Mới đây, Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành tự sắc Competentias quasdam decernere, ngày 11-02-2022, điều chỉnh lại một số điều trong Bộ Giáo luật Tây Phương và Đông Phương, thêm một số quyền hành và trách nhiệm mục vụ cho các Giám mục và các Bề trên tổng quyền và ủng hộ “các nguyên tắc về tính hợp lý, hiệu lực và hiệu quả”.
Đáng kể nhất là điều 265, thêm khả năng nhập tịch của giáo sĩ vào một Hiệp hội công các giáo sĩ (Associazione pubblica clericale).
Liên quan đến các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn đời sống tông đồ có ba điều đáng chú ý:
Vị Điều hành tổng quyền (Supremus Moderator, quen gọi là Bề trên tổng quyền) có quyền:
– Ban đặc ân sống ngoài nội vi tới năm năm cho một tu sĩ đã khấn trọn đời (đ. 686);
– Ban đặc ân hồi tục, với sự chấp thuận của ban cố vấn cho tu sĩ đang có lời khấn tạm (đ. 688§2);
– Quyết định, với sự ưng thuận của ban cố vấn, sa thải một một nữ tu đang giữ lời khấn trong những đan viện tự quản (sui iuris) được nói đến ở điều 615 (đ. 699§2).
Dưới đây là những điều luật được tu sửa theo tự sắc Competentias quasdam decernere
Đ. 237
- 2. Không một chủng viện liên Giáo Phận nào được thành lập do Hội đồng Giám mục, nếu đó là một chủng viện cho toàn địa hạt, hoặc do các Giám mục liên hệ, nếu không có sự xác nhận (conferma) trước của Tông Toà về việc thành lập cũng như về những quy chế của chính chủng viện đó.
Điều 237§2 mới thay chữ “phê chuẩn” (approvazione) bằng chữ “xác nhận” (conferma). Khi thay như vậy, luật mới tăng thêm quyền cho Hội đồng Giám mục trong việc thành lập một chủng viện liên Giáo phận. Việc “xác nhận” thường bao gồm việc xem xét lại và chấp thuận nếu thấy công việc cấp dưới không có gì trái với Giáo luật hay những quy định riêng.
Đ. 242
- 1. Trong mỗi quốc gia phải có một chương trình đào tạo tư tế do Hội đồng Giám mục thiết lập, căn cứ trên các quy tắc do Quyền bính tối cao của Giáo Hội ban hành, và được Tông Toà xác nhận (conferma), và khi phải thích nghi với những hoàn cảnh mới, chương trình này cũng cần phải có sự xác nhận của Tông Toà; chương trình đào tạo này phải ấn định những nguyên tắc nền tảng về việc đào tạo phải có trong các chủng viện và những quy tắc tổng quát thích nghi với những nhu cầu mục vụ của mỗi miền hoặc mỗi giáo tỉnh.
Điều 242§1 mới thay chữ “phê chuẩn” (approvazione) bằng chữ “xác nhận” (conferma), ban quyền nhiều hơn cho Hội đồng Giám mục trong việc thiết lập chương trình đào tạo các linh mục trong các đại chủng viện.
Đ. 265
Bất cứ giáo sĩ nào cũng phải nhập tịch hoặc vào một Giáo Hội địa phương hay vào một hạt giám chức tòng nhân, hoặc vào một tu hội thánh hiến hay vào một tu đoàn có năng quyền đó, hoặc ngay cả vào một Hiệp hội công các giáo sĩ (Associazione pubblica clericale); để tuyệt đối không có các giáo sĩ lang thang hoặc không có cấp trên.
Điều 265 mới thêm khả năng nhập tịch của giáo sĩ vào một Hiệp hội công các giáo sĩ (Associazione pubblica clericale). Một hiệp hội, được Giáo luật định nghĩa như là, gồm “hoặc giáo sĩ hoặc giáo dân, hoặc cả giáo sĩ lẫn giáo dân cùng chung sức hoạt động nhằm phát triển một đời sống hoàn thiện hơn, hoặc cổ vũ việc phụng tự công hay học thuyết Kitô giáo, hoặc thực hiện các việc tông đồ khác, như truyền bá Phúc âm, thi hành các việc đạo đức hoặc bác ái, và đem tinh thần Kitô giáo vào lĩnh vực trần thế (đ. 298).
Một hiệp hội là công (public) và có tư cách pháp nhân công khi được nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo hội thiết lập: Tòa Thánh, Hội đồng Giám mục Giám mục giáo phận (đ. 312; đ. 313).
Về vị Điều hành hay Tổng phụ trách của hiệp hội công, nếu quy chế không dự liệu cách khác, thì thuộc về nhà chức trách Giáo hội được nói đến ở trên (đ. 312§1) xác nhận vị điều hành hiệp hội công do chính hiệp hội bầu lên, hoặc cắt đặt người đã được đề cử, hoặc bổ nhiệm theo quyền riêng (đ. 317§1).
Một hiệp hội công cũng rất khó bị giải thể. Ở phạm vi giáo hội địa phương, nó chỉ bị giải thể khi có những lý do nghiêm trọng. Khi đó, Hội Đồng Giám Mục có thể giải thể các hiệp hội do chính mình thành lập; Giám Mục Giáo Phận có thể giải thể các hiệp hội do chính ngài thành lập, và cả những hiệp hội do những thành viên của các hội dòng thành lập nhờ một đặc ân Tông Toà với sự ưng thuận của Giám Mục Giáo Phận (đ. 320§1). Theo nguyên tắc luật này, Giám mục giáo phận kế vị không được giải thể hiệp hội công mà vị tiền nhiệm của mình đã thiết lập.
Đ. 604
- 3. Việc công nhận và thành lập các hiệp hội đó ở cấp giáo phận thuộc quyền của Giám mục giáo phận, trong phạm vi lãnh thổ của ngài, ở cấp quốc gia thuộc quyền của Hội đồng Giám mục, trong phạm vi lãnh thổ riêng mình.
Điều 604 triệt 1 và 2 nói đến bậc các trinh nữ. Họ cũng thuộc bậc đời sống thánh hiến nhưng không thuộc các tu hội hay tu đoàn đời sống tông đồ. Họ là những trinh nữ có quyết tâm lành thánh theo sát Đức Kitô, được Giám mục giáo phận thánh hiến cho Thiên Chúa theo nghi thức phụng vụ được phê chuẩn. Các trinh nữ này có thể liên kết với nhau thành hiệp hội để giúp nhau chu toàn việc phục vụ Giáo hội thích hợp với bậc mình. Với triệt ba được thêm vào trong luật mới, các hiệp hội của các trinh nữ có thể được thành lập bởi Giám Mục giáo phận hay HĐGM. Nếu được thành lập như vậy thì hiệp hội đó là hiệp hội công và có tư cách pháp nhân công, có tính bền vững (đ. 120), khó bị giải thể như đã nói trên (đ. 320§1).
Đ. 686
- 1. Vị Điều hành tổng quyền, khi có lý do nghiêm trọng, với sự chấp thuận của ban cố vấn, có thể ban đặc ân sống ngoài nội vi nhưng không được quá năm năm cho một tu sĩ đã khấn trọn đời, và nếu là giáo sĩ, thì phải có sự chấp thuận trước của Đấng Bản quyền địa phương tại nơi đương sự phải ở. Việc gia hạn đặc ân hoặc ban một đặc ân quá năm năm được dành riêng cho Toà Thánh, hoặc cho Giám mục giáo phận, nếu điều đó liên quan đến các tu hội thuộc luật Giáo Phận.
Điều 686§1 mới gia tăng quyền của vị Điều hành tổng quyền, có thể cho phép tu sĩ sống ngoại vi tới mức năm năm, thay vì ba năm như luật cũ.
Đ. 688§2
- 2. Trong thời gian giữ lời khấn tạm, thành viên nào xin rời bỏ tu hội vì một lý do nghiêm trọng, vị Điều hành tổng quyền có thể ban đặc ân hồi tục, với sự chấp thuận của ban cố vấn; đối với các đan viện tự quản (sui iuris) được nói đến ở điều 615, để đặc ân hồi tục được hữu hiệu, thì phải có sự xác nhận của Giám mục tại nơi có nhà đã được chỉ định cho đương sự ở.
Điều 688§2 mới ban cho các vị Điều hành tổng quyền, với sự chấp thuận của ban cố vấn, quyền ban đặc ân hồi tục cho tu sĩ đang khấn tạm hay các đan sĩ của các đan viện tự quản (sui iuris), mà không cần sự xác nhận (confermato) của Giám mục giáo phận nơi mà có nhà tu sĩ ấy đã được chỉ định cho đương sự ở (commorari, casa di assegnazione), như trước đây.
Nên phân biệt hai vị Giám mục giáo phận được Giáo luật kể đến trong phạm vi tu hội đời sống thánh hiến: Giám mục nơi tu hội có nhà mẹ và Giám mục nơi mà tu sĩ ấy ở.
Đ. 699§2
- 2. Trong những đan viện tự quản (sui iuris) được nói đến ở điều 615, quyết định sa thải một người đang giữ lời khấn thuộc quyền Bề trên cấp cao với sự ưng thuận của ban cố vấn.
Chữ “tự quản” (sui iuris), nhiều khi được dịch là “tự trị”, áp dụng cho một nhà của dòng hoặc một đan viện hay một tu viện (tuy có nhiều ngôi nhà trong một khu vườn nhưng coi như là một nhà), có một Bề trên hay một vị Điều hành riêng mình, mà không có vị Bề trên nào cấp cao hơn. Điều 613 §l cho thấy ý nghĩa của sui iuris: “Một nhà thuộc hội dòng của các kinh sĩ dòng hoặc các đan sĩ, dưới sự lãnh đạo và coi sóc của vị Điều hành riêng, thì tự nó là một nhà tự quản (sui iuris), trừ khi hiến pháp quy định cách khác”.
Thông thường, các tu hội ĐSTH có nhiều cộng đoàn hay nhiều nhà, và có những Bề trên cộng đoàn hay nhà, nhưng tất cả đều dưới quyền một Bề trên tổng quyền. Các tu hội ĐSTH này không được gọi là tự quản (sui iuris). Trong khi đó, trong một đan viện tự quản (sui iuris) chỉ có một Bề trên.
Điều 615 nói đến các đan viện nữ tự quản (sui iuris) nào “mà không có Bề trên cấp cao nào khác ngoài vị Điều hành riêng, và cũng không được liên kết với một tu hội khác của nam tu sĩ, đến nỗi bề trên của chính tu hội này có một quyền thật sự được xác định trong hiến pháp, thì được uỷ thác cho Giám Mục Giáo Phận trông coi cách đặc biệt chiếu theo quy tắc của luật”.
Điều 615 quy định một điều khá đặc biệt, mà nhiều khi các nữ đan sĩ không biết, cứ tưởng mình thuộc luật giáo hoàng, tùy thuộc vào một vị Bề trên tổng quyền nào đó bên Roma. Họ chỉ có một Bề trên của đan viện và họ được trao phó cho Giám mục giáo phận chăm sóc cách đặc biệt.
Trước đây việc ra sắc lệnh sa thải thuộc về Giám mục giáo phận. Bề trên đan viện phải trình lên Giám mục các văn bản về lý do sa thải đã được ban cố vấn của mình xác minh để Giám mục quyết định. Điều 699§2 mới ấn định quyền sa thải thuộc Bề trên của đan viện được nói đến ở điều 615, không thuộc quyền Giám mục nữa.
Đ. 700
Sắc lệnh ban hành việc sa thải đối với một người tuyên khấn có hiệu lực khi nó được thông báo cho đương sự. Tuy nhiên, để sắc lệnh có hiệu lực, nó phải nói rõ tu sĩ bị sa thải vẫn có quyền thượng cầu lên nhà chức trách có thẩm quyền trong vòng mười ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Sự thượng cầu có hiệu lực đình hoãn.
Điều 700 mới, đối với lệnh sa thải một người đang giữ lời khấn trong một tu hội, không còn đòi sự chuẩn y của Tòa Thánh nếu tu hội thuộc luật giáo hoàng; hoặc chuẩn y của Giám mục giáo phận nơi có nhà tu sĩ ấy ở nếu tu hội thuộc luật giáo phận.
Vị Điều hành có quyền sa thải và phải làm việc một cách hiệp đoàn: “Vị điều hành tổng quyền cùng với ban cố vấn phải gồm ít nhất là bốn thành viên mới thành sự, cùng tiến hành cách hiệp đoàn để cân nhắc cẩn thận các bằng chứng, các lý luận và các lời biện hộ; nếu việc sa thải đã được quyết định sau một cuộc bỏ phiếu kín, thì vị điều hành tổng quyền phải ban hành sắc lệnh sa thải, và để được hữu hiệu, sắc lệnh phải trình bày ít là cách sơ lược các lý do theo luật và theo sự kiện” (đ. 699§1).
Điều quan trọng cần lưu ý là sắc lệnh sa thải phải bao gồm hai điều kiện sau đây thì mới hữu hiệu:
– Phải trình bày ít là cách sơ lược các lý do theo luật và theo sự kiện (đ. 699§1);
– Phải nói rõ tu sĩ bị sa thải vẫn có quyền thượng cầu lên nhà chức trách có thẩm quyền trong vòng mười ngày kể từ ngày nhận được thông báo (đ. 700).
Nếu tu sĩ bị sa thải thượng cầu hay khiếu nại lên cấp trên thì hiệu lực của lệnh sa thải bị đình chỉ lại, nghĩa là, những quyền lợi và bổn phận của tu sĩ ấy vẫn như là ở trong tình trạng chưa bị sa thải. Giáo luật quy định điều này để bảo đảm sự xét xử công bằng và đúng đắn, tránh sự lạm quyền.
Đ. 775
- 2. Hội đồng Giám mục, nếu thấy hữu ích, có trách nhiệm lo liệu việc xuất bản các sách giáo lý cho riêng lãnh thổ của mình, với sự xác nhận của Tông tòa.
Điều 775§2 mới thay chữ “phê chuẩn” (approvazione) bằng chữ “xác nhận” (conferma), ban thêm quyền cho Hội đồng Giám mục trong việc xuất bản các sách giáo lý cho riêng lãnh thổ của mình.
Đ. 1308
- l. Việc giảm bớt nghĩa vụ dâng Thánh Lễ, chỉ được thực hiện vì một lý do chính đáng và cần thiết, được dành riêng cho Giám mục giáo phận và cho vị Điều hành tổng quyền của một tu hội đời sống thánh hiến hoặc tu đoàn đời sống tông đồ giáo sĩ.
- 2Giám mục giáo phận, vì nguồn thu nhập giảm và bao lâu nguyên nhân vẫn còn, có quyền cho giảm các nghĩa vụ dâng các Thánh Lễ thuộc những ràng buộc tự quản, theo mức dâng cúng được thiết lập hợp pháp trong giáo phận, miễn là không có ai bị buộc và có thể bị buộc phải làm tăng mức dâng cúng một cách hiệu quả.
- 3. Giám mục giáo phận có năng quyền cho giảm bớt những nghĩa vụ hay ràng buộc dâng Thánh Lễ mà gây gánh nặng cho các cơ quan Giáo hội, nếu như thu nhập không đủ để đạt được các mục đích riêng của chính cơ quan đó.
- 4. Cũng có những năng quyền như §2 và §3 những vị Điều hành tổng quyền của một tu hội đời sống thánh hiến hoặc tu đoàn đời sống tông đồ giáo sĩ.
Điều 1308§1 mới trao cho Giám mục giáo phận và vị Điều hành tổng quyền của một tu hội ĐSTH hoặc tu đoàn ĐSTĐ giáo sĩ quyền cho giảm bớt các nghĩa vụ dâng Thánh Lễ, mà trước đây được quy định là thuộc quyền Tòa Thánh.
Điều 1310
- 1 Việc giảm thiểu, điều hành, chuyển đổi ý muốn của các tín hữu đối với các mục đích đạo đức, chỉ có thể được thực hiện vì lý do chính đáng và cần thiết bởi Đấng Bản quyền, khi đã nghe các bên liên quan quan tâm và ý kiến tư vấn của hội đồng kinh tế và được tôn trọng một cách tốt nhất có thể ý muốn của người lập thiện quỹ.
Điều 1310 mới trao quyền cho Đấng Bản quyền nhiều hơn, không đòi sự nhượng quyền của người lập thiện quỹ về giảm thiểu, điều hành… cho Giám mục như trước đây.
Ghi chú:
Vị “Điều hành tổng quyền” trong Bộ Giáo luật Việt ngữ hiện hành, được dịch từ chữ Supremus Moderator (Moderatore supremo, Supreme Moderator).
Supremus Moderator có nghĩa là người cai quản, điều hành cao nhất.
Đối với hội dòng có nhiều tỉnh dòng thì vị có quyền cao nhất là vị Điều hành tổng quyền (Moderatore supremo). Vị này có quyền trên các Bề trên tỉnh dòng (Superiore provinciale).
Đối với hội dòng không có tỉnh dòng, Bề trên cai quản cả dòng cũng được coi là vị Điều hành tổng quyền (Moderatore supremo), nghĩa là, vị có quyền điều hành cao nhất.
Đối với tu hội đời và tu đoàn đời sống tông đồ, Giáo luật cũng đã dùng chữ vị Điều hành tổng quyền (Moderatore supremo) để chỉ vị lãnh đạo cao nhất.
Nên lưu ý:
Trong Bộ Giáo luật chữ Bề trên (Superiore) hầu như dùng để chỉ vị lãnh đạo trong hội dòng và đan viện, nơi mà địa vị của một Bề trên cần được xác định để tuân giữ lời khấn vâng phục. Vì vậy, từ ngữ “Bề trên”, “Bề trên cả”, “Bề trên tổng quyền” của Giáo luật, mà trước đây khoảng 20 năm vẫn đã thường được dùng nên được sử dụng trở lại. Ngoài ra, còn có lý do khác nữa là: Từ ngữ “Bề trên” (Superiore) đã được Giáo Luật ấn định cho lời khấn dòng “công” phân biệt với lời khấn “tư”.
Điều 1192
- 1. Lời khấn là công (publicum), nếu được Bề trên (Superiore) hợp pháp chấp nhận nhân danh Giáo Hội; nếu không thì lời khấn là tư (privatum).
Quả là không hợp với điều 1192 §1 nói trên khi đưa từ ngữ Tổng phụ trách vào công thức khấn: “Con là…trong tay chị Tổng Phụ Trách…, con tuyên khấn với Thiên Chúa toàn năng…“. Vì vậy, trong các hội dòng, không nên chuyển đổi từ ngữ “Bề trên” (Superiore) của Giáo luật sang thành “Phụ trách”, “Tổng phụ trách” (Moderatore supremo).
Những từ ngữ “Phụ trách”, “Tổng phụ trách” này chỉ nên dùng cho tu hội đời, vốn không có lời khấn công (public), chỉ có lời khấn tư (private) và tu đoàn đời sống tông đồ, vốn không hoặc chỉ có lời khấn tư.
Tuy gọi “Tổng phụ trách” có thể giúp giảm bớt tính quyền hành trên dưới, các tu sĩ có thể sống tình huynh đệ, tôn trọng lẫn nhau tốt hơn, nhưng lại có thể làm kém đi sự kính trọng Bề trên và thực hiện đức vâng phục, vốn rất được chú trọng trong đời tu, từ bỏ để theo Chúa.
Lm. J.B. Lê Ngọc Dũng
https://hdgmvietnam.com/