Anh quốc là một mảnh đất đã phát sinh ra rất nhiều nhân vật nổi tiếng, thành phần, bằng chứng từ và bằng giáo huấn của mình, đã làm đẹp cho lịch sử của Giáo Hội. Một trong những Thánh nhân, vị đáng kính với cả Giáo Hội Công giáo cũng như Cộng Đồng Hiệp Thông Anh giáo, là nhà thần bí Julian of Norwich.
Tín liệu chúng ta có được về đời sống của Thánh nhân không nhiều, được lấy chính yếu từ cuốn sách chất chứa nội dung các thị kiến của người phụ nữ tốt lành và đạo hạnh này, một cuốn sách có nhan đề là “Những Mạc Khải về Tình Yêu Thần Linh”. Được biết là Thánh nhân sống từ năm 1342 đến khoảng năm 1416, những năm khổ ải cả cho Giáo Hội đang bị phân rẽ bởi nạn ly giáo sau biến cố Đức Giáo Hoàng từ Avignon trở về Rôma, cũng như cho dân chúng đang chịu những hậu quả của cuộc ciến tranh kéo dài giữa vương quốc Anh và vương quốc Pháp. Tuy nhiên, thậm chí trong cả những thời điểm gian nan khốn khó, Thiên Chúa đã không thôi làm nổi lên những nhân vật như Julian of Norwich, để kêu gọi con người trở về sống hòa bình, yêu thương và hoan lạc.
Như chính Thánh nhân kể lại, vào Thánh 5 năm 1373, có lẽ vào ngày 13 trong tháng ấy, thì bất ngờ chị bị bệnh rất trầm trọng đến độ chỉ nội trong 3 ngày chị tưởng mình như chết mất. Khi vị linh mục đến bên giường của chị tỏ cho chị thấy tượng chịu nạn, Julian chẳng những phục hồi sức khỏa một cách mau chóng mà còn được thấy 16 thị kiến được chị sau đó tường thuật bằng văn tự và dẫn giải trong tác phẩm “Các Mạc Khải về Tình Yêu Thần Linh” của mình. Và thực sự là chính Chúa, Đấng 15 năm sau các biến cố phi thường này, đã mạc khải cho chị biết về ý nghĩa của các thị kiến ấy. “Con có muốn biết những gì Chúa của con mong muốn và ý nghĩa của mạc khải này chăng? Con hãy biết rõ rằng tình yêu là những gì Cha mong muốn. Ai mạc khải điều này cho con? Tình yêu. Tại sao Người lại mạc khải nó cho con? Vì tình yêu… Vậy con hãy biết rằng tình yêu là ý nghĩa của Chúa chúng ta” (Julian of Norwich, “Il Libro delle Rivelazioni,” Chapter 86, Milan, 1997, p. 320).
Được tác động bởi tình yêu thần linh, Julian đã thực hiện một chọn lựa quyết liệt. Như một trong những ẩn sĩ cổ thời, chị đã chọn sống ở trong một cái chòi, một nơi gần nhà thờ cung hiến cho Thánh Julian ở thành phố Norwich, một thành phố vào lúc ấy là một trung tâm rất quan trọng gần Luân Đôn. Có lẽ chị đã lấy tên Julian chính từ vị thánh được cung hiến cho ngôi thánh đường gần nơi chị sống rất nhiều năm cho tới khi qua đời. Chúng ta có thể cảm thấy lạ lùng, thậm chí khó hiểu trước quyết định sống như là một “người ẩn dật”, như danh từ này được nói đến trong thời điểm của chị.
Tuy nhiên, chị đã không một mình thực hiện quyết định ấy: Trong những thế kỷ ấy, một con số phụ nữ đáng kể đã chọn lối sống này, áp dụng các thứ qui luật được cố ý soạn thảo cho mình, chẳng hạn như những qui luật được Thánh Aelred of Rievaulx soạn thảo. Thành phần ẩn sĩ hay “ẩn dật” dấn thân sống trong các chòi của mình để cầu nguyện, suy niệm và học hỏi. Nhờ đó họ khai triển một cảm quan nhân bản và đạo giáo rất hay, những gì làm cho họ được dân cúng tôn kính. Những con người nam nữ thuộc mọi tuổi tác và thân phận, cần hướng dẫn và ủi an, đã nồng nhiệt tìm đến với họ. Bởi thế, nó không phải là một chọn lựa có tính cách cá nhân chủ nghĩa; chính nhờ việc được sống gần gũi với Chúa như thế, những gì đã nuôi dưỡng nơi chị cũng trở thành khả năng để cố vấn cho nhiều người, giúp đỡ những ai sống khốn khó trong cuộc đời này.
Chúng ta biết rằng Julian cũng tiếp đón những người khách thường xuyên thăm viếng, như được chứng thực trong cuốn tiểu sử của một người phụ nữ Kitô giáo sốt sắng khác trong thời đại của chị, Margery Kempe, người đến Norwich vào năm 1413 để đón nhận những huấn dụ về đời sống thiếng liêng của mình. Đó là lý do tại sao Julian khi đang còn sống đã được gọi là “Mẹ Julian”, như được viết trên lăng mộ an táng chứa các hài tích của chị. Chị đã trở nên một người mẹ của nhiều người.
Những con người nữ giới và nam nhân ẩn thân sống gần gũi với Thiên Chúa, chính vì quyết định này, đã chiếm được một cảm quan cao cả về lòng xót thương đối với những sầu thương và yếu hèn của kẻ khác. Là thành phần bạn hữu của Thiên Chúa, họ có được một đức khôn ngoan mà thế giới, nơi họ tách biệt bản thân mình, không có được. Và bằng thái độ từ ái, họ chia sẻ sự khôn ngoan với những ai đến gõ cửa họ. Bởi thế, tôi cảm phục và tri ân nghĩ tới những đan viện kín cổng cao tường của thành phần nữ giới và nam giới, mà ngày nay hơn bao giờ hết, là những ốc đảo của an bình và hy vọng, những kho tàng quí báu cho toàn thể Giáo Hội, nhất là trong việc nhắc nhở về thượng quyền của Thiên Chúa và tầm quan trọng của việc liên lỉ và thiết tha nguyện cầu cho cuộc hành trình đức tin.
Chính trong ở nơi quạnh hiu được Thiên Chúa ở cùng mà Julian of Norwich đã viết cuốn “Những Mạc Khải về Tình Yêu Thần Linh”, một tác phẩm chúng ta có hai ấn bản, một ấn bản ngắn có lẽ là ấn bản cũ, và một ấn bản dài hơn. Cuốn sách này chất chứa một sứ điệp theo chiều hướng lạc quan, căn cứ vào niềm tin tưởng được Thiên Chúa yêu thương và được Ngài Quan Phòng chở che bảo vệ. Trong cuốn sách này, chúng ta đọc được những lời tuyệt vời sau đây: “Tôi đã thấy được một cách hoàn toàn tin tưởng … rằng Thiên Chúa, ngay cả trước khi tạo dựng nên chúng ta đã yêu thương chúng ta, bằng một tình yêu không bao giờ ngừng và sẽ không bao giờ biến mất. Và trong tình yêu này Ngài đã thực hiện tất cả mọi công việc của Ngài, và trong tình yêu ấy Ngài đã làm cho tất cả mọi sự trở nên hữu dụng cho chúng ta, và trong tình yếu ấy sự sống của chúng ta sẽ muôn đời tồn tại… Trong tình yêu này chúng ta có được khởi sự của chúng ta, và chúng ta thấy tất cả những điều này trong Thiên Chúa vô cùng bất tận” (Ill libro delle rivelazioni, chapter 86, p. 320).
Chủ đề về tình yêu thần linh thường trở lại trong các thị kiến của Julian of Norwich, vị đã táo bạo không ngại so sánh tình yêu thần linh này với cả tình yêu mẫu thân. Đây là một trong những sứ điểm đặc biệt nhất của khoa thần học bí nhiệm của chị. Những gì là dịu dàng, quan tâm và từ ái nơi sự thiện hảo của Thiên Chúa đối với chúng ta là thành phần hành trình trên thế gian này cao cả tới độ những sự ấy gợi lên tình yêu của một người mẹ đối với con cái của bà. Thật vậy, có những lúc các vị tiên tri trong thánh kinh cũng đã sử dụng thứ ngôn ngữ này để nhắc lại những gì là dịu dàng, tha thiết và toàn thể của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu tỏ mình ra nơi việc tạo dựng cũng như nơi toàn thể lịch sử cứu độ và lên đến tột đỉnh của mình nơi việc nhập thể của Người Con.
Tuy nhiên, Thiên Chúa bao giờ cũng vượt trên hết mọi tình yêu thương của nhân loại, như tiên tri Isaia đã nói: “Một người nữ nào có thể quên cho con bú, không cảm thương đứa con của lòng mình hay chăng? Cho dù họ có quên chăng nữa, Ta sẽ không quên ngươi” (Is 49:15).
Julian of Worwich đã hiểu được sứ điệp chính yếu này cho đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa là tình yêu và chỉ khi nào chúng ta hoàn toàn cởi mở và trọn vẹn tin tưởng vào tình yêu này, cũng như để cho tình yếu ấy trở thành hướng dẫn viên duy nhất của đời sống thì hết mọi sự được biến đổi, bình an đích thực và niềm vui thực sự được hoan hưởng và là niềm vui có thể được lan tỏa chung quanh.