1. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV Phê Chuẩn Sắc Lệnh Đầu Tiên Công Nhận 3 Vị Đáng Kính Mới
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã ủy quyền cho Bộ Tuyên thánh công bố sắc lệnh công nhận ba vị đáng kính mới, bao gồm hai nhà truyền giáo và một giám mục người Ấn Độ.
Trong buổi tiếp kiến đầu tiên kể từ khi bắt đầu triều Giáo Hoàng của mình với Đức Hồng Y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Tuyên Thánh, Đức Thánh Cha đã phê chuẩn “chứng tá hiến dâng mạng sống” của Tôi tớ Chúa Alejandro Labaca Ugarte thuộc Dòng Anh em Hèn mọn Capuchin.
Đức Cha Alejandro Labaca, một giám mục tử đạo trong rừng rậm Ecuador
Đức Cha Labaca sinh ngày 19 tháng 4 năm 1920 tại Beizama, Tây Ban Nha. Sau khi bị trục xuất khỏi Trung Quốc cộng sản, nhà truyền giáo dòng Capuchin này đã đến Ecuador, nơi ngài phục vụ với tư cách là giám mục Pomaria và Giám Quản Tông Tòa Aguarico.
Đức Cha Labaca đã tận tụy truyền giáo ở rừng nhiệt đới Amazon của Ecuador cho đến khi ngài hy sinh mạng sống vào ngày 21 tháng 7 năm 1987, tại vùng Tigüino của đất nước này sau khi bị đâm bằng giáo mác của người Tagaeri, một bộ tộc bị đe dọa bởi hoạt động khai thác dầu mỏ trong khu vực, là điều mà vị giám mục phản đối.
Inés Arango, một nhà truyền giáo tận tâm với người Huaorani
Inés Arango Velásquez, một nhà truyền giáo của Dòng Ba Capuchin Thánh Gia, qua đời trong cùng một sự việc với Đức Cha Labaca, đã được Đức Lêô XIV tuyên bố là “Đấng đáng kính”.
Nữ tu này sinh ra tại Medellín, Colombia, vào ngày 6 tháng 4 năm 1937, đã sống ở Aguarico trong 10 năm, tận tụy phục vụ tông đồ cho người dân bản địa Huaorani.
Vào ngày 11 tháng 7 năm 2017, Tòa thánh đã công bố tự sắc Maiorem Hac Dilectionem của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong đó ngài thiết lập rằng “hiến dâng mạng sống mình” khi biết rằng chắc chắn sẽ phải chết là con đường mới dẫn đến việc tuyên chân phước cho một tín hữu.
Việc hiến dâng mạng sống mình là một trong những con đường dẫn đến án phong chân phước, cùng với nhân đức anh hùng và sự tử đạo.
Đức Cha Matthew Makil, giám mục Ấn Độ
Đức Lêô XIV cũng phê chuẩn các nhân đức anh hùng của Tôi tớ Chúa Matthew Makil, người sáng lập Dòng Nữ tu Đức Mẹ Thăm Viếng.
Ngài sinh ngày 27 tháng 3 năm 1851 tại Manjoor, Ấn Độ và mất ngày 26 Tháng Giêng năm 1914 tại Kottayam, cũng tại Ấn Độ. Ngài cũng là giám mục hiệu tòa của Tralles và là Giám Quản Tông Tòa đầu tiên của Kottayam.
Sau khi được tuyên bố là “Đấng đáng kính”, một phép lạ được thực hiện qua lời chuyển cầu của ngài phải được chấp thuận để tuyên chân phước, bước đầu tiên hướng tới việc có thể được tuyên thánh.
Source:Catholic News Agency
2. Tại sao Cha Pio gọi Kinh Mân Côi là “vũ khí”
Đối với Thánh Piô Năm Dấu Thánh, Kinh Mân Côi là “vũ khí” chỉ được sử dụng để chống lại đối phương tâm linh chứ không phải đối phương loài người.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh, một trong những vị thánh được yêu mến nhất trong Giáo Hội Công Giáo, thường được trích dẫn rằng Kinh Mân Côi chính là “vũ khí” của ngài.
Trong cuốn tiểu sử Padre Pio: Câu chuyện có thật của C. Bernard Ruffin, tác giả giải thích rằng, “Kinh Mân Côi là ‘lời cầu nguyện thường xuyên’ của ngài và là ‘vũ khí’ của ngài chống lại các thế lực của địa ngục.”
Cha Piô cầu nguyện Kinh Mân Côi mỗi ngày và làm như vậy vì lòng yêu mến Đức Mẹ. Ngài cũng yêu thương mọi con người và mong muốn tất cả họ sẽ đạt đến bến bờ vĩnh cửu của Thiên Đàng.
Ngài cũng tin tưởng vững chắc vào lời của Thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô.
Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối. ( Eph 6:11-13)
Cuộc chiến của ngài không phải chống lại những đối thủ chính trị hay những cá nhân chống Công Giáo. Cha Piô rõ ràng đã cầu nguyện Kinh Mân Côi như một “vũ khí” chống lại “những tà thần” trên thế giới, những kẻ “rình rập như sư tử gầm thét tìm kiếm ai đó để nuốt chửng”, (1 Pr 5:8).
Cha Piô không ủng hộ một cuộc thập tự chinh thực sự, nơi chuỗi Mân Côi được sử dụng như một vũ khí, ngài cũng không mong muốn những người chống đối ngài phải chết.
Ngài tin rằng có một cuộc chiến tâm linh đang diễn ra trên thế giới mà mắt thường không nhìn thấy được và Kinh Mân Côi là một trong những vũ khí hiệu quả nhất chống lại các thế lực ma quỷ.
Source:Aleteia
3. Đức Tổng Giám Mục Caccia phát biểu tại cuộc tranh luận mở của Hội đồng Bảo an về bảo vệ thường dân trong xung đột vũ trang
Đức Tổng Giám Mục Gabriele Caccia, Sứ thần Tòa thánh và Quan sát viên thường trực của Tòa thánh tại Liên Hiệp Quốc vừa có diễn từ sau.
Thưa ngài chủ tịch,
Tòa thánh vô cùng quan ngại về số lượng và cường độ ngày càng gia tăng của các cuộc xung đột vũ trang trên toàn thế giới, tiếp tục gây ra đau khổ sâu sắc và không cân xứng cho dân thường, đồng thời nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết phải tuân thủ luật nhân đạo quốc tế, đặc biệt là Công ước Geneva và các Nghị định thư bổ sung.
Điều cơ bản là, ngay cả trong bối cảnh xung đột, việc bảo vệ con người và phẩm giá vốn có do Chúa ban tặng vẫn là trọng tâm của mọi nỗ lực chung, và cũng là để tránh tai họa chiến tranh lan rộng. Điều đặc biệt đáng lo ngại là nguyên tắc cơ bản này ngày càng bị đe dọa bởi bản chất đang phát triển của chiến tranh đương đại.
Con người không bao giờ được coi là có thể hy sinh, hoặc bị giảm xuống thành thiệt hại phụ. Thật vậy, việc cố ý tấn công vào dân thường, bao gồm phụ nữ, trẻ em và nhân viên nhân đạo; phá hủy cơ sở hạ tầng thiết yếu như bệnh viện, trường học và nơi thờ phượng; và từ chối tiếp cận nhân đạo cho những người đang cần gấp là mối quan ngại lớn. Mặc dù những vi phạm này là một thảm kịch to lớn của con người, chúng cũng đại diện cho một sự xúc phạm nghiêm trọng đến nền tảng của an ninh quốc tế.
Về vấn đề này, Tòa thánh coi việc chấm dứt sử dụng vũ khí bừa bãi, mìn và bom chùm, và ngừng điều động vũ khí nổ ở các khu vực đông dân là điều cần thiết. Điều này cùng với việc ngừng sản xuất và tích trữ vũ khí tạo thành các bước cụ thể và cấp bách hướng tới việc bảo vệ dân thường tốt hơn. Về vấn đề này, Phái đoàn của tôi khen ngợi công việc có giá trị của Cơ quan Hành động Bom mìn của Liên Hiệp Quốc và kêu gọi thực hiện Tuyên bố Chính trị về Việc Sử dụng Vũ khí Nổ ở Các khu vực đông dân.
Hơn nữa, việc sử dụng ngày càng nhiều các công nghệ mới và mới nổi cho mục đích quân sự cũng là mối quan ngại sâu sắc. Những diễn biến này gây ra những lo ngại phức tạp về mặt pháp lý, đạo đức và nhân đạo, đặc biệt là khi việc sử dụng các công nghệ như vậy có thể gây hại cho dân thường.
Do đó, Tòa thánh ủng hộ mạnh mẽ đề xuất về một văn bản ràng buộc pháp lý cấm các hệ thống vũ khí tự động gây chết người, gọi tắt là LAWS vào năm 2026. Bảo đảm rằng các quyết định về sự sống và cái chết vẫn nằm trong tầm kiểm soát có ý nghĩa của con người không chỉ là vấn đề trách nhiệm pháp lý mà còn là trách nhiệm đạo đức.
Cảm ơn ngài chủ tịch.
Source:Holy See Mission
4. Tiến sĩ George Weigel: Chống lại chính trị bất bình
Tiến sĩ George Weigel là sử gia và là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Against the Politics of Grievance”, nghĩa là “Chống lại chính trị bất bình”.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
“Nhạy bén” – “Woke” được dùng ngày nay là chữ viết tắt của cái từng được gọi là “uyển chuyển chính trị” – “political correctness”, đã thêm dầu vào lửa để thổi bùng một nền chính trị cực đoan dựa trên những than phiền gây ra thiệt hại to lớn cho cơ thể chính trị của Hoa Kỳ, đồng thời lấp đầy tâm trí tuổi trẻ với đầy rẫy những điều vô nghĩa về lịch sử. “Dự án 1619” của tờ New York Times, đã làm sai lệch câu chuyện về Hoa Kỳ bằng cách đọc toàn bộ lịch sử quốc gia của chúng ta qua lăng kính của tội lỗi nguyên thủy của Hoa Kỳ, là chế độ nô lệ, là hình thức Plato của sự nhạy bén quá trớn – wokery. Nó đã đầu độc chương trình giảng dạy của trường học và bảo trợ cho chính trị kích động chủng tộc sau vụ sát hại George Floyd.
Thật không may, đúng lúc chính trị bất bình dường như đang cạn kiệt ở cánh tả Mỹ, thì nó lại nổi lên với sự trả thù ở cánh hữu Mỹ. Những khẩu hiệu như “chúng ta đã bị lừa” – làm méo mó hồ sơ về kiến trúc an ninh gìn giữ hòa bình thành công nhất từng được tạo ra là NATO, và tạo ra vỏ bọc cho thuế quan có thể phá hủy động cơ tăng trưởng kinh tế thành công nhất thế giới – là những ví dụ nổi bật minh họa cho một chính trị bất bình mới, là mặt trái của sự thức tỉnh. Và dưới hình thức đám đông cuồng loạn trên các phương tiện truyền thông xã hội, chính trị bất bình cánh hữu ngày càng giống một cách đáng báo động với thứ văn hóa triệt hạ của cánh tả.
Không phải tất cả những nỗi bất bình đều là không có thật. Một số là có thật, và chúng ta có nghĩa vụ đạo đức phải giải quyết và khắc phục chúng. Nhưng chính trị bất bình chắc chắn sẽ dẫn đến sự tan rã của các cộng đồng chính trị—hoặc, cũng thâm độc không kém, nó khiến cho việc hình thành các cộng đồng chính trị trở nên khó khăn, nếu không muốn nói là không thể.
Tại sao người dân Palestine không thể hình thành và duy trì một cộng đồng chính trị tự quản có khả năng tạo ra hòa bình? Thưa, bởi vì như người bạn của tôi, nhà Ả Rập học Fouad Ajami quá cố, đã nói vào năm 2001, “Một bóng tối, một mùa đông dài, đã giáng xuống người Ả Rập… những người đã buông thả bản thân cho những mối hận thù độc ác nhất của họ.” Và vì thế, “Không có gì phát triển ở giữa một trật tự chính trị độc đoán và những người dân thường xuyên quan hệ với những kẻ độc tài.”
Tại sao Trung Quốc lại tìm kiếm bá quyền toàn cầu thay vì đưa dân số năng động, sáng tạo của mình vào một trật tự thế giới hòa bình, thịnh vượng? Thưa, một phần câu trả lời nằm ở những con quỷ Maoist cá nhân của Tập Cận Bình. Những con quỷ đó lại lợi dụng sự bất bình mà Tập và các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc khác gọi là “thế kỷ nhục nhã” của Trung Quốc. Do đó, nền chính trị dựa trên sự bất bình của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tạo ra một hệ thống kiểm soát xã hội tinh vi về mặt công nghệ kết hợp với sự xâm lược quốc tế. Trong khi đó, bên kia eo biển Đài Loan, nền dân chủ đầu tiên trong năm nghìn năm văn minh Trung Quốc đang phát triển mạnh mẽ, một phần vì người dân không đắm chìm trong sự bất bình vô tận.
Rồi đến Nga. Cuộc chiến của Vladimir Putin chống lại phương Tây được thể hiện rõ ràng nhất trong cuộc xâm lược tàn bạo của ông ta vào Ukraine. Tuy nhiên, trước và trong sự thách thức đó đối với mọi công pháp quốc tế liên quan đến các vấn đề thế giới, Putin đã phát động các hình thức chiến tranh hỗn hợp, từ đầu độc không gian thông tin toàn cầu bằng những lời nói dối đến cắt đứt cáp thông tin liên lạc ở Biển Baltic, cho đến ám sát những đối thủ chính trị tìm nơi ẩn náu ở phương Tây. Tất cả những điều đó đã được biện minh dựa trên những bất bình trong lịch sử của Nga, thường được gói ghém trong những câu như “Chúng tôi không được tôn trọng”, cùng với niềm tin kỳ lạ của trùm KGB Putin rằng sự sụp đổ của Liên Xô – một trong những chế độ chuyên chế tồi tệ nhất trong lịch sử loài người – lại được hắn ta coi là thảm họa địa chính trị lớn nhất của nhân loại ở thế kỷ 20.
Hãy đối chiếu những ví dụ về chính trị dựa trên sự bất bình và thường gây chết người này với những phi công Tuskegee – những phi công người Mỹ da đen chiến đấu trong thế chiến thứ Hai trong phi đoàn không quân chiến đấu 332 và phi đoàn không quân ném bom số 477.
Từ lâu, tôi đã nuôi dưỡng lòng kính trọng sâu sắc đối với những phi công quân sự người Mỹ gốc Phi đầu tiên này, những người đã vượt qua hàng thế kỷ định kiến và phân biệt chủng tộc để trở thành những phi công chiến đấu thành công trong Thế chiến thứ hai. Bất kỳ ai đã xem các bộ phim The Tuskegee Airmen và Red Tails đều không thể không kinh hoàng trước những gì những người đàn ông anh hùng này phải chịu đựng để phục vụ đất nước trong Không quân Hoa Kỳ. Họ đã chiến thắng, không phải thông qua chính trị bất bình, mà bằng cách tuân theo phương châm “Vươn lên trên” – không phải ám chỉ việc bay những chiếc P-51 của họ phía trên những chiếc B-17 mà họ bảo vệ khỏi Không quân Đức, mà là vượt lên trên chủ nghĩa phân biệt chủng tộc vô nghĩa, là điều đã gây hại cho những kẻ phân biệt chủng tộc ít nhất là cũng nhiều như nó đã gây hại cho các nạn nhân của định kiến này.
Đời sống công cộng của người Mỹ ngày nay sẽ được cải thiện đáng kể nếu những người nghiện chính trị bất bình, thức tỉnh và MAGA, áp dụng khẩu hiệu của những phi công Tuskegee trong Red Tails: “Không có gì là khó khăn. Mọi thứ đều là thử thách. Vượt qua nghịch cảnh để đến với các vì sao.”
Nguyên tắc cốt lõi của học thuyết xã hội Công Giáo về sự đoàn kết dạy chúng ta rằng một nền dân chủ tự quản chỉ có thể được duy trì bằng ý thức chung về tình bạn công dân và trách nhiệm chung—là kiểu mà người Mỹ thể hiện khi, trên khắp quang phổ chính trị từ MAGA đến woke, họ đã nhanh chóng giúp đỡ những người hàng xóm của mình khi cơn bão Helene tàn phá miền tây Bắc Carolina. Sẽ rất hữu ích nếu các viên chức công của chúng ta kêu gọi tinh thần đó, thay vì xúi giục con quỷ bất bình, trong việc tập hợp sự ủng hộ cho các chính sách mà họ muốn đề xuất.
Source:First Things