Tiết trời tháng tư oi ả, cái nóng bắt đầu lên… Từ trong nhà thờ bước ra, chị đội chiếc nón lá lên đầu, đon đả:
– Đi viếng Chúa về hả em? – (Chị hỏi) Rảnh không, chị em mình nói chuyện một lát… Vừa nói chị vừa kéo tôi lại gần chiếc ghế đá kê sát đài Đức Mẹ.
– Gia đình chị dạo này sao rồi? – Tôi gợi chuyện.
Nói chuyện được vài câu và miên man trong chuyện, rồi chị bắt đầu kể và tôi lắng tai nghe. Chị sinh ra trong một gia đình nghèo lại đông con, ai cũng phải vất vả và lao động mới có ăn. Rồi lớn lên, chị lấy chồng và sinh con. Vì chị khổ rồi, nên trong đầu chị luôn nghĩ: “Đời cha ăn mặn, thì đời con khát nước”. Chị không muốn con mình phải thiếu thốn, nên ra sức làm việc, có được nhiều tiền để cho chúng được ăn học đầy đủ. Rồi công việc cứ cuốn đi cho đến một ngày chị hoảng hốt khi thấy đứa con trai thứ hai của mình có dấu hiệu thay đổi. Nó quen và yêu một cô gái theo tôn giáo bạn. Chị hoàn toàn không muốn cấm chúng nó đến với nhau, nhưng điều đáng nói ở đây là nó bỏ đạo mà đi theo đạo của cô gái kia đến nỗi bỏ cả lễ Chúa Nhật và lễ trọng. Nó bắt đầu dành nhiều thời gian tìm hiểu đạo của cô gái kia và tuyên bố xanh rờn: “Đạo nào mà chẳng như đạo nào”.
Chị đã dùng đủ mọi cách khuyên nhủ, can ngăn, nhưng không có tác dụng gì. Đối với con chị, điều gì cô gái kia nói bao giờ cũng đúng, còn mẹ thì không (đúng là tình yêu sét đánh). Vì yêu đương mù quáng nên nó không coi cha mẹ ra gì nữa. Có lúc tức giận, nó không ngần ngại chửi bới, thậm chí đập phá đồ đạc trong nhà (nói đến đây chị lại chảy nước mắt), trái tim của người mẹ đau đớn như đang bị ai bóp nghẹt. Buồn bã quá, chị vào nhà thờ, quỳ trước Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện, tâm sự với Người, nước mắt cứ chảy dài trên gò má sạm đen vì nắng gió. Trong thinh lặng và nhờ ơn Chúa soi sáng, chị đã nhận ra rằng mình cũng có phần sai, khi không dành nhiều thời gian quan tâm tới con mà chỉ cắm đầu vào kiếm tiền và nhất là không ở bên cạnh con để kịp thời can ngăn khi nó mới có dấu hiệu lạc lối. Thời gian đầu, nó cũng đã kể cho chị nghe về người vẫn hàng tháng phát sách tuyên truyền cho nó, vẫn đưa nó đi đến chỗ này chỗ nọ tham dự các nghi thức, nhưng chị chủ quan nghĩ là gia đình mình gốc đạo và con trai mình đủ tỉnh táo phân biệt điều gì đúng điều gì sai. Nhưng chị không ngờ nó phát triển nhanh như vậy, chàng trai mà chị yêu quý đã mềm yếu trước cái gọi là “tình yêu tình báo”.
Chị quyết định mở một chiến dịch để kéo con trai trở về. Chị tập hợp cả gia đình lại (tất nhiên không có cậu ở đó) nêu những vấn đề và mời gọi mọi người mỗi tối hãy đọc kinh gia đình, siêng năng tham dự Thánh lễ, gia tăng làm việc bác ái và hy sinh để cầu nguyện cho cậu con trai thứ hai yêu quý của chị không mất đức tin. Ai cũng hiểu được sự nghiêm trọng của vấn đề, nên tích cực hưởng ứng và từ đó trở đi, gia đình đạo đức hẳn lên.
Riêng chị, ngoài những cách thức trên, chị còn ăn chay, cầu nguyện. Chị luôn trăn trở theo câu chính Chúa Giêsu đã nói: “Có những loại quỷ phải ăn chay và cầu nguyện, thì mới diệt được nó”. Tất nhiên, để làm được điều đó, không hề dễ dàng; vì trước giờ, chị không có thói quen cầu nguyện lâu giờ, nên cứ quỳ một lát ở nhà thờ là chị cứ muốn ra về vì sốt ruột. Bên cạnh đó, phải làm việc nhiều mà ăn uống nhiệm nhặt khiến đầu chị cứ quay cuồng, chân tay bủn rủn, chẳng muốn làm gì, nhưng nhờ ơn Chúa giúp và tình yêu đối với con cái, sau một thời gian, chị đã mạnh mẽ quyết tâm đứng lên để gìn giữ cho gia đình được hạnh phúc.
Ngoài việc gia tăng đời sống thiêng liêng, chị còn cử những đứa con khác, hễ có thời gian rỗi là đi lên Hà Nội, nơi cậu con trai thứ hai của chị làm việc để động viên, khuyên nhủ cũng như an ủi cậu. Không biết ý Chúa nhiệm mầu sao, về sau cậu con thứ chuyển đổi công tác. Chị mừng thầm và cầu xin Chúa cho con chị và “người ấy” chia tay vì xa mặt thì cách lòng. Chị thường xuyên gọi điện hỏi thăm, khuyên nhủ và không quên dò hỏi về mối quan hệ đó còn hay hết. Thời gian đầu, tuy xa nhau, nhưng chúng nó vẫn còn liên lạc với nhau qua điện thoại hoặc facebook… Nhưng dần dần, do con chị bận việc và có những mối quan hệ khác, thiếu dần đi sự quan tâm, chăm sóc, nên tình cảm với cô gái kia chết dần chết mòn, rồi chết hẳn. Khi nghe được tin ấy, chị mừng rỡ hơn được vàng được bạc. Đến bây giờ, cậu con trai thứ hai của chị đã quay trở lại với đức tin thật sự. Cậu đã đi lễ các ngày Chúa Nhật, thậm chí thỉnh thoảng đi lễ ngày thường, tham gia ca đoàn tại giáo xứ Thái Hà và bắt đầu có những mối quan hệ tốt đẹp hơn. Chị lại khóc, nhưng lần này, không phải là những giọt nước mắt đau khổ, nhưng là nước mắt hạnh phúc. Chị nghĩ thầm: “Con chị đã chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Chiều nay, quỳ trước Thánh Thể Chúa, chị thấy tâm hồn bình an vô cùng. Chị tạ ơn Chúa đã gởi biến cố đó xuống, tuy đau buồn, nhưng đã đánh động cả gia đình đang lạnh như nấm mồ vì chẳng ai quan tâm đến ai, chỉ lo đi kiếm tiền; tối đến, ai xong việc trước ăn cơm trước, hết giờ thì đi ngủ, một tuần chỉ đi lễ một ngày Chúa Nhật. Tuy nhiên, nay đã khác, mọi người trong gia đình đoàn kết, yêu thương nhau hơn, biết sắp xếp thời gian cùng nhau ăn tối, đọc kinh chung và nhất là thường xuyên đi tham dự Thánh lễ ngày thường để tạ ơn Chúa. Kể đến đây, chị khẽ mỉm cười, một nụ cười đầy mãn nguyện. Chị nói: “Chúa ơi, con xin phó thác gia đình con trong vòng tay yêu thương của Chúa”.