờ nào con Người sẽ đến.” ( Mt 24, 24 )

Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ : “ Thôi để mai hãy tính”. Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc lời Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “ Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” ( Lc 21, 34 ). Những gì làm được hôm nay đừng để đến ngày mai.

Kết luận

Thánh Phanxico Salêsiô đã viết “ Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời vĩnh cửu là lúc chúng ta sẽ chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa vọng, một mùa vọng nhỏ trong một mùa vọng khác lớn hơn. Mùa vọng là thời gian chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa và mong đợi Ngài đến. Chúa sẽ đến để đem ta đi vào vĩnh cửu trong sự hiệp thông và gắn kết trọn vẹn với Ngài. Nhưng, ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Trời mới và đất mới của ngày mai đang bắt đầu với cuộc sống hiện sinh của chúng ta tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta sống làm sao thì sẽ chết như thế. Chúng ta hãy sống theo lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay: “ Hãy sống thánh thiện, không gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa là Chúa chúng ta trong ngày Đức Giêsu quang lâm cùng với các thánh của Người” (1Thes 3, 13 ).

 

.

NIỀM MONG ĐỢI

Trầm Thiên Thu

Mùa Vọng lại về, khởi đầu một Năm Phụng Vụ mới. Mùa Xuân Phụng Vụ không nhộn nhịp cũng chẳng rực rỡ sắc màu như Tết Nguyên Đán hoặc các dịp lễ hội khác.

Mùa Xuân Phụng Vụ có vẻ lặng lẽ và thâm trầm trong sắc tím, nhưng lại không là màu buồn ảm đạm. Sắc tím biểu hiện sự chung thủy, hy vọng trong khoảng mong chờ – đặc biệt là mong chờ Con Thiên Chúa đến cứu độ nhân gian, giải thoát khỏi mọi thứ đau khổ, mọi bất công, áp bức, bóc lột,… nhất là cứu chúng ta thoát khỏi sự kềm kẹp của ma quỷ, ách tội lỗi.

Trong tâm tình ngưỡng vọng Đấng Thiên Sai, chúng ta vững tâm tín thác và cùng với ngôn sứ Isaia (Is 45:8 – Thánh ca Rorate Cœli hoặc Rorate Cæli) chân thành dâng lời cầu nguyện:

Tri cao hi, hãy gieo sương

Xin mây mưa xung đc công chính Người

Ny mm cu đ, đơi!

Đ cho chính trc đng thi vươn lên

Triết gia Jean Jacque Rousseau (1712-1778, Pháp quốc) bộc bạch: “Tôi đã đau khquá nhi thế gii này đ hy vng mt thế gii khác”. Còn sử gia Thomas Fuller (1608-1661, Anh quốc) đưa ra một hệ lụy tất yếu: “Nếu không nh có hy vng, trái tim s tan v. Niềm hy vọng thực sự quan trọng trong cả cuộc sống thường và cuộc sống tâm linh – đặc biệt là cuộc đời Kitô hữu.

Hy vọng là Đức Cậy, một trong ba nhân đức đối thần (Tin, Cậy, Mến). Có tin tưởng mới hy vọng, có hy vọng mới mong chờ – tức là luôn kiên tâm vững chí hướng về tương lai. Mong chờ thì phải tỉnh thức, nghĩa là khôn ngoan, nếu mong chờ mà không tỉnh thức thì chỉ là khờ dại (x. Mt 25:1-13). Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức, luôn “dầu, đèn” sẵn sàng, một lòng kiên tâm mong đợi Đức Giêsu Kitô.

Có câu chuyện ngụ ngôn thế này…

Trong một căn phòng, không gian tĩnh lặng tới mức người ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của những ngọn nến. Cây nến thứ nhất than vãn: “Tôi là biu tượng cBình An và Hoà Thun. Thế nhưng thi nay, nhng cái đó tht chênh vênh, chông chênh. Thế gii hiếm khi không có gươđao, súng đn, tranh chp, cãi c,… gia người vi người – thm chí v chng, anh em trong mt nhà”. Thế rồi ngọn nến leo lét, ngọn lửa mờ dần, mờ dần,… cho tới khi ánh sáng lụi tắt hoàn toàn.

Ngọn nến thứ hai vừa lắc đầu vừa kể lể: “Tôi là Nim Tin. Thế nhưng trong thế gii này hình như tôi tr nên tha thãi, như mt th xa x. Biết bao k sng theo thi không cn ti nim tin”. Nói rồi ngọn nến từ từ tắt, tỏa ra một làn khói trắng luyến tiếc.

Ngọn nến thứ ba than phiền: “Tôi là Tình Yêu, nhưng tôi không còđ sc đ ta sáng na. Người ta gt tôi ra mt bên và không thèm hiu giá tr ca tôi. C nhìn thế gii mà xem, không thiếu nhng k quên luôn c tình yêu đi vi chính nhng người rut tht ca mình”. Dứt lời, ngọn nến vụt tắt.

Căn phòng trở nên tối tăm. Chỉ còn một ngọn nến nằm ở góc xa vẫn tiếp tục phát ra ánh sáng, như ngôi sao đơn độc giữa đêm tối âm u. Bất chợt, một cô bé bước vào phòng. Thấy ba ngọn nến đã tắt, cô bé thốt lên: “Ti sao các bn không cháy na? Cuc sng này luôn cn các bn. Hòa Bình, Nim Tin và Tình Yêu phi luôn ta sáng ch!”.

Riêng cây nến thứ tư vẫn lặng lẽ cháy trong góc phòng khe khẽ đáp lời cô gái: “Đng lo! Tôi là Hy Vng. Nếu tôi còn cháy, mc dù ngn la rt mong manh, chúng ta vn có th thp sáng li Hòa Bình, Nim Tin và Tình Yêu”. Mắt cô bé sáng lên. Cô bé dùng cây nến Hy Vọng để thắp sáng lại các cây nến khác.

Niềm Hy Vọng rất quan trọng. Nếu trái tim luôn cháy lên “ngọn lửa hy vọng”, dù chỉ leo lét và âm ỉ, chúng ta sẽ tìm lại được những điều tốt đẹp khác cho cuộc sống: Tình Yêu, Niềm Tin và Bình An. Một danh nhân cũng đã nhận định: “Thà thp sáng lên mt ngn la, còn hơn ngi nguyn ra bóng ti”. Ngọn lửa đó là Hy Vọng.

Chúng ta là các Kitô hữu, chính xác phải nói là tín hữu Công giáo, chúng ta luôn sống trong hy vọng và mong chờ Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, cả cuộc đời Kitô hữu là miệt mài sống Mùa Vọng liên lỉ và kéo dài, từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời. Thật vậy, Chúa Cha đã hứa ban Con Một cho nhân loại, và chính Người Con ấy đã thực sự đến, hiện hữu trong xác phàm, nên giống chúng ta mọi thứ – ngoại trừ tội lỗi, đồng lao cộng khổ với chúng ta. Người Con ấy là Đức Giêsu Kitô, là Thiên-Chúa-Con-Người với thần tính và nhân tính. Trước khi về trời, Chúa Giêsu lại hứa sẽ đến đón chúng ta, để Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó (Ga 14:3).

Điều gì Chúa hứa thì luôn nên trọn, gọi là ứng nghiệm. Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta biết về “định chế cho tương lai” qua sấm ngôn của Đức Chúa: “Này, sđến nhng ngày Ta s thc hin điu tt lành Ta đã phán v nhà Ít-ra-en và v Giu-đa” (Gr 33:14). Ngày đó như thế nào? Ngôn sứ Giêrêmia cho biết: “Trong nhng ngày y, vào thi đó, Ta s cho mc lên mt mm non, mt Đng Công Chính đni nghip Đa-vít; Người s tr nước theo l công bình chính trc. Trong nhng ngày y, Giu-đa s được cu thoát, Giêrusalem s an cư lc nghip. Đây là tên người ta s đt cho thành: Đc Chúa là-s-công-chính-ca-chúng-ta!” (Gr 33:15-16).

Thiên Chúa là Nguồn Chân Lý và Công Lý, tất nhiên Ngài toàn thiện, và cũng chmt mình Ngài nhân lành (Mc 10:18; Lc 18:19). Tác giả Thánh Vịnh ộc bạch qua lời tuyên xưng: “Ly Chúa, đường no Ngài, xin dy cho con biết, li đi ca Ngài, xin ch bo con. Xin dn con đi theo đường chân lý ca Ngài và bo ban dy d, vì chính Ngài là Thiên Chúa cu đ con. Sm hôm con nhng cy trông Ngài, bi vì Ngài nhân ái” (Tv 25:4-5). Và đó cũng là điều khấn nguyện mà mỗi chúng ta đều phải biết cầu xin không ngừng.

Chúa Giêsu mà chúng ta khao khát và mong đợi chính là Đấng Em-ma-nu-en, là Đấng Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Lc 1 :23). Ngài đến không chỉ làm gương cho chúng ta noi theo, mà Ngài còn hướng dẫn và giáo huấn chúng ta biết cách đến với Chúa Cha, biết con đường về trời: “Chúa là Đng nhân t chính trc, ch li cho ti nhân, dn k nghèo hèn đi theo đường công chính, dy cho biết đường li ca Người. Tt c đường li Chúa đu là yêu thương và thành tín đi vi nhng k nào gi giao ước và l lut Chúa” (Tv 25:8-10). Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cha nào, con ny”. Chúa Giêsu là Con của Đấng Nhân Lành Giàu Lòng Thương Xót nên Ngài cũng giống như Chúa Cha. Tác giả Thánh Vịnh nói rõ: “Chúa x thân tình vi nhng ai kính s Chúa và cho h biết giao ước ca Người” (Tv 25:14). Câu tục ngữ kia cũng khả dĩ áp dụng cho đời sống tâm linh, nghĩa là chúng ta cũng phải có máu-thương-xót như Chúa Cha và Chúa Con.

Thật vậy, Thánh Phaolô đã cầu chúc: “Xin Chúa cho tình thương ca anh em đi vi nhau và đi vi mi người ngày càng thêm đm đà thm thiết, cũng như tình thương ca chúng tôi đi vi anh em vy. Như thế, Chúa s cho anh em được bn tâm vng chí, được tr nên thánh thin, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đc Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng vi các thánh ca Người” (1 Tx 3:12-13). Chúa Giêsu cũng chỉ mong chúng ta biết sống như vậy mà thôi, vì yêu người là yêu Chúa, là giữ trọn lề luật (Rm 13:8; Rm 13:10).

Với tâm trạng chờ đợi, Thánh Phaolô nhắn nhủ thêm, đồng thời cũng là mệnh lệnh: “Thưa anh em, anh em đã được chúng tôi dy phi sng thế nào cho đp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sng như thế; vy nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nh anh em hãy tn ti nhiu hơn na. Hn anh em rõ chúng tôi đã ly quyn Chúa Giêsu mà ra nhng ch th nào cho anh em” (1 Tx 4:1-2).

Mùa Vọng là dịp mong chờ Chúa Giêsu giáng sinh, ngày Con Thiên Chúa mặc xác phàm và là dịp Ngài đến thế gian lần thứ nhất. Nhưng quan trọng hơn, Mùa Vọng là dịp nhắc nhở chúng ta mong chờ ngày Con Thiên Chúa đến thế gian lần thứ hai, tức là ngày Chúa Giêsu Kitô quang lâm, cũng gọi là Ngày Tận Thế, Ngày Cánh Chung, hoặc Ngày Chung Thẩm.

Trong khi chờ đợi, người ta phải tích cực hành động cụ thể chứ không thể thụ động theo “chủ nghĩa” MaKeNo (mặc kệ nó), ra sao thì biết vậy. Chuẩn bị càng tốt thì kết quả càng mãn nguyện, không chuẩn bị thì có hối cũng không kịp. Nước đến chân mới nhảy thì sẽ bị nước cuốn trôi.

Trình thuật Lc 21:25-28 (tương đương Mt 24:29-31 và Mc 13:24-27) cho chúng ta biết những điềm lạ trên trời và dưới đất ngay trước khi Con Người quang lâm: “Scó nhng đim l trên mt tri, mt trăng và các vì sao. Dưới đt, muôn dân s lo lng hoang mang trước cnh bin gào sóng thét. Người ta s đến hn xiêu phách lc, ch nhng gì sp giáng xung đa cu, vì các quyn lc trên tri s b lay chuyn. By gi thiên h s thy Con Người đy quyn năng và vinh quang ngtrong đám mây mà đến. Khi nhng biến c y bt đu xy ra, anh em hãy đng thng và ngng đu lên, vì anh em sp được cu chuc”.

Cảnh tượng chắc chắn rất khủng khiếp, bây giờ chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Quang cảnh dữ tợn như núi lửa, sóng thần, động đất, bão lụt, các vụ khủng bố – như vụ tòa tháp đôi WTC (World Trade Center) ở Hoa Kỳ ngày 11-9-2001 hoặc vụ khủng bố tại Pháp hồi đầu tháng 11-2015 – cũng chỉ là “chuyện nhỏ” mà thôi.

Tất cả đều bất ngờ, không thể kịp phản ứng bất cứ một động thái nào, dù là động thái nhỏ nhất. Và rồi ai cũng kinh ngạc và hốt hoảng. Vì thế, chúng ta “phải tỉnh thức và cầu nguyện” không ngừng, như Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Vy anh em phi đ phòng, ch đ lòng mình ra nng n vì chè chén say sưa, lo lng s đi, kNgày y như mt chiếc lưới bt thn chp xung đu anh em, vì Ngày y sp xung trên mi dân cư khp mt đt. Vy anh em hãy tnh thc và cu nguyn luôn, hu đ sc thoát khi mi điu sp xy đến và đng vng trước mt Con Người” (Lc 21:34-36).

Chúa Giêsu nói ngắn gọn nhưng rõ ràng. Chắc chắn Ngày Ấy vô cùng khủng khiếp, đến nỗi người ta “hồn xiêu phách lạc” kia mà. Người nào có “lì lợm” tới mức nào cũng phải rung động và kinh ngạc. Do đó, hãy luôn van xin Thiên Chúa: “Xin đ tình thương xung chúng con, ly Chúa, như chúng con hng trông cy nơi Ngài (Tv 33:22).

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết khao khát Đng Thiên Sai, biết mong ch và chun b tâm hn bng cách tnh thc và cu nguyn liên l, đng thi thhin rõ nét Tôn Nhan Thương Xót ca Ngài. Xin Mưa Giêsu gi mát và ty ra trn gian đ mi người biết thương xót ln nhau, nh đó mà không còn nhng k xu tìm cách khng b người khác. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng ban hòa bình cho nhân loi. Amen.

 

.

TỈNH THỨC BƯỚC VÀO THẾ GIỚI MỚI

Baptista, Xitô Phước Thiên

Như một năm mới của trời đất có các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, thì một năm Phụng Vụ cũng có các mùa: Vọng, Giáng Sinh, Chay, Phục Sinh, Thường Niên. Hôm nay Giáo Hội bước vào một năm Phụng Vụ mới, bắt đầu bằng Mùa Vọng. Hai tiếng “Mùa Vọng” cũng đã phần nào cho ta thấy ý nghĩa của Mùa này: mùa hy vọng, mùa trông đợi, mùa chờ mong. “Mùa Vọng có hai đặc tính: vừa là mùa chuẩn bị lễ trọng Giáng Sinh, trong lễ này kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người; vừa là mùa qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế” (AC 39). Theo ý nghĩa này của Mùa Vọng, các bài đọc của những ngày đầu Mùa Vọng hướng về ngày Chúa Kitô đến lần thứ hai. Vì thế, các bài đọc hôm nay được Giáo Hội chọn đọc nhằm nhắc nhở ta những lời khuyên dạy của Chúa là hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng (Lc 21,34.36) để đón chào Chúa đến lần thứ hai.

Đức Chúa đã nói: “Đã đến ngày Ta sẽ thực hiện điều tốt lành ta đã phán về nhà Israel và Giuđa” (Gr 33,14). Lời ấy có nghĩa là trước đây Thiên Chúa đã có lời hứa với Giuđa và Israel về một Tin Mừng trọng đại. Lời hứa ấy đã đi vào thời gian, và tiên tri Giêrêmia báo cho ta biết, lời hứa ấy đã dừng lại và thành hiện thực. Giờ cứu độ đã điểm, và Đấng Cứu Thế đã đến. Ngài chính là Đấng Công Chính (Gr 33,15), bởi từ sau ngày vấp ngã, Cây Công Chính đã chết trong lòng con người. Người ta không còn biết quý hóa những giá trị của sự chân thành, bởi vì đã bị sự giả dối và vẻ phù du bên ngoài chiếm đoạt. Sự thẳng thắn bị coi là dại khờ và sự quắt quéo, vòng vo, biến dạng được đánh gía là khôn ngoan. Nền công lý đã bị nhân loại đưa đám từ lâu! Lẽ công bằng trở thành lố bịch, láo nháo, cháo như cơm, không biết thế nào là công lý, thế nào là bất công!

Đấng Công Chính xuất hiện để bắt mọi người ra hầu tòa. Những phiên tòa được dựng nên, không phải ở tòa án, mà ở ngay tại cung lòng mỗi người. Ánh sáng từ Đấng Công Chính sẽ soi dọi và những nguyên lý thứ bậc được xác định, để qua đó, con người hiểu được mình thuộc loại tội phạm nào. Những người bị áp bức, sẽ được cứu thoát; nền công lý sẽ được tái lập, và mọi người sẽ gọi Ngài là “Đức Chúa là sự Công Chính của chúng ta” (Gr 33,16). Những việc tái lập trật tự chưa phải là mục đích cuối cùng của Đấng Cứu Thế. Bởi một nền trật tự do chỉ bởi công lý, sẽ thành một trật tự khô cứng, lạnh tanh, gợi lại những song sắt nhà tù.

Đức Chúa là Thiên Chúa của sự sống và tình yêu. Ý muốn của Ngài là tất cả mọi sự, cũng phải được ướp hương trong tình yêu. Bởi vậy, như trong bài đọc II, thư thánh Phaolô gửi cho giáo đoàn Thessalonica, thánh Phaolô đã cầu xin Chúa ban cho các tín hữu Thessalonica, và cả chúng ta được một tình thương đậm đà thắm thiết với nhau. Đối xử với nhau bằng tình thương đậm đà thắm thiết cũng là cách sống tỉnh thức chuẩn bị cho ngày Đức Giêsu quang lâm (1Tx 3,12).

Và để chờ đón giây phút cảm động, trọng đại ấy, thánh Luca ghi lại những tư thế chuẩn bị khẩn cấp mà mỗi người phải có. Cái tư thế hệ trọng, trong thời điểm này là phải tỉnh thức (Lc 21,34.36). Tỉnh thức là mở mắt giữ gìn, đừng để lòng mình chìm sâu vào đam mê. Đam mê là một vùng đất lún, bề mặt của nó thì mềm dịu và êm chân nhưng càng bước sâu, bước mạnh, càng ngập sâu thân xác. Bởi vậy tỉnh thức là đừng để cho những cái tạm thời, trần tục chi phối, làm lu mờ tâm trí, làm quên chủ đích chính của cuộc đời. Trái lại, phải sử dụng những cái đời tạm này để chiếm được đời sống vĩnh cửu.

Một cách thiết thực để tỉnh thức là cầu nguyện (Lc 21,36). Có tỉnh thức cầu nguyện, ta mới khao khát Chúa đến. Khi Chúa đến, ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Lúc ấy ta mới gặp được Chúa, cùng đi vào thế giới mới với Ngài. Đồng thời ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ, trong ngày hôm nay, và đặc biệt trong ngày lễ Giáng Sinh. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới đầy tuyệt vời và không tàn lụi.

 

.

HÃY TỈNH THỨC VÌ KHÔNG NGỜ

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Ai cũng biết ngọn núi lửa Sainte Hélène ở tiểu bang Washington. Ngày Chúa nhật 18 tháng 5 năm 1980, có một nhà địa chất học còn trẻ tên là David Johnston, với 30 bạn tổ chức cắm trại cách quả núi 8 cây số. Lúc ấy là 8 giờ 31 phút sáng Chúa nhật, bỗng dưng một tiếng nổ vang trời động địa, mạnh bằng 500 quả bon nguyên tử nổ cùng một lúc. Các thành phố chung quanh bị chôn vùi dưới trận mưa tro. Johnston co giò chạy, nhưng một dòng sông lửa đã chận đường anh, chôn vùi anh và các bạn anh dưới nấm mồ tro hừng cháy (x. Lm Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm A, tr 4).

Hôm nay, chúng ta khởi đầu năm phụng vụ mới, chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Mùa Vọng, để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh. Một đại lễ đánh dấu kỷ niệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người lần thứ nhất cách đây hơn 2000 năm, tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đấy, mà Giáo Hội muốn chúng ta đi xa hơn nữa để đón chờ Chúa đến lần thứ hai trong ngày quang lâm, ngày tận cùng của cuộc đời ta. Đây là điểm trọng tâm của Mùa Vọng.

Trước tiên, Mùa Vọng là mùa đợi trông và hy vọng: không phải đợi trông trong lo âu sợ sệt, mà là đợi trông trong niềm vui, hy vọng và hân hoan: “Giờ phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến”; bởi vì: “Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực” (Gr 33,14-16). Chúng ta còn mong đợi Chúa đến như một người con mong mỏi cha mình đi xa về, và, như mục tử đến với đoàn chiên: Tôi đến “để cho người ta được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Thứ đến, Mùa Vọng còn là mùa chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang như kinh tiền tụng II đã tuyên xưng: Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến. Nhưng Chúa đến giờ nào, ngày nào, chúng ta không biết, vì thế, trông đợi chính là tỉnh thức: “Ngày của Chúa sẽ đến bất ngờ, như kẻ trộm lúc đêm khuya” ( 1Tx 5, 2); ” Hãy tỉnh thức, vì Con Người sẽ đến phán xét chúng ta vào giờ chúng ta không ngờ” (Lc 12,40). Vì thế mà ngôn sứ Isaia đã phải thốt lên: “Lạy Chúa con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa, cắt đứt ngay hàng chỉ…” (Is 38,21b). Tính bất định của sự sống đã được Tin Mừng nêu rõ khi Chúa Giêsu lấy hình ảnh lụt hồng thủy để nói về sự bất ngờ này: thiên hạ cứ vui chơi nhảy múa, chè chén say sưa, dựng vợ, gả chồng, cho đến khi nước lụt nhận chìm tất cả, chỉ trừ gia đình ông Nôe được cứu thoát. Hay như hai người đàn ông đang đi làm, một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được đem đi, còn người kia bị để lại. Hoặc như người phú hộ, ông có nhiều ruộng nương và hoa lợi, đến nỗi ông quyết định xây nhiều kho mới, lớn hơn. Sau đó, ông ăn chơi, tiêu xài cho đã, nhưng cuối cùng ở tận đỉnh cao của vinh hoa phú qúy, người giàu có ấy phải lìa bỏ đời này và phải để lại tất cả. Như vậy: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến.” Biết được điều đó để ta luôn sẵn sàng.

Tiếp theo, Mùa Vọng là mùa “chờ đợi” và hành động, vì “chờ đợi”, không phải là ngồi để mà đợi mà mong, nhưng chờ đợi ở đây là phải cầu nguyện. Lời Cầu nguyện được ví như dầu của đèn, đèn sáng được là nhờ có dầu bên trong. “Đèn tâm hồn chúng ta” phải là “đèn bừng sáng” vì có “dầu cầu nguyện”, tức là chúng ta phải luôn cầu nguyện và sẵn sàng chờ đón Chúa, để khi “chàng rể” đến, chúng ta đang trong tinh thần tỉnh thức và tư thế hân hoan đón Người.

Cuối cùng, sống tinh thần Mùa Vọng là sống theo tinh thần của thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay đã khuyên nhủ các tín hữu: anh em hãy ăn ở làm sao cho tốt, cho xứng đáng, hãy đối xử với nhau ngày càng thêm đậm đà thắm thiết. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người (x. 1 Tx 3,12-13). Và, trên hết mọi sự, chúng ta hãy hân hoan đón chờ ngày ấy như một niềm hãnh diện, mặc cho mọi gian nan thử thách: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.” (Lc 21,28).

Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức, cầu nguyện và mong chờ ngày Chúa quang lâm:

Không ăn chơi đàn điếm,

Nhưng cầu nguyện mong chờ.

Không lẳng lơ chè chén,

Nhưng chu toàn bổn phận.

Không danh vọng, dục tình,

Nhưng sớm lễ chiều kinh.

Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa cho chúng con luôn ở gần bên Chúa trong tinh thần cầu nguyện, để lắng nghe được tiếng Chúa vang vọng trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn sống đẹp lòng Chúa và sống chan hòa với anh chị em, ước gì ngày Chúa đến, chúng con luôn đứng thẳng và ngẩng cao đầu, đón mừng ơn cứu độ Chúa thương ban. Amen.

 

.

CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG_C

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta đi vào năm phụng vụ mới, gọi là năm C.  Các bài Tin mừng Chúa nhật trong năm phụng vụ mới này sẽ trích từ Tin mừng của thánh Lu-ca.  Mùa phụng vụ mới bắt đầu bằng Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng.  Mùa Vọng là mùa của ngóng trông, đợi chờ và sửa soạn cho Ngày Chúa đến lần thứ hai.

Không như người vợ trên núi Hòn Vọng Phu chờ đợi đến hóa đá, theo như một bài hát ngày xưa diễn tả, vì chinh phu ra chiến trường không bao giờ trở về, chúng ta chờ đợi những gì chắc chắn sẽ xảy ra, vì đó là điều Thiên Chúa báo trước cho chúng ta biết.  Người vợ chờ đợi không làm gì cả, thụ động, cho nên mới hóa đá, còn chúng ta chuẩn bị tích cực bằng những việc làm đạo đức, bác ái, chờ đợi bằng cầu nguyện, chú tâm lắng nghe và sống Lời Chúa hơn, và cố gắng thăng tiến đời sống tinh thần cá nhân, gia đình và cộng đoàn, bằng cách tham gia tuần tĩnh tâm bắt đầu từ chiều Thứ Năm tuần này.

Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị mừng ngày Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, giáng sinh lần thứ nhất cách đây hơn 2015 năm, để rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa, và thi hành sứ vụ cứu độ nhân loại.  Mùa Vọng cũng là thời gian chờ đợi ngày Chúa đến lần thứ hai mà chúng ta không biết lúc nào và giờ nào, để phán xét người lành, người dữ và thưởng hay phạt.

Đối với những người không có đức tin, đây là thời gian mua sắm, trang hoàng và ăn chơi, party nhậu nhẹt, hay chú trọng đến tiền bạc, vật chất, và những thú vui khác.  Nhưng giữa những sự lôi cuốn của cuộc sống này, người Ki-tô hữu chúng ta phải chú tâm đến đời sống tinh thần cá nhân và gia đình, để ngày mừng Giáng sinh Chúa đến, chúng ta có một tâm tình thích hợp, và cảm nhận được ý nghĩa sâu sa hơn của ơn cứu độ.  Chúa Giê-su khuyên chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời.” Nhiều người chúng ta nghĩ rằng đã nghe nhiều về Mùa Vọng, đã mừng nhiều Giáng sinh, cho nên không cần hay không muốn nghe lời kêu mời, hay không cần chuẩn bị.  Tâm hồn họ trở nên chai đá, đã hóa đá.

Ông bà anh chị em thân mến.  Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cho chúng ta 1 cái nhìn ngược giòng lịch sử cứu độ, để giúp chúng ta thấy cách thức chờ đợi, và qua đó, chúng ta tìm ra những gì cần thiết và quan trọng phải làm, để chuẩn bị trong khi chúng ta chờ đợi.

Trong bài đọc 2, thánh Phaolô viết bức thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxa-lônica trong viễn cảnh Chúa sẽ đến lần thứ hai.  Vì nghĩ rằng Chúa sắp đến, nên các tín hữu Thêxalônica sống buông thả, lười biếng. Từ đó sinh ra nhiều tệ nạn, thói xấu khác và tội lỗi.  Thánh Phaolô cảnh báo cho họ và tất cả chúng ta hôm nay biết, đó không phải là thái độ đúng đắn, không phải là tinh thần đích thực, và cũng không phải là đời sống tốt lành. Ngài khuyên họ phải có cuộc sống bồi dưỡng bằng tình yêu thương hiệp nhất trong Chúa Ki-tô. Ngài nói “Xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến.”

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúng ta đang sống trong một quốc gia văn minh, giàu có và tự do nhất trên thế giới, và chúng ta cũng đang có một cuộc sống đầy đủ về mặt vật chất, nhưng nếu chúng ta thành thật nhìn vào đời sống, chúng ta vẫn cảm thấy có những âu lo, sợ hãi và đau khổ vì bệnh tật, vì công ăn việc làm, vì tội ác, khủng bố, hay vì hoàn cảnh cá nhân và gia đình, cũng như không biết điều gì sẽ xảy ra trong tương lai.  Nhìn tới tương lai, mọi người chúng ta, ai mà không khỏi lo lắng hoang mang vì bao khó khăn và thử thách đang sẵn chờ.  Nhưng Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta hãy vui mừng và hy vọng, vì tương lai chỉ tối tăm mờ mịt, đầy lo âu khi vắng bóng Thiên Chúa và lời Chúa.  Còn đối với những người để Thiên Chúa và lời của Ngài dẫn dắt đời mình, hay sống thánh ý lời Chúa thì tương lai sẽ ngày càng tốt đẹp hơn, có sự bình an và ơn sủng của Chúa.

Ngôn sứ Giêrêmia sống trong thời điểm tối tăm, và chứng kiến những trang lịch sử đau buồn nhất của đất nước Do thái.  Vào thời điểm đó, dân Chúa bất trung với Chúa, dựa vào đó, quân thù tìm cách xâm lăng vây hãm Giêrusalem,  sau đó bị mất nước và bị bắt đi lưu đày.  Là sứ giả của Lời Chúa trong bối cảnh như thế, Giêrêmia can đảm gióng lên những lời nói chói tai, khó nghe để nêu lên đời sống tội lỗi của dân mình, và tha thiết kêu gọi họ sám hối. Nhưng họ bịt tai, từ chối không nghe.  Tâm hồn họ đã ra chai đá, đã hóa đá.  Nhưng khi dân đang sống trong cảnh khổ cực lưu đày, ngôn sứ khuyên bảo họ vững tin và hy vọng, báo cho dân biết rằng cảnh lưu đày sẽ không kéo dài lâu, và vì yêu thương và nhân từ, Thiên Chúa sẽ gởi đến Một Ðấng cứu thoát họ.

Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu khẳng định cho chúng ta biết về Ngày Ngài sẽ trở lại lần thứ hai để phán xét và thưởng phạt.  Tùy vào đức tin, sự khôn ngoan và chuẩn bị, con người chúng ta sẽ có thái độ khác nhau về Ngày đó.  Nếu một người không chuẩn bị, có tâm hồn chai đá, họ sẽ sợ hãi kinh hồn vì phải đối diện với sự phán xét và hình phạt của Thiên Chúa, nhưng nếu một người đã chuẩn bị và sống theo những lời Chúa Giê-su Kitô dạy, thì họ sẽ vui mừng vì đó là Ngày họ được lãnh nhận ơn cứu độ, và hạnh phúc Nước Trời.

Ông bà anh chị em thân mến. Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế, đến với nhân loại lần thứ nhất trong cảnh đơn sơ, khó nghèo và khiêm nhường.  Ngài đang đến với chúng ta hôm nay trong những người nghèo khổ, trong việc cầu nguyện và Bí tích Thánh Thể mà chúng ta chỉ cảm nghiệm được bằng đức tin.  Nhưng Chúa đến với chúng ta ngày mai, hay trong tương lai sẽ huy hoàng, và chắc chắn điều đó sẽ xảy ra, không thể sai lệnh, như Chúa báo trước, nhưng có thể sẽ là điều kinh hoàng cho nhiều người, hay những người có tâm hồn chai đá, hóa đá,  như lời Chúa nói trong bài Tin mừng “Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ.”

Trong cuộc sống, chúng ta thường tự ý đánh mất nhiều cơ hội, nhiều thời gian thực hiện những việc cần thiết và quan trọng cho đời sống đức tin cá nhân, hay những việc làm cho gia đình được thêm yêu thương, hạnh phúc và hòa thuận như 1 lời nói, cử chỉ yêu thương, hay 1 lời nói tha thứ hay xin lỗi, mà chúng ta muốn làm và phải làm, nhất là khi chúng ta còn thực hiện được, còn làm được.  Xin Chúa lấy lửa tình yêu, đốt những tâm hồn chai đá, để giúp chúng ta biết mở rộng tâm hồn lắng nghe lời Chúa kêu gọi, và giúp tất cả chúng ta có một Mùa Vọng tốt lành, thánh thiện, để làm một việc gì hữu ích cho đời sống đức tin cá nhân và cho gia đình, để sửa soạn, chuẩn bị mừng ngày Chúa đến.  Và xin kêu gọi mọi người hy sinh thời giờ tham dự tuần tĩnh tâm, bắt đầu vào Chiều Thứ Năm tuần này, xin đọc tờ Tin mừng.

 

.

SẴN SÀNG TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN

AM Trần Bình An

Cô bé Sahatorn Matheryn Naovaratpong, 2 tuổi tại Mỹ hiện đang trở thành bệnh nhân nhỏ tuổi nhất thế giới trải qua giấc ngủ đông với hy vọng một ngày nào đó sẽ tỉnh lại. Quyết định của gia đình khi để bé Matheryn Noavaratpong tách biệt hoàn toàn với các thiết bị hỗ trợ y tế chính thức thực hiện từ đầu năm nay, sau khi cô bé tử vong vì ung thư não.

Cô bé lần đầu tiên được chẩn đoán bệnh khi bố mẹ bé, cả hai đều là bác sĩ, đã vội vàng đưa con đến bệnh viện Bangkok lúc bé bắt đầu hôn mê vào năm ngoái. Các bác sĩ đã phát hiện một khối u não 11 cm và tiến hành phẫu thuật loại bỏ một nửa khối u này. Sau ca phẫu thuật, bố mẹ bé gái nhận được thông báo cơ hội con gái họ tỉnh dậy sau hôn mê là rất thấp. Tuy nhiên, cha cô bé đã đưa ra ý tưởng giúp Sahatorn Naovaratpong sớm tỉnh lại. Ông cho biết, “Chúng tôi sẽ chiến đấu để chống lại căn bệnh ung thư này.” Những tháng tiếp theo, cô bé đã phải trải qua một số ca phẫu thuật khiến não trái của bé bị teo đến 80%. Dù phải trải qua một cuộc chiến rất khó khăn, tuy nhiên những tế bào ung thư cuối cùng vẫn lan ra toàn bộ não của Matheryn.“Chúng tôi nhận ra rằng cuộc chiến đã kết thúc,” bố cô bé nói.

Trước đó, gia đình cũng đã liên lạc với tổ chức Alcor Life Extension Foundation, một trong những tổ chức lớn nhất chuyên sử dụng kỹ thuật ‘đông lạnh’ để làm con người bất tử. Giám đốc Tổ chức, ông Aaron Drake, cũng cho biết họ chấp thuận thực hiện kỹ thuật làm đông trên bệnh nhân Matheryn.

“Mọi người đều hy vọng cô bé 2 tuổi đã cạn kiệt sức lực này sẽ có nhiều khả năng sống sót hơn, khi thực hiện liệu pháp này”, giám đốc cho biết. “Tuy nhiên thật không may, hơi thở của cô càng yếu đi nhanh hơn so với dự đoán của bác sĩ. Vì vậy, hai ngày trước khi đưa sang Mỹ, cô bé tiếp tục phải sử dụng máy thở nhằm loại trừ khả năng xấu nhất có thể xảy ra đối với hãng du lịch hàng không”. Điều này buộc nhóm nhân viên y tế thực hiện truyền dịch cryoprotective cho Matheryn ở Thái Lan trước khi chuyển cơ thể cô bé về Mỹ.

Ông Drake cho biết não của Matheryn đã được tách chiết và bảo quản bằng thép không gỉ, cách nhiệt chân không chứa nitơ lỏng. Thi thể của bé sẽ được duy trì bằng chất cryofreeze cho đến tìm được một phương pháp điều trị mới phù hợp. Điều này cũng đồng nghĩa với việc phải chờ đợi để có cách thức khiến cô bé có thể hồi sinh. “Chắc chắn sẽ phải mất một khoản tiền khá lớn khi thực hiện kế hoạch này, tuy nhiên chúng tôi sẽ rất vui nếu thu được hiệu quả”. Và, mặc dù đây là một chặng đường gian nan nhưng gia đình vẫn tiếp tục cố gắng tìm mọi cách để cứu sống em, bố cô bé cho hay. Hiện nay, “Thi thể của cô bé được trữ lạnh tại phòng chờ công nghệ mới Arizona”, ông Noavaratpong cho biết thêm. ( Linh Nguyễn dịch theo News.com.au )

Cha mẹ bé Matheryn luôn cháy bỏng khao khát đứa con yêu thương tỉnh dậy. Mong ước này phản ảnh phần nào ước muốn nồng nàn của Đức Giêsu, khi Người kêu gọi Kitô hữu “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” Sẵn sàng tỉnh thức và cầu nguyện là hai điều cấp bách cho đời sống tín hữu Kitô.

Sẵn sàng tỉnh thức

Đức Giêsu tha thiết kêu gọi mọi người đừng ngủ mê trong vật chất, tiền bạc, của cải, trong danh lợi, chức tước, trong thú vui xác thịt, trong những đam mê vị kỷ, phù phiếm, bất nhân, thất đức, để khỏi bị bất ngờ Chúa gọi. “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất.”

Ngày Chúa gọi, cũng là ngày người đó xuôi tay nhắm mắt, từ giã cõi đời. Sống thác tử quy. Lẽ tự nhiên mỗi người đều phải trở về nguồn cội với Chúa, Đấng Tạo Hóa.

Sẵn sàng sống từng giây phút xả kỷ vị tha, sống cho người, chết đi bản thân, cái tôi ích kỷ, tham lam, ham hố, vơ vét, gian manh, dối lừa, hại người. Chọn cái dại dột, cái điên rồ, cái khờ khạo hơn là cái khôn lỏi của thế gian, mà xấu xa với Chúa. “Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” ( 1 Cr 1, 25 )

Sẵn sàng sống cho Chúa, sống cho tha nhân, chết đi tánh xác thịt, cám dỗ phạm tội. Buông xuôi sống theo thế gian, hưởng thụ theo xác thịt và thỏa hiệp với ma quỷ, đều là chống lại Lời Hằng Sống, chống lại Đức Kitô, tuy nhiên vẫn “có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Ki-tô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. ( Pl 3, 18-20 )

Sẵn sàng làm chứng nhân Đức Giê su mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh thuận hay nghịch. Bởi vì: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi”( Gl 2, 20 )

Sẵn sàng dấn thân hy sinh phục vụ tha nhân, nhất là với những người nghèo khó, bệnh tật, côi cút, cơ nhỡ, đau khổ, vì những người đó chính là Đức Kitô bị bỏ rơi.”Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”. ( Mt 25, 35 – 36 )

Cầu nguyện

Để có thể sẵn sàng tỉnh thức theo Chúa, thì luôn cần đi đôi với việc cầu nguyện. Đây là phương thế quan trọng và cấp bách để liên kết mật thiết với Đức Giêsu, Nguồn Sống, nguồn hồng ân vô tận. Cầu nguyện như mạch máu lưu thông trong cơ thể, đem dưỡng chất nuôi sống các bộ phận. Bởi vì “Thầy là cây nho, chúng con là ngành nho. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong kẻ ấy, thì kẻ ấy sinh quả, vì không có Thầy chúng con không thể làm gì được.” (Ga 15, 5 )

Từng giây phút, biết bao hồng ân đổ tràn đầy, được sống an toàn, được sức khỏe, được làm việc, sinh hoạt, thì người Ki tô hữu càng cần cầu nguyện để tỏ lòng biết ơn, cảm tạ và ngợi khen. Hơn nữa, khi gặp sự khốn khó, thì tiên quyết chạy đến với Chúa, khẩn khoản nài van, hay phó thác, dâng lên Ngài những đau khổ, gian nan, thử thách. “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện.” (Rm 12, 12 )

Sắp bước vào Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót, chớ gì tất cả tín hữu Kitô nhìn lại cuộc đời trầm luân bất nghĩa, bất tín, bất trung, trong suốt bao năm tháng, hầu thật lòng ăn năn, sám hối, canh tân đời sống, đừng tiếp tục nhẫn tâm phụ lòng quảng đại vô biên của Chúa.

 “Con nhìn thấy những giọt nước lã chã rơi trong một chiều đông. Mỗi ngày bao nhiêu người cùng vào cõi đời đời, như hạt nước kia không ai để ý, và một giây phút nào đó, một hạt nước rơi ấy chính là con.” ( Đường Hy Vọng, số 666 )

Lạy Chúa Giêsu chúng con nặng nề xác thịt, hay ngủ vùi trong thú vui trần tục, hay mê man, chìm đắm trong những cám dỗ phù phiếm chóng qua. Xin Chúa thương xót thức tỉnh chúng con, luôn sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi, luôn chuẩn bị tươm tất cả xác lẫn hồn về với Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, gìn giữ chúng con luôn trung thành sống đạo, nhất là luôn tỉnh thức và cầu nguyện, để luôn sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi về. Amen.

 

.

MÙA TỈNH THỨC

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng. Năm phụng vụ được tổ chức như một chu kỳ hàng năm để tưởng niệm những mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu Kitô và các ngày lễ của các Thánh. Những mầu nhiệm này đã được hoàn tất trong thời gian của Chúa Giêsu Kitô, nhưng nay vẫn tiếp tục thể hiện trong thời gian của Giáo hội. Năm phụng vụ có cơ cấu như hiện nay là cả một quá trình hình thành và phát triển dọc theo chiều dài lịch sử phụng vụ của Giáo hội.

Mùa Vọng được tổ chức để chuẩn bị đón Chúa Giêsu trong hai lần Người ngự đến. Gồm có hai giai đoạn: Từ Chúa nhật I đến ngày 16/12, các bản văn Kinh thánh dùng trong phụng vụ nói lên sự mong đợi ngày Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang. Từ 17/12 đến 24/12, trực tiếp nói đến ngày sinh nhật của Người. Theo tinh thần canh tân phụng vụ hiện nay, mùa Vọng không còn là mùa thống hối nữa mà là mùa hân hoan mong đợi, mặc dầu phẩm phục vẫn là màu tím và không đọc Kinh Vinh danh.
Mùa Vọng là mùa của những lời loan báo: loan báo việc Chúa sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Giêsu. Vì thế, các bài đọc của mùa này xoay quanh các chủ đề loan báo mời gọi tỉnh thức và hy vọng.

  1. Mùa Vọng – Mùa loan báo

Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.

Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.

Bài Phúc Âm: Chúa nhật I mùa vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.

Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.

  1. Mùa Vọng – Mùa chờ đợi

Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ “Chúa đến” thường được hiểu bằng bốn cách:

– Chúa đến trong lịch sử nhân loại.

– Chúa đến trong ngày phán xét chung.

– Chúa đến trong giờ chết của mỗi người.

– Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.

Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã làm người trong nghèo hèn và đau khổ. Chúa được sinh hạ tại hang đá Belem. Chúa đến thế gian để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Ngày nay nhân loại đợi chờ và hân hoan kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh.

Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Lần này Chúa đến trong vinh quang với tư thế là Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày đó sẽ xẩy ra khi nào. Chỉ biết chờ đợi trong hy vọng.

Chúa đến giữa hai lần: Chúa đến với từng người. Đó là giờ chết. Không ai biết được Chúa gọi mình lúc nào và ở đâu. Không ai có thể chọn cho mình ngày giờ ra đi. Lần giữa này là lần thật quan trọng với từng người.

Chúa đến trong ơn thánh: Hàng ngày Chúa đến với ta trong ơn thánh qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.

Mùa Vọng chính là mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi Chúa đến.

  1. Mùa Vọng – Mùa tỉnh thức

Chúa Giêsu nói đến tư thế của người tỉnh thức là luôn: “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Chúa cũng nói đến thái độ sống của người tỉnh thức là không để “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”, không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ, không quá mê say danh lợi thú.

  • Đứng thẳng: đây là động thái hiên ngang dũng cảm vượt trên mọi đam mê tội lỗi. Đứng thẳng mới khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời.
  • Ngẩng đầu lên: đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả.

Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Vọng dặn dò mỗi người Kitô hữu là “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. Tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức nên phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người và đối với cả nhân loại nên phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện.

  1. Tỉnh thức

Thánh Kinh kể chuyện: Samson là vị thủ lãnh của dân Do thái. Anh có sức mạnh phi thường, quân Philitinh khiếp sợ.

Ngày kia, một con sư tử gấm bất thần tấn công, Samson xé xác nó với hai bàn tay dũng mãnh. Có lần bị quân Philitinh vây chặt tư bề, Samson chộp lấy một chiếc xương hàm của con lừa gần đó và quật chết rất nhiều đối thủ. Sức mạnh vô song của Samson làm cho quân Philitinh phải khiếp đảm.

Không thắng được Samson bằng sức mạnh, người Philitinh tìm cách tiêu diệt anh bằng mỹ nhân kế. Nàng Đaliđa, một thiếu nữ Philitinh có nhan sắc tuyệt đẹp. Nàng đến với Samson và đã chiếm lấy trái tim vị anh hùng. Đaliđa gạn hỏi: do đâu anh có được sức mạnh phi thường? Samson tiết lộ bí mật, sức mạnh liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt, sức lực sẽ không còn. Samson ngủ, Đaliđa lén cắt tóc rồi báo tin. Quân Philitinh xông đến tóm lấy anh, xiềng lại bằng những sợi xích đồng. Chúng tàn nhẫn khoét đôi mắt và bắt anh ngày ngày kéo cối xay như một con trâu ngoan.

Một Samson vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn bạt vía, tay không quật ngã và xé xác con sư tử gấm to lớn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quân Philitinh phải kinh khiếp. Giờ đây, anh chỉ là một tù nhân mù loà, tay chân mang xiềng xích, một tên nô lệ, ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục thay trâu bò kéo cối xay! Than ôi! Một thời oanh liệt nay còn đâu!

Chỉ vì không tỉnh táo trước kế mỹ nhân. Samson đã sa cạm bẫy và chịu hậu quả đau thương.

Thảm kịch Samson luôn mang tính thời sự. Nó vẫn tiếp diễn trong cuộc đời con người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hằng ngày báo chí và truyền hình kể lại vô số cảnh đời gục ngã dưới nhiều hình thức: suy sụp vì ma tuý, sa đoạ vì gian dâm, sa ngã vì tham lam và vô vàn hình thức sa bẫy khác.

Mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ngay cả một số những cây cao bóng cả trong xã hội cũng như trong các tôn giáo vì thiếu tỉnh thức nên cũng bị gục ngã, bị lún sâu xuống bùn lầy.

Dân gian nói: “khôn ba năm, dại một giờ”. Nhưng có khi khôn đến năm mươi năm, bảy mươi năm rồi cũng hoá dại trong một giờ!

Thánh Phaolô nhắc nhớ: “Anh em hãy tỉnh thức và hãy cầu nguyện luôn!… hãy đề phòng, đừng để cho lòng trí mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em“. Ngài còn khuyên: “những ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cor 10,12).

Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, là không quá mê say danh, lợi, thú. Luôn tỉnh thức như khi đang lái xe, luôn nhìn trước ngó sau, tay ga vững vàng, chân thắng sẵn sàng, đi đường an toàn.Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.

  1. Cầu nguyện

Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh.

Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.

  1. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện

Có tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời. Cầu nguyện trong tỉnh thức để luôn sẵn sàng vì không biết ngày giờ Chúa viếng thăm.

Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”.

Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.

Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện, chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.

Mùa vọng được khai mở với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.

Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như như sách Nho có câu: Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân (Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).

Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ.

Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.

 

.

TỈNH THỨC ĐI VÀO THẾ GIỚI MỚI

Tgm. Ngô Quang Kiệt.

Thật ngạc nhiên. Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Nhưng không ngờ những bài sách thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Tại sao thế? Thưa vì Giáo Hội muốn cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hàng năm vào mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.

Hướng dẫn thứ nhất: Có hai thế giới. Thế giới hiện tại và thế giới tương lai. Thế giới hiện tại sẽ qua đi. Vạn vật có khởi đầu và có kết thúc. Con người có sinh có tử. Đó là định luật tự nhiên. Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi. Cả những gì lớn lao, mạnh mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi. Điều quan trọng nhất là chính ta cũng sẽ qua đi. Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu: thế giới vĩnh cửu.

Hướng dẫn thứ hai: Chúa làm chủ lịch sử. Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn. Khi thế giới đến ngày cùng tháng tận Chúa sẽ đến. Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới. Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hy vọng mới cho con người. Có thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi. Từ một thế giới mong manh mau tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu. Từ một thế giới tương đối đến một thế giới tuyệt đối.

Hướng dẫn thứ ba: Ta tự quyết định vận mệnh đời mình. Thế giới này sẽ qua đi. Thế giới mới sẽ xuất hiện. Ta sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới cũ. Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới? Điều đó tùy thuộc bản thân ta. Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Thế giới cũ sẽ suy tàn. Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở. Thế giới mới sẽ tới. Ai biết chuẩn bị chờ đón sẽ được hạnh phúc. Phải làm gì? Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.

Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những giá trị đời này. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.

Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.

Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Chúa đã đến rồi sao ta vẫn còn chờ mong Chúa đến?

2) Chúa làm chủ lịch sử. Bạn có cảm nghiệm về điều này trong đời sống không?

3) Ta phải làm gì để được niềm vui trong ngày Chúa đến?

4) Tỉnh thức nghĩa là gì?

5) Tại sao phải cầu nguyện?

 

.

HÃY TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN

Lm. Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Nhiều kitô hữu tưởng Phục Sinh là dấu chấm hết của Kitô giáo. Thật ra Kitô giáo vẫn đang hy vọng và chờ đợi một biến cố hết sức quan trọng: biến cố Chúa trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Biến cố này hoàn tất lịch sử nhân loại và hoàn tất công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu.

Bao lâu Chúa Kitô chưa trở lại người kitô hữu còn phải chờ. Chờ đợi làm nên cuộc sống kitô hữu, cuộc sống Giáo Hội.

Những kitô hữu thời sơ khai đã nôn nao chờ đợi. Họ ngỡ rằng chẳng bao lâu nữa Chúa sẽ trở lại. Nhưng dần dần người ta nhận ra rằng cần phải chờ đợi một cách tích cực, cần phải chuẩn bị thế giới này đón tiếp Chúa khi Ngài đến, để Ngày Chúa quang lâm thực sự là ngày hội vui của cả địa cầu và cả vũ trụ. Mà ngày Chúa đến vẫn là một bất ngờ như mọi lần.

Ngài đã chào đời bất ngờ như một trẻ thơ quấn tã. Ngài đã sống bất ngờ như một bác thợ mộc vô danh. Ngài đã chết bất ngờ như một kẻ bị đóng đinh vì gây rối. Ngài đã sống lại bất ngờ, hiện ra với hai môn đệ về Emmau. Ngài sẽ trở lại bất ngờ…

Tỉnh thức chờ đợi là thái độ sống của Mùa Vọng.

Tỉnh thức là sẵn sàng đón Chúa với đèn sáng trong tay. Tỉnh thức là trung tín chu toàn cả những điều bé nhỏ. Tỉnh thức là tích cực đầu tư những nén bạc Chúa trao. Tỉnh thức đi đôi với cầu nguyện.

Thế giới hôm nay có nhiều thứ gây ngủ mê.

Cuộc sống quá khó khăn hay quá tiện nghi dễ dãi đều làm chúng ta đánh mất thái độ tỉnh thức chờ đợi.

Chúa đã đến âm thầm, Chúa sẽ đến trong vinh quang.

Chúa đang đến nhẹ nhàng trong thế giới, trong từng người, từng tập thể. Cần tập nghe tiếng bước chân của Chúa…

Mùa vọng là thời gian ta chờ Chúa đến, nhưng đừng quên chính Chúa mới là người chờ ta trước, từ lâu, vì ta không nhận ra tiếng gõ cửa của Ngài.

Ước gì chúng ta dám can đảm và thành thật nài xin: Marana tha! Lạy Chúa, xin hãy đến.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, con người hôm nay có dễ tỉnh thức không? Cái gì đang làm cho giới trẻ trở nên mê ngủ (ma túy, rượu chè, bạo lực, tình dục…?

Bạn dự tính sống mùa Vọng như thế nào? Bạn sẽ giúp gì cho những bạn khác sống mùa Vọng?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,

Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc.

Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói; Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ.

Thay vì bực bội hay nóng ruột con lại thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa.

Lạy Chúa,

Những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với ý Chúa.

Xin cho con yêu mến Chúa hơn để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào.

 

.

CHỜ MONG

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Mùa vọng, mùa mong chờ. Không phải chỉ có con người mong chờ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa cũng mong chờ con người.

  1. Con người mong chờ Thiên Chúa

Ngày xưa dân Do Thái mong chờ Thiên Chúa sai Đấng Thiên Sai để giải phóng họ khỏi ách người ngoại bang đô hộ. Thiên Chúa đã sai Môsê giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập bằng cách dẫn đưa họ vào đất hứa. Thiên Chúa đã sai các thẩm phán giải phóng họ khỏi cảnh đàn áp của những dân xung quanh. Thiên Chúa đã cho họ thoát cảnh lưu đày Babylon qua vị thiên sai ngoại đạo: vua Kyrô. Rồi thời gian đến, khi dân Do Thái đang mong chờ Ngài giải phóng họ khỏi cảnh người Roma đô hộ, thì Thiên Chúa đã sai Con Chí Ái của Ngài giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngày nay, Kitô hữu mong chờ Đức Giêsu đến trong vinh quang để giúp con người hạnh phúc trọn vẹn: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và tuyên xưng Người đã sống lại, cho đến khi NGƯỜI LẠI ĐẾN”.

Con người như có thể làm tất cả mọi chuyện, vậy con người cần chờ mong gì nơi Thiên Chúa nữa không? Dường như con người ngày nay có thể độc lập với Thiên Chúa. Về phương diện y tế, con người tuy dù đối diện với bao bệnh nan y, nhưng vẫn liên tục tìm ra những phương thuốc để khắc phục các bệnh hiểm nghèo. Về giáo dục, người ta chờ mong nơi những thầy cô, những người làm công tác giáo dục để giúp các bậc cha mẹ làm trọn nghĩa vụ làm cha làm mẹ của mình; như vậy, dường như người ta chẳng còn cần gì nơi Thiên Chúa nữa!

Con người, tận thâm sâu lòng mình, đều cảm thấy mình bất lực để làm những điều tốt, cho cả mình và cho người khác. “Điều tốt tôi biết nhưng tôi lại không làm, tôi lại làm điều dở tôi thấy là không nên làm”. Khi chính mỗi người, người mà được người khác trông chờ, cảm thấy mình bất lực, cần Thiên Chúa trợ giúp để vượt thắng chính mình: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, thì làm sao những người này có thể giúp người khác “trọn hảo” được. Việc giúp đỡ người khác, giúp họ triển nở và hoàn thiện chính mình, là điều Thiên Chúa đang làm qua trung gian những con người. Không có Thiên Chúa, con người không thể hoàn thiện chính mình và triển nở toàn diện được.

2. Thiên Chúa chờ mong

Không phải chỉ có con người chờ mong Thiên Chúa đến, nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng luôn chờ mong con người. Thiên Chúa tạo dựng con người để con người được sống hạnh phúc với Thiên Chúa, nhưng con người đã lạc xa điều Thiên Chúa mong ước cho con người: họ đi tìm mình, quy hướng tất cả về mình chứ không về Thiên Chúa. Thiên Chúa mong muốn con người sống triển nở toàn diện và hạnh phúc. Tôi có hạnh phúc thật sự không?

Dụ ngôn nén vàng (Mt.25, 14-30) gợi cho con người biết mỗi người đã được trao ban những nén vàng, và mỗi người đều được mời gọi để sinh lời. Những nén vàng Thiên Chúa ban cho tôi là gì? Tôi có làm phát triển những nén vàng tài năng Thiên Chúa ban cho tôi không? Thiên Chúa muốn tôi và mọi người sống triển nở và hạnh phúc. Thiên Chúa muốn tôi cộng tác với Ngài giúp người khác sống triển nở và hạnh phúc. Tôi có thực hiện điều Thiên Chúa muốn chưa?

Đức Giêsu, trong những giây phút cuối đời, đã để lại cho những người Ngài thương yêu một lời trối: “Hãy yêu mến nhau như thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34). Đây là một mệnh lệnh khó thực hiện, nhưng đó lại là mong ước của Thiên Chúa, vì điều này sẽ giúp con người được nên giống Thiên Chúa. Chính khi yêu thương, con người được triển nở và hạnh phúc. Có những người tưởng là yêu thương, tưởng là giúp người khác nhưng họ đang trói buộc người khác, họ làm những người này mất tự do bằng những giúp đỡ của họ, làm những người này lệ thuộc vào họ; những người này thật sự không phải là những người yêu thương kẻ khác, không phải là những kẻ giúp người khác thật sự, nhưng là những kẻ biến người khác thành nô lệ họ, bằng sợi dây tưởng rằng nhân nghĩa. Một tình yêu thực, là tình yêu làm con người tự do và phát triển, làm người được yêu cảm nghiệm tự do, triển nở và hạnh phúc.

3. Đức Maria đáp trả niềm chờ mong của Thiên Chúa

Đức Maria được Thiên Chúa chọn để thực hiện ý định cứu độ con người của Ngài. Ngài đã sai sứ thần tới hỏi ý kiến Đức Maria, xem Đức Maria có sẵn sàng để Thiên Chúa can thiệp vào đời Mẹ một cách vô điều kiện; cụ thể, Đức Maria có sẵn sàng chọn Thiên Chúa trên tất cả, có sẵn sàng chấp nhận một thai nhi trong dạ mình. Đức Maria được hỏi ý kiến, nghĩa là, Đức Maria có thể nói “không” với sứ thần truyền tin; nhưng Đức Maria đã quảng đại nhận lời, Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” bất chấp tất cả.

Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa không chỉ ở biến cố truyền tin, nhưng còn trong suốt đời Mẹ. Với biến cố phải trở về Bêlem để đăng ký nhân khẩu, Mẹ vẫn thưa xin vâng không một lời oán than. Với biến cố sinh con trong chuồng chiên cừu, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa khi chấp nhận biến cố này. Với biến cố Đức Giêsu ở lại đền thờ, Mẹ cũng không oán trách Thiên Chúa; và đặc biệt khi ở dưới chân thập giá, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng dù chẳng hiểu làm sao Lời Thiên Chúa hứa với Mẹ qua sứ thần được thành sự.

Đức Maria, suốt cả cuộc đời, đã đáp trả tuyệt vời hy vọng của Thiên Chúa về con người. Mẹ đã làm chương trình của Thiên Chúa cho con người được hoàn tất. Thiên Chúa hài lòng về Mẹ. Mẹ không chỉ là người nữ tuyệt vời, nhưng còn là con người tuyệt vời nhất của mọi thời đại.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Bạn mong chờ Thiên Chúa điều gì cách đặc biệt?
  2. Theo bạn, Thiên Chúa chờ mong gì nơi bạn?

 

.

TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN ĐÓN CHÚA LẠI ĐẾN

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNGLc 21,25-28.34-36

(25) Khi ấy Đức Giê-su phán cùng các môn đệ rằng: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. (26) Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. (27) Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. (28) Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”. (34) Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, (35) vì ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. (36) Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin mừng hôm nay là một phần trong diễn từ cánh chung của Đức Giê-su và được viết theo lối văn khải huyền (x. Lc 21,5-36). Trong đó Đức Giê-su cho biết sẽ có những điềm lạ trên trời dưới đất, tiên báo việc Con Người sẽ đến trên đám mây, đầy quyền uy cao cả. Người cũng dạy các tín hữu phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để chờ đón ngày ấy. Cần tránh sa đà vào các đam mê, để khi Chúa đến bất ngờ, họ sẽ không lo bị phạt, và có thể đứng vững trước mặt Đức Ki-tô Thẩm Phán.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 25-26: + Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì saoNgười Do thái thời xưa quan niệm không gian có ba tầng: Trời, đất và biển. Qua câu này, Đức Giê-su muốn dùng những hình ảnh có tính khải huyền, để diễn tả sự can thiệp dứt khoát của Thiên Chúa trên vũ trụ mà Ngài sắp giải thoát chúng khỏi sự dữ (x. Rm 8,19). Vì thế sự rung chuyển của ba tầng trời là dấu chỉ báo hiệu sự sụp đổ của chúng trong ngày tận thế (x. Kh 21,1-8).

– C 27-28: + Con NgườiĐức Giê-su tự xưng là Con Người, vì danh hiệu này thể hiện đúng sứ mệnh Thiên Sai của Người. Danh hiệu Con Người có hai ý nghĩa khác nhau nhưng bổ túc cho nhau: Một là: “Người tôi tớ của Đức Gia-vê” sẽ phải chịu đau khổ để đền tội thay cho nhân loại (x. Mc 8,31); Hai là “Chúa Con sẽ được đưa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (x. Tv 110,1), và sẽ tái lâm đến trên mây trời vào ngày tận thế, để trở thành Thẩm Phán tối cao xét xử thế gian và thiết lập một “Vương quyền vĩnh cửu” (x. Đn 7,13-14). +Ngự trên đám mây: Mây được coi như xa giá của Thiên Chúa. Câu này cho biết Đức Ki-tô sẽ ngự đến trong uy quyền và vinh quang giống như Thiên Chúa. +Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lênTrong ngày đó, thái độ của các tín hữu sẽ là “đứng thẳng” và “ngẩng đầu lên” trong niềm hy vọng và vui mừng vì sắp nhận được ơn cứu độ. Trong Tân ước, cứu độ không những ám chỉ cuộc Tử nạn và Phục sinh của Đức Giê-su thực hiện trên núi Sọ (x. Rm 3,24-26), mà còn ám chỉ công trình Người sẽ hoàn tất vào lúc cuối thời, khi Người quang lâm và làm cho mọi xác phàm được sống lại (x. Lc 21,28).

– C 34-35: + Đề phòngĐồng nghĩavớp cảnh giácĐức Giê-su nhắn nhủ các tín hữu phải luôn cảnh giác vì tính cách bất ngờ của ngày tận thế. +Chiếc lưới bất thần chụp xuốngGiờ chết của mỗi người hay ngày tận thế chung toàn nhân lọai ví như chiếc lưới bất thần chụp xuống như người thuyền chài lưới bắt cá. Việc chụp lưới này mang ý nghĩa không ai tránh thoát được.

– C 36: + Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luônTỉnh thức là không mê ngủ, là luôn ở tư thế “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” để chu toàn bổn phận được trao phó (x. Lc 12,35-48). Tỉnh thức còn là sự trung tín với Chúa. Cầu nguyện luôn nghĩa là cầu nguyện không ngừng (x. Lc 18,1), không nhàm chán hay nản chí (x. Lc 18,1). Cầu nguyện luôn là cách biểu hiện một đức tin mạnh mẽ sống động. +Đứng vững trước mặt Con NgườiNếu biết tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng thì các tín hữu sẽ được cứu khỏi cơn gian nan thử thách sắp xảy đến và có thể đứng vững được trước toà phán xét.

  1. CÂU HỎI: 1) Sự rung chuyển của ba tầng trời là dấu chỉ tiên báo điều gì sắp xảy đến? 2) Trong Thánh Kinh từ ngữ “Con Người” mang ý nghĩa thế nào? 3) Tại sao Đức Giê-su lại tự xưng là Con Người? 4) Tỉnh thức khác với ngủ mê ra sao? 5) Làm sao có thể cầu nguyện luôn khi phải lo quá nhiều công việc hằng ngày?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa” (Lc 21,34).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) SỐ PHẬN BẤT NGỜ CỦA CON TÀU NỔI TIẾNG TI-TA-NIC:

Đêm 15.04.1912 các báo đài trên thế giới đồng loạt đưa tin về con tàu Ti-ta-nic nổi tiếng bị đắm. Bấy giờ tàu này đang chạy trên vùng Bắc Đại tây dương đụng phải tảng băng ngầm, khiên thành tàu bị lủng một miếng lớn và nước ào vào các khoang hầm tàu. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tàu đã bị gãy ra làm đôi và chìm xuống lòng biển, mang theo phần lớn hành khách và toàn bộ thủy thủ đoàn.

Ti-ta-nic là một con tàu vĩ đại: dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét với 8 tầng đầy đủ tiện nghi. Trên tàu có phố chợ, hồ bơi, sân chơi thể thao, rạp hát, vườn bông, nhà hàng… Số hành khách có mặt trên tàu khi gặp nạn vào khoảng 1500 người. Hầu hết hành khách là các người có địa vị cao trong xã hội như các ông hoàng bà chúa, chính khách, đại phú gia, nghệ sĩ, thương gia… Con tàu Ti-ta-nic khi hạ thủy đã được người ta đánh giá là an toàn tuyệt đối, có thể thách thức trước mọi thời tiết. Nhưng trong thực tế khi mới khởi hành được mấy ngày thì tàu đã gặp tai nạn thảm khốc nhất trong lịch sử hàng hải thế giới từ trước đến nay.

2) TẦM QUAN TRỌNG CỦA NIỀM HY VỌNG TRONG CUỘC SỐNG:

Trong một căn phòng nọ có bốn ngọn nến đang cháy sáng trước bàn thờ. Bỗng cây nến thứ nhất mở miệng than van: “Tôi là biểu tượng của An bình. Thế nhưng thời nay, thế giới đã không có sự bình an hòa thuận: con người không còn biết nhường nhịn nhau và hơi một chút đụng chạm là họ dùng gươm đao súng đạn nói chuyện hơn thua với nhau... Thế rồi ánh sáng của ngọn nến mờ dần và sau cùng tắt ngúm.

Cây nến thứ hai kiền bắt đầu tâm sự: “Tôi là biểu tượng cho Tin yêu. Thế nhưng thời nay, xem ra tôi đã trở nên thừa thãi. Biết bao người sống không tin yêu vào bất cứ ai và bất cứ sự gì! ”. Nói xong cây nến cũng từ từ lịm tắt.

Đến lượt cây nến thứ ba than van: “Tôi là biểu tượng của Hạnh phúc, nhưng đến nay tôi không còn đủ sức để tỏa sáng nữa. Người ta đã gạt tôi sang một bên và không cần biết đến giá trị của tôi nữa. Nhiều người đã quên luôn cả hạnh phúc đời sau mà chỉ tìm hạnh phúc chóng qua đời tạm này”. Dứt lời, ngọn nến liền vụt tắt.

Căn phòng trở nên tối mịt và chỉ còn một ngọn nến thứ tư tiếp tục phát ra ánh sáng yếu ớt. Bất chợt, một cô bé bước vào trong phòng nhìn lên bàn thờ, thấy ba ngọn nến đã tắt, cô liền tự nhủ: “Tại sao ba cây nến Hòa Bình, Tin Yêu và Hạnh Phúc lại bị tắt hết như thế? Cuộc sống của thế giới luôn cần đến ánh sáng từ những cây nến này”.

Bấy giờ cô gái nghe có tiếng nói yếu ớt phát ra từ cây nến thứ tư: “Đừng lo! Tôi là biểu tượng của Hy Vọng. Bao lâu tôi còn cháy sáng dù rất nhỏ bé mong manh, thì nhân loại vẫn hy vọng có lại được nền Hòa Bình, Tin Yêu và Hạnh phúc”. Nghe vậy cô bé liền dùng cây nến Hy Vọng đang cháy leo lét để thắp sáng ba cây nến kia và căn phòng đã chiếu tỏa đầy ánh sáng chan hòa như trước.

Niềm hy vọng rất quan trọng trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Khi mọi sự xem ra đã bị tắt ngúm thì chúng ta cũng đừng thất vọng, vì chỉ cần một chút ánh sáng hy vọng là chúng ta vẫn có thể tìm lại được các thứ ánh sáng khác. Vì thế có người đã nói: “Thà thắp lên một ngọn đèn, còn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”. Ngọn đèn cháy sáng đó chính là niềm Hy Vọng vào một tương lai tươi sáng sẽ đến.

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng, thời kỳ Hội Thánh mong chờ Chúa lại đến. Đức Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến trần gian cách đây 2015 năm để trở thành Đấng Emmanuel nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người đã thiết lập một Nước Trời, để mở ra một “Trời Mới Đất Mới” yêu thương an bình và hạnh phúc cho loài người. Người chính “là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” cho chúng ta. Người đã chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh vinh quang, để mở ra một Nước Trời là Hội Thánh sơ khai. Hội Thánh đó đã dần dần lớn lên thành cây cải to lớn nhờ sự phù trợ của Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu đã đến mở ra con đường sống là đường hẹp leo dốc, là đường khổ nạn “ngang qua đau khổ thập giá để vào vinh quang Phục Sinh”. Người hứa sẽ tái lâm vào ngày tận thế để phán xét chung nhân loại và đưa mọi người tin và thực hành Lời Người được lên trời ở với Người, để Người ở đâu, họ cũng được ở đó với Người (x. Ga 14,3).

  1. SUY NIỆM:

Gần đây, trong dịp kỷ niệm biến cố đắm tàu Ti-ta-nic, một tạp chí tôn giáo kia, sau khi nhắc lại thảm họa, đã nêu ra một câu hỏi để độc giả suy nghĩ như sau: “Giả như chúng ta có mặt trên con tàu Ti-ta-nic khi nó đang bị chìm, thì chúng ta có tiếp tục vui chơi ăn uống khiêu vũ… mà quên rằng mình sắp chết chìm hay không?”. Câu hỏi này phù hợp với câu nói của Đức Giê-su mà Hội thánh đề nghị các tín hữu suy nghĩ trong Mùa Vọng như sau: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21,34).

  • Chết là gì ? Tại sao phải chết ? Chết rồi sẽ đi đâu ?:

– Giáo lý dạy cho chúng ta: chết là khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Nói chung mọi người đều phải chết: Không hẳn già yếu mới chết mà ngay cả trẻ em mới sinh cũng có thể chết; Không nhất thiết người bệnh nặng mới chết mà có khi kẻ đang khỏe mạnh bình thường cũng tự nhiên lăn đùng ra chết. Có thể nói: Cái chết là quy luật tất yếu của đời người: con người sinh ra là bắt đầu tiến dần về cái chết. Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su cũng tiên báo về giờ chết của riêng mỗi người và ngày tận thế chung của nhân loại. Vũ trụ có lúc khởi đầu thì cũng có ngày kết thúc. Sự sống con người cũng sẽ kết thúc cùng một lúc với ngày tận thế chung của vũ trụ. Ngày ấy Đức Giêsu tiên báo sẽ đến cùng với những điềm báo là sự biến động trên trời dưới đất. Mỗi người chúng ta tùy theo cách sống hiện tại cũng sẽ được sống lại trong hạnh phúc thiên đàng hay trong nỗi bất hạnh hỏa ngục. Nếu chúng ta biết đi con đường hẹp, con đường từ bỏ những thú vui tội lỗi bất chính để chu toàn bổn phận thì sự sống lại sẽ là hạnh phúc thiên đàng của chúng ta. Ngược lại, chúng ta sẽ chịu hình phạt hỏa ngục cùng với ma quỷ khi chúng ta có lối sống buông thả theo các đam mê dục vọng, vô trách nhiệm và thiếu tình người.

2) Cái chết thường đến bất ngờ : Lời Chúa hôm nay cũng nói đến sự bất ngờ như sau: “Anh em phải đề phòng, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21,34). Nơi khác Chúa cũng nói: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến… Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,42.44).

Nhưng không hoàn toàn bất ngờ: Vì Chúa vẫn luôn thương yêu chúng ta. Người hằng ban cho chúng ta những tín hiệu báo trước về cái chết, để chúng ta kịp thời chuẩn bị. Mỗi khi chứng kiến một người chết vì bệnh tật hay bị tai nạn xe cộ… là một tín hiệu Chúa gửi tới để nhắc ta về cái chết của mỗi người chúng ta. Mỗi khi ta không may bị trơn trượt té ngã … Khi phát hiện ra mấy sợi tóc bạc xuất hiện trên đầu, khi một chiếc răng sâu phát đau phải đi nhổ, khi đôi mắt ngày càng mờ dần phải đi cắt kiếng, tay chân bị thấp khớp sưng tấy lên khiến đi lại khó khăn, hay một cơn đau tim nhẹ xuất hiện… là những tín hiệu cho thấy sức khỏe chúng ta bắt đầu suy yếu và thần chết đang đến gần hơn ! Chúng ta không nên bịt tai nhắm mắt trước những tín hiệu ấy, nhưng hãy tìm hiểu ý nghĩa của nó và chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón chờ giờ chết đến bất cứ lúc nào trong cuộc đời mình.

3) Chúng ta phải làm gì?

– Phải canh thức và đề phòng: Đừng để cho những đam mê lạc thú bất chính, những nhu cầu của thể xác như cơm, áo, gạo, tiền… chi phối chúng ta, làm cho chúng ta quên đi cùng đích cuộc đời là được trở về Nhà Cha trên trời. Trong khi chờ đợi ngày ấy, chúng ta cần phó thác cuộc sống trong tay Chúa Quan Phòng và ưu tiên tìm kiếm Nước Trời như Lời Chúa phán: “Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây?” (Mt 6,31). Nhưng “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

– Phải tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng (x. Lc 18,1): vì “tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26,41). Tỉnh thức là không “chè chén say sưa”,nghĩa là không quá mê đắm hưởng thụ các đam mê vật chất đời này. Tỉnh thức là không “lo lắng sự đời”, không chỉ lo tìm kiếm những giá trị tạm thời là danh, lợi, thú,… mà phải biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn hồn lên cao. Tỉnh thức là luôn “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” để đón Chúa đến bất cứ vào lúc nào và để luôn trung tín với Chúa (x. Lc 12,35-48). Hãy luôn cầu nguyện và không được nhàm chán hay nản chí (x. Lc 18,1). Cầu nguyện là biểu hiện đức tin một cách mạnh mẽ và sống động. Khi cầu nguyện là chúng ta tự tách lìa mình khỏi các ràng buộc của thế giới vật chất để hướng tới những sự trên trời. Nhất là cầu nguyện còn để xin ơn Chúa trợ giúp, vì xác thịt dễ bị các thú vui nhục dục lôi kéo. Chỉ khi được Chúa giúp sức, chúng ta mới hy vọng sống siêu thóat, khỏi những quyến luyến lạc thú đời này để vươn tới cuộc sống hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Cụ thể, cầu nguyện là năng nhớ đến Chúa, dâng lên Người những lời nguyện tắt kèm theo những việc cụ thể phục vụ tha nhân. Cầu nguyện còn là năng đến nhà thờ dự lễ và rước lễ hằng ngày. Nhờ đó chúng ta sẽ có đủ ơn thánh hoá của Chúa giúp nên hoàn thiện noi gương Chúa Cha trên trời hơn (x. Mt 5,48).

– Phải sẵn sàng đón chờ Chúa lại đến: Khi tổ chức mừng thọ 60, 70, 80 tuổi… chúng ta cần ý thức ngày giờ Chúa đến có thể đã gần bên cửa. Hãy nhớ rằng khi chết, chúng ta không thể mang theo vàng bạc trần gian. Chỉ những của cải thiêng liêng như các việc từ thiện bác ái và các đóng góp “làm cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” mới có giá trị trước tòa Chúa phán xét (x Mt 25,34-40). Do đó ta cần phải cấp thời lo hòan thành những gì còn dở dang hoặc các công trình văn hóa muốn lưu truyền cho con cháu. Ngòai ra các bậc làm cha mẹ hay các vị có trách nhiệm lãnh đạo cộng đòan cũng cần phải làm di chúc. Cần liệu sao để bản di chúc có giá trị pháp lý và ủy thác cho người có uy tín thi hành, hầu tránh tình trạng tranh chấp chia rẽ nội bộ vì phân chia của cải không đồng đều giữa các thành viên gia đình.

– Tin và sống tình thương của Thiên Chúa: Thiên Chúa không đến để trừng phạt, nhưng để xót thương và ban ơn cứu độ cho loài người chúng ta. Tình yêu thương của Người sẽ đổ tràn trên những tâm hồn biết khiêm hạ và xót thương, như thánh Phaolô đã viết như sau: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết… Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta quang lâm”.

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: 1) Khi vừa thức dậy, tôi quyết tâm sẽ dâng ngày mới cho Chúa và noi gương thánh nữ Tê-rê-sa : “làm những việc bình thường bằng một cách thức phi thường”. 2) Tôi sẽ năng dâng lời nguyện tắt: “Lạy Chúa Giê-su. Xin dạy con yêu mến Chúa”.- “Lạy Chúa. Con xin làm việc này để cầu cho (cha mẹ, con cái, anh em hay một tội nhân quen biết) được sớm nhận biết, ăn năn trở lại cùng Chúa”.
  2. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay Chúa dạy chúng con phải sẵn sàng tỉnh thức và cầu nguyện chờ đợi ngày cánh chung hay giờ chết của chúng con sẽ đến bất ngờ. Ngày nay những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và các sản phẩm kèm theo của nó thường là nguyên nhân phát sinh lối sống ích kỷ: Người ta chỉ lo kiếm tiền để rồi sau đó lại chiều theo các đam mê lạc thú bất chính. Chẳng mấy ai tỉnh thức nghĩ tới ngày tận thế chung hay giờ chết riêng của mỗi người chắc chắn sẽ đến. Thật hạnh phúc cho chúng con nếu khi Chúa đến, chúng con vẫn đang tỉnh thức cầu nguyện và ở trong tư thế sẵn sàng đón chờ Chúa đến.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

.

TỈNH THỨC VÀ CHỜ ĐỢI

Huệ Minh

Dù muốn dù không, hôm nay, ta cùng với Giáo Hội bước vào năm phụng vụ mới với Chúa nhật 1 Mùa Vọng. Mùa Vọng : Mùa của chờ đợi và hy vọng.

Mỗi lần mừng kỷ niệm việc Chúa đến lần thứ nhất ta lại được mời gọi hướng lòng đến sự xuất hiện lần thứ hai của Chúa. Ngày Chúa đến lại lần thứ hai đó cũng chính là ngày mà chúng ta, mỗi người chúng ta cũng dù muốn dù không cũng phải tính sổ với Chúa.

Và rồi, chưa nói đến ngày Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang thì ngày Chúa đến với mỗi người chúng ta là một ngày hết sức bất ngờ, ngày mà chẳng ai có thể ngờ đến được. Vào ngày nay, ta phải chiết tính và phải thanh toán cho Chúa tất cả những gì Chúa đã trao ban cho chúng ta từ ngày chúng ta cất tiếng khóc chào đời. Ngày ấy như thế nào, ngày ấy sẽ là ngày vui mừng hân hoan hay là ngày kinh hoàng, điều đó hoàn toàn tùy thuộc thái độ và cách sống của mỗi người ngay ngày hôm nay.

Đặt mình vào dân Do Thái xưa, ta thấy dân quá vất vả để chờ đợi Đấng Cứu Độ trần gian đến thế giang trong thời gian quá dài. Cũng chính vì sự chờ đợi này đã giúp họ có niềm tin, niềm hy vọng, niềm trông cậy để họ vượt qua những thử thách đổng thời giúp họ điều chỉnh lại thái độ sống của mình.

Sự chờ đợi đó được Isaia nói lên qua tâm tình của ông : Lạy Đức Chúa, Ngài là cha chúng con, là Đấng cứu chuộc chúng con, tại sao Ngài lại để chúng con xa đường lối Ngài, tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá chẳng còn biết kính sợ Ngài?

Chính trong sự chờ đợi dài đăng đẳng như thế này dân Israel ý thức được rằng chình vì tội lỗi của họ, vì sự ngỗ nghịch cứng lòng của họ, và cũng vì sự quay lưng lại của họ với Thiên Chúa khiến cho họ phài trăm ngàn đau khổ:

Tất cả chúng con đã trở nên như đồ nhiểm uế, các việc làm của chúng con chỉ như chiếc áo dơ bẩn, và tội ác chúng con đã phạm đã khiến Ngài ngoảnh mặt làm ngơ.

Chính khi họ mặc lấy tâm tình khiêm nhường như thế, họ đã tha thiết nài xin Thiên Chúa: Lạy Chúa, xin Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan và Chúa đã đến như lời họ nguyện xin.

Cũng vì tội lỗi từ nguyên tổ loài người đến tội lỗi của bao thế hệ con cháu, đã khiến cho cửa trời như bị đóng lại, mối dây liên hệ với Thiên chúa như bị cắt đứt, nay dân Chúa đang nài xin Chúa xé trời mà ngự xuống để giải thoát họ.

Thiên Chúa không dửng dưng, Thiên Chúa không mãi đứng xa xa để nhìn con người đau khổ trong tội lỗi. Chính vì thế khi đến thời viên mãn, Ngài đã cho Con của Ngài xuống thế để đồng hành, để yêu thương, để chữa lành và để cứu con người khỏi phải án chết và ban tặng cho con người sự sống mới của Thiên Chúa.

Đức Giêsu chính là Người Con ấy, Ngày đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát, băng bó những tâm hồn bị thương tích, công bố năm hồng ân và ngày cứu độ của Thiên Chúa. Tất cả những ai đón nhận Ngài và tin Mừng của Ngài cùng sống theo những điều Ngài hướng dẫn thì được cứu độ, được chia sẻ hạnh phúc làm con Thiên Chúa với Ngài.

Thánh Phaolô trong thư gửi cho cộng đoàn Corintô đã diển tả điều đó khi nói rằng: Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chuá Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.

Thánh Phaolô đã mời gọi mọi người luôn ý thúc rằng mình đã được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc, được nghe Lời Chúa, được hiểu biết màu nhiệm Thiên Chúa, được ơn Chúa trợ giúp và làm cho nên phong phú sung mãn thì cần phải ăn ở cho xứng đáng cho đến ngày Chúa Kitô trở lại lần thứ hai, phải sống làm sao để không ai có thể trách cứ được anh em điều gì cho đến ngày vinh quang Chúa tỏ hiện.

Chúa sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang với quyền năng của một vị thẩm phán, đó là điều Đức Giêsu đã khẳng định và là niềm tin của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta. Trong Tin mừng đã nhiều lần Chúa nói đến ngày này, ngày Chúa sẽ là Đức vua phân biệt người lành và kẻ dữ như người mục tử phân biệt chiên ra khỏi dê, Ngày Người trở lại như ông chủ trở về đòi các đầy tớ tính sổ và nộp cả vốn lẫn lời. Chắc chắn Chúa sẽ trở lại, nhưng Ngài lại không hẹn giờ, vì thế, cuộc trở lại lần thứ hai là cuộc trở lại trong bất ngờ, và Ngài cảnh báo chúng ta: Anh em phải canh thức vì anh em không biết khi nào chủ nhà sẽ đến. Con người luôn để mình rơi vào tình trạng bất ngờ, mê ngủ hoạc là chè chén say sưa bỏ bê công việc, như câu chuyện Chúa kể hôm nay.

Người chủ kia trẩy đi phương xa và trao quyền lại cho đầy tớ mỗi người một việc và ra lệnh cho họ phải canh giữ và tỉnh thức. Mỗi người đều có công việc riêng của mình và hoàn cảnh riêng của mình, tất cả đều do ông chủ là Thiên Chúa trao cho, mà mỗi người phải hết mình và tận tâm để chu toàn.

Qua lời dặn dò, ông muốn những người đầy tớ này không chỉ giữ nguyên vẹn an toàn, mà còn phai làm việc để sinh lời những đồng vốn ông trao gửi. Ông sẽ trở về có thể là chập tối, lúc nửa đêm hay lúc gà gáy về sáng, ông không muốn thấy đầy tớ của ông mê man say ngủ, mà ông muốn họ phải tỉnh thức, thắp đèn chờ đón ông. Tinh thức, thắp đèn, chờ đón, đó là một thái độ chờ đợi trong sẳn sàng và chủ động làm việc chứ không phải là ủ rũ thụ động chờ đợi trong mòn mỏi.

Canh thức là điều chúng ta luôn được nhắc nhở và tự nhắc nhở vì lẽ đó là bổn phận, nhiệm vụ của mỗi người chúng ta. Nhung, d, song cũng lại là điều chúng ta dễ quên nhất. Biết chắc chắn rằng Chúa sẽ đến bất cứ lúc nào, song chúng ta vẫn bị bất ngờ. Chính sư lôi kéo của thế gian làm cho chúng ta quên ngày chúng ta phải trở về, nhiều người đã sống như thể mình sẽ không bao giờ phải chết hoặc là tránh né không dám nhắc đến ngày phải trở về, vì thế họ để cho công việc, tiền bạc, của cải chiếm hết thời gian và những lo toan của họ, khiến họ không còn giờ để lo cho Ngày Chúa đến với mình nữa.

Nhiều người đã quên mất thân phận của mình chỉ là một người đầy tớ, một người quản lý được Chúa trao cho tài sản để sinh lời cho Chúa, mà lại coi mình như là ông chủ bà chủ và ngủ mê trong trong công việc của mình, lo hưởng thụ và không lo làm lời những đồng vốn, những nén bạc Chúa trao hoặc lại đem đi chôn giấu.

Hôm nay, ta được Chúa lại đánh thức ta. Đơn giản vì ta có khi thức nhưng không tỉnh. Có khi ta lại sống trong trạng thái mơ mơ ảo ảo và ta không biết đâu là cùng đích cuộc đời. Sống nhưng ta không xác định được cái gì là bền vững, cái gì là mau qua, đâu là hạnh phúc thật và đâu là ảo ảnh.

Hạnh phúc thật của chúng ta là Thiên Chúa và Nước Trời, mọi sự ở trần gian: tiền bạc của cải danh vọng quyền lực rồi sẽ qua mau, chỉ có Thiên Chúa là bển vững và hạnh phúc ngài ban là vĩnh cửu. Những ai còn đang mê ngủ, hảy tỉnh dây để điều chỉnh cuộc sống của mình của gia đình mình đi cho đúng đường của Chúa thì mới có thể đạt được hạnh phúc thật.

Nhiều bậc làm cha làm mẹ vẫn đang mê ngủ trong sự lười biếng của mình, ngủ mê trong khối tài sản của mình, lấy lý do bận rộn để bỏ quên việc canh thức cho chính mình và cho gia đình mình. Là chủ của gia đình, ta ãy canh thức bằng cách sắp xếp và điều chỉnh lại nếp sống đạo đức của cả gia đình bằng việc giúp nhau lãnh nhận Bí tích, tham dự Thánh lễ, rước lể, bằng đọc kinh cầu nguyện và đọc Lời chúa mỗi ngày.

Ngày mỗi ngày, ta thắp lên ngọn lửa yêu thương trong gia đình, vì gia đình và con cái chính là tài sản quý giá nhất mà Thiên Chúa trao cho mỗi chúng ta, hãy làm cho gia đình trở nên phong phú và đầy tình yêu thương. Hãy canh thức đừng để cho sự nghi kỵ và ích kỷ tham lam nó làm đổ vỡ tình nghĩa gia đình giữa cha mẹ và con cái giữa anh em ruột thịt, đừng để cho đồng tiền nó cướp đi hạnh phúc và hơi ấm của gia đình, nó gây chia rẽ trong gia đình trong anh em, láng giềng.

Với người trẻ, Lời Chúa mời gọi các bạn canh thức, tức là canh chừng đừng để mình ngủ quên trong xã hội hưởng thụ hôm nay. Với tất cả công việc, tương lai của ta và cả danh vọng địa vị sẽ để làm gì nếu ngay đêm nay Chúa là ông chủ đòi ta tính sổ cuộc đời.

Hãy canh thức đừng để mình rơi vào tình trạng nghiện ngập bê tha, ăn chơi buông thả, đừng quên mình là người Công giáo, người con Chúa.

Ta đừng nghĩ rằng mình còn trẻ thì ngày ấy chưa đến, sẽ không phải chết, đừng sợ nghĩ đến cái chết, vì khi biết nghĩ đến ngày mai mình phải chết sẽ giúp cho mình biết sống tốt hơn và mỗi ngày sống hãy sống yêu thương cho đầy tràn, hãy sống cho có ý nghĩa và hãy sống có ích cho chính mình, cho đời, hãy sống như thể ngày mai mình sẽ phải chết, để mình khỏi mê ngủ và không uổng phí cuộc đời vào những chuyện mau qua.

 

.

ĐỨMG THẲNG VÀ NGẨNG ĐẦU LÊN

Dã Quỳ

Hằng năm, Giáo Hội cử hành Mùa Vọng với hai đặc tính: Vừa là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, kính nhớ biến cố Con Thiên Chúa đến với nhân loại lần thứ nhất; vừa là mùa mà qua việc kính nhớ này, chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Ki tô đến lần thứ hai trong ngày cánh chung. Vì thế, Lời Chúa trong phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng hôm nay không nói về Hài Nhi trong máng cỏ nhưng trình bày cho ta:” Thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.”( Lc 21,27) Và ta cần làm gì để có thể nghênh đón Người.

Với lễ Giáng Sinh, phần nhiều ta nhớ về một biến cố của quá khứ. Việc Chúa Ki tô đến giữa chúng ta đánh dấu sự chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối và chiến thắng này vẫn được tiếp nối. Còn thời gian mùa vọng, ta không được hướng về quá khứ nhưng phải hướng về tương lai. Đấng đã đến trong khiêm hạ sẽ lại đến vào thời cuối với ” đầy quyền năng và vinh quang”. Như vậy, thời gian mùa vọng được ban tặng để cho chúng ta mở lòng ra và chuẩn bị đón Chúa đến. Thế nhưng, ngày Chúa đến trong vinh quang cũng đồng thời là ngày cùng tận của thế giới. Chúa cho ta biết thế giới này sẽ qua đi và trước ngày Chúa đến, sẽ có nhiều biến cố và sự dữ xảy ra. Nhưng Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy đứng vững, ngẩng đầu lên, hy vọng và tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, Người luôn làm chủ lịch sử và cứu rỗi chúng ta theo lòng nhân hậu và hay thương xót của Người.

Vậy để có thể  đứng thẳng, ngẩng đầu lên, thoát khỏi mọi điều dữ và đứng vững trước mặt Con Người, Chúa Giêsu đã  nhắc nhở, chỉ cho ta những phương cách đề phòng và thực hiện:

– Đừng để những bận tâm về cuộc sống đè nặng chúng ta:”Chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời.”( Lc 21,34) Những bận tâm ấy phải chăng là lòng say mê danh vọng, tiền của…Lòng nặng nề này có thể là niềm đam mê những thú vui xấu, ăn uống say sưa… Và mối lo lắng kia có lẽ là những toan tính hơn thiệt, gian dối, ti tiện cho cuộc sống nơi trần gian này…Quá gắn bó với những danh lợi thú, chúng ta biết nó sẽ làm tê liệt con tim của ta! Khi chúng ta để cho mình quá lo lắng về cuộc sống trần gian bởi sự hưởng thụ, chúng ta sẽ quên   “Ngày ấy “! Đừng để bị bất ngờ về những lúc Chúa Giêsu đến với ta trong nhiều cách thức qua các biến cố hằng ngày, qua giờ chết của mỗi người và nhất là ngày Chúa quang lâm. Hãy biết chuẩn bị cho mình một hành trang nhẹ nhàng là lòng thanh thoát với sự đời, sống thánh thiện trong cách ăn nết ở như lời thánh Phao lô khuyên ta ” Trở nên thánh thiện, không có gì đáng trách trước nhan Thiên Chúa…Sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa… Hãy tấn tới nhiều hơn nữa.”( 1Tx 3,13.4,1) Và luôn sẵn sàng lên đường.

– Đừng bao giờ ngừng cầu nguyện: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.”( Lc 21,36) Tỉnh thức để cầu nguyện và cầu nguyện giúp ta tỉnh thức trước những cám dỗ của thế trần, của những ham mê danh lợi thú, của những lo lắng sự đời, của những  gì ngăn cản Chúa không đến được với ta… Cầu nguyện giúp ta tỉnh thức hướng lòng về quê hương vĩnh cửu mà không bám víu trần gian. Chúa đã dặn các môn đệ “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối.”(Mc 14,38) Chính Người đã dạy ta cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha và cho ta gương mẫu cầu nguyện liên lỉ, kết hợp với Chúa Cha từ sáng sớm tới lúc chiều tà:“Sáng sớm Người đã dậy, đi ra nơi hoang vắng và cầu nguyện” (Mc 1,35)Thánh Phaolô cũng nhắc với các tín hữu: “Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta khi cầu nguyện cho anh em.” CònThánh Tê rê sa Avila nói với ta “Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục.” Cầu nguyện như chiếc thang nối đất với trời. Cầu nguyện là chiếc chìa khóa mở trái tim của Thiên Chúa. Không ai mạnh bằng người cầu nguyện. Ngoài những lời kinh thường đọc thật tốt, nhất là Kinh Lạy Cha, ta hãy dùng thời giờ trong mọi nơi mọi lúc,  dễ dàng để dâng lên Chúa những tâm tình chúc tụng, cảm tạ, xin lỗi và cầu xin ơn lành… Cầu nguyện phải là nghề của mỗi Kitô hữu, con cái Chúa.

Trong cầu nguyện, Chúa đến với ta và ta gặp Chúa, hiện diện với Chúa. Mỗi lần mà ta cử hành Thánh Thể, Chúa đến trong chúng ta một cách mầu nhiệm qua chính Mình bị nộp và Máu đổ ra. Chúa cũng đến với ta qua Lời của Người. Như vậy, qua cầu nguyện, chúng ta tập luyện đón Chúa mỗi ngày và vì đã ý thức đón Chúa, gặp gỡ Chúa rồi, ta sẽ không bất ngờ khi Người trở lại trong ngày chung cuộc. Nhờ cầu nguyện, Chúa ban cho chúng ta  sức mạnh và lòng tin tưởng để có thể  thoát khỏi những sự dữ và những biến cố trong ngày Chúa đến. Nhất là chỉ có tỉnh thức và cầu nguyện, ta mới có thể đứng thẳng, ngẩng đầu và đứng vững trước Chúa khi Người xuất hiện trong vinh quang như lời Người tiên báo  “Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng.”( Lc 22, 69) Và nếu chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta có thể hiện diện trước Chúa với một bảo đảm được cứu rỗi.

Vậy chúng ta  cần nhắc lại những lời khuyên cấp thiết của Chúa Giêsu: Hãy hy vọng… tin tưởng…tiết độ…sẵn sàng…tỉnh thức…cầu nguyện.  Và chúng ta hãy để Tin Mừng này vang lên trong lòng chúng ta. Ước gì tình yêu của chúng ta đối với Chúa và tha nhân được mãnh liệt hơn. Chúng ta hãy thực hiện Lời Chúa dạy, tìm thời gian cầu nguyện và suy gẫm tránh để lòng mình ra nặng nề…và hãy sống đẹp lòng Chúa. Chúng ta sẽ dành sự  tiếp đón nào cho Đấng mà chúng ta chờ đợi? Lạy Chúa Giê su, xin hãy đến. Chúng con chờ đợi Ngài.

 

.

MÙA VỌNG, MÙA CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. Giuse Trực

Thế giới trong những tháng cuối năm 2015 liên tục trãi qua những tai nạn, chiến tranh, khủng bố… làm cho nhiều người hoang mang, sợ hãi; thậm chí có người còn nghĩ đến viễn cảnh của ngày tận thế, nhưng không phải để “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, mà nghĩ đến với tâm trạng sợ hãi đến “hồn xiêu phách lạc”.

Trong viễn cảnh đó, bất chấp những cảnh báo về an ninh, Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn quyết định viếng thăm các nước Kennya, Uganda và Cộng Hòa Trung Phi, như dấu chỉ của Lòng Thương Xót. Báo chí đã gọi hành động của Ngài là “xông pha vùng khói lửa, liều mình đi thăm những người con đang đau khổ”. Chưa bao giờ người Công Giáo hướng về Đức Thánh Cha để cầu nguyện cho Ngài như lúc này vì lo sợ những bất ổn về an ninh sẽ xảy đến cho Ngài trong chuyến viếng thăm Châu Phi này.

Thêm vào đó, sự việc Mình Thánh chảy máu tại nhà thờ thánh Phanxicô Xavier ở vùng ngoại ô Kearns của thành phố Salt Lake City, Tiểu Bang Utah khiến chúng ta phải suy nghĩ.

Sự việc xảy ra trong tuần trước, khi một bé trai lên rước lễ, người nhà của em phát hiện và báo cho cha sở biết em chưa được xưng tội rước lễ lần đầu. Theo truyền thống lâu đời, Mình Thánh Chúa em đã ngậm vào miệng được cho vào một chén nước lã để nó từ từ rã ra, nhưng hôm đó chẳng những không rã, mà Mình Thánh Chúa còn bắt đầu rỉ máu. Giáo dân từ khắp nơi ùn ùn kéo đến để vừa chứng kiến sự việc lạ lùng, vừa để tôn thờ Thánh Thể, nhất là trong ngày lễ tạ ơn của Hoa Kỳ 26/11 vừa qua. Trước sự kiện này, Giáo phận đã lập một ban gồm các giáo sĩ và những chuyên viên y khoa để điều tra hiện tượng khác thường này.

Không biết kết luận của đấng bản quyền như thế nào, nhưng trong một thế giới đầy hoang mang, lo sợ như hiện nay, dấu lạ này như một lời nhắc nhở cho chúng ta: Thiên Chúa luôn hiện diện giữa dân Người với khuôn mặt đầy Lòng Xót Thương.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: Gr 33, 14-16

Sự hiện diện đó được Thiên Chúa loan báo qua môi miệng của tiên tri Giêrêmia: “Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán”. Điều tốt lành đó là: “Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng công Chính để nối nghiệp Đavit”. Vì vậy chính “mầm non” này sẽ thực hiện điều tốt đẹp của Thiên Chúa dành cho dân của Ngài. Đây là lời hứa của Đấng trung thành. Dân Chúa phải luôn tỉnh thức để chờ đợi lời hứa đó được thực hiện.

  1. Tin Mừng: Lc 21, 25-28.34-36

Trong diễn từ cánh chung, Chúa Giêsu đã nói đến ngày Chúa đến lần thứ hai, đó là ngày Quang Lâm. Trong ngày đó sẽ có những cảnh tượng khiến cho những ai bám víu vào giá trị tự nhiên sẽ rất hoang mang sợ hãi, vì tất cả những điều đó đều sụp đổ. Ngược lại, những ai tin tưởng vào Chúa, khi đứng trước những cảnh tượng đó họ sẽ “Đứng thẳng và ngẩng đầu lên” vì họ sắp được cứu độ.

  1. Bài Đọc II: 1Tx 3, 12-4,2

Để có thể “đứng vững và ngẩng đầu lên” hầu đón nhận Lòng Thương Xót Chúa, thánh Phaolô đã nhắn gởi các tín hữu Thêxalônica từ bỏ lối sống buông thả, lười biếng, đồng thời phải biết trau dồi tình yêu thương: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”. Với tình thương đó, Chúa sẽ cho họ “được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách” trong khi chờ đợi ngày Chúa Quang Lâm.

Trở lại với bối cảnh phụng vụ. Mùa vọng là mùa mong chờ Chúa đến. Mùa Vọng năm nay, Giáo Hội sẽ khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót, cụ thể là vào ngày 08/12 tại Rôma, ngày 13/12 tại các Giáo phận, và ngày 18/12 tại các Giáo xứ. Vì vậy, có thể gọi Mùa Vọng năm nay là mùa của Lòng Thương Xót.

Gọi mùa Vọng năm nay là mùa Thương Xót vì Thiên Chúa đã hứa ban Con Một của Ngài để đền thay tội lỗi cho nhân loại. Khi mong chờ lời hứa của Thiên Chúa là chúng ta mong chờ tình thương của Thiên Chúa được thực hiện.

II. SỐNG MÙA VỌNG LÒNG THƯƠNG XÓT

Để sống tâm tình mùa Vọng trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, xin được gợi lên vài điểm cụ thể.

  1. Chờ đợi Đấng Xót Thương

Mùa Vọng là mùa chờ đợi, nhưng không phải chờ đợi một cách vô vọng như nàng Tô Thị chờ chồng đến hóa đá, nhưng chúng ta biết mình mong chờ Đấng giàu lòng thương xót, Đấng trung thành trong mọi lời Ngài phán.

Xác định như vậy để dù cho có nhiều giá trị khác, chúng ta vẫn vững vàng mong chờ ơn cứu độ từ Đấng giàu Lòng Xót Thương.

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ những thế lực mà xưa nay người ta dựa vào vì coi nó là vững chắc như mặt trời, mặt trăng, tinh tú, biển cả… rồi cũng sẽ bị lung lay và sụp đổ trong ngày cánh chung.

Vì vậy người môn đệ của Chúa phải biết phân biệt và chọn lựa những giá trị nào là giá trị đem đến ơn cứu độ cho chúng ta để đeo đuổi và sống giá trị đó.

Ví dụ giữa việc có nhiều tiền bằng những phương thế bất chính và việc có ít tiền bằng phương thế ngay chính; Giữa việc nghỉ ngơi, sung sướng thoải mái, với việc hy sinh thời giờ để làm những việc đạo đức; Giữa sở thích cá nhân với mong muốn của cha mẹ và những người lớn; Giữa những niềm vui bất chính với sự hãm mình để sống trong sạch, thánh thiện…

Tất cả những giá trị đó, người môn đệ của Chúa phải chọn lựa hằng ngày. Trong khi chọn lựa, phải luôn luôn nhớ chúng ta đang hướng đến ơn cứu độ xuất phát từ Lòng Thương Xót của Chúa, vì thế những gì không đem đến ơn cứu độ phải dứt khoát từ bỏ.

  1. Biết xót thương

Tâm tình thứ hai là trong khi chờ đợi Đấng giàu Lòng Thương Xót, chúng ta phải biết xót thương.

Thư mục vụ Mùa Vọng 2015 của Đức Giám Mục Giáo phận Cần Thơ đã đề nghị một việc làm cụ thể trong Mùa Vọng này là mỗi họ đạo, mỗi hội đoàn hãy lập “Quỹ Lòng Thương Xót” để giúp đỡ những người bất hạnh. Rõ ràng Đức Giám Mục muốn chúng ta phải biết xót thương một cách cụ thể.

Việc xót thương không chỉ nhắm đến vật chất, mà nhất là biết tôn trọng và biết tha thứ cho nhau.

Thiên Chúa tôn trọng mỗi con người theo những gì riêng tư của họ, đó là Lòng Thương Xót của Ngài một cách cụ thể.

Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho những xúc phạm của con người đến tình yêu của Ngài. Đó là Lòng Thương Xót một cách tuyệt vời.

Noi gương Chúa, chúng ta biết tôn trọng anh chị em mình với những cá tính riêng biệt của họ. Chúng ta hãy tha thứ cho những ai vô tình hoặc cố ý xúc phạm, làm tổn thương đến chúng ta.

Nói tóm lại, mùa Vọng năm nay, chúng ta mong chờ và sống Lòng Thương Xót như Chúa. Chúng ta mong chờ vì biết Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người, Ngài luôn có cách để đem đến lợi ích thiêng liêng cho chúng ta, kể cả trong những lúc tưởng chừng như Ngài đang im lặng. Chúng ta sống Lòng Thương Xót vì chúng ta được Thiên Chúa xót thương.

Lạy Chúa Giêsu đầy lòng thương xót, xin ngự đến trong tâm hồn con, trong gia đình và họ đạo của con để chúng con biết xót thương như Chúa. Xin ngự đến trong Giáo hội để Giáo hội biết thực thi lòng thương xót của Chúa. Xin ngự đến trên thế giới để thế giới được bình an, hạnh phúc khi biết yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương.