Phẩm chất và giá trị của linh mục
Sở dĩ phải nói đến vấn đề này là vì mấy năm gần đây Hồng Y, giám mục, linh mục thường được đưa lên mạng với những cáo buộc về các tội danh như ấu dâm, xa hoa, hèn nhát không dám lên tiếng bênh vực những người bị đàn áp hay yên lặng trước những bất công trong xã hội.
Chắc hẳn nhiểu người trong giói linh mục chúng ta buồn và lấy làm tiếc về những sự việc đó. Nhưng xét cho cùng theo quan điểm đức tin thì âu đó cũng là một điều trong chương rình của Chúa, để thanh luyện Hội Thánh và báo động cho mỗi người chúng ta phải lo bảo toàn phẩm chất và giá trị của đời linh mục. Về sư cao quí của chức linh mục thì khỏi cần phải nói, nhưng về phẩm chất và giá trị của con người linh mục thì thiết tưởng chúng ta phải luôn luôn bảo trọng, nghĩa là lo sao cho đời linh mục của mình giữ được phẩm chất và giá trị.
Phẩm chất ấy là mỗi ngày chúng ta phải nhắc bảo cho mình nhớ lại và rập khuôn đời mình theo mẫu linh mục là người của Chúa, được Chúa chọn để mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Vì thế, mình ở giữa mọi người, như mọi người, nhưng lại không như mọi người, bởi lẽ mình đã lãnh nhận một chức vụ với lời cam kết đặc biệt kèm theo. Bởi vậy, theo tinh thần Hiến Chế Vui Mừng Và Hy vọng, linh mục phải “ở đời hơn mà lại ít thuộc về đời hơn”. Làm sao dung hòa được mức đô này. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã cung cấp cho chúng ta sắc lệnh Presbyterorum ordinis làm kim chỉ nam hướng dẫn và điều khiển cuộc đời chúng ta. Chúng ta là linh mục thuộc thời đại Công Đồng. Xét về một phương diện, thì xem ra kỷ luật về đời sống linh mục bớt ngặt hơn so với trước kia, như ra ngoài phải mặc áo chùng thâm, mỗi ngày phải đọc sách nguyện bằng tiếng la-tinh lâu đến cả gần hai tiếng, đi từ địa phận này sang điạ phận khác phải có phép của Đức Cha địa phận mình, giao tiếp với người khác phải canh chừng chặt chẽ v.v…
Nhưng cái tự do thoải mái này, vô hình chung, nhiều khi lại là những cản trở khiến chúng ta không còn mấy cẩn thận giữ gìn và bảo trọng phẩm chất và giá trị của linh mục.nữa. Những điều tai tiếng xẩy ra phải chăng cũng là do sự thiếu cẩn trọng và không áp dụng một hình thức khổ chế và kỷ luật nào đó cho đời sống của mình. Mấy chục năm trứớc, một nhà văn người Pháp, Michel de Saint Pierre có viết một cuốn tiểu thuyết dề là Les nouveaux prêtres, trong đó ông cho thấy hai thế hệ linh mục cũ và mới và sự tạm gọi là tranh chấp giữa đôi bên với những lời phê phán lẫn nhau về cũ và mới. Nhưng dù cũ hay mới, đời linh mục vẫn có một tiêu chuẩn chung thích hợp cho mọi thời, đựa vào lời dạy của Chúa Giê-su. Linh mục muốn sống cho đích đáng thì phải căn cứ vào đây cũng như vào lời giáo huấn và kỷ luật của Hội Thánh. Dù cũ hay mới thì linh mục thời nào cũng phải lo chu toàn những bổn phận hàng ngày gắn liền với đời mình là cử hành thánh lễ, đọc sách nguyện, lần hạt, xét mình, xưng tội, cử hành bí tích, đi “kẻ liệt” v.v… Những việc này là những cách thế cần thiết và hữu hiệu để giúp linh mục giữ được phẩm chất và tạo ra được thế quân bình trong đời sống.
Trong phần kết cuốn tiểu thuyết Những linh mục mới, tác giả dã đưa ra hai bức tranh về những linh mục trung thành với nếp sống cổ truyền bên cạnh những linh mục theo lối sống mới mệnh danh là theo Công Đồng Va-ti-ca-nô. Những vị này năng nổ, xông pha với các hoạt động bên ngoài mà xem ra như lơ là hay coi nhẹ kỷ luật đời sống bên trong. Kết cuộc, linh mục theo lối mới bị hao mòn sinh lực trước tuổi và không đạt được nhiều kết quả về đường thiêng liêng nơi các tín hữu.
Trong bài L’Eglise et les défis du troisième millénaire của Đức Hồng Y Godfried Danneels đăng trong La documentation catholique số 2269 ra ngày 5.5.2002, cuối trang 446 có viết : “Dù sao, chúng ta chỉ có thể tồn tại nhờ phẩm chất của lòng tin, lòng mến và nhất là lòng cậy của chúng ta. Chắc chắn là ít bởi quyền hành và uy thế, ít bởi cái vẻ bên ngoài hơn là thực chất bên trong”. (Quoiqu’il en soit, nous ne survivrons que par la qualité de notre foi, de notre amour et surtout de notre espérance. Ce sera moins par le pouvoir et le prestige, par le paraitre, que par l’être).
Xã hội chúng ta vẫn là một xã hội có tôn ty đẳng cấp, dù nói là dân chủ. Cái dáng dấp và ảnh hưởng phong kiến vẫn còn cả ở ngoài đời lẫn trong đạo. Chính óc phong kiến này đã cầm chân xã hội chúng ta lại không cho tiến bước. Chúng ta chỉ việc nhìn lại những việc đã xẩy ra vào giữa thế kỷ XIX trong triều đình vua quan nhà Nguyễn cũng đủ thấy ảnh hưởng khốc hại của óc phong kiến này.
Riêng trong nhà đạo chúng ta, kiểu cách phong kiến vẫn còn cho đến ngày nay trong cách dùng người và cắt đặt các chức vụ. Người nào biết đưa đẩy, không dám có ý kiến riêng dù là xây dựng, thường dễ được trọng dụng và cắt cử vào những chức vụ quan yếu hơn. Trong Hội Đồng Giám Mục, các vị giám mục trẻ thường nể các vị cao niên và không dám có ý kiến ngược lại. Trong họ đạo, cha sở dường như nắm giữ mọi quyền hành và cho mình như thông thạo đủ thứ. Trong các đoàn thể, người nhỏ phải theo người lớn cho đúng với nguyên tắc “kính lão đắc thọ” trong khi trào lưu dân chủ và kỹ thuật điều hành các xí nghiệp trên thế giới, người ta có khuynh hướng dùng người trẻ và đến tuổi nào đó, người lớn phải nhường chỗ cho người nhỏ, để đoàn thể và tổ chức nhờ vậy luôn năng động và có sức sống mới.
Còn một điều nữa đáng nói là mục vụ của các cha sở và lối hành đạo của giáo dân cần phải thay đổi cho phù hợp với tình thế mới. Các cha sở không thể để giáo dân sống mãi trong tình trạng ấu trĩ về đức tin, cũng như không thể giữ mãi những lề thói có tính mị dân, để duy trì lòng cung kính của họ đối với mình. Gần đây trong một số báo Công Giáo và Dân tộc, có ý kiến của một nữ độc giả ngoài Công Giáo về lòng trọng kính quá đáng của giáo dân đối với linh mục. Chúa bảo chúng ta đừng gọi ai là cha hay thày là muốn dạy chúng ta đừng thích hay đòi cho người ta trọng vọng mình. Các linh mục không cần phải đòi người ta kính trọng, nhưng nếu các vị ăn ở cho đúng bậc mình thì chắc chắn sự trọng kính kia sẽ đến.
Vào những năm liền sau Công Đồng, bên Pháp có phong trào các tu sĩ ra ngoài lập ra những “Antennes”, tức là những căn hộ cho chừng vài ba người ở, bên cạnh những căn hộ khác cho gần gũi hơn với người ta : cũng đi làm, đi chợ, nấu ăn, đổ rác v.v… Mục đích là để sống đơn sơ, giã từ nếp sống yên thân trong các tu viện nhà cao cửa rộng mà do đó làm cho mình dễ rời xa dân chúng.
Sáng kiến này phát xuất từ các cha Dòng Tên. Phải nói đó là một sáng kién cao đẹp và quảng đại. Một số tu sĩ các dòng đã thử làm theo. Nhưng chẳng bao lâu, thí nghiệm này cho thấy khó dung hòa được với nếp sống tu trì, nên đã phải dẹp bỏ.
Thời Công Đồng có hai từ ngữ thông dụng, đó là cập nhật hóa và dấu chỉ thời đại. Hai tù ngữ này có thể đã là tiền đề cho Hiến chế Gaudium et Spes và sắc lệnh Perfectae caritatis. Hội Thánh Công Giáo từng bị coi nhu một ốc đảo, nay phải đi ra ngoài đến với muôn dân. Hội Thánh phải mở cửa ra cho người ta nhìn vào, tuy mở cửa thì có bụi theo, nhưng không phải chỉ có bụi mà còn có gió nữa ; gió đem khí mát vào và làm cho căn nhà được thông thoáng. Các ý tưởng này là của Thánh Giáo Hoàng Go-an XXIII. Những ai đã sống thời Công Đồng chắc đều thấy mối thịnh tình của thế giới đối với những tư tưởng như thế qua các hiến chế và sắc lệnh được công bố.
Đã hẳn phải cập nhật hóa cho hợp với thời buổi mình sống, để không còn xa lạ hay lạc lõng giữa mọi người, hầu có thể gặp gỡ đối thoại chân tình trên căn bản tôn trọng lẫn nhau giữa người với người. Trong cái cũ và cái mới cũng vậy, cái nào cũng có giá trị của nó. Vây hãy giữ lấy và tôn trọng những giá trị đó để làm phong phú cho mình. Những lời sau đây là những lời cũ có từ thời các nhà truyền giao thừa sai. Các bậc cha ông của chúng ta trong chức linh mục đã thực hành như thế và truyền lại cho chúng ta như một thứ gia bảo để góp phần xây dựng và gia tăng phẩm chất cũng như giá trị của con người linh mục. “Thày cả phải có nhân đức lọn lành hơn người ta, phải cầu nguyện cho sốt sắng hơn, xem sách cho cần mẫn hơn, giữ mình sạch sẽ cho cẩn thận hơn, ăn uống cho tiết độ hơn, chịu khó cho bằng lòng hơn, giữ sự vui cười cho nhiệm nhặt hơn, ăn nói cho mềm mại hơn, giữ mặt mũi chân tay hình dong cho nghiêm trang hơn, lời nói cho hẳn hoi hơn, thế thì mới xứng đạo làm thày mà chớ” (Công đồng Tứ Xuyên, trang 4)
Cụ thể, chúng ta là linh mục. Chúng ta có phẩm chất và giá trị do chính bản tính của chức linh mục mang lại. Chúng ta có thể làm cho sáng tỏ, biến chất hay lu mờ đi tùy vào nhận thức và cách sống của chúng ta. Điều này chúng ta phải khắc cốt ghi tâm trong mọi hoàn cảnh. Chừng nào lơi lỏng là chúng ta xuống dốc và không còn dược bình an và vui sống trong cuộc đời của mình nữa. Mà đời linh mục phải là một cuộc đời hạnh phúc trong sự gắn bó với Chúa và phuc vụ tha nhân.
Lm. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.
(Bài thuyết trình cho các linh mục, cựu sinh viên Xuân Bích, 11.6.2019).
Ki-tô hữu là người có một phẩm giá cao quí. Phẩm giá này phát xuất từ Đức Ki-tô, Đấng vừa là người, lại vừa là Chúa. Là người, vì Đức Ki-tô là con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và là Con Đức Chúa Cha (Mc 1,11 ), là Chúa vì là Ngôi Hai Thiên Chúa
Ki-tô hữu phát xuất từ Đức Ki-tô, vì những ai đã lãnh Phép Rửa thì thuộc về Người và mang danh Người. Vì vậy, họ được gọi là Ki-tô hữu. Danh xưng này được dân chúng ở An-ti-ô-khi-a tặng cho họ vào thời bấy giờ.: “Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu”.(Cv 11,26) Sở dĩ như vậy, vì họ là những người đã theo Đức Ki-tô và sống theo lời giảng dạy của Người.
Chắc hẳn vì những lý do trên, nên Đức Giáo Hoàng Lê-ô Cả đã nói trong một bài giảng lễ Giáng Sinh rằng : “Hỡi các Ki-tô hữu, hãy ý thức về phẩm giá của bạn. Giờ đây, bạn đã được thông phần bản tính của Thiên Chúa, nên đừng để mình bị thoái hóa do việc trở lại với lối sống bất xứng đã qua…Hãy nhớ rằng bạn đã được cứu thoát khỏi quyền lực tối tăm, đã được đưa vào trong ánh sáng và Nước của Thiên Chúa.” (PVCGK quyển 1 Giờ Kinh Sách bài đọc 2, trang 366)
Thiết tưởng đôi khi cũng phải nhắc lại phẩm giá này, vì có nhiều người chưa biết hay đã quện mà hóa ra mặc cảm, sợ hãi hay coi thường, trong khi phải nhớ kỹ và lấy làm hiên ngang một cách chính đáng và không ngại ngùng nhận mình là Ki-tô hữu, đồng thời can đảm khi phải tỏ mình ra là như thế.
Đã có những thời, những lúc Ki-tô hữu bị mạ lỵ và vu khống cho đủ điều. Những điều này Đức Giê-su đã báo trước và dạy rằng : “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những gì chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy.” (Ga 15, 18-21)
Ki-tô hữu bị ghét không phải vì họ là những người xấu xa, tuy trong số họ cũng có những người như thế, nhưng chỉ vì họ là những người sống theo lời dạy của Đức Ki-tô. Mà những lời này thường đi ngược lại với cách sống và lối suy nghĩ của người đời và vô hình trung trở thành một động cơ gián tiếp cảnh cao họ. Do đấy, một tác giả vô danh ở thế kỷ II sau Công Nguyên, đã viết : “Linh hồn ở trong thân xác, nhưng không do thân xác thì các Ki-tô hữu cũng ở trong thế gian, nhưng không bởi thế gian… Xác thịt thù ghét và gây chiến với linh hồn, dù linh hồn không làm gì hại cho xác thịt mà chỉ ngăn không cho nó hưởng lạc thú. Thế gian cũng ghét các Ki-tô hữu như vậy” (Thư gửi ông ông Đi-a-nhê-tô).
Biết thế, Ki-tô hữu cần phải kiên trì đón nhận khi gặp những sự thù địch và bạc đãi từ phía những kẻ ghen ghét mình, vì ai bền chí đến cùng sẽ được cứu độ (Mt 1 2,22), và Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh (Mt 11,12), Sức mạnh ở đây là sự can đảm chống lại các sự đối kháng của thế gian do bả vinh quang, quyền lực và các thú vui vật chất cùng với sự quyến rũ của tiền bạc.
Phẩm giá thì cao quí, nhưng Ki-tô hữu, người được hưởng, nhiều khi lại không biết quí trọng cho đủ. Vì thế, đây là lúc phải nghĩ lại mà tìm hiểu kỹ hơn về phẩm giá của mình để quí trọng và bảo toàn vẻ đẹp và sự cao quí đó. Phẩm giá này không hệ tại sự giầu sang hay địa vị trong xã hội mà là của chung dành cho mọi người mang danh là Ki-tô hữu. Nó còn tạo thành một sự bình đẳng trong cộng đoàn phụng vụ, và biến các các Ki-tô hữu thành anh chị em với nhau trong một đức tin, như lời chào của vị tư tế trong thánh lễ : “Chúa ở cùng anh chị em”.
Lm. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.